6 lý do để lo lắng về lạm phát hiện nay

usranger

New member
GẮN KẾT
GÂY DỰNG
Theo số liệu chính thức của Tổng cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của 10 tháng đầu năm 2007 tăng 8,12% so với tháng 12-2006. Còn nếu so với cùng kỳ năm ngoái thì CPI đã tăng 9,34%, trong đó mức tăng ở khu vực thành thị là 9,74% và ở nông thôn là 8,92%.
00(9).jpg

Mức giá tăng nhanh là một thứ “thuế lạm phát” làm giảm mức sống của đại bộ phận người tiêu dùng.

Mặc dù nền kinh tế phải chấp nhận một sự đánh đổi nhất định giữa lạm phát và tăng trưởng - ít nhất là trong ngắn hạn - thì những chỉ số giá tiêu dùng này là rất đáng lo ngại vì một số lý do như sau:

Đầu tiên, mặc dù giá thế giới tăng làm CPI ở Việt Nam tăng theo, nhưng chắc chắn đây không phải là nguyên nhân quan trọng nhất vì nếu thế, các nước trong khu vực như Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia cũng phải chịu những cú sốc giá tương tự. Thế nhưng chỉ số giá tiêu dùng ở các nước này chỉ dao động trong khoảng 4-5%.

Vì vậy, có thể thấy rằng CPI ở Việt Nam tăng chủ yếu vì những lý do nội tại của nền kinh tế, trong đó quan trọng nhất là nguyên nhân tiền tệ. Tốc độ tăng tín dụng của ta luôn được duy trì ở mức rất cao (khoảng 30%) trong vòng sáu năm qua. Đồng thời cung tiền đồng từ đầu năm tới nay cũng tăng đột biến do Nhà nước phải mua vào khoảng 9 tỉ đô la để ổn định tỷ giá.

Thứ hai, mức giá tăng nhanh là một thứ “thuế lạm phát” làm giảm mức sống của đại bộ phận người tiêu dùng, đặc biệt là những người hưởng lương cố định và có thu nhập thấp. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê thì ở khu vực nông thôn, so với thời điểm cuối tháng 10-2006, số hộ thiếu đói tăng 44% và số nhân khẩu thiếu đói tăng 47%.

Mặc dù giá tăng không phải là nguyên nhân duy nhất (bên cạnh thiên tai, dịch bệnh...) của tình trạng thiếu đói tăng nhanh, nhưng nó chắc chắn là một nhân tố làm trầm trọng thêm tình trạng này vì từ đầu năm tới nay, giá của những hàng hóa thiết yếu như thực phẩm và lương thực đều tăng cao hơn CPI, lần lượt là 13,52% và 9,15%.

Thứ ba, vì mức lạm phát cao hơn lãi suất tiết kiệm (tức là lãi suất thực bị âm) nên tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế phải chạy đi tìm những cơ hội đầu tư có suất sinh lời cao hơn như địa ốc hay chứng khoán. Việc đầu cơ quá mức vào bất động sản và chứng khoán làm xuất hiện hiện tượng bong bóng tài sản; và sớm hay muộn thì hiện tượng này cũng sẽ dẫn tới sự bất ổn định cho nền kinh tế.

Thứ tư, lạm phát cao - và trong một chừng mực nào đó, khó dự đoán một cách chính xác - là một trong những nguyên nhân làm tăng độ bất định, và do vậy tăng chi phí giao dịch và giảm hiệu quả của nền kinh tế. Bên cạnh đó, lạm phát còn làm giảm sức cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu và của toàn bộ nền kinh tế.

Thứ năm, để đạt được mục tiêu “lạm phát thấp hơn tốc độ tăng trưởng” (mà trên thực tế không hề có cơ sở khoa học vững chắc) thì khi lạm phát tăng, Chính phủ chỉ có thể có một trong hai lựa chọn: Một là kiềm chế lạm phát bằng cách giảm tốc độ tăng cung tiền và tín dụng (đặc biệt là đối với các doanh nghiệp nhà nước kém hiệu quả), đồng thời giảm bớt chi tiêu của Chính phủ (bằng cách tăng hiệu quả chi tiêu, giảm lãng phí và thất thoát), hay thậm chí phải điều chỉnh lãi suất.

Hai là phải dồn sức đẩy mạnh tăng trưởng để “đuổi kịp” lạm phát. Có vẻ như cho đến thời điểm này, phương án 1 chưa phải là lựa chọn của Chính phủ; còn phương án 2 nếu được thực hiện sẽ chỉ tiếp tục đổ thêm dầu vào ngọn lửa lạm phát. Dưới góc độ quản lý nhà nước, không nên để một mục tiêu thiếu cơ sở khoa học như thế này trở thành một chiếc “vòng kim cô” trói buộc các nhà điều hành vĩ mô.

Thứ sáu, lạm phát trên thực tế có lẽ không chỉ là 8 hay 9% mà có thể còn cao hơn. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá danh nghĩa 10 tháng năm 2007 tăng 22,7% so với cùng kỳ năm trước. Cũng trong giai đoạn nay, đầu tư tăng nhanh hơn so với tiêu dùng, đồng thời chi tiêu của Nhà nước chiếm một tỷ lệ tương đối ổn định. Điều này có nghĩa là tốc độ tăng tổng chi tiêu của nền kinh tế (theo giá danh nghĩa) phải cao hơn 22,7%.

Mặt khác, nếu đem cộng thâm hụt thương mại thực vào tốc độ tăng trưởng GDP thực, ta có tốc độ tăng trưởng nguồn cung thực vào khoảng 12-13%. Sự chênh lệch giữa tốc độ tăng tổng chi tiêu danh nghĩa và tăng trưởng GDP thực chính là tỷ lệ lạm phát, và vì vậy có lý do để lo ngại rằng lạm phát thực tế còn cao hơn mức công bố chính thức.


(Theo TBKTSG) http://vneconomy.vn/?home=detail&page=category&cat_name=05&id=e5ea8705bc4803
 
theo em không phải đi lòng vòng đâu xa,suy cho cùng là do nhập khẩu lớn hơn xuất khẩu,không biết 1 năm bán gạo đc bao nhiu tiền nhưng nhập oto từ đầu năm đến giờ đã mấy trăm triệu rồi,thế cò những thứ khác nừa thì không hiểu nhập siêu nhiều như thế nào,chắc cuối năm nay mới biết
 
Cái lo ngại nhất đối với mình là báo chí cứ khóc lóc với mức lạm phát 8-9% trong khi dân ngèo ra chợ mua đồ ăn vật giá tăng 20-30% một số rau củ còn lên tới >50% trong khi thu nhâp thì chạy theo được cái con số 8-9% là phước tám chục đời để lại.

bác nào ăn nhà hàng hoài ít thấy giá tăng, bác nào đi chợ ăn cơn nhà là thấy lý do để lo lắng liền.
 
Năm 2004, WB đã ra cảnh báo đối với VN về vấn đề tích trữ USD để cân bằng giá hối đoái mà kg lo để ý đến sự vận chuyển trong kinh tế và họ cũng đã nói rằng sẽ bị lạm phát.

**Từ năm 2000, chính phủ liên tục mua vào đồng USD (vì tiền VN ko có 1 bảo chứng bằng vàng nào cả, nên trên thực tế tiền VN kg có giá trị trên trường quốc tế). Khi vào WTO, đầu tư nước ngoài tăng lên đột ngột, chính phủ bỏ tiền đồng ra mua vào tiền USD, khiến cho đồng tiền VN bị mất giá, chẳng những vậy, lại còn bị bội thực USD. Cách giải quyết đơn giản nhất là buông thả USD với giá rẻ, chịu lổ, để thu bớt vào tiền đồng đang lưu thông ---> Việc làm này sẽ ảnh hưỡng trực tiếp tới GDP của năm nay.
 
thực ra em không hiểu biết về kt và tiền tệ lắm,nhưng cho em hỏi 1 câu các bác đừng oánh nhé:em nghĩ tiền nội tệ cầng mất giá so với đồng $ thì càng có lợi thế về xuất khẩu,đúng không ạ?
 
USD thừa sao giá vẫn tăng?

thực ra em không hiểu biết về kt và tiền tệ lắm,nhưng cho em hỏi 1 câu các bác đừng oánh nhé:em nghĩ tiền nội tệ cầng mất giá so với đồng $ thì càng có lợi thế về xuất khẩu,đúng không ạ?

Người quan tâm đến USD thắc mắc USD đang thừa nhưng giá vẫn “lù lù” tiến lên. Đầu tháng 8 giá USD là 16.150 đồng, cuối tháng tăng lên 16.241 đồng/USD, đến nay vẫn ở mức cao.

Trước đó, Ngân hàng Nhà nước đã phải mua vào gần 7 tỉ USD thừa. Diễn biến này không tuân theo qui luật: thiếu giá tăng, thừa giá giảm.

Sự bất tuân qui luật này còn diễn ra. Tỉ giá VND/USD có “sứ mạng” khuyến khích xuất khẩu. Nhà xuất khẩu sẽ “kêu trời” nếu một ngày nào đó vì thừa mà tỉ giá VND/USD trở về mức 16.000 đồng. Kim ngạch xuất khẩu năm 2007 ước gần 48 tỉ USD thì mỗi đồng tỉ giá tăng thêm có ý nghĩa rất lớn với nhà xuất khẩu. Mà xuất khẩu tăng là có thêm công ăn việc làm.

Cũng đừng quá lo cho tốc độ tăng của tỉ giá, vì theo “kịch bản”, tỉ giá cũng như Tôn Ngộ Không, có “múa may” thì vẫn nằm trong bàn tay của Phật Tổ. Tỉ giá VND/USD vẫn chưa tăng hết “kịch bản” 1%, từ nay đến cuối năm tỉ giá có tăng thêm cũng là bình thường. Dù có tăng nhanh, câu chuyện giữ USD có lợi hơn VND vẫn không có cơ hội xuất hiện.

Theo Báo Tuổi trẻ
 
Lạm phát là gì?

Trong kinh tế học, thuật ngữ “lạm phát” được dùng để chỉ sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung hầu hết các hàng hoá và dịch vụ so với thời điểm một năm trước đó. Như vậy tình trạng lạm phát được đánh giá bằng cách so sánh giá cả của hai loại hàng hoá vào hai thời điểm khác nhau, với giả thiết chất lượng không thay đổi.

Khi giá trị của hàng hoá và dịch vụ tăng lên, đồng nghĩa với sức mua của đồng tiền giảm đi, và với cùng một số tiền nhất định, người ta chỉ có thể mua được số lượng hàng hoá ít hơn so với năm trước. Có nhiều dạng lạm phát khác nhau, như lạm phát một con số (single-digit inflation), lạm phát hai con số (double-digit inflation), lạm phát phi mã (galloping inflation), siêu lạm phát (hyper inflation)...

Vì vậy, có thể thấy rằng CPI ở Việt Nam tăng chủ yếu vì những lý do nội tại của nền kinh tế, trong đó quan trọng nhất là nguyên nhân tiền tệ. Tốc độ tăng tín dụng của ta luôn được duy trì ở mức rất cao (khoảng 30%) trong vòng sáu năm qua. Đồng thời cung tiền đồng từ đầu năm tới nay cũng tăng đột biến do Nhà nước phải mua vào khoảng 9 tỉ đô la để ổn định tỷ giá.

Nguyên nhân dẫn đến lạm phát

Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng lạm phát, trong đó "lạm phát do cầu kéo" và "lạm phát do chi phí đẩy" được coi là hai thủ phạm chính.

- Lạm phát do cầu kéo
Nhiều người có trong tay một khoản tiền lớn và họ sẵn sàng chi trả cho một hàng hoá hay dịch vụ với mức giá cao hơn bình thường. Khi nhu cầu về một mặt hàng tăng lên sẽ kéo theo sự tăng lên về giá cả của mặt hàng đó. Giá cả của các mặt hàng khác cũng theo đó leo thang, dẫn đến sự tăng giá của hầu hết các loại hàng hoá trên thị trường. Lạm phát do sự tăng lên về cầu được gọi là “lạm phát do cầu kéo”, nghĩa là cầu về một hàng hoá hay dịch vụ ngày càng kéo giá cả của hàng hoá hay dịch vụ đó lên mức cao hơn. Các nhà khoa học mô tả tình trạng lạm phát này là”quá nhiều tiền đuổi theo quá ít hàng hoá”.

- Lạm phát do chi phí đẩy
Chi phí của các doanh nghiệp bao gồm tiền lương, giá cả nguyên liệu đầu vào, máy móc, chi phí bảo hiểm cho công nhân, thuế... Khi giá cả của một hoặc vài yếu tố này tăng lên thì tổng chi phí sản xuất của các xí nghiệp chắc chắn cũng tăng lên. Các xí nghiệp vì muốn bảo toàn mức lợi nhuận của mình sẽ tăng giá thành sản phẩm. Mức giá chung của toàn thể nền kinh tế cũng tăng.

- Lạm phát do cơ cấu
Ngành kinh doanh có hiệu quả tăng tiền công danh nghĩa cho người lao động. Ngành kinh doanh không hiệu quả, vì thế, không thể không tăng tiền công cho người lao động trong ngành mình. Nhưng để đảm bảo mức lợi nhuận, ngành kinh doanh kém hiệu quả sẽ tăng giá thành sản phẩm. Lạm phát nảy sinh từ đó.

- Lạm phát do cầu thay đổi
Giả dụ lượng cầu về một mặt hàng giảm đi, trong khi lượng cầu về một mặt hàng khác lại tăng lên. Nếu thị trường có người cung cấp độc quyền và giá cả có tính chất cứng nhắc phía dưới (chỉ có thể tăng mà không thể giảm), thì mặt hàng mà lượng cầu giảm vẫn không giảm giá. Trong khi đó mặt hàng có lượng cầu tăng thì lại tăng giá. Kết quả là mức giá chung tăng lên, dẫn đến lạm phát.

- Lạm phát do xuất khẩu
Xuất khẩu tăng dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung, hoặc sản phẩm được huy động cho xuất khẩu khiến lượng cung sản phẩm cho thị trường trong nước giảm khiến tổng cung thấp hơn tổng cầu. Lạm phát nảy sinh do tổng cung và tổng cầu mất cân bằng.

- Lạm phát do nhập khẩu
Khi giá hàng hoá nhập khẩu tăng thì giá bán sản phẩm đó trong nước cũng tăng. Lạm phát hình thành khi mức giá chung bị giá nhập khẩu đội lên.

- Lạm phát tiền tệ
Cung tiền tăng (chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua ngoại tệ vào để giữ cho đồng tiền trong nước khỏi mất giá so với ngoại tệ; hay chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua công trái theo yêu cầu của nhà nước) khiến cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên là nguyên nhân gây ra lạm phát.

Như vậy có thể tạm dẫn ra thủ phạm chính:
- Lạm phát do chi phí đẩy
- Lạm phát tiền tệ
- Lạm phát do nhập khẩu
- Các nguyên nhân khác đều có tác động ít nhiều đến lạm phát

Tuy nhiên, lạm phát liên quan đến rất nhiều lĩnh vực. Là vấn đề vĩ mô nên có lẽ anh em ta không đủ tầm tranh luận đâu. Cần có một nhà kinh tế học vào giải thích! :D

Ai là nạn nhân của lạm phát?
Khi lạm phát xảy ra thì hầu hết mọi thành phần của nền kinh tế đều trở thành nạn nhân của lạm phát, bởi nhìn một cách tổng thể thì mỗi người đều là người tiêu dùng. Tuy nhiên, 3 thành phần chịu nhiều thiệt thòi nhất là:

- Người về hưu: Lương hưu là một trong những “hàng hoá” ổn định nhất về giá cả, thường chỉ được điều chỉnh tăng lên đôi chút sau khi giá cả hàng hoá đã tăng lên gấp nhiều lần.

- Những người gửi tiền tiết kiệm: Hẳn nhiên sự mất giá của đồng tiền khiến cho những người tích trữ tiền mặt nói chung và những người gửi tiền tiết kiệm đánh mất của cải nhanh nhất.

- Những người cho vay nợ: Khoản nợ trước đây có thể mua được một món hàng nhất định thì nay chỉ có thể mua được những món hàng có giá trị thấp hơn. Vậy ai là người được hưởng lợi? Có lẽ khi đồng tiền mất giá dần thì người sung sướng nhất chính là những con nợ vì nay khoản nợ họ phải trả có vẻ nhẹ gánh hơn.
 
vậy có ai nghĩ khác về nguyên nhân lạm phát không ạ,do phát triển quá nhanh hay do vào WTO rồi nên bảo hộ phải cắt đi--->tăng giá-->lạm phát
 
- Lạm phát do chi phí đẩy: nền sản xuất của chúng ta phụ thuộc rất nhiều vào nguyên liệu, mà phần lớn nguyên liệu/máy móc/công nghệ đều phải nhập khẩu. Có lẽ chưa thể có một biện pháp tích cực và cụ thể để giải quyết ngay vấn đề này.

- Lạm phát do tiền tệ: Là do chính chúng ta thôi. Vốn đầu tư vào VN khá lớn, ngoài việc nhập máy móc, thiết bị, công nghệ... thì cần phải có 1 lượng tiền Việt khá lớn, vì hình như mọi giao dịch tại Vietnam đều phải sử dụng tiền Việt Nam... đây chỉ là 1 lý do trong nguyên nhân này thôi. :)

- Lạm phát do nhập khẩu: vấn đề này không thể tránh khỏi.

Nhà kinh tế của chúng ta chưa có giải pháp nào tốt giải quyết gốc rễ cho nền kinh tế. Mà có giải pháp nào chăng nữa, tớ nghĩ rằng phải mất hàng thập kỷ để cơ cấu và tổ chức/hệ thống lại nền kinh tế. Vì vậy, trước mắt tớ chỉ biết cố gắng ăn tiêu ít đi, làm nhiều hơn (hoặc...). Chứ không còn cách nào khác! :( :( :(
 
đọc thêm bài báo này thấy có lẽ lạm phát cũng do anh hưởng ở đây chăng,hay em đọc sai:Cụ thể, chiều tối qua, 20/11, giá dầu thô nhẹ giao tháng 12/2007 trên thị trường giao dịch dầu mỏ New York đã tăng 3,39 USD, tức 3,7%, so với phiên giao dịch trước, lên mức 998,03 USD/thùng
nói thật nếu giá lên mức này thì cả thế giới đi xe đạp hết
không thể chấp nhận vietnamnet mà lại viết sai thế này được
 
mà các bác đừng cho là em trẻ con không biết gì lại lắm mồm nhé,các bác thông cảm,giá tăng ảnh hưởng nhiều nhất là tới SV nên em không chịu được,hehe
2 tháng nữa lại đến Tết,không biết các bác nhà mình năm nay báo cáo kinh tế tăng trưởng thì bao nhiêu phần trăm GDP là do công nghiệp đóng góp(không có thống kê cụ thể CN nặng là bao nhiu % nhỉ)
 
đọc thêm bài báo này thấy có lẽ lạm phát cũng do anh hưởng ở đây chăng,hay em đọc sai:Cụ thể, chiều tối qua, 20/11, giá dầu thô nhẹ giao tháng 12/2007 trên thị trường giao dịch dầu mỏ New York đã tăng 3,39 USD, tức 3,7%, so với phiên giao dịch trước, lên mức 998,03 USD/thùng
nói thật nếu giá lên mức này thì cả thế giới đi xe đạp hết
không thể chấp nhận vietnamnet mà lại viết sai thế này được

Đo lạm phát là đo theo chỉ số CPI, còn gọi là Customer Price Index. Trong cái index này: thực phẩm, điện, nước, xăng dầu và các món ăn tinh thần. Phần ảnh hưởng của xăng dầu trong CPI chỉ chiếm nhiều lắm là 5%, ngay cả sắt thép là hàng công nghiệp nặng cũng chỉ chiếm dưới 1%.

*Vì thế ko thể dùng mấy cái món hàng công nghiệp này để đổ thừa cho sự lạm phát giá cả hàng tiêu dùng. Sức ảnh hưởng của những món hàng này kg hề lớn tới mức kéo mức giá hàng tiêu dùng lên như thế.

*Tớ ví dụ tình trạng của thằng TQ nhé, lạm phát của TQ coi vậy chứ ổn hơn ta nhiều.

-Lạm phát của TQ hiện nay ở mức 6,9% nhưng chủ yếu chỉ ở những mặt hàng như lương thực thực phẩm. Trong các phần khác đều nằm ở mức dưới 2%. Có thể xem trong WB đấy. Nguyên nhân của lạm phát bên TQ là do sự khan hiếm của thịt heo đã đẩy giá cả các mặt hàng khác lên cao, song song đó là số tiền mặt dư quá nhiều. Tuy nhiên, theo tính toán thì lạm phát ở TQ năm nay sẽ chỉ ở mức 4,5% (còn của VN là gần 9%)
 
với em trong vòng 6 năm giá cả tăng gấp đôi trong các dịch vụ tiêu dùng

cách đây 6 năm và bây giờ 1 tô phở buổi sáng tăng gấp đôi thế thì trung bình mỗi năm tăng hơi bị nhiều :D
 
Chẳng phải đợi đnến 6 năm đâu bác ạ. Tết này thôi bác sẽ thấy phở không phải gấp đôi mà gấp 3 gấp 4 ý chứ. tiền $ đang mất giá thảm hại vậy mà tiền đồng vẫn mất giá hơn tiền $ vậy thì bác có thể tính sơ sơ ra tiền đồng mất giá đến thế nào rồi
 
sao lại thế nhỉ,em tưởng xăng dầu ảnh hưởng lắm chứ,vậy cái gì ảnh hưởng nhất ạ
 
Cách tính CPI không có một công thức cụ thể, tùy thuộc vào mỗi quốc gia có cách tính riêng của mình. CPI đo giá cả của một lượng lớn các loại hàng hóa, dịch vụ khác nhau... mà được mua bởi "người tiêu dùng thông thường", và mỗi mặt hàng có một tỉ lệ khác nhau (không có công thức cụ thể). Vì thế không nên so sánh lạm phát của Vietnam và các quốc gia khác. Đây cũng là công cụ để đo đạc giúp nhà kinh tế có các quyết sách hợp lý để điều chỉnh nền kinh tế phát triển bền vững, ổn định.

CPI của Việt Nam đo giá cả của khoảng 400 loại hàng hoá, trong khi đó để tính CPI ở Mỹ người ta điều tra tới 80.000 loại hàng hoá và dịch vụ. Không những thế, CPI còn được tính riêng cho nhóm người tiêu dùng nông thôn, thành thị, công nhân viên chức thành thị...
 
Để góp ít thông tin tham khảo tôi xin quote lại đây các thông tin mà cá nhân tôi cho rằng quan trọng. Là hai bài viết của PhD. Vũ Quang Việt:

Lạm phát và nợ nước ngoài: Cách nào để không phải trả giá?
Lao Động số 198 Ngày 27/08/2007 Cập nhật: 9:21 PM, 26/08/2007
(LĐ) - Bài "Chống lạm phát - phải thay đổi từ quan điểm" (LĐ số 197 ra ngày 25.8) đã bàn về tác hại của lạm phát đối với thị trường nội địa. Bài viết này tác giả sẽ tập trung phân tích về tác hại của lạm phát đối thị trường đối ngoại (xuất nhập khẩu và nợ nước ngoài).
Để hiểu kỹ hơn, chúng ta cần xem xét lại cái gọi là giá trị thật của đồng nội tệ. Thực tế là 4 năm qua, tiền đồng đã lên giá 13% so với USD. Oái oăm là trên danh nghĩa, USD lại lên giá, vì 1USD năm 2003 đổi được 15.514 đồng, nhưng đến năm 2007 lại chỉ đổi được 16.240 đồng. Song trên thực tế do lạm phát ở VN cao hơn nhiều so với Mỹ, giá trị thực của đồng USD ở VN đã mất giá.

Cụ thể: 1USD năm 2003 có sức mua tương đương với 1,12USD bây giờ do lạm phát ở Mỹ, tức là tương đương với 18.189 đồng VN bây giờ. Do lạm phát tới 35,3% ở VN, 18.189 đồng bây giờ chỉ tương đương sức mua của 13.443 đồng VN năm 2003. Nếu so với sức mua là 15.154 đồng/USD năm 2003 thì đồng USD bây giờ chỉ còn 89% giá trị, hay nói khác là đồng VN lên giá 13% trong vòng 4 năm.

Tình trạng USD xuống giá đã khuyến khích nhập khẩu và đồng VN lên giá hạn chế xuất khẩu. Hai năm trước tốc độ tăng xuất khẩu cao hơn nhập khẩu. 7 tháng đầu năm 2007, nhập khẩu đã tăng 29,6% so với 19,6% tăng xuất khẩu. Thâm hụt cán cân thương mại gồm cả hàng hoá và dịch vụ có khả năng tăng từ 2,3 tỉ USD năm 2003 lên tới 8 tỉ USD trong năm nay. Số ngoại tệ cần thiết có thể đến 10 tỉ USD vì khoảng 2 tỉ USD phải dùng để trả lãi và lợi nhuận nước ngoài. Khoản tiền kiều hối có thể lên tới 4 tỉ USD trong năm 2007, còn 6 tỉ USD nữa phải trông chờ từ đầu tư trực tiếp, gián tiếp hoặc vay mượn nưóc ngoài.

Khác với đầu tư trực tiếp khó rút vốn ra vì muốn rút phải bán doanh nghiệp; đầu tư gián tiếp vào thị trường chứng khoán có thế rút ra dễ dàng vì chỉ cần bán cổ phiếu, chuyển thành ngoại tệ và gửi ra nước ngoài. Giới đầu tư nước ngoài ở thị trường cổ phiếu có thể rút chạy hàng loạt khi kinh tế khủng hoảng, và như thế có thể đẩy nền kinh tế đến chỗ khủng hoảng toàn diện. Điều này đã xảy ra với rất nhiều nước, nhất là ở các nước Nam Mỹ và xảy ra năm 1997 ở Châu Á , đưa đến sự sụp đổ của chế độ Suharto ở Indonesia.

Về biện pháp kinh tế, để có khả năng đối phó với việc rút vốn đầu tư gián tiếp từ nước ngoài, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) phải từng bước xây dựng quỹ dự trữ ngoại tệ, đủ khả năng chi trả nếu vốn nước ngoài ở thị trường chứng khoán rút ra. (Do đó việc nắm thông tin cập nhật về giá trị cổ phiếu do nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ trên thị trường chứng khoán VN là rất quan trọng).

Việc mua ngoại tệ dự trữ là điều dễ thấy như NHNN đang làm. Nhưng mua dự trữ có tác dụng tăng trực tiếp lượng tiền đồng trên thị trường và đẩy mạnh lạm phát nếu như không có biện pháp thu hút tiền đồng trở lại NHNN và triệt tiêu chúng. Nói triệt tiêu là nói đến hai việc. Ngoại tệ dự trữ phải đem đầu tư ngắn hạn ở nước ngoài (để có thể rút ra ngay khi cần).

Tiền đồng phải rút về phải bằng cách bán trái phiếu cho dân và ngân hàng thương mại. Tiền này không thể đem cho vay hoặc mua trái phiếu nhà nước, vì như vậy là đẩy tiền trở lại thị trường. NHNN phải giữ tiền và chịu lỗ trả lãi. Khi làm thế, NHNN lỗ và ngân sách bù lỗ là chuyện bình thường vì đó là vai trò điều tiết của NHNN và nhà nước nói chung.

Cho nên có thể kết luận là chống lạm phát phải là mục tiêu hàng đầu để ổn định kinh tế, tài chính và chính trị, tức là ổn định xã hội. Không thể cho rằng nền kinh tế ổn định khi lạm phát vượt 5-6% một năm. Trên thực tế, nhiều quốc gia đã phải trả giá rất cao khi lạm phát vượt khỏi tầm kiểm soát.

Vũ Quang Việt (Cục Thống kê LHQ-New York)
 
Và đây là bài mới hơn của ông Vũ Quang Việt:

Kinh tế Việt Nam: chống lạm phát phải là mục tiêu hàng đầu

Tuesday, 4. September 2007, 05:52:52

Phải thay đổi quan điểm về lạm phát
Tại sao cần bình luận về lạm phát khi đã có nhiều người nói về nó. Có hai lý do. Lý do thứ nhất, cực kỳ quan trọng nhưng lại ít được nói tới, là ảnh hưởng của lạm phát tới sự ổn định và công bằng xã hội. Lý do thứ hai là cần làm sáng tỏ thêm nguyên nhân gây ra lạm phát. Chỉ có thế may ra mới trừ khử được lạm phát trong tương lai.

Nếu tính từ năm 2004 đến nay, tức là trong vòng 4 năm, lạm phát đã là 35,3% và trong vòng 2 năm nay, lạm phát là 15,5% (chỉ tính tới tháng 7 năm 2007). Như vậy là thu nhập của 22 triệu người lao động ăn lương đã mất đi sức mua cùng một tỷ lệ như trên vì lạm phát. Khi lạm phát càng cao, để bảo vệ mình, người lao động sẽ tích cực đòi tăng lương, kể cả đình công. Thí dụ trong 3 tháng đầu năm 2006, có 193 cuộc đình công, cao hơn 119 cuộc đình công cả năm 2003. Việc tăng lương không do tăng năng suất lại tạo ra vòng xoáy tăng giá.

Khi lạm phát cao, dân chúng phải tự bảo vệ mình bằng nhiều cách. Chẳng hạn năm nay, giá đã tăng 8,3% mà lãi suất bỏ ngân hàng chỉ có 3,9% một năm thì rồi ai cũng thấy dại bỏ tiền vào ngân hàng. Có thể họ sẽ mua vàng. So với năm 2005 thì giá vàng đã tăng 53%, lợi hơn nhiều so với 16,5% lãi ngân hàng nếu tính dựa vào lãi suất hiện nay. Còn người giầu, chắc là họ sẽ vơ vét mua bất động sản. Chỉ có người dân sống bằng đồng lương còm cõi và cố định là khốn khổ. Không lẽ thay vì khuyến khích để dành, tạo vốn cho đầu tư phát triển kinh tế, nhà nước lại muốn người dân ký cóp tiền một cách vô dụng như thế.

Lạm phát cao như hiện nay cũng không giúp gì cho phát triển dài lâu, nhất là khi nó tạo ra thiếu vốn đầu tư, đầu cơ vàng bạc và thị trường nhà đất. Ngoài trừ một số công ty lớn có khả năng thay đổi giá bằng hợp đồng để tự bảo vệ mình, hầu hết là các nhà buôn bán vừa và nhỏ sẽ chịu chết vì giá tăng và dễ dàng phá sản. Lạm phát lớn mà lại đòi tốc độ phát triển cao thì chỉ là giấc mộng hão huyền. Cho rằng miễn là tốc độ phát triển cao hơn lạm phát là được ? Thì cứ cho là như vậy đi, nhưng ai là người trả giá cho lạm phát ? Phải chăng là những người lao động còm cõi, phải cố bươn chãi để có đủ tiền đóng học phí cho con, còn nhà nước thì cứ nằng nặc đòi “xã hội hoá” ?

Tôi rất đồng ý với các nhà kinh tế đã nhận định là ở bất cứ đâu và bất cứ thời điểm nào lạm phát có nguyên nhân in tiền nhiều quá. Tại sao lại in tiền nhiều ? Vì nhà nước chi nhiều hơn số thuế thu được. Nếu như nhà nước phát hành trái phiếu và bán cho dân để mượn tiền tiêu thì không có vấn đề. Vấn đề là nhà nước bắt ông Ngân hàng Nhà nước mua trái phiếu. Điều này có nghĩa là bắt Ngân hàng Nhà nước in tiền. Tiền nhiều hơn hàng làm ra thì tất phải lạm phát. Thời chống lạm phát cuối những năm 1980, hầu hết mọi người trong chính phủ đều cho rằng phải tăng năng suất, phải tăng cung để giảm lạm phát. Tôi đã đặt cho các bạn ấy một câu hỏi. Thế khả năng tăng sản xuất thật một năm là bao nhiêu ? Cao nhất như Trung Quốc thì cũng chỉ 10 - 15% là cùng, nhưng các ông lại đang tăng tiền tới cả vài trăm phần trăm một năm. Các ông có tăng sản xuất nổi vài trăm phần trăm một năm không ?
Kinh nghiệm chống lạm phát ở Việt Nam không phải là zero, nhưng quan điểm cũ vẫn cứ tồn tại. Thí dụ quyết định của chính phủ ( Chỉ thị 18/2007/CT-TTg ), chỉ thị các bộ “ rà soát, bổ sung, sửa đổi ngay các thủ tục hành chính gây ách tắc trong việc giải ngân vốn cho các công trình xây dựng cơ bản, giảm thuế nhập khẩu hợp lý ; tính toán giảm giá bán xăng trong nước khi giá xăng trên thị trường thế giới giảm... lập nhóm công tác liên ngành hỗ trợ các địa phương, doanh nghiệp triển khai nhanh thủ tục cho các dự án, công trình xây dựng cơ bản...” Lại trở lại đúng luận điểm ngày xưa. Tăng cung để chống lạm phát. Không biết cái gì gây ách tắc, nhưng nếu chúng là những thủ tục xây dựng, đánh giá, kiểm tra dự án cần thiết, thì việc xoá bỏ để tăng cường mức đầu tư nhằm có tốc độ phát triển kinh tế cao và lạm phát thấp sẽ đưa chất lượng công trình về đâu ?

Lại còn vừa giảm thuế, vừa giảm giá. Giảm giá xăng tức là tăng chi bù lỗ. Giảm thuế tức là giảm thu ngân sách. Nghe nói chỉ việc giảm thuế đã làm thu ngân sách giảm 1 tỷ đô la. Nhà nước lấy tiền đâu để bù vào thiếu hụt ? In tiền ? Mượn nước ngoài ?

Chống lạm phát khi thị trường mở ra với thế giới
Phần trước đã nói về tác hại của lạm phát đối với thị trường nội địa. Phần này phân tích về tác hại khi thị trường mở ra với thế giới.
Để hiểu kỹ hơn, chúng ta cần nhức đầu một tí về cái gọi là giá trị thật của đồng nội tệ.

Thực tế là 4 năm qua tiền đồng đã lên giá 13% so với đô la Mỹ. Oái oăm là trên danh nghĩa đồng đô la lên giá vì một đô la Mỹ năm 2003 đổi được 15.514 đồng, nhưng đến năm 2007 lại đổi được 16.240 đồng. Nhưng trên thực tế do lạm phát ở Việt Nam cao hơn nhiều so với Mỹ, giá trị thực của đồng đô la ở Việt Nam đã mất giá. Đây là cách tính. Một đô la năm 2003 có sức mua tương đương với 1,12 đô la bây giờ do lạm phát ở Mỹ, tức là tương đương với 18.189 đồng VN bây giờ. Do lạm phát tới 35,3% ở Việt Nam, 18.189 đồng bây giờ chỉ tương đương sức mua của 13.443 đồng VN năm 2003. Nếu so với sức mua là 15.154 năm 2003 thì đồng đô la năm 2007 chỉ còn 89% giá trị hay nói khác đi là đồng Việt Nam lên giá 13% trong vòng 4 năm.

Tình trạng đô la xuống giá đã khuyến khích nhập khẩu và đồng Việt Nam lên giá hạn chế xuất khẩu. Hai năm trước tốc độ tăng xuất khẩu cao hơn nhập khẩu. 7 tháng đầu năm 2007, nhập khẩu đã tăng 29,6% so với 19,6% tăng xuất khẩu. Thiếu hụt cán cân ngoại thương gồm cả hàng hoá và dịch vụ có khả năng tăng từ 2,3 tỷ năm 2003 lên tới 8 tỷ năm nay. Số ngoại tệ cần thiết có thể đến 10 tỷ vì khoảng 2 tỷ là dùng để trả lãi và lợi nhuận nước ngoài. Số tiền kiều bào và lao động nước ngoài gửi về có thể lên tới 4 tỷ thì 6 tỷ còn lại phải là từ đầu tư trực tiếp, gián tiếp hoặc vay mượn nưóc ngoài. Nếu đầu tư trực tiếp là 3 tỷ thì đầu tư gián tiếp vào thị trường cổ phiếu và cho vay là 3 tỷ. Mặc dù đầu tư trực tiếp nước ngoài không phải là nợ vay phải trả khi đến hạn nhưng về mặt kinh tế nó vẫn là cái sẽ phải trả.

Khác với đầu tư trực tiếp khó rút ra vì muốn rút phải bán doanh nghiệp, đầu tư gián tiếp vào thị trường chứng khoán có thế rút ra dễ dàng vì chỉ cần bán cổ phiếu, đổi thành tiền đô la và gửi ra nước ngoài. Giới đầu tư nước ngoài ở thị trường cổ phiếu có thể rút chạy hàng loạt khi kinh tế khủng hoảng, và như thế có thể đẩy nền kinh tế đến chỗ khủng hoảng toàn diện. Điều này đã xảy ra với rất nhiều nước, nhất là ở các nước Nam Mỹ và xảy ra năm 1997 ở Á châu, đưa đến sự sụp đổ của chế độ Suharto ở Indonesia. GDP bình quân đầu nguời của Indonesia giảm từ 1242 Đô la Mỹ năm 1996 xuống còn 749 Đô la Mỹ năm 2001. Hy vọng là giới chức trách Việt Nam đã sửa soạn sẵn các hành vi cần thiết để đối phó khi cần. Tất nhiên cả biện pháp kinh tế và phi kinh tế.

Về biện pháp kinh tế, để tạo khả năng đối phó với việc tài chính nước ngoài bỏ chạy, Ngân hàng Nhà nước phải từng bước xây dựng quỹ dự trữ ngoại tệ, đủ khả năng chi trả nếu vốn nước ngoài ở thị trường chứng khoán rút ra. ( Do đó việc nắm thông tin cập nhật về giá trị cổ phiếu người nước ngoài có trên thị trường chứng khoán là rất quan trọng ).

Mua ngoại tệ dự trữ là điều dễ thấy như Ngân hàng Nhà nước đang làm. Nhưng mua dự trữ có tác dụng tăng trực tiếp lượng tiền đồng trên thị trường và đẩy mạnh lạm phát nếu như không có biện pháp thu hút tiền đồng trở lại Ngân hàng Nhà nước và triệt tiêu chúng. Nói triệt tiêu là nói đến hai việc. Ngoại tệ dự trữ phải đem đầu tư ngắn hạn ở nước ngoài ( để có thể rút ra ngay khi cần ). Tiền đồng phải rút về phải bằng cách bán trái phiếu cho dân và ngân hàng thương mại. Tiền này không thể đem cho vay hoặc mua trái phiếu nhà nước vì như vậy là đẩy tiền trở lại thị trường. Ngân hàng Nhà nước phải giữ tiền và chịu lỗ trả lãi. Khi làm thế, Ngân hàng Nhà nước lỗ và ngân sách bù lỗ là chuyện bình thường vì đó là vai trò điều tiết của Ngân hàng Nhà nước và nhà nước nói chung.

Cho nên có thể kết luận là chống lạm phát phải là mục tiêu hàng đầu để ổn định kinh tế, tài chính và chính trị, tức là ổn định xã hội. Không thể cho rằng nền kinh tế ổn định khi lạm phát vượt 5 - 6% một năm. Nhiều xã hội đã phải trả giá rất cao khi lạm phát vượt tầm kiểm soát.

Chuyên gia cao cấp Vũ Quang Việt, Kiều bào Mỹ (Vụ trưởng Vụ Tài khoản Quốc gia Cục Thống kê Liên Hợp Quốc - New York)
 
Back
Top