Follow along with the video below to see how to install our site as a web app on your home screen.
Note: This feature currently requires accessing the site using the built-in Safari browser.
Hiện tại trang web đang trong quá hình chuyển đổi và tái cấu trúc lại chuyên mục nên có thể một vài chức năng chưa hoàn thiện, một số bài viết và chuyên mục sẽ thay đổi. Nếu sự thay đổi này làm bạn phiền lòng, mong bạn thông cảm. Chúng tôi luôn hoan nghênh mọi ý kiến đóng góp để chúng tôi hoàn thiện và phát triển. Cảm ơn
Sinh ngày 30/4/1982 tại bang New Jersey, Mỹ, cô gái nhỏ tên Kirsten Caroline Dunst bắt đầu nghiệp diễn khi mới 3 tuổi trong các đoạn phim quảng cáo trên truyền hình.
Bố Kirsten là người gốc Đức làm việc trong ngành y tế và mẹ cô đến từ Thụy Điển, sở hữu một phòng trưng bày nghệ thuật sau một thời gian làm tiếp viên hàng không. Cô có một em trai sinh năm 1986. Năm 1995, ông bà Dunst ly hôn và năm 1989, Kirsten cùng em trai theo mẹ tới định cư tại Los Angeles.
Tác phẩm điện ảnh đầu tiên của Kirsten là vai diễn nhỏ trong bộ phim New York Stories của đạo diễn Woody Allen năm 1989, ngay sau khi gia đình của cô chuyển tới nơi ở mới. Diễn xuất của Kirsten thực sự gây được tiếng vang khi cô nhận lời tham gia bộ phim kinh dị Interview with the Vampire: The Vampire Chronicles năm 1994, bên cạnh hai tên tuổi lớn của điện ảnh Mỹ là Brad Pitt và Tom Cruise. Tài năng của cô diễn viên trẻ đã được ghi nhận khi có tên trong danh sách đề cử Quả Cầu Vàng và liên tiếp nhận được các danh hiệu như Tài năng mới xuất sắc của giải MTV Movie và Nữ diễn viên xuất sắc tại giải YoungStar năm 1995. Cũng trong năm đó, Kirsten Dunst còn vinh dự được tạp chí People đưa vào danh sách 50 người phụ nữ đẹp nhất thế giới. Trong vài năm tiếp theo, cô góp mặt trong một số những bộ phim nổi tiếng như Little Women bên cạnh Winona Ryder, Jumanji với Robin Williams và Small Soldiers.
Năm 2000 là một năm đáng ghi nhớ với Kirsten Dunst khi cô được nhận vai Lux Lisbon trong bộ phim tâm lý The Virgin Suicides của nữ đạo diễn Sofia Coppola. Cô tiếp tục được mời tham gia phim hài Bring It On và vào tháng 6 cùng năm, cô nhận bằng tốt nghiệp trường trung học Notre Dame tại Los Angeles. Hai năm sau, Kirsten có được vai nữ chính đầu tiên tại kinh đô điện ảnh Hollywood. Siêu phẩm Spider-Man được phát hành vào tháng 5/2002 và xuất sắc giành ngôi quán quân của bạng xếp hạng doanh thu. Bộ phim đã đưa tên tuổi của Kirsten lên một vị trí mới trong giới nghệ sĩ nổi tiếng.
Trong cuộc sống tình cảm, cô cũng được giới báo chí “chăm sóc” kỹ càng khi cặp kè với chàng cao bồi Jake. Kể cả sau khi hai người chia tay, ngôi sao của Người nhện vẫn tiếp tục thổ lộ những tình cảm gắn bó với cố nhân và mong được chung sống với anh. Đặc biệt, trong thời gian họ còn sánh đôi, Kirsten còn bị báo giới “tố” là có quan hệ trên mức bạn bè với Orlando Bloom khi hai người cùng đóng chung trong bộ phim tâm lý Elizabethtown.
Ngoài sự nghiệp diễn viên, Kirsten Dunst còn cùng mẹ gây dựng nên một hãng sản xuất phim cho riêng mình với tên gọi Wooden Spoon Productions. Hiện cô diễn viên 24 tuổi sống tại Toluca Lake bang California cùng mẹ, em trai, chú chó Beauty và 3 con mèo Felix, Zorro và Cat.
Cách đây hơn 30 năm, những vở hài kịch do một thiếu niên mới 15 tuổi viết và dàn dựng đã được công diễn khắp thành phố New York. Chưa đầy một thập kỷ sau, tên tuổi của cậu được cả thế giới biết đến chỉ sau đúng một bộ phim.
Mặc dù đã vươn tới hàng siêu sao từ những năm đầu thập niên 80, cho tới nay Murphy vẫn có tới hàng chục triệu người hâm mộ trên khắp thế giới. Giống như nhiều ngôi sao khác ở Hollywood, anh đã trải qua cả thời kỳ vinh quang và giai đoạn tụt dốc trong sự nghiệp. Người ta có thể tranh cãi về một số bộ phim Murphy đóng hay chỉ trích một số việc mà anh đã gây ra trong cuộc sống riêng tư, nhưng không ai có thể phủ nhận rằng, anh là một trong những diễn viên hài tài năng nhất tại kinh đô điện ảnh thế giới.
Eddie Murphy chào đời tại quận Brooklyn, thành phố New York vào ngày 3/4/1961. Người cha qua đời khi anh còn nhỏ, để lại cho mẹ anh hai đứa con trai. Mẹ anh, lúc đó làm việc trong một công ty điện thoại, tái giá với Vernon Lynch, người cũng đã trải qua một đời vợ và có một đứa con trai riêng.
Ngay từ nhỏ Murphy đã bộc lộ sự thích thú đối với những nhân vật hài mà cậu nhìn thấy trong các bộ phim truyền hình và cũng bộc lộ năng khiếu diễn hài. Sự thông mình và khả năng gây hài của Murphy giúp cậu nổi bật hơn hẳn bạn bè cùng trang lứa ở trường. Từ khi bước sang tuổi 15, Murphy đã tự tay viết, dàn dựng nhiều vở hài kịch tại các quán rượu, câu lạc bộ thanh niên và trường Roosevelt - nơi cậu học. Ngay cả Comic Strip, nhà hát lớn ở quận Manhattan cũng cho trình chiếu những vở kịch do Murphy viết và đóng vai. Quá ấn tượng với tài năng diễn hài của Murphy, hai ông chủ của Comic Strip quyết định giúp đỡ cậu trở thành diễn viên chuyên nghiệp.
Nhờ có sự giúp đỡ của họ, Murphy được mời tham gia Saturday Night Live, chương trình truyền hình dành cho các diễn viên có triển vọng. Anh thường đóng vai những nhân vật người Mỹ gốc Phi. Có thể nói Saturday Night Live chính là bệ phóng đầu tiên đưa tên tuổi Murphy bay đi khắp nước Mỹ.
Năm 1982, Murphy được mời tham gia bộ phim đầu tiên trong sự nghiêp: 48 Hrs. Diễn xuất của anh trong vai một tên trộm đường phố tinh quái nhưng hết lòng giúp đỡ ông cảnh sát ngốc nghếch nhưng khó tính đã nhận được sự khen ngợi của giới phê bình và khán giả.
Cái tên Eddie Murphy bắt đầu được thế giới biết đến khi anh đóng một thanh tra truy tìm kẻ giết bạn trong Beverly Hills Cop (1984), một trong những bộ phim có doanh thu cao nhất trên lãnh thổ Mỹ trong lịch sử phim màn ảnh rộng. Nhờ vai diễn này, Murphy đã được đề cử giải Quả cầu vàng.
Những năm cuối thập niên 80 là quãng thời gian đáng quên nhất đối với Murphy. Đầu tiên là làn sóng chỉ trích của giới phê bình đối với Coming To America (1988), sau đó là thất bại của Harlem Nights (1989) – bộ phim mà Murphy tham gia với vai trò đạo diễn. Những vai diễn xuất sắc trong Another 48 Hrs. (1990) Boomerang (1992) không đủ ấn tượng để cải thiện tình hình. Thời kỳ u ám đó kéo dài tới 8 năm, để rồi chấm dứt khi Murphy, trong vai trò đạo diễn, quyết định làm lại bộ phim The Nutty Professor (1996). Sau khi bộ phim được công chiếu, tên tuổi của Murphy lại xuất hiện liên tục trên các báo vối những lời lẽ tốt đẹp nhất.
Kể từ năm 1997 cho tới nay, Murphy chủ yếu xuất hiện trong các bộ phim hài mang tính gia đình. Anh cũng tham gia lồng tiếng cho một số phim hoạt hình, chẳng hạn như Shrek - một trong những bộ phim có doanh thu cao ngất ngưởng ở Bắc Mỹ. Mặc dù chỉ được lồng tiếng cho một vai phụ trong Shrek, nhưng người xem vẫn cảm nhận được chất hài hước, sự tinh tế trong cách thể hiện tâm trạng nhân vật của chàng tài tử da màu.
Hiểu được quy luật khắc nghiệt của nghiệp diễn, giờ đây Murphy hoàn toàn bằng lòng với những gì anh đã có. Bất chấp những lời đồn thổi về cuộc sống gia đình, Murphy hiện sống rất hạnh phúc với vợ và các con. Trong một buổi trả lời phỏng vấn trên truyền hình gần đây, anh đã khẳng định rằng nếu sự nghiệp của anh có kết thúc ngay trong sáng hôm sau thì anh cũng chẳng có gì phải hối tiếc, đơn giản vì anh vẫn còn gia đình.
Bắt đầu bộc lộ tài năng diễn xuất từ khi 8 tuổi, nhưng chỉ vì đam mê các chuyến bay vào không gian mà Morgan Freeman trở thành thợ máy của không quân Mỹ chứ không vào đại học. Sau đó, ông còn làm nhân viên đánh máy, vũ công, ca sĩ, diễn viên nhạc kịch trước khi trở thành ngôi sao màn ảnh rộng.
Morgan Freeman chào dời ngày 01/06/1937 tại Clarkdale, bang Mississippi. Cha là luật sư, còn mẹ làm công nhân vệ sinh. Mãi tới năm 2005, ông mới thừa nhận Mississippi là nơi chôn rau cắt rốn. Morgan có ba anh chị và ông là con út. Gia đình ông chuyển chỗ ở liên tục khi ông còn nhỏ và cuối cùng định cư ở Chicago, bang Illinois. Morgan bắt đầu bước vào nghiệp diễn từ năm 8 tuổi khi ông đóng vai chính trong một vở kịch ở trường. Ở tuổi 12, ông giành giải nhất trong một cuộc thi kịch của bang Illinois. Năm 1955, ông từ chối một suất học bổng của Đại học Jackson State để vào làm thợ máy cho không quân Mỹ để được tìm hiểu những con tàu vũ trụ.
Đầu những năm 60, Morgan thôi việc ở không quân Mỹ và trở thành nhân viên đánh máy tại Cao đẳng Cộng đồng Los Angeles. Sau đó ông chuyển tới thành phố New York để làm vũ công, rồi San Francisco – nơi ông gia nhập ban nhạc Opera Ring. Năm 1965, ông được mời tham gia một vai phụ trong The Royal Hunt of the Sun và The Pawnbroke. Ba năm sau đó, ông tiếp tục xuất hiện trong vài bộ phim nữa.
Mặc dù Who Says I Can't Ride a Rainbow (1971) là bộ phim mà Morgan bắt đầu khẳng định tài năng, nhưng các vai diễn trong vở opera Another World (1972) và chương trình truyền hình PBS của công ty The Electric mới là bệ phóng đưa cái tên Morgan Freeman trở thành tâm điểm của các phương tiện truyền thông Mỹ.
Từ những năm giữa thập niên 80, người ta thấy Morgan xuất hiện trong nhiều phim màn ảnh rộng. Mặc dù chỉ đóng các vai phụ, song lối diễn xuất thông minh, vẻ điềm đạm của ông đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng khán giả. Thành công với các vai nhỏ, ông bắt đầu chinh phục các vai lớn hơn. Năm 1994, sau khi tham gia The Shawshank Redemption, Morgan xuất hiện trong Robin Hood: Prince of Thieves, Se7en, Deep Impact – những bộ phim được đánh giá là hay nhất trong thập niên 90.
Morgan sở hữu một giọng nói trầm ấm không thể lẫn vào đâu được. Chính vì điểm này mà ông thường được mời đọc phim tài liệu. Năm 2005, ông đã lồng tiếng cho hai bộ phim thành công nhất trong năm: War of the Worlds và bộ phim tài liệu March of the Penguins (đoạt giải Oscar). Sau ba lần được đề cử (vào các năm 1987, 1989, 1994), ông đã giành giải Oscar dành cho Diễn viên phụ xuất sắc vào năm 2004 với bộ phim Million Dollar Baby.
Năm 1997, Morgan thành lập công ty sản xuất phim mang tên Revelations Entertainment. Ông cũng là người dẫn chương trình Our Space của công ty Clickstar - nơi ông có thể chia sẻ niềm đam mê khoa học, đặc biệt là thiên văn học, với độc giả trên khắp nước Mỹ.
Ngày 28/10/2006, Morgan đã được nhận giải thưởng thành tựu trọn đời cho những nỗ lực không mệt mỏi của ông trên màn ảnh rộng của bang Mississippi. Trước đó, vào ngày 13/05/2006, ông được khoa Nghệ thuật thuộc Đại học Delta State trao tặng học vị tiến sĩ danh dự.
Về cuộc sống riêng tư, Morgan đã trải qua hai đời vợ. Ông sống với người vợ đầu, Jeanette Adair Bradshaw, từ năm 1967 tới 1979 và có hai con trai với bà. Năm 1984, ông kết hôn lần thứ hai với Myrna Colley-Lee. Bà đã sinh cho ông một con gái.
Người hùng của James Bond thành công trên con đường sự nghiệp nhưng lại gặp không ít bất hạnh trong đời tư. Tuổi thơ của Pierce lang thang hết nhà này đến nhà khác và gần như chưa bao giờ gần gũi cha.
Pierce Brosnan sinh ngày 16/5/1953 tại hạt Louth, Ireland sau này chuyển về Anh. Bố bỏ nhà đi từ khi anh còn nhỏ, mãi về sau ông mới trở về đoàn tụ cùng gia đình nhưng hai cha con chưa bao giờ có tình cảm gần gũi. Tuổi thơ của Pierce lang thang hết nhà này đến nhà khác, đầu tiên anh được mẹ đưa về ở nhà ông bà ngoại. Ông bà mất, anh sang ở với chú rồi cuối cùng về sống với mẹ tại Putney, London
16 tuổi, Pierce bỏ học chuyển sang bán tranh ảnh và tham gia diễn kịch trong nhà hát những lúc rảnh rỗi. Nghệ thuật điện ảnh như bỏ bùa mê, năm 1973, anh theo học tại Drama Centre tại London trong 3 năm. Sau khi tốt nghiệp, Pierce theo diễn kịch tại London và trong thời gian ấy, anh gặp Cassandra Harris, người từng qua một lần đò. Họ kết hôn năm 1980 và có một cậu con trai tên là Sean 4 năm sau đó. Năm 1991, ngay trước ngày kỷ niệm lễ cưới lần thứ 11, Cassandra qua đời vì ung thư.
Bộ phim đầu tiên đánh dấu sự xuất hiện của Pierce Brosnan là The Long Good Friday. Bộ phim khởi đầu cho một sự nghiệp rực rỡ của ngôi sao này với các vai diễn để đời trong Golden Eyes, The World Is Not Enough, Tomorrow Never Dies, Die Another Day…, và đặc biệt hơn cả là James Bond, bộ phim đã đưa tên tuổi anh vào huyền thoại. Không chỉ đóng phim, anh còn tham gia sản xuất phim và sở hữu một công ty có tên Irish Dream Time.
Trong nghiệp diễn của mình, tính đến nay, Pierce Brosnan đã đóng tất cả 50 phim và có những đóng góp đáng kể cho nền điện ảnh Anh. Học viện kỹ thuật Dublin đã trao học vị Tiến sĩ cho anh vì tài năng và những đóng góp trong nhiều lĩnh vực. Anh còn được Nữ hoàng Anh Elizabeth II trao tặng Huân chương Đế chế Anh vì những đóng góp cho sân khấu và điện ảnh Anh. Nhìn lại con đường chinh phục nghệ thuật thứ bảy của mình, người dẫn dắt Pierce những bước đi đầu tiên là Bill Carmichael, bố dượng của anh. Ông là người dẫn Pierce đi xem bộ phim Jame Bond năm 1964 với tên gọi ban đầu là Goldfinger – bộ phim đã có ảnh hưởng lớn đến sự lựa chọn của anh sau này.
Mặc dù thành công rực rỡ trên con đường sự nghiệp, nhưng những bất hạnh trong đời tư vẫn chưa buông tha anh. Hiện Pierce đang sống chung với người vợ mới là một phát thanh viên truyền hình tên là Keely Shaye Smith và có hai người con chung. Họ đau đầu vì những đứa con riêng của Pierce và của người vợ trước với những vụ scandal trộm cắp và nghiện ngập. Kể cả Sean, cậu con ra đời từ tình yêu của Pierce và Cassandra cũng nổi tiếng là một tay chơi bị đuổi khỏi trường nội trú Millfield vì tội hành hung bạn học.
Từng mơ ước làm một đầu bếp siêu hạng, nhưng sau khi được mẹ cho 100 USD để theo học lớp đào tạo diễn xuất, Tobey đã quyết tâm theo đuổi ngành nghệ thuật thứ bảy đầy chông gai. Nhờ vậy mà giờ đây chúng ta mới có cơ hội chiêm ngưỡng người anh hùng Spider-Man – cứu tinh của thế giới.
Tobey sinh năm 1975, là con của một nữ thư ký mẫn cán và một người cha nấu nướng khéo léo. Hâm mộ tài nghệ của cha, anh mong một ngày được vào bếp với vai trò bếp trưởng tài năng. Nhưng cuộc hôn nhân và chia tay chóng vánh trong 2 năm của cha mẹ đã khiến Tobey không có cơ hội lớn lên với ước mơ đó.
Khởi nghiệp với những đoạn phim quảng cáo, dần dần Tobey trưởng thành hơn với việc xuất hiện trước ống kính máy quay và nhận được một số vai diễn nhỏ. Với vai con trai của Kate Capshaw trong Griffin Dunne’s Duke of Groove đã giúp “mở đường” cho một ngôi sao trẻ sắp lên. Phải 2 năm sau Tobey mới có cơ hội khẳng định tài năng của mình với The Ice Storm của đạo diễn Ang Lee dựa theo tiểu thuyết cùng tên của Ricky Moody. Tobey đã rất thành công với hình tượng anh chàng Paul Hood luôn bất mãn với cuộc đời. Đạo diễn Ang nhận xét: “Tobey là một mẫu hình lý tưởng. Đó là một diễn viên tài năng, một tài năng hiếm có!”. Cũng năm đó, sự xuất hiện trong Destructing Harry đã củng cố thêm vị trí của Tobey trên bầu trời điện ảnh.
Năm 1999 đánh dấu bước ngoặt lớn trong sự nghiệp của Tobey với The Cider House Rules của đạo diễn Lasse Hallstrom. Bộ phim được đề cử 7 giải Oscar khiến Lasse rất phấn khích và không tiếc lời khen vai chàng trai trẻ sống trong trại mồ côi do Tobey thủ vai. Ông nhận xét: “Diễn xuất của Tobey thiên về cảm xúc bản năng, khả năng của cậu ấy khiến tôi rất khâm phục”.
Tài năng Tobey Maguire bắt đầu nở rộ. Vai diễn ấn tượng của anh trong Wonder Boys đã khiến đạo diễn Sam Raimi không ngần ngại chọn Tobey vào vai chính trong bộ phim ăn khách Spider-Man. Nhà sản xuất Stan Lee thì cho rằng “… không ai có thể hoàn hảo hơn Tobey. Cậu ta chính là Peter Parker…” còn đạo diễn Sam thì nhận xét: “Tobey có cái gì đó rất bí ẩn và suy tư. Mà đó chính là những nét tạo nên nhân vật Peter Parker”.
Quả thật ngoại hình Tobey không có gì đặc biệt đáng chú ý, trông anh không phải mẫu người hùng mà mọi người thường say mê tôn thờ. Để có được một vóc dáng khỏe mạnh và sự nhanh nhẹn uyển chuyển của Người nhện, Tobey đã phải bỏ ra nửa năm để tập luyện các môn võ thuật, thể dục, cử tạ với cường độ cao. Ít ai biết rằng anh chưa bao giờ sờ đến những tập truyện Spider-Man, anh tham gia phim này vì thấy kịch bản rất hấp dẫn.
Sau sự thành công vang dội của loạt phim Spider-Man, Tobey được xếp vào hàng sao của Hollywood nhưng anh vẫn không mất đi nét giản dị hơi rụt rè của mình. Không rượu không thuốc lá, Tobey có cuộc sống lành mạnh với thói quen ăn chay, niềm đam mê bóng rổ, sở thích tập yoga hàng ngày và thỉnh thoảng lại vào bếp chế biến những món ăn yêu thích.
Dẫu vậy người ta vẫn không "tha" cho Tobey và tung tin đồn rằng hai diễn viên chính trong Spider-Man hẹn hò trong khi quay phim nhưng cả Tobey và cô bạn diễn duyên dáng Kirsteen Dunst đều phủ nhận tin này. Thậm chí có tờ báo “lá cải” còn tung tin Nicole Kidman bị “vướng” vào “lưới tình” của Người nhện Tobey. Trong một cuộc trả lời phỏng vấn, người đẹp Nicole đã cười phá lên vì không hiểu nổi vì sao người ta lại có thể nghĩ ra những tin “vịt” đến vậy.
Thực ra, Tobey đã có bạn gái được 2 năm. Đó là Jennifer Meyer năm nay 28 tuổi, con gái rượu của Ron Meyer giám đốc Universal Studios. Anh định công bố thông tin này với báo giới sau khi chuyện tình cảm của anh bạn thân Leonardo DiCaprio bị cánh săn tin “phanh phui”. Người hùng tàu Titanic còn tiết lộ Tobey rất yêu Jennifer và thực sự muốn chuyện tình này sẽ kết thúc bằng một cuộc hôn nhân nghiêm túc ngay năm tới.
Xinh đẹp và xuất thân từ một gia đình nghệ thuật rất hạnh phúc, có lẽ đó chính là điều tạo nên một Gwyneth Paltrow dịu dàng và được mọi người yêu quý. Điều đáng nể phục hơn là cô dám bứt ra khỏi cái bóng quá lớn của cha mẹ để tự khẳng định mình trên con đường nghệ thuật.
Gwyneth Paltrow sinh ngày 27/9/1972 tại kinh đô điện ảnh Hollywood, mẹ cô là diễn viên nổi tiếng Blythe Danner, còn cha cô là nhà sản xuất phim chương trình truyền hình tên tuổi Bruce Paltrow. Mới lên 5 tuổi cô đã đặt bước chân nhỏ bé đầu tiên của mình lên sân khấu.
Lúc nhỏ Paltrow được cha mẹ gửi theo học tại trường dòng Spence. Cô thể hiện khả năng diễn kịch và một giọng hát trời phú. Lớn lên, theo định hướng nghề nghiệp của cha mẹ, Gwyneth ghi tên theo học tại Đại học tổng hợp California chuyên ngành Lịch sử. Ông bà Paltrow không muốn con gái theo đuổi con đường nghệ thuật mà muốn cô trở thành một nhà nhân chủng học. Mặc dù vậy, niềm đam mê điện ảnh đã khiến cô quyết định bỏ dở sự nghiệp học hành năm 1991. Cô muốn tự khẳng định chính mình và thoát khỏi cái bóng tên tuổi của cha mẹ.
Việc lọt vào mắt xanh của vị đạo diễn lừng danh Steven Spielberg cho vai diễn trong Hook mới thực sự khẳng định tên tuổi Gwyneth trong làng Hollywood và là bước đệm cho hàng loạt các bộ phim cô tham gia diễn xuất sau này. Một trong những thành công đáng chú ý của Gwyneth là vai diễn trong phim A Perfect Murder bên cạnh gương mặt nam diễn viên điển trai Brad Pitt. Năm 1999 đánh dấu sự kiện quan trọng trong sự nghiệp điện ảnh của Gwyneth khi cô vinh dự được trao giải Oscar dành cho Nữ diễn viên chính xuất sắc, giải Quả cầu vàng với Shakespeare in Love – bộ phim được coi là thành công nhất từ trước tới nay của Gwyneth Paltrow. Nhưng cũng năm đó, cô mất đi người cha yêu quý sau một căn bệnh nặng. Đó là thời gian thực sự khủng hoảng với cô gái vốn rất coi trọng tình cảm gia đình này.
Xinh đẹp, dịu dàng, không mắc bệnh “ông sao”, Gwyneth luôn được đồng nghiệp dành cho tình cảm yêu mến. Năm 1996 cô đính hôn với ngôi sao điện ảnh Brad Pitt, nhưng cuộc tình của họ không thành. Hai năm sau, dư luận xôn xao vì món quà tặng là một chiếc đồng hồ trị giá 21.000 USD cô dành cho diễn viên Ben Affleck nhân ngày sinh nhật của anh. Cuối cùng thì cô kết hôn với Chris Martin, giọng ca chính trong ban nhạc Coldplay, kém cô đến 5 tuổi. Hai người gặp nhau vào tháng 10/2002 trong một buổi hòa nhạc của Martin. Họ có với nhau một cô công chúa nhỏ vào tháng 5/2004. Gia đình cô đã mua lại căn hộ của Kate Winslet ở Bắc London. Một điều đặc biệt là cô không thuê người giúp việc để chăm sóc con gái như bao người khác, có lẽ bởi cô muốn tự tay chăm sóc cho đứa con thân yêu của mình, theo cách người mẹ yêu quý của cô từng làm. Hiện tại, cô đang mang thai đứa con thứ hai với Chris Martin.
Tham gia hơn 100 vở kịch, phim và chương trình truyền hình, nhận hàng chục giải thưởng và nằm trong 25 diễn viên xuất sắc mọi thời đại của tạp chí Entertainment Weekly, Robin Williams là một trong những ngôi sao tài năng nhất ở Hollywood. Ngay cả huyền thoại Al Pacino cũng coi ông là thần tượng.
Có năng khiếu diễn xuất bẩm sinh nhưng Williams không phải là con nhà nòi. Ông sinh ngày 21/07/1951 tại thành phố Chicago, bang Illinois, Mỹ. Bố ông là quản lý cao cấp của hãng Ford tại khu vực miền tây nước Mỹ. Cha mẹ ông đều có con riêng trước khi kết hôn. Có hai người anh nhưng Williams tỏ ra nhút nhát và sống khép kín khi còn bé. Thú vui duy nhất của ông trong thời gian rỗi là xem kịch.
Khi Williams còn nhỏ, gia đình ông liên tục thay đổi chỗ ở theo yêu cầu công việc của người cha. Chính vì thế mà cậu bé Williams vốn đã nhát lại càng trở nên khép kín hơn mỗi khi chuyển tới một trường mới. Ở trường, Williams thường bị bạn bè xa lánh do ông có thân hình béo lùn. Chẳng mấy khi được tham gia vào các trò chơi của bạn bè, cậu học sinh Williams tiêu khiển bằng cách bắt chước giọng nói và dáng điệu của người khác.
Khi cha Williams nghỉ hưu vào năm 1967, gia đình ông chuyển tới định cư ở hạt Marin, California. Lúc đó Williams đã là học sinh phổ thông trung học. Để “chữa trị” bệnh nhát, cậu quyết định tham gia đội kịch của trường. Đó là một quyết định đúng đắn, bởi sau khi tốt nghiệp, Williams đã trở thành một thanh niên rất tự tin. Ông đăng ký học khoa học chính trị tại trường Đại học Claremont Men's, nhưng rồi nhanh chóng bỏ học sau khi phát hiện ra niềm đam mê thực sự: diễn xuất. Nơi mà ông hướng tới là trường nghệ thuật Juilliard ở thành phố New York, một trong những trung tâm đào tạo tài năng trẻ ở các thể loại âm nhạc, khiêu vũ và kịch nghệ.
Mỗi năm, có khoảng 2.000 thí sinh đua tài để giành 20 suất học tại trường nghệ thuật Juilliard. Sau đó, chỉ hai hoặc ba thí sinh trong số này được tuyển vào học chương trình cao cấp. Robin Williams và Christopher Reeve (diễn viên đóng vai siêu nhân từ năm 1978 tới 1987) là hai sinh viên duy nhất được tuyển vào chương trình cao cấp trong năm 1973. Hai người đã cùng nhau trải qua nhiều bộ môn. Trong lớp học thổ ngữ, trong khi Williams tỏ ra có năng khiếu bắt chước các ngôn ngữ địa phương thì Reeve phải trầy trật mới vượt qua được khóa học. Khả năng đóng kịch câm của Williams không gây ấn tượng với tất cả giáo viên, nhưng khả năng đóng phim của ông nhận được sự khen ngợi của họ. Do học cùng với nhau trong suốt 3 năm, Williams và Reeve trở thành đôi bạn thân. Sau khi Reeve phải nằm liệt một chỗ do bị gẫy xương cột sống sau một tai nạn ngã ngựa, Williams là người thường xuyên lui tới nhà riêng để mang đến tiếng cười cho “siêu nhân".
Năm 1976, Williams tốt nghiệp trường Juilliard. Ông lần lượt xuất hiện trong các chương trình ăn khách nhất của các hãng truyền thông nổi tiếng. Chẳng hạn như "Laugh-In" (NBC, 1977-78), "Mork and Mindy" (ABC, 1978-82). Trong thời gian đó, ông vẫn thường xuyên có mặt ở những câu lạc bộ hài kịch. Khi đã tạo được tiếng tăm trong lĩnh vực hài kịch, Williams nhảy sang thế giới phim màn ảnh rộng. Ông bắt đầu bằng các vai hài.
Sự nghiệp diễn xuất của Williams bắt đầu thăng hoa từ cuối những năm 80 với hàng loạt bộ phim thuộc hàng kinh điển. Năm 1987, ông được đề cử giải Oscar sau khi tham gia Good Morning, Vietnam. Hai năm sau, ông được đề cử giải Oscar cho vai thày giáo tiếng Anh trong phim Dead Poet Society. Sau đó, ông lại được đề cử giải Oscar sau khi hóa thân thành một người đàn ông vô gia cư trong The Fisher King (1991). Trong suốt những năm 90, Williams xuất hiện trên cả sân khấu hài và màn ảnh rộng. Năm 1997, ông giành giải Oscar dành cho Diễn viên phụ xuất sắc với phim Good Will Hunting.
Thành tựu của Williams trong lĩnh vực kịch cũng rất đáng nói. Năm 2003, ông nhận giải thưởng Grammy dành cho album kịch nói xuất sắc. Một năm sau, ông được trao giải thưởng Cecille B. DeMille.
Ở Hollywood, Williams được coi là bậc thày trong lĩnh vực nhại giọng và thể hiện tình cảm qua giọng nói. Ông đủ khả năng lồng tiếng đồng thời cho nhiều nhân vật trong một bộ phim hoạt hình hoặc giả giọng nhiều nhân vật trong một vở kịch. Những khi làm như vậy, Williams có thể "thoát" ra khỏi một nhân vật và hóa thân thành nhân vật khác rất nhanh. Chính nhờ khả năng đó mà ông được giới phê bình tôn vinh là một trong những diễn viên hài kịch ứng khẩu vĩ đại nhất mọi thời đại.
Thế nhưng ít ai biết rằng ông lại tỏ ra khá "chảnh" trong việc cho mượn tiếng. Trong suốt sự nghiệp, ông mới chỉ lồng tiếng cho 5 bộ phim hoạt hình, trong đó bộ phim mới nhất là Happy Feet vừa mới công chiếu tháng trước.
Williams rất thích đua xe đạp và ông thường tập luyện cùng tay đua huyền thoại Lance Armstrong. Al Pacino, một trong những ngôi sao vĩ đại nhất trong lịch sử Hollywood, cũng thừa nhận rằng Robin Williams là thần tượng của ông.
Năm 1997, ông được xếp ở vị trí 63 trong danh sách 100 ngôi sao điện ảnh xuất sắc mọi thời đại do tạp chí Empire của Anh bình chọn. Cũng trong năm đó, ông nhận danh hiệu "Người đàn ông hài hước nhất" của tạp chí Entertainment Weekly. Một năm sau, độc giả của Entertainment Weekly đưa ông vào danh sách 25 diễn viên xuất sắc mọi thời đại. Năm 2003, kênh truyền hình Star TV xếp ông ở vị trí thứ 7 trong số 10 ngôi sao có ảnh hưởng lớn nhất trong thập kỷ 90. Sự xuất hiện của ông đã giúp cho hai bộ phim Jumanji (1995) và The Bird Cage (1996) đạt doanh thu 100 triệu USD chỉ trong đúng một tuần. Đây là một kỷ lục không dễ gì vượt qua.
Thế nhưng, cũng giống như nhiều ngôi sao khác, Williams cũng nghiện một thứ: rượu. Ngay từ những năm 80, khi đang ở thời kỳ hoàng kim trong sự nghiệp, ông đã gắn bó với ma men đến mức nghiện. Cách đây hơn 20 năm, ông từng cai rượu thành công, nhưng rồi lại phải vào bệnh việc để cai nghiện một lần nữa vào tháng 8/2006. Bộ phim đầu tiên mà ông tham gia sau khi xuất viện là Man Of The Year - đã bắt đầu ra mắt từ ngày 13/10.
Được sinh ra và lớn lên ở quê hương của những chàng cao bồi miền Tây, vận động viên điền kinh Luke Wilson chẳng bao giờ nghĩ tới nghề diễn viên khi còn nhỏ. Nhưng giờ đây, với ánh mắt hóm hỉnh bên cạnh vẻ mặt rất trang nghiêm, anh luôn là sự lựa chọn hàng đầu cho các bộ phim hài ở Hollywood.
Sinh ra tại thành phố Dallas, bang Texas, Mỹ vào năm 1971, Luke Cunningham Wilson là con út trong một gia đình có 3 con trai. Anh cả Owen Wilson và anh thứ Andrew Wilson cũng là hai diễn viên nổi tiếng tại Hollywood. Cha anh là một chuyên gia trong ngành quảng cáo, còn mẹ là một nhiếp ảnh gia. Môi trường nghệ thuật trong cuộc sống gia đình khiến cả 3 anh em nhà Wilson có thiên hướng nghệ thuật từ thuở bé. Cậu em út Luke là một thành viên xuất sắc trong đội điền kinh của trường St. Mark, thành phố Dallas. Tính tới nay, anh vẫn là một trong số 5 người đạt thành tích cao nhất trong lịch sử điền kinh của trường ở cự ly 400 m và 800 m.
Tốt nghiệp phổ thông, Luke vào học tại cao đẳng Occidental. Ban đầu, với niềm đam mê thể thao và thân hình cao lớn, Luke chỉ quan tâm tới khoa Thể dục khi mới vào trường. Tuy nhiên, sau khi học thử vài buổi trong lớp kịch nghệ, anh nhận thấy mình đã tìm thấy niềm đam mê lớn hơn và quyết định từ bỏ khoa Thể dục.
May mắn bắt đầu mỉm cười với Luke vào năm 1993, khi anh đang là sinh viên. Khi đó, ba anh em nhà Wilson hợp tác với đạo diễn Wes Anderson để dựng Bottle Rocket - một bộ phim có thời lượng đúng ... 13 phút. Andrew và Luke vào vai hai nhân vật chính - những cao bồi miền Tây, còn Owen viết kịch bản và đóng một vai phụ. Khi được chiếu tại Liên hoan phim Sundance, bộ phim đã thu hút sự chú ý của James L. Brooks, một đạo diễn nổi tiếng. Với sự giúp đỡ của Brook, từ một bộ phim ngắn, Bottle Rocket đã trở thành một bộ phim dài và ra mắt khán giả vào năm 1996.
Luke Wilson và nữ diễn viên Jessica Alba.
Ngay sau đó, Luke cùng hai anh thẳng tiến tới Hollywood. Sau khi nhận những vai lớn trong ba bộ phim hài vào năm 1998, anh tiếp tục tham gia ba phim hài trong năm tiếp theo. Hai năm sau đó, chàng diễn viên cao lớn, tóc đen, có ánh mắt và nụ cười hóm hỉnh cũng đóng vai hài trong các phim Charlie's Angels (2000) và Legally Blonde (2001). Legally Blonde đã nhận được giải Quả cầu vàng cho phim hài/nhạc kịch hay nhất.
Mặc dù vậy, Luke vẫn gây ngạc nhiên khi tham gia hai bộ phim kinh dị: Preston Tylk (2000) và Soul Survivors (2001). Sau đó, lại một lần nữa anh cùng với anh trai Owen Wilson hợp tác với đạo diễn Wes Anderson cho ra đời The Royal Tenenbaums, bộ phim mà Luke cho là đáng nhớ nhất trong cuộc đời anh, vào năm 2001. Tới năm 2004, người ta thấy anh vừa đóng phim, vừa làm đạo diễn và viết kịch bản cho The Wendell Baker Story cùng với hai người anh.
Luke Wilson và anh trai Owen Wilson
Kể từ đó anh vừa làm nghề đạo diễn vừa là diễn viên. Luke luôn là cái tên được các nhà làm phim nghĩ tới khi họ có ý định sản xuất phim hài. Anh từng tham gia đóng cùng với rất nhiều ngôi sao hàng đầu Holywood như Gene Hackman, Gwyneth Paltrow, Vince Vaugh, Will Ferrell, Kate Hudson, Penelope Cruz, Jessica Lange.
Một điều trớ trêu là cả Luke và Owen đều mê minh tinh sắp bỏ chồng Kate Hudson. Chuyện tình giữa Owen với Kate được tung lên các mặt báo sau khi Kate tuyên bố ly thân với chồng. Người ta đồn rằng hai người phải lòng nhau trong thời gian cùng đóng phim You, me and Dupree, và Owen chính là nguyên nhân khiến Kate bỏ chồng.
Luke Wilson và Kate Hudson
Sau đó, đôi tình nhân này bị phát hiện đang cặp kè với nhau ở Los Angeles và Hawaii. Giờ đây, dù phải chia tay vì những dự án riêng: Kate đang đóng Fool's Gold, còn Owen theo đoàn làm phim Drillbit Taylor, họ vẫn thường xuyên liên lạc với nhau.
Tuy nhiên, Owen đã quên mất, hoặc có thể không biết, rằng cậu em Luke của anh cũng mê Kate. Chàng trai có ánh mắt hóm hỉnh từng phải lòng giai nhân có nụ cười quyến rũ nhất nước Mỹ khi cùng cô đóng phim Alex & Emma năm 2003.
“Nếu tôi ra ngoài ăn một mình, sẽ chẳng có ai làm phiền tôi cả. Nhưng nếu tôi đi cùng John Travolta chẳng hạn, tôi không thể ăn một cách yên ổn. Đấy, tôi có phải là sao đâu”, diễn viên nổi tiếng Dustin Hoffman phân trần. Ông dường như không nhận ra rằng, mọi người ngưỡng mộ và kính trọng ông đến nỗi không ai đủ can đảm để làm phiền ông.
Dustin Hoffman sinh ra tại Los Angeles ngày 8/8/1937. Ông từng theo học diễn xuất tại Pasadena Playhouse. Dustin tâm sự: “Sự thật là tôi không hề muốn trở thành một diễn viên, tôi thích là nhạc công dương cầm hơn. Hồi học ở trường Santa Monica, tôi học không được tốt lắm. Tôi phải cần đến 3 thư giới thiệu và một ai đó khích lệ bằng cách nói với tôi rằng, chẳng ai bị trượt trong lớp học diễn xuất cả. Tôi bắt đầu như thế đấy”.
Sau đó, Dustin Hoffman đến New York theo đuổi sự nghiệp học hành. Ông kể: “Đó là năm 1958, khi ấy tôi mới 21 tuổi”. Công việc đầu tiên của ông là một show diễn trên sân khấu Broadway mang tên A Cook for Mr General (1961), đó không phải là bàn đạp cho sự nghiệp của ông sau này. Dustin tiếp: “Cho tới năm tôi 30 tuổi, tôi chưa bao giờ kiếm nổi 3.000 USD/tháng. Năm 1958, tôi còn được hưởng trợ cấp thất nghiệp cơ đấy, mức cao nhất hồi đó là 50 USD/tuần. Như thế là tôi làm việc trong 20 tuần và nhận trợ cấp thất nghiệp cho hơn 26 tuần”.
Thành công đến với Dustin Hoffman khi ông nhận được vai diễn một chàng sinh viên bị mẹ của bạn gái quyến rũ trong bộ phim The Graduate (1967). Vai diễn này mang lại cho ông đề cử Oscar đầu tiên trong đời. Hai năm sau, ông nhận được đề cử tiếp theo cho nhân vật Ratso Rizzo trong Midnight Cowboy (1969), bộ phim ông đóng chung với Jon Voight, bố của Angelina Jolie. Vai diễn ông bố trong Kramer vs Kramer (1979) là thành công thứ tư trong đời ông.
Ngày 6/10/1980, Dustin ly dị người vợ là diễn viên ballet Anne Byrne. Chỉ 15 ngày sau khi mọi thủ tục ly hôn hoàn tất, ông kết hôn với Lisa Gottsegen, người vợ sống với ông cho tới bây giờ. “Tôi có tất cả 6 người con, hai đứa út vẫn sống cùng tôi”, ông nói với vẻ tự hào, “Max đã đi học đại học, còn Allie vừa mới học xong phổ thông. Nhưng cả hai đứa đều không thích nghề diễn. Tôi chỉ dám chắc là cậu cả Jake sẽ tiếp tục nghề đạo diễn mà thôi”.
Ông bố là diễn viên kỳ cựu không biết liệu sau này các con ông có hối tiếc vì đã không nối nghiệp bố hay không, nhưng chính trong đời ông cũng từng phải tiếc nuối. Ông đã bỏ một số bộ phim mà sau này đã đi vào lịch sử điện ảnh. Một trong những vai diễn đó lọt vào tay của Robert De Niro, đó là nhân vật Travis Brickle trong Taxi Driver, còn một vai khác sau này do Al Pacino đảm nhiệm là Bố già Michael Corleone trong siêu phẩm The Godfather. Ông tâm sự: “Khi nhìn lại, tôi tiếc vô cùng những bộ phim lẽ ra tôi nên tham gia, và phải mất một thời gian dài tôi mới nhận ra rằng, có những kịch bản không hề quan trọng với mình”. Vì bộ phim Tootsie (1982) mà ông từ bỏ Gandhi bởi cả hai dự án đến với ông cùng một thời điểm. Khi Tootsie mang lại cho ông đề cử Oscar thứ năm, Dustin mới thở phào vì biết mình đã lựa chọn đúng. Nhưng giải Oscar lọt về tay Ben Kingsley với vai diễn lẽ ra là của ông trong Gandhi thì một lần nữa, Dustin lại hụt hẫng. Mãi đến khi nhận được giải Nam diễn viên xuất sắc với bộ phim Rain Man đóng chung với Tom Cruise, Dustin mới tạm hài lòng về mình.
Trò chuyện với Dustin Hoffman luôn là một việc thú vị, bởi óc hài hước là đặc điểm nổi bật của diễn viên kỳ cựu này.
- Ông đã bao giờ phải dùng đến liệu pháp tâm lý?
- Có chứ, tôi vẫn đang phải dùng đấy thôi. Tôi không nhớ là đã bao giờ mình không phải dùng đến liệu pháp này hay chưa. Tôi hy vọng rằng tôi vẫn dùng đến nó kể cả sau khi tôi chết. Đó là một trong những điều người ta được học, nếu người ta có một nhà trị liệu tốt thì người ta sẽ làm mọi thứ một cách tự phát.
- Nói châm biếm một chút, liệu ông có thích sự nghiệp của mình nếu ông không được giao vai diễn nào cả?
- Có, có, có và có. Tôi bắt đầu sự nghiệp với những vai phụ, và giờ đây tôi lại quay trở về với các vai phụ (cười). Tôi thấy thật khôi hài.
- Ông có nghĩ đến giải Oscar mỗi lần quyết định nhận một vai diễn nào đó?
- Một số diễn viên sẽ nói dối khi nhận được câu hỏi này. Ví dụ như Will Farrel chẳng hạn, anh ta sẽ nói rằng anh ta chẳng thích thú gì với giải Oscar cả. Nhưng trong những cảnh chúng tôi đóng chung với nhau, khi tôi khen anh ấy đóng tốt thì Will sẽ hỏi ngay rằng, liệu anh ta có được đề cử hay không. (cười)
- Theo ông, giải Oscar có làm thay đổi cuộc đời của một diễn viên?
- Theo Emma Thompson thì người ấy sẽ sống lâu hơn. Sự thật đấy! Các nhà thống kê đã kết luận rằng người ta sẽ sống thêm được 8 năm nếu giành được một giải Oscar. Vì thế nếu không phải vì tiền thì mục đích đoạt giải Oscar cũng là vì để kéo dài cuộc sống.
- Hiện tại ông có tham gia bộ phim nào không?
- Chúng tôi vừa làm xong Mr Magorium’s Wonder Emporium hôm 11/6 ở Toronto. Tôi đóng vai ngài Magorium bên cạnh diễn viên Natalie Portman. Magorium là người phát minh ra một đồ chơi “thọ” 243 tuổi. Ông di chúc toàn bộ tài sản cho Natalie Portman. Khi đó, tất cả lũ đồ chơi trong kho bắt đầu chạy trốn. Đây là lần đầu tiên tôi cộng tác với một đạo diễn “mới ra lò”. Cũng không phải vì trước đây tôi né tránh các đạo diễn mới, mà tự nhiên nó cứ xảy ra thế thôi.
Ông có thấy tự do khi đóng các vai nhỏ lẻ như trong Finding Neverland, I Heart Huckabees và Meet the Fockers?
- Không, tôi nhớ vị trí của một ngôi sao. Đấy mới là tự do. Khi người ta đưa tôi kịch bản của Stranger than Fiction, tôi đã gọi đạo diễn Marc Foster để hỏi xem nhân vật của tôi bắt đầu xuất hiện từ trang nào. Tôi nói rằng tôi đang giở đến trang 23. Anh ấy bảo tôi cứ đọc tiếp đi và còn nói rằng, nó không phải là vai chính nhưng nó còn hơn vai diễn trong Finding Neverland cơ.
- Trong phim, ông đóng chung với hai diễn viên hài nổi tiếng là Emma Thompson và Will Farrell. Ông có thể kể về những kỷ niệm với họ?
- Đầu tiên thì tất cả chúng tôi đều tán phét về vợ hoặc chồng mình. Emma và tôi rất thích thú với việc này. Thỉnh thoảng chúng tôi cùng nhau đi dạo ở đường phố Chicago, nhớ lại những cảnh trong phim rồi cứ thế diễn đi diễn lại lời thoại. Nếu bị ai đó nhận ra, chúng tôi sẽ lái lời thoại như thể đang nói chuyện bình thường với nhau vậy. Và như thế cũng là cách để chỉnh sửa lời thoại đấy. Còn về vụ đêm giao thừa giữa tôi và Emma thì tôi không thể kể được đâu.
- Cuối cùng thì ông vẫn phải thừa nhận rằng mọi người nhìn ông như một ngôi sao. Ông có thích việc đó hay là muốn giấu mình sau cặp kính râm và sùm sụp chiếc mũ khi xuất hiện trước công chúng?
- Emma cứ phàn nàn rằng tôi không chịu đội mũ hay quàng khăn để ngụy trang khi đi xuống phố. Nếu đội mũ thì người ta sẽ chỉ thấy mũi thôi, như thế thà để người ta nhận ra mình còn hơn tưởng mình là một lão già nào đó. Tôi chẳng thấy ai có cái mũi giống mình mà lại đội mũ cả. Những người có mũi to trông sẽ rất xấu khi đội mũ. Lý do chính là thế đấy.
Đối với nhiều người, Denzel Washington không chỉ là một diễn viên sáng giá nhất trong thế giới điện ảnh, mà còn là một tấm gương đáng để học tập trong cuộc sống. Các quý bà quý cô coi anh là một trong những người đàn ông quyến rũ nhất thế giới.
Sự ngưỡng mộ của của khán giả nữ đối với ngôi sao da màu này là hoàn toàn có cơ sở. Denzel đã nhiều lần được tạp chí People đưa vào danh sách những người hấp dẫn nhất thế giới. Tạp chí Empire bầu chọn anh là một trong 100 ngôi sao quyến rũ nhất trong lịch sử điện ảnh. Tạp chí Newsweek từng dùng tên anh để làm ví dụ về những người hấp dẫn nhất trong một bài viết bàn về cái đẹp.
Năm 2001, tạp chí E! đưa anh vào danh sách 20 nhân vật có nhiều ảnh hưởng nhất trong làng giải trí. Anh đứng ở vị trí 28 trong danh sách 100 diễn viên quyền lực nhất năm 2003 do tạp chí Premiere bầu chọn. Năm 2005, anh lại lọt vào danh sách 100 ngôi sao điện ảnh vĩ đại nhất mọi thời đại của Premiere.
Denzel Washington là một trong những diễn viên luôn để lại một ấn tượng nào đó với khán giả mỗi khi anh xuất hiện trên màn ảnh. Không đắm chìm hào quang, anh luôn nỗ lực hết mình trong việc rèn lối sống để trở thành một trong ngôi sao đáng được kính trọng nhất tại Hollywood. Ít ai có thể ngờ rằng, ngôi sao điện ảnh này từng bị mẹ cấm xem phim khi còn nhỏ. Là một trong những người đàn ông hấp dẫn nhất hành tinh, nhưng anh cũng từng trải qua cuộc sống "du thủ du thực" ở tuổi thiếu niên.
Nổi tiếng với hàng loạt giải thưởng danh giá và hàng chục lần được đề cử Oscar, song Denzel luôn tỏ ra khiêm tốn với những thành công của mình. Từng thủ vai những người đàn ông tuyệt vời như Malcom X (trong phim Malcom X) và Hurricane Carter (phim The Hurricane), nhưng cũng sẵn sàng chấp nhận những vai phụ để mài dũa thêm khả năng diễn xuất.
Denzel Washington Jr. chào đời tại Mount Vernon, New York (Mỹ) vào ngày 28/12/1954 trong một gia đình trung lưu có 3 người con. Cha anh, Denzel Washington Sr., là một nhà truyền giáo, trong khi mẹ anh, Lennis, là một chuyên gia thẩm mỹ. Chính vì thế, Denzel lớn lên cùng với những buổi giảng đạo của cha ở nhà thờ và những câu chuyện hấp dẫn của mẹ. Đó là những nguyên liệu hoàn hảo để hình thành nên niềm đam mê diễn xuất của Denzel.
Tưởng rằng tuổi thơ của Denzel cứ êm đềm trôi qua như thế, nhưng những khác biệt trong nghề nghiệp và quan niệm sống đã làm rạn nứt cuộc sống hôn nhân của cha mẹ anh. Họ ly hôn khi Denzel lên 14 tuổi. Ức chế vì bị mẹ cấm xem phim, cậu bé lao vào cuộc sống nổi loạn và giao du với những thanh niên bất hảo. Tuy nhiên, cậu biết dừng đúng lúc khi một số người bạn trong nhóm chơi bị tống vào tù. Mẹ Denzel đưa cậu và người chị tới trường nội trú để cách ly cậu với nhóm bạn xấu. Tốt nghiệp phổ thông, Denzel vào trường Đại học Fordham và giành được tấm bằng cử nhân báo chí. Khả năng diễn xuất của chàng sinh viên da màu bắt đầu được thể hiện khi anh tham gia vào hàng loạt vở kịch do chính anh và các bạn cùng lớp dàn dựng, trong đó nổi bật nhất là vở Othello.
Rời khỏi trường đại học, Denzel giành được một suất học bổng tại Học viện American Conservatory Theater, một trong những nơi đào tạo diễn viên kịch có tiếng tại San Francisco. Chỉ sau một năm học tập, anh bắt đầu cảm thấy chán và muốn hoàn thiện khả năng diễn của mình bằng những vai diễn thực tế.
Cơ hội đầu tiên đến với Denzel khi anh được mời tham gia bộ phim truyền hình Wilma và vở kịch Coriolanus (do Shakespeare viết). Anh xuất hiện lần đầu tiên trên màn ảnh rộng vào năm 1981 trong bộ phim Carbon Copy.
Cuộc đời Denzel bắt đầu thay đổi khi anh thủ vai tiến sĩ Phillip Chandler trong vở kịch St. Elsewhere của kênh truyền hình NBC. Vở kịch được phát sóng suốt 6 năm, thời gian đủ dài để Denzel trở nên quen thuộc với hàng triệu khán giả. Trong khoảng thời gian đó, anh tranh thủ tham gia các khóa học nâng cao khả năng diễn xuất trong những dịp nghỉ hè.
Năm 1987, Denzel được đề cử Oscar cho Diễn viên phụ xuất sắc trong bộ phim Cry Freedom. Năm 1989, anh giành được giải Oscar cho Diễn viên phụ xuất sắc trong phim Glory. Tới lúc này, giới phê bình điện ảnh và khán giả hiểu rằng họ không thể không chú ý tới anh, một ngôi sao đang lên trên bầu trời điện ảnh.
Trong những năm 90, cái tên Denzel Washington xuất hiện trên hàng loạt phim. Sau khi hợp tác với đạo diễn Spike Lee trong phim Malcolm X, anh giành được giải thưởng Diễn viên xuất sắc của Hiệp hội phê bình điện ảnh New York và Hiệp hội phê bình điện ảnh Boston; đồng thời được đề cử giải Oscar.
Ngoài những vai diễn hành động, Denzel cũng không làm khán giả thất vọng khi tham gia các phim tình cảm lãng mạn. Năm 1999, anh giành giải Quả cầu vàng và được đề cử giải Oscar cho Diễn viên xuất sắc với vai võ sĩ quyền Anh Rubin "Hurricane" Carter trong phim The Hurricane. Để chuẩn bị cho vai này, anh đã đi học đấm bốc trong một năm rưỡi.
Năm 2002, Denzel giành giải Oscar cho Diễn viên xuất sắc với một vai diễn phản diện trong phim Training Day. Anh trở thành diễn viên người Mỹ gốc Phi đầu tiên giành được hai giải Oscar cho trong suốt 40 năm và cũng là diễn viên da màu được đề cử nhiều giải thưởng nhất.
Bận rộn với công việc, nhưng chàng tài tử da màu luôn dành nhiều thời gian cho các hoạt động từ thiện. Ngoài vai trò phát ngôn viên trong câu lạc bộ Boys and Girls dành cho thanh thiếu niên Mỹ, Denzel còn là người ủng hộ nhiệt tình cho các quỹ từ thiện như The Gathering Place (nơi chăm sóc những người nhiễm HIV), Quỹ trẻ em Nelson Mandela.
Năm 1983, Denzel kết hôn với nữ diễn viên Pauletta Pearson, bạn diễn của anh trong bộ phim truyền hình đầu tiên trong đời: Wilma. Họ đã có với nhau 4 con, trong đó có một cặp sinh đôi.
Mặc dù mang cái tên nghe có vẻ xui xẻo, Hugh Grant lại may mắn trở thành một trong những diễn viên xuất sắc của điện ảnh Anh quốc. Nếu như khi thử diễn xuất lần đầu, anh bị bạn bè đồng lứa cười bò ra trêu ghẹo đủ kiểu thì bây giờ, anh đã trở thành một cây hài đẳng cấp.
Nam tài tử sinh ngày 9/9/1960, cha anh là một nhà kinh doanh thảm, còn mẹ là giáo viên. Sinh trưởng trong một gia đình khá nền nếp, nên việc học của Grant cũng suôn sẻ. Anh được nhận một học bổng trường Oxford, với chuyên ngành lịch sử, nhưng chẳng hiểu cơ duyên thế nào mà anh chỉ chăm chăm tham gia các hoạt động văn hóa của trường. Phần thưởng xứng đáng nhất là anh giành được một vai trong vở Hamlet. Bận rộn với việc học ở trường, lại dậy kèm gia sư một cô bé, vậy mà Hugh Grant vẫn có thời gian gia nhập một nhóm hề biểu diễn trong quán rượu, nơi đó anh diễn xuất bên cạnh Mike Myers thời còn chưa mấy tên tuổi.
Thực ra ban đầu, cuộc sống của Grant cũng có vài trắc trở. Trước tiên là việc anh đánh vật với đống bài tập để thi tốt nghiệp mà không xong. Đi dậy gia sư thì vớ ngay phải cô bé bị điếc. Đến khi nhận được vai diễn ra hồn đầu tiên (phim The Bounty, với sự tham gia của Mel Gibson) thì đến giờ chót, anh lại tuột mất cơ hội vì thiếu một thủ tục gì đó về mặt giấy tờ.
Năm 1988, số phận mới bắt đầu mỉm cười với Grant. Anh nhận được khá nhiều lời mời diễn xuất và bắt bồ với người mẫu Elizabeth Hurley. Mối tình của họ rất bền chặt, kéo dài hàng chục năm trời, vậy mà cuối cùng, họ lại chia tay để rồi Liz có bầu với nhà sản xuất Steve Bing. Đến khi Liz bị anh ta chối bỏ, Hugh Grant lại quay trở lại an ủi cô, đưa hai mẹ con Liz đi khám, rồi nhận làm cha đỡ đầu cho con trai của Liz.
Nổi tiếng và đào hoa, nhưng Hugh Grant vẫn còn tham vọng chinh phục nhiều trái tim thiếu nữ hơn nữa. Anh muốn mình sôi nổi và cám dỗ ngang với ca sĩ bốc lửa Ricky Martin. Anh từng bị bắt giữ khi đang hành sự với một ả gái làm tiền trong xe hơi hồi năm 1995. Vì hành vi này, chàng ta đã phải nộp phạt gần 1.200 USD và 2 năm án treo.
Tuy nhiên, để tìm người trong mộng của riêng mình thì Hugh Grant rất dè dặt. “Tôi không còn tin vào tình yêu từ cái nhìn đầu tiên. Mà bản thân tôi hay rơi vào tình huống như vậy. Người ta vẫn cứ đánh giá tôi qua tiền bạc, danh tiếng và sự nghiệp, không sao thoát được cái ấn tượng ban đầu ấy. Chính vì thế mà cuộc sống của tôi về cơ bản là buồn tẻ”.
Dẫu vậy, Hugh cũng chẳng buồn giấu giếm về tài sản của mình. Anh mua liền một lèo 4 biệt thự trong cùng một khu phố cho tiện đi lại. Chỉ sống ở hai dinh thự, còn thì để trống, vậy mà anh còn có tham vọng mua cả khu phố.
"Tôi nghĩ đóng phim là cả một công việc đau khổ. Sao mà có những thước phim dài lê thê thế cơ chứ. Những ai làm việc trong ngành này đều là những người kiên nhẫn khủng khiếp. Đã thế, nếu bạn được hóa thân thành nhiều nhân vật khác nhau thì còn thú vị, còn tôi ư, cứ đóng đinh với kiểu Mr Nice Guy (người đàn ông tử tế). Lắm lúc tôi thèm được biến thành một kẻ bệnh hoạn", Hugh Grant tâm sự.
Là một trong những bậc thầy võ thuật Nhật Bản, Steven Seagal thường xuất hiện ở những bộ phim kết hợp yếu tố tâm linh với những pha bạo lực kinh khiếp. Anh là người phương Tây đầu tiên mở trường võ thuật tại xứ sở mặt trời mọc.
Sinh trưởng ở Lansing, MI ngày 10/4/1951, Seagal chuyển đến Nhật sống năm 17 tuổi. Tại đó, anh dạy tiếng Anh để có nguồn thu nhập học võ thuật. Steven lần lượt kiếm được chiếc đai đen ở các môn Aikido, karate, judo, và kendo. Trong thời gian này, anh thỉnh thoảng cũng tham gia đóng thế trong những cảnh đánh đấm hoặc huấn luyện cho các ngôi sao phim hành động, như trường hợp Sean Connery với phim Never Say Never Again. Trong lúc hướng dẫn, anh đã vô tình gây thương tích cho Sean.
Với tinh thần võ sĩ đạo Nhật Bản, Steven rất quan tâm tới tôn giáo và triết lý phương đông. Anh trở thành người của nhà Phật khởi nguồn từ bộ môn châm cứu và những bài học từ môn Aikido: “Hãy biết phát hiện điểm yếu của đối phương để chiến thắng, nhưng đừng lợi dụng điều đó để gây hại cho họ. Hãy biết cư xử có đạo đức không chỉ với con người mà với muôn loài trên trái đất”. Seagal kể lại, một số thầy tu Tây Tạng mắc chứng bệnh về dinh dưỡng, kiệt sức thường tìm đến anh. Cảm thông với người bệnh, anh quyết định xây dựng nhà tình nghĩa dành cho những trường hợp đặc biệt. Ở đó, anh giúp họ chia sẻ nỗi buồn, cái đau nhưng tuyệt nhiên giấu kín thân phận của họ. Anh luôn kín tiếng về bản thân mình, và đã có không ít hoài nghi rằng anh là người của CIA. Những thắc mắc về Seagal càng thêm dầy đặc khi anh đại diện cho những người đấu tranh giải phóng Tây Tạng và hiến tặng số tiền từ thiện lớn cho những tổ chức tôn giáo.
Sau 15 năm bôn ba nhiều xứ ở châu Á, Steven Seagal trở về đất Mỹ. Tại đây, anh một lần nữa mở học viện võ thuật và kiêm luôn chân vệ sĩ cho các ngôi sao nổi tiếng. Trong số khách hàng của Steven có Kelly LeBrock (mà sau đó trở thành vợ anh) và một nhà tài phiệt Hollywood mang tên Michael Ovitz. Chính Ovitz đã giúp Seagal ký hợp đồng làm phim võ hiệp với Warner Bros. Ngay trong bộ phim đầu tay hợp tác với đạo diễn Andrew Davis với Above the Law (1988), Steven đã tìm được vị trí của một ngôi sao hành động. Bộ phim tiếp theo Hard to Kill (1989), thực sự là một màn bạo lực khủng khiếp. Anh vào vai một cảnh sát thức giấc sau một giấc ngủ sâu và hùng hục đi trả thù những ai đã hại mình. Năm 1992 là thời kỳ đỉnh cao của Seagal với bộ phim Under Siege và đến năm 1994, anh bắt đầu thử sức ở vai trò đạo diễn với On Deadly Ground. Anh tiếp tục thâm nhập sâu hơn nữa thế giới giải trí khi góp phần sản xuất phim.
Năm 1997, Seagal khiến dư luận xôn xao khi một trong những người thày của anh, Penor Rinpoche tuyên bố Steven là một tulku (nghĩa là sự hiện thân của thầy tu nhà Phật). Bản thân Steven cũng thực sự nghiêm túc với vấn đề này. Anh dành hàng tiếng đồng hồ niệm Phật, học các giáo lý nhà Phật và tuân thủ việc ăn chay nghiêm ngặt.
Seagal là một con người thực sự đặc biệt. Ham mê võ thuật, nhưng anh dành nhiều thời gian cho tôn giáo và cho cả sở thích âm nhạc. Có thời gian, vì quá yêu điệu rasta, anh đã tầm sư học đạo ở tận Jamaica, nơi anh có nhà nghỉ ở đó. Kết quả là năm 2005, anh phát hành một album nhạc có tựa đề Songs from the Crystal Cave. Trong nhà anh có một bộ sưu tập lớn đàn guitar và kiếm rất ấn tượng. Hiện tại, anh đang sống hạnh phúc với cô vợ thứ ba.
Xuất phát khá muộn, lại đến từ Ireland xa xôi, nhưng Colin Farrell nhanh chóng tìm cho mình vị trí vững chắc ở Hollywood. Cát-xê của anh tăng chóng mặt, và các danh hiệu Tài tử hấp dẫn tới tấp đến với anh.
Sinh ngày 31/3/1976 trong một gia đình công nhân ở Dublin, từ bé, Colin Farrell đã mang trong mình nét cá tính của một diễn viên. Là em út trong 4 anh em, nhưng Colin tỏ ra khá ương ngạch và luôn to mồm nhất.
Cha và bác Colin đều là cầu thủ bóng đá của đội Shamrock Rovers, nên anh trưởng thành với mơ ước trở thành ngôi sao sân cỏ như một lẽ đương nhiên. Anh sớm đăng ký gia nhập trung tâm đào tạo thể thao nhưng với một người hài hước như Colin thì những nguyên tắc nghiêm ngặt của môn thể thao vua là quá "rách việc". 17 tuổi, anh rời trường và dành hẳn một năm lượn lờ quanh xứ sở chuột túi với bạn bè của mình.
Nhưng chơi mãi cũng chán, Farrell một lần nữa vắt óc suy tính xem nên đi theo nghiệp nào. Đôi chân đưa anh đến với Trường học kịch nghệ Gaiety. Colin chẳng hề có một khái niệm gì về món nghề này và gần như phát hoảng khi trường cũng có những quy tắc ngặt nghèo như thời anh học đá bóng. Một lần nữa, con người phóng khoáng Colin bỏ học sau khi nhận được vai Danny Byrne trong vở hài kịch Ballykissangel. Chưa hoàn thành học vấn, nhưng vai diễn tiếp theo vẫn đến với Colin trong phim Drinking Crude.
Ngoại hình sáng sủa cùng sự quảng giao của Colin bắt đầu phát huy tác dụng. Anh được những bạn diễn có tên tuổi như Tim Roth và Kevin Spacey nâng đỡ, giới thiệu rộng rãi trong giới điện ảnh. Kết quả là từ Dublin, anh dần tiến đến London, và một ngày đẹp trời nọ, anh thấy mình lên máy bay đến Hollywood. Chẳng hề tự ti, anh đi casting cho những bộ phim lớn như Batman Forever và 8MM. Anh tự nhận mình đã vượt qua 100 nấc thang thành công khi được song hành cùng Bruce Willis trong Hart's War, rồi Tom Cruise trong Minority Report. Thậm chí có nhiều lời ca ngợi dành cho anh hơn người hùng hành động của Nhiệm vụ bất khả thi. Tuy nhiên, lần tham gia The Recruit mới thực sự gây ấn tượng với anh bởi trong phim này, Colin được xuất hiện bên cạnh thần tượng Al Pacino, một trải nghiệm thú vị mà anh hài hước miêu tả là: “một kỷ niệm rùng rợn”. Với anh, Al Pacino không những là một huyền thoại điện ảnh mà còn là người bạn tâm giao tốt tính, trong khi tài tử từng vào vai Bố già thì ca ngợi Colin là “diễn xuất xuất sắc của thế hệ điện ảnh tương lai”.
2003 là một năm thực sự thành công với Colin. Anh được mời nhiều vai diễn đã đành, các danh hiệu thú vị cũng tới tấp đến với anh. Trước tiên, anh lọt vào danh sách 100 nghệ sĩ quyền lực nhất của tạp chí Premiere. Tiếp theo là 50 người đẹp nhất hành tinh do tạp chí People bình chọn. Chưa hết, anh còn đứng vị trí thứ sáu trong danh sách Những chàng trai quyến rũ nhất thế giới do độc giả tạp chí Company tôn vinh. Có lẽ, những chàng trai Boyzone sẽ phải luyến tiếc bởi Colin từng đăng ký gia nhập ban nhạc đình đám của Ireland này nhưng bị từ chối thẳng thừng.
Thành công là vậy nhưng Colin tâm sự, anh không quá ăn thua với đời: “Tôi chẳng ép mình phải tiến đi đâu cả, cũng chẳng có một kế hoạch nào cụ thể. Tôi nghĩ, nếu cứ gồng mình lên để đạt thành tích này, kết quả kia thì có nghĩa là bạn đang tự hủy hoại mình. Trong môi trường Hollywood, nhưng tôi không bị ánh hào quang che mờ. Tôi dễ dàng cảm thấy hài lòng với cuộc sống. Đừng hiểu nhầm, chỉ là tôi có thể ở vài tuần ở Los Angeles để đóng phim, nhưng kiểu gì thì tôi cũng mong được về nhà sớm với vợ con ở Dublin. Tôi rất yêu mảnh đất Ireland”.
Với quan niệm như vậy, Colin Farrell không bao giờ cư xử như một ngôi sao kiểu cách. Anh nói: “Tôi chẳng bao giờ trễ hẹn. Tôi không nghĩ mình được phép lên mặt với người khác".
Trong số các ngôi sao của Hollywood, Nicole Kidman được coi là một trường hợp hiếm thấy với sự kết hợp tuyệt vời giữa tài năng và sắc đẹp. Cô không chỉ được đánh là diễn viên xuất sắc so với lớp cùng thời mà còn chứng tỏ được bản lĩnh của một người nổi tiếng có đầu óc chứ không chỉ “nổi” nhờ scandal.
Có thể trong nhiều năm, khi nghĩ đến Nicole Kidman người ta quá quen với hình ảnh cô bên cạnh người chồng là tài tử Tom Cruise. Nhưng rõ ràng, qua những bộ phim như Moulin Rouge, The Hours hay Cold Mountain thì khán giả không thể không nhớ đến một nữ diễn viên xinh đẹp và diễn xuất giỏi.
Mặc dù Nicole đã bước chân vào điện ảnh được 10 năm trước khi kết hôn với Tom Cruise, nhưng sự nổi tiếng của cô vẫn chỉ giới hạn trong biên giới của xứ sở kanguroo. Ngay cả khi cô vẫn tiếp tục phấn đấu không mệt mỏi trong thời gian hai người còn chung sống, người ta vẫn có ấn tượng cô chỉ là một vai diễn khá bên cạnh các ngôi sao khác chứ chưa nổi bật hẳn lên. Phải đến khi đôi uyên ương chia tay nhau năm 2001, điện ảnh thế giới mới bắt đầu xuất hiện một ngôi sao sáng. Những bộ phim có sự xuất hiện của cô được khán giả cổ vũ và đón nhận nồng nhiệt, đạt được mức doanh thu khổng lồ. Có thể nói, chỉ khi hoạt động độc lập thì cô mới giành được danh tiếng và sự thành công mà suốt 10 năm qua đã “vuột” khỏi tay. Giờ đây, Nicole là một trong những nữ diễn viên được trả thù lao cao nhất hành tinh cho những vai diễn cô tham gia diễn xuất.
Có thể Nicole là một người hơi “kín tiếng”, thậm chí người ta có xu hướng đánh giá cô là người khó chịu vì cô nổi tiếng là một “nữ hoàng băng giá” khi quá chỉn chu trong lời ăn tiếng nói mỗi khi xuất hiện trước đám đông. Nhưng có thể đây chỉ là cách để Nicole đảm bảo sự an toàn cho cuộc sống riêng tư của mình và chúng ta nên chấp nhận hơn là phản đối. Xét cho cùng, Nicole cũng như bao ngôi sao khác, đã phải chịu nhiều rắc rối từ sự nổi tiếng. Chúng ta nên hiểu cho mối ác cảm Nicole dành cho những kẻ “tọc mạch” chuyên đi bới móc những chuyện đàm tiếu xung quanh đời tư của cô.
Dù trải qua nhiều sóng gió, cả trong cuộc đời lẫn sự nghiệp, Nicole vẫn chứng tỏ bản lĩnh của một cô gái mạnh mẽ, một diễn viên tài năng luôn sẵn sàng đón nhận thử thách. Mỗi vai diễn đối với Nicole là một công việc thực sự nghiêm túc đòi hỏi nhiều nỗ lực và nhiệt tình, ví dụ như trong The Hours, cô đã phải tập viết bằng tay phải, hay như trong The Human Strain, Nicole đã phải dành thời gian bên những phụ nữ bị hành hạ để chuẩn bị cho diễn xuất. Đáng khâm phục hơn khi cô đã giành thời gian và tâm trí vào những cuộc vận động chống hành vi lạm dụng và xâm hại trẻ em.
Mặc dù Nicole từng xuất hiện trong một số cảnh đòi hỏi phải khỏa thân nhưng chưa có ai đánh giá cô là một ngôi sao thích phô trương thân thể. Cô không bao giờ tỏ ra “khiêu gợi” một cách quá đà. Nhưng điều đó không ngăn hàng trăm tạp chí dành cho đàn ông bình chọn Nicole là một trong những nữ ngôi sao gợi cảm nhất trong lịch sử. Các quý ông thường bị hạ gục bởi cái nhìn xoáy đầy khiêu khích của cô gái xinh đẹp này.
Cô được mệnh danh là viên ngọc đen của Hollywood và là diễn viên da màu đầu tiên của Hollywood đoạt giải Oscar. Vinh quang trong sự nghiệp, song hai lần đổ vỡ trong chuyện tình cảm khiến cô vẫn do dự khi bắt đầu một cuộc đời mới.
Halle Berry sinh ngày 14/8/1966 tại Ohio, Mỹ. Cô mang trong mình hai dòng máu - châu Phi từ cha và châu Âu từ mẹ, bởi vậy càng lớn cô càng có một vẻ đẹp đặc biệt. Tuy nhiên chính vì màu da mặn mà ấy mà hồi bé, chị em Berry bị phân biệt đối xử bởi những người xung quanh. Tuổi thơ Halle Berry trôi qua khá nhọc nhằn. Khi cô mới lên 4, cha cô bỏ ba mẹ con ra đi. Bà mẹ lúc ấy là một y tá chăm sóc bệnh nhân tâm thần với đồng lương eo hẹp đã phải chắt chiu nuôi hai đứa con nhỏ.
Có lẽ do được thừa hưởng ý chí kiên cường từ bà mẹ, Halle đã cố gắng phấn đấu để khẳng định mình ngay từ nhỏ. Cô luôn là một học sinh xuất sắc với những thành tích học tập đáng nể tại trường trung học. Cô năng nổ tham gia các hoạt động của trường và được trao tặng danh hiệu Nữ hoàng – một danh hiệu truyền thống của trường. Tốt nghiệp phổ thông trung học, cô tiếp tục theo học tại Cleveland’s Cuyahoga Community College với ước mơ trở thành một phóng viên truyền thanh. Tuy nhiên việc học của cô phải bỏ giữa chừng do những đòi hỏi của công việc. Cô chuyển sang làm một người mẫu chuyên nghiệp.
Ý tưởng làm người mẫu bắt đầu từ năm Halle Berry mới 17 tuổi, khi cô đoạt được danh hiệu Miss Teen Ohio một cách dễ dàng. Tiếp theo là hàng loạt chiến thắng trong các cuộc thi sắc đẹp như Miss Teen All American, Miss USA và tham dự Miss World. Cô dần dần ý thức được lợi thế trời cho của mình.
Halle Berry bước vào con đường của một người mẫu chuyên nghiệp với tất cả say mê. Cô tham gia lớp học diễn xuất để phục vụ cho công việc làm người mẫu thời trang của mình. Trong thời gian này, cô gặp Aaron Spelling và được khuyên nên chuyển sang làm diễn viên. Đây có thể coi là một tác nhân của bước ngoặt sự nghiệp của Halle Berry.
Vai diễn đầu tiên của viên ngọc đen là series phim truyền hình mang tên Living Dolls (1989) và tiếp theo là Jungle Fever, một tác phẩm điện ảnh lên án sự phân biệt chủng tộc. Các hợp đồng của Hollywood tới tấp bay đến với cô sau đó. Sự nghiệp của một diễn viên tên tuổi đang mở rộng trước mắt. Cũng thời gian này, tình yêu ào đến với cô một cách chóng vánh. Cô sánh duyên cùng chàng cầu thủ bóng chày David Justice nhưng hôn nhân của họ chỉ kéo dài được 4 năm sau khi cảnh sát phát hiện anh ta trong khu vực chuyên mua bán ma túy và mại dâm. Những mối quan hệ của cô sau này cũng không mấy hạnh phúc. Tai trái của cô mất đến 80% khả năng nghe vì một cái tát thô bạo của một người bạn trai. Người chồng thứ hai của Halle là nha sĩ John Ronan, người rao bán quan hệ của vợ chồng cô cho những kẻ săn tin tò mò. Năm 2001, cô kết hôn với ca sĩ nhạc R&B Eric Benét nhưng hôn nhân của họ một lần nữa đổ vỡ do thói trăng hoa của chàng ca sĩ này.
Sau hai lần đổ vỡ, giờ đây người ta lại thấy cô diễn viên đã ngoại tứ tuần cặp kè với chàng người mẫu Aubrey mới 30 tuổi. Song vết thương lòng làm cho cô chưa đủ can đảm để bắt đầu một cuộc đời mới.
Thành công đến với Halle Berry như một món quà xứng đáng cho những cố gắng nỗ lực của cô với các bộ phim Race the Sun, The Rich Man’s Wife, Bullworth… Cô đã nhận được giải thưởng Emmy 2000 và Quả cầu Vàng 2000 dành cho Nữ diễn viên xuất sắc. Đặc biệt năm 2001, Halle Berry đoạt giải Oscar dành cho Nữ diễn viên chính xuất sắc với bộ phim Monster’s Ball (Vũ hội của quỷ) của đạo diễn Marc Forster. Cô vinh dự trở thành nữ diễn viên da màu đầu tiên nhận giải Oscar bởi từ năm 1929 chỉ có 6 diễn viên gốc Phi đoạt giải nhưng chưa bao giờ một nữ diễn viên da màu đoạt giải Oscar cho vai chính xuất sắc nhất.
Có khi anh là một thiên thần thông minh, khi là một phi công không bình thường, lúc lại là một thượng nghị sĩ đang tranh cử tổng thống hay một anh bảo vệ rất dân dã ở viện bảo tàng… Ở vai nào người ta cũng thấy những nét diễn xuất đầy xuất thần. Không ai khác, anh chính là John Travolta.
Là con út trong sáu đứa trẻ nhà Helen và Salvatore Travolta, John sinh ra và lớn lên tại New Jersey, Mỹ. Bố anh có một cửa hàng sửa lốp xe ở Englewood còn mẹ là giáo viên kịch nghệ, mặc dù vậy gia đình anh sống rất đầm ấm và yêu thương nhau. Khi Travolta còn bé, gia đình anh sống gần sân bay La Guardia, New York. Hình ảnh chiếc máy bay in hằn trong trí óc non nớt của cậu bé từ rất sớm, dần dần hình thành niềm đam mê bay nhảy ở người nghệ sĩ Travolta sau này. Chính mẹ anh là người đưa anh đến một trường kịch nghệ tại New York, ở đây John được học về thanh âm, khiêu vũ và diễn xuất. Và anh quyết định kết hợp cả ba kỹ năng này để trở thành một người biểu diễn ca kịch hài.
Năm 16 tuổi, John nhận được công việc đầu tiên trong đời với vở ca kịch Bye Bye Birdie sau khi bỏ học. Khi việc làm ngày càng khó kiếm tại New York, anh khăn gói lên đường đến Hollywood và được nhận một vài vai diễn nhỏ trong các phim dài tập. Vai diễn trong Grease một lần nữa đưa anh trở lại New York trong lần ra mắt bộ phim. Tiếp đó là sự xuất hiện không mấy nổi bật trong The Devil’s Rain và Welcome Back Kotter. Năm 1976, khi sự nghiệp phim ảnh của John Travolta tạm thời đình trệ, anh thử sức trong lĩnh vực âm nhạc với sự ra mắt của album John Travolta. Anh cũng tham gia một vai nhỏ trong phim kinh dị Carrie và The Boy in the Plastic Bubble. Một năm sau, anh mất đến 9 tháng học nhảy để vào vai trong Saturday Night Fever. Nhờ sự lao động nghiêm túc, anh nhận được các đề cử Quả cầu vàng và Oscar cho bộ phim này. Đây chính là bước đệm cho John Travolta vươn lên những bộ phim lớn về sau.
Giờ đây đã ở tuổi 52, song John Travolta vẫn rất phong độ với cuộc sống êm đềm bên người vợ là diễn viên điện ảnh Kelly Priston và hai con. Mối tình với Kelly Priston nảy nở trong khi hai người cùng tham gia bộ phim The Expert năm 1989. Cặp đôi này phải kết hôn đến hai lần, lần thứ nhất vào ngày 5/9/1991 bị coi là bất hợp pháp do không có sự chứng kiến của nhà thờ thiên chúa giáo nên đám cưới phải được tổ chức lại. Cậu con trai đầu lòng cũng có một lịch sử thú vị, cậu được thai nghén trong thời kỳ hai vợ chồng Travolta nghỉ cuối tuần ở nhà Demi Moore và Bruce Willis khi cặp đôi này chưa chia tay. Trước Kelly Priston, Travolta từng phải lòng Diana Hyland, một người hơn anh đến 18 tuổi, trong thời gian làm phim The Boy in the Plastic Bubble năm 1976. Một năm sau, Diana bất hạnh qua đời trong vòng tay anh vì căn bệnh ung thư.
Hạnh phúc của Travolta hiện tại còn là niềm đam mê máy bay. Anh sở hữu một chiếc Boeing 707-138. Chính tình yêu và khả năng điều khiển những con chim sắt đã giúp anh vào vai hoàn hảo trong Broken Arrow. Anh nói: “Tôi thấy bay là một sự hướng ngoại tuyệt vời. Khi ấy bạn không còn quan tâm đến điều gì ngoài việc tập trung cho cỗ máy khổng lồ đang bay trong khôn gian. Cảm giác khi ấy khá hồi hộp và sợ hãi, nhưng đó là cả một nghệ thuật”. Ngoài ra Travolta còn là một nhạc sĩ với vài album đã phát hành. Anh tiết lộ tình yêu âm nhạc bắt nguồn từ một bài hát duy nhất mang tên Dreamstreet của Patrick Rondat. Anh từng dùng cây đàn violin để điều trị chứng mất ngủ trầm trọng trong thời gian làm phim Blow Out năm 1981. Căn bệnh này bắt nguồn từ nhỏ, khi Travolta luôn phải chờ mẹ đi diễn về rất khuya. Không những thế, anh còn là tác giả của hai cuốn sách: John Travolta Staying Fit (1984) và Propeller One-Way Night Coach (1997).
Là người đàn ông với rất nhiều những đam mê, song John Travolta vẫn chưa có ý định từ bỏ điện ảnh nhường chỗ cho những sở thích khác. Nghệ thuật thứ 7 đã mang lại cho anh không ít vinh quang, đặc biệt anh được Viện nghệ thuật điện ảnh Mỹ trao tặng giải Thành tựu trọn đời.
Khi còn là cô bé 3 tuổi ở vùng ngoại ô thành phố, Scarlett Johansson đã mơ trở thành diễn viên và thật bất ngờ, chỉ 5 năm sau đó, mơ ước của cô bé đã trở thành hiện thực. Khởi đầu là vai diễn ở sân khấu Broadway và một vài vai diễn trên màn bạc, Scarlett đoạt giải Ngôi sao trẻ Hollywood với vai diễn trong "The Horse Whisperer".
Sinh ngày 22/11/1984 tại New York, Mỹ, cô bé xinh xắn Scarlett Johansson pha trộn của hai dòng máu Đan Mạch và Ba Lan, là con út trong gia đình có 5 anh chị em, một chị gái, một anh trai và hai anh trai sinh ba với cô. Hai người anh trai sinh ba chỉ ra đời trước cô đúng 3 phút, Scarlett vẫn nói vui rằng đây là 3 phút quan trọng nhất cuộc đời cô. Thuở nhỏ nhận thấy khả năng diễn xuất của con gái xuất hiện từ rất sớm, cha mẹ đã cho cô theo học tại Viện Kịch nghệ Lee Strasberg dành cho thiếu nhi. Ngay đầu những năm 1990, cô xuất hiện trong vở Sophistry của sân khấu Broadway bên cạnh Ethan Hawke. Vai diễn điện ảnh đầu tiên của Scarlett năm lên 8 tuổi là nhân vật trong Late Night With Conan O’Brien (1993).
Các vai diễn đến với Scarlett một cách dễ dàng và tự nhiên như con đường đến với điện ảnh của cô vậy. Tuy nhiên phải đến năm 1998 sự nghiệp của Scarlett mới đạt đến một tầm cao mới với vai diễn Grace MacLean, một cô bé với vụ ngã ngựa bí ẩn trong The Horse Whisperer. Từ đây cái tên Scarlett Johansson được rất nhiều đạo diễn để mắt tới. Thậm chí một đạo diễn người Hungary đã mời cô tham gia bộ phim An American Rhapsody năm 2001.
Thời gian hai năm sau đánh dấu thành công rực rỡ của Scarlett với Lost in Translation của đạo diễn Sofia Coppola bên cạnh nam diễn viên Bill Murray. Trước đó cô tham gia Girl with a Pearl Earring, cả hai bộ phim đều mang lại cho cô đề cử Quả cầu vàng năm 2004. Cũng trong năm này, cô chứng tỏ sự đa dạng trong diễn xuất bằng việc tham gia bộ phim hài nhẹ nhàng dành cho lứa tuổi teen The Perfect Score. Nói là “nhẹ nhàng” song đây là giai đoạn Scarlett phải “phân thân” giữa New York, nơi cha cô sinh sống và Los Angeles, nơi mẹ cô say sưa với công việc kinh doanh. Mặc dù vậy Scarlett rất hài lòng với cuộc sống độc lập của mình: “Tôi có rất nhiều bạn diễn phải làm việc cùng với bố mẹ và có những kỷ niệm rất kinh khủng, và cuối cùng họ phải “giải phóng” chính mình. Thật tuyệt vời là mẹ tôi tuyệt đối tôn trọng cuộc sống và ủng hộ bất kỳ quyết định nào của con gái. Giờ đây tôi rất tự lập. Tôi có thể chăm sóc bản thân mình nhưng tôi vẫn cần tình yêu và sự quan tâm”.
Về đời tư, ngay sau khi công chiếu Lost in Translation, Scarlett thổ lộ cô có quan hệ với những người đàn ông hơn cô nhiều tuổi và không thể hẹn hò với những anh chàng dưới 30. Cô còn cho biết một trong số ấy là nam diễn viên Benicio Del Toro, người hơn cô 17 tuổi. Trong thời gian thực hiện bộ phim Lost in Translation, Scarlett đã sống ở Hokkaido cùng Faiz Ahmad, chàng trai sau này trở thành bạn trai của cô.
Mới 22 tuổi, nhưng những gì Scarlett Johansson đạt được trong sự nghiệp rất ấn tượng và ai cũng hiểu rằng, tương lai còn rộng mở và đầy hứa hẹn với cô gái trẻ trung xinh đẹp này.
Một anh chàng vừa có ngoại hình đẹp trai vừa sở hữu một trí tuệ thông minh. Sau khi vượt qua những tháng ngày gian khó, giờ đây, Matt đã chạm tay tới thành công dù đã phải đánh đổi khá nhiều điều khác trong cuộc sống.
Sinh ra tại Cambridge, Massachusetts, từ lúc chào đời, anh đã là một cậu nhóc xinh xắn và đáng yêu. Cha anh là Kent Damon, một nhân viên ngân hàng về hưu, còn mẹ là Nancy Carlsson-Paige, giảng viên của đại học Lesley. Họ rất hài lòng với hai cậu con trai ngoan ngoãn của mình Matt và Kyle.
Nancy muốn chuyển từ vùng Newton thượng lưu đến Cambridge để con cái có điều kiện học tập tốt hơn, đồng thời có dịp cọ xát với thực tế. Bà mong con mình hiểu về thế giới bên ngoài và những người hàng xóm sống gần đó. Trong môi trường sống hoàn hảo và một gia đình hạnh phúc, cậu bé Matt dần lớn lên.
Khi Matt lên 10, anh gặp một thằng bé sống cách đó 2 khu nhà. Đó chính là người sau này cùng anh hoàn thiện kịch bản Good Will Hunting và cũng là người bạn thân thiết của anh đến tận bây giờ: Ben Affleck. Khi ấy Ben mới 8 tuổi.
Trong ký ức của Ben, Matt là một thằng bé khó chịu vì quá ngoan ngoãn. Mỗi lần mẹ Ben muốn anh làm việc nhà thường đem Matt ra làm ví dụ: “Mẹ thằng Matt bắt nó mỗi tuần nấu ăn một lần đấy”. Thế cho nên lần đầu tiên gặp, Ben nhớ ngay ra cái thằng cu hàng xóm mà mẹ hay lấy ra làm tấm gương “xấu” bắt mình noi theo.
Tuy nhiên, sau này hai người đã rất gắn bó thân thiết với nhau. Thời ấy, Ben và Matt thường đánh điện tử, xem phim và chơi bóng cùng nhau. Họ dành thời gian chơi với nhau nhiều đến mức thân với nhau lúc nào không hay. Sau này lớn lên, đôi bạn còn tiếp tục cùng nhau sáng tác kịch bản, cùng diễn xuất và cùng nổi tiếng.
Những năm tháng thời niên thiếu và lúc vào trung học là thời khắc dễ chịu đối với Matt. Mặc dù khi nhắc tới anh, người ta vẫn nghĩ ngay đến một cậu bé ít nói hay xấu hổ mỗi khi đứng trước giáo viên, Matt rất được bạn bè yêu mến. Vẻ ngoài xinh trai và tính cách dễ chịu đã khiến anh lọt vào tầm ngắm của rất nhiều cô gái cùng trường.
Casey Affleck, em trai của Ben, cũng chơi với Matt nên biết tiếng anh chàng “nam châm” này. Cậu nói: “Lúc nào Matt cũng có bạn gái, không cô này thì cô khác”. Thế nên trước khi trở thành ngôi sao màn bạc, anh đã nổi tiếng là kẻ gây đau khổ. Có vẻ các nàng thường khó từ chối một nụ cười ngọt ngào như của Matt.
Và lúc này Matt bắt đầu quan tâm đến diễn xuất. Giáo viên dạy môn Nghệ thuật Gerry Specca luôn nhớ cậu học trò của mình là một tài năng có cơ hội tỏa sáng.
Ai cũng hiểu Matt là một anh chàng đẹp trai nhưng ít người biết rằng anh còn rất thông minh. Matt học cực kỳ giỏi hồi phổ thông và được nhận vào Harvard, một trong những đại học danh tiếng nhất thế giới. Trường này tọa lạc ngay nơi anh sống và chỉ chọn những nhân vật xuất sắc vào nhập học.
Nhân vật Will Hunting trong Good Will Hunting của Matt đã cho chúng ta thấy một điều hiển nhiên: không nên “trông mặt mà bắt hình dong”. Chẳng ai có thể ngờ rằng một cậu sinh viên trẻ hay gây rắc rối lại có thể thông minh sáng dạ đến thế. Trong xã hội này, chúng ta quen đánh giá con người qua vẻ bề ngoài, phàm ai đẹp sẽ bị gán cho một trí tuệ thấp. Nhưng Matt đã chứng tỏ một điều anh có cả hai: ngoại hình ưa nhìn và một bộ óc xuất sắc. Vở kịch anh định viết cho lớp tiếng Anh khi mới nhập học Harvard sau này đã đạt một giải Oscar năm 1998.
Trong hồ sơ nộp cho đại học Harvard, Matt bày tỏ nguyện vọng trở thành một diễn viên trong khi trường này lại nổi tiếng là đào tạo những bác sĩ hay luật sư giỏi. Sau 3 năm học tập, anh đã quyết định nghỉ học để dành toàn bộ thời gian cho diễn xuất.
Tất nhiên không phải mọi chuyện đều xuôi chèo mát mái, cơ hội không dễ dàng xuất hiện với một sinh viên trẻ như Matt. Anh đã gặp thất bại nhiều lần, chán nản rồi thất vọng, nhưng rồi cuối cùng anh cũng có một vai diễn có thể giúp tài năng anh tỏa sáng, đó là Courage Under Fire. Bên cạnh Denzel Washington và Meg Ryan, Matt vào vai một con nghiện ma túy. Anh muốn nhân vật này càng chân thực càng tốt nhưng thời đó tên tuổi anh còn chưa đủ nổi tiếng để được có một chuyên gia dinh dưỡng riêng. Thế nên Matt đành lủi thủi tự chuẩn bị vai diễn một mình. Anh đã tự kiêng khem và giảm gần 20 cân, nhưng Matt coi đó là sai lầm lớn nhất đời mình vì sau đó anh bị suy nhược nặng và phải dùng thuốc điều trị trong nhiều năm mới phục hồi khả năng trao đổi chất như bình thường.
Bộ phim nhận được phản hồi tốt nhưng tài năng Matt lại bị cái bóng của các ngôi sao lớn che mờ. Mặc dù Denzel cũng có đôi lời khen ngợi nhưng báo chí lại ít để ý đến Matt. Chung quy cũng chỉ vì hồi ấy anh chưa có người đại diện và chưa thực sự nổi danh. Đã có lúc Matt nghĩ tới chuyện từ bỏ niềm đam mê bởi sau khi toàn tâm toàn ý cho nhân vật trong phim mà chẳng mấy được trọng dụng. Matt trở nên chán nản và hết sức thất vọng.
Sau nhiều năm cứ phải nhận những kịch bản “thừa” của nhiều ngôi sao sáng như Tom Cruise, Brad Pitt hay người bạn cũ Chris O’Donnell, Matt bắt đầu mệt mỏi với việc “ăn lại” này. Chẳng có mấy vai “ngon lành” dành cho anh, thế nên thay vì mất thời gian chờ đợi, anh quyết định bắt tay vào tự sáng tác kịch bản.
Matt chợt nhớ mình từng viết một vở kịch cho lớp tiếng Anh hồi còn học ở Harvard, anh liền lục lại những trang giấy đã phủ mờ bụi. Cùng với người bạn thân Ben Affleck, Matt hoàn thiện nốt kịch bản và năm 1992 cuộc đấu thầu sôi động diễn ra.
Mới nghe qua, ai cũng tưởng đây là một câu chuyện đơn giản với những nhân vật tầm thường, nhưng thực sự nó ẩn chứa nhiều điều sâu sắc ít ai ngờ tới. Đó chính là điểm đặc biệt giúp Good Will Hunting lôi cuốn khán giả và đem lại cho đôi bạn Matt-Ben tấm vé đi tới thành công trong sự nghiệp.
Sau khi gặt hái nhiều thành công rực rỡ suốt hai năm liền 1997-1998, bộ phim lập kỷ lục là tác phẩm có doanh thu cao nhất trong lịch sử hãng Miramax. Nó mang về hàng loạt giải thưởng lớn nhỏ từ Quả Cầu Vàng đến tượng vàng danh giá Oscar và khiến Matt với Ben trở thành mục tiêu săn đón ở Hollywood. Đạo diễn nào cũng muốn có Matt xuất hiện trong phim của mình, từ anh bạn cũ Kevin Smith đến huyền thoại Steven Spielberg, bởi họ đã nhìn ra tài năng của anh. Còn Miramax thì nhanh tay ký hợp đồng dài hạn với hai anh chàng. Rất nhiều kịch bản đang chờ đón, một cuộc sống bận rộn bắt đầu với Matt.
Anh nổi tiếng thế giới với nhiều vai trò: diễn viên, biên kịch, đạo diễn và sản xuất từ sau khi xuất hiện trong bộ phim “Rocky”. Tác phẩm này từng đem về cho anh một tượng vàng Oscar năm 1976.
Sinh trưởng tại thành phố New York, Sylvester học ở một trường ngoại ô Philadelphia, nơi nghiệp diễn xuất của anh bắt đầu. Năm lên 15 tuổi, bạn bè nhất trí bình chọn anh là kẻ có khả năng kết thúc cuộc đời trên ghế điện nhất. Sau này, Sylvester giảng dạy 2 năm ở trường đại học Mỹ của Switzerland tại Geneva. Trở lại quê hương, anh tham gia học phê bình tại đại học Miami và bắt đầu tập tành viết lách. Nhưng sau này anh đã nghỉ học để theo đuổi nghiệp diễn viên ở New York.
Năm 1973, Sylvester tới tham dự hầu hết các buổi thử vai nhưng chỉ toàn gặt hái thất bại. Thời gian này, anh đành tập trung hơn vào việc sáng tác, ấp ủ nhiều kịch bản chờ khả năng diễn xuất của mình được tỏa sáng. Mãi đến năm sau, cơ hội quý giá đầu tiên mới đến với Sylvester khi anh được chọn vào vai chính trong The Lords of Flatbush. Cũng chính trong bộ phim này, anh được ghi tên vào danh sách những người tham gia viết kịch bản với những đoạn hội thoại do anh thêm thắt.
Với khoản thù lao từ sau lần đó, Sylvester rời New York hăm hở hướng tới kinh đô điện ảnh Hollywood. Anh tiếp tục ghé thăm các trường quay và các đại diện chọn diễn viên, cố gắng xin một vài vai nhỏ trên truyền hình và màn ảnh rộng. Sylvester vẫn không lúc nào quên niềm đam mê sáng tác kịch bản của mình. Hình tượng võ sĩ quyền anh đấm bốc kiếm tiền Rocky Balboa ra đời và được ngòi bút của Sylvester nuôi dưỡng trong một thời gian dài. Vài nhà sản xuất đề nghị mua lại kịch bản đó và định cho một ngôi sao ăn khách nào đó vào vai nhưng Sylvester lại không đồng ý, anh muốn tự mình hóa thân vào nhân vật do anh thai nghén nhiều năm.
Mặc dù tài khoản của Sylvester lúc này chỉ còn vỏn vẹn có 100 USD, anh vẫn giữ nguyên ý định đó, quả nhiên lòng kiên nhẫn của anh đã được đền đáp xứng đáng. Võ sĩ đấm bốc Rocky đến được với khán giả qua diễn xuất của Sylvester, hơn thế nữa bộ phim còn mang về cho anh một giải Oscar cho Phim hay nhất. Ngoài ra, ngôi sao này còn nổi tiếng với vai trò biên kịch và đạo diễn, lần lượt các tác phẩm của anh ra lò và gặt hái nhiều thành công.
Giờ đây, Sylvester đã trở thành một trong những diễn viên có thù lao cao nhất của Hollywood. Noi gương người hùng cơ bắp Arnold Schwarzeneger, anh đang lấn sân sang lĩnh vực khác. Năm 2005, tạp chí Sly, biệt danh của anh, xuất bản số đầu tiên dành riêng cho các quý ông từ 35-55 tuổi. Chính anh sẽ trực tiếp tham gia biên tập và quản lý công việc nơi tòa soạn. Một tờ báo mang tên ngôi sao rất đàn ông của Hollywood có vẻ rất thú hút những quý ông. Ngoài sở thích viết lách với diễn xuất, Sylvester thường vẽ tranh sơn dầu mỗi khi rảnh rỗi. Anh coi Leonard De Vinci là người hùng của đời mình.
Năm 2004, cùng với tài tử Tom Cruise, Sylvester được chọn vào đội hình rước đuốc cho đại hội thể thao lớn nhất hành tinh khi nó được mang tới Los Angeles. Anh nói rằng: "Một trong những cống hiến lớn nhất của tôi cho cuộc đời này là giúp công chúng nhận thức được tầm quan trọng của thể thao và lối sống lành mạnh. Bản thân tôi cũng rất tự hào khi được nhìn nhận như một phần tinh thần của Olympic: nỗ lực hết mình để đạt được mục đích".
Ngôi sao của Rocky có tất cả 5 con, 2 đứa với người vợ đầu Sasha Czack sau 11 năm chung sống, 3 con với người vợ hiện tại Jennifer Flavin, hai người cưới nhau từ năm 1997 và hạnh phúc bên nhau đến tận bây giờ. Trước đó, Sylvester đã cưới Brigitte Nielsen nhưng nhanh chóng ly dị sau hơn 2 năm bên nhau.
Là một trong những ngôi sao thành công và cũng đầy tai tiếng, tài tử này chia sẻ với người hâm mộ về con đường hoạt động nghệ thuật hơn 30 năm. Dưới đây là tâm sự của Michael Douglas về các chặng đường trong sự nghiệp.
Từ một diễn viên truyền hình trở thành chủ nhân của giải Oscar ở tuổi 31, với vai trò nhà sản xuất bộ phim kinh điển One Flew Over The Cuckoo's Nest (1975):
Tôi chưa bao giờ nghĩ mình sẽ trở thành nhà sản xuất phim. Tôi thật may mắn vì được làm phim từ một tác phẩm hay như vậy. Cha tôi, diễn viên Kirk Douglas, có bản gốc của truyện đó. Năm 1960, khi đang ở đỉnh cao của sự nghiệp diễn viên, ông tới Broadway để dựng kịch từ cuốn Cuckoo’s Nest này nhưng không thành công. Ông quyết định làm phim, nhưng cũng thất bại. Khi đó, tôi đang học đại học. Trong danh mục những tác phẩm văn học Mỹ thế kỷ 20 bắt buộc phải đọc có tên One Flew Over The Cuckoo's Nest (Bay qua tổ chim cúc cu).
Tôi đề nghị cha cho mình được dựng phim từ tác phẩm này. Tôi bắt tay vào sản xuất trong khoảng 6 hoặc 7 năm, cùng lúc tôi đóng phim truyền hình The Streets of San Francisco cùng Karl Malden. Khi phim truyền hình này chiếu được 4 năm và rất được yêu thích, tôi yêu cầu Karl cho nghỉ để tập trung làm Cuckoo's Nest. Ai cũng nghĩ tôi dở hơi khi bỏ một phim tiếng tăm như vậy, nhưng họ vẫn để tôi đi. Không phải ai cũng biết chuyện này.
Từ phim truyền hình sang phim điện ảnh là một bước chuyển rất khó khăn. Tôi nghĩ chắc trước tôi chỉ có Steve McQueen và Clint Eastwood là người thay đổi như vậy. Vào thời điểm đó, mọi việc không được công chúng ủng hộ như bây giờ. Khán giả không hiểu tại sao họ phải trả tiền để xem tôi đóng phim, trong khi họ được xem miễn phí ở nhà.
Về bộ phim Romancing The Stone (1984) với vai trò diễn viên chính kiêm nhà sản xuất:
Bob Zemeckis là người tốt nghiệp khoa điện ảnh của Đại học Nam California, đồng thời được Steven Spielberg đỡ đầu. Anh cũng đã có trong tay 2 bộ phim là I Want to Hold Your Hand và Used Cars mà tôi rất thích. Tuy nhiên, 2 phim này đều không thành công, và sự nghiệp của anh chấm dứt ở tuổi 23. Khi anh ấy 27 hoặc 28 tuổi gì đó, tôi mời anh ấy tham gia Romancing The Stone và khán giả biết đến nhân vật này từ đó.
Vào đầu thập niên 1980, ý tưởng làm phim hài, tình cảm kết hợp với hành động còn rất mới mẻ và khó thực hiện. Raiders of the Lost Ark (Chiếc rương thánh tích) xuất hiện vào thời điểm này, cũng như Romancing The Stone. Quay phim kiểu này khó kinh khủng. Lúc đó, các hãng rót tiền làm phim và nhà làm phim ra ngân hàng lấy tiền về, đồng thời phải cam kết sẽ hoàn thành tác phẩm.
Thời gian quay phim tại Mexico thật khủng khiếp. Suốt đời tôi phải biết ơn nữ diễn viên Kathleen Turner. Những cảnh quay của cô ấy rất khó khăn, vì bạn diễn của cô ấy đồng thời cũng là đạo diễn. Mắt của lão ấy (Michael Douglas) như là ở sau gáy ấy.
Về việc hợp tác với Oliver Stone trong Wall Street (1987):
Tôi thực sự may mắn khi được làm việc với Oliver Stone. Trước đó, chúng tôi không quen nhau. Ông liên lạc và chìa cho tôi một vai diễn tuyệt vời. Tôi nghĩ ông xứng đáng được tôn vinh. Thử liếc qua danh sách những phim ông đã đạo diễn, các bạn sẽ thấy ngay rằng mọi diễn viên đều đã diễn xuất thật tuyệt vời, từ James Woods trong El Salvador, Val Kilmer trong The Doors, đến Tom Cruise trong Born on the Fourth of July, Kevin Costner trong JFK. Oliver là một đạo diễn không ngại thúc bách diễn viên, không sợ bị ghét bỏ. Ông luôn muốn được đương đầu với thách thức, thậm chí muốn tôi ghét ông nữa. Tôi thực sự muốn giết ông ấy lắm.
Về quãng thời gian huy hoàng trong sự nghiệp điện ảnh:
Tôi cho rằng, khi gặt hái được thành công về thương mại với Fatal Attraction và giành giải Oscar với Wall Street (cùng trong năm 1987), cuộc đời tôi đã thay đổi hoàn toàn. Khi lên nhận giải, tôi tuyên bố đã thoát khỏi cái bóng khổng lồ của cha mình. Có một “cây đa, cây đề” trong gia đình thực sự là một thử thách lớn cho thế hệ sau chứng tỏ mình. Điều này sẽ dễ dàng hơn trong trường hợp con gái có người cha nổi tiếng, hoặc con trai có người mẹ nổi tiếng.
Giữa diễn xuất và sản xuất:
Làm một đạo diễn, mỗi khi có điều gì đó khiến tôi thay đổi cảm xúc, muốn khóc, muốn cười hay sợ hãi, tôi thường nhắm mắt lại, cố nghĩ về bộ phim để xem nó có ra gì không. Tôi không muốn làm phim chỉ vì nó là phim hay, cảnh đẹp. Tôi phải phân tích được các yếu tố, thử tưởng tượng cả khi mình là nhà sản xuất và là khán giả. Tôi quan tâm đến các vấn đề như đạo diễn, diễn viên và liệu tác phẩm đó có thành công không.
Tôi luôn là một diễn viên, nhưng các bạn hãy hiểu rằng, trong tôi luôn có một phần là đạo diễn, để tôi ý thức được trách nhiệm của mình. Tôi muốn diễn xuất tốt nhất có thể. Tôi thích những vai diễn đa dạng như trong Wall Street, nhưng vai đó đã thuộc về Charlie Sheen rồi. Tôi luôn biết điều gì là cần thiết. Tôi khuyến khích các diễn viên thể hiện hết khả năng của mình. Điều này tôi học được từ Paul Newman. Ông ấy bảo rằng, không nên dọa nạt diễn viên mà nên hòa nhã, biết động viên họ.
Về những nhân vật gợi tình nhưng bị coi là nạn nhân trong Basic Instinct và Disclosure:
(Basic Instinct - 1992): Tôi bị phê phán rất nhiều vì tham gia phim này. Lúc đó, có vẻ khán giả còn rất bảo thủ. Nhưng chúng tôi nhận thấy, cần phải có sự thay đổi bằng những bộ phim “bốc khói” như vậy.
(Disclosure - 1994): Vai diễn của tôi là một anh chàng chăm chỉ nhưng dễ bị khuất phục và đã bị Demi Moore cám dỗ. Trong phim này, có những cảnh tôi đã đóng rất đạt