V.21. Lấy nét tay toàn phần là gì (full-time manual- FTM)?Các ống kính Canon EF lấy nét bằng AFD (arc form drives) hoặc MM (micromotor) sử dụng cơ cấu lấy nét đơn giản dựa trên mô tơ điện và truyền lực bằng một hàng bánh răng nhỏ bé. Khi chuyển hệ thống này sang điều khiển bằng tay thì sẽ ảnh hưởng đến bộ truyền lực này, để lấy nét tay ống kính có một nút chuyển để cắt rời bộ truyền lực này ra khi ta vặn vòng lấy nét thủ công. Khi ống kính đang ở chế độ lấy nét tự động bạn không thể lấy nét bằng tay.
Với hệ thống lấy nét bằng USM thì khác, ta có thể lấy nét tay toàn phần (FTM). Các ống kính này cho phép bạn lấy nét thủ công ngay cả khi nút chuyển AF/MF đang ở chế độ tự động. Đặc tính này rất hưũ ích, ta có thể điều chỉnh, xoay vòng lấy nét ngay mà không cần chuyển chế độ lấy nét bằng nút chuyển. Nhưng có vài điều cần lưu ý: Dù các ống kính đều ghi “USM” nhưng thực ra có đến ba loại USM khác nhau. USM tốt nhất sử dụng trên các ống kính dòng L và các ống trung cấp là USM dạng vòng, USM này có hai vòng kim loại dao động với tần số lớn để tạo ra chuyển động quay. Lấy nét tay toàn phần với các USM này khá dễ dàng- một ly hợp ma sát đơn giản sẽ cho phép bạn quay cả mô tơ điện khi lấy nét tay. Bạn có thể lấy nét bất kỳ lúc nào ngay cả khi máy ảnh tắt nguồn hoặc ống kính không gắn vào thân máy.
Dạng USM thứ hai, ra đời trước, lắp cho vài ống kính đời cũ và một số ống kính tiêu cự dài. Các ống kính có USM điện tử này chỉ lấy nét tay được khi thân máy được cấp nguồn. Khi bạn quay vòng lấy nét, tín hiệu điện được chuyển tới mô tơ từ thân máy, thực hiện quá trình lấy nét (gián tiếp), một số ống kính điển hình thuộc nhóm này là:
EF 50mm 1.0 L USM
EF 85mm 1.2 L USM
EF 85mm 1.2 L USM II
EF 28-80mm 2.8-4 L USM
EF 200mm 1.8 L USM
EF 300mm 2.8 L USM
EF 400mm 2.8 L USM
EF 400mm 2.8 L II USM
EF 500mm 4.5 L USM
EF 600mm 4 L USM
EF 1200mm 5.6 L USM
Dạng USM thứ ba, USM siêu nhỏ,lắp cho các ống kính bình dân không hỗ trợ lấy nét tay toàn phần vì vẫn dùng bộ truyền lực bánh răng. Nhiều người gọi hệ thống lấy nét này là USM thuần tuý, vì chỉ có mô tơ điện là dạng USM thôi, và ta chỉ tận dụng được tính chất hoạt động êm của mô tơ. Các ống kính 50mm 1.4 USM và 28-105 4-5.6 USM đời mới là những ngoại lệ, các ống kính này có các ly hợp trượt cho phép lấy nét tay toàn phần như các USM dạng vòng vậy.
Không nên lấy nét bằng tay trong khi mô tơ lấy nét đang hoạt động, ta có thể làm hỏng mô tơ hay làm nó quá tải. Cần chờ khi mô tơ ngừng hoạt động mới chỉnh bằng tay. Việc lấy nét tay cũng phải tránh khi để chế độ AI Servo, vì mô tơ có thể được kích hoạt bất kỳ luc nào.
V.22. Liệu các ống kính có USM cho ảnh đẹp hơn ống kính không có USM?
Đương nhiên, việc lấy nét nhanh và êm hơn cho phép bạn chụp được các tấm ảnh trong những điều kiện phức tạp hơn, nhưng điều này không liên quan gì tới chất lượng quang học của ống kính cả. Bạn rất dễ liên tưởng vì USM dạng vòng hay được lắp cho các ống kính cao cấp, hoặc dòng L. Ta chỉ mua được các ống kính Canon bình dân lắp USM dạng siêu nhỏ thôi. Nhưng có rất nhiều ống kính Canon đặc biệt là các ống một tiêu cự đời cũ tuy không có USM nhưng chất lượng quang học của ống rất tốt.
V.23. Hệ thống ổn định hình ảnh (image stabilization-IS) là gì?
Đây là công nghệ của Canon cho phép ống kính có những điều chỉnh quang học để khắc phục sự rung máy khi ta chụp ảnh. Việc máy bị rung- có thể do cầm tay không chắn chẳng hạn- gây nên các vết mờ trên tấm ảnh chụp ở tốc độ thấp, IS có thể làm tấm ảnh sắc nét hơn khi mà bạn không thể chụp tốc độ nhanh.
IS là công nghệ khá phức tạp liên quan đến các cảm biến chuyển động, những bộ vi xử lý và các mô tơ dịch chuyển thấu kính. Vì thế các ống kính có IS thường có giá khá cao. Nhưng đổi lại nó rất thuận tiện- khi cầm máy bằng tay bạn có thể chụp chậm đi một đến hai nấc so với ống kính không có IS.
Tuy nhiên, IS không hề làm tăng giá trị độ mở tối đa của ống kính, ống kính có độ mở tối đa là 3.5 khi lắp IS vẫn giữ nguyên giá trị 3.5. IS chỉ cho phép bạn chụp chậm hơn khi cầm máy bằng cách bù trừ độ rung của thân máy. Vùng ảnh rõ sẽ lớn hơn, và điều này có lợi hay không còn tuỳ vào mục đích tấm ảnh của bạn.
IS cũng có những nhược điểm so với các ống kính nhanh: Các thế hệ IS đầu tiên hoạt động không tốt lắm khi gắn máy lên chân đỡ, IS của các ống kính phổ thông hoạt động cũng không được tốt như IS của ống kính chuyên nghiệp khi ta chụp lia máy. IS cũng không giúp được gì nếu đối tượng chụp chuyển động vì nó chỉ bù trừ cho thân máy thôi. IS không giúp “bắt chết” đối tượng chụp và đôi khi nó còn báo hại vì cho phép ta chụp ở những tốc độ thấp so với ống kính nhanh. Một số người thấy hoa mắt khi nhìn qua khung ngắm của ống kính có IS đang hoạt động, và đương nhiên IS ngốn thêm năng lượng của pin. Cuối cùng, các thân máy EOS phim trước đây không hoàn toàn tương thích với ống kính IS, thậm chí còn đôi chút bất tiện, ví như khung ngắm rung lên mỗi khi nhấn nút chụp (nhưng hiện tượng này không ảnh hưởng đến chất lượng ảnh).
Bên cạnh các nhược điểm, IS còn có rất nhiều ưu điểm, nhất là với các ống kính tiêu cự dài.
Canon là hãng đầu tiên áp dụng công nghệ ổn định hình ảnh lên các ống kính SLR, mặc dù Nikon mới là hãng đầu têu trong lĩnh vực này khi phát triển máy ngắm chụp dùng ống kính có ổn định hình ảnh (máy Zoom-Touch 105 VR) năm 1994. Ngày nay, Nikon bán nhiều ống kính rời có VR (vibration reduction- giảm rung) chỉ khác là nhắm vào thị trường cao cấp nhiều hơn, trong khi Canon bán ống kính IS cho cả thị trường cao cấp và phổ thông. Sigma cũng có các ống kính có đặc tính này, Panasonic thì phát triển hệ thống Mega Optical Image Stabilizer (Mega OIS) cũng là chức năng giảm rung. Minolta thì phát triển công nghệ chống rung gọi là Super SteadyShot nhưng lắp trong thân máy thay vì trong ống kính, lúc này hệ thống hoạt động với mọi ống kính lắp được cho thân máy, nhưng lại không chuyên biệt cho từng dải tiêu cự khác nhau.
V.24. Dữ liệu về khoảng cách là gì, ống kính nào hỗ trợ?
Nhiều ống kính EF có thể gửi các dữ liệu về khoảng cách cho thân máy, ví dụ bạn đang lấy nét vào đối tượng cách 4m, thì ống kính sẽ gửi một khoảng cách xấp xỉ tới thân máy.
Canon bán các ống kính này từ những năm 1990, đến năm 2004 thì ngừng do sự xuất hiện của hệ thống đo sáng flash E-TTL II. Trong tình huống cụ thể, E-TTL II có khả năng lấy được các dữ liệu về khoảng cách nhờ việc tính toán bằng đèn flash.
Với hệ thống lấy nét bằng USM thì khác, ta có thể lấy nét tay toàn phần (FTM). Các ống kính này cho phép bạn lấy nét thủ công ngay cả khi nút chuyển AF/MF đang ở chế độ tự động. Đặc tính này rất hưũ ích, ta có thể điều chỉnh, xoay vòng lấy nét ngay mà không cần chuyển chế độ lấy nét bằng nút chuyển. Nhưng có vài điều cần lưu ý: Dù các ống kính đều ghi “USM” nhưng thực ra có đến ba loại USM khác nhau. USM tốt nhất sử dụng trên các ống kính dòng L và các ống trung cấp là USM dạng vòng, USM này có hai vòng kim loại dao động với tần số lớn để tạo ra chuyển động quay. Lấy nét tay toàn phần với các USM này khá dễ dàng- một ly hợp ma sát đơn giản sẽ cho phép bạn quay cả mô tơ điện khi lấy nét tay. Bạn có thể lấy nét bất kỳ lúc nào ngay cả khi máy ảnh tắt nguồn hoặc ống kính không gắn vào thân máy.
Dạng USM thứ hai, ra đời trước, lắp cho vài ống kính đời cũ và một số ống kính tiêu cự dài. Các ống kính có USM điện tử này chỉ lấy nét tay được khi thân máy được cấp nguồn. Khi bạn quay vòng lấy nét, tín hiệu điện được chuyển tới mô tơ từ thân máy, thực hiện quá trình lấy nét (gián tiếp), một số ống kính điển hình thuộc nhóm này là:
EF 50mm 1.0 L USM
EF 85mm 1.2 L USM
EF 85mm 1.2 L USM II
EF 28-80mm 2.8-4 L USM
EF 200mm 1.8 L USM
EF 300mm 2.8 L USM
EF 400mm 2.8 L USM
EF 400mm 2.8 L II USM
EF 500mm 4.5 L USM
EF 600mm 4 L USM
EF 1200mm 5.6 L USM
Dạng USM thứ ba, USM siêu nhỏ,lắp cho các ống kính bình dân không hỗ trợ lấy nét tay toàn phần vì vẫn dùng bộ truyền lực bánh răng. Nhiều người gọi hệ thống lấy nét này là USM thuần tuý, vì chỉ có mô tơ điện là dạng USM thôi, và ta chỉ tận dụng được tính chất hoạt động êm của mô tơ. Các ống kính 50mm 1.4 USM và 28-105 4-5.6 USM đời mới là những ngoại lệ, các ống kính này có các ly hợp trượt cho phép lấy nét tay toàn phần như các USM dạng vòng vậy.
Không nên lấy nét bằng tay trong khi mô tơ lấy nét đang hoạt động, ta có thể làm hỏng mô tơ hay làm nó quá tải. Cần chờ khi mô tơ ngừng hoạt động mới chỉnh bằng tay. Việc lấy nét tay cũng phải tránh khi để chế độ AI Servo, vì mô tơ có thể được kích hoạt bất kỳ luc nào.
V.22. Liệu các ống kính có USM cho ảnh đẹp hơn ống kính không có USM?
Đương nhiên, việc lấy nét nhanh và êm hơn cho phép bạn chụp được các tấm ảnh trong những điều kiện phức tạp hơn, nhưng điều này không liên quan gì tới chất lượng quang học của ống kính cả. Bạn rất dễ liên tưởng vì USM dạng vòng hay được lắp cho các ống kính cao cấp, hoặc dòng L. Ta chỉ mua được các ống kính Canon bình dân lắp USM dạng siêu nhỏ thôi. Nhưng có rất nhiều ống kính Canon đặc biệt là các ống một tiêu cự đời cũ tuy không có USM nhưng chất lượng quang học của ống rất tốt.
V.23. Hệ thống ổn định hình ảnh (image stabilization-IS) là gì?
Đây là công nghệ của Canon cho phép ống kính có những điều chỉnh quang học để khắc phục sự rung máy khi ta chụp ảnh. Việc máy bị rung- có thể do cầm tay không chắn chẳng hạn- gây nên các vết mờ trên tấm ảnh chụp ở tốc độ thấp, IS có thể làm tấm ảnh sắc nét hơn khi mà bạn không thể chụp tốc độ nhanh.
IS là công nghệ khá phức tạp liên quan đến các cảm biến chuyển động, những bộ vi xử lý và các mô tơ dịch chuyển thấu kính. Vì thế các ống kính có IS thường có giá khá cao. Nhưng đổi lại nó rất thuận tiện- khi cầm máy bằng tay bạn có thể chụp chậm đi một đến hai nấc so với ống kính không có IS.
Tuy nhiên, IS không hề làm tăng giá trị độ mở tối đa của ống kính, ống kính có độ mở tối đa là 3.5 khi lắp IS vẫn giữ nguyên giá trị 3.5. IS chỉ cho phép bạn chụp chậm hơn khi cầm máy bằng cách bù trừ độ rung của thân máy. Vùng ảnh rõ sẽ lớn hơn, và điều này có lợi hay không còn tuỳ vào mục đích tấm ảnh của bạn.
IS cũng có những nhược điểm so với các ống kính nhanh: Các thế hệ IS đầu tiên hoạt động không tốt lắm khi gắn máy lên chân đỡ, IS của các ống kính phổ thông hoạt động cũng không được tốt như IS của ống kính chuyên nghiệp khi ta chụp lia máy. IS cũng không giúp được gì nếu đối tượng chụp chuyển động vì nó chỉ bù trừ cho thân máy thôi. IS không giúp “bắt chết” đối tượng chụp và đôi khi nó còn báo hại vì cho phép ta chụp ở những tốc độ thấp so với ống kính nhanh. Một số người thấy hoa mắt khi nhìn qua khung ngắm của ống kính có IS đang hoạt động, và đương nhiên IS ngốn thêm năng lượng của pin. Cuối cùng, các thân máy EOS phim trước đây không hoàn toàn tương thích với ống kính IS, thậm chí còn đôi chút bất tiện, ví như khung ngắm rung lên mỗi khi nhấn nút chụp (nhưng hiện tượng này không ảnh hưởng đến chất lượng ảnh).
Bên cạnh các nhược điểm, IS còn có rất nhiều ưu điểm, nhất là với các ống kính tiêu cự dài.
Canon là hãng đầu tiên áp dụng công nghệ ổn định hình ảnh lên các ống kính SLR, mặc dù Nikon mới là hãng đầu têu trong lĩnh vực này khi phát triển máy ngắm chụp dùng ống kính có ổn định hình ảnh (máy Zoom-Touch 105 VR) năm 1994. Ngày nay, Nikon bán nhiều ống kính rời có VR (vibration reduction- giảm rung) chỉ khác là nhắm vào thị trường cao cấp nhiều hơn, trong khi Canon bán ống kính IS cho cả thị trường cao cấp và phổ thông. Sigma cũng có các ống kính có đặc tính này, Panasonic thì phát triển hệ thống Mega Optical Image Stabilizer (Mega OIS) cũng là chức năng giảm rung. Minolta thì phát triển công nghệ chống rung gọi là Super SteadyShot nhưng lắp trong thân máy thay vì trong ống kính, lúc này hệ thống hoạt động với mọi ống kính lắp được cho thân máy, nhưng lại không chuyên biệt cho từng dải tiêu cự khác nhau.
V.24. Dữ liệu về khoảng cách là gì, ống kính nào hỗ trợ?
Nhiều ống kính EF có thể gửi các dữ liệu về khoảng cách cho thân máy, ví dụ bạn đang lấy nét vào đối tượng cách 4m, thì ống kính sẽ gửi một khoảng cách xấp xỉ tới thân máy.
Canon bán các ống kính này từ những năm 1990, đến năm 2004 thì ngừng do sự xuất hiện của hệ thống đo sáng flash E-TTL II. Trong tình huống cụ thể, E-TTL II có khả năng lấy được các dữ liệu về khoảng cách nhờ việc tính toán bằng đèn flash.