Follow along with the video below to see how to install our site as a web app on your home screen.
Note: This feature currently requires accessing the site using the built-in Safari browser.
Hiện tại trang web đang trong quá hình chuyển đổi và tái cấu trúc lại chuyên mục nên có thể một vài chức năng chưa hoàn thiện, một số bài viết và chuyên mục sẽ thay đổi. Nếu sự thay đổi này làm bạn phiền lòng, mong bạn thông cảm. Chúng tôi luôn hoan nghênh mọi ý kiến đóng góp để chúng tôi hoàn thiện và phát triển. Cảm ơn
Không những được đánh giá là một trong những diễn viên xuất sắc nhất vào thời của mình, Robert De Niro còn được coi là một Marlon Brando thứ hai với rất nhiều giải thưởng mà bất kỳ một diễn viên điện ảnh nào cũng phải ao ước.
Robert De Niro sinh ngày 17/8/1943 tại New York, Mỹ trong một gia đình mà cả cha mẹ đều là họa sĩ. Năm Robert mới 2 tuổi, cha ông quyết định ly hôn với vợ vì phát hiện ra mình là người đồng giới. Lúc còn nhỏ ông là một cậu bé gầy còm ốm yếu và rất nhút nhát với cái tên thường gọi là Bobby Milk. Robert sống thu mình trong thế giới riêng, không chơi đùa với đám bạn cùng lứa. Chỉ đến năm lên 10 tuổi khi được giao vai diễn con sư tử trong vở kịch The Wizard of Oz của trường thì Robert mới bắt đầu lột xác và bứt ra khỏi thế giới khép kín của chính mình. Năm 16 tuổi, Robert quyết định bỏ học ghi tên vào trường đào tạo diễn viên Stella Adler và sau đó là trường Lee Strasberg. Phải nói rằng đây là một bước ngoặt đầy may mắn trong cuộc đời Robert De Niro vì trước đó có lần ông đã bỏ học theo một nhóm băng đảng.
Năm tròn 20 tuổi, Robert De Niro được nhận vai diễn đầu tiên trong The Wedding Party của đạo diễn Brian De Palma. Một số phim ông thực hiện sau đó cũng nhạt nhòa và chưa để lại ấn tượng gì về gương mặt mới xuất hiện trên màn ảnh. Phải đến 10 năm sau, năm 1973, Robert De Niro bất ngờ tỏa sáng trong Bang the Drum Dlowly với giải Nam diễn viên xuất sắc do Hội phê bình điện ảnh Mỹ trao tặng. Thời gian này ông chủ yếu vào các vai diễn có tính cách nổi loạn trong các phim Mean Streets (1973), Taxi Driver (1976), đặc biệt là The Godfather phần II (1974) – bộ phim mang lại cho ông tượng vàng Oscar năm đó dành cho Diễn viên phụ xuất sắc. Robert De Niro được các nhà phê bình điện ảnh đánh giá là một Marlon Brando thứ hai. Cả hai người đều giành giải Oscar với việc thể hiện cùng một nhân vật bố già Vito Corleone. Trong thập niên 80, nét diễn xuất của Robert De Niro trở nên trầm lắng hơn với các vai diễn đi vào chiều sâu như The Untouchable (1987) và Goodfellas (1990). Ông còn cho ra đời Trung tâm sản xuất phim Tribeca vào năm 1989 với mục đích quảng bá ngành làm phim ở New York và mở nhà hàng Ago ở phía tây Hollywood.
Những vai diễn của Robert De Niro sau này càng mang nhiều màu sắc và đa dạng hơn. Ông không chỉ xuất sắc trong các vai anh chị xã hội đen mà còn thử sức trong các vai có chiều sâu nội tâm như Mad Dog and Glory (1993), Marvin’s Room (1996), Great Expectations (1998) hay các bộ phim hài như The Adventures of Rocky & Bullwinkle (2000) và Analyze That (2002). Tuy nhiên sự nghiệp diễn xuất của ông sau này có chiều hướng đi xuống.
Về đời tư, Robert De Niro là một trong số ít các diễn viên không thích tiết lộ về cuộc sống riêng của mình. Điều này được ông thẳng thắn thể hiện trong các cuộc tiếp xúc với báo chí. Vẻ đẹp phong trần, lạnh lùng và quyến rũ, Robert đã làm điêu đứng không ít các mỹ nữ Hollywood, trong đó phải kể đến cuộc tình với viên ngọc đen ngọt ngào Naomi Campbell. Cuộc hôn nhân đầu tiên với diễn viên kiêm ca sĩ Diahhne Abbott kéo dài 12 năm với kết quả là cậu con trai Raphael De Niro. 10 năm sau khi ly dị, Robert De Niro mới bắt đầu cuộc sống mới với nữ tiếp viên hàng không Grace Hightower và cho ra đời hai cậu con trai sinh đôi là Aaron Kendrick và Julian Henry. Năm 1998 ông gặp một rắc rối tại Paris khi bị bắt trong một cuộc điều tra về nạn mại dâm. Tuy nhiên, Robert khăng khăng phủ nhận rằng ông liên quan đến vụ này, từ đó ông thề không bao giờ trở lại Pháp nữa.
Hơn 40 năm lăn lộn với điện ảnh, giờ đây Robert De Niro có thể tự hào với những gì ông đã đạt được bằng những tâm huyết và công sức của chính mình. Ở tuổi xế chiều, ông vẫn miệt mài tham gia những bộ phim hài nhẹ nhàng như Meet the Parents và Meet the Fockers, thậm chí sản xuất, đạo diễn và đóng vai chính trong The Good Shepherd. Dường như niềm đam mê diễn xuất chưa bao giờ cạn trong con người này.
Là một trong những diễn viên điện ảnh vĩ đại nhất của mọi thời đại, tài năng của ông nở rộ trong thập kỷ 70 - thời kỳ hoàng kim của ngành nghệ thuật thứ bảy. Có những lúc khó khăn đeo đuổi nhưng ông vẫn phấn đấu và giành nhiều thành tựu xứng đáng.
Là dân gốc vùng East Harlem thuộc New York, cha Al Pacino nhập ngũ khi ông mới lên 2 tuổi. Cha mẹ ông đã ly dị 5 năm sau đó, Al và mẹ chuyển đến gần Bronx Zoo sống với ông bà ngoại. Đối mặt với sự đổ vỡ trong gia đình sớm, Al trở thành một cậu bé nhạy cảm và sống hơi tách biệt. Nhất là khi ông bà quá thương yêu người cháu nhỏ, luôn bao bọc cưng chiều và không để ông ra ngoài cho đến khi tròn 17 tuổi. Al đành lẽo đẽo bám theo mẹ đến các suất chiếu tối ở rạp phim địa phương để được ra đường, thời gian còn lại ông chỉ quanh quẩn ở nhà và diễn lại các cảnh trên phim cho ông bà xem.
Khả năng diễn của Al còn phát triển hơn nữa khi ông hào hứng bịa ra một quá khứ hoành tráng để lòe đám trẻ. Ví dụ như câu chuyện về cuộc sống ở Texas với 10 chú chó của Al đã tạo nên một ấn tượng mới mẻ cho những cậu bé 10 tuổi sống ở Bronx thời những năm 1950. Niềm vui thích khi kể chuyện, chơi thể thao và những trò nghịch ngợm thủa nhỏ đã khiến Al không mấy hứng thú với chuyện học hành. Khi những giáo viên nhận ra tài năng kịch nghệ ở cậu học trò nhỏ của mình, họ đã khuyến khích Al diễn trong những vở kịch của trường và để ông đọc Kinh thánh trong những buổi họp đầu tuần ở hội trường.
Năm 14 tuổi, Al được nhận vào diễn trong vở The Seagull của Chekhov tại Nhà hát Elsmere phía Nam Bronx, chính từ nơi đây ông đã quyết định tới trung học Nghệ thuật diễn xuất theo học. Phải mất nhiều năm, Al làm hết việc này đến việc khác, từ một cậu bé chuyển thư cho tạp chí Commentary, một người đưa tin, một hướng dẫn viên trong rạp chiếu bóng đến một anh bảo vệ trẻ tuổi. Tất nhiên cuộc đời ông không thể trôi dạt mãi như vậy, trong thời gian bấp bênh này, Al vẫn kiên trì theo đuổi nhiều lớp học về diễn xuất và xuất hiện trong nhiều vở kịch diễn dưới tầng hầm. Chăm chỉ làm việc suốt một thời gian dài, ông đã tích cóp đủ tiền để theo học nghề tại Herbert Berghof Studio, nơi ông được Charlie Laughton dạy dỗ. Khó khăn vẫn chưa rời bỏ hẳn Al Pacino, lắm lúc ông phải vay tiền để đi xe bus đến các buổi thử vai diễn. Sau khi được thử sức, tham gia đạo diễn và viết một vài vở kịch, cuối cùng Al cũng được Actors Studio chấp nhận, ông được học nhiều hơn về phương pháp diễn xuất tại trường của Lee Strasberg - bậc thầy về đào tạo diễn viên lúc bấy giờ.
Al Pacino có cơ hội xuất hiện bên cạnh James Earl Jones trong The Peace Creeps của nhà sản xuất John Wolfson và một vài vai nhỏ tại rạp Charles ở Boston. Trở lại New York, ông đã tỏa sáng với vở The Indian Wants the Bronx, giới phê bình không còn từ gì để diễn tả khả năng xuất thần của Al, và diễn viên trẻ này đã nhận giải thưởng Obie cho Diễn viên xuất sắc năm 1967-1968. Ngay năm sau, Al đã lần đầu tiên được đứng trên sân khấu Broadway trong Does the Tiger Wear a Necktie? và vở diễn ngừng công chiếu sau 98 suất diễn, còn công luận thì đánh giá Al như một ngôi sao “xuất sắc không ngờ” hay một diễn viên có khả năng “gây chấn động”. Cũng lần đầu tiên ông chạm tay vào giải thưởng cao quý Tony Award.
Với sự cổ vũ nhiệt thành của khán giả và báo giới, Al Pacino quyết định thử sức với lĩnh vực điện ảnh. Hai tác phẩm đầu tay Me, Natalie và The Panic in Needle Park là minh chứng hùng hồn cho tài năng vào vai nghiện ma túy của ông. Khi chuẩn bị cho vai diễn, Al và bạn diễn Kitty Winn đã phải đi thâm nhập thực tế ở những trung tâm cai nghiện và nhiều khu vực có bọn buôn bán tiêm chích lảng vảng, ngoài ra họ còn nghiên cứu rất nhiều tài liệu về hành vi của những con nghiện. Chính nhờ những thước phim sống động Al từng diễn, hãng Paramount đã chọn ông chứ không phải Jack Nicholson hay Warren Beatty để vào vai Michael Corleone trong tuyệt tác The Godfather của thiên tài Francis Ford Coppola. Vai diễn để đời này đã giúp Al tỏa sáng trên bầu trời điện ảnh khi nhận một đề cử Oscar cho Nam diễn viên phụ xuất sắc. Từ đó, sự nghiệp điện ảnh của ông mở ra một con đường mới rộng thênh thang hơn.
Mặc dù Al được coi là một trong những diễn viên nhận nhiều đề cử Oscar nhất, nhưng không vì thế mà Al quên niềm đam mê dành cho sân khấu Broadway. Vở The Basic Training of Pavlo Hummel đã giúp ông giành được giải thưởng Tony lần thứ 2 vào năm 1977. Cứ thế Al Pacino trở thành người khách thường xuyên đi lại giữa Hollywood và Broadway.
Có thể Al Pacino thường nổi tiếng với những vai du côn cực kỳ sống động trên màn ảnh, nhưng trên thực tế ông hoàn toàn không có tính cách như vậy. Với ông, đó chỉ là cách thể hiện tài năng của mình khi diễn xuất những vai thuộc dạng khó diễn và “khô khan”. Chắc chắn chỉ một người rất yêu nghề mới bước chân vào những chỗ gai góc để rồi trở thành huyền thoại như Al Pacino.
Nếu có ai vô tình nhắc đến tên ông, hẳn chúng ta sẽ nhớ ngay đến một huyền thoại đa tài của Hollywood. Ông tưng tham gia diễn xuất trong tất cả các thể loại phim, tự tay đạo diễn nhiều tác phẩm và cũng từng chạm tay đến những giải thưởng điện ảnh cao quý nhất.
Đầu năm 2006, người nghệ sĩ gạo cội này đã vinh dự nhận giải thưởng Thành tựu trọn đời, ghi danh vào tổng số hơn 30 đạo diễn do DGA từng trao tặng. Bên cạnh những cái tên “cổ thụ” như Alfred Hitchcock hay Steven Spielberg, Clint Eastwood nổi lên như một hình tượng đầy cá tính trên màn ảnh và vô cùng giản dị trong đời sống.
Sinh ra và lớn lên tại San Francisco thuộc California, Clint tỏ ra quyết đoán và có nhiều tham vọng lớn ngay khi còn nhỏ. Ông quyết định theo nghiệp diễn lúc còn là cậu sinh viên trường Los Angeles. Ban đầu, Clint gặp khá nhiều khó khăn do chưa quen việc tại hãng Universal. Sau hơn một năm không mấy suôn sẻ, ông nghỉ việc và để cải thiện tình hình ông theo học các lớp diễn xuất, tập thể thao, chịu khó đi thử vai trong khi vẫn phải lao động cật lực để trang trải cuộc sống.
Sau khi tham gia trong nhiều bộ phim hạng B, Clint có được bước đột phá trong sự nghiệp với loạt phim truyền hình Rawhide. Mọi chuyện diễn ra khá tình cờ, ông tới thăm một người bạn bạn làm tại đài truyền hình CBS, vẻ ngoài bảnh bao của ông đã gây ấn tượng cho một nhà sản xuất và vai Rowdy Yates đã chính thức thuộc về Clint Eastwood. Vào vai một chàng cao bồi dường như là duyên phận với ông. Nhất là khi Clint có sẵn vẻ ngoài mạnh mẽ, cái nhìn gườm gườm và toát ra vẻ “ngầu ngầu” khi xuất hiện trên màn hình. Đôi mắt nheo nheo có lẽ đã trở thành một trong những dấu ấn khó quên của diễn viên này. Nhờ tài năng của ông, Rawhide đã kéo dài tới 7 năm mà vẫn được khán giả hào hứng đón xem, tên tuổi của Clint Eastwood nổi tiếng khắp đất nước.
Nhưng Clint lại thuộc tuýp diễn viên không bằng lòng với nhưng gì mình đã đạt được, luôn tự tìm tòi để làm mới mình. Để “thay đổi không khí”, ông đặt chân tới xứ sở bò tót và gây tiếng vang với A Fistful of Dollars và For a Few Dollars More. Không còn hình ảnh chàng thanh niên mười tám đôi mươi bảnh bao lịch sự, Clint hóa thân thành một người đàn ông đã trưởng thành cứng cáp hơn như chứng tỏ tài năng của ông cũng phát triển theo năm tháng. Bộ phim Dirty Harry đã để lại dấu ấn đáng nhớ trong lòng khán giả với hình tượng một cảnh sát dũng cảm quyết đoán. Từng làm cảnh sát của Oakland nên Clint phần nào hiểu rõ vai diễn kiểu này. Sau một loạt phim nữa, Clint chính thức ghi danh vào bầu trời đầy sao của điện ảnh thế giới.
Vẫn luôn không ngừng phấn đấu vươn cao, Clint thử nghiệm vai trò đạo diễn – một đích đến của nghề diễn. Bản thân ông vẫn luôn coi đây là mục tiêu quan trọng của đời mình, hơn cả chuyện trở thành diễn viên. Có lẽ ngoài Woody Alien, chưa có diễn viên nào đạo diễn nhiều phim bằng Clint Eastwood. Ông thành công ở vai trò này một phần nhờ ông từng là diễn viên nên hiểu tâm lý và để họ tự tìm tòi cách thể hiện riêng mà không áp đặt một mô hình nhất định. Bên cạnh việc “học lỏm” những đạo diễn đã nổi danh như Sergio Leone hay Don Siegel, Clint phải tự đào tạo mình bằng những thước phim cũ, xem đi xem lại rồi nghiền ngẫm cái hay cái dở rồi rút ra cách làm cho mình. Với cách làm như vậy, ông đã gặt hái cả thành công lẫn thất bại. Bird và Unforgiven mang về vinh quan cho ông, nhưng True Crime hay Blood Work lại bị người ta chỉ trích.
Tuy hay nản lòng nhưng Clint luôn biết đứng dậy đi tiếp, gần đây, ông vừa là đạo diễn vừa là diễn viên trong Million Dollar Baby, bộ phim này đã xuất sắc vượt qua The Aviator đoạt nhiều tượng vàng Oscar và thắng lớn về mặt tài chính. Michael Apted chủ tịch của DGA đã phát biểu tại lễ trao giải thưởng trọn đời rằng Clint Eastwood là một đạo diễn đa tài và “mát tay”, ông đã lôi kéo một lượng khán giả lớn tới rạp với tài năng, sự thông minh và một bản lĩnh đáng nể. Clint đã thực sự trở thành biểu tượng cho những nam diễn viên và là một huyền thoại sống đáng kính trọng của ngành điện ảnh.
Là diễn viên nổi tiếng nhất Australia, ông từng góp mặt trong bộ phim đầu tiên về khủng long "Jurassic Park". Một Quả Cầu Vàng năm 1983 cho vai diễn trong phim truyền hình "Reilly" và vô số giải thưởng điện ảnh quan trọng của Australia và New Zealand đã khẳng định tên tuổi diễn viên gạo cội này.
Sinh ngày 14/09/47 tại Bắc Ireland nhưng Sam Neill lại lớn lên tại New Zealand. Trong thời gian học trung học và đại học, ông tham gia rất nhiều vở kịch của trường dù chưa từng qua một trường lớp về diễn xuất nào cả. Sở thích diễn kịch của Sam được Dame Ngaio Marsh – người sản xuất các vở kịch của đại danh hào Shakespeare hàng năm và đạo diễn Mervyn Thomson khơi nguồn. Sau khi ra trường, ông rong ruổi trên chiếc xe buýt nhỏ đi lưu diễn với nhóm diễn viên Players Drama Quartet.
Kết thúc một năm chu du, Sam bắt đầu làm việc với xưởng phim quốc gia New Zealand ở Wellington với vai trò đạo diễn các phim tài liệu như Telephone Etiquette, Surf Sail hay Architect Athfield. Tất nhiên ông vẫn thỉnh thoảng tham gia diễn xuất trong những bộ phim ngắn như Ashes hay Landfall. Sau 6 năm công tác tại đây, Sam có một vai chính trong Sleeping Dogs – bộ phim New Zealand đầu tiên từng phát hành tại Mỹ. Đạo diễn Margaret Fink người Australia đã nhận ra tài năng của ông và mời ông tới thử vai nam chính trong My Brilliant Career. Ngay khi nhận được vai này, Sam đã trở lại New Zealand quyết định gửi đơn thôi việc và rao bán căn nhà ông đang ở. Chỉ 2 tuần sau ông tới Australia và dự định không bao giờ trở lại.
Đặt chân lên xứ sở của những chú chuột túi, Sam thực sự cảm thấy diễn xuất là nghề nghiệp mà Chúa đã chọn cho ông. Sam tâm sự: “Ngay khi bắt tay vào My Brilliant Career, tôi cảm nhận rõ đây là công việc mà tôi có thể làm tốt và thực sự yêu thích”. Tỏa sáng với những bộ phim của Australia khi ngành công nghiệp nước này trong thời kỳ hưng thịnh nhất, Sam luôn để lại trong khán giả hình ảnh ấn tượng của một nam diễn viên chính thực thụ. Ngoài sự xuất hiện trên màn ảnh rộng, ông còn tham gia một số chương trình truyền hình nổi tiếng như The Sullivans. Trong khi đang quay chương trình Lucinda Brayford, một diễn viên người Anh James Mason gọi điện cho Sam và nói rằng diễn xuất trong My Brilliant Career thật ấn tượng. James khuyên ông nên cân nhắc vai chính trong The Final Conflict: Omen III và tặng Sam một chiếc vé lên London thử vận may. Quả nhiên, ông đã thành công và đây chính là bộ phim Mỹ đầu tiên mà ông góp mặt. Trong quá trình quay, mối quan hệ giữa Sam và Lisa Harrow trở nên sâu sắc hơn, họ có một cậu con trai tên Tim nhưng do tính chất nghề nghiệp cả hai không thể có cuộc sống ổn định nên đành chia tay 1 năm sau đó.
Vai diễn để đời của Sam có lẽ phải kể đến vai Sidney Reilly trong loạt phim truyền hình Reilly: Ace of Spies. Năm 1983, ông nhận một đề cử Quả cầu vàng và chiến thắng giải Diễn viên nổi tiếng nhất ở Anh. Khi phim được chiếu tại Mỹ, Sam có thêm nhiều người ái mộ hơn và được coi là diễn viên thích hợp nhất cho vai James Bond sau khi Roger Moore tuyên bố không tiếp tục vai này.
Sam tiếp tục nhận nhiều vai khiến tên tuổi của ông càng được khán giả biết đến rộng rãi hơn. Mặc dù người ta vẫn biết đến ông là diễn viên nổi tiếng nhất ở Australia nhưng phải 10 sau Sam mới thực sự làm một cú bứt phá ngoạn mục với Jurassic Park. Ông đã xuất hiện trên màn hình với những chú khủng long ảo tạo nên một bất ngờ lớn với chính Hollywood – Kinh đô điện ảnh. Năm 1993 thực sự là đáng nhớ với Sam, ông trở lại quê nhà New Zealand sau 14 năm để quay hai bộ phim trong đó The Piano đã tỏa sáng tại liên hoan phim Cannes. Thật may mắn cho Sam cả Jurassic Park và The Piano đều giành được thành công về mặt tài chính lẫn những ưu ái của những nhà phê bình.
Biết đọc từ năm lên 2, đi học khi mới 4 tuổi, Dakota là một cô bé rất thông minh và hiếu động. Trước khi bước chân vào thế giới điện ảnh, cô bé thường tự biến mình thành diễn viên bằng cách cuốn chăn nhồi vào bụng giả làm bà bầu và rủ cô em Elle đóng vai đứa con.
Sinh ngày 23/2/1994 tại Georgia – Mỹ, Dakota đến nhà trẻ nơi hàng tuần các vị phụ huynh được xem những vở kịch do chính con mình diễn. Ban quản lý nhà trẻ nhận thấy tài năng đặc biệt của Dakota và khuyên bố mẹ cô bé hướng Dakota đi theo con đường chuyên nghiệp. Gia đình cô bé liền chuyển đến Los Angeles ở trong 6 tuần để giúp Dakota có được công việc đầu tiên dù cách khá xa ngôi nhà ấm cúng ở Georgia. Cô bé được chọn trong rất nhiều đứa trẻ khác để đóng trong quảng cáo của Tide. Sự nghiệp của Dakota có vẻ rất thuận buồm xuôi gió nên cả nhà quyết định chuyển đến định cư hẳn ở Los Angeles.
Ngay sau khi chuyển nhà, cô bé đã ký hợp đồng chính thức với người đại diện và nhanh chóng có một vai trong phim Tomcats. Dakota còn tham gia trong Father Xmas nhưng vai diễn trong I Am Sam mới thực sự là cú đột phá ngoạn mục của cô bé. Cả đạo diễn và toàn bộ những người tham gia sản xuất đều sững sờ trước tài năng xuất chúng của cô bé mới 7 tuổi này. Dakota thổ lộ, khi diễn những cảnh buồn trong phim, cô bé nghĩ đến cái chết của chú cá vàng Flounder cưng của mình.
Dakota trở thành người trẻ tuổi nhất được đề cử cho giải Screen Actors Guild Award với vai Lucy Diamond Dawson bên cạnh ngôi sao lớn Sean Penn, thậm chí cô bé còn chiến thắng giải Broadcast Film Critics Association dành cho Diễn viên trẻ xuất sắc. Khi lên nhận giải thưởng, Dakota không đủ cao để với tới micro và Orlando Bloom đã phải bế cô bé xinh đẹp này lên để phát biểu một bài dài không kém diễn viên lớn tuổi khác.
Sau vai diễn trong I Am Sam, Dakota được cả thế giới biết đến và tiếp tục khẳng định tên tuổi bằng nhiều bộ phim khác như Trapped, Sweet Home Alabama và một vai trong loạt phim truyền hình Taken của đạo diễn Steven Spielberg. Đây quả là thử thách lớn cho diễn viên nhí của chúng ta bởi cô bé phải vào vai một đứa trẻ người ngoài hành tinh, nhưng cuối cùng Dakota vẫn vào vai rất thành công. Năm 2003 quả là một năm bội thu của Dakota với vô số vai diễn quan trọng, hai năm tiếp theo cũng không kém phần rực rỡ khiến cô bé trở thành nữ diễn viên nhí bận rộn nhất Hollywood.
Tuy đã trở thành diễn viên chuyên nghiệp nhưng Dakota vẫn không quên sở thích sưu tầm búp bê từ thuở bé. Ngoài ra cô bé còn góp rất nhiều đồ vật cho Chiến dịch núi đồ chơi 2005 trong cuộc thi mang tên Dakota Fanning Contest với mục đích tặng quà cho những đứa trẻ kém may mắn khác. Cô còn là thành viên chính thức của Hội Chữ Thập Đỏ để tham gia các hoạt động từ thiện, cứu trợ trên thế giới. Dakota quả là một cô bé tài năng có trái tim nhân hậu, một tương lai sáng rực đang chờ thiên thần đáng yêu này ở phía trước.
Là người đàn ông hấp dẫn và quyến rũ nhất Hollywood, George đã đạt được những thành công trên cả hai lĩnh vực điện ảnh và truyền hình. Không chỉ dừng lại ở đó, anh chàng “chủ mưu” trong "Ocean’s Eleven" này đang ôm mộng làm tổng thống.
Ở Mỹ vốn chẳng có gì là không thể xảy ra, chuyện những diễn viên “chán” nghệ thuật “thèm” chính trị đã không còn là sự lạ. Cựu tổng thống Ronald Reagan từng là diễn viên rất nổi tiếng hay người hùng cơ bắp Arnold Schwarzenegger cũng hoàn thành tốt trách nhiệm của một vị thống đốc mẫu mực tại bang California. Còn George thì từ trước đến nay cũng dành mối quan tâm đặc biệt cho chính trị và những vấn đề nổi cộm trên thế giới. Giờ đây, ý định gia nhập chính trường của anh không còn là điều bí mật. Nếu không có gì thay đổi, George sẽ tham gia tranh đua tại kỳ bầu cử năm 2008.
Sinh ra trong một gia đình có nhiều người nổi tiếng, ngay từ nhỏ George đã được làm quen với ánh đèn sâu khấu và tiếng vỗ tay tán thưởng của khán giả. Mới lên 5, anh đã được dắt đến trường quay và đứng trên sân khấu với cha ông là Nick Clooney. Nhưng niềm đam mê thực sự lúc này của anh lại là chơi bóng chày. Tiếc thay George đã không đủ điều kiện để ghi danh vào đội bóng yêu thích Cincinnati Reds, thêm vào đó anh cũng không mấy mặn mà với đại học Northern Kentucky và cho rằng chuyện học hành không phù hợp với mình. Đúng lúc đó, chú Jose Ferrer định làm một bộ phim về đua ngựa và có ý định rủ rê ông cháu cưng cùng tham gia. Tuy tác phẩm này chưa từng được phát hành nhưng vai phụ trong đó đã giúp đánh thức tài năng và đam mê diễn xuất trong George. Cha anh lại không cho rằng đó là con đường đúng đắn và khuyên anh nên cố học để lấy tấm bằng phòng thân sau này, nhưng George lại nghĩ khác. Với quyết tâm theo đuổi những gì mình đã lựa chọn, anh dành cả mùa hè năm 1982 đi cắt thuốc lá thuê, tích cóp tiền để trang trải cho chuyến đi tới Los Angeles.
Với 300 USD trong túi, George hăm hở hướng tới “miền đất hứa” Hollywood nhằm biến giấc mơ của mình thành hiện thực. Nơi đầu tiên anh đặt chân đến là nhà Rosemary Clooney, nhưng bà cô ruột lại chẳng có vẻ hào hứng đón chào thằng cháu tuổi đời và tiền đều ít, lại chẳng nghề ngỗng gì. Bà đành thuê anh làm chân tài xế khi đi lưu diễn với 40 ca sĩ khác. Sau chuyến đi dài ngày đó, George quyết làm một bước đột phá với vô vàn lượt thử vai. Rút cục anh cũng có được công việc diễn xuất chuyên nghiệp đầu tiên trong một đoạn phim quảng cáo bia. Không nản chí George lại tiếp tục lao đầu đi thử vai hết lần này đến lần khác và tham dự các lớp đào tạo diễn xuất của Milton Katselas. Vận may mỉm cười với anh khi một trong những đoạn phim của lớp học đến được tay nhà sản xuất. George bắt đầu học cách “uốn éo” trước ống kính máy quay với những vai diễn trên truyền hình và màn ảnh rộng. Sau nhiều nỗ lực không mệt mỏi, thế giới đã biết đến anh với vai diễn bác sĩ Doug Ross, bộ phim này đã giành được thành công vang dội.
Sự nghiệp của George lên như diều gặp gió và chuyển sang lĩnh vực sản xuất và đạo diễn phim ảnh. Dù ở “mặt trận” nào, anh cũng gặt hái những thành công nhất định và được mọi người yêu mến bởi phong cách giản dị và nhiệt tình. George đặt biệt ghét “bệnh ngôi sao” và luôn gần gũi các fan nhí của mình, sẵn sàng ngồi buôn dưa lê với chúng cả tiếng đồng hồ khi nghỉ giữa các cảnh quay tại phim trường hay sà vào chơi bóng với lũ trẻ ngay trên được phố. Anh luôn nhận được những lời khen của các hàng xóm vì sự khiêm tốn và tốt bụng của mình. Tuy nhiên sự cởi mở quá của George đã phải phải trả giá bằng nhiều phen vất vả với những đối tượng quá tò mò. Giờ đây, đi đâu anh cũng có vệ sĩ và người hộ tống kè kè bên cạnh.
George rất ít đề cập đến chuyện đời tư hay hôn nhân, sau khi ly dị với Talia Balsam, anh phát biểu rất hùng hồn sẽ không bao giờ lấy vợ hay có con gì nữa. Michelle Pfeiffer và Nicole Kidman từng đặt cược mỗi người 10.000 USD rằng George sẽ làm cha trước khi bước sang tuổi 40, nhưng họ đã nhầm và anh thì nhận được 2 tấm séc. Tuy nhiên George đã trả lại tiền và đặt cược gấp đôi rằng anh sẽ không có con từ giờ đến lúc đạt ngũ tuần. Kết quả ra sao thì chưa rõ bởi bây giờ tài tử đẹp trai của chúng ta mới 45 tuổi, còn nửa quãng đường cho vụ cá cược đang chờ anh ở phía trước.
Bộ râu bàn chải, chiếc mũ quả dưa, gậy tre và những bước đi nhí nhảnh đã đưa một người đàn ông nhỏ bé trở thành biểu tượng vĩ đại cho kỉ nguyên phim và kịch câm. Những thước phim đen trắng của “Vua hề Sác-lô” đã thực sự giúp cho cuộc sống trở nên rực rỡ sắc màu.
Charles Spencer Chaplin sinh ngày 26/4/1989 tại thành phố London. Cả cha mẹ Charlie đều công tác trong lĩnh vực âm nhạc nghệ thuật nên ông biết hát từ khi chưa biết nói và biết nhún nhẩy ngay khi đôi chân chập chững tập đi. Người ta bảo rằng Charlie sẽ trở nên nổi tiếng toàn thế giới và từ đó trở đi, đây chính là mục tiêu phấn đấu cả đời của ông
Khi Charlie mới lên 5, ông đã phải lên sân khấu hát thay mẹ vì bà bị ốm và khàn giọng không thể ra biểu diễn. Thật bất ngờ, khán giả rất yêu thích nghệ sĩ opera nhí này và liên tiếp ném tiền lên sân khấu. Sau 3 năm làm quen với ánh đèn nghệ thuật, Charlie bắt đầu xuất hiện trong một màn kịch nhảy guốc Eight Lancashire Lads. Một lần nữa, cậu bé người nhỏ thó đã khiến người xem hết lòng tán thưởng, và Charlie cũng rất phấn khích với tiếng vỗ tay rào rào từ phía dưới vọng lên. Chỉ trong một thời gian ngắn, ông nhanh chóng trở thành một trong những diễn viên nhí được yêu thích nhất ở Anh.
Khi Charlie được 12 tuổi, cha ông qua đời ở tuổi 37 vì nghiện rượu nặng. Mẹ Charlie bị chứng loạn thần kinh mãn tính sau cái chết của chồng, bệnh tình của bà trở nên ngày càng trầm trọng và anh em Charlie phải chuyển vào nhà tế bần để sống. Có lần mẹ ông lên cơn và bị chuyển hẳn vào trại tâm thần, Charlie hoàn toàn cô độc và phải sống lang thang bên hè phố. Sau này khi tình trạng của bà tốt hơn, bà đón các con về và làm nghề may vá nuôi chúng. Để đỡ đần mẹ, Charlie đã làm rất nhiều việc ở tiệm cắt tóc, quầy tạp phẩm, phòng khám của bác sĩ, nhà máy sản xuất thủy tinh, cửa hiệu của Chandler và một chi nhánh in ấn. Cuộc sống vất vả này kéo dài suốt gần 3 năm và chấm dứt hẳn khi ông trở lại với niềm đam mê diễn xuất của mình.
Charlie có cơ hội đặt chân lên sân khấu chính thức khi ông 14 tuổi. Charlie vào vai cậu bé sai vặt của thám tử Sherlock Holmes. Sau đó, ông khởi đầu với vai trò diễn viên hài chuyên nghiệp trong các vở kịch vui. Năm 1910, Charlie đến với nước Mỹ với tư cách diễn viên của công ty Biểu diễn nghệ thuật Fred Karno. Ông đã nhanh chóng chiếm được cảm tình của khán giả Mỹ với vở ca kịch ngắn A Night in an English Music Hall. Khi đoàn kịch trở lại đây vào khoảng mùa thu năm 1912, Charlie đã được mời ký hợp đồng diễn trong một bộ phim điện ảnh. Sự nghiệp của ông chuyển hướng từ sân khấu sang màn ảnh rộng. Thu nhập khởi điểm của Charlie chỉ là 150 USD một tuần nhưng sau thành công vang dội của các bộ phim ông đóng, Charlie đã được nhiều nhà sản xuất để mắt tới. Một loạt tác phẩm kinh điển ra đời như The Floorwalker, The Fireman...
Hợp đồng với hãng Mutual Film Corporation hết hạn vào năm 1917, Charlie hoàn toàn trưởng thành và bắt đầu khởi nghiệp với tư cách nhà sản xuất độc lập nhằm có được sự tự do và cũng là để thỏa mãn thú vui khi tự mình làm phim. Charlie rất bận rộn với công việc xây trường quay tại Đại lộ La Brea ngay trung tâm Kinh đô điện ảnh Hollywood. Đầu năm 1918, ông bắt đầu cho ra lò khá nhiều tác phẩm xuất sắc như A Dog’s Life, The Bond, Shoulder Arms… với nội dung liên quan đến chiến tranh và chính trị.
Để chuẩn bị giải nghệ, Charlie đến châu Âu tháng 9/1921 lưu diễn, khán giả tại các thành phố lớn như London, Paris, Berlin và tại một số thủ đô khác đã đón chào ông hết sức nồng nhiệt. Sau đó, Charlie tự thưởng cho mình một kỳ nghỉ dài rồi trở lại Hollywood, rút hẳn vào sau hậu trường.
Vốn là một người đa tài, Charlie rất thích viết lách, âm nhạc và thể thao. Gia tài của ông cũng kha khá đầy với nhiều cuốn sách hay và kịch bản thú vị. Vốn chẳng học qua trường lớp chính quy nào nhưng Charlie có thể chơi rất nhiều loại nhạc cụ và sáng tác được một loạt ca khúc nổi tiếng. Ông là một trong số ít người có thể tự sản xuất, tự trang trải, tự biên kịch, tự diễn xuất, tự đạo diễn, tự viết nhạc nền cho các bộ phim.
Mặc dù ông gây không ít rắc rối với chuyện yêu đương và hôn nhân phức tạp, Charlie Chaplin đã để lại ảnh hưởng lớn cho giới điện ảnh cũng như người dân đầu những năm 90. Ông đã đem lại nụ cười cho nhiều người hơn bất kỳ ai trên thế giới này và thực sự thay đổi cách người ta đối xử với cuộc sống. Tất cả các bộ phim của ông đều dành cho giai cấp lao động, tầng lớp bị áp bức với sự thông cảm sâu sắc nhất. Điều thú vị là toàn bộ nội dung đều kể về cuộc đời của chính Charlie. Con người tài năng này qua đời vào đúng Noel năm 1977 và được coi là một trong những ngôi sao vĩ đại nhất của điện ảnh Hollywood từ xưa đến nay.
Lãng tử và hào hoa trong các vai diễn như Braveheart, Forever Young, chàng diễn viên kiêm đạo diễn khởi đầu sự nghiệp một cách tình cờ nhưng đã trở thành một siêu sao điện ảnh thế giới.
Mel Gibson sinh ngày 3/1/1956 tại New York, Mỹ nhưng từ năm 1968, gia đình anh chuyển đến sống tại New South Wales, Australia sau một tai nạn lao động của bố anh – một công nhân làm trong nhà ga xe lửa. Sau khi tốt nghiệp phổ thông, anh thi vào trường Đại học New South Wales và bắt đầu theo đuổi nghiệp diễn xuất. Mới đầu các vai diễn đầu tiên của anh khá khiêm tốn trên sân khấu và một số phim truyền hình. Cú đột phá đầu tiên là vai diễn trong phim hành động Mad Max năm 1979 sau khi đạo diễn George Miller phát hiện ra tài năng tiềm ẩn trong anh. Bộ phim được phát hành rộng rãi ra nước ngoài và trở thành bộ phim thành công nhất về thương mại trong lịch sử điện ảnh Australia.
Tuy nhiên phải đến năm 1984 Mel Gibson mới đặt bước chân đầu tiên vào Hollywood với bộ phim The Bounty. Braveheart do anh làm đạo diễn kiêm diễn viên chính là bộ phim thực sự đưa tên tuổi anh vào hàng ngũ sao Hollywood với hai giải Oscar dành cho Đạo diễn xuất sắc và Phim có hình ảnh đẹp. Năm 1996 anh đoạt giải Quả cầu vàng dành cho Đạo diễn xuất sắc. Một chi tiết hài hước khi làm bộ phim này, ban đầu Mel Gibson từ chối vai diễn vì tự cho mình quá già cho vai William Wallace và đề nghị chỉ làm đạo diễn. Nhưng các nhà làm phim chỉ ký hợp đồng cho anh làm đạo diễn với điều kiện anh vào vai William Wallace. Mel Gibson không còn cách nào từ chối. Ngược lại, năm 1992 khi phải xuất hiện một cách già nua trong một số cảnh của bộ phim Forever Young, anh phải dùng phấn nâu và bút chì để tạo nếp nhăn quanh đôi mắt sáng màu xanh da trời.
Đến nay Mel Gibson vẫn khẳng định vị trí vững chắc của mình trong làng giải trí Hollywood như một diễn viên, một đạo diễn tài năng. Anh còn có một hãng sản xuất phim riêng mang tên Icon Productions. Năm 1997 anh được tạp chí Empire bình chọn là một trong số 100 ngôi sao điện ảnh mọi thời đại. Hai năm trước đó anh là một trong 100 ngôi sao quyến rũ nhất trong lịch sử điện ảnh cũng do tạp chí này bình chọn.
Năm 2003, anh là cái tên khiến giới báo chí tốn không ít giấy mực với vị trí đứng đầu danh sách tạp chí Forbes khi kiếm được 210 triệu USD, đặc biệt sau bộ phim The Passion of the Christ. Anh cũng là diễn viên người Australia đầu tiên được trả thù lao 1 triệu USD cho một vai diễn.
Tháng 6/1980 anh kết hôn với Robyn Moore – một người anh quen qua dịch vụ hò hẹn. Hai người có một cuộc sống hạnh phúc với bảy người con. Nói về người vợ thân yêu của mình, Mel Gibson không giấu vẻ tự hào: “Không có sự cứu rỗi bên ngoài nhà thờ, nhưng tôi tin rằng vợ tôi là một vị thánh. Cô ấy tốt hơn tôi rất nhiều”. Mel Gibson luôn thể hiện là một người đàn ông chỉn chu, không rơi vào vòng xoáy của các scandal. Là một người nổi tiếng, hào hoa trong các vai diễn, nhưng trong gia đình, anh lại là một người bố rất có trách nhiệm trong việc chăm sóc con cái. Anh có một phương châm sống rất giản dị trong việc gìn giữ hạnh phúc là: Không lo lắng về tương lai hay thất vọng về quá khứ quá nhiều.
Đã trạc ngũ tuần, nhưng chàng diễn viên điện ảnh điển trai vẫn làm cho nhiều trái tim cô gái phải loạn nhịp bởi nét diễn xuất lột tả nội tâm vô cùng tinh tế. Hiện anh say đắm trong tình yêu với cô người mẫu kiêm thiết kế thời trang Chris Baumgartner.
Anh sinh ngày 18/1/1955 tại California, bố là công nhân ngành điện, vì thế gia đình anh chuyển chỗ ở liên tục theo yêu cầu công việc của bố. Lúc nhỏ Kevin tham gia đội hợp xướng của nhà thờ. Anh còn rất thích viết văn, làm thơ và tham gia các hoạt động thể thao của trường.
Đã trạc ngũ tuần, nhưng chàng diễn viên điện ảnh điển trai vẫn làm cho nhiều trái tim cô gái phải loạn nhịp bởi nét diễn xuất lột tả nội tâm vô cùng tinh tế. Hiện anh say đắm trong tình yêu với cô người mẫu kiêm thiết kế thời trang Chris Baumgartner.
Anh sinh ngày 18/1/1955 tại California, bố là công nhân ngành điện, vì thế gia đình anh chuyển chỗ ở liên tục theo yêu cầu công việc của bố. Lúc nhỏ Kevin tham gia đội hợp xướng của nhà thờ. Anh còn rất thích viết văn, làm thơ và tham gia các hoạt động thể thao của trường.
Kevin Costner tốt nghiệp đại học California chuyên ngành kinh doanh vào năm 1978 và trở thành một nhân viên marketing bình thường. Sau đó anh kết hôn với cô bạn gái học cùng trường đại học tên là Cindy Silva. Cindy cũng từng tham gia vai diễn nàng Bạch Tuyết của Hãng Walt Disney. Cuộc sống bình dị trôi đi như bao người bình thường khác nếu như không có một lần anh gặp nam diễn viên Richard Burton trên một chuyến bay. Chính con người này đã nhìn ra tố chất của một diễn viên điện ảnh ở Kevin Costner và chân thành khuyên anh nên theo nghiệp diễn xuất.
Nghe theo lời khuyên của Richard Burton, Kevin Costner quyết định rẽ ngang để theo đuổi nghệ thuật. Vạn sự khởi đầu nan, anh chấp nhận làm đủ mọi nghề, từ lái xe tải đến làm việc trên những con tàu đánh cá. Sự nghiệp điện ảnh mở ra với anh với bộ phim Bull Durham và Field of Dreams. Nhưng anh chỉ thực sự đánh dấu tên tuổi của mình trong làng giải trí Hollywood với bộ phim Dances With Wolves, bộ phim đã giành 7 giải Oscar năm 1990, trong đó có giải Phim hay nhất và Đạo diễn xuất sắc dành cho Kevin Costner.
Sự nghiệp mở ra cũng đồng nghĩa với những đổ vỡ hôn nhân, như bao diễn viên điện ảnh khác, Kevin Costner chia tay Cindy Silva - người đã gắn bó với anh trong suốt 16 năm trời và có với nhau ba người con. Sau cuộc ly hôn, Kevin trở lại với cuộc sống độc thân phóng khoáng với môn thể thao ưa thích của mình là golf. Anh còn xây dựng một sân golf nơi dựng cảnh cho bộ phim Dance With Wolves.
Cuộc tình tiếp theo với người mẫu kiêm thiết kế thời trang Christine Baumgartner kéo dài cho đến tận bây giờ đã mang lại cho Kevin nhiều hạnh phúc. Một điều thú vị là Christine cũng từng tốt nghiệp chuyên ngành kinh doanh tại trường Đại học California nơi anh theo học. Anh gặp cô năm 1995 tại một sân golf và nhanh chóng bị cô hút hồn bởi trang phục thể thao khỏe khoắn dễ thương. Nhưng phải đến 4 năm sau đó, họ mới gặp lại trong lễ khai trương nhà hàng của Kevin tại California. Năm 2000 anh quyết định đính hôn cùng Christine và vô cùng tự hào về cô. Ba năm sau họ chính thức kết hôn.
Năm 2003, Kevin Costner vinh dự nhận ngôi sao trên Đại lộ Danh vọng tại Hollywood. Người xem khắp nơi trên thế giới vẫn chờ đợi ở anh những vai diễn hành động và thể hiện nội tâm sâu sắc.
Được mệnh danh là người hùng cơ bắp của Hollywood, diễn viên điện ảnh tài danh còn bước lên vũ đài chính trị với cương vị là Thống đốc bang Carlifornia, Mỹ.
Arnold Schwarzenegger sinh ngày 30/7/1947 tại một làng quê nhỏ và biệt lập ở Styria, Áo. Từ nhỏ anh đã được nuôi dạy một cách nghiêm khắc. Ý thức được những thiệt thòi về nơi xuất xứ của mình, anh sớm xác định luyện tập thể hình vì một cuộc sống tốt đẹp hơn. Anh tham gia 1 năm nghĩa vụ quân sự trong quân đội Áo năm 1965. Sau khi chinh phục thế giới bằng danh hiệu người đàn ông có hình thể đẹp nhất với hàng loạt các giải thưởng thể hình, nâng tạ, anh đến Mỹ với mong muốn tạo dựng danh tiếng trong bộ môn nghệ thuật thứ bảy.
Tuy nhiên thành công vẫn né tránh anh trong nhiều năm đầu bởi cái tên trúc trắc cũng như chất giọng khá nặng cho đến khi anh tìm được vai diễn trong bộ phim Conan the Barbarian (1982) mặc dù trước đó anh đã giành giải Quả cầu vàng trong Stay Hungry (1976). Tiếp đó, một loạt các vai diễn trong các phim hành động thành công hơn cả mong đợi đã đưa tên tuổi anh trở thành ngôi sao hàng đầu thế giới. Các vai hành động của anh được thay đổi yếu tố bạo lực bằng những chi tiết hài hước nhẹ nhàng rất thu hút khán giả. Bộ phim ghi dấu ấn rõ nét nhất cho thành công của Arnold là The Terminator (1984) của đạo diễn James Cameron. Đặc biệt với Terminator phần 3 (2003), Arnold nhận mức cát-xê cao kỷ lục - 30 triệu USD.
Sau một sự nghiệp điện ảnh thành công, giờ đây Arnold là Thống đốc bang California. Anh bắt đầu bước lên võ đài chính trị này từ ngày 7/10/2003. Arnold là vị thống đốc thứ hai trong lịch sử bang Carlifornia sinh ra ở nước ngoài. (Người đầu tiên, thống đốc thứ 7 của bang tên là John Downey sinh tại Ireland và giữ nhiệm kỳ 1860 – 1862). Trách nhiệm của anh rất nặng nề với việc cứu vãn ngành công nghiệp điện ảnh Hollywood và tạo việc làm trực tiếp cho một bộ phận dân cư lớn ở Nam California. Là một người từng hoạt động lâu năm trong lĩnh vực điện ảnh, Arnold đã đưa ra nhiều chính sách như bố trí các nhân vật gạo cội vào những vị trí chủ chốt để giữ lại những dự án làm phim; giảm thuế cho các bộ phim quay trong bang, đưa ra nhiều chính sách hỗ trợ các nhà làm phim… Tuy nhiên, sau hai năm đương chức, ngài thống đốc không khỏi giật mình vì thâm hụt ngân sách lên tới mức 38 tỷ USD. Có lẽ vì lý do này mà Arnold có dự định quay trở lại phim trường sau khi kết thúc nhiệm kỳ này.
Về đời tư anh cũng là người thành công, không giống như phần lớn các diễn viên điện ảnh tên tuổi khác, anh có gia đình hạnh phúc với người vợ Maria Shriver. Sau 8 năm hẹn hò, hai người kết hôn vào năm 1986 và có 4 đứa con. Maria có họ hàng với cố tổng thống Mỹ John F. Kennedy.
Giờ đây tên tuổi của diễn viên kỳ cựu Rowan Atkinson đã gắn liền với khuôn mặt nhăn nhó khôi hài của Mr. Bean. Nhưng nếu ai đó nghĩ rằng Rowan làm khán giả “lăn lộn” qua phim ảnh nghĩa là ngoài đời cũng có thể chọc cười mọi người thì hoàn toàn sai lầm.
Từ nhỏ Rowan đã không hề tỏ ra mình là một cậu bé nghịch ngợm quậy phá, thậm chí còn rất nghiêm túc nhưng có điều hơi trầm tư. Hễ có điều gì cần động não thì khuôn mặt của Rowan lại trở nên khôi hài kỳ lạ và đó chính là nét riêng giúp anh giành được thành công trong sự nghiệp diễn xuất sau này.
Thời còn đi học, Rowan thường mơ mộng thả hồn theo những suy nghĩ lung tung mà không nhận ra giáo viên đang gọi tên mình nãy giờ, những lúc như vậy anh chỉ toét miệng cười. Chính vì những nét kỳ quặc đó mà bạn bè thường gọi anh là “người ngoài hành tinh – miệng rộng đến mang tai”. Cả trường thì cho rằng anh là một thằng ngố ngớ ngẩn vì cái sự ngây thơ khủng khiếp. Ví dụ ai đó nói rằng lưng anh trắng hếu thì ngay lập tức Rowan sẽ kiếm cái bàn chải đứng trước gương cọ cọt suốt ngày. Chỉ một người duy nhất không cười nhạo anh là cậu bạn học nghiêm túc Tony Blair quan tâm đến việc học hơn là cái mặt nhăn nhó của Rowan.
Mặc dù đã cố gắng nhưng dường như cuộc sống thuở ấy của anh không bình thường như mong muốn. Bù lại thành tích học tập của Rowan lại cực kỳ dáng nể, với điểm số ngất ngưởng ở hai môn Toán và Vật lý, anh đã được vào thẳng khoa Kỹ thuật của Đại học Oxford. Buồn thay ở đây, người ta lại tiếp tục cười nhạo vẻ lạ lùng của anh, khiến anh cảm thấy mình bị đối xử như kẻ lập dị. Trong cái rủi lại có cái may, tình cờ Rowan quen Richard Kertis, một người có nhiều ảnh hưởng đối với phong trào nghệ thuật sinh viên. Chính Richard đã khuyên anh thử sức với nghệ thuật diễn hài và một tài năng đã được khai quật.
Mặc dù chưa qua trường lớp đào tạo về nghệ thuật nào nhưng Rowan đã đạt được những thành công đáng nể đặc biệt là với những màn độc diễn trên sân khấu. Trong một lần chuẩn bị cho tiết mục biểu diễn, Rowan uốn éo trước gương hàng tiếng đồng hồ để thử trang phục nhưng Kertis không hề hài lòng với bất kỳ bộ nào lấy từ nhà hát. Kertis đã nói với anh rằng trang phục thường ngày là bộ hợp nhất với khuôn mặt nhăn nhó của anh. Cuối cùng Rowan đã ra diễn với chiếc áo khoác tầm thường và số phận của anh đã được quyết định từ hôm đó. Thành công của buổi diễn đã buộc danh hài phải tạm biệt mái trường Oxford thân yêu để tiếp tục bước đi trên con đường nghệ thuật. Ngoài ra, đó cũng là mốc son đánh dấu sự xuất hiện nhân vật để đời trong sự nghiệp: Mr. Bean. Chiếc áo khoác cũ sờn và những mảnh vá ở khuỷu tay đã trở thành trang phục không thể thay đổi của Mr. Bean đến tận ngày nay. Rất nhiều cô gái từng “hắt hủi” Rowan sau lần đầu tiếp xúc vì bộ mặt nhăn nhó bất bình thường nhưng khi loạt phim truyền hình về Mr. Bean thu được 123 triệu bảng Anh trong vòng một năm thì họ hoàn toàn choáng váng. Fan của Rowan thì đủ mọi lứa tuổi, tầng lớp, giai cấp, quốc tịch trên toàn thế giới. Bọn trẻ con thì ra sức bắt chước điệu bộ của Mr. Bean dù bị các bậc phụ huynh ngăn cấm. Khán giả phương Tây thì trầm trồ trước sự hóm hỉnh của các tập phim. Chỉ riêng giới chính khách Anh lại không đồng tình với hình ảnh của một anh chàng suốt ngày rơi vào những tình huống ngớ ngẩn, theo họ anh chỉ làm mọi chuyện trở nên chán ngắt với cái sự vụng về vô duyên của mình. Lý do thật dễ hiểu, người Anh vốn nổi tiếng với những quý ông lịch thiệp hoàn hảo, họ không chấp nhận một nhân vật ngốc nghếch như Mr. Bean.
Mặc kệ sự lạnh lùng của ông bạn học Tony Blair và những quan chức khác, Rowan vẫn lên như diều gặp gió trong sự nghiệp của mình với các vai diễn khác như trong Never Say Never Again, Four Weddings and a Funeral, gần đây nhất là Rat Race. Tuy nhiên, một điều không thể phủ nhận, vai Mr. Bean là vai diễn thành công nhất đời anh. Thậm chí, giờ đây dường như Rowan có cuộc sống thứ hai trong vai Mr. Bean, người ta quen hét lên “Nhìn kìa Mr. Bean!” mỗi khi anh xuất hiện, các cuộc phỏng vấn cũng thực hiện dưới cái tên Mr. Bean và ngày bộ phim này ra mắt công chúng được lấy làm ngày Rowan tổ chức sinh nhật. Cùng với hình tượng Mr. Bean, Rowan Atkinson đã thực sự đi vào lòng công chúng mến mộ khắp thế giới.
Xinh đẹp, nét diễn xuất tinh tế, nhưng dường như số phận đã không ưu ái cô với những giải thưởng điện ảnh lớn như các minh tinh màn bạc khác.
Meg Ryan sinh ngày 19/11/1961 tại Connecticut, Mỹ và trải qua một tuổi thơ không hề hạnh phúc. Cha cô là một giáo viên dạy toán ở trường phổ thông, ông một mình gà trống nuôi con khi bà mẹ cô không cam chịu làm một người nội trợ đã bỏ nhà đi theo con đường diễn xuất. Sau này chính mẹ là người giúp Meg Ryan theo đuổi chính con đường bà đã chọn.
Tốt nghiệp phổ thông, Ryan theo học tại Đại học New York chuyên ngành báo chí. Điện ảnh bất ngờ trở thành duyên nợ với cô khi đang học năm thứ 2, cô được mời tham gia diễn xuất trong phim Rich and Famous của đạo diễn George Cukor. Bộ phim thành công với nét diễn xuất trẻ trung mới lạ của một diễn viên không chuyên với cái tên chưa bao giờ được biết đến trên màn ảnh - Meg Ryan. Bộ phim cũng là một điểm mốc đánh dấu sự “sang ngang” của Meg Ryan với việc bỏ dở việc học tại Đại học New York khi 22 tuổi để sang làm việc trong lĩnh vực truyền hình.
Meg Ryan quay trở lại với điện ảnh với bộ phim Amityville III: The Demon. Tuy nhiên bộ phim đánh dấu thành công của Meg phải kể đến là Top Gun, đóng chung với Tom Cruise. Cũng chính dịp này, cô đã kết hôn với diễn viên Anthony Edwards. Cuộc hôn nhân đầu kéo dài chẳng được bao lâu. Người đàn ông thứ hai bước vào cuộc đời cô năm 1991 là Dennis Quaids, họ đã có với nhau một đứa con trai tên là Jack Henry. Có lẽ đó là định mệnh chung của những người làm nghệ thuật vốn bận rộn và có cuộc sống hết sức phức tạp, Meg chia tay chồng năm 2003 sau khi cặp kè với nam diễn viên điện ảnh nổi tiếng Russell Crowe. Cô bị cuốn vào sự nghiệp điện ảnh với cả công việc diễn xuất và đạo diễn. Năm 1993, Meg Ryan thành lập hãng phim Fandango Films, sau đổi tên là Prufrok Pictures theo một bài thơ của T.S. Eliott mang tên The Love Song of J.Alfred Prufrock.
Khá lãng mạn trong tính cách, có lẽ vì vậy mà Meg Ryan còn rất say mê nghệ thuật nhiếp ảnh. Cô có một ý thích tinh nghịch và kỳ cục là chụp chính các thợ săn ảnh ở những tư thế tức cười của họ. Cô còn thích chụp các thần tượng của mình cũng như những người nổi tiếng. Vừa là một sở thích, cô còn kinh doanh bằng chính những tấm ảnh chụp được.
Nhắc đến "Indiana Jones" không thể không nhắc tới diễn viên có đôi mắt nheo đầy nhân hậu Harrison Ford. Những cuộc phiêu lưu kỳ thú của ông tiến sĩ Jones đã khiến khán giả khắp thế giới cười chảy nước mắt. Nhưng ít ai biết ông thợ mộc Harrison từng trải qua biết bao khó khăn mới có được ngày hôm nay.
Harrison Ford sinh ngày 13/07/1942, tại thành phố Chicago. Harrison mang trong mình đến 4 dòng máu: Ireland, Latin, Nga và Do Thái; do cha mẹ ông đếu là người mang 2 dòng máu trong người. Khi còn là học sinh trung học, Harrison thường hay bị bạn bè cùng lớp bắt nạt và thường không được các cô gái để mắt tới. Năm 1960, sau khi tốt nghiệp trường trung học Maine Township ở Park Ridge, Harrison thi đỗ vào khoa Điện ảnh ở Đại học Ripon.
Năm 1964, Harrison kết hôn với người bạn gái học cùng trường đại học. Sau đó, đôi vợ chồng mới cưới chuyển đến Los Angeles, Califonia, và Harrison ký hợp đồng với hãng phim Columbia Pictures với mức lương 150 USD một tuần cho 3 vai diễn nhỏ trong các phim của hãng. Không lâu sau đó, Harrison lại tìm vận may với Universal Studios và lần này thì ông chuyển sang đóng phim truyền hình nhưng vẫn chỉ là những vai phụ, thứ yếu trong phim.
Sau bộ phim truyền hình Ironside, thất vọng trong nghề nghiệp, Harrison rất buồn và quyết định tự học nghề thợ mộc để mưu sinh. Tuy nhiên bốn năm sau đó, với niềm đam mê vẫn còn cháy bỏng, Harrison Ford đã quay trở lại phim trường và có ngay vai diễn đột phá đầu tiên trong American Graffiti (1973). Thật thú vị vai Bob Falfa này lại là một người thợ mộc!
Năm 1975, tình cờ đạo diễn George Lucas thuê Harrison đóng mấy chiếc ngăn tủ rồi nhờ Harrison đọc thử kịch bản của bộ phim Star Wars. Hai năm sau, chính đạo diễn Steven Spielberg đã đề cử Harrison cho vai diễn Han Solo và kể từ đó, Ford chính thức trở thành ngôi sao sáng giá trên bầu trời điện ảnh.
Năm 1981, ông nhận diễn vai Indiana Jones với cuộc phiêu lưu đầu tiên Raiders of the Lost Ark và từ đó tên tuổi Harrison Ford đã gắn liền với những cuộc phiêu lưu của người hùng Indiana Jones. Bốn năm sau, Harrison xuất hiện trong The Witness với vai diễn John Book. Vai diễn này đã đem lại cho ông một đề cử Quả Cầu Vàng và sau đó giúp ông đứng trên bục vinh quang nhận giải Oscar dành cho Diễn viên nam xuất sắc. Năm 2000, ông nhận giải Life Achievement Award của Viện Hàn lâm Điện ảnh Mỹ. Hiện nay, hai đạo diễn Geogre Lucas và Steven Spielberg đang có ý định mời Harrison tham gia tiếp phần bốn trong loạt phim phiêu lưu Indiana Jones. Thù lao dự kiến cho ông trong phần này là 30 triệu USD.
Harrison và vợ hiện đã ly dị sau 15 năm chung sống và có 2 người con trai tên Benjamin và Willard. Năm 1983, Harrison kết hôn lần thứ hai với Melissa Mathison, cô chính là tác giả kịch bản bộ phim E.T – The Extra Terrestrial, nhưng Harrison lại li dị vợ lần thứ hai. Kết quả của cuộc hôn nhân này là một bé trai và một bé gái tên là Malcom và Georgia. Sau một thời gian Harrison tiếp tục đính hôn cùng nữ diễn viên Calista Flockhart.
Ngoài công việc chính là diễn xuất, Harrison còn là một phi công chuyên nghiệp. Ông còn là chủ tịch Hiệp hội Thử nghiệm Hàng không của chương trình Young Eagle, thay thế cho Chuck Yeager đã nghỉ hưu. Ông sở hữu bộ sưu tập máy báy gồm một chiếc Bonaza, một chiếc Gulfstream IV, DeHavaland Beaver, và một chiếc trực thăng Bell 407. Ông thường xuyên dùng chiếc trực thăng này cho các hoạt động cứu trợ cho những vùng nghèo khó. Bản thân ông cũng tham gia vào rất nhiều hoạt động từ thiện và bảo vệ môi trường.
Là một trong những diễn viên được đánh giá là năng nổ nhất ở Hollywood hiện nay, Jackson đã có một quãng thời gian bận rộn với nghiệp diễn xuất. Với tốc độ phát hành phim nhanh chóng mặt, Jackson khiến người ta nghĩ ông là một diễn viên không mấy khó tính trong việc lựa chọn vai diễn.
Sinh ngày 21/12/1948 tại Washington DC và lớn lên tại Chattanooga, Tennessee với bà ngoại, Jackson sớm có nhận thức về vấn đề màu da và rất quan tâm tới những hình tượng diễn viên da đen trên phim ảnh.
Khi ông theo học tại Đại học Morehouse ở Atlanta, Jackson tham gia rất nhiệt tình phong trào ủng hộ những hoạt động của người da đen và bắt đầu có liên quan tới những hoạt động mang màu sắc chính trị trong trường. Suốt năm đầu, Jackson bị khiển trách và suýt bị đuổi khỏi trường vì dám thể hiện sự phản đối sự chênh lệch giữa đại diện da đen so với các màu da khác trong Ban quản trị trường bằng hành động khóa trái cửa nhốt vài vị ủy viên trong một tòa nhà. Mặc dù lựa chọn ngành kiến trúc, Jackson đã trở lại Morehouse sau hai năm bảo lưu tạm nghỉ, để giành được tấm bằng tốt nghiệp môn kịch nghệ năm 1972.
Jackson đã có duyên gặp gỡ người vợ yêu quý của mình là LaTanya Richardson khi cô theo học tại Đại học Spellman, một trường giống kiểu Morehouse. Vốn cùng là một sinh viên kịch nghệ, LaTanya cũng đi lưu diễn tại nhà hát Black Image cùng Jackson sau khi tốt nghiệp. Năm 1980, họ kết hôn và sau này có một cô con gái xinh xắn Zoe Jackson. Một năm sau ngày cưới, khi đang diễn trên sân khấu, ông gặp người bạn diễn Morgan Freeman và một sinh viên điện ảnh học tại Đại học New York là Spike Lee. Sau lần gặp mặt đó, Jackson bắt đầu tin tưởng vào thành công của mình.
Ông tham gia vào 4 bộ phim của Lee như School Days, Do the Right Thing, Mo’ Better Blues, và đặc biệt là với vai một con nghiện trong Jungle Fever, Jackson đã nhận được giải thưởng Diễn viên phụ xuất sắc tại Liên hoan phim Cannes.
Sau đó, số phận dường như đã an bài với Jackson khi ông chỉ nổi tiếng với những vai nhỏ trong Juice, True Romance, Menace II Society và Patriot Games. Nhưng đến năm 1994, một đạo diễn trẻ tuổi tính tình hơi ngông tên Quentin Tarantino đã mời ông vào vai Jules, một tên sát nhân nhẫn tâm cuồng tín trong Pulp Fiction. Bộ phim đã thành công rực rỡ còn nhân vật Jules trở thành hình tượng được khán giả nhớ mãi. Thậm chí Jackson còn nhận được một đề cử Oscar cho vai diễn này và sự nghiệp của ông thực sự cất cánh sau đó.
Các kịch bản được gửi ào ào đến cho Jackson, ông diễn xuất liên tục trong The Long Kiss Goodnight, Deep Blue Sea, The Negotiator, Unbreakable, và một bộ phim dựa theo tiểu thuyết của John Grisham A Time to Kill giúp Jackson có được sự nổi tiếng trên toàn thế giới.
Kể từ khi anh chàng thấp bé nhẹ cân này đóng cùng nữ mình tinh Cameron Diaz trong "There's Something About Mary", vị trí cây hài hàng đầu của Hollywood trong tay Ben Stiller dường như chưa bao giờ lung lay.
Khi mới là một cậu bé 8 tuổi, khuôn mặt nhắng nhắng của anh đã xuất hiện trên màn ảnh nhỏ. Sau 14 năm, anh được đạo diễn Steven Spielberg mời tham gia phim Empire of the Sun. Năm 1990, anh đã được xuất hiện trên một chương trình truyền hình riêng. Sự nghiệp của Ben cứ lên dần từng nấc thang thành công.
Ben Stiller dường như có máu hài hước ngay từ khi ở trong bụng mẹ. Khi đang mang bầu, cha mẹ anh đi tìm mua căn hộ. Người quản lý nhà đất đã hỏi mẹ anh: “Tôi có thể chạm vào bụng bà được không?”, và khi chắc chắn đó không phải là "đồ rởm", ông ta đã cho bà Stiller được ưu tiên mua nhà trước những người khác. Vài tuần sau, cậu bé Ben Stiller ra đời. Khu nhà nơi gia đình Ben ở có khá nhiều diễn viên qua lại. Cha anh là người Do Thái, mẹ người Ireland, nhưng ngành giải trí dường như ngấm vào họ như một thứ tôn giáo. Ben từng tâm sự: “Cha mẹ tôi không phải nghệ sĩ, nhưng họ luôn mong muốn được gia nhập giới này. Chúng tôi có thể thức khuya chỉ để cổ vũ một chương trình truyền hình hài hước nào đó”.
Lên 10, Ben được cha tặng một chiếc máy quay phim. Và anh không bỏ lỡ một cơ hội nào, quay hết thảy các bộ phim được trình chiếu, đặc biệt là những tác phẩm phác hoạ lại các thảm họa. Tất nhiên, khi đam mê môn nghệ thuật thứ 7 đến vậy thì con người Ben chẳng còn chỗ nào dành cho giảng đường. Anh tự châm biếm bản thân: "Trường học là địa ngục với tôi. Tôi không thể thích nghi với đám bạn ở trường và càng không thể chịu đựng nổi những giờ học kéo dài dường như vô tận. Quãng thời gian từ 13 đến 19 tuổi không thể coi là thần tiên với tôi, và tôi có cảm giác như mình cứ đì đẹt chậm lớn thế nào ấy”.
Rồi tiềm năng điện ảnh tương lai tìm đường đến đam mê của mình và bước ngoặt đã đến với anh năm 1986 với vở kịch The House of Blue Leaves của John Guare. Chớp ngay cơ hội, Stiller thuyết phục hai cộng sự nổi tiếng của mình là Swoosie Kurtz và Stockard Channing làm phim cùng anh với tác phẩm The Hustler of Money. Chẳng bao lâu sau chương trình Saturday Night Live để mắt đến anh. Và rồi Ben Stiller Show ra mắt công chúng, đoạt ngay giải thưởng cho chương trình truyền hình được yêu thích.
Ben tỏ ra không thích nhân vật Marcia trong show The Brady Bunch ra mặt và thường công khai bày tỏ thái độ của mình. Thế nhưng, ghét của nào trời trao của ấy, cuối cùng anh đã cầu hôn với chính nàng diễn viên đóng vai này. Sau 5 tháng gặp gỡ Christine Taylor, hai người đính hôn. Nửa năm sau, anh mời cô tham gia phim Zoolander do chính anh đạo diễn. Sau đó, họ lại hợp tác trong Dodgeball. Ben cho biết, anh rất ghét kiểu làm phim gia đình, đưa hết các thành viên họ hàng lên màn bạc, nhưng chẳng hiểu sao, anh lại thấy làm việc với Christine thật tuyệt vời. Trong quá trình làm Dodgeball, hai người khá vất vả vì phải trông nom cô con gái 2 tuổi. Mới bé tí nhưng cô bé đã tỏ ra có khiếu hài hước giống bố. “Con bé thật buồn cười, lúc nào cũng khanh khách cười, nghiến ngấu ăn và tỏ ra khá cá tính”, Ben thích thú bày tỏ.
Hiện tại, công ty sản xuất của Stiller đang ký hợp đồng với hãng Dreamworks của Steven Spielberg, theo đó, anh sẽ đảm nhận vai trò viết kịch bản, sản xuất và đạo diễn. Khi được hỏi liệu đó có phải là mục đích tối cao mà anh hướng tới, Stiller chỉ cười hiền đáp: “Mọi người bảo tôi như bị công việc ám ảnh, tôi nghĩ họ có lý, nhưng tôi không thể hiểu được khi mình tập trung làm công việc gì đó, mình lại không bị nó cuốn hút và sống chết với nó".
Vẻ đẹp lãng tử trầm lắng đầy quyến rũ với những vai diễn hút hồn, Richard Gere còn nổi tiếng là một người sùng đạo Phật và giàu lòng nhân ái với các hoạt động vì hòa bình trên toàn thế giới.
Sinh ngày 31/8/1949 tại Philadelphia, Mỹ, anh là con trai thứ hai của một nhân viên bán bảo hiểm. Từ nhỏ, Richard sớm thể hiện năng khiếu về âm nhạc, anh biết chơi nhiều loại nhạc cụ, đặc biệt là piano và sáng tác nhạc. Richard theo học khoa triết tại Đại học Massachusetts, nhưng sau hai năm, anh rời trường đại học để theo đuổi nghệ thuật. Năm 1973 anh bắt đầu vai diễn đầu tiên trong vở nhạc kịch Grease. Những năm sau đó Richard chỉ tham diễn những vai nhỏ.
Vai diễn đánh dấu bước ngoặt trong sự nghiệp diễn xuất của Richard Gere là vai một tù nhân trong vở kịch Bent trên sân khấu Broadway năm 1980, vai diễn đã mang lại cho anh giải thưởng Theatre World Award. Cùng năm đó, anh khẳng định chỗ đứng của mình trong nền điện ảnh Hollywood với vai diễn trong American Gigolo. Những năm sau đó anh theo chân các bác sĩ đến các trại tị nạn ở Honduras, Nicaragua và El Salvador để làm công tác xã hội. Anh là một người sùng bái đạo Phật. Chính những tư tưởng của đạo Phật đã có những ảnh hưởng tích cực đến cuộc sống của anh. Anh là một trong những thành viên sáng lập Tibet House, một tổ chức phi lợi nhuận bảo vệ nền văn hóa Tibean. Anh ủng hộ tích cực cho Survival International, một tổ chức bảo vệ những bộ tộc còn sót lại trên thế giới ở Amazon, Đông Phi, Argentina.
Vẻ đẹp nam tính trầm lặng của Richard Gere tiếp tục tỏa sáng trên màn bạc bên cạnh nụ cười triệu đô Julia Robert trong Pretty Woman và Runaway Bride.
Đời tư của Richard cũng không mấy yên ả. Năm 1991 anh kết hôn với siêu mẫu Cindy Crawford. Cũng năm này, anh được tạp chí People bình chọn là một trong 50 người đẹp nhất thế giới. Hôn nhân của cặp đôi đẹp như thiên thần được cả thế giới ngưỡng mộ này chỉ kéo dài được 4 năm. Không lâu sau, Richard tiếp tục hò hẹn với diễn viên Carey Lowell, họ có với nhau một cậu con trai.
Đến nay, mặc dù đã khá “đứng tuổi”, Richard Gere vẫn không mệt mỏi với các hoạt động xã hội. Mới đây anh vừa có cơ hội được sánh vai trong màn khiêu vũ đầy ngẫu hứng cùng Thủ tướng Nhật Bản Koizumi.
Với vầng trán cao, đuôi mắt nheo nheo và kiểu cười nhếch mép đặc biệt nam tính, Bruce Willis đứng vững trong lòng khán giả. Thế nhưng, ít ai biết rằng, trước khi hoàn thành "giấc mơ Mỹ", anh đã khởi nghiệp là một nhân viên bảo vệ.
Walter Bruce Willis sinh ngày 19/03/1955 tại Idar-Oberstein vùng Tây Đức nhưng được nuôi nấng và trưởng thành tại Mỹ, bang New Jersey, nơi mà anh đã theo học đại học Monkler. Trong thời gian theo học ở đây anh đã bộc lộ tài năng diễn xuất của mình khi ghi danh vào một nhóm kịch và tham gia trong các vở kịch của sinh viên. Tốt nghiệp xong Bruce vào làm bảo vệ trong nhà máy hoá chất nhưng chỉ một thời gian sau, khi cảm thấy nghề này không phù hợp, và cũng không cần nghĩ ngợi lâu, anh quyết định lên New York tìm kiếm cơ hội. Tất nhiên thời gian đầu ở New York cơ hội không hề đợi anh với đôi tay dang rộng, để sống được anh đã phải vất vả kiếm sống trong các quán bar.
Sau đó Bruce bắt đầu diễn trong các nhà hát nhỏ, bắt đầu đóng những vai phụ trong một số bộ phim như The first deadly sin, The Verdict. Cuối cùng thì số phận cũng mỉm cười với Bruce khi hãng Triada đã mời anh đến thử vai trong loạt phim Moonlighting, anh đã vượt qua đến 3000 ứng cử viên để vào vai chính. Nhân vật của Willis có sức lôi cuốn lạ lùng. Đó là một anh chàng hơi xấc xược, bộp chộp, hài hước, thường xuyên làm điều gì đó hay ho cho cô bạn gái. Khán giả hàng tuần vẫn theo dõi quan hệ của David Adisson và Maddie (Cybill Shepherd ) trong phim và cố đoán xem điều gì sẽ xảy ra giữa họ. Không lâu sau, loạt phim dài tập này đã vượt lên đứng đầu trong tốp những bộ phim được yêu thích nhất. Tiếc là sau 4 năm nổi tiếng, bộ phim bị ngưng lại do quan hệ của Bruce với Shepherd rất tồi tệ, công việc này khiến Bruce cảm thấy ức chế nên anh quyết định tạm biệt khán giả truyền hình để đến với màn ảnh rộng.
Khi Die hard ra mắt khán giả thì tên tuổi Bruce vụt sáng lên, nhân vật cùng những thủ đoạn thông minh, các vụ nổ bí ẩn, lời lẽ sắc bén đã trở thành dấu ấn của Bruce. Vào thời gian đó khi mà Stallon hay Schwarzenegger còn đang phải cố gắng tạo lên hình tượng các anh chàng người cuồn cuộn cơ bắp biết chọc cười khán giả thì Bruce hoàn toàn ngược lại, anh rất hợp với vai người hùng có máu hài hước
Mặc dù sự nổi tiếng của anh nhờ rất nhiều vào những vai hành động, Bruce vẫn muốn thử sức mình ở các thể loại khác nhau nhưng không phải lần thử nghiệm nào cũng thành công. Phim hài hành động Hudson Hawk đã lỗ vốn trong doanh thu, còn phim tâm lý Color of night các cảnh quay hình dường như chỉ hướng vào những đoạn tình tứ nóng bỏng của Bruce và Jane March. Theo ý kiến của một số fan, Bruce vẫn thuyết phục hơn trong vai hành động. Chính anh cũng thừa nhận trong các cuộc phỏng vẫn rằng có những lúc anh cảm thấy "không quen khi đóng phim mà không có khẩu súng trên tay".
Tuy nhiên nếu như trước đây anh từng vào vai người hùng cứu những tòa nhà chọc trời, những sân bay, các thành phố hay cả trái đất, nói chung ngăn ngừa thảm họa của thế giới thì bây giờ hình ảnh “Bruce Willis – Vị cứu tinh” đã đến lúc biến mất, có thể nói "người hùng" xứng đáng có một kỳ nghỉ. Willis từng phát biểu rằng anh đã mệt mỏi khi đóng các phim hành động và muốn thử sức trong thể loại hài và tâm lý rùng rợn. Hiện tại anh cũng đang cố gắng thực hiện điều mong mỏi này. The Sixth Sense là một trong những bộ phim đạt doanh thu kỷ lục, còn phim hài The whole nine yards cũng không đến nỗi nào, dù cho The story of us hay Breakfast of champions có hơi thất bại về mặt doanh thu nhưng không hề làm ảnh hưởng đến tiếng tăm của Bruce, phía trước còn rất nhiều cơ hội triển vọng đang chờ đợi anh.
Chúa không chỉ ban cho Brad Pitt vẻ ngoài đẹp trai mạnh mẽ như Hercules mà Ngài còn tặng anh tài năng diễn xuất, đem lại mức cát-xê cao ngất ngưởng, danh tiếng nổi khắp thế giới và hàng triệu phụ nữ mơ ước được bên anh dù chỉ 1 giờ.
Brad Pitt đã phải đi một chặng đường dài và đương nhiên cũng không mấy dễ dàng từ những vai nhỏ trong Another World và Growing Pains để đến với những vai diễn lớn hơn trong sự nghiệp. Anh từng từ chối khá nhiều vai nhỏ bởi nó không giúp anh có vị trí thống lĩnh về danh tiếng ở Hollywood. Cho nên chẳng có gì ngạc nhiên khi anh thích diễn trong Terminator IV: I Won’t Be Back After This, hoặc những phim cỡ lớn như vậy để làm vừa lòng các nhà quản lý phim trường, những người không bị sự tỏa sáng trên truyền hình của anh làm lóa mắt.
Chính tài năng đã giúp anh vượt qua những nam tài tử đẹp trai khác trở thành một ngôi sao thực sự của Hollywood chứ không đơn thuần là một “viên kẹo ngọt ngào” thu hút các quý bà quý cô. Sự xuất hiện của Brad Pitt trong Se7en, Fight Club và Interview With The Vampire đã giúp những bộ phim này giành được thành công lớn cả về doanh thu lẫn đánh giá chuyên môn và càng củng cố thêm vị thế dẫn đầu của anh ở Hollywood.
Bên cạnh Tom Cruise và Bill Clinton, hiện nay anh là một trong những người đàn ông nổi tiếng và có mật độ xuất hiện trên các phương tiện thông tin đại chúng lớn nhất trên thế giới. Và dù anh xuất hiện ở đâu thì luôn có một đám đông vây quanh cùng với những tay săn ảnh lúc nào cũng sẵn sàng bấm máy.
Điều khiến người ta thích Brad Pitt chính là sự lựa chọn vai diễn của anh, không hề dựa trên vẻ bề ngoài mà chính câu chuyện mới là cái thực sự hấp dẫn anh. Chắc không ai có thể không thích xem phim kiểu Fight Club hay 12 Monkeys với nội dung cuốn hút và diễn xuất tuyệt vời của Brad Pitt. Ngoài ra, Brad Pitt còn rất được bạn bè yêu quí vì cách sống hết mình, nhất là trong các cuộc vui chơi chè chén, tất nhiên là bỏ qua sự phiền phức mà các cô gái xung quanh mang đến mỗi khi anh xuất hiện.
Brad Pitt cũng không hiểu nổi cá tính của chính mình, đôi khi anh muốn bản thân giống như những nhân vật trên màn ảnh, thậm chí anh còn muốn ăn mặc giống như họ ở ngoài đời. Nhưng đến 29/7/2000, đám cưới giữa anh với Jennifer Aniston đã thay đổi suy nghĩ đó ở anh, tuy nhiên cũng như bao câu chuyện ở Hollywood, cuộc sống chung giữa hai người đã chấm dứt năm 2005. Trong khi chờ các thủ tục ly dị hoàn tất, hai “ông bà Smith” Brad Pitt và Angelina Jolie đã hẹn hò với nhau khiến người ta bắt đầu truyền tai nhau chuyện “phim giả tình thật”. Thậm chí tờ The Sun của Anh còn đưa tin, chàng Achilles và nàng Lara Croft đã bí mật cùng nhau đi nghỉ cuối tuần và thuê một phòng hạng sang ở khách sạn với danh nghĩa vợ chồng. Rõ ràng, dù là một người đàn ông độc thân hay một anh chàng đã có vợ thì sức hút của Brad Pitt ngoài đời không hề thuyên giảm với phái yếu còn trên màn ảnh thì thực sự anh đã làm hàng triệu người phải khâm phục.
Gương mặt thanh tú, đôi mắt sáng ngời và vẻ đẹp thiên phú, Audrey Hepburn là một trong những ngôi sao sáng nhất trong nền điện ảnh thế giới thế kỷ 20.
Audrey Hepburn sinh ngày 4/5/1929, là con của một chủ ngân hàng người Anh gốc Ireland và một nữ Nam tước người Hà Lan. Những tưởng tuổi thơ của cô được bao bọc trong sự giàu sang nhưng bất hạnh ập xuống khi cuộc tình của cha mẹ cô ngày càng rạn nứt. Cùng lúc, chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ, Audrey được gửi về quê ngoại tại Hà Lan.
Mặc dù tuổi thơ trôi qua trong mưa bom bão đạn đầy cực khổ, Audrey vẫn đến trường học nhạc, học múa. Chiến tranh chấm dứt, năm 1948, cô theo mẹ sang định cư tại Anh và theo học trường múa ballet nổi tiếng Marie Ramberts. Vẻ đẹp khả ái của cô được giới nhiếp ảnh London đặc biệt quan tâm. Các nhà điện ảnh cũng liên tục mời Hepburn tham gia đóng phim nhưng cũng chưa gây được ấn tượng gì.
Năm 1951, một sự tình cờ đã đẩy cuộc đời Audrey sang bước ngoặt mới. Trong một lần sang Italy biểu diễn, tình cờ cô gặp Colette, một nữ văn sĩ nổi tiếng người Pháp và được mời sang Mỹ diễn kịch. Đây chính là viên gạch đầu tiên đặt nền móng cho sự nghiệp điện ảnh của Audrey Hepburn tại Mỹ.
Khi đạo diễn William Wyler cần tìm một diễn viên mới vào vai công chúa Anh đi du lịch ở Roma trong Roman Holiday (1953), Wyler mời Audrey đến quay thử. Sự lúng túng ban đầu, những cử chỉ vụng về, nét mặt thơ ngây của Audrey đã thực sự làm đạo diễn cảm thấy đây chính là vai diễn dành cho cô, chứ không phải một ai khác. Với bộ phim này, cô đã đoạt giải Oscar dành cho Diễn viên nữ xuất sắc.
Audrey đã thành công rực rỡ và trở thành thần tượng thuần khiết trong mắt hàng triệu thanh thiếu niên và được các nhà phê bình điện ảnh đánh giá cao. Cô tiếp tục con đường sự nghiệp thênh thang của mình bằng việc tham gia đóng các phim lớn như Sabrina (1954), War and Peace (1956), The Nun Story (1959), Breakfast at Tiffany’s (1961), My Fair Lady (1964)… Trong số đó, có đến bốn phim do Audrey đóng vai chính được đề cử Oscar dành cho Diễn viên nữ xuất sắc. Tài năng và tên tuổi của Audrey được cả thế giới nồng nhiệt đón nhận.
Tháng 9/1954, Audrey Hepburn kết hôn với diễn viên điện ãnh Mỹ nổi tiếng Mel Ferret, cũng là một nhà đạo diễn sân khấu và một biên đạo múa tài năng, khi đó Mel đã có 4 đứa con với 3 đời vợ. Nhưng tình yêu giúp họ vượt qua mọi rào cản, Mel yêu mến người đồng nghiệp vì ngoài sắc đẹp, còn là sự dịu dàng đầy nữ tính, hiện thân của một tâm hồn thánh thiện, bao dung.
Hình ảnh Audrey còn khắc sâu trong tâm trí công chúng trong lĩnh vực thời trang. Vào năm 1961, chiếc áo đầm đen hở vai của nhà tạo mốt Givenchy do Audrey Hepburn thể hiện được bình chọn là Chiếc áo của năm. Với thân hình mảnh mai, gương mặt tự tin, trong sáng, mái tóc để kiểu cổ điển, Audrey đã thể hiện một phong cách mốt độc đáo. Phong cách đó được hãng đồng hồ Longines chọn làm biểu tượng quảng cáo cho đến nay.
Audrey Hepburn còn là một nhà hoạt động xã hội tích cực. Với những cống hiến cho lớp trẻ, bà đã được cử làm Đại sứ thiện chí của UNICEF, bà đã đến với trẻ em châu Mỹ la tinh xa xôi, đến với trẻ em các dân tộc thiệu số Việt Nam trên Tây Nguyên… Audrey đã tổ chức nhiều hình thức quyên góp, trở thành người tài trợ cho nhiều tổ chức trên thế giới.
Năm 1989, lần cuối cùng Audrey Hepburn nhận lời tham gia đóng phim. Đó là vai một thiên sứ áo trắng trong phim Always của đạo diễn Steven Spielberg. Đầu tháng giêng năm 1993, hiệp hội diễn viên điện ảnh Mỹ đã quyết định trao tặng Audrey Hepburn giải Thành tựu trọn đời. Nhưng do căn bệnh ung thư vào giai đoạn cuối, bà không thể đến Los Angeles nhận giải, bà gửi thư cho tất cả các đồng nghiệp với lòng biết ơn chân thành. Bà mất ngày 20/11/1993.
Will Smith được mệnh danh là người hùng da đen của phim hành động Mỹ với những vai diễn đầy sức mạnh và lôi cuốn. Ngoài ra, trong mắt con cái, anh thực sự là một ông bố đáng tự hào.
Will Smith sinh ngày 25/9/1968 tại Philadelphia, Mỹ, cha anh có một công ty kinh doanh đồ điện lạnh, còn mẹ anh là nhân viên văn phòng của một trường phổ thông. Cha anh vẫn thường gây áp lực với con trong việc học hành, nhưng anh vẫn mong muốn theo con đường danh vọng. Anh từng hợp tác với Jeff Townes thành lập song ca DJ Jazzy Jeff & The Fresh Prince năm 13 tuổi và đã đạt thành công 6 năm sau đó với giải Grammy cho Album He’s the DJ, I’m the Rapper.
Không chỉ có vậy, thành công trong điện ảnh mới thực sự tạo nên tên tuổi Will Smith. Năm 18 tuổi, anh gặp Benny Medina, một lãnh đạo của Warner Bros đề nghị anh tham gia series phim The Fresh Prince of Bel-Air và bắt đầu con đường chinh phục Hollywood, để lại dấu ấn rõ nét nhất là năm 1995 với bộ phim Bad Boys. Sau này Will Smith còn nổi đình nổi đám với Robot, Independence Day, Wild Wild West. Đặc biệt là trong Men in Black (1997), phim đã đoạt được doanh thu lớn vượt cả mong đợi và bài hát do anh thể hiện đã nổi không kém. Cùng năm đó, anh phát hành album Big Willie Style và kết hôn với nữ diễn viên Jada Pinkett. Năm 1999, Will Smith một lần nữa cho ra đời album Willennium và đoạt giải Âm nhạc Mỹ.
Mặc dù đã cố gắng để tạo một hình ảnh hiện đại, song Will Smith vẫn hợp với những vai diễn có phần hoang dã. Hài hước, hóm hỉnh trên màn ảnh, ngoài đời Will Smith cũng là người rất vui tính và lạc quan. Anh có một gia đình nhỏ với người vợ Jada Pinkett và 3 đứa con nhỏ sau khi ly hôn Sheree năm 1995. Cặp vợ chồng này còn lọt vào danh sách 10 đôi đẹp nhất thế giới năm 2005 do độc giả tạp chí People bình chọn. Như Marlon Brando từng nói: “Một người đàn ông mà không dành thời gian cho gia đình thì sẽ không phải là người đàn ông đích thực”, trong mắt con cái của mình, Will Smith thực sự là một ông bố đáng tự hào.