• Hiện tại trang web đang trong quá hình chuyển đổi và tái cấu trúc lại chuyên mục nên có thể một vài chức năng chưa hoàn thiện, một số bài viết và chuyên mục sẽ thay đổi. Nếu sự thay đổi này làm bạn phiền lòng, mong bạn thông cảm. Chúng tôi luôn hoan nghênh mọi ý kiến đóng góp để chúng tôi hoàn thiện và phát triển. Cảm ơn

1001 CÂU CHUYỆN CẢM ĐỘNG!!!

Status
Không mở trả lời sau này.
Màu Đỏ
Hoàng Anh Tú




- Mặt trời có màu gì?
- Để người ta nhớ lại coi, à, nó có màu lửa. Anh biết lửa không? Nó rất nóng.
- Thế cỏ có màu xanh như thế nào?
- Xanh như mùi lá vậy! Xanh êm ái, xanh như giấc ngủ dịu dàng vậy!
- Vậy màu vàng thì sao?
- An đưa tay cho Tuấn đi!
- Để làm gì? Đây này!
- Đâu?
- Đây!
- Ờ, được rồi, mình đi nhé!
- Đi đâu?
- Ra ngoài sân.
- Có gì ngoài đó vậy?
- Có nắng.
- Sao Tuấn biết ngoài đó có nắng?
- Ờ, tối nào Tuấn cũng nghe thời tiết!
An gật đầu rờ rẫm đi theo Tuấn ra sân. Ra đến nơi, Tuấn bảo:
- An thấy sao?
An đứng lặng đi một chút rồi nói:
- Thấy ấm ấm!
Tuấn mỉm cười:
- Màu vàng đấy! Nắng rất vàng!
An ngẩn người một lúc. Rồi nói:
- Tuấn hạnh phúc hơn An!
Tuấn ngạc nhiên:
- Sao An cho là vậy?
An đáp:
- Tuấn đã biết cuộc sống hình dáng ra sao rồi mới bị mù. Còn An thì…
Cả hai cùng im lặng. Cả hai cùng bị mù. An sinh ra đã không nhìn thấy gì còn Tuấn thì mới bị từ năm lớp 8. Hai người quen nhau đã một tháng nay rồi. An còn nhớ hôm quen nhau. Hôm ấy An đang mò mẫm đi trên đường thì đụng vào Tuấn. Tuấn quát:
- Mù à? Sao không nhìn thấy người ta?
An đáp:
- Xin lỗi anh, tôi mù thật!
Bên kia im lặng và hồi lâu, An nghe có tiếng thở dài:
- Xin lỗi bạn, tôi cũng thế!
Và quen nhau. Từ ngày chơi với Tuấn, An biết được nhiều hơn về hình dáng của mọi vật, màu sắc bằng cảm giác. Màu xanh là màu bình yên, màu của mùi hăng hăng, dễ chịu. Màu vàng là màu âm ấm, màu của cảm giác hớn hở. Màu tím là màu của giấc mơ, của mơ mộng, của sự chờ đợi không biết mỏi mệt… Tuấn kể cho An nghe rất nhiều về cuộc sống, về những con vật dễ thương như gâu gâu là tiếng của con cún. Con cún là cảm giác của sự nô đùa, của cái lưỡi ươn ướt, âm ấm trên tay An. con cá là tiếng róc rách, con gà là ngày mới bắt đầu. Mặt Trăng là mẹ, Mặt Trời là cha, những vì sao là bè bạn, và mưa luôn cuốn phăng tất cả những nỗi buồn…
- An nghĩ gì vậy?
- Màu đen, An biết rõ nhất là màu đen. Khi tất cả ra đi thì chỉ còn màu đen. Màu bất lực.
An thở dài sau câu nói đó. Tuấn siết chặt tay An:
- Không phải! Màu đen là ngôi nhà.
- Ngôi nhà thế nào?
- Là gồm tất cả các màu trộn lại, là giấc ngủ, là bình yên của màu xanh, là giấc mơ của
màu tím, là nắng của màu vàng, là…
An ngắt lời Tuấn:
- Tuấn này, màu đỏ là sao?
- Màu đỏ á! Màu đỏ là…..
Bất ngờ Tuấn đặt một nụ hôn lên đôi má bầu bĩnh của An. An cũng cảm thấy thật lạ. Má An nóng bừng lên.
- Cái gì vậy Tuấn?
- Môi của Tuấn, má của An, đó là nụ hôn Tuấn vừa hôn An.
- Tại sao?
- Màu đỏ đấy!
- Đỏ?
- Ừ, đỏ!… An! Đứng lại đi!
An bỏ chạy. An cảm thấy một điều gì rất lạ đang xảy ra trong An. Và An muốn rời khỏi chỗ này. Chẳng phải là sự chạy trốn, mà là cái gì đó rất lạ, đầy phấn khích. Phấn khích của màu vàng, phấn khích của tiếng gâu gâu, phấn khích của tiếng róc rách…
Tuấn hét lớn:
- Coi chừng hồ nước trước mặt đấy!
Không kịp rồi, An thấy mình hụt chân. An thấy mình rơi xuống nước. Nước có màu gì nhỉ? An sặc. An muốn chạy ra khỏi chỗ này nhưng An chẳng biết phải làm gì. An vùng vẫy. An chìm. Chợt An cảm thấy một vòng tay ôm ngang người mình. Tuấn đưa An lên bờ. An ho sặc sụa, nhưng An vẫn cố nói.
- Tại sao Tuấn nhìn thấy được? Tại sao Tuấn nói dối An?
Tuấn im lặng cầm bàn tay của An đặt lên ngực trái của mình:
- Đây là màu đỏ, bởi vì màu đỏ, An !


Hà Nội 2002
Hoàng Anh Tú
 
Vũ trụ câm
Vũ Đình Giang

---------------------------------------------------------------------- ----------

1. Thường xuyên trong những buổi chiều ngoại ô đầy gió, Min bị nỗi đe dọa xâm chiếm bởi những tiếng sấm mơ hồ dội lên từ cuối chân trời. Nơi cội nhãn già nua chưa bao giờ ra hoa kết trái, Min mắc cái võng dù tòng teng chẳng mấy khi nằm. Từng đám mây bay qua bầu trời thảng hoặc để lại những hình thù ngộ nghĩnh tùy theo trí tưởng tượng của Min. Trong vùng hồi ức xa xăm bỗng mọc lên một đám mây hình nấm trôi đi dưới ánh nắng quái gở của chiều tà - một cảnh tượng kỳ vĩ và ngoạn mục mà có lần trên chuyến bay về H. Min tình cờ thấy được. Qua ô cửa kính đọng đầy hơi nước, tấm thảm mây dày cộm chập chùng dường như bất động, khiến Min nghĩ rằng nếu mình lỡ rơi xuống đó, hẳn sẽ được giữ lại trong cảm giác mềm mại an toàn và vĩnh viễn không thể nào chạm đất.
Giờ đây, trong căn phòng cáu bẩn đầy nghẹt đất sét, màu bột và giấy vụn, Min bó gối nhìn những bức tranh treo xộc xệch trên tường, cố nặn óc nghĩ ra một việc gì đó để làm, cốt xua đi cảm giác bị đe dọa bởi những tiếng sấm mơ hồ. Từ ngày thi rớt đại học, Min đâm ra thờ thẫn và uể oải, cậu hay khép hờ cửa sổ rồi đứng ngó mông lung ra ngoài qua khe cửa hẹp, quan sát thế giới xung quanh thay đổi chậm chạp từng ngày. Bấy giờ là cuối thu đầu đông, những chiếc lá trong vườn bắt đầu cong lên rồi ngả sang màu vàng sậm. Không gian nồng đượm mùi dầu chuối tỏa ra từ xưởng bánh kẹo nhà bên cùng tiếng máy dệt rào lên không ngớt nơi những xưởng dệt thủ công của vài gia đình gốc Quảng còn sót lại trong vùng.
Căn nhà vắng lặng nằm im lìm trong khu vườn nhỏ chỉ bật ra tiếng người vào buổi tối. Bà mẹ độc lập và giàu có dường như cố hữu một nguyên tắc là chỉ trao đổi với cậu con trai những câu chuyện thật sự cần thiết trong bữa ăn, hiếm khi khóe môi bà nở nụ cười. Người hầu gái học được cách tiết chế cảm xúc từ bà chủ quyền lực, cũng như keo kiệt lời nói nhưng lại hào phóng những cái ngáp vặt vô tội vạ. Cô ta chăm chỉ hoàn thành tốt mọi việc trong nhà rồi lên phòng bật tivi, hồn nhiên lau nước mắt sau mỗi trường đoạn sướt mướt của những bộ phim nhiều tập dành cho giới bình dân.
Thỉnh thoảng Min phóng xe máy đi vòng vèo ra các quán xá trong vùng. Mãi cũng chán! Đành khép chặt cửa ở lì trong phòng, ngủ vùi rồi nguệch ngoạc vẽ những bức tranh ngày một khó hiểu. Thời đi học Min cũng lặng lẽ như thế, cả lớp không ai phát hiện ra tài năng của cậu, nên những tờ báo tường của lớp thường xuyên phải thuê người lớp khác sang trang trí. Cho đến ngày lớp trưởng phát hiện ra cậu đang say mê trong một khóa luyện thi của hội mỹ thuật, thì lúc đó mọi người cũng sắp ra trường.
Trong bữa ăn tối lạnh nhạt của ngày biết tin thi rớt, Min thông báo với mẹ bằng một câu nói nhát gừng:
- Con sẽ luyện thi cho năm sau, mẹ ạ!
Bà mẹ nhướng cặp mày thanh tú, tia nhìn tỏa ra một vệt màu tối lặng lẽ, cố trấn an:
- Đừng lo lắng quá, con trai! Mẹ sẽ thuê riêng một họa sĩ về làm gia sư cho con.
- Không cần thế đâu, mẹ! - Đứa con cúi mặt vào tô súp - Con sẽ đến lò luyện như mọi lần...
Bà mẹ lắc mái đầu uốn tỉa khá công phu, mặt nhăn lại khiến những vết rạn ở hai cánh mũi được dịp hằn rõ, cố nén tiếng thở dài:
- Sự dạy dỗ không bao giờ là chu đáo ở những môi trường quá đông đúc.
- Nhưng ở đó con có bạn...
Min lẩm bẩm tỏ thái độ bất bình rồi xoay người mở cửa tủ lạnh lấy ra đĩa trái cây. Cậu tần ngần một lúc lâu rồi quyết định cầm quả lê rời nhà ăn lên lầu. Trong căn phòng nhỏ, nơi thế giới riêng đầy ắp trăm thứ hầm bà lằng nhưng bất khả xâm phạm, cậu nhặt nỗi lòng của mình đang vương vãi trên sàn nhà, rồi đem dán nó nơi cánh cửa sổ đã hờ khép. Cậu vịn tay vào đó và giương mắt nhìn ra. Ngoài kia, đêm tối sẩm. Những tàn cây mệt nhọc đang thiếp ngủ, ánh lên những vệt sáng hắt ra từ các ô cửa của nhà hàng xóm. Mơ hồ một tiếng kêu khắc khoải của loài chim lạ ăn đêm.
Phía dưới nhà, mẹ Min đang trao đổi với ai đó qua điện thoại về một câu chuyện làm ăn dang dở. Người hầu gái bình thản dọn dẹp bàn ăn, nhẩm đếm số chén bát bất di bất dịch được dọn ra vào mỗi tối, tận hưởng niềm sung sướng của một Ô-sin nhàn nhã. Thật may mắn cho cô, ít khi khách đến chơi nhà, nên cô chưa bao giờ bị nhấn chìm trong sự bận rộn và đau đớn vì những tiếng quát tháo của gia chủ. Cô nhớ có lần, hình như đã rất lâu rồi, có một người đàn ông trung niên dáng dấp to cao vâm váp ghé ngang rồi ngủ lại. Đêm ấy cậu chủ nhỏ không về. Hình như Min đang kẹt chuyến dã ngoại xa cùng với lớp. Cô hầu gái bê chai rượu Whisky lên cho bà chủ, thấy hai người lặng câm ngồi đối diện nhau, môi ai cũng dính chặt điếu thuốc tỏa khói mờ mịt. Cô rút lui xuống nhà, sợ hãi đến nỗi chỉ dám bật tivi xem hình nhưng khóa tiếng.
Sáng hôm sau, khi cô hầu gái trở dậy thì người khách lạ đã biến mất tự khi nào. Bà chủ lún sâu trong mớ chăn nệm thoảng lên mùi nước hoa xa lạ, mở to đôi mắt trống rỗng nhìn như xuyên thủng trần nhà. Sáng ấy bà chủ không đi làm, bà cứ đi lên đi xuống cầu thang rồi đột ngột phá tung cửa phòng riêng của Min lục soát thứ gì đó. Chốc sau bà gọi người hầu gái tới và dặn dò:
- Cô đã gọi thợ tới sửa cánh cửa sổ trên phòng cậu Min, nó gần sứt bản lề ra rồi. Thật nguy hiểm nếu đêm nào đó mưa bão quét qua. Và thay luôn tủ kính đã bị rạn. Không hiểu Min đã va đập thứ gì vào kính nên nó mới thế. Chiều nay thợ đến, cháu nhớ quan sát họ và trông nom nhà cửa cẩn thận giúp cô nhé!
Chiều muộn Min về, vứt ba lô ra sàn và hét lên những tràng dài vô nghĩa, khiến cô hầu co rúm người như thể sai lầm ấy là do cô dựng ra. Đúng như dự đoán, Min mắt ngầu đỏ chạy vội xuống cầu thang, gọi người hầu giật giọng:
- Chị Gái! Chị Gái đâu rồi? Tôi đã bảo là không ai được phép xâm phạm căn phòng của tôi kia mà. Ai?
- Nhưng đấy là mẹ cậu... - Cô hầu tên Gái ấp úng, thở không ra hơi.
Min giận dữ bỏ lên lầu và từ chối luôn bữa tối. Rất khuya, bà chủ về tới nhà, không tỏ thái độ gì hoang mang khi nghe thuật lại câu chuyện của Min. Không biết bà lên phòng dàn xếp câu chuyện ra sao mà căn nhà vẫn im bặt, không phát ra một tiếng động nào như mọi khi. Và Min, trong những ngày hôm sau, vẫn giữ thói quen tắt hết đèn trong phòng rồi nhìn ra bên ngoài qua khe cửa sổ mở hé. Mắt cậu mênh mang ngập đầy những tia nắng sót lại trong chiều tà.
 
Đêm nối đêm ngày nối ngày, căn phòng nhỏ của Min vẫn lặng câm và phủ trùm bóng tối. Thường sau những giờ luyện vẽ ở trường về, Min đánh trần nằm vật ra sàn ngó mông lung lên trần nhà. Cậu nhìn thấy những đám mây hình nấm trôi đi dật dờ. Không gian dường như giãn nở trong suốt. Cậu vẽ nhiều hơn trước, những bức tranh chập chờn màu sắc ngày một khó hiểu vì không để lại hình thù gì cụ thể, chỉ có những nhát cọ thao túng mặt giấy lúc uể oải lúc cuồng nhiệt. Màu lục sẫm cứ choáng hết mặt tranh. Dưới sàn, vô số những bức tượng què cụt bằng đất sét, có cái đã nứt rạn sứt mẻ một vài chi tiết nên biến dạng thành những vật thể méo mó. Trên tường, chi chít những chiếc mặt nạ tróc lở và các tờ báo cũ dán chồng chéo lên nhau thành các mảng lập thể đầy ám ảnh... Người hầu Gái có lần tò mò đã phá kỷ cương lén nhìn trộm vào phòng trong một buổi trưa oi bức, thấy cậu chủ đang khỏa thân đứng bất động trước tấm gương soi mới thay đã lại xuất hiện những vết rạn mới, đôi mắt mở to nhìn trừng trừng vào chính cậu mà có vẻ như không nhìn thấy một cái gì...
Trong một nỗi hốt hoảng tột độ, người hầu Gái lập cập vịn lan can lần dò xuống tầng trệt và ngã lăn ra bất tỉnh một lúc lâu mới có thể ngồi trở dậy. Chiều ấy cô ta thu xếp quần áo định bụng chờ bà chủ về rồi kết thúc hợp đồng. Thế nhưng khi chạm phải ánh nhìn trống rỗng và khóe môi lạnh lẽo của bà chủ, cô không dám cất lời.
Bà chủ hỏi:
- Tại sao?
Cô không thể thuật lại câu chuyện ban trưa, một phần vì ngượng và một phần vì sự vô lý của nó.
- Cháu đang sợ hãi điều gì ư? - mắt bà chủ vẫn nhìn xoáy vào cô hầu Gái.
“Cái đầu ấy thông minh biết bao!” - cô hầu nghĩ, không dám ngẩng mặt lên, mặt cô nhòe nước và cô thổn thức:
- Cháu sợ...
- Cháu sợ điều gì? - giọng đối diện ân cần mà nghiêm khắc.
- Cháu sợ... Không, cháu buồn! Cháu cảm thấy rất buồn...
Vừa lúc Min đi xuống, cắt đứt giọng sũng nước đang lắp ba lắp bắp. Đôi vai người hầu run lên không thể kiểm soát. Rất may, Min chỉ lướt qua và không dừng lại. Cậu ta dắt xe ra khỏi nhà chuẩn bị đi đâu đó.
Bà chủ vỗ về cô hầu, giọng gần như ra lệnh:
- Cháu phải ở lại! Cháu nên ở lại! Nhà cô chỉ có hai mẹ con, có muốn không buồn cũng chẳng được. Cô thì đi suốt ngày. Min thì lầm lì ít nói, tính nó xưa nay là thế mà... Cháu không nên câu nệ... Mức lương và sự đối xử của cô thế này chẳng lẽ không tốt sao?
- Vâng, là rất tốt... Thế nên...
Bà chủ thông minh cướp lời:
- Thế nên cháu cần ở lại! Cháu phải ở lại! Nào, đưa cái túi xách cho cô. Một công việc lao động phổ thông nhàn nhã trong thời buổi này không nhiều đâu, cô gái trẻ ạ.
Dứt câu, bà xách cái túi lên phòng cô hầu, trả nó về đúng vị trí cũ.



*

* *


3. Không gian vẫn mênh mang ở căn nhà quá rộng và ba chiếc ghế cứ chông chênh trong những bữa ăn tối lặng lẽ. Bà chủ vẫn quan tâm tới con trai bằng những câu hỏi vừa đủ lượng thông tin nhưng thiếu hẳn kịch tính. Min vẫn phát đi phát lại những câu trả lời nhát gừng. Cô hầu vẫn dọn dẹp bàn ăn với chừng ấy chén bát xoong nồi đũa muỗng. Và căn nhà vẫn chưa có vị khách quan trọng nào ghé qua.
Nhưng Min thì hơi khác trước. Cậu ta ra khỏi nhà nhiều hơn vào ban ngày. Đêm, cậu thường tắt đèn sớm. Sau lần bắt gặp cậu chủ khỏa thân đứng bất động trước gương như một kẻ tâm thần, cô hầu Gái không dám bén mảng đến cánh cửa bí ẩn ấy nữa. Cô sợ chạm mắt vào những hình thù quái gở giăng mắc khắp phòng của Min. Bởi mỗi khi cô lén nhìn vào những gương mặt méo mó dị dạng ấy là y như rằng chúng cũng phóng tia nhìn chằm chặp lại cô. Cô sợ chúng ám ảnh vào giấc ngủ rồi sinh ra những cơn ác mộng.
Vậy mà Min đã sống một cách an toàn giữa chúng. Đơn giản vì đó là thế giới do chính Min tạo ra. Dạo sau này Min đã sáng tạo được một trò chơi mới. Cậu tha về những miếng simili có chức năng hấp thụ nhiệt và phản quang, cắt ra thành muôn vàn những mảnh vụn có hình ngôi sao, sau đó tỉ mẩn bắc ghế đính từng ngôi sao tí hon ấy lên trần nhà. Công việc thủ công này tưởng đơn giản nhưng hóa ra rất tốn thời giờ. Nguy hiểm nhất là việc phải sử dụng hai ba chiếc ghế chồng lên nhau mới đủ chiều cao cho Min với tay đụng trần. Min cặm cụi tiến hành công việc trong nhiều ngày mà vẫn không thỏa mãn. Đêm xuống, cậu khoái trá tắt hết đèn. Với sự hấp thụ nhiệt rồi phát ra ánh sáng được một thời gian ngắn, thế là trong vùng tối đen đặc, hiện ra một bầu trời sao lung linh hết sức kỳ thú. Rồi cậu đếm sao. Rồi cậu mơ tưởng viễn vông. Cậu thấy mình bay lên, bay lên... Người cậu nhẹ tênh, cậu chạm vào được những tia sáng lấp lánh ấy. Thế giới nở ra đến vô cùng... Cậu đứng dậy nhảy múa, với tay khua khoắng lên bầu trời sao vĩ đại của riêng cậu. Và cậu cười sằng sặc trong đêm...
Ngày nối ngày đêm nối đêm, Min không ngừng bắc ghế đính sao lên trần để khi tắt đèn vũ trụ sẽ hiện ra rồi khoái trá thưởng thức. Và trong những buổi chiều, không gian vẫn dày đặc nỗi đe dọa xâm chiếm bởi những tiếng sấm mơ hồ dội lên từ cuối chân trời. Cho đến ngày kia, bà mẹ không thấy con trai xuất hiện trong bữa ăn tối bèn sai người hầu Gái lên đập cửa phòng, sau nhiều lần hô toáng lên mà không tiếng đáp trả. Khi cánh cửa bật mở, trong vùng tối đen đặc, cô hầu lần tay bật công tắc điện. Trên cao, bầu trời sao vụt tắt ngúm. Chợt cô hét lên những tràng ú ớ khi phát hiện ra Min đang vật vã trên sàn nhà bừa bộn giấy bút như vừa bị trượt chân ngã từ những chiếc ghế chồng lên cao, tuy nhiên, định thần nhìn kỹ thì thấy nơi khóe miệng của Min đang sùi lên từng dòng nước bọt chảy ngoằng.



*

* *


4. Nhưng Min đã không chết. “Ma túy, chị hiểu không? Con chị đã bị sốc thuốc, may mà...” - vị bác sĩ nghiêm mặt kết luận. Còn người mẹ đau khổ lảo đảo vịn tay ghế, nhắm mắt nuốt cơn cảm xúc vào trong như thói quen lạnh lùng thường nhật. Tuy nhiên, lần này bà đã không thể. Bà ngẩng mặt lên cay đắng hỏi: “Ma túy ư? Vì sao?...”.
Dù Min tỉnh lại Min cũng không thể trả lời hay nói đúng hơn là Min không muốn trả lời. Vì một lẽ cậu cho rằng mẹ cậu hẳn phải hiểu rõ điều này hơn ai hết. Nỗi buồn, sự cô đơn, chứng trầm cảm..., chúng đã bao vây cuộc sống của con, trùm phủ khắp căn nhà này. Chẳng lẽ mẹ không hiểu sao, hở mẹ?
Thấy con đã qua cơn nguy kịch, bà mẹ móc di động run rẩy bấm số định gọi cho một ai đó. Rồi bỗng dưng bà dừng lại đột ngột. Không! Bà không muốn ông ấy lại đay nghiến bà. Bao nhiêu năm nay bà đã chứng tỏ được bản lĩnh của mình, bằng vẻ mặt bình tĩnh đông cứng trong mọi trường hợp, bằng một sự nghiệp ổn định và phát triển. Không! Bà chưa hề vấp ngã, chưa hề suy sụp. Bà không thể để cho ông thấy bà đang thất bại trong vai trò người mẹ như thế này.
Chỉ có cô hầu Gái là không hề biết gì về những bí ẩn trong ngôi nhà mà cô đang phục vụ. Cũng phải thôi. Cô chỉ mới đến đây làm việc có hai năm. Cô làm sao biết được từ rất nhiều năm trước, khi cậu chủ Min còn bé tí và còn rất đỗi hồn nhiên tinh nghịch, cha mẹ cậu đã chia tay vì một vụ ngoại tình diễn ra từ phía người chồng. Bằng tất cả sự kiêu hãnh của người phụ nữ quá đỗi xinh đẹp, người vợ trừng phạt chồng bằng cách chối bỏ hai chữ “thứ tha”, dù người chồng ra sức van nài. Trải qua nhiều năm, lòng kiêu hãnh đóng băng rồi biến thành nỗi đớn đau câm lặng. Đứa con đành gánh vác hậu quả này. Mà ngay cả nó, dù có cố gắng vẽ ra bao nhiêu bức tranh khó hiểu đi nữa, dù tạo ra bao nhiêu bầu trời sao đi nữa, nó cũng không thể mường tượng được rằng hàng năm, mẹ nó chỉ cho phép hai người gặp nhau đúng một lần vào dịp kỷ niệm ngày cưới, cũng chính là ngày hai người chối bỏ nhau.
Dĩ nhiên, cái ngày ấy cô hầu Gái không thể nào biết được. Nhưng hình như người cha tội nghiệp của Min thì cô hầu đã gặp một lần rồi. Ấy là vị khách hiếm hoi có cái dáng to cao vâm váp đã ghé ngang ngôi nhà một đêm nào đó vắng Min. Rất tiếc, mối quan hệ sâu xa này cô cũng không biết nốt, bởi vì ngay cả tên ông ta cô còn chẳng nhớ nữa là...

<Vũ Đình Giang>
_________________
 
Y Nguyên



Tôi là một đứa con gái không đẹp!
Tôi biết mình không đẹp từ tuổi mười sáu - tuổi bắt đầu biết... soi gương. Chẳng trách mà ba cứ thỉnh thoảng lại lén nhìn tôi, rồi lắc đầu, quay mặt. Còn mẹ, bắt gặp cái lắc đầu của ba, cũng thở ra, mắt rượi buồn...
Bảo rằng tôi không đẹp là nói... cho oai. Thực tình tôi xấu. Xấu đến mức "ma chê quỷ hờn" chưa thì tôi không rõ, bởi tôi chưa bao giờ dám đứng lâu để "thưởng thức" dung nhan mình trước gương. Tôi không thích - nếu không muốn nói là căm thù - những chiếc gương. Mà, hình như cũng đã lâu, nhà tôi không có gương. Vật dụng trong nhà ba mẹ sắm đủ thứ - trừ gương. Về điểm này, bao giờ ba mẹ cũng đạt được "nhất trí cao", khỏi bàn!

Tôi thích văn học, nhưng tôi không thích nhà văn Nam Cao, càng không thích truyện "Chí Phèo" của Nam Cao. Của đáng tội, động cơ "không thích" này hoàn toàn mang tính riêng tư. Văn Nam Cao hay, tôi biết thế. Ông chỉ có mỗi tội đã "đẻ" ra Chí Phèo. Nói đến Chí Phèo, người ta lập tức nhớ ngay Thị Nở. Ác thay, tên tôi cũng là Thị Nở - Trương Thị Nở. Lúc sinh tôi, ba mẹ - hoặc là vô tình, hoặc là... chưa đọc Nam Cao - nên mới nhè đặt cho tôi cái tên tai hại ấy. Cũng không thể trách ba mẹ. Chị tôi - Trương Thị Hoa, và tôi - Trương Thị Nở; "hoa" thì phải "nở". Đúng. Còn chuyện cái cô "Thị Nở" của cụ Nam Cao lò dò... đầu thai nhằm nha tôi thì ba mẹ chẳng biếtm chẳng có lỗi gì...

Tôi học không đến nỗi nào. Có dở cũng là... lớp phó học tập. Nhưng cái oai hờ ấy không cứu nổi tôi thoát khỏi sự châm chọc của lũ bạn nhất quỷ nhì ma. Có chuyện bất bình, chúng lại nhấm nháy, độc địa ngâm nga:
Trông xa thì tưởng Thuý Kiều
Lại gần mới hóa... người yêu Chí Phèo
Thơ gì mà đểu! Tức muốn... trào cơm; nhưng chẳng có cớ để nói, bởi ra miệng thì có khác chi "lạy ông tôi ở bụi này"...

Chuyện đau đầu chưa phải đã hết!
Gã lớp trưởng lớp tôi tên Chí, Nguyễn Hải Chí. Tên hắn trùng tên cúng cơm của họa sĩ Choé, chuyên vẽ tranh biếm. Thật tình, tôi mặc xác việc hắn trùng tên với họa sĩ, thi sĩ, bác sĩ... Tôi chỉ bực việc hắn trùng tên với... Chí Phèo. Công bằng mà nói, hắn cao to, đẹp trai, học hành giỏi giang - tóm lại, chẳng "bà con chi" với Chí Phèo. Nhưng tính hắn thật... quá quắt. Bọn bạn gọi tôi "Thị Nở" khiến tôi nổi cục; còn gọi hắn là "Chí Phèo" hắn lại cứ... cười khì! Hình như hắn khoái cái tên "Chí Phèo" lắm; càng khoái hơn về chuyện "Chí Phèo" và "Thị Nở" bị... cặp đôi! Cái màu "cà tửng" của ông họa sĩ trứ danh kia lây sang hắn bằng đường nào tôi không hiểu. Giá mà hắn cũng bực dọc, cũng nổi khùng ắt tôi còn có đường vớt vát. Đằng này, khốn khổ, nghe lời trêu ghẹo của đám bạn tôi đã muốn phát điên; thêm bộ điệu cười cười khiến tôi lộn tiết! "Vèo" một phát, cây thước kẻ bay vù, phang trúng vai hắn. Đám bạn cười ré. Hắn ôm vai nhăn nhó. Ấy vậy mà vẫn chưa thôi, còn làm bộ lịch sự, cúi nhặt thước, đưa đến tận bàn... Dễ ghét! Tâm lý hả hê vừa thoáng qua chợt ngấm. Tôi những muốn lồng lên, băm vằm hắn cho hả giận. Nhưng vô phương! Tôi chỉ có thể "băm" hắn bằng... nước mắt. Nước mắt tôi trào ra, nhỏ giọt nhòe nhoẹt cả trang vở. Vũ khí ấy xem ra lợi hại. Giọng cười đám bạn tắt ngấm. Nụ cười của hắn cũng tắt ngấm. Hắn khổ sở, vụng về, lóng ngóng như anh nông dân quen ở trần nay phải... thắt cà vạt, mặc comlê! Chờ đám bạn lảng đi, hắn rón rén lại gần, xìa cho tôi mảnh giấy. Tôi quay mặc; nhưng mảnh giấy cứ tần ngần, trêu người khiến tôi không thể... không liếc! Loáng thoáng một hàng chữ, to như quả trứng ngỗng: " Mình xin lỗi!". Hứ, lại còn xin lỗi! Ai thèm...

Tôi vùi đầu vào học. Năm cuối cấp, bài vở dồn ứ. TÔi học như để "trả thù đời" Thây cha cái chuyện "Thị Nở Thị Búp". Hãy đợi đấy, đậu đại học rồi hẵng hay! Cái "sổ đen" dài dằng dặc của tôi bây giờ - ngoài tên... ông Nam Cao - thì hắn, thằng cha lớp trưởng, đứng đầu danh sách! Tôi học và học. Trăm thứ hầm bà lằng phải học. Ôn thi đòi hỏi cả kiến thức cũ lẫn mới. May, kiến thức nền tôi vững nên chẳng nhọc nhằn mấy. Suốt cả năm lớp mười, mười một tôi chỉ biết học, không cơhi bời phất phơ như lũ bạn "Thúy Kiều". Con trai ư? Tôi chẳng thèm để ý (đúng hơn, chẳng tên nào... thèm để ý đến tôi!). Việc ấy lại hóa hay. Ừ, cứ cho tôi là Thị Nở, thì đã sao? Tôi xấu như Thị Nở, nhưng tôi dứt khoát không chịu đần như Thị Nở, và Thj Nở tôi cũng cóc cần một gã Chí Phèo - ngay cả loại "Chí Phèo" học giỏi, đẹp trai như... tên lớp trưởng không đội trời chung chẳng hạn. Dạo này, hắn có vẻ đổi tính. Hắn cũng gầy rạc đi vì học, nhưng công tác cán bộ lớp hắn vẫn làm tốt. Hắn còn mẫn cán đến mức... làm thay cả việc của tôi. "Lấy điểm chuộc tội" đây mà! Thây kệ! Tôi phớt lờ, như không thèm quan tâm. Hắn là kẻ thù số một. Tôi không bao giờ quên điều đó; mặc dù, thỉnh thoảng, tôi bắt gặp hắn len lén nhìn tôi với đôi mắt hối lỗi, khẩn cầu...

Cầm giấy báo nhập học, tôi thở phào. Vậy là xong. Tôi đã không uổng cơm cha mẹ, không phí hoài công sức của thầy cô. Cho chúng biết thế nào là Thị Nở! Tôi vào đại học sư phạm, khoa văn. Giã từ trường trung học. Giã từ đám bạn trời đánh một thời bị tôi ghi cẩn thận vào "sổ đen". Cũng kỳ, lúc ở chung thì bực bội, giờ xa nhau lại thấy thương thương. Hôm chia tay, nhiều đứa khóc. Tôi cũng chực khóc, nhưng kịp kìm. Đêm trước lúc lên đường, tôi quyết định... đốt sổ. Thôi, xúy xóa, "tha" đi để còn... lấy phước. Nhưng xóa ai thì xóa, tôi nhất định không "xóa" thằng cha lớp trưởng Chí Phèo. Cũng may, từ giờ trở đi, có lẽ tôi đã thoát cái xui phải gặp "Chí Phèo". Nghe đâu, hắn thi xã hội nhân văn thành phố...

Tôi cắm cúi rà danh sách lớp. Rà từ dưới lên trên, từ trên xuống dưới. Hình như toàn "bá tánh thập phương", chẳng có ai cùng quê, cùng tỉnh. Mắt tôi chợt dừng nơi vần "C". Trời hỡi! Lù lù trên giấy trắng mực đen cái tên "Nguyên Hải Chí". Tôi dụi mắt, cố nhìn vớt vát vào dòng ghi quê quán: Tuy Hòa, Phú Yên. Thôi rồi, ghét của nào trời trao của ấy, lại đúng là hắn, Nguyễn Hải Chí, Chí Phèo! Mắt tôi tối sầm, chân khuỵu, chực ngã...
Sự đời quả lắm nỗi oái oăm. Lúc rà danh sách, tôi khấn thầm cho gặp một đồng hương; nhưng trí tưởng tượng của tôi chưa bao giờ đủ phong phú để tưởng tượng đồng hương của tôi lại là... hắn. Sau này mới biết, hắn thi xã hội nhân văn thiếu nửa điểm, theo nguyện vọng 2, được chuyển về sư phạm. Ma xui quỷ khiến thế nào, hắn lại đâm sầm vào lớp tôi. Đúng là oan gia! Càng "oan gia" hơn, ngay năm một, hắn được bầu làm lớp trưởng, còn tôi, lại là... lớp phó học tập! Gặp tôi, hắn vui lắm. Hắn hỏi đủ thứ chuyện. Tôi đáp nhát gừng, gióng một, mặt lầm lầm...
Chưa bao giờ tôi hiểu rõ tại sao mình ác cảm dữ dội với "Chí Phèo". Chuyện hắn hùa đám bạn chọc ghẹo tôi ngày xưa đã... cũ mèm, đã thành dĩ vãng. Lên đại học, đứa nào cũng trưởng thành, bớt nghịch quá quắt. Chẳng ai gọi tôi "Thị Nở", cũng chẳng ai gọi hắn "Chí Phèo". Hắn lại càng cạch! Chưa bao giờ hắn dám trêu thêm tôi một lần từ vụ tôi "băm" hắn bằng nước mắt. Ấy vậy mà tôi vẫn ghét! Tôi ghét cái mặt đẹp trai của hắn, cái bộ dạng hòa hoa của hắn; ghét cái cảnh lũ bạn gái cùng khóa cứ lượn lờ quanh hắn. Nói nhỏ, giá hắn chân thọt, lưng gù, hay học hành bí bét, có lẽ tôi còn ít ghét hơn. Đằng này, hắn không có chỗ nào khiếm khuyết. Hắn hoàn hảo quá, hoàn hảo đến... phát bực; và cái hoàn hảo của hắn khiến tôi khổ tâm hơn vì sự khiếm khuyết của mình!
Tôi khổ tâm vì sự khiếm khuyết của mình. Điều này tôi phải thú nhận; không thể nào giấu mãi đằng sau khuôn mặt lạnh. Tôi là "Thị Nở"; nhưng tôi còn khổ hơn Thị Nở bởi tôi không đần độn; tôi khổ hơn Thị Nở bởi tôi không có một... Chí Phèo! Phải, tôi cay đắng nhận ra rằng: tôi cần một "Chí Phèo". Một "Chí Phèo" với những khiếm khuyết cần có để tôi chia sẻ, cảm thông. Hắn thì khác. Hắn không thể là "Chí Phèo". Hắn hoàn hảo quá. Cái hoàn hảo của hắn phải gánh trách nhiệm một phần trong nỗi khổ tâm của tôi. Cái mặt đẹp trai của hắn như cợt đùa dung nhan "Thị Nở" của tôi. Cái tính tưng tửng của hắn như giễu ngầm bộ mặt nghiêm nghị của tôi. Thói quen nhẫn nhịn của hắn làm cá tính ngang bướng của tôi - mỗi bận trổ ra - như đấm phải... bị bông, hết đường phát tán! Tôi bực dọc; bực dọc một cách vô vớ, vô duyênl nhưng không thể nào không bực dọc. Mà cũng không phải vô cớ. Ai bảo khi không hắn lại lù lù dẫn xác... theo tôi lên đại học, vào lớp K12 của tôi làm gì...

Tôi bíu tay vịn cầu thang, lê từng bước lên phòng. Cơn đau bụng hành hạ từ dưới thư viện, theo lên giảng đường, bây giờ như có vẻ nặng thêm. Nội trú chiều cuối tuần vắng ngắt. Bạn bè đứa đi chơi phố, đứa tranh thủ về nhà; cả phòng còn trơ mình tôi và Đỗ Quyên. Lảo đảo, tôi buông mình xuống chiếc giường tầng, mồ hôi vã ướt lưng. Nhìn bộ mặt thảm hại của tôi, Đỗ Quyên hốt hoảng: Mày làm sao thế? - Tao... đau... Đỗ Quyên cuống cuồng: Chết, hay đau ruột thừa. Làm sao đây? Nó loay hoay xoa dầu, đắp mềm cho tôi: Nằm im, cố chịu, chờ tao... Nó lao ra khỏi phòng. Tôi lịm người, mê đi. Hình như có tiếng lao xao; rồi một đôi tay rắn chắc luồn xuống lưng, nhấc bổng tôi lên. Tiếng còi xe cứu thương hụ gấp gáp...

... Tôi thấy mình gặp Thị Nở. Thị Nở bằng xương bằng thịt. Thị Nở có khuôn mặt "như những người đần trong cổ tích và xấu ma chê quỷ hờn". Thị Nở cầm tay dắt tôi. Đi, đi với chị... - Đi đâu? - Chẳng phải em muốn gặp Chí Phèo sao? Chị đưa em đi gặp Chí Phèo... Ừ đi gặp Chí Phèo, thì đi! Kia! Chí Phèo kia... Tôi dụi mắt, nhìn kỹ. Cha mẹ ơi! Lại là... hắn. Hắn đang đứng chờ tôi, cái mặt đẹp trai dễ ghét cười toe. Không, không phải... tôi vùng khỏi tay Thị Nở, bỏ chạy. Tôi không biết mình chạy đi đâu. Hình như tôi đang... về nhà. Kia, nhà tôi kia! Chờ tôi, có đủ: ba mẹ, bầu bạn, thầy cô. Tôi lao vào vòng tay họ; cảm giác như con cá sắp chết khô vừa rơi xuống hồ nước mát. Có tiếng bật khóc. Ai khóc? À lại Thị Nở. Thị Nở vừa lủi thủi, bỏ đi vừa ôm mặt khóc. Sao thế chị? - Chị không có mẹ cha, không có gia đình... - Đừng chị đừng đi... bàn tay tôi yếu ớt chụp vai Thị Nở. Đôi vài trơn chuội, không có chỗ bấu víu. Người đàn bà đi mỗi lúc mỗi xa, miệng không ngừng lảm nhảm: chị không có mẹ cha, không có gia đình...

... Tôi thấy mình ở tuổi mười lăm. Tôi nằm trên giường - như cái lần tôi sốt xuất huyết, liệt giường hàng tháng. Tôi hé mắt. Đứng đầu giường là ba. Ba cúi nhìn tôi. Hình như ba quên mất chuyện buồn phiền vì bộ mặt "Thị Nở" của tôi. Mắt ba đầy lo lắng, yêu thương. Và mẹ. Dù nhắm mắt, tôi vẫn cảm nhận rõ ràng sự hiện diện của mẹ. Mẹ dịu dàng vuốt tóc, lau mồ hôi, đưa từng muỗng nươc scam vào đôi môi phồng rộp của tôi. Giọng mẹ thầm thì: Uống đi, cố uống đi con. Ngoan... Từng muỗng nước cam ngọt ngào trôi qua cổ họng, tràn vào huyết quản, làm nguội đi những tế bào bốc lửa. Tôi lịm người đê mê. Đầu tôi chợt nảy ra ý tưởng khùng điên: ước chi mình cứ bệnh, bệnh mãi... Tôi đọc thầm điều ước ấy. Người tôi bỗng thu nhỏ, nhẹ tênh, chỉ còn bằng đứa trẻ lên ba. Mẹ cúi xuống bồng tôi, hôn chùn chụt vào mắt, vào môi, vào má. Tôi cười khanh khách, vòng tay ôm cổ nghe mẹ nựng ừ, út cung của mẹ, con đẹp hơn mọi thứ trên đời...

Tôi nặng nhọc cựa mình, hé mắt. Hình như tôi ngủ đã lâu lắm. Một ngày, hai ngày... hay bầngy? Người tôi cứ lơ lửng, bồng bềnh. Một bên tay tê cứng vì bị cột xuống giường, bụng đau âm ỉ... Mình sao thế này? Hình như mình đang bệnh. Ờ, đúng là tôi đang bệnh. Mùi cồn ête lơ lửng không trung báo tôi biết rằng tôi đang ở bệnh viện. Vậy là tôi chưa ra khỏi giấc mơ. Tiếng bước chân ai lại gần. Người ấy cúi xuống bên tôi. Một bàn tay âm ấm sờ trán. Chắc là mẹ... không, không phải mẹ; tiếng thở của đàn ông. Vậy chắc là ba. Tôi khẽ động đậy đôi mi. Tỉnh rồi! Âm thanh như một tiếng reo vui. Giọng nói quen quen, nhưng không phải giọng ba. Ai? Ngoài ba mẹ ra, ai có thể ở bên tôi? Chịu, không đoán nổi. Tôi chơm chớp mắt, cố mở. Cái bóng trước mặt nhảy nhót, bồng bềnh như sương. Tôi lại nhắm mắt. Rồi mở ra. Lần này thì mở hẳn...
Không phải mẹ, không phải ba - mà là... HẮN!
Hắn đang nhìn tôi, cười lặng lẽ. Mặt hắn hốc hác, mắt thâm quầng. Sao... mình... ở... đây? - Bạn hôn mê hai hôm rồi. Tắc ruột. May mà mổ kịp... - Ba... Mẹ... - Mình đánh điện hôm qua. Chắc trưa nay vào tới... Tự dưng tôi bật khóc. Từng đợt nước mắt cứ trào ra, chảy ròng xuống gối. Ơ, sao lại khóc, tôi là đứa con gái cứng rắn cơ mà...

Luận văn tốt nghiệp của tôi - đề tài: Nam Cao và tác phẩm Chí Phèo - bảo vệ thành công trước hội đồng giám khảo. Tiếng vỗ tay vang dội. Bầu bạn ùa lên chúc mừng. Mắt tôi rưng rưng. Để khỏi bật khóc trước bàn dân, tôi quyết định... lủi ngõ sau, một mình về ký túc xá.
Hắn lù lù trấn cửa phòng tôi tự lúc nào. Bộ mặt đẹp trai "dễ ghét" cười ngoác đến mang tai! Chúc mừng bạn! Tay hắn thu thu, giấu giấu vật gì đó sau lưng. Cái gì thế? Nụ cười trên môi hắn vụt tắt. Hắn rụt rè, lóng ngóng. Đưa đây! Hắn ngập ngừng, rồi... chìa tay. Trên tay hắn cầm một đóa hồng...
 
Bình nguyên xanh thẳm

Dương Bình Nguyên


Nhà nằm lọt thỏm giữa thung lũng, ngẩng lên thấy mây vần, ngó ra thấy rừng rú. Mỗi chiều về, cái mảnh trời nho nhỏ hình khum bát lại trở dạng màu tro vạc, như ánh mắt buồn buồn.

Ẩn giữa vườn tốt tươi cây trái, từ trên đỉnh núi nhìn xuống, nhà giống một nốt ruồi son trên khóe miệng cô gái đôi tám xuân thì. Ông nội bảo, đất này thiêng lắm, ban phúc lộc đời đời. Phải biết phụng thờ thần rừng, chúa đất. Ông nội là người nặng nợ với quê nhà, thuộc nhiều tục xa tích cũ. Từ bé tôi đã sống trong tinh thần thấm đẫm những câu chuyện kể của ông. Nó từa tựa huyền thoại về những chốn linh thiêng, mà mỗi khi nhắc đến không khỏi trầm trồ thán phục.

Ông kể rằng, ngày tôi sinh thì máy bay quân bành trướng vè vè qua đỉnh rừng. Bố đi biệt không về, mẹ ôm tôi ngằn ngặt khóc đói sữa trong hầm tăng xê. Lúc ấy, ông phải vác thuổng vào núi đá đào củ mài về nấu cháo. Đêm về, lại thức hút thuốc lào xéo xoét bên bếp lửa để xua cọp khỏi rình chuồng lợn. Ông bảo, cái buổi loạn ly, nghĩ sao mà cực. Rồi ông nhướng mày nhìn về phía trước nhà, rừng xanh đang bạt ngàn xanh còn tóc ông thôi phai màu nữa, bạc phơ như một vòm mây mỏng. Ông nội ung dung và tự tại, một vẻ đẹp lâu bền như màu xanh nơi mảnh đất này vốn tự nhiên mà xanh mê xanh mải vậy.

Khi tôi lớn lên thì mọi thứ đã khác trước. Người ta lấy ngựa thồ vật liệu về để xây nhà gạch; những ngôi nhà sàn đẹp, mềm mại như vạt áo cổ tích mất dần trong trí nhớ trẻ con. Bố rục rịch làm nhà, ông nội gạt đi, nhà sàn ở cho mát, nhà ngói làm gì cho nó khổ sở ra. Thế là bố đành chịu. Bố ngồi nghe ông nội kể chuyện những ngôi nhà sàn cả trăm gian rộng, từ lan can những dải lụa, thổ cẩm phấp phới bay mà chẳng thấy bóng người. Ai vào đó có tiếng ma gà đếm từng bước chân. Khi ấy, tôi nghe chuyện thấy mông lung hư thực. Nhưng nhiều phần tin. Và mãi đến sau này, khi đã qua thời tuổi dại, đôi khi tôi vẫn giật mình, ngỡ như lời ông nội có điều gì báo ứng.

Năm mười tuổi, tôi được ông cho theo phường săn. Năm nào cũng vậy, cứ ăn qua rằm tháng Giêng là ông lại họp quân, chuẩn bị súng ống. Rồi một ngày đẹp trời, trưa vàng hong nắng, phường săn vác súng, dẫn bầy chó săn đi. Trước lúc xuất phát, ông nội thắp một nén nhang lên bàn thờ, như lời báo cầu đến thần rừng chúa đất. Tôi được ông đặc cách đi theo họ. Đám trẻ trong làng nếu muốn đi theo phải qua một cuộc thi tài, ấy là vượt từ bờ này qua bờ kia con sông Cái. Đứa nào về nhất sẽ được đi cùng với tôi. Ông bảo, đấy là người ta muốn rèn cách cho mấy đứa thành tài để thay lớp người già. Bố bảo, thời chúng mày không phải sinh ra chỉ để làm mỗi một việc đi săn và cưới vợ. Ông nội ừ hử, giận lắm nhưng rồi vẫn cho chúng tôi theo. Cứ một hồi súng nổ, chó ran ran sủa, để chiều kẻ khiên người vác tụ về sân nhà tôi. Dây chim bẫy được hai chúng tôi xách đầy trên tay.

Người tay dao, người tay thớt, mỡ nổ xèo xèo, thịt lợn rừng quay với lá mắc mật thơm đẫm cả thung lũng, vượt sang cả bên kia sông. Đầu con thú lớn nhất được bày mâm cúng. Cúng xong, thịt thà pha tất ra, thái vuông quân cờ, chia đều cho từng nhà. Ông gói vào lá chuối nướng cho chúng tôi một gói tướng, bảo là lộc xuân. Lộc xuân gồm những cái lưỡi, cái tai, và những miếng thịt hổ lốn, để tôi thò tay nhón từng miếng rồi vừa đùa chạy huỳnh huỵch vừa nhồm nhoàm nhai cho tới no lặc lè. Người nào bắn trúng ức con thú thì cả năm được mọi người quý trọng nể vì. Còn đám trẻ cùng xóm, chẳng cần bình bầu, chẳng ai giành giật, tôi nghiễm nhiên đóng vai thủ lĩnh trong mọi cuộc chơi… Những mảnh ký ức rất đậm ấy sau này tôi kể cho thằng bạn thân nhất người thành phố. Nó nhìn tôi, cười nhăn mũi, mọi rợ thế. Tôi vặc lại, còn mày thì ngu ngốc. Tôi cắt đứt tình bạn với nó. Bố biết chuyện bảo, ra thành phố thì những chuyện như thế con chỉ nên giữ lấy cho riêng mình.

Hè năm mười sáu tuổi, tôi bỏ hết những lớp học thêm, bỏ cả đợt tham quan biển Trà Cổ để về nhà xin ý kiến bố về đường hướng cho ngày mai. Lúc này, bố đã bỏ việc ở trên huyện vì những lý do chẳng ra sao. Đơn giản là bố không chịu luồn cúi. Bố về nhà, theo đám đàn ông trong làng đi ngược con sông Cái lên mãi miền Thượng du để làm nghề Sơn Tràng. Tôi thấy mẹ vẫn bươn bả với nương lúa mố, nhà cũ đã lần hồi vẹt ngấn thời gian. Ông nội thì đã già lắm, cứ ra thẩn vào thơ với câu hát nửa miệng, giống như những lời ước ao:

"Giá mà tôi ở trong rừng
Chim kêu vượn hót, nửa mừng nửa lo"

Tôi nhìn ông, nhà mình vẫn còn ở rất sâu trong rừng. Ông nội lắc đầu, thế này mà mày gọi là rừng đấy hẳn? Mày ăn lộc rừng từ bé, mày được cái chữ cái nghĩa vào người, mày thử nghĩ xem đi chắt hết rừng để lấy cái đút vào mồm là tốt hay xấu? Ông nội cũng đã nói câu đó trong buổi đi săn cuối cùng. Khi ấy bố đang ướp rượu rắn, bảo là làm thằng đàn ông con trai mà nghèo thì hèn lắm. Ông nội gắt, cả đời tao ở đây, ai dám nói tao hèn? Bố lắc đầu im lặng. Cái sự không chấp nhặt người già chứ không phải sự quy phục.

… Tôi hỏi mẹ, đợt này bố con đi đâu? Mẹ bảo, đi Vân Lăng, chắc phải hơn tháng. Tôi bảo, con cần gặp bố. Ông nội bảo, vào đấy làm gì, rừng thiêng nước độc. Chao ôi, cứ ngẫm mà sợ. Rồi không chết bất đắc kỳ tử cũng chứng nọ tật kia. Tôi bảo, bây giờ khác ngày xưa. Chắc lúc ấy ông định nói đến những ngôi nhà sàn phấp phới thổ cẩm, đẹp như thiên đường bờ xôi ruộng mật mà lại có ma gà đếm bước… Mẹ tôi gói túi cơm nắm cho tôi bảo, đi ngược sông cho dễ, đi chi đường đèo cho cực trần ai. Con sông Cái chảy vắt ra làng như một người bạn đời thân thiết. Mẹ tôi bảo, từ ngày về đây làm dâu, thì con sông cũng đã trắng đôi bờ lau lách và tím dại một loài hoa. Số mẹ tôi vất vả, cả đời đối mặt với cái nghèo đói, chắt chiu tấm áo manh quần cho chồng, cho con. Để đến giờ, tóc đã trộn lẫn xanh bạc bảy ba mà cái phận hẩm truân chuyên vẫn chưa dứt. Cả thời xuân trẻ, mẹ vắt sức mình trên nương mố và chờ đợi, đến nỗi sự nhẫn nại đã thành quen, miễn trừ được hết thảy những cú sốc rình rập lơ lửng đâu đó trong cuộc đời. Chưa bao giờ mẹ cản tôi điều gì. Mẹ yêu thương tôi bằng một tình yêu thương riêng biệt, bằng một mạch ngầm lan tỏa và có sức sống bền dai.

Tôi nghe theo lời mẹ, lần theo ngược bờ sông. Ngày trước sông xanh và tha thiết chảy, nhìn xuống thấy bóng cây rừng la lả bắc những nhịp cầu sang. Bây giờ sông ngòn ngòn đỏ, đâu đó trên miền thượng du người ta đang hì hục đãi vàng. Vừa là canh bạc với cuộc đời vừa là kế sinh nhai. Hồi còn học ở trường làng, tôi vẫn thường theo bố ra sông để học bơi. Bố lặn ngụp thần tình như một con rái cá. Tôi đùa nghịch vang cả mặt sông. Về sau này, khi tóc bạc về nhà, bố vẫn ra sông, ngóng sang bờ cây hoa tím và hoang hoải sa bồi, xa xăm những túp nhà đơn cách như những dấu lặng. Tôi hỏi, bố tìm gì? Bố bảo, chả tìm gì, cái điều đó không tên tuổi. Lại hỏi, bên ấy thì có gì? Chả có gì, toàn những cuộc đời chen lẫn vào nhau. Bố nhả khói thuốc như bắc cầu vồng qua bên kia sông. Chắc bên ấy bố có nhiều kỷ niệm.

Thứ nhất mất mẹ mất cha
Thứ nhì gánh vã, thứ ba Sơn Tràng

Bố bỏ đi làm thợ rừng, ông thường thơ thẩn hát thế. Mỗi lần tôi về, ông thường ngâm nga và bảo, sướng chẳng biết sướng, rừng xanh núi đỏ, vào đấy rồi biết sống chết ra sao? Lần này tôi lại bỏ đi rừng tìm bố. Tôi muốn bố chính thức có lời quyết định. Thực tình tôi muốn ra đi, muốn đổi đời bằng ngôn Ăng-lê xa lạ. Ông nổi cáu, mày sinh ra từ đâu, mày sống lên từ đâu. Hừ, coi chừng thần rừng phạt mày. Có lần cũng câu chuyện này, bố đã cải lại ông, ông phải để nó sống cho chính nó, bây giờ chúng nó phải sống khác ông và con. Ông nội nhìn những đám khói thuốc lớn phía trước mặt: Khác gì? Mày sống ở đâu, mày chết ở đâu, bao giờ chẳng thế? Câu chuyện vẫn thường lửng lơ thế, mà tôi chưa bao giờ nghĩ mình sẽ làm cầu nối cho sự hòa hợp. Tôi còn miên miết theo những cuộc đua ở dưới phố. Tôi cũng chẳng biết rồi mọi chuyện sẽ đến đâu… Nhưng hôm nay thì tôi vẫn phải đi. Tôi đi bên con sông buồn bã chảy. Tôi đi.

Cuộc sống đang vươn cánh tay cường tráng đến từng nẻo đất hoang nơi đây. Tôi thấy người ta trồng ngô, trồng sắn, những đám dưa gang nằm lăn lóc như lợn con. Làng càng lúc càng xa mờ. Mình tôi đi. Không ai cho tôi đi đường khác cả. Phía trước tôi là những cách rừng đá dựng. Phía sau tôi là thoai thoải một triền sông. Tôi đi, cùng bên tôi là ký ức về những vùng bên sông ám ảnh bố bởi bạt ngàn hoa tím.

Đêm. Tôi trèo lên chạc cây ngồi ngủ để tránh thú dữ. Tôi ngồi đó, lơ mơ trong tiếng réo âm vang của rừng già. Cứ thế, ba ngày liền thì tôi đến Vân Lăng.

Từ rất xa đã ngửi thấy mùi nghiến cháy cay xè cả mắt. Một mùi kỳ lạ xồng xộc vào mũi, vào các giác quan, thấy nôn nao. Đến đêm thứ ba thì tôi mệt quỵ. Tôi gục lả bên gốc trám già. Và khóc, nước mắt đắng chát đàn ông.

Khi tôi tỉnh dậy thì đã tảng sáng. Sương mai trắng đục như sữa nhú ra sau những rặng rừng. Ngoài cửa lán nghe tiếng mài cưa đục, tiếng búa bổ chan chát và những câu chuyện tiếu lâm kèm theo rất nhiều tiếng cười. Đám trai làng, những đứa trẻ nghe chuyện ma gà và thi vượt sông để theo phường săn giờ đã lực lưỡng, tấm lưng để trần như tấm phản gỗ lim. Học cười đùa, họ vô tư lự nhìn tôi. Họ đã sống bao ngày rồi như thế này?

Bố nhìn tôi rất lâu. Trong giây phút lặng yên ấy. Tôi bỗng nhận ra tuổi già đã lần tìm được bố mất rồi. Tôi im lặng nhìn ra phía ánh sáng. Và tôi hỏi bố về những trường đại học của đời mình. Bố nhìn theo những vệt sáng trên những luồng rừng đã bị phát sạch. Người ta sẽ mở qua đó một con đường. Bố bảo, tùy con. Nhưng chàng trai, hãy bắt đầu bằng đôi chân này, cho dù nó có phồng rộp và bỏng rát. Tôi cũng thôi hỏi bố, thôi nhắc về phần ký ức bạo liệt của người từ thời trai trẻ. Nó đã thuộc về ngày hôm qua rồi. Hôm nay, bố đã hiện hữu với vóc dáng già nua, chòm râu rậm rạp như cánh rừng nguyên sinh không thèm cạo. Nhưng ánh mắt bố thật sáng, tràn trề hy vọng. Cái hy vọng ước mơ chảy truyền qua dòng chung huyết thống.

Sau chuyến đi rừng ấy, chẳng biết tại những lo toan cật lực suốt đời hay bi “Trời đánh thánh vật” như lời ông tôi đoán mà bố tôi đau ốm, lưng người còng rạp xuống như một dấu hỏi lặng thầm.

Rừng bây giờ bạc nhiều, người ta đang phá nốt những tán rừng còn lại để trồng quế, trồng hồi theo dự án. Ông nội vẫn hát “Giá mà tôi ở trong rừng…” nhưng bố chẳng còn hơi sức đâu mà bực dọc như xưa nữa. Hàng ngày bố chỉ còn nhóng đôi mắt hàng bạc lên những cánh rừng thưa còn sót lại nhưng mong đợi điều gì. Ánh mắt ấy chẳng biết có giống ánh mắt xuân sắc của mẹ đợi chờ không?
Tôi ra thành phố, học mãi học mê, chẳng máy dịp về nhà. Nhà thì mãi thế, ba người ngày một già đi ngóng theo tôi trên con đường gập ghềnh. Tôi biết, một mai nó sẽ bị bào mòn và sẽ phẳng phiu hơn. Nhưng mỗi lần đặt tên cho những khát khao, tôi vẫn thường hướng về miền cây lá sinh sôi của mình. Tôi sinh ra và lớn lên từ vùng xanh thẳm đầy huyền hoặc ấy. Cái thung lũng màu tro vạc, nơi mà rừng cây cũng trường tồn và có cả khi thăng trầm như cuộc sống vậy. Cuộc sống luôn luôn ẩn dật và chảy truyền. Nó lúc nào cũng bắt đầu từ những đứa con.
 
.- Mở đầu (câu 1 - câu 16)

Hóa-nhi thăm-thẳm nghìn trùng,
Nhắc cân phúc tội, rút vòng vần xây.
Ngàn xưa mấy kẻ gian ngay,
Xem cơ báo-ứng biết tay trời già.
Tuần-hoàn lẽ ấy chẳng xa,
Chớ đem nông-nỗi mà ngờ cao xanh.
Trời nào phụ kẻ trung-trinh,
Dù vương nạn ấy, ắt dành phúc kia.
Danh thơm muôn kiếp còn ghi,
10.- Để gương trong sách, tạc bia dưới đời.
Gian-tà đắc chí mấy hơi,
Mắt thần khôn giấu lưới trời khôn dung.
Uy-quyền một chút như không,
Xem bằng lửa đá ví cùng đám mây.
Thanh-nhàn khi tựa hiên tây,
Vui lòng đèn sách, nghỉ tay văn bài
 
Mai Bá Cao cùng con: Lương-Ngọc (câu 17 - câu 56)

Truyện ngoài xem "Nhị Độ Mai ",
Nhà Đường truyền vị đến đời Đức-tông.
Thường-châu có kẻ thanh-trung,
20.- Bá Cao là chữ, vốn dòng họ Mai.
Nền trung-trực dạ trang-đài.
Trời cho văn-tử đáng tài trạng-nguyên.
Đặt tên Lương-Ngọc dõi truyền,
Thông-minh rất mực, phượng tiên trong đời.
Nhân-duyên số sẵn tự trời,
Hôn-nhân đã định vào nơi họ Hầu.
Chỉ vì ngoại lỵ bấy lâu,
Chưa trao lễ nhạn mới đầu thiếp canh.
Mai công tri-huyện Lịch-thành,
30.- Gương trung sáng vặc, túi thanh nhẹ bồng.
Cầm-đường ngày tháng thung-dung,
Tên ngay là tiết, nước trong ấy lòng.
Bấy lâu Lư Kỷ tướng-công,
Tuy quyền-tước lớn, mà phong độ hèn.
Túi tham của đút chật lèn,
Dung bên gian-đảng, ghét bên hiền tài.
Mai-công mấy độ quan ngoài,
Bạn-bè nhờ có mấy người đồng niên.
Trong triều hết sức giữ-gìn,
40.- Kẻ ngôi Thiêm-sự, người quyền Thượng-thư.
Kìa Đảng Tiến, nọ Đông Sơ,
Kẻ toà Đô-sát, người toà Hàn-lâm.
Chu toàn đã ngoại mười năm,
Bè trung chống vững, lòng căm chớ hòng.
Một ngày huyện vụ vừa xong,
Vào trong ông mới ngỏ cùng phu-nhân.
Rằng : "Ta vốn kẻ trung-thần,
"Trên vì nước, dưới vì dân mới là!
"Ví dù theo thói người ta,
50.- "Uốn lưng co gối cũng nhơ một đời.
"Lọ là cầu-cạnh chi ai,
"Chẳng trong lăng miếu, cũng ngoài điền-viên.
"Con ta trạc tuổi thanh niên,
"Có gương khoa giáp, có nền đỉnh-chung.
"Sao cho giữ được chữ trung,
"Mới là hiếu-tử nối dòng thư-hương."
 
Thăng quan lai kinh; Mai Công dặn vợ con (câu 57 - câu 108)

Những là vui chuyện nội đường,
Sảnh ngoài bỗng có hai chàng báo tin:
Mai-công phụng chỉ thăng thuyên.
60.- Chiếu trời mây vỗ, ân trên mưa nhuần.
Triều ban dự bậc quan thân,
Lại khoa cấp-sự giữ phần gián quan.
Tin đâu khêu tấm trung-can.
Một hai quyết phải trừ gian phen này.
Truyền làm tiệc rượu vui-vầy,
Dặn-dò gia sự đinh ngày khởi thân.
Tàng tàng chén cúc vài tuần,
Đòi công-tử với phu-nhân dạy lời:
Rằng: " Bấy lâu những ở ngoài,
70.- "Dạ này tấm-tức với người quyền gian.
"Rày vâng Đài-gián thăng quan,
"Phen này ta quyết cả gan phen này.
"Bấy giờ một giở, một hay,
"Họp nhau nào biết có ngày nữa thôi?
"Cũng đừng bịn rịn lôi-thôi,
"Mẹ con sớm liệu về nơi quê nhà.
"Điền-viên vui thú nông gia,
"Tiện con đèn sách ấy là lẽ nên!
"Ví dù giải kết có tin,
80.- "Bảo nhau sớm liệu tìm miền ẩn thân.
"Chờ cho thiên-địa xoay vần,
"Sẽ toan-tính với thù-nhân sau này.
"May mà vua chứng lòng ngay,
"Đàn hồ, lũ thỏ, một ngày quét thanh.
"Bấy giờ phu quý, phụ vinh,
"Đưa tin sẽ đón thăng kinh cũng vừa."
Tân bằng mừng rỡ chật nhà,
Tiếp thù ông bận những là hàn-ôn.
Phu-nhân nửa lệ nửa buồn,
90.- Đòi công-tử đến, mẹ con bàng-hoàn.
Rằng: "Nghe bố con bàn,
"Phen này quyết với quyền gian đối đầu.
"Sẻ đàn, phượng một, chắc đâu,
"Cái lo này để về sau tày trời."
Nghe rồi công-tử thưa lời:
"Thế rằng cái đạo làm tôi mới là.
"Nhà huyên xin chớ lo xa,
"Hễ trời có mắt thì ta lệ gì ?
"Hãy cho vẹn tấm trung-nghì,
100.- "Vinh, khô, đắc, táng, sá chi cuộc đời."
Ông vừa xong việc khách ngoài,
Bưóc vào trong, bông nghe lời con thưa.
Vuốt râu cười nói lui ra,
Khen rằng: " Ấy thực đại-gia con nòi!
"Trẻ thơ biết đạo làm tôi,
"Gương trung-hiếu, lấy một lời mà suy.
"Mới hay hổ phụ, lân nhi,
"Khéo thay tính trẻ cũng y tính già.
 
Mai-Công dặn nha lại (câu 109 - câu 126)

Nói rồi truyền gọi lại nha,
110.- Đương đường nhủ hết nỗi xa nỗi gần:
"Làm người biết đạo tu thân,
"Việc quan phải giữ lấy nhân làm đầu.
"Tiếng thanh bạch để về sau,
"Dẫu rằng uống nước, ăn rau chớ nài.
"Việc văn án phải quan-hoài,
"Một câu nặng nhẹ, mấy người oan-khiên.
"Khuyên đừng đổi trắng thay đen,
"Ngược dân dưới, dối quan trên, khó lòng.
"Giữ-gìn đôi chữ hiếu-trung.
120.- "Sao cho không hổ với trong cao dày.
"Ta đây vả tiếng quan thầy,
"Giã nhau một chút niềm tây gọi là.
"Rồi đây một bước một xa,
"Nghe ta hay chẳng nghe ta, mặc dầu!"
Dạy rồi ai nấy gật đầu,
Rằng: "Vâng khuyên nhủ từ sau ghi lòng."
 
Tình cảnh nhà họ Mai trước khi tương biệt (câu 127 - câu 194)

Trù-phòng dọn dẹp vừa xong,
Một công-tử với hai ông bà ngồi.
Dặt-dìu sẽ rót chén mồi,
130.- Nghìn câu trân-trọng trăm lời biệt ly.
Người trằn-trọc nỗi về quê,
Kẻ năn nỉ nỗi đường đi giữ-gìn.
Người khuyên cẩn-thận sớ tiên,
Kẻ răn nhắc nhỏm sách-đèn sớm khuya.
Lôi thôi giở nỗi lâm-kỳ,
Ngoài đầy vơi chén, trong mê mẩn tình.
Phu-nhân hỏi: "Buôi đăng Kinh,
"Phỏng cho mấy đứa tùy hành theo ông ?"
Mai-công rằng: " Lọ chi đông,
140.- "Một chàng Mai Bạch vốn trong họ nhà.
"Gọi là làm bạn đường xa,
"Gọi là ngày gió ngày mưa theo hầu."
 
Đoản khúc mùa thu

Nguyễn Đình Tú


Ngày anh cưới vợ em mặc chiếc áo màu cánh sen, hở cổ và chiếc váy dài màu trắng sữa. Dáng hình mảnh mai, mái tóc ngắn rẽ ngôi một bên, gương mặt trang điểm nhẹ nhàng, đầu ngẩng cao và ánh nhìn lạnh băng kiêu hãnh, em đã xuất hiện trước anh trong hình hài anh chưa bao giờ được trông thấy.

Anh yêu, anh là một người mù
Nên em đâu dám trách
Còn em, em có nguyên đôi mắt
Song chẳng để làm chi...

(Ha-lin Po-xvat-tôp-xka)

Chúng ta gặp lại nhau vào một ban mai cuối thu.

Trên bãi cỏ cạnh ghế đá công viên chúng ta cùng ngồi, hai đứa bé xinh xắn đang mải mê nghịch ngợm những chiếc lá bàng đỏ, những bông hoa cỏ vàng, những trái bằng lăng khô mà chúng mới tha thẩn lượm nhặt về. Giọng nói, tiếng cười hồn nhiên của chúng hòa cùng tiếng chim hót thánh thót văng vẳng đâu đó. Hai đứa bé ấy chính là hai đứa cháu út ít của chúng ta.

Bên hồ. Mặt nước trong veo, vơi cạn, lăn tăn sóng gợn. Cây phượng cao lớn vững chãi vươn những nhánh cành thanh mảnh về phía bầu trời xanh thẫm lạ lùng. Một ngày cuối của mùa thu. Nắng vàng hoe da diết. Những chiếc lá phượng bé bỏng, li ti, già nua, vàng úa cuối cùng còn vương vấn trên cây bị cơn gió heo may bứt xuống. Bay, bay mãi. Lá phượng rơi lên tay, chạm vào mặt, bám lên mái tóc và áo quần chúng ta.

Có thể, đó cũng là cây phượng con cháu của loài cây tuổi trẻ chúng ta đã từng ghi dấu. Ngày xưa, những ngày đã lâu lắm rồi, cây phượng gù ấy đổ nghiêng thân về phía lòng hồ. Những chiếc cành mảnh mai của nó lòa xòa trên mặt nước. Tưởng như sẽ chạm hẳn vào mặt hồ mà rồi lại dè dặt run rẩy cách xa...

* * *

- Đến tận ngày cưới, em tới, chỉ cần em nói: Anh hãy kết thúc ngay trò đùa này đi! Anh đừng làm em đau khổ nữa! Một lời thôi, anh cũng sẵn sàng từ bỏ tất cả, cam lòng bị nguyền rủa, cam chịu mắc nợ cả đời với người con gái kia để đi cùng em, chạy trốn cùng em đến bất cứ nơi nào cả hai chúng ta cảm thấy bình yên và hạnh phúc. Nhưng em đã không làm như thế...

- Em vẫn còn nhớ. Ngày anh cưới vợ em mặc chiếc áo màu cánh sen, hở cổ và chiếc váy dài màu trắng sữa. Dáng hình mảnh mai, mái tóc ngắn rẽ ngôi một bên, gương mặt trang điểm nhẹ nhàng, đầu ngẩng cao và ánh nhìn lạnh băng kiêu hãnh, em đã xuất hiện trước anh trong hình hài anh chưa bao giờ được trông thấy. Xinh đẹp, dịu dàng, trẻ trung, trang trọng và xa cách vô cùng. Rất nhiều người trai trẻ nhìn theo và mỉm cười thân thiện với em. Như một đôi rất yêu nhau, em khoác tay đi bên anh ấy, hồn hậu, nhiệt thành chúc mừng anh như cầu chúc cho người bạn thân thiết.

...Suốt buổi, anh ấy luôn phải nắm rất chặt lấy tay em, đôi lúc còn khẽ lắc lắc, như muốn nhắc: Chị vững vàng lên nhé. Còn có tôi đang bên cạnh chị đây này!

Dĩ nhiên là em làm sao quên được vai diễn của mình. Em đã cố tìm gặp và nhờ cậy một chàng trai trẻ đóng vai người yêu để đi dự đám cưới của người yêu cũ. Có vẻ như ảnh hưởng trích đoạn bộ phim tâm lý hoặc trang tiểu thuyết tình cảm buồn thảm nào đó. Nhưng anh ấy đã nhận lời. Có thể, vì sự chân thật của em. Có thể, vì anh ấy cũng có trong mình tố chất của người nghệ sỹ: Đồng cảm, dễ sẻ chia, giàu lòng trắc ẩn và nhiệt thành!

Em lặng lẽ nhìn cô dâu đi bên cạnh anh. Nghe nói, cô ấy kém em vài tuổi nhưng vì ngày cưới phải mang trên người quá nhiều đồ trang sức cộng với khuôn mặt trang điểm hơi kỹ càng nên có vẻ nặng nề, khô cứng và già dặn. Cô ấy khoẻ mạnh, lộng lẫy, cân đối, hiểu biết và vui vẻ là được rồi. Em nghĩ và thành thật tin vào hạnh phúc của anh. Vậy mà không hiểu sao khi tan tiệc, ra cửa, chạm vào nụ cười và lắng nghe giọng nói cảm ơn bè bạn của cô ấy em lại thấy có điều gì đó bất ổn... Nhưng em vội vàng xoá đi ý nghĩ này. Chỉ là linh cảm thoáng qua, linh cảm của một người đa đoan, mẫn cảm mà rõ ràng không nên như thế đối với cô gái đã có được anh trong đời. Trở về nhà, em ngã ngay xuống gối. Mệt nhoài, buồn thảm, trái tim cũng như quỵ xuống vì phải trải qua tình huống quá sự chịu đựng của mình.

* * *

- Cuộc hôn nhân của anh chỉ yên ổn được trong một vài năm. Khi đứa con đầu lòng ra đời, vợ chồng anh không sống cùng cha mẹ nữa mà ra ở riêng. Anh được đề bạt chức vụ cao hơn, công việc như ý và tiền bạc kiếm được ngày một dễ dàng. Vậy mà chẳng hiểu sao anh lại nhớ đến em nhiều thế. Mọi việc đối với anh trôi chảy, bài bản, suôn sẻ, thuận chiều nhưng sao tâm hồn anh trống rỗng và đơn điệu quá thể. Anh biết, anh đã sống bằng thói quen mất rồi. Anh và vợ anh hoàn toàn không hiểu nhau. Sự đồng cảm, chia sẻ, dịu dàng mà cô ấy dành cho anh những ngày yêu nhau chẳng qua cũng chỉ là một sự cố tình tạo ra để có được anh. Cái gì không phải là tự nhiên thì sẽ không bền lâu. Trước năm tháng đời người, sự gượng ép, giả tạo mau chóng phôi phai, lộ chân tướng. Điều bất hạnh lớn trong đời người đàn ông là không được sống cùng tri âm, tri kỷ. Không có em, nhớ em nhiều, anh âm thầm hiểu ra lý lẽ tình yêu của em. Chẳng ai yêu anh như em yêu anh. Lúc nào cũng dè dặt, lúc nào cũng dịu dàng, lúc nào cũng chưa trọn vẹn. Một tình cảm thoang thoảng, thực hư, mờ ảo, trên bạn bè một chút, dưới tình yêu một chút... Anh đã từng nghĩ, tình yêu của em giành cho anh, giống như nước lã. Nhưng bây giờ anh lại hiểu, đó không phải là thứ "nước lã người dưng" mà là nước lã tinh khiết, âm thầm bên nước đường ngọt ngào, mê đắm. Nước đường thì quyến rũ và dễ say lòng. Nhưng không ai uống nước đường được mãi. Chỉ có nước lã mới bền lâu... Khi anh thực sự biết đau, cũng là lúc đã quá muộn màng...

- Là kẻ mất mát tình yêu của anh, em hoàn toàn gục ngã, kiệt sức và cảm thấy hình như cuộc sống của mình không còn tồn tại nữa. Em không muốn thức dậy bất cứ một ký ức nào về anh. Những tặng vật kỷ niệm anh dành cho em đều được gói ghém và mang đi chôn cất. Em muốn yên lành. Muốn lãng quên. Sáng nào thức giấc em cũng phải nhìn vào ảnh cha em, nước mắt vòng quanh, thầm thì hàng trăm lần lời hứa âm thầm trước vong linh người đã khuất. Những sắc màu loang lổ trên toan vẽ. Những hình khối lớn bé, xiêu vẹo, xấp ngã. Những đóa hoa run rẩy dưới ánh trăng giá lạnh. Những em bé, những cánh chim nhỏ nhoi trước ban mai rộng lớn. Em vẽ, cứ vẽ, vẽ mải miết. Em quên hết thời gian, quên cả nỗi muộn phiền, quên nỗi khổ đau hiện hữu và những nhức nhối trong tâm tưởng... Tâm trí và sức lực em dồn hết cho sự lựa chọn của mình, sự lựa chọn nhọc nhằn, cay đắng, một hành trình không hứa hẹn gì đến thành công và vinh quang cả. Nhưng mong ước có người kế nghiệp hội hoạ của cha, những giọt nước mắt và nụ cười không bao giờ trọn vẹn của em lại chính là điểm tựa vững vàng nhất mà em có. Đi tới bến bờ này lại nhận ra nơi phía trước kia hình như mới chính là bờ bến mình cần đến. Nghệ thuật không có điểm dừng lại. Nỗi buồn đau riêng tư cũng không bao giờ hết cả. Em đã vẽ rất nhiều, rất nhiều. Vẽ như hoà cả tâm hồn mình vào những sắc mầu, hình khối của năm tháng ấy...

- Tranh của em luôn đầy sức sống, niềm tin, lạc quan và hy vọng. "Hoa mặt trời", "Em bé và con thỏ", "Khung cửa mùa thu", "Bà mẹ", "Bàn tay người tạc tượng"... Anh được tận mắt chiêm ngưỡng sự thành công của em vào chính những ngày buồn thảm nhất của đời anh. Con trai anh phải đưa vào trại cai nghiện ma tuý lần thứ tư. Vợ anh gần như mắc bệnh tâm thần. Đứa con gái bị chồng bỏ cứ hễ gặp mặt bố là rầu rĩ, thở than, khóc lóc. Ban lãnh đạo mới không xếp anh vào ê kíp làm việc của mình. Anh như rơi xuống vực thẳm, đầy chông gai, không thể nào gượng đứng dậy được. Mới ngoài bốn mươi mà tóc anh bạc trắng. Như sợi dây cung bị chùng xuống, anh không có ý định nài ép nghị lực của mình thêm một lần nữa căng lên. Rượu, trà, thuốc lá, bóng đá và cờ bạc là bầu bạn thường xuyên của anh. Phòng cơ quan, nhà mấy người bạn độc thân rồi quán xá trở thành nhà trọ thân thiết hơn mái nhà anh từng ra vào sinh sống bao nhiêu năm tháng. Rồi em ạ, tình cờ (ôi, tuổi trung niên còn xúc động và thức tỉnh trước sự tình cờ của số phận mới thật kỳ lạ!), một buổi vào giờ cơm tối, anh đang ngồi lơ mơ trong quán rượu thì ti vi đưa chương trình về em. Vẫn gương mặt xinh xắn, trẻ trung, dịu dàng. Vẫn nụ cười tinh nghịch, hồn hậu. Vẫn đôi mắt rực sáng và ánh nhìn ngay thẳng. Dù em có đẫy đà hơn, quý phái và sang trọng hơn, anh vẫn nhận ra em. Em trả lời phỏng vấn. Kỹ thuật viên để gương mặt em nổi bật trên khuôn hình, để tất cả khán giả hâm mộ đều được thấy rõ, được như đang trực tiếp đối diện với em. Vậy mà, khi ấy, anh lại có cảm giác là em chỉ nhìn thấy, chỉ nói chuyện với mình anh. Em đã thành công rồi. Lời hứa âm thầm trước người cha đã khuất của em mà mãi sau này anh mới biết nay đã thành hiện thực. Không ngờ, trong hội hoạ, một người vào tuổi hai mươi ba mới bắt đầu đi những bước đầu tiên lại mau chóng đạt được vinh quang rực rỡ. "Tôi muốn dành những lời sau nhất để gửi tới một người bạn của tôi, một kiến trúc sư tài hoa của những năm tôi tuổi hai mươi. Tôi vừa được biết, hiện tại anh đang gặp nhiều trắc trở trong sự nghiệp và đời sống riêng tư. Nhưng tôi luôn luôn tin rằng bằng nghị lực và tài năng của mình nhất định anh sẽ vượt qua. Vào giây phút này tôi mong mỏi được chia xẻ cùng anh như với người thân thiết yêu dấu của tôi".

"Anh ngồi quán đấy à!", "Anh đừng hút thuốc lá!", "Anh đừng uống rượu nhé!"... Ngày xưa, em vẫn hồn hậu, ngây thơ, nhẹ nhàng khuyên can, nhắc nhở, quan tâm đến anh một gã lãng tử bụi phủi bất cần đời như thế. Bây giờ, thành đạt và vinh quang, em không lãng quên bạn bè cũ, em chưa hề quên anh... Như kẻ bừng tỉnh sau cơn mê, anh liêu xiêu đứng dậy, móc ví trả hết số tiền nợ của quán rượu rồi loạng quạng bước nhanh ra cửa. Ngôi nhà của anh. Dưới ánh đèn nê ông nhợt nhạt, con gái anh đang ngồi chờ bố bên mâm cơm. Vợ anh nhác bóng chồng vội xoè quạt giấy che mặt và cười khanh khách. Ghế bên phải anh còn trống trải - vị trí của đứa con nghiện ngập đang cai nghiện chưa về. Xộc xệch, tan nát, bất hạnh. Nhưng đó là gia đình của anh. Nó cần anh làm điểm tựa, cần anh vững vàng nhóm lại ngọn lửa hồng ấm áp, cần anh xốc lên, vực dậy. Sống hơn nửa đời, anh phải làm lại từ đầu. Nhọc nhằn, cay đắng nhưng cũng gắng gỏi lắm. Điều anh làm lại cho anh, cho vợ con anh không hẳn hoàn mỹ nhưng chắc chắn có ý nghĩa hơn những tháng ngày bạc nhược trước đó. Anh làm tất cả những gì mình có thể làm đó là vì ai, em biết mà...

- Chồng em mất đã hơn mười năm rồi. Hơn ba ngàn ngày, em đã sống những phút giây trống rỗng. Nhưng em cảm ơn số phận đã ưu ái trao vào tay em tình yêu của anh ấy. Anh ấy chính là chàng trai có mặt bên em trong đám cưới anh ngày nào. Anh ấy là một họa sĩ, là học trò của bố em, là người thầy đầu tiên hướng dẫn em những nét cọ đầu tiên. Nhưng nếu em không hạnh phúc thì em cũng không đổ lỗi cho anh. Đừng trách quá khứ vì nếu cho ta làm lại từ đầu chưa chắc ta đã làm khác đi. Đôi khi con người ta cứ hay tuyệt đối hoá tình yêu. Chưa hẳn một tình yêu đẹp sẽ đưa đến một hôn nhân đẹp. Đừng lấy quá vãng bao biện cho những thua thiệt hiện tại. Có phải thế không?

* * *

Bà cụ ho húng hắng. Vẫn bị viêm họng đấy à? Ông lão lo lắng. Có nhớ ngậm gừng với một tý muối không? Phải mặc áo len cao cổ đấy nhé. Kìa, quàng lại khăn đi, gió thế này... Bà cụ móm mém cười, ngượng ngùng nhìn ông lão. Hói mất rồi nhỉ. Tóc lơ thơ thế này mà chẳng chịu mũ mão gì cả. Lạnh đầu lắm. Đây, tôi có mang hộp dầu gió, xoa ngay một ít vào thái dương cho ấm đi nào... Ông lão định bảo, bà yên tâm, tôi đàn ông đàn ang đâu có mỏng manh, ốm yếu như bà nhưng vội ghìm lại được. Phải rồi, ngày xa xưa ấy, mỗi lần người yêu dấu của cả cuộc đời ông dặn dò điều gì ông đều ra vẻ ngoan ngoãn nghe lời, thậm chí thề ước tuân thủ để rồi làm ngược lại tất cả. Ông cảm thấy thích thú, cảm thấy hạnh phúc khi nàng tức giận, dỗi hờn. Ông đã mong nàng thú nhận, mong được chứng kiến rằng vì ông ngang bướng, ương ngạnh, tồi tệ, lười nhác, xấu xa mà nàng phải khóc lóc, khổ sở, đau buồn. Ông đã nghĩ, như thế mới có thể nhận ra tình cảm của nàng đối với ông là đặc biệt, là hơn hẳn so với đám con trai tài hoa, giàu có, đẹp mã, luôn vây quanh, tôn sùng, thương quý nàng hết mực kia. Ông muốn có được tín hiệu tình yêu riêng của mình theo cách lạ lùng như thế. Bởi vì ông không bao giờ có đủ sự tự tin mỗi khi đối diện nàng hoặc đối mặt các "đối thủ" của mình. Ông không hề biết rằng, đúng hơn ông đã không nhận ra rằng nàng là một cô gái lặng thầm và cương nghị. Tình yêu của nàng dành cho ông giống như ngôi sao bé nhỏ trên trời xa, tưởng chừng yếu ớt nhưng vô cùng mãnh liệt. Ông đã không đủ can đảm, không đủ tự tin để đến gần ngôi sao tình yêu đời mình... Sai cả đời rồi, không thể tiếp tục sai thêm nữa. Mùi dầu thơm cay thoang thoảng bay...

- Ông vừa hẹn tôi ngày mai, vào giờ này chúng ta lại đưa cháu ra ngoài công viên chơi phải không? Tôi chẳng hứa hẹn gì đâu. Tuổi già giống như cây nến cạn kiệt vì đã đốt cháy bản thân suốt những tháng năm đời người. Biết đâu ngày mai ngọn nến ấy lại không còn cháy nữa. Như thế lại thành thất hứa, lỡ hẹn với nhau... Thôi, ông ạ, tôi chỉ mong, con đường chung trước lối rẽ trở về với mỗi ngôi nhà của chúng ta dài thêm ra một chút. Muốn thế, thì chúng ta đi cùng nhau chầm chậm. Ông hãy đi bên tôi và nhìn những đứa cháu đang tung tăng chạy phía trước kia. Chúng ta đang đi giữa mùa thu đấy. Liệu có phải là mùa thu cuối cùng của cuộc đời không? Ai mà biết trước được... ông nhỉ?

Hình như ngàn chiếc lá đang dệt một ban mai vàng.
 
Tiệc tàn
Truyện ngắn của Bích Hạnh


Khi anh đến, tiệc cưới đã bắt đầu được một lúc. Nhướng mắt nhìn lên sân khấu, anh thấy chú rể đang vòng tay qua eo cô dâu để biểu diễn màn rót sâm banh. Không phải anh cố tình đến trễ trong đám cưới thằng bạn học cuối cùng lấy vợ, mà vì anh ngủ quên. Bữa nhậu hồi trưa không dài, nhưng không hiểu sao anh cảm thấy mệt. Có lẽ nó là sự tiếp nối của buổi tối hôm trước, khi chú rể của ngày hôm nay rủ anh em đi nhậu một trận giã từ cuộc sống độc thân. Anh đã ngủ một mạch gần ba tiếng đồng hồ, cho đến khi choàng tỉnh dậy bởi cú điện thoại của Cầm. Ngoài trời nhá nhem tối.

- Anh đã tới đám cưới chưa?

- Chết rồi, anh ngủ quên. Anh dậy ngay đây, sẽ đi ngay bây giờ.

Sự im lặng ở đầu dây bên kia khiến anh chột dạ.

-Thế em đang ở đâu?

Hình như có tiếng thở dài.

- Em, chắc em không đi đâu anh ạ.

Suýt chút nữa thì anh thốt ra "Sao vậy?", rồi anh định nói "Ừ", nhưng rốt cuộc anh lựa được một câu khác:

- Hay là anh qua đón em?

Tiếng cười nhạt của cô gái. Có vẻ như cô đã lấy lại bình tĩnh, cô nói bình thản:

- Không cần vậy đâu. Em nghĩ kỹ rồi, đi làm gì, bọn em có phải là khách sáo gì đâu, anh ấy sẽ thoải mái hơn. Anh biết đấy...

- Khi nào tan tiệc anh sẽ gọi cho em.

- Không sao đâu, cảm ơn anh. Anh đi đi, muộn rồi đó.

Khách khứa đã ngồi kín các bàn tiệc. Ở một khách sạn sang trọng bậc nhất Sài Gòn thì số lượng bàn lên đến cả trăm là quá nhiều. Anh tìm được một chỗ trống, và mỉm cười với người phụ nữ ngồi cạnh anh, bên tay phải. Nàng trạc ba mươi tuổi, khá đẹp. Anh chợt nhận thấy nàng có vẻ gì đó quen quen. "Phụ nữ ở những đám cưới bao giờ cũng đẹp, và bao giờ cũng có cảm giác quen quen"... Anh nhớ ra nhận xét của một thằng bạn và cảm thấy khá có lý.

- Em là bạn của cô dâu hay chú rể ? - Anh bắt chuyện.

- Dạ, em... - Nàng lúng túng.

- Xin lỗi, anh thấy em quen quen... - Anh nói ra cảm giác của mình. Đó là một cái tật của anh. Và anh nhìn nàng lần nữa.

- Người anh em, uống chút làm quen nào...

Người đàn ông ngồi bên tay phải nàng nhoài người qua phía anh. Anh ta đặt tay vào eo cô nàng xinh đẹp, cười ý nhị.

- Tôi là Hưng. Còn đây là vợ tôi.

Anh nhận thấy bốn chữ "đây là vợ tôi" được Hưng nói một cách trịnh trọng hơn bình thường. Có thể vì muốn nói câu nói đó mà anh ta cụng ly với anh chăng. Anh nhếch mép cười. Dù sao anh ta cũng có quyền tự hào. Vợ anh ta đẹp thật. Nàng có đôi mắt đẹp, mắt của một người đàn bà dễ cảm, biết bộc lộ cảm xúc, hút người đối diện vào một cảm giác được tìm hiểu nàng, vương vấn nàng, dù chỉ là một thoáng qua. Trông nàng thật thanh mảnh với chiếc đầm dài giản dị màu xanh da trời để lộ cần cổ trắng mượt mà gợi cảm.

Mình để ý đến cô ta hơi nhiều. Rõ ràng mình đã gặp cô ta ở đâu đó. Anh cố nhớ, nhưng đầu trống rỗng, không có manh mối gì.

Cô dâu chú rể đã uống xong thứ rượu màu hổ phách bằng cái cách mà anh nghĩ là khó chịu nhất khi uống rượu, nghĩa là vòng tay qua nhau, và cúi gập người vào nhau gò bó, ngượng nghịu. Có lẽ cả đời họ chẳng bao giờ cùng uống với nhau như thế lần thứ hai. Họ bắt đầu đi chào bàn. Anh thấy bà mẹ của Tiến - ở quê vào đã mấy hôm nay. Bà mặc một chiếc áo dài nhung the màu tím, mặt trắng xóa phấn, trông khác hẳn bà cụ lọm khọm đôn hậu quê mùa mà anh từng biết. Tiến cười luôn miệng, tay vòng qua eo cô dâu. Cô dâu có một gương mặt trung bình, không đẹp không xấu, nếu anh gặp cô ta dưới ba lần chắc anh không nhớ rõ cô. Tiến nói cô bằng tuổi, cha cô là một quan chức lớn trong ngành ngân hàng. Đám cưới có lẽ ba phần tư là người quen của họ nhà gái.

Anh cảm thấy điện thoại của mình rung lên, nhưng khi mở ra thì không thấy có tin nhắn hay cuộc gọi nhỡ nào.

Người đàn bà ngồi cạnh anh ăn tay trái. Hình như nàng đụng vào anh và quay sang mỉm cười bối rối. Anh nhìn thấy những ngón tay nàng và tự dưng xao động. Tay nàng không đẹp, những ngón tay dài và thon, trắng nhưng hơi xương xương, nổi gân, và nó giống đôi tay Phượng kỳ lạ. Phượng cũng thuận tay trái, cũng bàn tay xương xương như vậy. Nàng nấu ăn giỏi, biết thêu thùa, đan lát, biết vẽ tranh, làm thơ, viết truyện... trước khi lấy anh. Anh nhớ Phượng những lúc nàng ở trong bếp, trổ tài nấu nướng. Tóc Phượng cặp cao để lộ cái gáy trắng trẻo mảnh dẻ, chiếc áo hai dây trễ một bên vai và thỉnh thoảng nàng phải co người về một phía để kéo nó lên. Anh lại gần, không cưỡng được một cái hôn vào gáy nàng. Anh thích ngắm đôi tay Phượng thành thạo và khéo léo với dao, đũa, thìa, chai lọ, rau củ... và khi Phượng dọn món ra bàn ăn thì anh có cảm giác mình là một ông vua.

Nhưng đó chỉ là những ngày đầu của cuộc hôn nhân.

Nhiều chủ nhật rảnh rỗi về sau Phượng không còn thích nấu nướng nữa. Cô để tâm hàng giờ với những đôi tất len vớ vẩn, những chiếc hoa và đồ vật làm bằng giấy màu, bìa, vải vụn, keo và những chất liệu mà anh không còn biết gọi tên là gì. Làm xong, cô vứt chúng lung tung khắp nhà hoặc có khi ném vào thùng rác.

Phượng bắt đầu ít về nhà. Cô ở riết cơ quan, cả những khi cô trực và những khi không có việc gì. Cô bắt đầu đi học đủ thứ, về nhà muộn. Anh và Phượng không cãi cọ nhau, có lẽ bởi bản tính kiêu hãnh của anh, nhưng điều đó làm anh bức bối. Anh, một người đàn ông có thể nói là thành đạt sớm so với bạn bè. Hành trang mà anh mang về sau sáu năm du học cộng với dáng vẻ thể thao khỏe đẹp đủ để người ta mời anh vào những vị trí ngon lành. Đám bạn học cũ của anh ngoài Hà Nội sinh sống ở Sài Gòn thường mơ được như anh, nhất là khi anh cưới Phượng. Hồi đó Phượng đòi thiết kế cái bếp theo ý tưởng riêng của nàng, anh để nàng toàn quyền với một cọc tiền, và anh hạnh phúc vì điều đó. Anh không ngờ rằng một năm sau đó, Phượng đã không còn thiết gì đến trò chơi làm đầu bếp mà anh là một khán giả trung thành.

Anh đã sai lầm khi chọn cách trả đũa nàng.

Hôm đó, muộn quá không thấy Phượng về, anh không thể chịu đựng nổi. Anh xách xe chạy lòng vòng và không cưỡng được, đến ngay cơ quan nàng. Nhiều người biết anh và họ để anh lên thẳng phòng nàng làm việc. Phượng đang ngồi ở đó, quay lưng về phía anh. Rõ ràng là nàng ngồi chơi vì hai chân ghếch lên chiếc ghế trước mặt, hai tay gác sau gáy. Trước mặt nàng là hai đồng nghiệp nam đang ngồi thoải mái trên bàn. Họ vừa nói một chuyện gì đó và cười sặc sụa. Phượng đang cười, tiếng cười của nàng giòn tan, sảng khoái, trong trẻo và vô tư. Khi quay lại nhìn anh, mặt nàng vẫn còn tươi rói. Đó là vẻ mặt và tiếng cười lâu lắm rồi anh không được nghe, được thấy. Nó dội vào tim anh như thủy tinh vỡ, bỏng rát. Trong lòng sôi sục. Nỗi ghen tuông vô cớ làm mặt anh tái đi.

Anh trả đũa nàng bằng hai mươi mốt ngày... không đụng đến nàng. Mỗi đêm, anh vẫn thấy nàng đều đặn uống một viên thuốc nhỏ trong cái vỉ hai mươi tám viên của nàng trước khi đi ngủ, đều đặn như một cái máy, và nàng vẫn hay mặc chiếc áo ngủ màu cam nhạt mà anh thích. Có lúc anh run lên vì phải kìm nén. Nhưng anh đã kìm nén được. Mỗi khi anh nghĩ đến tiếng cười thủy tinh của nàng, nó chọc thẳng vào tự ái của anh.

- Anh ăn gì đi, anh chỉ uống thôi à?

Người phụ nữ ngồi cạnh nhắc anh và lại mỉm cười. Những người đàn bà hay cười như thế thường đa tình. Trong chốc lát, anh thấy tóc nàng thật mượt mà. Anh xác định một lần nữa rằng nàng không giống như những cô gái xinh đẹp khác, vẻ quyến rũ đặc biệt mà anh có thể "ngửi" được bằng kinh nghiệm của những cuộc tình không còn đếm được rõ ràng.

Anh vẫn thầm tự hỏi, nếu anh không "trừng phạt" Phượng bằng hai mươi mốt ngày ấy, không biết cuộc hôn nhân của họ còn có thể cứu vãn được không. Khi anh trở lại với Phượng, cô gần như đã thành con người khác. Cô cứng đờ, đau đớn. Anh đã làm đủ mọi cách, nhưng anh không thể chịu nổi cảm giác là đang hành hạ Phượng. Cô khóc. Anh buông Phượng ra, nhìn vào đáy mắt nàng. "Tại sao" - anh rít lên trong câm lặng. "Em không biết" - Phượng trả lời thành tiếng.

Đầu tiên, anh ngủ với con bé văn thư. Cô bé mười chín tuổi, vừa học xong một khóa... đánh máy vi tính và vào cơ quan anh làm việc với "chuyên môn" là giọng nói ngọt ngào dễ nghe và dáng người tròn trặn hấp dẫn. Nó mê anh từ lâu. Nó bảo ở quê đã lấy chồng và bỏ chồng sau ba tháng nên bây giờ "em đã là người phụ nữ bình thường" rồi. Anh sửa lại: "Đã là phụ nữ được rồi, không cần thêm chữ bình thường". Nó vặn lại: "Phụ nữ là nói chung, bình thường là nói riêng. Khối phụ nữ không bình thường, lesbian chẳng hạn". Nó cười hí hí, cắn ngón tay anh đau điếng.

Hôm tòa xử anh và Phượng ly hôn, con bé cũng đến dự. Nó bảo "anh cứ bình thường hóa anh ạ, em đây này, kém anh chục tuổi mà đã một lần chồng, có sao đâu". "Nhưng anh chẳng bao giờ lấy em". Anh nói thẳng. "Em biết, có sao đâu, chuyện ấy cũng là bình thường. Em cũng chẳng lấy anh, đàn ông gì mà cứ suốt ngày nghĩ nghĩ ngợi ngợi, mệt!".

Hôm ấy Phượng đi cùng anh một đoạn đường. Cô tỉnh táo: "Em thực sự xin lỗi anh. Em không yêu ai khác, không ngoại tình. Khi lấy anh, em đã nghĩ mình sẽ thành một người đàn bà bình thường (lại bình thường - anh nghĩ) như những người đàn bà khác, chiều chuộng chồng, sinh con đẻ cái, vun vén gia đình... Nhưng từ khi lấy anh, em cảm thấy mình không còn là mình - Phượng giải thích một cách khó nhọc - Biết nói như thế nào... Có lần, em đã định đến bác sĩ. Em không nói điều đó với anh, nhưng em tự hỏi, tại sao anh chưa bao giờ nói với em rằng em nên đến bác sĩ...". Anh im lặng, và thừa nhận tất cả, trong khi chính anh cũng không hiểu tại sao.

Tiến đã đến gần bàn anh ngồi, nhưng hình như anh ta không nhìn thấy anh. Đêm qua, không hiểu sao anh về được đến nhà. Anh ngạc nhiên vì sự tỉnh táo của Tiến.

- Mai làm chú rể rồi, tối nay mày uống thế thì còn làm ăn gì được.

Anh nói. Mắt Tiến vằn tia đỏ. Tiến đặt xuống bàn một vật gì đó. Chiếc chìa khóa, của nhà anh. Nó nằm như một vệt đen trên mặt bàn ướt đẫm nước đá tan chảy từ ly bia của anh. Anh thấy cổ họng đăng đắng.

- Mày đúng là thằng tồi.

- Ừ.

- Tao thấy thương cho Cầm.

- Thôi đừng nói chuyện đó nữa.

Tiến dằn ly bia xuống bàn. Anh cầm lấy chiếc chìa khóa của mình, xâu nó vào chung một chùm với hai chiếc nữa giống y như vậy. "Năm năm rồi, tao cũng phải buông Cầm thôi. Lấy nhau để suốt đời cho nàng ở nhà thuê à, hay là đến ở nhờ nhà mày luôn. Tao không giỏi kiếm tiền như mày". Tiến nói, nhưng anh không nghe thấy gì nữa.

Anh đứng lên trước khi cô dâu chú rể tới bàn mình. Tự dưng anh thấy vô nghĩa. Những bản nhạc trữ tình, những bó hoa, những gương mặt xinh đẹp phụ nữ, những lời chúc tụng...

Người phụ nữ ngồi cạnh anh ngước nhìn anh ngạc nhiên. Không hiểu sao anh thấy mắt nàng có một tia tiếc nuối hoang dại khi anh đứng lên sớm như vậy. Hay là anh ảo tưởng. Anh vẫn thấy nàng quen vô cùng, nhưng vẫn không thể nhớ ra nàng.

Chồng nàng có vẻ thoải mái khi thấy anh rời bàn tiệc. Đêm nay anh ta sẽ ôn lại buổi tân hôn với vợ mình, chắc chắn thế. Lũ đàn ông ích kỷ và ham muốn sở hữu. Anh đi ra đường. Gió thổi lồng lộng.
 
Kim Thư nằm, hai cánh tay xuôi đều. Nước da cô bây giờ xanh tái với đôi môi thâm tím. Mắt cô nhắm nghiền như người ngủ với hai hàng mi khép lại. Thư đã chết. Cái chết của cô làm chúng tôi bàng hoàng! Mới mấy hôm trước, cả bọn đi dự tiệc sinh nhật ở nhà Tiến rất vui vẻ...

Kim Thư là một cô gái hiền lành, dáng dấp quý phái. Cô hình như không có bạn trai. Một vài chàng khá phong độ, tán tỉnh làm quen với cô một thời gian, rồi không hiểu sao, các chàng ấy lại rút lui. Tôi cũng có nghe những tay ấy phát biểu về cô những lúc trà dư tửu hậu. Có cậu nói: “Con bé chẳng có gì chê được. Nhưng nàng hình như bị lãnh cảm!”. “Có thể cô nàng làm cao. Đợi gặp hoàng tử rồi mới yêu! Dân trí thức mà. Có yêu nhau cũng văn vẻ, lý tưởng chứ đâu xô bồ, lộn xộn như bọn mình!” - một cậu khác cảm thán nói.

Khi lão Sùi - chuyên gia tẩm liệm - vạch miệng Thư, cho vào mồm cô một miếng vàng y, tôi thấy được lần cuối cái răng khểnh của Thư. Tôi thoáng bồi hồi, đau đớn trong lòng: “Trời ơi! Thư! Cái răng khểnh của em đã làm nên mấy bài thơ đăng báo cho anh!”.

Tôi không phải là người yêu của Thư. Nhưng chính cái vẻ đẹp mỏng manh, có lúc tựa hồ như khói, như sương ấy đã tạo nên nhiều cảm xúc trong tôi. Tôi thường có thói quen đi tìm sự sáng tạo trong vẻ đẹp đa dạng của những cô gái. Bây giờ một trong những người mẫu trong tâm hồn tôi đã ra đi. Thư ơi! Chẳng biết ngày mai em sẽ về đâu? Ôi thật là đau xót! Sao em lại dại dột chết trẻ như thế khi chưa biết tình yêu, chưa rành rẽ về cuộc đời này. Dẫu cuộc sống có những buồn vui, đau khổ... nhưng biết bao nhiêu người vẫn thiết tha yêu nó, chẳng bao giờ có ý nghĩ muốn rời xa nó như em. Có người gặp trăm ngàn bất hạnh hơn em nữa kia! Có thể biết đâu chừng, ngày sau có anh trong đó! Nhưng anh quyết sẽ sống. Chỉ khi nào thật sự không còn khả năng để sống! Mà tại sao em lại quyên sinh? Em buồn chuyện gì? Em khổ chuyện gì? Em là cô gái được cha mẹ cưng chiều! Nhà em cũng chẳng phải nghèo túng mà còn khá giả hơn nhiều người khác!

Lão Sùi nhìn mọi người nói: “Nào! Có ai muốn nhìn mặt cô Thư lần cuối không? Lại đây, tôi đắp khăn lên mặt cô ấy thì sẽ không giở ra nữa nhé. Giở ra không nên!”. Bọn chúng tôi e dè xúm lại. Có một giọng khóc rấm rứt: “Thư! Thư ơi! Sao bạn lại bỏ mình đi sớm vậy? Biết bao giờ gặp lại nhau đây Thư? Biết bao giờ...”. Đó là Quỳnh Dao. Cô này là bạn rất thân của Thư, sắp có chồng về Sài Gòn. Nghe Quỳnh Dao khóc, chúng tôi cũng mủi lòng. Một vài bạn gái của Thư cũng khóc theo. Bọn đàn ông, con trai chúng tôi có một vài cậu đỏ mắt, quay mặt đi chỗ khác.

Tôi ngồi chung với lão Sùi ở bàn nước góc nhà lúc các vị sư cô tụng kinh, gõ mõ cầu siêu cho Kim Thư. “Chú Sùi! Ông làm nghề tẩm liệm biết bao nhiêu người rồi. Ông có thấy chuyện gì huyền bí thuộc về tâm linh không?”. “Khối chuyện...”. Thấy tôi có vẻ tin chuyện âm dương, lão Sùi xem bộ thích. Lão cũng đã có vô vài cốc rượu cúng ban chiều nên có vẻ hăng hái: Này nhé... Cậu có biết chuyện “hồn thư” chưa? “Là thế nào? Nghe bí ẩn quá!” - tôi chăm chú nghe lão Sùi. Lão nói giọng đều như kể chuyện đêm khuya:

- Sau khi người chết vừa chôn rồi, đêm ấy, vào lúc nửa khuya chỗ họ nằm lúc liệm, từ dưới đất sẽ bật lên một đốm lửa xanh bằng đầu ngón tay út, bay vòng vòng một hồi rồi sẽ nhập vào di ảnh hay bài vị. Vào giờ đó nếu ai chẳng may bị “hồn thư” chạm vào sẽ bị nguy hiểm. Nhẹ thì bị bệnh cũng vài hôm. Nặng có khi hóa rồ, có thể điên luôn!... Cậu không để ý đó thôi. Sau đám ma người thân, có người phải nằm bệnh. Đôi lúc có người còn mang chứng tâm thần dai dẳng!... Vì quá đau xót, không để ý chạm phải “hồn thư” đó thôi!

- Có cách gì tránh được cái vụ “hồn thư” đó hay không?

Lão Sùi bập bè điếu thuốc: Cũng dễ thôi. Các cụ xưa tìm dao phay đâm họng heo, hoặc dao yếm cắt cổ vịt cắm ngay chỗ giường người chết là xong ngay! “Hồn thư” dậy không nổi, và sau đó, qua ngày mở cửa mả, hồn thư sẽ tiêu tan vào đất thôi!

- Còn... chuyện quỷ nhập tràng thì sao? - tôi hỏi lão Sùi nhưng trong lòng cũng hơi gờn gợn.

- Lúc chưa cho vào hòm, nhất thiết phải đốt đèn canh chừng và nhốt hết mèo lại. Vì trong số vài chục con mèo đen sẽ có một con linh miêu. Con linh miêu này do mèo mun cái giao cấu với rắn mà sinh ra. Khi nó phóng ngang mình người chết, sẽ tạo ra một lực hút vô hình rất mạnh mẽ. Người chết sẽ bật dậy và thành quỷ nhập tràng. Quỷ nhập tràng đưa hai tay về phía trước đi thẳng, và khi chạm vào ai thì người đó vong mạng, bởi luồng tử khí trong người nó rất lớn!

Nghe lão Sùi kể về quỷ nhập tràng, tôi cảm thấy ớn thật. Sống lưng dờn dợn...

- Còn chuyện mở cửa mả thì sao? Chuyện này thường nghe nói, nhưng chẳng biết ý nghĩa ra sao? - tôi sẵn dịp hỏi tới.

- Này nhé! Khi người ta mới chết, người ta chưa biết mình đã chết, nên hồn phách đi chu du, rong chơi bờ này bãi nọ. Ba ngày sau khi chết, người nhà cúng mở cửa mả bằng cách kéo con gà trống tơ đi quanh vòng mả. Con gà bị kéo sẽ kêu quang quác, báo hiệu cho người chết biết rằng phải trở về nhà của anh là nấm mồ mới đắp. Và người chết, sau ngày mở cửa mả, đêm đêm sẽ ngồi khóc tại nấm mộ của mình, vì khi ấy mới biết mình đã chết thật rồi! Đã vĩnh viễn lìa xa trần thế. Vĩnh viễn rời xa những người thân...

- Có bao giờ chú gặp người của thế giới bên kia không?

- Tôi có gặp rồi. Thậm chí gặp nhiều lần... - Bỗng lão Sùi nhìn tôi như dò xét. Rồi lão nói nhỏ có vẻ nghiêm túc: “Ba ngày nữa, cậu có muốn gặp cô Thư không?” - “Gặp Thư... Cô ấy lúc đó đã chôn xuống đất rồi mà! Làm sao gặp được” - “Có cách!... Đây là chuyện thuộc về thế giới huyền bí. Sau nhiều năm tiếp xúc với người chết, bọn như chúng tôi đã nắm được vài bí quyết để có thể thấy được người của thế giới bên kia!” - “Có chuyện đó thật sao?”

Tôi ngờ ngợ nhìn lão Sùi. Lão vểnh râu phun khói thuốc lên trần nhà. Trông lão cũng hơi có vẻ “tiên phong đạo cốt”, và cũng thoang thoáng chút âm u như phù thủy. Đây có lẽ là chuyện thuộc về bí quyết pháp thuật giống như chuyện người ta đồn đại về sự kỳ lạ của bùa Lỗ Ban! Tôi vốn có máu tò mò chuyện lạ. Nhất là những chuyện về thế giới vô hình mà các phim truyện kinh dị của Mỹ và liêu trai Tàu thường chiếu trên màn hình. Có ma hay không? Có hồn người hay không? Những câu hỏi luôn ám ảnh tôi và cả người đời cũng như giới nghiên cứu khoa học. Quả đây là một dịp có một không hai để tôi khám phá nhằm khẳng định quan điểm của mình.

- Vài hôm nữa. Tôi muốn gặp cô Thư như chú đã nói. Chú có thể giúp tôi? Chú có cần gì không? - Tôi thăm dò lão Sùi và cố giấu sự nghi ngờ.

- Không... Tôi sẽ chỉ cho cậu phương pháp. Với điều kiện cậu phải tin tưởng và chút xíu gan dạ!

- Tôi sẽ cố gắng...

- Tôi mong rằng cậu sẽ gặp cô ấy. Nếu không gặp được là tại cậu không hạp đó thôi. Chứ tôi đã từng có gặp vài người đã chết trong trường hợp làm như thế.

Lão Sùi kéo tôi ra hông nhà của Thư, sau đám chuối khá vắng vẻ. Lão kề tai tôi nói nhỏ trong tiếng rỉ rả tụng kinh siêu độ phía nhà trên. Tôi hơi nhăn mặt: “Thôi, chú giúp tôi luôn cái vụ đó đi”. Tôi móc bóp đưa cho lão Sùi hai tờ giấy năm chục ngàn. Lão lắc đầu nguầy nguậy, bảo chỉ nhận tiền công lấy bửu bối chừng mươi ngàn, để cúng tổ và mua rượu.

***

Màn đêm bao trùm trên nghĩa trang vắng vẻ. Tôi nhìn vầng trăng mọc muộn để có thể đoán đúng tương đối giờ giấc. Lão Sùi dặn tôi không được đem trong người những gì có liên quan tới máy móc như điện thoại di động, đồng hồ, đèn pin. Tôi phải mặc áo vải mùng trắng, đi chân không và ngồi cạnh một ngôi mộ không gần quá, cũng không xa quá mồ Kim Thư để có thể quan sát cô ấy mà không làm cô nghi ngờ vì tưởng tôi cũng là một hồn ma như cô. Bửu bối “tuyệt chiêu” mà lão Sùi đã đánh cắp cho tôi, đó là tấm khăn được xếp nhiều lớp bằng giấy quyến đắp trên mặt Kim Thư trước khi đưa cô ấy vào quan tài.

Lão Sùi đã đánh tráo nó bằng một tấm giấy khác có sự theo dõi và chứng kiến của tôi. Đây là tấm giấy đắp mặt cho người chết! Lão đưa cho tôi đem về nhà, khoét hai lỗ trên tấm giấy quyến ấy và cột dây làm một cái mặt nạ, để giả làm ma, lừa bọn ma thiệt! Sau đó phải bỏ trong gối ôm và để trong mùng và không được cuốn mùng lên trong suốt thời gian chưa sử dụng. Tôi ngủ xưa nay vốn không có gối ôm nên phải bươn bả ra chợ mua về. Trong phòng tôi ít có ai vào nên cũng tiện cho việc bỏ mùng sùm sụp tối ngày sáng đêm. Thoạt đầu, tôi suy nghĩ: “Chuyện thật nhảm nhí, hoang đường! Nhưng biết đâu mình cũng có dịp kiểm chứng, có dịp rút ra cái gì đó. Cũng chẳng thiệt cho mình và cho ai. Có thể như một trò chơi ảo... game online!”.

Tôi hồi hộp chờ đợi giây phút được thấy Thư xuất hiện. Vầng trăng khuyết mờ mờ xanh lét treo trên bầu trời nghĩa trang hoang vắng. Lô xô, chập chùng những ngôi mộ lớn nhỏ; mới có, cũ có. Thỉnh thoảng, có ngọn gió lạnh lẽo lùa qua làm những đám lau sậy bông trắng, phất phơ như những bàn tay vẫy. Đôi khi có tiếng con chim lạ đi ăn đêm kêu lên làm tôi giật mình. Tôi căng mắt nhìn vào ngôi mộ của Thư. Thời gian chầm chậm, nặng nề trôi qua. Chẳng thấy gì cả, ngoài nấm đất đen sì mới đắp.

Tôi hơi nản chí: “Mẹ kiếp, mình dễ tin quá. Bị lão Sùi lừa cho muỗi cắn!”. Bỗng tôi giật mình, dựng tóc gáy khi thấy một bóng đen ngồi cạnh mộ Thư khóc hu hu vừa đủ nghe. Trời ơi! Hồn Thư đã trở về thật rồi! Cô đang ngồi khóc vì mới hay mình đã chết! Ôi, tội nghiệp cho Thư quá! Tôi bỗng dưng không còn sợ hãi nữa. Tôi định chạy qua bên mộ của Thư, nắm tay cô mà an ủi. Nhưng tôi nhớ lời dặn của lão Sùi: “Chỉ xem thôi! Không được manh động gì khác. Nếu trái lời sẽ nhận hậu quả không lường được. Có thể mất mạng hoặc điên khùng như chơi!”.

... Tôi đem chuyện gặp hồn ma của Thư nói lại với Tiến. Tiến ban đầu không tin. Cho là tôi đặt chuyện trêu anh. “Sao cậu không nói đã thấy cái răng khểnh của Kim Thư dài ra khi lão Sùi vạch miệng cô ấy? Tôi buồn mà cậu cứ đùa dai...” - Tiến có ý trách cứ và mỉa mai nhẹ tôi. Nhưng tôi kể lại quy trình được gặp Thư, với những lời lẽ chân thật, nghiêm túc. Tiến vốn biết tính tình của tôi. Anh ta xin tham gia đêm nay. Đó là đêm thứ ba sau ngày mở cửa mả của Kim Thư.

Theo lời của lão Sùi, Kim Thư sẽ xuất hiện ngày một thưa đi, và đến khi làm tuần 49 ngày thì cô ấy sẽ về âm cảnh. Tiến là người thiết tha thầm yêu, trộm nhớ Kim Thư. Từ khi Thư mất, Tiến xuống sắc thấy rõ. Trong thâm tâm, anh vẫn còn tiếc thương, luyến nhớ người con gái ấy!

Tôi và Tiến lại núp nơi ngôi mộ cũ. Chúng tôi chờ đợi. Tôi trao mặt nạ người chết cho Tiến đeo. Tôi nhường cho anh ta vì tôi đã thấy Thư rồi. Và Thư đã xuất hiện! Thư khóc rấm rứt, đau đớn đến nao lòng. Bỗng một sự việc xảy ra ngoài trí tưởng tượng của tôi. Tiến bất ngờ phóng qua ngôi mộ của Thư. Tôi không kịp giữ anh ta lại. Tiến nắm chặt tay Thư. Anh ta nói như khóc: “Kim Thư! Em đã trở về... Em đã trở về! Em đừng đi nữa nghe em. Anh đau khổ lắm! Anh nhớ em quá! Thư ơi... Thư ơi!”. “Trời đất ơi! Người và ma làm sao tái hợp được!” - Tôi đau đáu trong lòng. Bên kia mộ Thư bỗng yên lặng lạ kỳ. Tôi lo sợ thật sự: “Phải qua bên ấy cứu Tiến. Có thể Tiến bị Thư hớp hồn. Anh ta có thể chết hoặc điên khùng như lời lão Sùi đã cảnh báo!”.

Bóng ma Thư ngồi cúi mặt bên cạnh Tiến. Tôi thật hoang mang không hiểu nổi đây là thực hay hư!? Khi cô ấy ngước lên, tôi giật mình, kinh ngạc vô cùng. “Quỳnh Dao! Trời ơi! Sao em có mặt nơi đây!?”. Quỳnh Dao thở dài sườn sượt: “Em sẽ kể cho mấy anh nghe...” - Cô dừng lại, nấc lên nghẹn ngào: “Em và Kim Thư yêu nhau!... Chúng em muốn thành vợ chồng và chung sống suốt đời với nhau!” - “Các cô là người đồng tính?" - Tôi buột miệng vì không ngăn được sự ngạc nhiên quá đỗi! Quỳnh Dao tiếp: “Ba má em chỉ có một mình em là con gái. Ba má em biết chuyện này và không muốn như vậy. Em bị gia đình ép phải có chồng, vì thực ra chúng em vẫn đầy đủ chức năng của một người phụ nữ. Chỉ khác là yêu người đồng tính mà thôi!”. Tôi và Tiến chợt hiểu ra vì sao mà Kim Thư đã uống hơn hai chục viên thuốc sốt rét để tự tử khi biết Quỳnh Dao sắp có chồng!

Quỳnh Dao cho chúng tôi biết cô ra đây cũng với hy vọng là được gặp mặt Kim Thư, bởi cũng có người làm nghề đồng bóng bên xứ cô chỉ vẽ cho cô cách gặp mặt người đã khuất.

Trên đường về, tôi nói với Tiến:

- Cậu chăm sóc cho Quỳnh Dao. Cô ấy đẹp không thua kém gì Kim Thư và xem chừng cũng là người cũng có tình, có nghĩa!

- Nhưng cô ấy sắp có chồng kia mà?

- Cậu ngốc quá! Gia đình Quỳnh Dao ép cô ta lấy chồng là vì muốn cắt đứt mối quan hệ không bình thường này! Cậu thay vào chỗ Kim Thư thì hay quá!” - Tiến nghe tôi nói, chỉ thở dài và im lặng. Tôi còn nói thêm: Tình yêu thật diệu kỳ! Con người đã thắng được nỗi sợ hãi để tìm đến với nhau. Người như Quỳnh Dao cũng đáng trân trọng!

***

Chuyện tôi bày cho Tiến thế mà hóa ra hay! Sau một thời gian, với những tình cảm chân thật của hai người với nhau - có lẽ Tiến và Quỳnh Dao cũng vì Kim Thư một phần - họ đã thành vợ chồng và sống rất hạnh phúc.
 
Cuộc phiêu lưu của Mít và Cà cuống
Trần Nguyễn Anh


(Một truyện ngắn thực hành theo phong cách The New Yorker)


Thành thị là gì?

Câu hỏi này chẳng dễ trả lời khi bạn sinh ra và lớn lên giữa vùng nửa núi nửa đất mà giới địa lý thường gọi là bán sơn địa hay “vùng chó ăn đá gà ăn sỏi”.

Địa thế vùng này gồm rất nhiều quả đồi nhỏ. Những cánh đồng không rộng lớn cho lắm, nằm xen vào, và chúng thường cạn kiệt nước nôi chừng vài tháng mỗi năm khiến đàn cá rô bị chết khô queo mà làm mồi cho đàn kiến.

Các ngôi làng thường quần tụ trên đồi, dành vùng đất bằng phẳng hiếm hoi cho khoai, lúa và lạc.

Trên các cách đồng, lúa, khoai vẫn mọc, nhưng bạn rất ngạc nhiên khi cha chú của mình đào xới lên, chỉ sâu chừng một mét đất là tìm thấy các hòn đá ong tròn như quả mít, nhiều vô số, và chất lên xe bò, chở về, xây nhà.

Trên đồi cao, đôi khi người ta đào giếng trúng những mạch nước ngầm, giếng không bao giờ cạn. Nước trong, xanh, có vị ngọt, mát vào mùa hè và ấm khi mùa đông. Chúng hay ho chẳng kém gì nước khoáng được quảng cáo trên ti vi. Nhưng người làng lại rất khoái chí khi vớ một chai nước khoáng uống dở của ai đó mới về chơi mà không coi trọng thứ nước quý của thần rừng ban cho, họ rửa chân và tắm bằng thứ nước giếng ấy tựa như sự lãng phí vĩ đại.

Nước từ những cái giếng sâu hút được múc lên, nhờ vào cái gầu cao su. Cái gầu này nối với cây cần tre bằng một sợi dây thừng rất dài. Đó là thứ cần cẩu, một đầu buộc hòn đá tảng hoặc một cục sắt gỉ, khá là nặng, còn đầu kia là sợi dây với cái gầu. Bạn sẽ khá vất khi kéo cho cái gầu không xuống dưới đáy giếng sâu trong lòng đất dăm bảy mét, nhưng bù lại, sẽ rất thảnh thơi khi cái cẩu tự động nâng gầu đầy nước lên cao cho bạn.

Nếu bạn thả tay ra, cái gầu sẽ bay vọt lên trời như viên đạn dùng để bắn vào thành trong phim dã sử, và bạn sẽ ướt rượt.
 
Buổi tối, hai người bạn của chúng ta, những nhân vật của chúng ta, biệt danh là Cà Cuống và Mít, cùng gia đình của họ, quây quần dưới bóng điện đỏ quạch. Cái bóng điện treo trên xà nhà tỏa ra luồng ánh sáng giống như lúc mặt trời đứng bóng vậy. Một cái đĩa sắt được đục lủng che làm chụp đèn, để ánh sáng không tỏa lên mái ngói một cách vô nghĩa.

Cái chiếu trải giữa nhà, đúng nơi ánh sáng chiếu rọi mạnh nhất.

Mọi người cứ ngồi, trò chuyện, uống nước, ăn uống, tất nhiên lũ nhỏ siêng năng học hành, trong mảnh chiếu ấy cả. Không cứ phải luân phiên. Cà Cuống đang làm bài tập thì mẹ nó ngồi bên cạnh vá chiếc áo chẽn còn bố ngồi hút thuốc Lào phả khói mờ mịt. Chị nó đi từ ngoài về sà vào. Mẹ thấy tóc chị xơ xác và dính nhiều rơm rạ, bèn hỏi: “Đi đâu về đấy?”, chị nó đỏ mặt lên, to giọng đáp: “Con đi xem ti vi”.

Nhà thằng Mít thì khác. Bố nó đã đình sản và đi ngủ muộn.

Nó thường đọc các bài văn bài thơ trong sách giáo khoa cho bố nghe. Có lần theo yêu cầu nó đọc cả các bài toán nữa, nhưng bố nó nói “Bố chỉ có khiếu văn chương”. Nó đọc cả sách tập làm văn cho bố. Hết sách, nó mò tới đống sách của chị, với những câu chuyện và những bài thơ không dễ hiểu chút nào, có lẽ với cả bố.

Nó nhiều lần giải thích “nhà văn Nguyễn Tuân và Phạm Tuân anh hùng vũ trụ là hai người khác nhau”, nhưng lâu lâu bố lại quên. Bố của Mít cứ tâm đắc bảo với bố của Cà Cuống: “Tôi thích nhất văn chương của văn hào Phạm Tuân”. Bố của Cà Cuống gật gù: “Hào Phạm Tuân là người rất nổi tiếng, nhiều người làng ta ở thành phố cũng đã từng gặp”. Bố của Mít gật đầu, bảo: “Ông ấy làm nghề bán bánh phở mà”.



Người vùng trung du ngoài việc đồng áng, mò cua bắt ốc ở khe suối, đôi khi còn lên mạn ngược chặt gỗ về làm nhà, bán cho lái buôn.

Tầng lớp trí thức rất hiếm khi xuất hiện.

Người học hành nhiều nhất thì có các thầy cô nhưng khổ nỗi họ là người địa phương hoặc quê quán ở xã bên cạnh, đúng thực là “Bụt chùa nhà không thiêng”. Một buổi lên lớp dạy học một buổi kề vai sát cánh với phụ huynh trên cánh đồng bắp cải su hào. Thửa ruộng của họ có năng suất thấp nhất, đôi khi nom thật đáng thương mặc dù họ phun quá nhiều thuốc sâu so với hàng xóm. Mỗi lần phun thuốc thầy đều đeo một mẩu vải trước lỗ mũi!

Với người nông dân thì kiến thức về đồng áng và bói toán cúng tế là những kiến thức được kính trọng nhất, mà thầy cô lại thiếu sót cả hai thứ đó.

Đôi khi người ta sai lầm nghĩ rằng nhà trường là một cái nhà trẻ không độ tuổi, giữ cho bọn trẻ không đi hái trộm quả và bơi lội khiến chết đuối.

Nói chung, người có thể thẩm định kiến thức được truyền thụ trong nhà trường lợp ngói dài ngoẵng kia hầu như là không có. Kể cả các bác lãnh đạo xã thường có vinh dự phát biểu long trọng trong cuộc khai giảng hằng năm, các bác ấy đều cho rằng sách giáo khoa thời trẻ của các bác ấy lạc hậu hơn nhiều.

Vài ba kẻ nhân tài kiếm có, được kể chuyện bằng kiểu giai thoại, đều tá túc lâu dài trong thành phố, hiếm khi trở về.

Dần dà, các câu chuyện về những người thành đạt nơi phố thị mất đi vẻ tin cậy, và được hiểu như là những sự phóng tác hay chuyện bịa kể cho vui tai nhân dịp cưới hỏi hoặc giỗ chạp.



Truyền hình xuất hiện ngày càng nhiều. Bọn trẻ biến chúng thành trò chơi.

Cà Cuống cùng các bạn bắt chước những giọng nói lạ từ các vùng miền khác nhau trên ti vi, gây cười những khi ngồi trong lớp học.

Có điều, chúng phát hiện ra truyền hình chưa bao giờ và có lẽ không bao giờ phát âm theo kiểu của chúng.

Cà Cuống và Mít không còn tin tưởng truyền hình nữa. Điều này khiến chúng quá buồn. Chúng vẫn cố đợi đấy chứ, đợi mãi, đợi mãi rồi, chẳng ai nói thứ tiếng phát âm kiểu của chúng.

Truyền hình, có lẽ thuộc về thế giới khác chăng?

Thế giới đó như thế nào?



Các trận bóng đá trên truyền hình cũng vậy. Người ta ngồi xem rất đông, đông không thể tưởng được. Các cầu thủ đá vào chân nhau thì hình ảnh được phát đi phát lại nhiều lần. Những hôm trời mưa, các cầu thủ ướt như chuột lột còn khán giả vẫn khô khén như thường.

Cà Cuống và Mít, chúng nó có các trận bóng đá của chúng nó, trên sân trường, ruộng, trong sân xóm, nơi chân đồi. Chúng tự khâu các quả bóng da và đem theo một cái bơm cùng vài chiếc kim trong mỗi cuộc đá bóng.

Quả bóng bơm không căng lắm, lấm lem, đôi khi ướt sũng đá mãi mới lăn.

Các cầu thủ lấm lem, đầy mồ hôi, mỗi khi bóng bay vào bụng thì trợn trừng mắt, nằm lăn ra đất, dăm phút sau mới đứng dậy được, lảo đảo chạy theo chúng bạn.



Chúng không bao giờ hiểu cá độ bóng đá là gì.

Khán giả, là những chú bác đi chăn trâu, đánh dậm, hái chổi, ngồi xem một lúc, sau đó ngứa tay ngứa chân đến cướp quả bóng và đá một cái rất mạnh lên trời, hoặc xin một tay làm thủ môn. Thỉnh thoảng một chú nào đấy cũng được chấp nhận làm thủ môn chính thức, nhưng điều đó đồng nghĩa là lập tức đội bên kia được tăng thêm ít nhất một cầu thủ nữa.

Tuy nhiên những trận đấu có sự tham gia của thủ môn vượt quá độ tuổi kéo dài không được bao lâu và nhanh chóng rơi vào tình trạng hỗn loạn người cười kẻ khóc. Đấy là do vị đại thủ môn này luôn luôn rời bỏ vị trí của mình cầm bóng xông thẳng lên cầu môn đối phương và sút những quả hơn cả sấm sét khiến thủ môn đối phương khiếp đảm nằm bẹp dí không thực hiện được phận sự của anh ta
 
Cà Cuống đã một lần bị gãy chân, phải bó bột. May cho nó, tuy rằng nghỉ học vài tháng nhưng dường như điều đó chẳng ảnh hưởng quá nhiều đến kiến thức hay thành tích học tập. Đơn giản bởi nó đã bị thương trong trận bóng đá do nhà trường tổ chức để chào mừng ngày quốc tế thiếu nhi. Các cô giáo đều hiểu điều đó.

Lần đầu tiên nó vào nằm trong cái trạm xá có cây nhãn cổ thụ to tướng ở sân.

Nó không sợ cái chân bị đau, không sợ bị tiêm, mà chỉ sợ cây cổ thụ.

Vì thằng Mít bảo: “Mọi người nói trên cây nhãn này có con ma rất thích đá bóng. Chân nó dài đến mức có thể vươn từ gôn đội này sang gôn đội khác”.

Cà Cuống không thể ngủ được, nó bị sút cân và phát ốm, chỉ nghĩ đến bóng đen trên cây nhãn. Cái chân của cầu thủ ma thò qua cửa sổ phòng nội trú của trạm xá.



Mấy hôm sau, Mít cũng lăn ra ốm. Nó bị chính câu chuyện về con ma, mà nó bịa ra để dọa Cà Cuống, hành hạ. Lần này, nó mơ thấy con ma ấy đứng trên rặng tre đầu ngõ. Quả bóng con ma này đá mới to làm sao, nó bằng cả một gian nhà. Liệu ai có thể bắt được một quả phạt mười một mét như vậy? Mít gọi: “Cà Cuống đâu rồi!”. Cà Cuống phều phào bảo với nó từ nơi nào đó rất tối tăm: “Tao bị gãy chân rồi”.



Sau trận ốm của Mít và sự trở lại của đôi chân Cà Cuống, hai đứa quyết định sẽ vào thành phố để xem một trận bóng đá thực thụ. Chúng nó đã lớn, đã có thể quyết định được cuộc đời của chúng. Hơn nữa dù sao việc đi lại, kể cả thời gian xem trận đấu kia, cũng chỉ gói gọn trong một ngày đêm mà thôi. Hôm đó, chủ nhật.

Cả hai đứa đều được gia đình giải phóng ngày chủ nhật. Chúng có thể làm những điều mình thích, như đi bẫy chim, hái củi, học nhóm, đá bóng. Tất nhiên đó là trong trường hợp ngày thứ bảy chúng nó đã quét sạch tinh nhà cửa vườn tược, dọn cỏ trong vườn, đi cắt tóc hoặc tắm cho đàn lợn.



Một chủ nhật, hai đứa đi bắt cua ở ngoài đồng. Mít gọi Cà Cuống đến bên cạnh, và bảo: “Bí mật, cho xem cái này”.

Mít vạch cái quần đùi vàng ố của nó ra, chỉ vào của quý bé tẹo của nó, chỉ vào những sợi lông măng mới nhú ra lơ thơ, đen biếc, long trọng bảo: “Thành người lớn rồi”. Nó hỏi Cà Cuống: “Thế nào?”. Cà Cuống thẹn thùng lắc đầu: “Vẫn còn con nít”.

Từ ngày đó, Mít nghiễm nhiên coi mình là đàn anh, từng trải và hiểu biết nhiều hơn. Cà Cuống cũng tin tưởng như thế. Không dưng người ta lại mọc tóc ở chỗ kín như vậy được.



Mít bảo: “Chúng ta phải đi xem một trận bóng đá”.

Cà Cuống bảo: “Tiền đâu?”. Rồi nó bảo thêm: “Ai cho đi!”.

Mít định đáp: “Ừ, đi làm sao được”. Nhưng nó chợt nghĩ: “Mình đã là người lớn, nói thì phải làm, không phải trò trẻ con nói cho vui lấy được”. Bèn bảo: “Đã tính hết rồi. Đi được”. Cà Cuống lắc đầu: “Đi một mình đi”. Mít nhún vai: “Sợ à! vẫn đái dầm đấy à!”.

Mít ngượng quá. Tối hôm qua nó nằm mơ đứng tè bên bụi tre, thấy ướt, tỉnh dậy, đúng là đái dầm.

Mít bảo: “Mày đái dầm thì có”. Cà Cuống không nói gì.



Khoảng cách từ làng ra đến đường quốc lộ chừng hai cây số. Xe vẫn chạy qua đó. Người làng đôi khi có việc vẫn đi bộ ra quốc lộ, vẫy xe, bất kể là xe tải, xe khách, xe chở cát, chở gỗ, chở lính hay xe cứu thương, để đi về thành phố. Đi khoảng nửa buổi thôi, đã tới thành phố rồi. Mọi người bảo như vậy.

Cà Cuống nói: “Chờ ai đi, chúng ta sẽ đi theo”. Mít gạt đi: “Đừng lộ ra. Ai cho mình theo! Chúng ta sẽ tự đi”. Mít tỏ vẻ không lo lắng gì, khịt mũi, bảo thêm: “Xe chở đi, xe chở về! sướng hơn đi xe bò, có gì phải sợ”. Cà Cuống càng không muốn mình là đứa nhát, bảo: “Chủ nhật tuần này đi luôn. Lợn bán hết rồi. Mẹ tớ vừa cho tiền”. Mít bảo: “Chủ nhật tuần sau. Chủ nhật tuần sau”.



Hai đứa vẫn đi học bình thường. Buổi chiều chúng ra đồng chăn trâu, nổi đống lửa rơm, lôi sách giáo khoa ra, tìm những chỗ nào viết về thành phố để đọc.

Thành phố là gì nhỉ?

Người ta sinh ra thành phố để làm gì?

Thành phố thật bí hiểm. Sự bí hiểm này có thể so sánh với cái gì? Chỉ có thể so với trạm xá có cây nhãn cổ thụ đầy ma.

Theo như trong phim mô tả, các thành phố này thường bị tàn phá bởi những con quái vật khổng lồ biết bay mà không cần dứt khoát phải có cánh. Có lẽ các thành phố đã được xây dựng lại nhiều lần.

Những con quái vật, dù gớm ghiếc đến đâu, cũng không bao giờ gây tò mò và gây bất ngờ bằng những thành phố mà chúng đang ra sức tàn phá một cách rồ dại, khó hiểu.

Những thành phố!

Nhà cửa được xây cao lên hơn mọi thứ cây cối.

Tại sao họ xây nhà cao như thế nhỉ?

“Họ làm như vậy để nhìn được xa hơn” - Mít nói.

“Nhưng chính điều đó đem đến tai họa cho họ, những con quái vật từ xa đã nhìn thấy nơi họ ẩn nấp!” - Cà Cuống lắc đầu nhận xét.

Mít phản đối: “Không phải. Nhà quá cao làm cho quái vật không thể bay qua được, chúng buộc phải dẹp đường bay”.



Cà Cuống nướng chín củ khoai và ăn một mình. Mít bèn bảo: “Nếu chúng ta gặp phải quái vật trong thành phố, thì đứa nào lo chạy đứa ấy nhé”. Cà Cuống không nuốt trôi được miếng khoai, bảo: “Chạy đi hướng nào?”. Mít bảo: “Phải nằm sấp xuống, nép vào bờ ruộng, bôi bùn đầy người, thế nhé”. “Nhưng thành phố làm gì có ruộng và bùn?”. Mít thấy cũng có lý. Nó bảo: “Chúng ta nên đi xem thêm phim về thành phố”. Cà Cuống thở dài: “Không có ti vi”.

Trong làng đã có dăm cái ti vi, nhưng bố mẹ của chúng không thích bọn trẻ xem nhiều, sợ ảnh hưởng đến việc học và làm tốn điện nhà người khác.

Các gia đình có ti vi chỉ mở lâu trong tuần đầu, khi mới khênh ti vi về. Sau đó, vì sợ tốn điện, tốn nước, và không muốn phải thức quá khuya trông coi máy móc, đã tắt ti vi đi ngủ sớm.

Thật ra chỉ những người ở thành phố mới xem ti vi một cách đầy đủ, còn thôn quê thường nghe đài và tìm hiểu tình hình qua loa phóng thanh hay các cuộc họp xóm.

Ở quê của Mít và Cà Cuống, bố mẹ chúng thường đi làm đồng từ lúc tờ mờ sáng để tránh nắng, thức khuya là tối kỵ.

Chỉ có đám thanh niên sức dài vai rộng mới kéo ra đường véo nhau tán gẫu những lúc sương xuống mà thôi. Các anh chị ấy là ngoại lệ đặc biệt, được cộng đồng chấp nhận sự vi phạm về nguyên tắc thời gian và sự phí phạm về mặt thể lực.

Cả Mít và Cà Cuống đều chưa được hưởng những biệt đãi đó.
 
Một buổi sáng chủ nhật. Hai kẻ đồng hành đã lên đường. Họ bảo với gia đình là sang thôn bên để học nhóm.

Đi trước là Mít, nó gầy, tóc vàng hoe, đen nhoẻm, gánh một cái đòn gánh bằng cành cây khô, một đầu treo cái can trắng đựng năm lít nước còn đầu kia, gần vai hơn, là một túm gạo.

Cà Cuống theo sau, nó lùn, béo, tóc đen, chân vòng kiềng. Nó đeo một cái túi màu đỏ có in hình con mèo Kitty đã cũ của chị nó.

Cái túi Kitty căng phồng, trong đó là một cái màn đơn màu cháo lòng, hai chiếc bánh chưng bé tí, một cuốn sách giáo khoa, hai quả cam, cái chăn chiên đã rách, một đôi giầy. Cà Cuống dự định khi đến thành phố nó sẽ cất đôi dép cũ và đi đôi giầy cho dù nó chưa thực sự quen lắm với việc đi giầy. Mỗi lần đi giầy, chân của nó lại đau không tưởng được. Nhưng cái đôi giầy mới tinh không đi ở phố thì còn đi chỗ nào. Hơn nữa, với đôi giầy nó sẽ chạy nhanh hơn nếu gặp phải sự tàn phá của quái vật.

Cuộc du lịch khá là mạo hiểm. Ngay từ lúc xuất phát. Với bộ dạng như vậy, chúng sẽ làm nhiều người tò mò. Hai đứa phải đi vào con đường tắt, xuyên qua các vườn cây khô héo được rào bằng cành tre khô.

Chúng sợ đàn chó nổi giận.

Khi vượt được đến cánh đồng, khuôn mặt của Cà Cuống đã đỏ lên những vệt gai cào. Chúng lấy lại bình tĩnh bằng cách uống dè sẻn vài ngụm nước giếng trong can và nấp sau những ngôi mộ giữa cánh đồng.

Khi nấp sau ngôi mộ rất lớn, Cà Cuống quyết định đi giải. Nó mới bắt đầu hành sự thì đã bị Mít lôi ra gí nằm xuống bờ ruộng mà bảo: “Mù à! đây là mộ cụ tổ nhà tao!”.

Hai đứa chạy vọt sang lùm sim mua, vừa lom khom vừa bò theo trảng sim mua, đi lên ngọn đồi với vô số những nấm mồ không bia.

Nghỉ thôi. Mít quyết định như vậy. “Chúng ta đã vượt qua những khó khăn đầu tiên”. Mít nằm dưới một cái bệ đá xanh rêu, đầu gối lên túm gạo, hớn hở bảo: “Không ai phát hiện ra cả”. Cà Cuống đến ghé tai nói nhỏ với Mít làm cho Mít lăn đùng ra, mặt xanh như chàm, vội vàng gánh gạo và nước chạy thẳng. Câu nói của Cà Cuống là: “Cái bệ đá này là miếu thờ Bà đấy”.

Ai cũng biết miếu thờ Bà tối linh thiêng. Bà là người con gái rất đẹp, bị chôn làm thần giữ của. Chỗ của ấy đã bị đào lên lấy hết, nhưng sự linh thiêng của bà vẫn còn mãi. Bà vẫn thường hiện ra, đi dạo trong vùng, đôi khi ghé vào vườn, vào sân nhà. Bà mặc bộ quần áo rất trắng, trắng tinh, sắc đẹp thì không ai nhìn rõ được. Đôi khi bà hóa thân làm một đàn thiên nga bay qua cánh đồng lúc nửa đêm như những vì sao băng lạnh đến ghê người. Những ai vô tình nhìn thấy khuôn mặt đẹp đẽ của bà thì chính thức lãnh án tử hình, sống chờ chết. Đó là điều đương nhiên, một quy luật của tự nhiên.

Chạy một mạch lên đỉnh đồi, hai đứa ngồi thở. Cà Cuống hỏi: “Mày khóc à”. Mít đáp: “Không!”.

Mít chỉ lên vai Cà Cuống rồi nói: “Xem kìa! một con bướm xám to đang đậu lên vai mày!”.

Cà Cuống giật thót mình, nó nhận ra đang ngồi bệt trên một ụ đất mà đến chín mươi phần trăm là một nấm mồ.

Nhưng nó không thấy con bướm đâu, vấn đề là chỗ đó. Tại sao chỉ một mình Mít nhìn thấy con bướm kỳ lạ?

Mít đâm ra hoang mang tợn. Nó bảo: “Quay về đi”.

Đến lượt Cà Cuống phản đối, nó chỉ muốn đi tiếp: “Quay về, sẽ phải đi qua miếu Bà”.

Thế là hai đứa tiếp tục đứng dậy, đầy phiền não, hướng ra quốc lộ, cặm cụi mà đi.

Chúng vừa đi vừa nhìn xung quanh, nhìn xuống chân, và nhìn lên trời. Cà Cuống bảo: “Tốt hơn hết là chúng ta nên nhắm mắt lại. Nhưng như thế, chúng ta sẽ không thể đi đến thành phố”.

Mít tim vẫn còn đập thình thịch. Nó thở ngắn, thở dài, mặt mày lấm lét. Nó không muốn nhìn, nó sợ sẽ nhìn thấy bà. Nó sợ nhìn thấy đàn thiên nga. “Không, nó không muốn nhìn thấy gì hết”.

Và điều gì đến sẽ phải đến, Mít ngã sấp xuống một vũng trâu đằm, ướt sũng, bê bết, rất may nó vẫn còn kịp giữ cho cái túm gạo khô ráo.

Cà Cuống lo lắng hỏi: “Mày có nhìn thấy cái gì trăng trắng dưới đáy vũng nước kia không?”.

Mít miệng hẵng còn đầy bùn: “Không có cái gì trắng cả, tao chỉ thấy vàng khè”.

Hai đứa thở phào, ngồi dưới gốc cây da.

Chúng cẩn thận mở nút cái can đầy bùn, chia nhau tu nước.

Mít bảo: “Mày hãy cầm tai tao đi, sao nó lại giật không ngừng như thế”.

Cà Cuống vô tư bảo: “Thế thì tai mày là tai trâu”.

Mít khẩn khoản bảo: “Thỉnh thoảng mày nhìn xem tao có hóa thành trâu không nhé, mày hứa đi”.

“Tao sẽ nhìn xem”, Cà Cuống rùng mình. Nó không muốn khi trở về từ thành phố lại dắt theo một con trâu đầy bùn.

Tuy nhiên nó cũng nắm lấy tai của kẻ bây giờ hẵng còn là một con người.

Nó cảm thấy cái tai rất nóng. Và chẳng biết tay nó hay cái tai hay cả hai thứ đều giật lên tưng tưng.

Người nó muốn vã mồ hôi ra thêm một lần nữa. Có tai ai lại bật tanh tách thế này. Nhưng nó nghĩ rằng mình không nên làm hoang mang đứa bạn tốt nhất và là người thân nhất của nó trên con đường hành trình gian khổ và hết sức bơ vơ này.

Nó muốn những gì phải xảy ra sẽ xảy ra chậm nhất, nên nó bảo Mít: “Hãy yên tâm, tai của mày chỉ giật rất nhẹ thôi, phải rất tinh mới nhận ra được. Có lẽ nó chỉ mới ở giai đoạn đầu thôi”.
 
Chúng ngồi dưới cây da.

Cà Cuống nghĩ rằng rất có thể sau này bạn của nó không thể ăn cam được nữa, nên đã bóc cam cho bạn ăn. Mít cảm động, mỗi đứa ăn hết một quả cam. Sau đó, chúng ăn tiếp một cái bánh chưng. “Đường còn xa - Mít nói - hãy để lại một chiếc”.

Mặt trời đã lên cao. Chúng đã rất mệt. Cả hai đứa dựa vào gốc cây, rồi nằm co quắp ôm lấy rễ cây mà ngủ.

Thằng Mít mơ thấy nó hóa thành một con trâu. Nó đi về nhà, vào thẳng trong nhà, nhưng mọi người lôi nó ra buộc dưới gốc cây. Nó khóc, nhưng chẳng ai biết hết. Nó gào lên: “Con đây mà!” nhưng âm thanh phát ra chỉ là “ọ ọ ọ”.

Mẹ nó dúi cho nó một nắm cỏ vào miệng khiến nó câm lặng.

Bố nó bảo: “Con trâu nhà mình giở chứng, chiều nay gọi người đến bán đi mẹ nó ạ”.

Nó lại gào lên: “Bố ơi”, nhưng tiếng phát ra trong cổ họng chỉ là “ ự ự”.

Nó buồn quá, bèn bỏ đi.

Nó lang thang trên cánh đồng quen thuộc, nơi con đê dài quanh năm chẳng có nước, cứ nứt nẻ ra toác hoác.

Đói quá, nó nhai thứ cỏ vàng khè, đầy dấu chân người. Và sau đó uống thứ nước đục ngầu đầy váng trong vũng nước đầu làng. Cái làng giờ đây dường như cũng không phải của nó nốt. Những con đỉa đeo lủng lẳng trên mình nó, chán chường rơi xuống.

Thành phố ư? những trận bóng đá tuyệt vời ư? Có thể nó sẽ không bao giờ xem được nữa.

Nó phải chờ đến cái thằng Cà Cuống chưa trưởng thành kia, thằng nhãi nhép kia. Cà Cuống phải học cho được những phép thần thông biến hóa, để giúp người bạn chí cốt từ trâu về lại thành người. Nếu không, Cà Cuống sẽ chẳng bao giờ có ai đưa đi xem một trận bóng đá. Nó cần phải hiểu rõ điều đó. Nó phải cố gắng mà học cho được những phép thuật cừ khôi kia. “ọ ọ - Mít gào lên, những âm thanh ấy có nghĩa là - Cà Cuống!”. Nó gào lên trong tuyệt vọng, bởi Cà Cuống là đứa lười học và luôn đội sổ lớp.

Nó cứ thế, ngày ngày, đứng bên ngoài cửa sổ lớp học nhìn vào, nhìn vào thằng Cà Cuống. “Hãy học đi, và giúp tớ với”. Nước mắt nó ứa ra, những giọt to như viên sạn. Nhưng Cà Cuống, vẫn cứ cái thói quen của nó, phải có cái thước của cô giáo mới đánh thức nó nổi. Thỉnh thoảng lại bốp, cốp.

Ôi cái đầu, liệu người ta có thể làm gì được với những cái đầu chịu đòn ê chề như thế cơ chứ. Hãy tỉnh dậy đi khỏi những cơn buồn ngủ triền miên. Mít muốn nhắc người bạn hẵng còn làm người, đừng chịu đòn nữa, những con chữ sẽ bị méo đi sau những cú bốp bốp ấy đấy. Nhưng, nó vẫn thế, vẫn không thể điều khiển cơn buồn ngủ của nó được. Nó thật là đứa chẳng ra gì, thậm chí nó không còn nhớ được kẻ đứng ngoài cửa sổ, với cặp sừng cong tuyệt đẹp, là người bạn đã trưởng thành của nó!



Cà Cuống cũng nằm mơ.

Nó mơ thấy nó là một đám mây.

Nó bay trên trời. Nó che cho mẹ nó, bố nó, che cho cả làng, cả ngôi trường xộc xệch với cái sân bóng đá bằng đất nện, che cho quê hương khỏi đợt nắng nóng khủng khiếp này.

Mọi người chạy ra sân, nhìn lên, vẫy chào nó, gào to sung sướng: “Cà Cuống à! Cà Cuống ơi!”.

Giải bóng đá của trường lại được tổ chức và lớp của nó sẽ giành giải nhất cho dù vắng hai cầu thủ chủ chốt không lý do.

Trong đám các cổ động viên hò reo khản cổ dưới chân đồi, nó thấy có cả một con trâu to tướng, nhưng chỉ một sừng thôi, cái sừng lấm lem bùn đất, con trâu đang cố nhảy lên ăn mừng.

Con trâu, đó chính là người bạn thân nhất của nó, kẻ đồng hành với nó trong chuyến đi vào thành phố. Mít. Vâng, đó là nguyên đội trưởng Mít.

Bỗng nhiên bác chủ tịch xã đến.

Bác chỉ con trâu và bảo với mọi người: “Hãy mổ thịt! chúc mừng cho thắng lợi của sự nghiệp giáo dục xã nhà”.

Mít bỏ chạy.

“Vất vả lắm nó mới vượt qua được những mảnh vườn rào bằng tre khô, da trầy khắp, nó quá to lớn. Nó chạy ra cánh đồng, nấp sau ngôi mộ tổ và chạy lên cái quả đồi có miếu Bà.

Đoàn người đuổi theo gấp quá. Những con dao nhọn hua lên sáng lóa khắp nơi. Mít sa xuống vũng nước lớn, đầy bùn. Đoàn người đã đuổi đến.

Từ trên cao Cà Cuống hóa thân làm trận mưa dữ dội. Nước xối xả, như một dòng sông khổng lồ, cuốn mọi người ai về nhà nấy.

Cuốn phăng đi dao nhọn và những chiếc loa chạy bằng pin.



Từ trong vũng nước Mít đứng dậy, trở lại thành người.

Nó bảo: “Mình phải đi xem một trận đá bóng trong thành phố”.

Cà Cuống lắc đầu: “Tớ mệt quá rồi”.



Giữa những quả đồi lúp xúp đầy sim mua, một buổi chiều vàng nắng, trên con đường mòn bé nhỏ, đi trước là Mít, nó gầy, tóc vàng hoe, đen nhoẻm, gánh một cái đòn gánh bằng cành cây khô, một đầu treo cái can trắng đựng năm lít nước còn đầu kia, gần vai hơn, là một túm gạo.

Cà Cuống theo sau, nó lùn, béo, tóc đen, chân vòng kiềng. Nó đeo một cái túi màu đỏ có in hình con mèo Kitty đã cũ của chị nó.

Hai đứa đang đi tìm lối ra đường quốc lộ.

Chúng mệt và đói và chỉ còn vỏn vẹn một cái bánh chưng bé tí cùng một tẹo dòng nước ngọt lịm lấy từ giếng nước đá ong.

Nhưng chúng vẫn quyết định tiếp tục hành trình đi tìm thành phố, để xem một trận bóng đá ở đó thực sự diễn ra thế nào.


***


Những người muốn tin chuyện này là có thực đều tìm thấy cây da cổ thụ trên ngọn đồi đầy cỏ may.

Bóng cây vẫn in đậm vào ký ức của người trong xóm nhỏ.

Có điều thay vì nằm ở hướng ra quốc lộ, cây da ấy đích thực là ở trên quả đồi hướng về làng.

Vài trận lụt đã xói mòn quả đồi và các bạn có thể thấy cây da có hai nhánh rễ lớn trồi lên trên mặt đất, giống hệt hai đứa nhỏ vẫn còn ngủ say.
 
Con Chim Trốn Tuyết _ Paul Gallico

Cánh đồng lầy mênh mông chạy dọc theo theo bờ duyên hải Essex, giữa thôn Chelmbury và Wickaeldroth, một bến chài của dân Saxon ngày xưa. Đây là miền hoang đại cuối cùng còn sót lại tại nước Anh, một miền sình lầy, hẻo lánh đầy cỏ lác và lau sậy với những bãi cỏ ngợp nước trải dài tới bên bờ những ruộng muối lớn. Những bãi bùn non và những vũng nước thuỷ triều sát bên đại dương đầy sóng gió.
Những đường mương rạch do nước thuỷ triều xẻ vào nội đại và những nhánh sông nhỏ lượn uốn quanh co trước khi tuôn ra biển cả, qua miền lầy lội, mặt đất bập bềnh lên xuống như hô hấp theo nhịp thuỷ triều lên xuống mỗi ngày. Cảnh tượng vắng vẻ, cho ta cảm giác càng thêm quạnh hiu bởi tiếng kêu, tiếng gọi của loài dã điểu làm tổ trong những đầm lầy hay ruộng muối - những con ngỗng trời, những con hải âu, vịt trời, le le, cò lửa, cò hương mò mẫm tìm mồi trên những hồ nước mặn. Còn sự hiện diện của loài người thì không có, không thấy một ai, hiếm lắm mới thấy một người lưới chim hoặc vài thổ dân mò sò, tới đó tiếp tục làm cái nghề đã cũ mèm ngay từ hồi những người Normand đặt chân lên miền Hasting.
Màu xám, màu xanh và màu xanh lá cây nhạt là những màu nổi bật, bởi vì suốt trong những mùa đông dài dằng dặc, nhiều vũng nước trên bãi biển, trên đầm lầy phản chiếu ánh sáng lạnh lẽo và xám đen của bầu trời. Nhưng đôi khi, vào buổi bình minh hoặc lúc hoàng hôn, màu trời sắc đất bực lên như ánh lửa vàng, lửa đỏ.
Sát bên một nhánh quanh co của con sông Aelder nhỏ bé có một quãng đê thuộc bức trường thành trấn giữ bờ biển ngày xưa, khúc đê nhẵn và kiên cố, không một kẽ hở, đó là thành luỹ bảo vệ đất liền chống lại sự xâm lấn của biển cả. Con đê chạy sâu vào tận hồ muối, sâu vào đất liền tới ba dặm kể từ eo biển nước Anh, rồi từ đó rẽ theo hướng Bắc. Chính ở góc đó mặt đê bị sóng biển nhồi vỗ đã rạn vỡ tan tành. Con đê bị chọc thủng và qua chỗ hổng, biển cả như con thú đói ùa vào tranh giành đất đai, cả bức trường thành và cả những vật gì còn lại nơi đó.
Lúc thuỷ triều rút, trơ ra những tảng đá vỡ màu xám đen, vết tích của ngọn hải đăng hoang phế, nằm phơi trên mặt nước, lác đác quanh đó, tựa như những cái phao cột xác chết, rải rác đầu những cây cọc của của một hàng rào đã bị lúc xuống. Ngày xưa ngọn hải đăng nhô cao trên biển và ánh đèn đã từng soi sáng dọc miền duyên hải Essex. Theo dòng năm tháng, sóng biển soi đất lở dần, ngọn hải đăng hoá thành vô dụng.
Gần đây nó lại được dùng làm nơi trú ngụ của loài người. Có một người đàn ông cô độc đến đó ở. Thân hình méo mó, nhưng tâm hồn anh tràn đầy tình thương đối với các loài hoang thú bị săn đuổi. Trông anh thật xấu xí nhưng chính anh lại là người tạo ra cái đẹp. Câu chuyện sau đây thuật về chính chàng trai đó, và một cô bé đã tìm hiểu được chàng, tìm hiểu được một vẻ đẹp nào đó tiềm ẩn bên trong cái thân hình thô kệch của chàng.
Đây không phải loại truyện có bố cục với những tình tiết nhịp nhàng hấp dẫn. Cốt truyện được thu góp từ nhiều nguồn và từ nhiều người, một phần dưới hình thức những mẩu chuyện vụn vặt của chính những người đã chứng kiến những cảnh tượng khốc liệt và kỳ lạ. Rốt cuộc, biển cả đã trở lại nguyên vị, bao phủ lên nơi chiến trận lớp sóng nhấp nhô, và bóng chim trắng khổng lồ, hai đầu cánh đốm đen, cánh chim đã từng chứng kiến sự việc từ đầu đến cuối, cũng đã quay về miền yên lặng huyền bí, cóng lạnh của vùng Bắc cực, là nơi mà từ đó nó đã bay đi.
Vào cuối mùa xuân năm 1930, Philip Rhayader tìm đến ngọn hải đăng hoang phế ở cuối sông Aelder. Chàng mua vọng đèn bỏ hoang cùng nhiều mẫu đất lầy và đồng cỏ nước mặn quanh đó.
Chàng sống cô đơn và cặm cụi làm việc một mình quanh năm. Chàng là hoạ sĩ chuyên vẽ chim và phong cảnh thiên nhiên. Vì nhiều lí do, chàng đã trốn lánh khỏi xã hội loài người. Người ta có thể tìm ra một vài trong số những lí do đó, trong những chuyến chàng xuống làng Chelmbury, nửa tháng một kỳ để mua thực phẩm, phơi bày tấm thân lệch và bộ mặt đen đúa của chàng dưới những cái nhìn soi mói của dân làng. Bởi vì chàng gù lưng và cánh tay trái có tật teo đi, cổ tay khoèo lại tựa như móng của loài chim.
Ít lâu sau dân làng dần quen với hình dáng kỳ quái của chàng, nhỏ nhung đầy sức lực, quen dần với chiếc đầu vững chắc, tóc đen, râu rậm hơi tụt xuống phía dưới chiếc gò bí hiểm mọc trên lưng chàng, quen dần với đôi mắt sáng ngời, cánh tay hình móng chim, và đối với họ chàng trở thành “anh chàng vẽ tranh kỳ quái sống ở hải đăng”.
Hình thù quái dị thường làm người có tật hận thù loài người. Nhưng Rhayader không hề thù hận! Chàng thương yêu tha thiết con người, mọi loài muông thú và cảnh vật thiên nhiên. Tâm hồn chàng tràn đầy lòng thương xót và sự cảm thông. Chàng đã làm chủ được điều bất hạnh, nhưng chàng không sao chế ngự nổi sự hắt hủi phải gánh chịu, sự hắt hủi gây ra bởi hình thù quái dị của chàng. Sự kiện dồn chàng đến thế ẩn dật là sự thất bại không tìm thấy nơi đâu sự đền đáp lại mối cảm tình nồng nàn từ nội tâm chàng tuôn trào ra. Phụ nữ lẩn tránh chàng. Còn đàn ông có thể đối tốt với chàng , nếu họ hiểu chàng. Nhưng chỉ nghĩ rằng người đó phải cố gắng mới hiểu được chàng cũng khiến chàng tủi hổ và cũng đủ để chàng lánh xa kẻ ấy.
Năm chàng đến vùng đồng lầy chàng đã hai mưoi bảy tuổi. Chàng đã đi du lịch khá nhiều nơi và đã chiến đấu một cách anh dũng trước khi đi đến quyết định rút lui ra khỏi cái thế giới mà chàng không có chỗ đứng như những người đàn ông khác. Ngoài sự nhạy cảm của người nghệ sĩ và sự hiền dịu đầy phụ nữ tính chứa chất trong lồng ngực căng phồng, chàng cũng đàn ông như ai.
Trong cuộc sống ẩn dật, chàng còn có chim chóc, hội hoạ và cánh thuyền buồm. Chàng có một chiếc thuyền dài mười sáu bộ, mà chàng sử dụng rất tài tình. Những lúc một mình, không bị ai dòm ngó xét nét, chàng điều khiển nó rất khéo léo bằng bàn tay có tật, chàng cũng thường vận dụng đến hai hàm răng vững chắc để điều chỉnh những cánh buồm bập bùng khi gặp cơn gió chướng.
Chàng thường thả thuyền dọc theo con lạch hay chạy ra khơi, mỗi lần chàng đi tới mấy ngày liền, tìm kiếm những loài chim mới để chụp ảnh hay vẽ phác và chàng cũng lưới được chim khá thiện nghệ để tăng thêm cho bầy hoang điểu mà chàng thu thập về nuôi trong chiếc chuồng dựng bên phòng vẽ vốn là trung tâm ở ẩn của chàng.
Chàng không hề bắn chim bao giờ và chàng không chịu cho những người săn chim lại gần khu vực chàng ở. Chàng là bạn thân của mọi loài chim hoang dã và chúng cũng đền đáp lại chàng bằng tình thân hữu.
Thuần thục trong khu vườn nhà chàng có giống ngỗng hoang hàng năm cứ đến tháng Mười lại từ miền Băng-đảo và từ quần đảo Spitbergen bay dọc duyên hải mà xuống, từng bầy lớp rợp trời và thinh không rào rào tiếng cánh vỗ mỗi khi chúng bay ngang - những con ngỗng thân lông nâu, chân mầu hồng, ngực lông trắng với những chiếc cổ lông đen và bộ mặt ngộ nghĩnh, những con hải âu lông trắng ngực có sọc đen và nhiều loại vịt trời, le le, mòng két, mòng đốc…
Vài con được xén lông cánh ở lại làm chim hiệu và mỗi đầu mùa đông chúng sẽ nhử những loài hoang điểu dừng cánh nơi đây là chỗ trú ẩn an toàn và sẽ có miếng ăn.
Hàng trăm con đã đến và ở với chàng suốt mùa đông lạnh buốt từ tháng Mười cho mãi tới đầu xuân, khi chúng lại di chuyển về phương Bắc, trở về đất tổ của chúng, gần bên những vòm băng đá.
Rhayader thấy mãn nguyện khi biết rằng dù cho bão táp có dập vùi, sự lạnh buốt có nghiệt ngã và mồi ăn có khan hiếm hay những cây súng lớn mũi nhọn của những người thợ săn đeo túi đựng thú ở xa có nổ, thì những con chim của chàng vẫn bình an - những con chim mà chàng đã tụ tập vào nơi an toàn dưới sự bảo trợ của đôi cánh tay và con tim chàng, những con chim hoang dã hiểu biết và đã đặt lòng tin cậy nơi chàng.
Vào xuân chúng sẽ đáp lại tiếng gọi của quê hương miền bắc, nhưng sang thu chúng sẽ trở lại, trở lại kêu la rối rít, tru tréo om sòm, huyên náo cả vòm trời thu muộn, lượn quanh ngọn hải đăng xưa cũ rồi cùng hạ cánh xuống gần đấy để lại đóng vai khách quý của chàng - những con chim mà chàng còn nhớ rõ là đã nuôi chúng từ năm trước.
Và điều này khiến Rhayader sung sướng, bởi vì chàng biết rằng ẩn bên trong chúng có mầm mống tri giác về sự có mặt và nơi ẩn náu an toàn của chàng, rằng sự tri giác này đã tham dự vào cuộc đời chúng để mỗi khi bầu trời trở xám và gió bấc thổi lộng chúng sẽ tìm lại với chàng không hề lầm lẫn.
Ngoài ra chàng để hết tâm trí vào việc vẽ lại cảnh vật nơi chàng đang sống cùng những sinh vật trong miền. Không có nhiều tranh của Rhayader ngoài thị trường. Chàng say sưa giữ lại, chồng chất chúng trong hải đăng, và xếp đống ở những tầng trên có tới hàng trăm bức. Chàng không hài lòng về chúng, vì người nghệ sĩ vốn không mấy khi mãn nguyện về những gì mình sáng tạo.
 
Nhưng vài bức đến tay người thưởng ngoạn đều là những kiệt tác, tràn ngập nguồn sáng và màu sắc từ mặt nước loáng lên, từ những cánh chim bay rung động toả xuống, từ sự gắng gỏi mãnh liệt của những cánh chim bay ngược luồng gió sớm mai đang thổi rạp những ngọn lau lớn xuống. Chàng diễn tả vẻ cô tịch và bầu khí lạnh đượm vị muối, sự vĩnh cửu, vẻ thiên thu của cánh đồng lầy, những sinh vật hoang dã, những đàn chim bay trong bình minh, hoặc thảng thốt vút lên bầu trời và những bóng chim xoải cánh bay trong đêm lẩn trốn ánh trăng.
Vào một buổi chiều tháng Một, ba năm sau khi Rhayader đến ở vùng Đồng lầy, có một cô bé lại gần phòng vẽ trong hải đăng, qua lối bờ đê. Hai tay cô ôm khư khư một gói nặng.
Cô bé trạc mười hai tuổi, mảnh mai, lem luốc, lo lắng và nhút nhát như một con chim, nhưng dưới vẻ lọ lem ấy cô ta đẹp kỳ lạ như một nàng tiên của vùng Đồng lầy. Cô là giống người Saxon thuần túy, to xương, da trắng mịn, với một chiếc đầu còn lớn hơn so với thân hình và đôi mắt thăm thẳm màu tím sẫm.
Cô bé vô cùng khiếp sợ người đàn ông xấu xí mà cô phải đến gặp, vì một huyền thoại về Rhayader đã bắt đầu hình thành, và những người thổ dân ưa săn bắn đâm ra thù ghét chàng vì chàng đã cản trở môn thể thao ưa thích của họ.
Nhưng vượt trên nỗi sợ hãi ấy là tình cảnh nguy khốn của sinh vật mà em đang ấp ủ trên tay. Trong trái tim bé nhỏ của em, đã gắn sâu sự hiểu biết, nhờ nghe người ta đồn đãi quanh vùng, rằng con ngáo ộp sống trong hải đăng có bùa phép chữa lành những thú vật bị thương.
Trước đó chưa bao giờ cô bé nhìn thấy Rhayader và cô suýt hoảng hốt bỏ chạy trước bóng dáng chàng xuất hiện nơi khung cửa phòng vẽ, khi nghe tiếng chân người lại gần - một sự hiện hình dễ sợ với chiếc đầu bù xù và bộ râu đen, chiếc lưng gù buồn thảm và cánh tay khoèo hình móng chim.
Cô bé đứng sững lại, nhướng mắt nhìn chằm chặp hơi sẵng như một con chim nhút nhát dưới đồng lầy sẵn sàng cất cánh bay xa.
Nhưng khi chàng lên tiếng, giọng chàng thật trầm và thân thiện :
“Có chuyện gì đấy em?”
Cô bé vẫn không bớt sợ hãi, rụt rè bước tới. Vật mà cô bé ôm trong cánh tay là một con chim lớn màu trắng, con vật nằm bất động. Có những vệt máu trên bộ lông trắng và trên chiếc áo của cô bé nơi mảnh vải dùng để lót con chim.
Cô bé đặt con chim vào đôi cánh tay chàng.
“Thưa ông, em bắt gặp nó, nó bị thương. Nó còn sống, phải không ông?”
“Đúng. Đúng đấy, tôi cũng nghĩ vậy. vào đây, vào đây em”.
Rhayder mang con chim vào trong nhà, đặt nó lên bàn, và con vật yếu đuối cựa mình. Tính tò mò lước thắng sự sợ hãi, cô bé vào theo và thấy mình ấm hẳn lên trong căn phòng có ngọn lửa than đốt để sưởi, căn phòng sáng rực lên dưới những bức tranh màu treo la liệt trên tường, và tràn ngập một mùi hương là lạ nhưng dễ chịu.
Con chim vẫy cánh. Với bàn tay lành lặn, Rhayader trải rộng một trong hai chiếc cánh trắng lớn ra. Bầu cánh có đốm đen rất đẹp.
Rhayader trầm trồ ngắm nghía và hỏi :
“Này em! Em thấy nó ở đâu đấy?”
“Ở trong đồng lầy, ông ạ, nơi những tay thợ săn đi qua. Loại chim gì ông nhỉ?”
“Loại ngỗng trốn tuyết gốc Canada. Mà tại sao nên nông nỗi này?”
Tên con chim hình như chẳng có ý nghĩa gì đối với cô gái bé nhỏ. Đôi mắt thăm thẳm màu tím sẫm sáng lên làm át cả vẻ lem luốc của khuôn mặt gầy đét, chăm chú nhìn con vật bị thương đầy vẻ lo âu.
Cô bé hỏi :
“Liệu ông có chữa cho nó lành được không?”
“Được, được chứ”, Rhayader đáp. “Chúng ta thử xem sao. Lại đây, em giúp tôi một tay nhé”.
Trên chiếc kệ có sẵn kéo, băng và nẹp gỗ để tháp xương bị gãy, và mặc dù có tật, chàng khéo tay lạ thường, ngay cả cánh tay khoèo hình móng chim cũng vậy, cầm vật dụng rất tài.
Chàng nói : “Tội nghiệp, cô ả bị đạn bắn trúng đây. Cẳng bị gãy rồi, đầu cánh cũng vậy, nhưng không đến nỗi nặng lắm. Xem nào, mình phải xén lông cánh mới băng bó được, nhưng sang xuân rồi lông cánh sẽ mọc lại và cô ả sẽ lại bay được. Mình sẽ cột chặt cánh vào thân, và như vậy cô ta sẽ không cựa quậy đôi cánh được cho tới khi lành hẳn. Kế đó mình sẽ bó chỗ chân cô ả bị đau”.
Cô bé quên cả sợ, say sưa theo dõi việc làm của chàng, một phần cũng vì chàng vừa bó chiếc chân chim gãy vừa kể cho cô nghe một câu chuyện kỳ diệu
 
Status
Không mở trả lời sau này.
Back
Top