• Hiện tại trang web đang trong quá hình chuyển đổi và tái cấu trúc lại chuyên mục nên có thể một vài chức năng chưa hoàn thiện, một số bài viết và chuyên mục sẽ thay đổi. Nếu sự thay đổi này làm bạn phiền lòng, mong bạn thông cảm. Chúng tôi luôn hoan nghênh mọi ý kiến đóng góp để chúng tôi hoàn thiện và phát triển. Cảm ơn

1001 CÂU CHUYỆN CẢM ĐỘNG!!!

Status
Không mở trả lời sau này.
Mấy đám hàng xáo người làng trên qua đây ghé đò xuôi chợ, không nhao nhao lên nữa như lúc mới nghiêng mạn đò vừa rồi. Họ ra vẻ nể nang, ngồi thu hình lại, quơ lại một góc mấy lũ tay nải và bì cói, cốt để dọn cho người học trò xuống tỉnh đi thi kia một chỗ ngồi rộng rãi. Đáy con đò, dính chắc vào đất sét lòng bến nông. Cô hàng gạo, buộc lại múi khăn mỏ quạ, nhìn cậu khóa không mỏi mắt, mỗi lúc ngượng nghịu lại nhổ cốt trầu xuống đồng nước. Gió đồng hôm nay không thổi. Bãi quết trầu đỏ lặng im giữa làn nước nhợt nhạt, rồi chậm chạp tan hòa vào nước cánh đồng chiêm, mỗi khi nhìn rộng ra, chỉ rặt một màu bao la nhờ nhờ. Người lái đò mặc áo tơi kín phủ thân, chụp nón mê lấp cả mặt, đã rút đầu sào khỏi mặt nước. Con đò đầy cựa quậy, bốc nhẹ, rồi trườn mình ra xa. Trời bắt đầu nổi gió rét. Mưa thu lộp độp gõ xuống áo tơi nón lá của một chuyến đò đồng. Dưới gốc cây hòe già chỗ dốc đê làng, ông Đầu Xứ Anh vẫn đứng nhìn theo.

Tinh mơ ngày hai mươi nhăm tháng chín, tại khu trường thi Nam Định, các quan làm lễ tiến trường. Hai chiếc lọng vàng nghiêng phủ xuống lá cờ và tấm biển có chữ “phụng chỉ”, “khâm sai”, bốn cây lọng xanh ghé thấp tịt xuống một cái đầu bạc đại khoa. Mùi nghi vệ mới phảng phất ít hôm trước thì sớm nay đã nổi dậy trên khắp một mảnh đất mà mọi khi chỉ có gió chạy trên hoa cỏ may hiu hắt từng cơn.

Ánh sáng ban ngày vắng đi mãi đến những đâu mà đến bây giờ vẫn chưa thấy trở về. Từ hôm có gió vàng pha mùi cơn bấc đến nay, chưa bao giờ thấy cái âm u tẻ lạnh đến nhường ấy. Gần giữa giờ thìn rồi mà tối và sáng chưa phân tách hẳn được ra. Người đứng bao quanh đàn cúng, vẫn chỉ thấy ánh sáng mấy chục ngọn nến bạch lạp rọi vào đàn tế, trên đàn phủ phục ba cổ tam sinh còng queo: một con trâu và một con dê đen thui kèm con lợn cạo trắng mở to cặp mắt chết.

Mặt đất sáng hơn nền trời. Cuộc tế tiến trường như đang lắng chờ một sự biến gì. Gió cũng không muốn thổi. Mấy ngọn sáp không lung lay, vệt khói xám nơi bình hương bốc lên thẳng thắn trên bàn tam sinh. Nền trời phương Đông đáng lẽ đã phải hửng lên rồi. Thế mà ở đấy cứ rặt một thứ mây đục đùn lên những hình quỷ Đông. Phía Tây, một cái cầy vồng cụt một chân, tô lên tạo vật những màu xanh đỏ dại dại và nghịch mắt. Trong cảnh âm dương không chia biệt rõ, quan Chánh Chủ khảo trường Hà Nam hợp thi khoa Mậu Ngọ, đang tế cáo giời, đất, vua, thần và thánh; xuýt xoa khai xong tên, tuổi, quê, quán, ngàu khấn to:

“…Báo oán giả, tiên nhập; bán ân giả, thứ nhập…”

Có lẽ đọan khấn này là khoản chú trọng nhất của lễ tam sinh và đã được quỷ thần chứng giám. Người lính tuần mặc áo nẹp đỏ vừa được lệnh đổ chén rượu cúng xuống tàn lửa đống vàng đang hóa dở thì những đầu ngọn cỏ may im lìm nơi bãi trường thi đều rung lên một nhịp và rung theo một chiều. Người ta, hồi nãy sống một cơn mơ giữa khoảng ban ngày u uất, bây giờ trông thấy một cơn mơ đang tàn dần. Một thứ gió u hiền thổi thốc vào bãi trường, nghe lào xào như có tiếng các hồn oan hồn lành chen chúc và ùa vào choán chỗ. Những cây nến cháy vạt ngọn bỗng tắt phụt hết. không gì xa vắng bằng cái động đậy trong đìu hiu của muôn loài.

Trời đất trong sáng lại dần dần.

Hai anh em ông Đầu Xứ Ngoạt - lấy tên tục của làng nguyên quán Cổ Nguyệt - lững thững ra về. Ông Đầu Xứ Anh bụng buồn lắm mà không dám nói ra.
 
Ba năm trước, cũng ngày tế tiến trường. Năm Tý, cảnh trời đất cũng âm thầm giông giống như ngày này. Quan Chánh Chủ khảo khoa ấy, theo tục lệ quen của mỗi khoa thi, cũng cúng tam sinh khấn mời những oan hồn nên nhập vào trường trước hết để mà báo oán trả thù. Rồi ông Đầu Xứ vào trường, rồi oan hồn hiện ngay dưới lều, ngay chỗ đầu chõng, kêu khóc giữ rịt lấy tay không cho viết quyển nữa. Gào khóc chán, người đàn bà ấy lấy mớ tóc xõa quấn vào mặt ông cứ bỏng rát lên. Lại cười sằng sặc, lấy nghiên mực hắt vào quyển của ông. Lần ấy ông xin đổi quyển đến hai ba lần. Vẫn người đàn bà ấy quấy nhiễu không tha để quyển ông cứ tỳ ố mãi. Lúc gần chiều, ông nổi một cơn đau bụng hoắc loạn, phải bỏ dở kỳ thi, nhờ người dìu về nhà trọ. Thế là ông bay ngay kỳ kinh nghĩa. Một người đầu xứ hay chữ và được quan Đốc khen ngợi luôn mà hỏng nhay nhất trường thì có thảm thương không. Cũng may mà còn có người lấy được cái bản thảo nháp bài của ông đem về, ông còn giữ được đến giờ, nếu không thì nhục cho gia sáo biết là chừng nào. Ông cụ thân sinh ra ông, cụ Huấn là người nổi tiếng một vùng, đem xem lại bản nháp và đưa cho các bạn đọc, ai cũng lấy làm tiếc. Hơi văn đi mạnh như thế, có vào đến kỳ hội thì cũng cứ lọt. Mọi người đều chặt lữơi tiếc rẻ. Cái người bạn cùng ngồi một vi với ông, sau khi đem trả ông cái bản nháp đó, đã tìm đến phòng trọ đưa tạ ông ba chục quan tiền kẽm: “Đại huynh lúc không may lâm bệnh mà rời bãi trường, phải bỏ lại trên cỏ bản nháp bài kinh nghĩa. Là một người tự biết là bất tài, tiểu đệ đã mạn phép hiền khuynh điền vào quyển của đệ những lời gấm hoa đanh thép bị bỏ phí kia. Nay được vào kỳ đệ nhị, gọi là có món quà mọn gửi lại, xin đại khuynh nhận cho”.

Biết là có oan hồn hiện lên cố phá không cho mình mở mặt với thiên hạ, ông Đầu Xứ Anh để tâm tra cứu lại chuyện nhà. Thì ra, lúc sinh thời, cụ Huấn đẻ ra ông đã phạm vào một việc thất đức. Hồi còn mồ ma cụ Huấn, cụ đã mang lấy trách nhiệm tinh thần về cái chết của một nàng hầu tài hoa nổi tiếng một thời. Người thiếp đó lúc tự ải, có mang được sáu bảy tháng. Cái âm oán ấy còn theo đuổi ông mãi, nếu ông còn cứ lều chiếu ở cửa trường thi. Đấy là lời người thiếp đó lúc ốp vào con đồng khi phụ lên. Nàng xưng là cô và gọi ông Đầu Xứ Anh là nó, cười sặc sụa và giọng nói the thé. “Nó còn đi thi, cô còn báo mãi. Các người hỏi cô muốn những gì ấy à! Cô muốn, cô muốn nó phạm huý, cho nó bị tội cả nhà kia. Nhưng nhà nó cũng có một ông mãnh thiêng lắm, cô không tàn hại nó được như lòng cô muốn. Nên nó chưa viết phạm đến tên các vua”. Con đồng lắc lư nói có thế. Có gặng hỏi thêm chỉ khóc hu hu rồi phá ra mà cười như bị ma ếm, ông Đầu Xứ Anh thấy lạnh đến tuỷ xương sống. Và đâm ra lo nghĩ từ ấy.

Khoa thi này, ông đành nhẽ không ra nữa, để ông Đầu Xứ Em nộp quyển thôi, thử xem hồn oan có còn đòi báo nữa không... Ông tin ở học lực người em ruột, sao cũng lấy về cho làng Ngoạt, có hèn ra cũng được cái cử nhân. Khoa cuối cùng, thêm phần luận quốc ngữ và phép đo lường tính theo lối học mới, nhưng chú nó thông minh vốn thiên bẩm và gần đây tân thư và toán học cũng nhiều, cũng không lấy gì làm ngại lắm. Nhưng mà phúc phận con người ta, ở một người thi chữ Hán, biết sao mà định trước được.

Còn năm hôm nữa mới nhập trường. Mãi đến ngày sóc tháng mạnh đông mới gọi tên bốn năm ngàn người vào kỳ đệ nhất. Cơm nhà trọ, luôn mấy ngày nay, bữa nào cũng hết một bình rượu. Hai anh em ông Đầu Xứ, những lúc trời ngớt hột mưa, vào mấy ngày mong chờ, thường nhẩn nha ở phố Hàng Giấy, chọn một thỏi mực, thử lông một cây bút thỏ hay là soi một tờ giấy bản lên ánh sáng. Ông Đầu Xứ Anh cố quên chuyện cũ, hết sức vui vẻ trong khi đi lục lọi giấy bút cho em ở các cửa hàng sách phố Hàng Giấy. Những con người văn nhân lượn lên lượn xuống nơi phố này nhiều đến nỗi không thể nào mà nhớ được mặt, ví có gặp lại ngay đó một lần thứ nhì.

Cái cửa hàng sách gọn ghẽ xinh xắn được nhiều thầy khóa lui tới nhất là cửa hàng cô Phương. Đám học trò vào cửa hàng cô để mua hàng, và để nghỉ chân và giải trí cũng có. Cô Phương ở phố Hàng Giấy, ngày trước là một người đanh đá chua ngoa có tiếng. Có một lần, một cậu học trò vào hàng cô chọn bút. Cô đưa bút Song Lan, Thanh Chi, Nhất Chi, rồi Kiều Lan, rồi đến Trúc Lan; người thư sinh mặt trắng rút tháp bút, cho bút vào miệng, ấn tòe đầu bút vào lòng bàn tay xòe, để thử soi lông bút lên ánh sáng cô đến mấy mươi lần rồi mà cứ lắc đầu hoài, chê xấu. Anh chàng nhất định hỏi cho được cái thứ bút Tảo Thiên Quân mới chịu lấy. Thấy thầy khóa ăn mặc đồ vải xuênh xoàng, cô Phương ra giọng bỉ thử: “Có Tảo Thiên Quân lông trắng nhưng mà những hai quan một chiếc”. tiếp cái nguýt dài của cô hàng sách càng ngồi dãi thẻ thêm ra, người thư sinh mặt trắng chỉ tay lên tít trên đầu tủ: “Phải Tảo Thiên Quân lông trắng; có còn thứ nào những năm sáu quan một quản, cô lấy cho tôi chọn”. Lúc nói câu này, thầy khóa cố dằn giọng vào chữ những có ý bảo thầm cho nhà hàng biết rằng nên khinh người vừa vừa chứ. Co Phương bẽn lẽn, nhưng cũng cố đứng dậy lấy thứ bút quý cất mãi trên cùng tột lớp tủ, đưa cho thầy khóa, chỉ đợi nếu anh chàng không mua nổi chiếc nào thì sẽ mắng một trận như tát nước vào mặt cho bõ ghét. Lấy luôn một lúc bốn chiếc Tảo Thiên Quân, trả tiền xong xuôi, người thư sinh mặt trắng dúng một ngòi bút mới vào nghiên mực, vờ thử ngòi bút vào một mảnh giấy nơi mặt hàng. Những dòng chữ viết rất tốt kia, sự thật chỉ là một bài thơ chữ nói mát mẻ cô hàng có tính chỏng lỏn. Từ đấy, cô Phương đâm ra gờm những thầy khóa có tính ỡm ờ và trở nên rất ngoan ngoãn đối với bạn hàng, bất cứ là ai. Sau cô hỏi thêm, mới biết người thư sinh rất khó tính trong sự lựa bút và tác giả bài thơ bóng gió ấy là cậu Đầu Xứ Ngoạt. Năm Mão, phong thanh người thiếu niên tài hoa ấy thụ bệnh trong trường và bỏ dở khoa thi, cô Phương đã ra mặt ái ngại tiếc than với những người chung quanh. Trong tâm một cô hàng sách nho phố Hàng Giấy, đang nhú lên cái mầm sơ đầu của yêu thương gắn bó và đợi chờ.
 
Cho đến mãi năm Ngọ năm nay, ông Đầu Xứ Ngoạt mới trở lại cửa hàng cô Phương. Ông Đầu Xứ Em còn lần lữa ngoài mặt hàng, chưa bước vào nhà. Trên mấy tấm cửa lùa ngả xuống hai cái mễ gỗ nhỏ hẳn ra vỉa hè, một cuốn Chinh Phụ Ngâm diễn Nôm đã ghìm bước ông Đầu Xứ Em lại. Thấy có bóng khách vào hàng, cô Phương đặt cuốn truyện Lục Vân Tiên xuống, lấy móng tay đánh dấu vào cái đoạn nàng Kim Liên đang “ đẩy xe cho chị qua miền Hà Khê”, sắp cất tiếng chào khách, bỗng cô ngờ ngợ, tủm tỉm muốn bật như cười. Cô nhìn không chớp mắt, đôi má lúm đồng tiền phơn phớt nhuộm đào – cái màu đào một ngày năm nọ.

Ông Đầu Xứ Anh hơi luống cuống, chưa biết hỏi món hàng gì thì may mắn quá, ông Đầu Xứ Em đã tiến theo vào phá hộ cái yên lặng:

- Này anh, lấy một cuốn Chinh Phụ bản Nôm, về nhà trọ, ta ngâm nga chơi cho nó hết mấy ngày đợi bảng nhập trường.

- Ờ thích được ngâm nga thì cứ lấy về. Có gì mà phải bàn.

Cô Phương hết nhìn người anh, lại nhìn sang người em. Cô đoán họ phải là anh em ruột thì mới giống nhau như tạc đến thế. Vả chăng hồi gần đây, cô có nghe đồn ông Đầu Xứ Anh cũng có người em đỗ Đầu Xứ và tài hoa đã làm trôi cả một vùng tỉnh Nam. Chắc là người mua truyện này đây. Chưa biết câu chuyện ông Đầu Xứ Anh không nộp quyển thi khoa này, cô Phương tự nói với mình: “Huynh đệ đồng khoa! Cái làng Cổ Nguyệt chuyến này tha hồ mà rước xách. Troing hai anh em, chả biết ai sẽ Tú Tài, ai Cử Nhân. Mọi năm hai trường Hà Nội và Nam Định hợp lại, lấy sáu mươi tư Cử Nhân. Năm nay khoa rốt, Nhà nước đ8ạc cách lấy những chín mươi Cử Nhân và cũng như mấy lần thi trước, cứ một Cử Nhân thì ba Tú Tài. Lọt sao được hai cậu Đầu Xứ này”. Cô kéo cái ấm giỏ trong bục ra, giở nắp ấm thăm cái nóng chiếc ấm sứ, rót hai chén, cô hạ thấp vòi ấm xuống để nước không nổi bọt.

- Mời hai thầy quá bộ vào trong này xơi nước. Nước trà nụ ướp sói vừa pha đấy, nên mới dám mời hai thầy tân khoa.

Cô Phương đưa tay che miệng cười, tự cho câu chúc sớm sủa đó là có duyên lắm, hẳn là phải hay và anh em ông Đầu Xứ Cổ Nguyệt phải thưởng thức. Thấy họ cứ đứng trân trân ra đấy, cô Phương thu dần nét mặt xởi lởi lại và ngồi ngẫm, càng nhận thấy cái vô duyên và vô lý của câu nói vừa rồi. Ai người ta đã thi cử được một kỳ nào, mà đã chúc với tụng. Cho đỡ ngượng, cô lại mời:

- Hai thầy xơi chén nước.

Ông Đầu Xứ Em chẳng biết cái gì cả, cầm chén, uống luôn, tưởng hễ cứ vào mua hàng người ta là mình có quyền xơi ngay nước mời. Khốn nạn, nào từ trước tới giờ anh mình có bao giờ nói cho nghe cái đoạn tình duyên thầm kín đã mấy năm nay giữa anh với cô hàng sách đâu mà biết. Ông Đầu Xứ Em thấy anh còn trùng trình chưa chịu ngồi xuống cầm lấy một chén nước mà đầu lưỡi rất tinh của ông phải nhận là thơm ngon, ông càng chèo kéo ồn maĩ lên.

Cô Phương, cũng phải phì cười và làm cho ông Đầu Xứ Anh cười luôn thể. Con người nào đã biết e dè với cuộc sống, những lúc cảnh ngộ tinh thần sớm không cho mình phỉ sức hưởng thụ khi ở vào một cái tuổi ăn và ngủ đáng lẽ phải nhiều mỗi lần được vui cười trên mặt thì cái cười ấy thật là thoả đáng, thật đầy đủ và lại xinh đẹp là khác nữa. Nhân một cái vui tươi thế chỗ nét mặt trang nghiêm luôn luôn của ông Đầu Xứ Anh, cô Phương nói một câu mà sự thân mật riêng tây đó đã không cần thầm kín nữa:

- Khoa Ngọ này là khoa cuối cùng. Ông Đầu Xứ nên giữ mình làm trọng, chớ có đau bụng như kỳ năm Mão mà để thiệt thòi nhiều cho vùng Sơn Nam hạ lắm đấy, ông ạ.

Đến chữ “ông ạ” ở cuới một câu nói, giọng rất thành thật và cảm động, cô hàng sách cố làm ra giọng bông lơn cho nó nhẹ bớt sự tha thiết của một câu nói đã lỡ nhời, đã thốt ra từ đáy một tấm lòng để đi sâu vào một tấm lòng khác bấy lâu nay cũng vẫn chờ lúc được đãi đằng. Sự rất hữu tình mà cố làm ra vô tình bằng một cái giọng cố gò lấy, làm sao cho tránh khỏi sự nhận xét thông minh của ông Đầu Xứ Anh được. Ông biết lắm. Ông hiểu cô Phương để ý đến ông lắm. Không cần các bạn nói cho hay, không cần gặp gỡ, không cần âm tín tiêu hao, ba năm nay rồi, linh tính bảo ông biết thế. Nhưng từ ngày vấp ngay khoa thi đầu tiên, ở một kỳ đệ nhất, ông buồn uất vô hạn khi nhận thấy mình ra có còn lều chõng nữa cũng là chỉ để làm sống dậy, trong vòng oan trái, một cái oán cừu xưa cũ của ông cha di lại. Một cái oán hồn đã hiện lên, đã ốp đồng vào miệng người sống mà thốt ra toàn những lời hằn học, cái oan hồn ấy hẳn không chịu buông tha ông nữa rồi. Hóa cho nên, rớt khoa Ất Mão ngay kỳ kinh nghĩa, ông nhận luôn cho nó là khoa cuối cùngh, chẳng cần phải đợi đến khoa Mậu Ngọ cuối cùng này. Ngay dạo ấy, ông đã tuyên bố rất to rằng ông là thí sinh của một khoa thi thôi. Cô hàng sách không rõ, vẫn tưởng ông còn có bụng với sự lều chõng.

Ngắm kỹ cô Phương, ông thấy cái đẹp của cô già dặn hơn ngày năm trước. Còn muốn nói thêm vài ý nghĩ vui tươi nữa vào việc đánh giá cái đẹp, nhưng ông Đầu Xứ Anh bỗng ngừng lại. Bởi vì – quái, sao mãi đến giờ, ông mới nhận ra – khuôn mặt cô Phương đã hao hao tợ như diện mạo người đàn bà ẵm con xõa tóc ngồi rù than khóc nơi đầu chiếc chõng che trong trường thi khoa nọ. Tự nhiên ông thấy cô Phương không còn hiền hậu nữa. ông nghĩ đến những cái ghê sợ mà một sắc đẹp có thể giấu dưới nụ cười. Ông nghĩ đến những truyện ma quái lúc thay hình biến thể khi muốn hãm hại học trò. Ông nhớ lại cái cười gằn của oan hồn khi hiện thành người, quất đuôi tóc trần vào mặt ông cho ông hồn mê đi và cầm nghiên mực đổ chan hòa xuống quyển thi. Cái oan hồn ấy đã lên tiếng nói, thề quyết làm cho người sống phải lụn bại mới nghe. Biết đến lúc nào cái người nàng hầu cụ Huấn mới nguôi giận và cái âm oán kia hết đi theo ông... Chuyện cũ của cha, hồi sinh thời đi lại với người ta thật ông cũng chưa rõ hẳn đầu đuôi như thế nào.
 
- Vâng, nhà có thứ mực Kiêu kỵ đấy ạ - cô Phương nhanh nhẩu trả lời ông Đầu Xứ Em.

Choàng tỉnh cơn suy nghĩ, ông đã vội bắt lấy việc mua mực, khuyên em không nên lấy mực Kiêu kỵ:

- Đi thi không ai dùng mực Kiêu kỵ. Mực của xã Kiêu kỵ chế rất tốt, chỉ hiềm mỗi khi viết xuống giấy, nó cắn xuống giấy chắc quá khó tẩy đi lắm. Cô lấy cho mấy thỏi Hoàng tam xương – vàng, nếu hết thứ chữ vàng rồi, cô có thứ chữ bạc cũng được. Cái thứ mực hiệu Diệu tự “nhà ta” bán có được chạy lắm không hả cô...

Chà, người ta ăn nói sao mà xuôi tai, dễ nghe đến thế. Cô Phương nhìn ông Đầu Xứ Anh, nhẩm trong óc mấy chữ “nhà ta”. tưởng đến cái lạc thú ngây thơ của một đôi vợ chồng son kia trong lúc đầu gối tay ấp ngửa mặt lên trần giời cao mà bảo nhau rằng trước khi làm bạn với nhau, mỗi người có một ông giăng, và nay thì mảnh giăng của cả thiên hạ kia cũng chỉ là vầng giăng của riêng của “nhà ta”. Cô vui lòng quá, xuýt quên cả việc soạn thoi mực cho khách.

- Luôn thể cô cho tôi ít chục tờ giấy lịch nữa.

- Mấy chục tờ ạ...

- Cô đợi cho tôi tính xem dùng hết độ ngần nào thì không là thừa phí.

Làm ra bộ thông thạo thì ít, mà muốn tỏ sự thân mật thì nhiều – bao giờ được nên thân tình nữa nhỉ! – cô Phương co tay tính nhẩm những cái gì gì, rồi cô ngấc đầu, vuốt mái tóc, nói với ông Đầu Xứ Em, giọng nhẻ nhót mà tự nhiên:

- Nộp ba quyển: kỳ đệ nhất, kinh nghĩa một quyển bảy tờ, kỳ đệ nhị, thơ phú, một quyển sáu tờ và kỳ đệ tam, văn sách một quyển mười hai tờ nữa, có dày lắm cũng chỉ đến mười bốn tờ là cùng. Ông định mua trữ giấy mang vào trường đề phòng những lúc phải cánh quyển hoặc đổi trang hư hỏng, chỉ nên trữ lấy từng kỳ một.

Ông Đầu Xứ Anh, vừa soi giấy lịch, vừa hỏi:

- Tại sao thế hở cô...

- Thưa, tại…tại là giấy chuyến này, thú thật với hai ông rằng không được mịn lắm. Chuyến sau, có thuyền hàng phường neo về, thế nào cũng có giấy tốt hơn nhiều. Có lẽ kịp kỳ đệ nhị của các ông đấy. Để tôi xem nào.

Cô hàng sách, bán giấy bút cho học trò trường Nam đã mười năm có lẻ, đã không phụ cái tiếng là một người thông thuộc những phong tục nơi trường ốc. Cô Phương lại co tay tính nhẩm một hồi.

Được rồi. Mùng một tháng mười là ngày vào kỳ đệ nhất. Có chóng thì cũng phải hết cữ thượng tuần tháng mười mới có bảng vào kỳ đệ nhị. Phường giấy của tôi thể nào cũng có thuyền về bên trên mom sông trước ngày mùng mười. Đúng cái hôm tết trùng thập cúng cơm mới, các ông lại đây mua mở hàng cho kiện giấy lịch Bưởi. Giờ các ông lấy tạm ít chục tờ dùng đỡ trong kỳ đệ nhất vậy.

Cô đếm giấy, thổi những tờ giấy chập đôi, nâng tờ giấy lên với cái nâng niu nhẹ nhàng của một người chị cả săn sóc em thơ lúc mẹ già đi chợ xa. Chỉ có những người đàn bà đẹp và phúc hậu thì mới thổi được giấy như thế thôi. Cô đếm thành hai xấp, mỗi xấp đâu hai chục tờ, đùn một xấp vào phía ông Đầu Xứ Em, còn cái xấp thứ nhì là lấy sau ở trong ruột tệp khác, cô trao tận tay ông Đầu Xứ Anh, cặp mắt tình tứ linh động như muốn nhắc thầm ông rằng cái xấp sau đây tốt hơn xấp trước, và sự đối xử chênh lệch này trong lúc soạn giấy không phải là do ngẫu nhiên. Ra chiều tin chắc vào cái tài và cái may của hai anh em ông Đầu Xứ thi khoa này, cô hàng sách vẫn lấy cái cười duyên dọn đường cho một câu nói mà ở một cái miệng khác thì không khỏi thành ra thiếu lễ phép:

- Cánh quyển mà dùng bấy nhiêu giấy là nhiều quá lắm rồi. Phải thay quyển, đổi quyển đến quá ngữ giấy này, thì chỉ còn có ngồi mà lắng ba hồi chín tiếng trống ngoại hạn…

Lúc ra về, ông Đầu Xứ Anh, trong một phút sầu hận, đã muốn trả lại cô Phương tập giấy, để thầm bảo cô hay rằng cô đã làm một việc thừa, riêng đối với ông Khoa Ngọ này, ông có đi thi đâu.

… Mấy bữa nay mưa to gió nặng. Nước trên trút xuống, nước ở dưới dâng lên, người thiu và cảnh ướt át sống trong một bầu không khí nồm ê ẩm và lo lắng. Trăm nhà vùng Sơn Nam hạ lại mới nhận được thêm cái tin đê vỡ đường trên vùng Kinh Bắc.

Nằm nghe mưa rơi trên quán trọ xóm Cửa Trường, một đêm nguyệt tận năm Ngọ, ông Đầu Xứ Anh những hết lo xa rồi lại nghĩ gần. “Mình không đi. Chú nó đi khoa này, hay dở sao đây…”. Trong một lúc mơ hoảng ông lại trông thấy bóng người đàn bà mặc đồ trắng, xõa tóc, kiểng gót, thu một đứa trẻ con vào tà áo sổ gấu, đi tuột vào phía nhà ngang. Ông ú ớ như người bị ma mộc đè, cố gắng mà không quẫy mình dậy được. Cái người đàn bà mặc đồ trắng, chân không sát đất, lại lẻn trở ra, và, khi lướt qua mặt ông, cười gằn mà không nghe thấy tiếng, tà áo quất vào má ông, nhức nhối và buốt lạnh như chưa bao giờ cảm thấy.

- Anh nói mê những gì thế...

Ông Đầu Xứ Em lắc mãi, ông mới hoàn hồn, nhìn em một lúc lâu rồi hỏi:

- Chú đã sửa soạn lều chõng đủ cả rồi...

trống đêm cuối thu và đông non điểm bốn tiếng dục. Uống hết một nai rượu để chống lạnh và trừ gió mà nhà trọ đã dọn sẵn từ khuya, ông Đầu Xứ Anh bỏ thêm một đinh vàng vào tráp của em.

- Khi nào thấy “khang khác” trong trường thi, chú đốt vàng cho nhiều vào. Thôi ta đi đi. Anh đưa chú vào đến cửa trường. Đưa tôi cái bộ gọng lều và chõng. Chú đeo lấy ống quyển và tráp, Đi đôi tất vào cho nó ấm.

Đêm mưa dầm vẫn tối như bưng lấy mắt. Hai cái tài hoa anh em kia, cộng lại không được bốn mươi nhăm tuổi đầu, bì bõm dắt nhau đi về phía cửa trường thi. Có tẩm mưa gió và đi đêm như thế này, người ta mới thấy bứơc công danh là một con đường chật vật, nên xét lại xem có nên tiếp tục đi nốt hay không! Giá cô Phương Hàng Giấy có đứng đây mà nhìn này! Ông Đầu Xứ Anh cắn vào môi mà bước. Trong tối tăm, tiếng hơi thở người anh dẫn lối cho người em lặng thinh từng bước một.

Bãi trường thi thấp hơn mặt nền tỉnh. Nước mưa lụt dồn về, cỏ mây chôn ngập lút cả ngọn. Đứng xa trông những cây đình liệu rọi trên bãi cỏ xâm xấp nước, người không có chữ tưởng đâu như dân cả một làng chài nào đó đốt đuốc là nghề trên bãi nước. Càng tiến gần lại trường, người ta có những cảm tưởng rùng rợn như khi chịu bó tay đứng nhìn một đám cướp lớn bật lửa hồng phá nhà lấy của trên xóm trên, trong những ngày lụt lội ở xứ bị thuỷ tai, quân cướp toàn đi bằng thuyền. Cái tiếng mắt nứa nổ to ở cây đình liệu cháy sáng, có khác gì cái tiếng quân hồi vô lệnh đốt ống lệnh bật hồng của phường đạo tặc.

… Ông Đề Điệu đã leo lên ghế chéo. Một người lính thể sát bắc ống loa, lia ống loa qua lại. Giọng loa hô:


“ - Báo oán giả tiên nhập;

“- Báo ân giả thứ nhập;

“- Sĩ tử thứ thứ nhậ…ập”

(“Những oan hồn báo oán vào trước;

“Những oan hồn báo ân vào sau;

“Các thầy khóa vào sau rốt”)


Tiếng loa đồng xoáy sâu vào màn mưa lạnh. Trời còn tối đất. Ông Đầu Xứ Anh nghe tiếng hô, nhợt nhạt, luôn luôn nhìn trộm em. Người em bây giờ chỉ là một thân cây cột cứng đờ mà sự thi cử đã mắc vào đấy biết đến bao nhiêu là thứ múi dây lòng thòng: dây lều, dây chõng, dây buộc bộ gọng, ống quyển v. v… Cùng với ngàn ngàn người khác, hai anh em đứng nghểnh mãi cổ lên, kiểng mãi người lên như muốn nhìn rõ mặt người lại phòng xướng danh. Đã lâu chôn chân xuống bãi sũng nước, lòng dạ người người đều bàng hoàng. Bỗng ông Đầu Xứ Anh dun mạnh người em:

- Kia… làng Cổ Nguyệt! Tên chú! Vào đi.

Trời sáng tỏ đã từ lâu. Cái hàng rào sĩ tử có đủ các hạng tuổi từ một cái đầu xanh mặt trắng cho đến một chòm tóc bạc, một lớp da mồi, đã bị xé thủng. Ông Đầu Xứ Em lách mình qua rồi, nhưng lều chõng còn vướng mắc lại sau lưng, gỡ mãi mới ra. Nhốn nháo một lúc lâu, cái bể người, đã lấp được chỗ trống của một con sóng người tràn đi, lại bằng phẳng như cũ để chờ đợi một cái đổi dời khác. Ông Đầu Xứ Anh ra về, chỉ hận rằng, lúc tới tấp, quên không dặn lại em nên đốt một lúc cho hết đinh vàng lá trong tráp nếu ở trong trường có thấy “cái gì khang khác”. Dọc đường, ông gặp một toán lính khố xnah đội nón đĩa, nai nịt súng ống gọn ghẽ. Người ta bảo đấy là bọn lính nhà nước phái thêm vào trường giữ trật tự.

… Ông Đầu Xứ Em dựng lều, dọn chỗ ngồi dự thi giữa sự giằn dỗi của trời đất. Mưa to gió lớn trên một trường thi. Cứ thế mãi mãi, cho đến qua giờ ngọ, cho đến quá giờ mùi. Vậy mà xưa nay người ta vẫn bảo mưa không qua ngọ gió không qua mùi. Sĩ tử khắp bốn vị ất giáp tả hữu, co ro trong lều dột, thật đã coi tính mạng mình không quý bằng quyển thi chỉ luôn muốn những chuyện tì ố. Chốc chốc cái loa đồng ngoài cửa trường lại kêu inh ỏi gọi các tư gia ai có thùng gỗ hay thùng sắt tây thì cho đem vào trường bán cho học trò kê quyển viết và độn thêm lều chõng ngồi.

Cái bản nháp viết xong lâu rồi mà quái lạ, hễ cứ động ngòi bút lên mặt quyển là ông Đầu Xứ Em lại thấy đau bụng, đau quằn quại tựa chứng hoắc loạn cứ như giùi vào từng miếng tì vị. Ông cựa quậy nhiều lắm, vừa ôm bụng, vừa giữ ống quyển. Cái chõng tre đặt trên bãi cỏ ngập lún xuống lần lần. Giữa hai cơn đau bụng, những lúc trời ngớt mưa, từ khu nhà thập đạo, vẳng về lều ông những tiếng sĩ tử kêu nài: “Lạy các quan, còn chỉ có một khoa thi này, xin các quan thương cho anh em được đổi quyển. Trời mưa ướt lấm, anh em có muốn như thế làm gì…”

Thấy ở một vài lều chung quanh có khói lửa và tàn vàng bay ra, ông Đầu Xứ Em sực nhớ đến đinh vàng cất trong tráp, bèn lấy ra gỡ từng tờ một xếp ngay ở đầu mép chõng, một tay chận cơn đau nơi bụng dưới, một tay châm mồi lửa bùi nhùi. Gió thổi vào đống lửa vàng hóa bùng bùng, lửa kêu vù vù. Trong tiếng ngọn lửa reo, lại như có tiếng người nói cười lanh lảnh. Khói bốc lên, khói trụt toả xuống soai soải, những vệt nước thời gian trượt từ đầu ngọn tường xuống vách gạch những đền chùa xưa cũ có mốc vẽ hình có rêu phong dấu. Những vờn khói nhẹ đổ xuống nhanh, đổi màu rất nhanh chóng. Trước mắt ông Đầu Xứ Em mê mệt và hoảng hốt, những vờn khói - thoảng mùi gây gây, khen khét, và tanh lợm - bỗng sẫm hẳn lại thành một mớ tóc xõa u hiển đóng khung lấy một khuôn mặt người. Lửa vàng gần lụn, vụt bùng lên. Trời đất tối sầm xuống. Ông Đầu Xứ Em thấy bãi trường thi hình như nó rộng lớn hơn cả cái kiếp người. Trường thi âm u và không quạnh. Gió thổi bay quyển thi xuống làn cỏ dầm nước. Ông Đầu Xứ Em gắng nhoài người ra, muốn vớ lấy quyển bị gió vừa thổi bốc khỏi mặt tráp. Ông hụt tay, chỉ đủ giữ mình khỏi ngã. Cơn đau bụng trở nên dữ dội. Ông gụt xuống tráp, thiếp dần. Ông Đầu Xứ Em tỉnh giấc, thấy trong người nhẹ hẳn, tưởng chừng như cơn đau dữ dội ban nãy chỉ là một cơn ác mộng. Ông bỡ ngỡ, mất hết cả ý thức về thời gian và không gian. Ông ngơ ngác trước hoàng hôn như một người còn ngái ngủ ngày. Từ một chòi cao, người ta đã điểm mau hồi trống ngoại hạn.

Ông Đầu Xứ Anh đã đón ở cửa trường. Bỏ lại cả lều và chõng, cầm chỉ vỏn vẹn có một bản nháp, ông Đầu Xứ Em đã rời bước trong một giấc thẩn thờ. Hai anh em gặp nhau không nói một câu nào suốt từ cửa trường về đến nhà trọ.

Tại nhà bà Phùng, ở mâm cơm tay đôi ấy, có một người hỏng thi khoa thi chữ Hán cuối cùng đã uống cạn ba bình rượi cúc, vào một đêm dài nhất trong đời người.
 
Ngày xưa ba anh em nhà kia, nghèo quá, nghèo đến nỗi bố chết, không góp đủ tiền mua nỗi chiếc áo quan cỗ tạp.

Ba anh em phải bó di-hài bố vào trong một cái chiếu cũ rồi chờ tối khuya mới dám đốt đuốc vác mai khiêng bố ra đồng, vì chôn ban ngày ban mặt sợ làng xóm trông thấy người ta chê cười.

Tha-ma thì xa, mà ba anh em thì cùng đói cơm, gầy còm, ốm yếu nên đi được một quãng lại phải đặt bố xuống để thở.

Một lát sau, anh Cả khiêng đằng đầu vui mừng bảo anh Hai và anh Ba:

- Thầy linh thiêng quá, hai chú ạ, thầy thấy chúng ta yếu đuối nên nhẹ bỗng hẳn đi, tôi tưởng như khiêng chiếu không thôi, chú ạ.

Anh Hai khiêng đằng chân cũng cười, nói:

- Ờ nhỉ, như không có gì nữa, bác ạ.

Còn người em út cầm đuốc thì chẳng nói gì, cứ việc nhẩn nha rọi đường cho hai anh đi.

Kỳ thực thì không phải vì người chết linh thiêng mà vì cái thây đã rơi tụt xuống đất từ lúc nào, nhưng hai người khiêng mệt nhọc quá nên chẳng biết gì cả.

Thế rồi ba anh em đi đến tha ma đào huyệt chôn bố nghĩa là chôn cái chiếu không có xác bố nằm trong.

Lúc trở về, một cơn gió mạnh làm tắt mất đuốc. Nhưng không sao, đường trong làng ba anh em đã quen thuộc lắm, lần mò mà đi cũng được. Bỗng người em út vấp phải một vật răn rắn, bèn cúi xuống sờ soạng rồi kêu to bảo hai anh:

- Cái thây ma hai anh ạ. Lạnh quá đi mất thôi.

Hai anh cùng xuống rờ:

- Ưø, cái thây ma thực?

Giá đuốc không tắt thì ba người đã nhận thấy cái thây ma đó chính là bố mình.

Anh Cả ngậm ngùi bảo hai em:

- Chả biết ai mà lại chết đường chết xá thế này nhỉ!

Anh Hai cũng buồn rầu nói:

- Chắc người ta ngộ gió, xa cửa xa nhà nên mới chết bỏ xác ở giữa đường như thế này.

Anh Ba bàn:

- Thương hại quá nhỉ! Hay anh em ta chôn làm phúc?

- Phải đấy! Chôn làm phúc.

Tức thì ba anh em xúm lại khiêng cái tử thi, rồi chôn vùi ở một cái gò nhỏ bên đường.

Chiều hôm sau ba anh em ra đồng viếng mộ thấy mả bố vẫn dẹt đét, còn mả của ai bên đường không biết thì mối xông đùn lên cao ụ. Ba người cũng không ngờ rằng đó là mả mình chôn làm phúc tối hôm trước vì đêm khuya không đèn không đóm chôn vội chôn vàng thì sáng ra còn nhớ chỗ nào vào chỗ nào nữa...

Đêm hôm ấy anh Cả thấy con rồng vàng về báo mộng rằng:

-“ Ông Cả ơi! Ông để nhầm mả bố ông vào chính giữa hàm tôi, làm tôi đau lắm không chịu được. Tôi van ông, ông chạy đi nơi khác cho. Tôi có bao nhiêu vàng bạc xin biếu ông tuốt, để đền ơn ông.

Sáng dậy anh Cả thấy gian nhà chật hẹp của mình đầy ních những thỏi vàng, thỏi bạc sáng nhoáng. Anh ta vội vàng cất ráo cả đi vào một nơi kín, rồi xăm xăm ra đồng chạy mả bố nhích sang một bên. Anh ta không bàn với anh em, sợ chúng hỏi vặn vì cớ gì mộ cha vừa yên đã chạy ngay như thế. Giấu diếm không xong, mà nói thật lại phải chia bạc cho hai em, rất là không nên.

Nhưng đêm hôm sau, con rồng vàng lại về báo mộng cho anh Hai, vì thật ra anh Cả đã chạy mả bố đâu, anh chỉ mới chôn lại cái chiếu mà anh tưởng có gói thây bố mình. Con rồng vàng về báo mộng rằng:

-“ Ông Hai ơi, ông để nhầm mả bố ông vào chính giữa hàm tôi, làm tôi đau lắm không chịu được. Tôi van ông, ông chạy đi nơi khác cho. Tôi hết cả vàng bạc rồi chỉ còn kim cương châu báu thôi, tôi xin biếu ông tuốt để đền ơn ông.”

Sáng sớm anh Hai mở bừng mắt nhìn ra thấy chói lòe, vì gian nhà chật hẹp, tồi tàn của anh có đầy ánh hào quang rực rỡ tưng bừng của kim cương, châu báu. Anh ta vội cất ráo cả đi vào một nơi thật kín rồi hấp tấp chạy ra đồng đào phắt mả bố lên chôn xích cái chiếu sang một bên, cũng như anh Cả, anh ta tưởng cái chiếu ấy có gói thi thể bố mình ở trong.

Xong xuôi, anh ta trở về nhà hí hửng mừng thầm định bụng sẽ bán kim cương châu báu đi để tậu ruộng thật nhiều, dựng nhà thực đẹp thực to.

Đến lượt anh Ba thấy con rồng vàng về báo mộng vì mả chưa chạy thì hàm nó còn đau. Nó báo mộng rằng:

- “Ông Ba ơi, ông để nhầm mả bố ông vào chính giữa hàm tôi, làm tôi đau đớn lắm không chịu được. Tôi van ông, ông chạy đi nơi khác cho. Tôi hết cả vàng bạc, kim cương, châu báu rồi, chỉ còn mỗi một lọ nước này tôi xin biếu để đền ơn ông. Nước trong lọ quí lắm đấy, sau này ông sẽ dùng được nhiều việc rất lạ.”

Sáng dậy anh Ba không thấy gian nhà chật hẹp tồi tàn của mình đầy ních những thỏi vàng thỏi bạc sáng nhoáng hay rực rỡ tưng bừng ánh kim cương, châu báu. Anh ta chỉ thấy ở giữa nhà có cái lọ sành đóng nút. Bèn đến mở nút ghé mũi ngửi thì, giời ơi! Mùi thơm sực nức xông ra khắp nhà, lại văng vẳng trong mùi thơm có tiếng đàn tiếng địch véo von réo rắt. Anh ta đậy vội nút lại, tức thì tiếng âm nhạc ngừng bặt.

Anh Ba mỉm cười lẩm bẩm:

- Nước quái gì mà lại biết đàn biết hát thế này! Hãy cất đi đã vì con rồng vàng nó bảo sau này dùng được nhiều việc.

Anh ta bèn đặt lọ nước vào cái quang treo lên xà nhà rất là cẩn thận. Rồi nhớ đền lời con rồng vàng nhờ giúp, anh ta vác mai đến bãi tha ma để chạy nhích mả bố ra khỏi hàm nó chẳng nó kêu đau tội nghiệp!

Nhưng cũng như hai anh trước, anh Ba chỉ chôn lại cái chiếu, còn mả bố thì vẫn táng ở hàm con rồng như cũ.

Trong khi anh Ba đi chạy mộ cho cha, thì chị Ba ở ngoài về, trông thấy cái lọ treo lủng lẳng trên xà nhà. Chị ta bật cười nói một mình:

- Lẩm cẩm quá đi mất thôi! Chẳng biết lọ gì mà nó treo lên đây thế này?

Bèn lấy xuống mở nút, rồi chẳng buồn ghé mũi ngửi, chẳng kịp lưu ý đến tiếng địch bay ra, chị ta vội rút tay ra nguyền rủa:

- Rõ nỡm ở đâu á! Tưởng có gì lạ, té ra đựng rặt nước mưa là nước mưa, mà lạnh chết đi được.

Nhưng chị Ba kinh ngạc nhìn bàn tay cổ tay trắng muốt như mới lột da!

- Ôi, nước gì quí thế này!

Chị ta vui sướng quá, bê tấp lọ nước ra sau nhà rồi tắm gội kỳ cọ từ đầu đến chân. Tức thì chị ta trở nên một nàng tiên lộng lẫy, da trắng như ngà, tóc óng như mây, mắt phượng mày ngài, chân tay nhỏ nhắn xinh xẻo.

Liền đấy có một luống hành. Những cây hành được nước tắm ở mình của chị Ba chảy vào gốc, lớn vụt ngay lên, lá dài bằng đòn gánh, củ to bằng cái bình vôi.

Anh Ba ở tha ma về thấy mất lọ nước quý lại nghe có tiếng bì bõm ở sau nhà, liền chạy ra xem. Lúc ấy chị Ba vừa dốc cạn lọ nước. Anh Ba toan mắng vợ nhưng nhìn thấy vợ xinh đẹp quá anh ta lại thôi.

Từ đấy, anh ta chỉ suốt ngày ngồi ngắm nghía vợ chẳng thiết đi làm ruộng, làm nương để kiếm ăn nữa. Vợ trách móc mãi anh ta mới chịu vác cuốc vác cày ra đồng. Nhưng chốc chốc anh ta lại quay về nhà ngắm vợ, chẳng làm nên khoai nên ngô gì cả.

Vợ giận vợ khóc. Anh đâm hoảng, bèn nghĩ ra một cách: anh ta lấy một cái mo cau trát vôi thực trắng, thực mịn rồi vẽ dung nhan vợ lên tranh. Khi ra đồng làm lụng, anh ta cầm cái mo cau ở bên cạnh để mà ngắm nghía ảnh vợ cho đỡ nhớ.

Qua một tháng, vợ mỗi ngày một đẹp thêm, mà cây hành mỗi ngày một lớn hơn. Vợ với hành, anh ta cho là cái khoái nhất trên đời.

Một hôm, anh ta đương trồng ngô, thấy một con quạ cứ sán lăn đến bới, để nhặt những hạt anh ta vừa mới vùi. Anh ta tức mình quá cầm viên gạch lia trúng chân quạ. Nó đau quá kêu ầm lên và bay đi mất. Anh Ba đắc chí cười ha hả. Nhưng chỉ lát sau, con quạ trở lại liền bay xả xuống cướp cái mo của anh Ba: nó đã lập tâm trả thù anh.

Mà nó trả thù được thực. Nó bay tít đến kinh đô, liệng hai, ba vòng trên cung điện nhà vua, rồi chờ khi vua ra sân rồng, nó bỏ rơi cái mo cau xuống. Vua nhặt lên xem thấy có họa dung nhan một người đàn bà cực kỳ xinh đẹp, thì lấy làm kinh ngạc, tấm tắc khen thầm: “Quái! Sao có người đẹp đến thế này!”

Vua bèn hạ lệnh cho đòi thợ truyền thần vào cung để vẽ lại hình người đàn bà đẹp lên trên một trăm cái mo cau khác, rồi giao cho một trăm sứ giả mang theo đi khắp trong nước để tìm cho bằng được người ấy rước về làm cung phi mới nghe.

Chẳng bao lâu sứ giả hỏi thăm lần được nhà anh Ba và bắt nghiến chị Ba đem về dâng vua. Vua sung sướng, cất ngay chị Ba lên chức Tây cung hoàng hậu rồi ban yến tiệc cho bá quan văn võ trong suốt mấy ngày đêm.
 
Trong khi ấy thì ở gian lều chật hẹp tồi tàn anh Ba nhớ vợ đẹp ngồi khóc y ỷ, chẳng thiết gì đến công việc đồng án nữa. Trông thấy những cây hành lá dài bằng đòn gánh củ to bằng bình vôi, anh ta càng khóc to, và anh ta nghĩ thầm: “Đem bán quách đi thôi, chứ để luống hành lại, mình chỉ tổ nhớ đến vợ!”

Anh ta bèn xếp một gánh nặng trĩu tuy mỗi bên quang chỉ có năm củ hành thôi rồi quẩy đi rao bán:

“ Dọc bằng đòn gánh

“ Củ bằng bình vôi.

“ Ai mua hành tôi

“ Thời thương tôi với!”

Rao mãi chẳng có ai mua, người thường ai dám dùng thứ hành ma quái ấy, anh ta bèn gánh đến kinh đô để bán.

Bấy giờ vợ anh ta đang ở trong cung. Tuy đã lên làm Tây cung hoàng hậu mà chị ta vẫn thường nhớ chồng cũ chẳng sao khuây khỏa được. Hôm mới bị bắt, chị ta gào khóc thảm thiết. Vua phải dỗ mãi chị ta mới nín. Nhưng từ đấy, chị ta như ngây như dại, như câm như điếc và cả ngày chẳng buồn hé môi dù chỉ để mỉm một nụ cười.

Vua thấy thế lấy làm khổ tâm lắm, vì ngài chỉ muốn được ngắm cái cười nghiêng thành của Tây cung hoàng hậu. Ngài đã sai sứ giả đi khắp trong nước bắt hết các vai hề có tiếng về làm trò để Tây cung hoàng hậu xem. Nhưng Tây cung hoàng hậu vẫn chẳng cười. Ngài bèn xuống chiếu truyền rằng:

“ Trong bàn dân thiên hạ, bất cứ người nào hễ làm cho Tây cung hoàng hậu cười một tiếng thì tức khắc được cất lên chức thượng thư”.

Ngày hôm sau, ở khắp các nơi, từ thành thị cho chí thôn quê người ta kéo về kinh đô như nước chảy để tranh giành chức thượng thư. Vì không cần học rộng tài cao, sôi kinh nấu sử chỉ cốt làm hề khéo léo là được nhảy lên ngồi ghế thượng thư ngay thì ai mà không háo hức. Nghe đâu, trong bọn có cả mấy ông trưởng giả giàu xụ gánh tiền nghìn bạc vạn về kinh để toan chạy chọt vì họ tưởng chỉ đút lót quan thái giám trình Tây cung hoàng hậu cười cho một cái là mình thành thượng thư liền.

Song không những Tây cung hoàng hậu vẫn không chịu cười mà nghe bọn kia làm trò hề, ngài lại càng bực mình thêm.

Giữa lúc ấy, ở ngoài phố lanh lãnh có tiếng rao:

“ Dọc bằng đòn gánh,

“ Củ bằng bình vôi,

“ Ai mua hành tôi,

“ Thời thương tôi với”.

Nhận được tiếng chồng, chị vợ sung sướng phá lên cười. Vua cùng văn võ bá quan kinh ngạc, bọn người dự thi trò hề đều thất vọng, thì thấy khi mình nhăn mặt nhăn mũi, khoa chân múa tay, hoàng hậu vẫn không nhích mép, thế mà đến lúc mình không làm gì cả thì tự nhiên ngài lại bật lên cười.

Vua truyền quân lính ra xem ai rao. Tức thì quân lính lôi anh Ba với gánh hành của anh ta vào. Vua mới bảo anh ta rằng:

- Trẫm tốn biết bao công của mà vẫn không làm cho hoàng hậu cười được, nay ngươi chỉ rao mỗi một câu đủ khiến cho hoàng hậu cười rất to rất vui. Vậy ngươi có phép gì lạ thế, tâu ngay với trẫm rồi trẫm ban thưởng cho.

Anh Ba đặt gánh tâu bày:

- Bẩm đức vua, con cũng không biết tại sao bà hoàng hậu nghe con rao lại cười như thế.

Vua phán:

- Vậy ngươi thử rao lại xem nào.

Anh Ba vâng lời đặt gánh lên vai rao to:

“ Dọc bằng đòn gánh,

“ Củ bằng bình vôi,

“ Dọc bằng đòn gánh,

“ Củ bằng bình vôi,

Tức thì vợ anh ta lại cười, cười chảy cả nước mắt nước mũi ra. Và chị chàng chỉ trông thấy mặt chồng cũng đủ vui sướng cười ngất rồi, có cần gì phải chồng rao mới cười. Nhưng vua cứ tưởng củ hành to tướng kia có phép lạ, bèn bảo anh hàng hành:

- Trẫm thử thay đổi quần áo với ngươi xem.

Rồi vua cởi áo trào, cởi xiêm rồng, tháo mũ vàng đưa cho anh Ba mặc và truyền anh Ba lên ngồi trên ngai cùng với Tây cung hoàng hậu, còn mình thì mặc bộ quần áo nâu của anh ta vào người, quẩy gánh hành của anh ta lên vai rồi rao lớn:

Ai mua hành tôi,

Thời thương tôi với

Ai mua hành tôi,

Thời thương tôi với.

Anh hàng hành nghe rao liền quát:

- Tên nào dám hỗn hào gánh hàng vào bán trong cung điện nhà vua. Quân lính đâu đem chặt cổ nó cho ta.

Tiếng dạ ran. Quân lính kéo ồ vào điện anh hàng hành giả hiệu đem chém ngay trước sân rồng không kịp phân giải.

Thế là anh Ba lên làm vua, và vợ anh ta thì làm hoàng hậu.
 
Nhìn bó hoa. Lần này, trong ánh nắng xiên từng sợi vàng óng ánh li ti bụi mờ, Trung dường như cảm nhận được mùi hương dịu nhẹ theo gió lan tỏa vào đầu giường. Làn hương ấy hoang hoải quen thuộc khiến Trung thấy nhớ lại những ngày đã qua.

Thi thoảng người ta cần một cái cớ

Để tự an ủi rằng mình không cô đơn...

Trung thức dậy và nhìn thấy trên mé bàn làm việc gần cửa sổ một bó hoa hồng. Những bông hoa đỏ mịn màng ánh nhung lên trong vạt nắng xế ngày.

Bó hoa đấy là của ai?

Nếu là của Trung, thì ai là người đặt nó lên bàn?

Nếu chị Ba giúp việc là người đặt nó lên bàn, thì ai là người đã ghé qua nhà tặng bó hoa ấy?

Hay cũng có thể, chính người con gái ấy đã xin phép được lên tận phòng Trung, lựa ngay lúc Trung đang ngủ lu bù sau trận nhậu tất niên, lặng lẽ để lại đóa hoa trên bàn, và cũng như lúc đến, lại lặng lẽ ra về.

Trung đăm đăm nhìn. Có lẽ chỉ là dư âm còn sót lại của giấc mơ nhòe nhoẹt đêm qua, nhắm mắt vào lần nữa và mở ra lần nữa, sẽ chẳng còn thấy hoa đâu. Trung nhắm mắt thiếp đi, rồi mở mắt ra. Bó hoa vẫn còn nằm đó, nghiêng nghiêng mềm mại, ánh dưới nắng. Có lẽ là hoa ai đó tặng anh bạn phòng bên, nhưng đưa nhầm sang phòng Trung. Nhưng rõ ràng Trung nằm ngay đó, nếu cô gái nào đó, có vào nhầm phòng, thì ngay lập tức có thể nhận ra và sửa chữa sai lầm ấy.



Hôm nay đâu phải ngày gì đặc biệt? Một ngày cuối năm bình thường hơn cả bình thường. Không phải ngày lễ. Không phải sinh nhật. Mà dù cho có phải đi nữa, chưa ai trong số các cô gái Trung từng quen biết có thói quen tặng hoa cho đàn ông. Hay là của một thằng bạn nào rỗi việc, muốn trêu đùa Trung? Cuối năm thằng nào thằng nấy bận bù đầu, nếu có rảnh thật, có lẽ chúng nó sẽ mua hoa đi tặng bạn gái, thay vì mất thời gian vô bổ với Trung như thế này.

Trung miên man nhìn bó hoa, trong tư thế nằm nghiêng vùi nửa mặt vào gối - chiếc gối mềm nồng mùi rượu và hơi đàn ông rất-riêng-tư, đến độ, chưa có cô gái nào trong đời Trung được phép ngả đầu lên. Toàn thân uể oải dễ chịu, hoàn toàn thả lỏng, có cảm giác rượu đã làm cho máu huyết trong người chảy ngược chảy xuôi dễ dàng hơn. “Anh uống rượu cho nhiều vào. Rồi chết sớm đi cho em nhờ!”, Thanh đã nói với Trung như thế, khi Trung gục đầu xuống bàn, khóc âm thầm đúng kiểu bất lực khi biết chẳng thể níu kéo nổi một thứ tựa tình yêu kéo dài ba năm. Phụ nữ luôn như thế, sâu sắc trong sự giản đơn, Thanh nhìn Trung đầy chán chường, vì thất vọng một người đàn ông đã từng rất mạnh mẽ, lại trở nên say sưa vô độ. Cho đến bây giờ, chẳng còn dịp nào, mà cũng chẳng có lý do nào để Trung nói với Thanh rằng: rượu, cũng như nước mắt, chỉ là một cái cớ để người ta trở nên yếu mềm hơn. Một cái cớ.

Hay là Thanh?

Trung bật cười trước chính suy nghĩ của mình. Thanh có lẽ đã quên Trung lâu rồi. Chưa kể nàng đang sống ở Đà Lạt. Không cô gái nào lặn lội một quãng đường xa chỉ để tặng một bó hồng cho anh chàng người yêu cũ, bây giờ vẫn đang cần mẫn bóc từng ngày lịch của đời độc thân vô lo.

Hay là Thảo? Cô thư ký của văn phòng làm việc ngay ở lầu dưới? Mỗi lần Trung đi ngang qua để lên phòng, Thảo vẫn nhìn Trung cười rất tươi. Hai đứa có đi cà phê đôi ba lần. Song chẳng đâu vào đâu. Nhưng, trong tâm tưởng miên man của mình, Trung tin rằng, chỉ có Thảo là cô gái duy nhất dễ dàng vượt qua được sự “kiểm soát” gắt gao của chị Ba giúp việc vốn tính thẳng ruột ngựa, chẳng nể nang ai bao giờ, để lên phòng Trung mà đặt bó hoa.

Biết đâu cô ấy đã nhìn mình một lúc lâu trước khi rời phòng? Trung thoáng đỏ mặt, thói quen rất phụ nữ ấy, lại khiến bao nhiêu phụ nữ xiêu lòng. Trung chưa bao giờ được nhìn thấy chính mình trong lúc ngủ say, ở một tư thế không thể che giấu sự thiếu thốn tình cảm và thèm khát một thân người nóng ấm, mềm mại, dịu dàng kề bên. Thảo đã nhìn mình như thế thật sao? Trung thấy mặt mình nóng thêm. Từ trước đến giờ, đối với mọi người, Trung bao giờ cũng cố chứng tỏ sự thoải mái phóng khoáng hết sức của cuộc sống đàn ông độc thân, chưa muốn bị ràng dây, cắt cánh; cho đến lúc cô gái nào đó, nhìn thẳng vào Trung trong cơn ngủ mê, thẳng thắn và trơ lộ ra mọi sự yếu đuối bình thường của con người, của tâm hồn, của những ước ao.



Nhưng Thảo không thích hoa hồng. Đã có lần cô nói với Trung: “Hoa hồng chỉ là thứ phù du bên ngoài của tình yêu. Mau tàn và còn hay bị cưỡng ép đông lạnh đến rũ cả cuống!”. Trung chưa bao giờ tranh cãi điều này, với bản tính nhường nhịn vốn có, Trung chỉ cho phép mình tranh cãi về những vấn đề Trung xem là quan trọng, và chỉ với người Trung thương mến.

Nhìn bó hoa. Lần này, trong ánh nắng xiên từng sợi vàng óng ánh li ti bụi mờ, Trung dường như cảm nhận được mùi hương dịu nhẹ theo gió lan tỏa vào đầu giường. Làn hương ấy hoang hoải quen thuộc khiến Trung thấy nhớ lại những ngày đã qua. Cuộc tình ba năm, Trung đã bao lần tặng hoa cho Thanh – bó hoa kết bằng hồng và lan, xen lẫn với lưu ly và lá thủy tùng – tràn ngập yêu thương và lãng đãng giữa một xứ sở lạnh đầy hoa. Những nụ hôn vụng trộm đâu đó bên chái nhà, men bên rừng thông, tan vào trong hơi ấm của sương non. Những khoảnh khắc ôm nhau thật chặt trong tay, tưởng như đôi lứa là điểm ấm áp duy nhất giữa Đà Lạt lạnh và buồn. Lúc ấy, Thanh nói: “Đời em chỉ cần có mình anh!”.

Rời khỏi không gian yêu đương giá lạnh, xuống thành phố phẳng lì trơ trụi toàn cao ốc, “Đời em chỉ cần có mình anh” trở nên lạc lõng và ngại ngần. Ở đây, người ta không yêu nhau vụng trộm bằng những nụ hôn đầy sương và những đóa hoa còn rỉ nhựa đầu cành. Đến khi Trung hoàn toàn ổn định và dứt khoát, nắm chặt đôi tay mềm bé nhỏ của Thanh trong tay mình, nói được lời nói sâu tận cùng của người đàn ông cần tình yêu, và thèm khát một mái ấm thực sự: “Đời anh chỉ cần có mình em!”; thì Thanh, bằng một cử chỉ nhẹ nhàng kiên quyết, rút tay ra: “Đây không phải là Đà Lạt anh biết không?”.

Trung chưa bao giờ thấy hối tiếc vì mình đã xa rời thành phố buồn lặng và thơ mộng đến lạnh lẽo ấy, nhất là, nhờ chuyến đi xa đó, Trung nhìn lại rõ hơn một mối tình quá yểu chẳng đủ sức tồn tại, như gốc cây non, đưa sang nơi khác, lập tức tàn lụi đi ngay. Nhưng thi thoảng, trong cuộc sống bộn bề, hay giữa phố ngày cuối tuần các đôi lứa tay trong tay, Trung vẫn da diết nhớ Thanh. Dù sao, đôi bàn tay của em rất mềm, và đôi môi em rất ấm. Đã có ai nói với em như thế chưa?

Nếu có Thanh ở đây lúc này, nàng sẽ bình thản cười: “Anh thử nhớ xem có cô bé nào thầm thương trộm nhớ anh không?”. Trung dụi đầu lần nữa vào gối chăn, hít thở hương thơm ngan ngát cả căn phòng. Những khuôn mặt con gái lần lượt điểm qua trong trí nhớ. Cái đầu trống hoác đến lạ lẫm. Cô văn thư ở cơ quan, hay cô bé cộng tác viên của nhà xuất bản? Cô bạn học chung lớp tiếng Hoa buổi tối, hay cô bé nào trong câu lạc bộ thơ văn vẫn gặp nhau dăm bữa nửa tháng một lần? Không ấn tượng. Không kỷ niệm. Chỉ là mơ hồ hoài nghi.

Hơi rượu còn nồng váng vất. Trung dứt khoát trở mình đứng dậy, xuống nhà dưới, đem theo đóa hoa, bỏ lại sau lưng cả một gian phòng đang bề bộn xô xệch chăn gối, sách vở.

Chị Ba đang ngồi nhặt rau, nhìn Trung đầy thương cảm: “Hôm qua tưởng chú chết ngoài đường rồi chớ! Về đến nhà là quăng xe lăn đùng ra, chị với thằng Hải phải lôi mãi mới lên được tới phòng”. Trung gượng cười, tay giơ bó hoa ra: “Chị ơi, ai đặt bó hoa này lên phòng em?”. Chị có tật đãng trí, gục gặc đầu: “Chị chớ ai!”. “Vậy ai đến đưa hoa cho em?”. Chị lại gục gặc thêm lúc nữa, điệu bộ khổ sở: “Hình như là một ông chạy xe ôm, đến đưa hoa rồi đi liền hà!”. Trung ngớ người. Chẳng còn thiết ăn uống gì nữa. Trung quay trở lên phòng, mặc kệ chị Ba hớt hải gọi sau lưng: “Không ăn cơm thì chết làm sao. Thằng kia!”.

Nằm trên giường, vắt tay ngang trán, Trung tự rủa mình. Có lẽ độc thân lâu quá nên mắc chứng hoang tưởng về sự đào hoa của mình cũng nên. Trời! Chỉ trong một quãng nằm ườn trên giường, với cảm hứng từ bó hồng chẳng biết nguồn cơn, Trung có thể nhớ đến bao nhiêu cô gái, phần lớn là đã từng quan trọng, hoặc chẳng quan trọng gì trong đời. Một duyên cớ vô nghĩa lý hết sức!

Điện thoại rung nhẹ báo tin nhắn. Hay là... Trung tự dưng thấy mình ngớ ngẩn hết sức khi hồi hộp lần mở tin nhắn. Tin của một thằng bạn ở quê: “Bọn khốn. Hôm nay sinh nhật ta mà chẳng thằng nào thèm nhớ. Chán đời quá!”. Nghĩ thế nào, Trung lại nhảy phốc xuống giường.

“Chị ơi, chị chịu khó nhớ kỹ lại giùm em người đem tặng bó hoa có dặn gì không?”. Chị Ba, vẫn với cung cách gục gặc đến sốt ruột, hết lắc đầu, lại ậm ừ. Độ chừng mươi phút sau, ra chiều vận dụng hết khả năng trí nhớ, chị nói vẻ dè dặt: “Không nhớ chắc, nhưng hình như có nghe người ta nói loáng thoáng... ơ... sinh nhật... hay là du lịch gì đó...”. Mặc chị Ba ngơ ngác, căn vặn: “Có chuyện chi mà chú hỏi rát vậy?”. Trung thử xâu chuỗi lại: thằng bạn, sinh nhật, du lịch, bó hoa... Cũng sau khoảng mươi phút đăm đăm, Trung chợt nhớ ra, trong một lần thằng bạn từ quê lên thành phố chơi, hai đứa đã cùng đăng ký đi tour ở một công ty dịch vụ lữ hành, đăng ký ngày tháng năm sinh, và địa chỉ tại chỗ Trung ở bây giờ. Hôm nay là ngày sinh nhật của nó, công ty áp dụng chiêu bài gửi tặng hoa lấy lòng khách hàng.

Trung ngồi thơ thẩn bên bàn làm việc. Trời đã xế chiều. Nắng và gió nhẹ. Bó hồng dịu dàng lan tỏa mùi hương ngai ngái cuối mùa. Chẳng hít sâu, mà sao bất chợt Trung thèm được thở dài. Phải. Một hơi thật dài. Một cái cớ để tự cười buồn cho kẻ giàu trí tưởng tượng thiếu vắng tình yêu.
 
Nhà văn Liên Thục Hương

Nhà văn Liên Thục Hương lấy bút danh là Liên Gián khi viết truyện, tản văn, tiểu thuyết, các truyện dài kỳ trên các chuyên mục báo tuần Trung Quốc.

Hiện Liên Thục Hương sống ở Thanh Đảo, là nhà văn tự do, hiện giữ các chuyên mục văn chương tình yêu trên tạp chí thời thượng. Đến nay Liên Thục Hương đã viết lượng bản thảo lên tới hơn hai triệu chữ, bà thú nhận là vì bà thích được nhận những khoản nhuận bút lớn một chút.

“Chuyện tình đầy nước mắt” được đăng trên tạp chí “Gia đình” (Trung Quốc) năm 2002 và lên mạng vào ngày 8/12/2003. Ngay sau khi được đăng giống như tác phẩm “Mẹ Điên” của Vương Hằng Tích, nó được xếp vào dạng “ký lục – bút ký ghi chép” và sau khi lên mạng đã được lưu truyền khắp nơi, được hàng triệu bạn đọc yêu thích.

Năm 2004, “Chuyện tình đầy nước mắt” đã được dựng thành phim ngắn và “được” nhiều bạn viết ưu ái đạo văn, đạo văn ý tưởng cũng như đạo cốt truyện.

o0o

Những hiểu lầm vô tình nối tiếp, đã làm vấp những bước chân của hạnh phúc. Khi số mệnh bắt ta trả giá, tất cả đã trở nên muộn màng. Đây là một câu chuyện có thực và đầy nước mắt.

1. Mẹ ở quê lên


Sau khi kết hôn hai năm, chồng tôi bàn với tôi đón mẹ lên ở chung để chăm sóc bà những năm tuổi già.

Chồng tôi mất cha từ ngày anh còn nhỏ, mẹ chồng tôi là chỗ dựa duy nhất, mẹ nuôi anh khôn lớn, cho anh học hết đại học.

“Khổ đau cay đắng” bốn chữ ấy vận đúng vào số phận mẹ chồng tôi! Tôi nhanh chóng gật đầu, liền đi thu dọn căn phòng có ban công hướng Nam, phòng có thể đón nắng, trồng chút hoa cỏ gì đó.

Chồng tôi đứng giữa căn phòng ngập tràn nắng, không nói câu nào, chỉ đột ngột bế bổng tôi lên quay khắp phòng, khi tôi giãy giụa cào cấu đòi xuống, anh nói: “Đi đón mẹ chúng ta thôi!”.

Chồng tôi vóc dáng cao lớn, tôi thích nép đầu vào ngực anh, cảm giác anh có thể tóm lấy cả thân hình mảnh mai bé nhỏ của tôi, nhét vào trong túi áo. Mỗi khi chúng tôi cãi cọ và không chịu làm lành, anh thường nhấc bổng tôi lên đầu quay tròn, cho đến lúc tôi sợ hãi van xin anh thả xuống. Nỗi sợ hãi hạnh phúc ấy làm tôi mê mẩn.

Những thói quen ở nhà quê của mẹ chồng tôi mãi không thể thay đổi. Tôi thích mua hoa tươi bày trong phòng khách, mẹ chồng tôi sau này không nhịn được bảo: “Bọn trẻ các con lãng phí quá, mua hoa làm chi? Nào có thể ăn được như cơm!”.

Tôi cười: “Mẹ, trong nhà có hoa nở rộ, tâm trạng mọi người cũng vui vẻ”.

Mẹ chồng tôi cúi đầu cằn nhằn, chồng tôi vội cười: “Mẹ, người thành phố quen thế rồi, dần dần mẹ sẽ quen thôi!”.

Mẹ chồng tôi không nói gì nữa, nhưng mỗi lần thấy tôi mang hoa về, bà vẫn không nhịn được hỏi mua hoa mất bao nhiêu tiền, tôi nói, thì bà chép miệng. Có lần thấy tôi xách túi lớn túi nhỏ đi mua sắm về, bà hỏi cái này bao nhiêu tiền cái kia giá bao nhiêu, tôi cứ kể thật, thì bà chép miệng càng to hơn. Chồng tôi véo mũi tôi nói: “Đồ ngốc, em đừng nói cho mẹ biết giá thật có phải đỡ hơn không?”.

Cuộc sống hạnh phúc đã lẳng lặng trôi những âm điệu không êm đềm.

Mẹ chồng tôi ghét nhất là thấy chồng tôi dậy nấu bữa sáng, với bà, làm đàn ông mà phải vào bếp nấu nướng cho vợ, làm gì có chuyện ngược đời đó?

Trên bàn ăn sáng, mặt mẹ chồng tôi thường u ám, tôi giả vờ không nhận thấy. Mẹ chồng tôi bèn khua bát đũa canh cách, đấy là cách phản đối không lời của bà.

Tôi là giáo viên dạy múa ở Cung thiếu niên, nhảy múa đã đủ mệt rồi, mỗi sáng ủ mình trong ổ chăn ấm áp, tôi không muốn phải hy sinh nốt sự hưởng thụ duy nhất ấy, vì thế tôi vờ câm điếc trước sự phản ứng của mẹ chồng. Còn mẹ chồng tôi thỉnh thoảng có giúp tôi làm việc nhà, thì chỉ làm tôi càng bận rộn thêm.

Ví như, bà gom tất thảy mọi túi nilông đựng đồ và đựng rác trong nhà lại, bảo chờ gom đủ rồi bán đồng nát một thể, vì thế trong nhà chỗ nào cũng toàn túi nilông dùng rồi; Bà tiếc rẻ không dùng nước rửa bát, để khỏi làm bà mất mặt, tôi đành phải lén lút rửa lại lần nữa. Có một buổi tối, mẹ chồng tôi bắt gặp tôi đang lén rửa lại bát, bà đóng cửa phòng đánh “sầm” một cái, nằm bên trong khóc ầm ĩ.

Chồng tôi khó xử, sau việc này, suốt đêm anh không nói với tôi câu nào, tôi nũng nịu, làm lành, anh cũng mặc kệ. Tôi giận dữ, hỏi anh: “Thế em rốt cục đã làm sai cái gì nào?”.

Anh trừng mắt nhìn tôi nói: “Em không chịu nhường mẹ đi một chút, ăn bát chưa sạch thì cũng có chết đâu?”.

Sau đó, cả một thời gian dài, mẹ chồng tôi không nói chuyện với tôi, không khí trong gia đình gượng gạo dần. Thời gian đó, chồng tôi cũng sống rất mệt mỏi, anh không biết nên làm vui lòng ai trước.

Mẹ chồng tôi không cho con trai nấu bữa sáng nữa, xung phong đảm nhận “trọng trách” này. Mẹ chồng tôi ngắm con trai ăn sáng vui vẻ, lại nhìn sang tôi, ánh mắt bà trách móc tôi làm không trọn trách nhiệm của người vợ. Để tránh bị khó xử, tôi đành ăn tạm gói sữa trên đường đi làm.

Lúc đi ngủ, chồng tôi hơi buồn trách, hỏi tôi: “Rodi, có phải em chê mẹ anh nấu cơm không sạch nên em không ăn ở nhà?”. Lật mình, anh quay lưng về phía tôi lạnh lùng, mặc kệ tôi nước mắt tủi thân lăn tràn trề.

Cuối cùng, chồng tôi thở dài: “Rodi, thôi em cứ coi như là vì anh, em ở nhà ăn sáng được không?”. Thế là tôi đành quay về ngồi ở bàn ăn ngần ngại mỗi sáng.

Sáng đó, tôi húp bát cháo do mẹ chồng nấu, đột nhiên lợm giọng, mọi thứ trong dạ dầy tống tháo hết ra ngoài, tôi cuống cuồng bịt chặt miệng không cho nó trào ra, nhưng không được, tôi vứt bát đũa (chú thích: người Trung Quốc ăn cháo bằng đũa, không dùng thìa như ở Việt Nam) nhảy bổ vào toa-lét, nôn ọe hết.
 
Những tháng ngày tăm tối

Suốt ba ngày, chồng tôi không về nhà, cũng không gọi điện. Tôi đang giận, tôi nghĩ từ ngày mẹ chồng tôi lên đây, tôi đã cực nhục đủ rồi, còn muốn gì tôi nữa? Nhưng kỳ lạ làm sao, tôi vẫn cứ buồn nôn, ăn gì cũng chẳng thấy ngon, thêm vào đó việc nhà rối ren, tâm trạng tôi cực kỳ tồi tệ. Sau đó, một đồng nghiệp bảo tôi: “Rodi, trông sắc mặt cậu xấu lắm, đi khám bác sĩ xem nào”.

Kết quả khám của bác sĩ là tôi đã có thai. Tôi hiểu ra sáng hôm đó vì sao tôi nôn ọe, trong cảm giác hạnh phúc có xen lẫn chút oán trách, chồng tôi và cả bà mẹ chồng đã từng sinh nở, vì sao họ không hề nghĩ đến lý do ấy? Ở cổng bệnh viện, tôi gặp chồng tôi.

Mới chỉ ba hôm không gặp mặt, chồng tôi đã trở nên hốc hác. Tôi đáng lẽ định quay người đi thẳng, nhưng trông anh rất đáng thương, tôi không nén được gọi anh lại. Chồng tôi nghe tiếng thì nhìn thấy tôi, nhưng làm như không quen biết, trong mắt anh chỉ còn sự căm thù, ánh nhìn ấy làm tôi bị thương.

Tôi tự nói với mình, không được nhìn anh ấy, không được nhìn anh ấy, tôi đưa tay vẫy một chiếc taxi chạy qua. Lúc đó tôi mong muốn làm sao được kêu lên với chồng tôi một tiếng: “Anh ơi, em sắp sinh cho anh một đứa con rồi!” và được anh bế bổng lên, quay tròn hạnh phúc, những cái tôi mơ ước không xảy ra, trên chiếc taxi, nước mắt tôi chầm chậm rơi xuống.

Vì sao một vụ cãi nhau đã làm tình yêu trở nên tồi tệ như thế này? Sau khi về nhà, tôi nằm trên giường nhớ chồng, nhớ đến sự căm thù trong mắt anh. Tôi ôm một góc chăn nằm khóc. Đêm đó, trong nhà có tiếng mở ngăn kéo. Bật đèn lên, tôi nhìn thấy gương mặt đầy nước mắt của chồng tôi. Anh ấy đang lấy tiền.

Tôi lạnh lùng nhìn anh, không nói gì. Anh coi như không có tôi, cầm tiền và sổ tiết kiệm rồi đi. Có lẽ anh đã quyết định rời bỏ tôi thật sự. Thật là một người đàn ông khôn ngoan, tình và tiền rạch ròi thế. Tôi cười nhạt vài cái, nước mắt lại “ồn ào” lăn xuống.

Ngày hôm sau, tôi không đi làm. Tôi dọn lại toàn bộ suy nghĩ của mình, đi tìm chồng nói chuyện một lần cho rõ. Đến công ty của chồng, thư ký hơi lạ lùng nhìn tôi, bảo: “Mẹ của tổng giám đốc Trần bị tai nạn giao thông, đang trong viện”.

Tôi há hốc mồm trợn mắt, chạy bổ tới bệnh viện, khi tìm được chồng tôi, mẹ chồng tôi đã mất rồi. Chồng tôi không nhìn tôi, mặt anh rắn lại.

Tôi nhìn gương mặt gầy gò trắng bệch xanh tái lại của mẹ chồng, nước mắt tôi tuôn xuống ào ạt, trời ơi! Sao lại ra thế này? Cho đến tận lúc chôn cất bà, chồng tôi cũng không hề nói với tôi một câu, thậm chí mỗi ánh mắt đều mang một nỗi thù hận sâu sắc.

Về vụ tai nạn xe, tôi phải hỏi người khác mới biết đại khái là, mẹ chồng tôi bỏ nhà đi mơ hồ ra phía bến xe, bà muốn về quê, chồng tôi càng theo bà càng đi nhanh, khi qua đường, một chiếc xe buýt đã đâm thẳng vào bà...

Cuối cùng tôi đã hiểu sự căm ghét của chồng, nếu buổi sáng hôm đó tôi không nôn, nếu chúng tôi không cãi nhau, nếu như... trong tim anh ấy, tôi chính là người gián tiếp gây ra cái chết của mẹ anh.

Chồng tôi im lặng dọn đồ vào ở phòng mẹ, mỗi tối anh về nhà nồng nặc hơi rượu. Và tôi bị lòng tự trọng đáng thương lẫn sự ân hận dồn nén tới không thể thở được, muốn giải thích cho anh, muốn nói với anh rằng chúng ta sắp có con rồi, nhưng nhìn vào đôi mắt lạnh lùng của anh, tôi lại nuốt hết đi những lời định nói. Thà anh đánh tôi một trận hoặc chửi bới tôi một trận còn hơn, cho dù tất cả đã xảy ra không phải do tôi cố ý.

Ngày lại ngày cứ thế trôi đi trùng lặp, chồng tôi về nhà ngày càng muộn. Tôi cố chấp, coi anh còn hơn kẻ lạ. Tôi là cái thòng lọng thắt trong trái tim chồng tôi.

Một lần, tôi đi qua một tiệm ăn châu Âu, xuyên qua lớp cửa kính trong suốt kéo dài từ trần nhà xuống sát mặt đất, tôi nhìn thấy chồng tôi ngồi đối diện một cô gái trẻ, anh nhè nhẹ vuốt tóc cô gái, tôi đã hiểu ra tất cả.

Ban đầu tôi sững sờ, rồi tôi bước vào tiệm ăn, đứng trước mặt chồng, nhìn anh trân trối, mắt khô cạn. Tôi chẳng còn muốn nói gì, cũng không thể nào nói gì. Cô gái nhìn tôi, nhìn chồng tôi, đứng lên định bỏ đi, chồng tôi đưa tay ấn cô ngồi xuống, và, anh cũng trân trối nhìn tôi, không hề thua kém.

Tôi chỉ còn nghe thấy tiếng trái tim tôi đang đập thoi thóp, đập thoi thóp từng nhịp một từng nhịp một cho tới tận ranh giới tái xanh của cái chết. Kẻ thua cuộc là tôi, nếu tôi cứ đứng thế này mãi, tôi và đứa bé trong bụng tôi sẽ cùng ngã.

Đêm đó, chồng tôi không về nhà, anh dùng cách đó để nói cho tôi biết: Cùng với cái chết của mẹ chồng tôi, tình yêu của chúng tôi cũng đã chết rồi.

Chồng tôi không quay về nữa. Có hôm, tôi đi làm về, thấy tủ quần áo bị động vào, chồng tôi quay về lấy vài thứ đồ của anh. Tôi không muốn gọi điện cho chồng tôi, ngay cả ý nghĩ ban đầu là giải thích mọi chuyện cho anh, giờ cũng đã biến mất hoàn toàn.

Tôi một mình sống, một mình đi bệnh viện khám thai, mỗi lần thấy những người chồng thận trọng dìu vợ đi viện khám thai, trái tim tôi như vỡ tan ra. Đồng nghiệp lấp lửng xui tôi nạo thai đi cho xong, nhưng tôi kiên quyết nói không, tôi điên cuồng muốn được đẻ đứa con này ra, coi như một cách bù đắp cho cái chết của mẹ chồng tôi.

Khi tôi đi làm về, chồng tôi đang ngồi trong phòng khách, khói thuốc mù mịt khắp phòng, trên bàn nước đặt một tờ giấy. Không cần liếc qua, tôi đã biết tờ giấy viết gì.

Trong hai tháng chồng tôi không về nhà, tôi đã dần dần học được cách bình tĩnh. Tôi nhìn anh, gỡ mũ xuống, bảo: “Anh chờ chút, tôi ký!”. Chồng tôi cứ nhìn tôi, ánh mắt anh bối rối, như tôi.

Tôi vừa cởi cúc áo khoác vừa tự dặn mình: “Không khóc, không khóc...”. Mắt rất đau, nhưng tôi không cho phép nước mắt được lăn ra. Treo xong áo khoác, cái nhìn của chồng tôi gắn chặt vào cái bụng đã nổi lên của tôi. Tôi mỉm cười, đi tới, kéo tờ giấy lại, không hề nhìn, ký lên đó cái tên tôi, đẩy lại phía anh.

“Rodi, em có thai à?”.

Từ sau khi mẹ chồng gặp tai nạn, đây là câu đầu tiên anh nói với tôi. Tôi không cầm được nước mắt nữa, lệ “tới tấp” tràn xuống má.

Tôi đáp: “Vâng, nhưng không sao đâu, anh có thể đi được rồi!”. Chồng tôi không đi, trong bóng tối, chúng tôi nhìn nhau. Chồng tôi nằm ôm lấy người tôi, nước mắt thấm ướt chăn. Nhưng trong tim tôi, rất nhiều thứ đã mất về nơi quá xa xôi, xa tới mức dù tôi có chạy đuổi theo cũng không thể với lại.

Không biết chồng tôi đã nói “Anh xin lỗi em!” với tôi bao nhiêu lần rồi, tôi cũng đã từng tưởng rằng tôi sẽ tha thứ, nhưng tôi không tài nào làm được, trong tiệm ăn châu Âu hôm đó, trước mặt người con gái trẻ ấy, ánh mắt lạnh lẽo chồng tôi nhìn tôi, cả đời này, tôi không thể nào quên nổi. Chúng tôi đã cùng rạch lên tim nhau những vết đớn đau. Phía tôi, là vô ý; còn anh, là cố tình.

3. Hận cũ hóa giải, nhưng quá khứ không bao giờ trở lại!

Trừ những lúc ấm áp khi nghĩ đến đứa bé trong bụng, còn với chồng, trái tim tôi lạnh giá như băng, không ăn bất cứ thứ gì anh mua, không cần ở anh bất cứ món quà gì, không nói chuyện với anh.

Bắt đầu từ lúc ký vào tờ giấy kia, hôn nhân cũng như tình yêu đã biến mất khỏi đời tôi. Có hôm chồng tôi thử quay về phòng ngủ, anh vào, tôi ra phòng khách, anh chỉ còn cách quay về ngủ ở phòng mẹ.

Trong đêm thâu, đôi khi từ phòng anh vẳng tới tiếng rên khe khẽ, tôi im lặng mặc kệ. Đây là trò anh thường bày ra, ngày xưa chỉ cần tôi giận anh, anh sẽ giả vờ đau đầu, tôi sẽ lo lắng chạy đến, ngoan ngoãn đầu hàng chồng, quan tâm xem anh bị làm sao, anh sẽ vươn một tay ra tóm lấy tôi cười ha hả. Anh đã quên rồi, tôi lo lắng là bởi tôi yêu anh, còn bây giờ, giữa chúng tôi còn lại gì đâu?

Chồng tôi dùng những tiếng rên ngắt quãng để đón ngày đứa bé chào đời. Dường như ngày nào anh cũng mua gì đó cho con, các đồ dùng của trẻ sơ sinh, đồ dùng của trẻ em, ngay cả sách thiếu nhi, từng bọc từng bọc, sắp chất đầy gian phòng anh.

Tôi biết chồng tôi dùng cách đó để cảm động tôi, nhưng tôi không còn cảm thấy gì nữa. Anh đành giam mình trong phòng, gõ máy tính “lạch cà lạch cạch”, có lẽ anh đang yêu đương trên mạng, nhưng việc đó đối với tôi không có ý nghĩa gì.

Đêm cuối mùa xuân, cơn đau bụng dữ dội khiến tôi gào lên, chồng tôi nhảy bổ sang, như thể anh chưa hề thay quần áo đi ngủ, vì đang chờ đón giây phút này tới. Anh cõng tôi chạy xuống nhà, bắt xe, suốt dọc đường nắm chặt bàn tay tôi, liên tục lau mồ hôi trên trán tôi.

Đến bệnh viện, anh lại cõng tôi chạy vào phòng phụ sản. Nằm trên cái lưng gầy guộc và ấm áp, một ý nghĩ hiện ra trong đầu tôi: “Cả cuộc đời này, còn ai có thể yêu tôi như anh nữa không?”.

Anh đẩy cửa phòng phụ sản, nhìn theo tôi đi vào, tôi cố nén cơn đau nhìn lại anh một cái nhìn ấm áp. Từ phòng đẻ ra, chồng tôi nhìn tôi và đứa bé, anh cười mắt rưng rưng. Tôi vuốt bàn tay anh. Chồng tôi nhìn tôi, mỉm cười, rồi, anh chậm rãi và mệt mỏi ngã dụi xuống. Tôi gào tên anh... Chồng tôi mỉm cười, nhưng không thể mở được đôi mắt mệt mỏi...

Tôi đã tưởng có những giọt nước mắt tôi không thể nào chảy vì chồng nữa, nhưng sự thực lại khác, chưa bao giờ có nỗi đau đớn mạnh mẽ thế xé nát thân thể tôi.

Bác sĩ nói, phát hiện chồng tôi ung thư gan đã vào giai đoạn cuối cùng, anh gắng gượng cho đến giờ kể cũng đã là kỳ tích. Tôi hỏi bác sĩ phát hiện ung thư khi nào? Bác sĩ nói năm tháng trước, rồi an ủi tôi: “Phải chuẩn bị hậu sự đi!”.

Tôi mặc kệ sự can ngăn của y tá, về nhà, vào phòng chồng tôi bật máy tính, tim tôi phút chốc bị bóp nghẹt. Bệnh ung thư gan của chồng tôi đã phát hiện từ năm tháng trước, những tiếng rên rỉ của anh là thật, vậy mà tôi nghĩ đó là...

Có hai trăm nghìn chữ trong máy tính, là lời dặn dò chồng tôi gửi lại cho con chúng tôi: “Con ạ, vì con, bố đã kiên trì, phải chờ được đến lúc nhìn thấy con bố mới được gục ngã, đó là khao khát lớn nhất của bố... Bố biết, cả cuộc đời con sẽ có rất nhiều niềm vui hoặc gặp nhiều thử thách, giá như bố được đi cùng con suốt cả chặng đường con trưởng thành, thì vui sướng biết bao, nhưng bố không thể.

Bố viết lại trên máy tính, viết những vấn đề mà con có thể sẽ gặp phải trong đời, bao giờ con gặp phải những khó khăn đó, con có thể tham khảo ý kiến của bố...

Con ơi, viết xong hơn 200 nghìn chữ, bố cảm thấy như đã đi cùng con cả một đoạn đời con lớn. Thật đấy, bố rất mừng. Con phải yêu mẹ con, mẹ rất khổ, mẹ là người yêu con nhất, cũng là người bố yêu nhất...”.

Từ khi đứa trẻ đi học mẫu giáo, rồi học Tiểu học, Trung học, lên Đại học, cho đến lúc tìm việc, yêu đương, anh đều viết hết.

Chồng tôi cũng viết cho tôi một bức thư:

“Em yêu dấu, cưới em làm vợ là hạnh phúc lớn nhất đời anh, tha thứ cho những gì anh làm tổn thương em, tha thứ cho việc anh giấu em bệnh tình, vì anh muốn em giữ gìn sức khoẻ và tâm lý chờ đón đứa con ra đời...

Em yêu dấu, nếu em đang khóc, tức là em đã tha thứ cho anh rồi, anh sẽ cười, cảm ơn em đã luôn yêu anh... Những quà tặng này, anh sợ anh không có cơ hội tự tay tặng cho con nữa, em giúp anh mỗi năm tặng con vài món quà, trên các gói quà anh đều đã ghi sẵn ngày sẽ tặng quà rồi...”.

Quay lại bệnh viện, chồng tôi vẫn đang hôn mê. Tôi bế con tới, đặt nó bên anh, tôi nói: “Anh mở mắt cười một cái nào, em muốn con mình ghi nhớ khoảnh khắc ấm áp nằm trong lòng bố...”.

Chồng tôi khó khăn mở mắt, khẽ mỉm cười. Thằng bé vẫn nằm trong lòng bố, ngọ nguậy đôi tay hồng hào bé tí xíu. Tôi ấn nút chụp máy ảnh “lách tách”, để mặc nước mắt chảy dọc má...
 
Anh yêu đôi gót chân hằn vết nẻ của chị, thương những nỗi đau chị từng phải chịu đựng. Và anh ước: “Được đun nước cho em ngâm chân mỗi ngày”

Chị luống cuống mở cổng, vội vã dắt chiếc Dream vào mảnh sân nhỏ, tối mờ mờ. Bối rối. Không biết tại cuộc liên hoan vui quá hay tại ánh mắt Thái say đắm quá khiến chị mềm lòng… Lâu lắm rồi chị mới về nhà muộn thế này.

- Lạnh không em?

Gương mặt góc cạnh sáng bừng đón chị sau cánh cửa. Đưa nhanh tay cho chồng, chị áp mặt vào bắp đùi anh trên xe lăn, dịu dàng:

- Em mệt.

Anh khẽ hôn lên mái tóc hơi xổ vì gió đường của chị, thoảng một cái nhíu mày. Rồi giục chị đi tắm nhanh để nghỉ. Chị uể oải ngồi trên chiếc giường, vừa nghe mùi hương bạc hà thoang thoảng từ đôi chân mới được ngâm nước lá, vừa nghe tiếng lách tách bàn phím đều đều của anh. Không đợi anh phải giục và âu yếm chúc ngủ ngon, chị nhẹ nhàng nằm xuống. Quay mặt vào trong. Dù không muốn nhưng tâm trí vẫn lang thang trong điệu valse du dương, kỳ ảo.

Phải. Ba năm rồi, từ ngày anh bị tai nạn, chị không còn nồng nàn bước trong tiếng nhạc. Và hôm nay, chị mới chợt nhận ra mình nhớ. Nhớ cồn cào những lần lả đi trong vòng tay anh bế thốc, xoay tròn.

Bàn chân chị sinh ra trên một mảnh đất nghèo xơ xác. Chị không có bất cứ người thân nào, sống thui thủi một mình từ khi bà mất. Chị không cha, không mẹ, không người thân. Bà cụ nhặt được chị trên một phiên chợ huyện.

Đến khi trở thành sinh viên, ra thành phố học, chị vẫn chưa gột hết được nước phèn. Anh chị gặp nhau vào năm thứ ba của đời sinh viên. Anh là chàng trai thành phố có nụ cười thật ấm áp và bàn chân mềm, thon như chân con gái. Anh yêu đôi gót chân hằn vết nẻ của chị, thương những nỗi đau chị sớm chịu đựng. Yêu dáng vẻ tảo tần mà ngẩng cao đầu của chị.

Chị đã biết cảm giác được yêu thương, có một người để được nghĩ đến, được nhớ nhung, trọn vẹn và thư thái như mùi hương của cây lá mà anh mua cho chị đun nước ngâm chân hàng ngày.

Anh bảo:

- Sau này, anh sẽ đun nước cho em. Anh sẽ chăm để bàn chân em được thư thả.

Với những đôi tất ấm áp mùa đông, những đôi giày mềm mại mùa hè, với tình yêu và sự ngọt ngào của những bó lá, bàn chân chị mềm ra, hồng hào và trắng trẻo. Bàn chân đã biết đến những bước đi không tất bật, lo toan. Như chị đã biết đến hạnh phúc. Và ước mơ một hạnh phúc.

Anh đam mê những bản nhạc du dương. Đam mê ấy khiến chàng kỹ sư tương lai phải miệt mài thêm ở Nhạc viện. Những tháng năm vất vả nhưng hạnh phúc chầm chậm trôi qua.

Đến khi chị có một công việc ổn định và anh cầm trên tay thêm tấm bằng Nhạc viện thì anh dẫn chị về ra mắt gia đình, về ngôi nhà trang nghiêm của dòng họ anh. Nơi ấy, bốn năm trước, anh xin phép ra đi để bảo vệ niềm đam mê âm nhạc.

Nhưng, giống như bốn năm trước, anh bị bố mẹ phản đối khi không theo lề thói và sự sắp đặt của gia phong. Sau cuộc “độc thoại” phải trái, thiệt hơn của mẹ rồi em gái anh, chị thụt lùi. Chị gạt nước mắt, bước những bước hụt về hướng khác để “tương lai anh rộng mở”.

Không muốn tìm về nỗi đau thời thơ ấu, chị nhẫn nại leo những con dốc cao lởm chởm đá, lội rừng, lội suối mang kiến thức truyền dạy cho lũ trẻ miền núi.

Chị phát khóc vì những vết xước chồng chéo trên đôi bàn chân mình. Vết mới chồng vết cũ khiến nó ngày càng chai dần, sạm đen, nứt nẻ. Chị sợ dấu vết tình yêu ngày nào sẽ không còn nữa.

Và điều chị lo sợ không xảy ra. Bàn chân mềm mại như chân con gái của anh đã đến với chị. Qua một năm tìm kiếm như mò kim đáy bể. Hôm ấy, chị đi vận động gia đình cho con trở lại trường. Đôi chân chị bị đá dăm vò nhàu, khiến chị phải lê từng bước.

Đón chị đầu dốc là mái tóc bồng bềnh của anh trong nắng chiều. Chị ôm ngực không thở nổi. Hai giọt nước mắt anh rơi xuống, mát dịu, ngọt ngào trên bàn chân chị lem máu.

Anh cùng chị lội suối, băng rừng với những vết trầy. Để đêm về, trong căn nhà vách nứa, một bên là lớp học, anh nấu nước lá rừng cho chị ngâm chân. Thêm một năm nữa thì bố mẹ anh chấp thuận. Họ sợ sẽ mất cậu con trai độc nhất của dòng họ Nguyễn Lê.

Anh chị đưa nhau về thành phố. Mặc cho cha mẹ chồng giục chuyện con cái, anh kiên quyết để chị có thời gian học hành, phấn đấu như chị từng khao khát, kiên quyết thực hiện lời hứa của mình. Chị lao vào ôn thi cao học. Mỗi tối thứ bảy, anh lại dìu chị đi trong những điệu valse hư ảo, nồng nàn. Anh muốn chị được bước những bước chân theo giai điệu ngọt ngào.

Hạnh phúc đã đậu lại trên ngôi nhà nhỏ có giàn lan thơm ngát, có tiếng cười, vòng tay dịu ngọt của anh, có nét trẻ trung, tươi rói của chị. Rồi một tai nạn bất ngờ cướp đi đôi chân anh, ngay khi chị thi đỗ và bắt đầu đi học.

Đôi mắt anh lạc thần, đôi mắt chị trống rỗng. Không can tâm thấy cuộc đời chị bị trói buộc cùng chiếc xe lăn, nhiều lần anh giãy bỏ chị gay gắt. Nhưng chị bằng lòng sống trong ngôi nhà được thiết kế lại, phù hợp với chiếc ghế đặc biệt của anh. Chị thích nghi với chuyện chồng chị làm việc tại nhà. Chị bắt đầu quen với cảm giác phải khuỵu chân xuống mới áp mặt được vào ngực anh. Chỉ ân hận chưa có một đứa con để những giờ phút trống rỗng trong anh vơi bớt đi. Và chị lãng quên dần những điệu nhảy ngọt ngào ngày ấy.

Lần thứ hai chị nhảy với Thái. Vì Thái khẩn khoản mời,. Một năm rồi, Thái theo đuổi chị công khai không mệt mỏi. Đã không biết bao lần chị van lơn:

- Xin Thái để cho Hằng yên. Thái trẻ trung, chưa lập gia đình, không thiếu gì người con gái tử tế, xứng đáng.

Nhưng cũng bấy nhiêu lần ánh mắt buồn bã của Thái nhìn lại chị, đầy khắc khoải:

- Hằng đừng để tâm đến tôi. Cứ coi như chưa biết gì. Tôi không cấm nổi mình hông nghĩ đến Hằng. Nên tôi chỉ yêu Hằng từ xa thế thôi.

Chị đã rõ tình cảm của Thái. Thế mà chị lại đồng ý nhảy. Khi bàn tay ấy mạnh mẽ đặt lên vòng eo chị và dịu dàng dìu chị đi, mọi vật xung quanh chị bỗng mờ dần. Chị lả đi trong nhịp thở hơi gấp của Thái và của… chính chị.

- Hằng biết không, tôi sẵn sàng đánh đổi mọi thứ để bản nhạc không bao giờ dừng lại.

Thái thì thầm bên tai chị. Chị im lặng không nói, chiếc cằm xinh xắn gần như tựa vào vai Thái. Thái vẫn thì thầm trong tiếng nhạc:

- Ngay từ khi nhìn thấy Hằng, trái tim tôi đã thuộc về Hằng. Hằng có nhiều gương mặt lắm. Nhưng tôi yêu nhất khuôn mặt Hằng trong điệu nhạc. Kỳ ảo. Mê đắm. Hằng sinh ra là để nhảy, Hằng ạ.

Khuôn mặt Thái gần hơn. Đắm đuối, đam mê. Chị khựng người. Câu nói đưa chị ra khỏi cơn mơ hư ảo. Bàng hoàng. Chị giật nhanh bàn tay mình ra khỏi người Thái.

- Hằng… em sao vậy?

Thái thảng thốt.

- Không, không sao.

Chị lắp bắp. Rồi lao ra cửa. Một giây ngơ ngác, nhưng Thái cũng kịp đuổi theo sát gót, nắm được bàn tay chị run rẩy nơi cửa ra vào:

- Anh… tôi… đã sai gì ư?

Ánh mắt Thái nhìn chị khẩn khoản. Chị nói trong hơi thở gấp:

- Không, Thái chẳng có gì sai cả. Thái nói đúng. Thái làm cho tôi chợt nhận ra…

- Nhận ra?

Giọng Thái không giấu được vẻ hồ hởi. Chị cúi mặt xuống:

- Xin lỗi Thái. Nhưng tôi là của anh ấy. Và nếu tôi sinh ra để nhảy thì là tôi sinh ra để nhảy với anh ấy.

- Hằng!

Tiếng kêu kìm nén vẫn bật ra nghèn nghẹn. Chị ngẩng nhìn khuôn mặt rất đẹp của Thái:

- Thái cho tôi xin lỗi.

Bàn tay đang nắm chặt tay chị chợt chùng xuống, xót xa.

- Hằng đừng xin lỗi.

Tôi chỉ cần Hằng cho tôi được yêu Hằng.

- Đừng tự làm khổ mình thế. Tôi hạnh phúc với tình yêu của anh ấy. Tôi không cần thêm một tình yêu nào nữa cả.

- Hằng…

Cái bất lực trong giọng nói đi thẳng trái tim chị, nhói lên rồi rơi tõm vào ánh đèn điện nhạt nhoà.

Chị dứt khoát:

- Tôi nói cho Thái nghe một bí mật. Bàn chân Thái bảo nhảy rất đẹp là bàn chân của anh ấy đấy. Chính anh ấy đã tạo nên nó bằng tình yêu của mình, để dù đi đâu, tôi cũng biết đường trở về. Mong Thái cũng tạo cho mình được bàn chân như thế. Có vậy, bàn chân đó mới thực sự là của mình. Và chị lao nhanh xuống thềm. Về với anh.

Liên hoan hôm nay có vui không em?

Anh đón chị trong bộ đồ ngủ và quyển sách trên tay. Chiếc xe lăn để cạnh giường. Chị háo hức đáp lại ánh nhìn hờ hững của anh.

- Đợi em lâu không? Em đi tắm đã nhé.

- Ừ, em tắm đi.

Anh cúi mặt xuống quyển sách. Chị ào vào buồng. Nồi nước lá ngâm chân đã nguội ngắt. Chị bước tới bên chồng, nũng nịu:

- Nước của em nguội hết rồi.

- Anh nấu từ bảy giờ.

Giọng nói trên trang sách đều đều, kéo gương mặt anh sát mặt chị.

Quyển sách rơi xuống.

- Thế bây giờ anh đi đun lại hay em?

Anh nhìn chị, thoáng bất ngờ. Rồi nhẹ nhàng gỡ tay chị ra, nhẹ như gió:

- Muộn rồi.

Chị vòng tay ôm cứng lấy anh. Giọng nói chị gấp gáp:

- Không muộn. Em muốn sau này con mình sẽ có mùi thơm như mùi lá anh nấu cho em.

- Em…

Anh nhìn chị, lắp bắp. Chị nép vào ngực chồng, thì thào:

- Mình sinh con được không anh. Bây giờ, bàn chân em thuộc lối đi rồi.

Anh nhìn chị. Cơn lũ cảm xúc ào đến, hân hoan, rạng rỡ, đắm đuối. Chị dụi đầu sâu hơn trên ngực anh.

- Đun nước lại anh nhé!

- Ừ.

Giọng nói anh thành hơi thở nhẹ. Bàn chân chợt run run. Bàn chân biết mình đang hạnh phúc.
 
Nụ hôn ngược chiều thời gian
Dương Thụy



Lê biết Julien khi anh hãy còn thanh niên mơ mộng tìm đến Việt Nam chỉ vì thất tình. Julien kể anh thầm yêu một cô gái gốc Việt tên “Làn Nước Mùa Thu” mà Lê đoán là Thu Thủy.

Sau khi nhận được tin cô đính hôn, Julien một mình lên đường đến Việt Nam với con tim tan nát.

Năm đó anh mới hai mươi ba tuổi, còn Lê là sinh viên năm nhất trường dược. Trong một lần đi nhà sách, Lê bắt gặp một anh chàng gầy nhom, mặc áo thun sẫm màu giản dị, đang lật những trang sách tiếng Pháp đọc say sưa.

- Chào anh! Anh là người Pháp phải không? - Không rào trước đón sau, Lê hỏi thẳng - Tôi đang học Pháp văn! Tôi muốn thực tập với anh.

- Xin chào! - anh chàng gầy nhom không nhiệt tình lắm - Tôi không thích phải nói tiếng Pháp. Tôi muốn thực tập tiếng Việt với cô.

- Cũng được, thì chúng ta cùng dạy cho nhau - Lê háo hức - Anh còn ở Sài Gòn lâu không?

- Cũng còn tùy cô có sức thu hút không! - Vẫn trả lời bằng một giọng thờ ơ, chàng người Pháp khiêu khích công khai.

Lê ngỡ ngàng nhìn người nước ngoài. Thấy bị xúc phạm, cô quay ngoắt người bỏ đi. Ra đến ngoài cửa, Lê được níu lại: “Tôi đùa thôi mà! Tôi còn ở Sài Gòn lâu lắm, chừng nào hết tiền mới về lại Pháp! Tôi tên Julien. Còn cô?”.

Chiều hôm đó, ông nội ngơ ngác thấy Lê dẫn về một “thằng Tây con”, hỏi ông có thể cho anh ta ở chung trong nhà không. Nhìn cặp mắt háo hức của Lê và lý do chính đáng muốn học giỏi Pháp văn, ông vui lòng chấp nhận nhưng thực tế hơn: “Cậu phải trả cho chúng tôi tiền ăn và tiền giặt giũ!”. Cái giá đưa ra quá “bèo” cho một căn phòng sạch sẽ. Julien hẳn đã “mở cờ trong bụng” nhưng anh còn làm bộ đi đi lại lại trong căn nhà ngăn nắp, vẻ suy nghĩ. Ông già bỏ ra ngoài sân tưới cây, để mặc cô cháu gái đang hồi hộp chờ một tiếng “đồng ý” của thằng Tây mới nhặt về. Cuối cùng, Julien nhìn hóng ra con hẻm cụt, chép miệng: “Nhà cô thích thật, ngay trung tâm mà có được một nơi yên tĩnh như vậy. Tiện cho tôi làm việc”. Gần gũi bên nhau được vài tháng, Lê chịu dạy tiếng Việt cho Julien và không ngừng thắc mắc sao anh thích Việt Nam đến mức “ăn dầm nằm dề” không mục đích cụ thể.

- Vì kiếp trước tôi người Việt - Julien cho “đáp án” - Tôi muốn dành thời giờ ở Việt Nam để làm việc...

- Việc gì? - Lê ngơ ngác - Tôi có thấy anh làm gì đâu?

- Em đi theo “ám” tôi từ sáng đến tối - Julien ấm ức - Còn thời giờ yên tĩnh đâu nữa mà làm việc?

- Nhưng mà việc gì - Lê giậm chân mất kiên nhẫn - Việc gì mới được chứ?

- Viết văn! - Julien thốt ra thú nhận.

Lê há hốc nhìn Julien. Anh bật cười, cúi đầu mắc cỡ, tự biết mình không có dáng vẻ của một nhà văn. Sau một hồi chọc ghẹo chàng “văn sĩ” đến mức anh nổi điên rượt cô chạy khắp nhà, Lê xin hứa sẽ tạo điều kiện tối đa cho anh sáng tác. “Nhưng anh phải cho tôi làm nguyên mẫu của nhân vật nữ chính!”. Julien làm bộ mếu máo: “Vậy ai còn thèm đọc truyện của tôi? Nhân vật nữ là một con ếch cái tối ngày kêu ồm ộp, tra tấn người ta điếc cả tai. Với một con ếch xấu xí có vòng mông mập ú như thế thì chỉ tên “trái lê” mới hợp. Làm sao đặt là “làn nước mùa thu” được?”. Lê phát khóc nhưng ráng trả miếng: “Như thế mới xứng với nhân vật nam là một con thằn lằn ốm tong teo!”. Sáu tháng trời bên nhau trong căn nhà vắng người nhưng ầm ĩ vì những cuộc đấu khẩu không phân thắng bại, khi Julien bị phụ huynh triệu về Pháp, anh kịp thổ lộ mình yêu Lê mất rồi. Cô đã cười gập người trước lời tỏ tình của anh chàng nhà văn chưa có một tác phẩm nào được in và cuối tháng hay nợ tiền cơm với ông nội. Khi đó, Lê hãy còn quá trẻ và Julien cũng thế.


* * *


Lê đi theo Julien, bước trên lối mòn xanh rợp bóng cây, càng lúc càng lên đồi cao. Thời gian quả diệu kỳ, gặp lại Julien ở Pháp sau mười năm xa cách, Lê nhận ra anh đã thay đổi hoàn toàn. Thời gian đầu lúc Julien tạm biệt ông cháu cô và ngôi nhà trống vắng ở Sài Gòn, họ hay viết cho nhau. Julien than nhớ Việt Nam quá, còn Lê rên vắng anh ngồi nhà càng thêm rộng. Nhưng rồi ai cũng phải thích nghi, những lá thư thưa dần, thảng hoặc họ mới liên lạc nhau vào những dịp đặc biệt như Giáng sinh hay lễ tết. Một tấm thiệp, vài dòng tin ngắn ngủi. Julien đã nhiều lần định trở sang Việt Nam tìm việc làm. Nhưng rồi Julien có bạn gái và cô ta không muốn sang một nước xa xôi. Năm ngoái, khi Lê báo tin ông nội đã không còn, Julien gọi về chia buồn và cho hay giờ đã trở thành phi công của một hãng hàng không nổi tiếng, anh thường đảm trách những chuyến bay giữa các nước châu Âu. Julien thú nhận vẫn không ngừng nhớ đến Việt Nam và hy vọng một ngày nào đó được bay đoạn đường dài từ Paris sang tận Sài Gòn.

Từ lúc Julien đưa Lê về nhà, anh cũng ít trao đổi với cô và xem cô như một người bạn của cả gia đình chứ không phải của riêng mình. Lê biết Julien từ mấy năm nay đã thuê một căn hộ ở cùng bạn gái tại Lyon nhộn nhịp. Anh không tiện mời cô đến nhà riêng nên dẫn về nhà cha mẹ. Anh xin nghỉ phép để có thời giờ dành cho Lê nhưng thật ra chiều nào cũng chạy xe về Lyon thăm bạn gái. Thật kỳ lạ, Lê không giận vì bị bỏ quên mà ngược lại thấy cái vẻ quan tâm đến bạn gái của Julien thật đáng yêu. Hẳn được làm bạn gái anh rất dễ chịu. Và Lê cũng bất ngờ nhận ra Julien rất tình cảm với cha mẹ và anh trai, khác với bọn thanh niên Tây ích kỷ bên này.
 
Giờ em sống một mình trong căn nhà rộng sao? – Julien cất tiếng - Anh vẫn thường mong ước trở lại căn phòng trông ra vườn cây kiểng của ông nội. Ở đó anh đã viết những truyện ngắn đầu tiên...

- Anh bỏ mộng thành văn sĩ rồi sao? – Lê quay sang nhìn Julien chăm chú – Nhưng em thích anh như thế này hơn, phi công, oai thật!

Julien bật cười, anh chịu đựng ánh mắt lộ liễu của Lê xộc vào từng ngóc ngách trên cơ thể mình. Mười năm trước, Lê chẳng thể nào hình dung nổi anh chàng gầy còm chở sau yên xe đạp chiếc vali nhỏ chứa đầy sách giờ đã thay đổi kinh khủng đến như vậy. Julien trông thật tự tin với ánh mắt cương nghị, bộ ngực nở nang căng phồng sau làn áo sơ-mi và đôi cánh tay rắn rỏi. Lê chăm chú ngắm mái tóc mềm nâu sẫm, vầng trán thông minh, đôi mắt màu hạt dẻ rất sáng, cái miệng nhỏ hơi nghiêm và chiếc cằm bạnh ra chững chạc. Julien của mười năm sau trông phong độ đến mức Lê cảm nhận rõ rệt sức hấp dẫn từ vẻ bề ngoài đàn ông của anh đang làm mình chao đảo.

- Sao anh không trở về? - Lê thì thầm - Ông nội và em đã nhắc nhiều đến anh. Giá như dạo vừa tốt nghiệp anh về Sài Gòn tìm việc gì đó...

- Nhưng em sẽ không cho vào nhà nếu dẫn theo bạn gái - Julien lắc đầu cười - Trong suốt mười năm qua, không cô bồ nào chia sẻ với anh tình yêu đối với Việt Nam cả. Lý ra anh nên có bạn gái người Việt Nam...

- Em không sống một mình nổi sau khi ông nội mất - Lê thở dài - Em ngăn nhà ra làm đôi và cho người nước ngoài thuê. Khu đó giờ sang trọng lắm...

- Hẳn khi xưa em chê anh vất vưởng không có tương lai, hằng tháng trông chờ gia đình gởi tiền qua và gầy còm xơ xác lắm? - Julien cố cười lớn nhưng giọng anh có vẻ chua chát - Anh đã yêu em biết bao nhiêu...

- Vậy hả? - Lê cười, cô chưa bao giờ tin Julien yêu mình thật sự - Ngày đó em chưa biết tình yêu là gì. Em nghĩ anh lãng mạn nên dễ yêu vậy thôi...

Julien cười vu vơ. Lê của ngày nay biết nói chuyện nhỏ nhẹ, chững chạc và duyên dáng hơn hẳn cô gái đanh đá mà Julien từng biết. Hai mươi tám tuổi, sở hữu một căn nhà trong khu vực gần trung tâm thành phố, đảm nhận vị trí cao trong một công ty nước ngoài. Julien chắc Lê có rất nhiều những ánh mắt ngưỡng mộ. Nhưng cô nhìn anh tư lự: “Làm sao tìm được người yêu mình không phải qua những giá trị vật chất?”.

Julien đứng lên kéo tay Lê, bảo mình nên tiếp tục lên đỉnh đồi có tượng Thánh Mẫu. Hai người song hành bên nhau, Lê để tay mình trong tay Julien. Càng lên cao đường càng khó đi nên anh phải giúp cô giữ thăng bằng. Cuối cùng hai người cũng lên được đến nơi. Julien chậm rãi hái những bông hoa dại mùa hè rồi lấy dây cỏ buộc lại thành một bó rực rỡ trao cho Lê. Từ đỉnh đồi họ nhìn xuống thành phố Saint Étienne nhỏ bé cùng những triền hoa nhấp nhô trong gió.

- Em hẳn thích loại đàn ông trụ cột gia đình? - Julien đột ngột dò hỏi - Như ba anh vậy đó? Kỹ sư, làm việc cả đời trong một nhà máy, về hưu chỉ thích làm bạn với cỏ cây. Yêu vợ, thương con, hiền lành và đáng tin cậy?

- Hồi bé em đã thích vậy - Lê thành thực - Nhưng sống không có người thân đã lâu, em trở nên quá mạnh mẽ. Em chỉ cần một người đàn ông dễ thương, biết làm cho em cười, một người tình hấp dẫn về mặt hình thức!

- Hình như em đang tả Charles, anh trai anh phải không? - Julien cười to trêu - Charles là kiến trúc sư, lãng mạn và nghệ sĩ...

- Không phải Charles - Lê chậm rãi lắc đầu - Em muốn nói người đó là... anh!

Julien có vẻ bất ngờ, hai người đang ngồi rất sát và môi họ đang gần kề bên nhau. Lê để mình bị Julien hút lấy làn môi hé mở chờ đợi. Cô hôn anh bằng tất cả đam mê của một phụ nữ trẻ trước người đàn ông quyến rũ. Nhưng Julien đang hôn Lê một cách dịu dàng như khi cô hãy còn mười tám tuổi và anh là một “văn sĩ” mộng mơ. Julien như muốn tìm về quá khứ khi họ còn quá hồn nhiên trong căn nhà rộng lớn ở Sài Gòn. Cái thời anh chẳng có chút hấp dẫn về mặt hình thức cũng không có gì bảo đảm cho cuộc sống tương lai. Thời Lê tuy đanh đá, nhưng trong sáng và ngây thơ vô cùng.


* * *


Cả nhà Julien đưa Lê ra ga đi Paris để hôm sau cô về lại Việt Nam. Cha anh cầm tay lái, mẹ anh ngồi kế bên, con mèo Titi trên đùi. Charles và Lê dính chặt vào nhau khi xe qua những khúc quanh chóng mặt từ ngôi làng Saint Joseph trườn dần xuống núi. Tối hôm qua Julien về Lyon với lý do bạn gái đang bệnh, hứa sáng nay sẽ đến thẳng nhà ga Saint Étienne tiễn Lê. Cô nghĩ đó chỉ là lời hứa lịch sự, anh đang muốn tránh mặt sau nụ hôn đột ngột trên đồi. Quả như Lê dự đoán, đến giờ tàu chạy Julien vẫn không xuất hiện mặc cho cha mẹ anh đang cố gắng gọi điện thoại di động một cách vô vọng. Charles giúp Lê đem chiếc vali nhỏ lên tàu. Anh thì thầm: “Khi nào anh sang Việt Nam thăm em, nhớ cho anh ở trong phòng cũ ngày trước của Julien nhé?”. Lê lắc đầu, cô ghé vào tai anh đáp: “Không, em sẽ cho anh vào phòng... của em!” rồi đẩy anh xuống trong tiếng cười nghịch ngợm. Tàu đã chuyển bánh, Lê nhìn qua cửa sổ thấy Charles mỉm cười gởi cho cô một nụ hôn gió. Lê ngồi xuống chỗ của mình, tiếc không được gặp lại Julien để nói cô vẫn để dành căn phòng đó, chỉ cho anh mà thôi.

Lê trở lại Paris, cô không trách Julien chẳng ra ga tiễn nhưng nhớ anh da diết. Hôm sau cô ra phi trường Charles De Gaules, chuẩn bị về Việt Nam, về với công việc bận rộn, về với phần nhà được ngăn đôi mà vẫn còn quá rộng cho một người cô đơn. Trước lúc vào phòng cách ly, đột ngột Lê thấy Julien đang nháo nhác đi tìm ai đó. “Anh tìm em phải không? - Lê đến bên anh hỏi - Anh từ Lyon lái xe lên tận Paris để tiễn em về Việt Nam sao?”. Julien ôm lấy Lê mừng rỡ. Anh không nói gì, hai người đứng bên nhau, tay trong tay mãi đến lúc Lê là hành khách cuối cùng phải lên máy bay. Cô hôn lên má tạm biệt Julien, nói sẽ rất mừng nếu một ngày nào đó anh lái máy bay đến Sài Gòn. “Và... nếu anh đến cùng bạn gái của mình - Lê thì thầm - Em cũng sẽ cho anh vào nhà!”. Julien nhìn sâu vào mắt cô, mỉm cười: “Cảm ơn em!”. Khi Lê bước vào bên trong, anh đột ngột nói với theo: “Hồi đó ở Sài Gòn, anh thật sự đã yêu em!”. Lê gật đầu mỉm cười: “Và lúc ở trên đồi Thánh Mẫu, em cũng...” rồi vội vã quay lưng đi.

Lúc máy bay cất cánh lao vào bầu trời xanh, Lê ước gì mình có thể thổ lộ trọn vẹn hơn. Nhưng cô biết, điều đó chẳng có ý nghĩa gì, cô và Julien đã không yêu nhau vào cùng một thời điểm. Mười năm nữa, nụ hôn của một phi công thật nam tính, trên ngọn đồi lộng gió đầy hoa và nắng có còn làm cô nghẹn lòng mỗi khi nhớ lại? Giá người ta có thể đi ngược chiều thời gian...

H Ế T
 
.:: Trà sữa khoai môn trân châu và Trà Heniken! ::.

~Trần Du Yên~

Đề tặng : "Bí mật Flowers Killer"


Cái món "Trà sữa khoai môn trân châu" đó, Túc Mi chưa từng uống bao giờ. Nó ghét cái vị khoai môn. "Vừa ngán vừa khó chịu!", Túc Mi nghĩ. Nó thích thứ thức uống nào phải tạo "cảm giác mạnh" một chút, có thể là chua chua, đắng đắng, hoặc có men, như bia chẳng hạn. Và Túc Mi chọn "Trà Heniken". Cái tên nghe là lạ, nghe khoái nhất trong số hàng loạt tên các món trà sữa ở quán Flowers Killer.

Flowers Killer thật ra là một quán trà nổi tiếng với gần trăm loại trà sữa, nhiều đến mức dù Túc Mi đã đến đó hàng tỉ tỉ lần (à nói hơi quá, nhưng ý tác giả là nhân vật nữ chính này là khách quen của quán), con nhỏ vẫn không thể nào thử hết tất cả các loại trà ở đây. Nhưng cái lí do khác, chính xác hơn, Túc Mi là đứa sống theo thói quen, nó đã quen thuộc với thứ gì thì nhất quyết không thay đổi. Và dĩ nhiên, Túc Mi luôn gọi "Trà Heniken" mỗi khi ghé Flowers Killer.

"Một trà Heniken, một trà sữa khoai môn trân châu"

"Ack, riết rồi bà biết ý tui luôn"

"Thì chỉ có ông mới uống cái thứ ngán ngẩm đó thôi"

Trà sữa khoai môn trân châu là món trà yêu thích của Bình Nguyên. Ngược với Túc Mi, Bình Nguyên thích vị béo ngậy và hương thơm của khoai môn, cộng với những viên trân châu đủ màu, vừa ngon vừa thích mắt.

Chiều thứ sáu, ngày hẹn có thể gọi là "lịch" của Túc Mi và Bình Nguyên, hai đứa sẽ đóng ở Flowers Killer suốt buổi trưa, và sau đó, vi vu đến những địa điểm khác. Như chiều hôm nay, sau khi tính tiền hai ly trà, Túc Mi có ý đi một vòng khu Down Town.

"Đua lên Down Town nha Đại Bác"

"Okie luôn. Bà đổ xăng đầy chưa? Khu đó không có trạm xăng đâu đấy!"

"Yên tâm, đã định đua thì Tiểu Túc Túc phải chuẩn bị kỹ rồi chớ"

"Đại Bác" và "Tiếu Túc" là hai cái tên tụi nó đặt cho nhau. Không ai hiểu vì sao Mi và Bình Nguyên nghĩ ra những cái nick kì cục như thế. Ban đầu, tụi nó gọi nhau là huynh muội, sau không rõ ngẫu hứng nào mà hai cái tên "xinh đẹp" kia ra đời, gọi riết thành quen.

Bình Nguyên và Túc Mi là hai đứa bạn nối khố. Nhưng không ai gọi tình bạn của một đứa con trai và một đứa con gái mới lớn là "tình bạn nối khố" cả, ít ra phải là "tri kỷ" hay "thanh mai trúc mã" thì có vẻ hợp tai hơn. À à, ở đây lại là ý của tác giả. Đơn giản vì tình bạn của Nguyên và Mi trông giống hệt tình bạn của hai thằng con trai, không hơn. Hai đứa nó thân nhau từ thời cởi truồng tắm mưa chung, đến lúc Túc Mi trở thành một đứa con gái xinh đẹp, có người yêu là Trung Nokia, và Bình Nguyên cũng trổ mã thành thằng con trai khỏe mạnh với cô bạn gái Thủy Điệu. Cái tình bằng hữu chí cốt đó không hề chấm dứt khi tụi nó có người yêu. Điển hình là hai đứa vẫn giữ cho nhau cái lịch hẹn "ngày thứ sáu rắc rối". Nghĩa là một tuần lễ bảy ngày, chỉ dành sáu ngày cho nửa kia, còn lại ngày thứ sáu, tụi nó trích riêng ra để đi với nhau. Một câu chuyện lạ đời! À ừ, cho hai đứa con trai con gái cũng lạ đời không kém.

"Ê Đại Bác, tuần sau đổi lịch nhé. Thử bảy, Ok?"

"Ack. Ngày đó tui đi với Thủy"

"Lại Thủy, cứ làm như mình ông có người yêu không bằng. Một ngày thôi, được chưa?"

"Thứ bảy không đi chơi với thằng Nokia à, mà đi với tui?"

"Không lôi thôi, tui yêu cầu ngày nào đi ngày đó!"
 
Thứ bảy. Túc Mi diện một cái váy mới. Nó ngắm mình trong gương, thẹn thùng. Thì ra nó mặc váy trông cũng xinh xắn lắm, đâu cứ phải áo phông, quần túi hộp mới ra dáng một đứa con gái phong cách. Túc Mi mỉm cười "Lần này cho tên Đại Bác bất ngờ chơi. Có mỗi cái ngày mình ra đời mà hắn cũng không nhớ. Rõ tệ hại".

Có tiếng tin nhắn. "Tiểu Túc ơi, xin lỗi nhen, hôm nay sinh nhật Nguyên mà Nguyên quên mất. vậy là chiều nay không đi với Mi được rồi. Mi hiểu mừ!"

"Ack. Chọc ông thôi Đại Bác, tui biết thế nào ông cũng quên nên hẹn ông ngày này để ông biết mà coi lịch thui. Đi chơi vui vẻ nhá, tui đi với anh í đây"

Nỗi buồn. Kì lạ thế nhỉ?! Túc Mi chỉ dự định sẽ tạo một bất ngờ cho Nguyên, bằng cách dời lịch hẹn thường niên của hai đứa vào đúng ngày sinh nhật của Nguyên, thế thôi. Nhưng không hiểu vì sao, cái tin nhắn của Nguyên lại làm một hạt bụi vô tình rơi vào khóe mắt đứa con gái không-khóc-bao-giờ.

"Mi ơi, em có nhà không?"

Tiếng của Trung, người yêu Mi. Mi quên mất là hôm nay không nhắn lại với Trung rằng Mi có hẹn, nhưng bây giờ thì cuộc hẹn bị hủy mất rồi, hóa ra Trung đến đúng lúc!

"Trời, người yêu của anh mặc váy à? Trông xinh quá. Thế hôm nay không đi ngoài đường nữa, vào ngồi quán em nhé"

"Ừ tùy anh!"

Bình Nguyên đón Thủy ở cổng nhà cô. Hơi tiếc vì mình lãng trí mà thành ra thất hẹn với Mi, Nguyên cảm thấy không được vui.

"Hôm nay là sinh nhật anh. Mình đi quán nào đẹp đẹp nghen"

"Ừ tùy em"



***


Trung dừng xe trước cổng Flowers Killer. Túc Mi bất giác giật mình. Tuy nó là khách quen của quán, nhưng chưa bao giờ Mi đến Flowers Killer với Trung, vì đó là "chỗ hẹn bí mật" của nó và Nguyên.

"Quán này đâu có gì hay. Thôi qua chỗ bờ sông uống nước đi anh"

"Anh đặt bàn rồi. Ở đây nghe nói nhiều loại ngon lắm!"

Túc Mi bối rối, cảm giác như những riêng tư bị phá vỡ bởi một điều gì đó. Nó luôn phân định rõ ràng giữa Nguyên và Trung, một bên là thằng bạn nối khố, một bên là người yêu của nó. Với Nguyên, Túc Mi sống như một đứa con gái ngang tàng, bướng bỉnh và đôi khi, nghịch như con quỉ con. Bên cạnh Nguyên, Túc Mi không che giấu điều gì, không thẹn thùng e lệ, không hiền dịu kín kẽ, nó là nó, đơn giản là thế. Còn với Trung, Túc Mi luôn ý thức mình là một cô gái đúng-nghĩa-một-cô-gái, nghĩa là dù tính cách có mạnh mẽ cỡ nào, cũng phải giữ cho mình chút gì đó dịu dàng nữ tính. Có lẽ vì thế, đôi khi ở bên cạnh Trung, Mi ngoan như một con mèo nhỏ. Chính vì sự khác nhau đó, Túc Mi không muốn để những lẫn lộn làm mình không phân định rõ ràng. Đó là lí do, nó không khi nào đi với Trung đến những nơi nó và Nguyên thường ghé, và dĩ nhiên, cũng không cùng Nguyên đi bất cứ đâu là nơi hẹn với Trung. Nhưng hôm nay, một buổi chiều thứ bảy...tình cờ...bất giác những gì gọi là "bí mật" hình như sắp bị phá vỡ...

"Dừng lại đi anh. Cái quán đỏ đỏ ở góc đường kìa"

"Cái quán đó nhìn chả có gì hay. Tụi mình đi xem phim vậy nhé"

"Không, em đặt bàn rồi. Anh chưa đến mà làm sao biết có hay không"

Nguyên dắt xe lên bãi giữ quen thuộc, tránh cái mỉm cười của anh giữ xe cũng rất quen thuộc. Không hiểu sao Thủy lại chọn ngay quán này nhỉ?! Nguyên chưa từng cùng Thủy uống trà Flowers Killer, và cũng không nghĩ đến việc sẽ đưa cô đến "chỗ hẹn bí mật" của mình và Túc Mi. Bỗng đâu, một nỗi lo lắng mơ hồ ập đến giữa trí óc Nguyên, nó không rõ vì sao mình thấy bất an. Từ lâu, Nguyên đã chọn hai vị trí rất khác biệt nhau trong lòng nó cho Mi và Thủy. Tiểu Túc đối với Nguyên là một cô bạn thân từ thuở nhỏ, bao giờ nó cũng cảm thấy dễ dàng sẻ chia và tâm sự với Mi, ở bên cạnh Mi, Nguyên cảm thấy được san bớt đi mọi lo lắng và phiền muộn trong lòng. Còn Thủy, đó lại là người mà Nguyên muốn được yêu thương và che chở, nó chăm sóc Thủy từng ly từng tí, có mặt mọi lúc Thủy cần và không bao giờ để những lo toan của mình ảnh hưởng đến cô người yêu bé nhỏ. Giống như Mi, chính vì sự khác nhau của hai mối quan hệ, Nguyên không muốn tình cảm nó nhập nhằng không rõ ràng. Và lại cũng giống như Túc Mi, Nguyên không bao giờ đi cùng một nơi nào đó với hai cô gái. Nhưng hôm nay, một buổi chiều thứ bảy...tình cờ...bất giác những gì gọi là "bí mật" hình như sắp bị phá vỡ...



***


"Anh uống gì em gọi cho?"

"Trà Heniken" Không hiểu sao Nguyên lại chọn món đó.

"Hai trà Heniken"

"Em có uống được không? Heniken là bia đấy nhá"

"Thì nếu em say có anh đưa về mà."

Hai ly trà Heniken được mang tới. Trí óc Nguyên bắt đầu có những mông lung. "Trà Heniken"...hình như Nguyên cũng chưa từng thử.


"Khó uống quá" Thủy nhăn mặt, chạy vội vào phòng vệ sinh.

Vị cay và hơi nồng của ly trà pha với bia làm người yêu Nguyên choáng váng. Bất giác Nguyên giật mình. "Trà Heniken". Nó uống một ngụm và thấy thanh mát. Vị chua của chanh, một chút nồng cay của men, và mùi trà thơm... "Hình như là rất ngon"

"Em phải gọi món khác rồi. Sinh tố nho vậy!"

Sinh tố nho - thức uống mát lạnh màu tím nhạt. Một chút gì đó dịu dàng........



"Em uống gì, Mi?"

"Trà sữa khoai môn trân châu!" Túc Mi buột miệng, không hiểu vì sao cô lại gọi món đó.

"Vậy hai trà sữa khoai môn trân châu"

"Anh thích gì cứ gọi, gọi giống em làm gì?"

"Thì em sao anh vậy mà!"

Những hạt trân châu đủ màu trong hai cái ly xinh xắn. Lòng Túc Mi đã dần thấy xao động lạ kì. "Trà sữa khoai môn trân châu"... đã có lần nào Mi thử uống chưa nhỉ?


"Vị kì quá" Trung đặt cái ly xuống mặt bàn, chau mày.

Những hạt bột khoai môn béo ngậy khiến người yêu Túc Mi ngán. Bất giác Mi thấy nhoi nhói. "Trà sữa khoai môn trân châu". Túc Mi hút một hơi và cảm thấy thơm lừng. Những hạt trân châu ngòn ngọt, bột khoai môn thơm thơm, vị nước bùi bùi, và trà sữa béo ngậy..."Có vẻ như là rất ngon"

"Anh gọi món khác vậy. Cà phê rum đi!"

Cà phê rum - cốc nước màu đen quánh. Một chút gì đó nồng nhiệt và mạnh mẽ...



***


Trà Heniken và Trà sữa khoai môn trân châu.

Một chua một ngọt. Một béo ngậy một cay nồng.

Trà Heniken đặt cạnh ly Cà phê rum. Hơi men nồng nhiệt! Trà sữa khoai môn trân châu đặt cạnh ly Sinh tố nho. Màu tím dịu dàng!



***


"Alô chiều ghé Flowers Killer nha Mi"

"Okie. Để tui đặt bàn!"

Cái quán nhỏ quen thuộc, logo hình lưỡi liềm cắt ngang một bông hoa. Ban đầu Đại Bác và Tiểu Túc không hiểu nổi tên và logo quái lạ của cái quán nước này. Nhưng rồi sau đó, "bí mật đằng sau sự tích Flowers Killer" trở thành một bí mật của hai đứa. Sau này, cái bí mật đó được bật mí để tác giả ngồi đây viết truyện cho độc giả đọc. Image Một bí mật rất riêng của Mi và Nguyên!


"Trà Heniken". "Trà sữa khoai môn trân châu"

Bình Nguyên và Mi gọi cùng lúc, và rồi trố mắt nhìn nhau ngạc nhiên. Hai đứa đồng loạt cười to.

Trà Heniken và Trà sữa khoai môn trân châu. Có một lúc nào đó hình như là rất ngon...



***


Vậy thì cuối cùng Túc Mi và Bình Nguyên sẽ như thế nào nhỉ? Một tình bạn giữa "bí mật Flowers Killer", một tình bạn giữa Trà Heniken và Trà sữa khoai môn trân châu?... Đến một lúc nào thì trà hình như là rất ngon?

Bí mật đó thì tác giả cũng đành chịu. Độc giả thử gọi một ly Trà Heniken và một ly Trà sữa khoai môn trân châu thử xem nào! Vì hình như là rất ngon...
 
Ngồi trên xe đò hai giờ, đón đò qua sông và đi bộ thêm ba mươi phút nữa là tôi đã đứng trước cỗng nhà bà ngoại . Ngôi nhà gỗ cất theo kiểu xưa vẫn không có gì thay đổi, mảnh sân phía trước đầy hoa kiểng và ngay chổ tôi đứng là một cây nhãn "da bò" xum xuê . Tôi hơi thất vọng khi trên cây toàn là trái non bằng đầu ngón tay út. "Ngoại ơi!" Tôi chạy cò cò vào nhà, cất tiếng gọi to . Không có tiếng ngoại trả lời, cửa nhà đóng kín, vậy là ngoại vắng nhà. Tôi ra sau vườn tìm ngoại và bỗng thấy mình chìm ngợp trong một rừng hương hoa nhãn. Hoa trắng xóa cả một vùng, những chú ong hút mật vội vã đậu vào rồi lại bay đi trông thật bận rộn. Thế là giấc mơ về nhà ngoại được đắm mình trong hương nhãn, khuya theo dì Út đi đuổi dơi rồi bơi xuồng chở nhãn đi bán và tha hồ ăn nhãn lúc nào tùy thích đã tan theo những cánh hoa li ti, theo gió rơi đầy mặt đất.
"Chị tìm dì Út hả?" Tôi giật bắn mình vì tiếng của một tên con trai bỗng vang lên sau lưng. Đó là một thằng nhóc khoảng bằng tuổi tôi, nhìn cũng sáng sủa và không "bặm trợn" như những thanh niên ở đây . Tôi nhìn hắn với ánh mắt của một chủ nhà: "Còn bạn?". "Chị ở SaiGon về phải không?". Hắn không những không trả lời tôi mà còn hỏi lại, gì chứ kiểu đó thì tôi chúa ghét. "Chị tên Hoa phải không?". Đúng là dai như đỉa nhưng ... lần này thì hắn đã làm tôi ngạc nhiên vô cùng. Vậy mà tên con trai còn chưa chịu buông tha tôi, hắn ra một đòn cuối cùng: " Không phải chỉ một mà có rất nhiều hoa phải không chị?". Tôi trừng mắt nhìn hắn nhưng chợt mềm lòng vì ánh mắt rất dịu dàng và nụ cười quá đổi hiền lành của hắn. Rõ ràng hắn không hề có ý muốn gây sự như tôi tưởng. Cuối cùng tôi cũng biết được dì Út đi qua nhà cậu Tư ở tận cù lao xa xôi, còn ngoại thì đang ở nhà bà Ba, một người bà con xa nhưng rất thân thiết với ngoại . Hè nào tôi về đây ngoại cũng dắt tôi lên nhà bà chơi . Tên nhóc tự xưng là cháu bà, vậy mà tôi chưa hề biết hắn.
Sau một lúc thuyết phục lẫn "hù dọa" đủ điều, hắn đã "dụ" được tôi đi tìm ngoại . Đường lên nhà bà Ba nhiều cầu khỉ vô kể, tôi bặm môi đi qua và thầm cám ơn tên nhóc vì hắn đã xách dùm tôi chiếc ba lô .
Thật khác với vườn nhãn nhà ngoại, những cây nhãn ở nhà bà Ban nặng trĩu những chùm quả no tròn và thơm ngào ngạt. Tôi hít một hơi dài và cảm thấy mùi hương tinh khiết này thật riêng biệt, có lẽ, chỉ những vườn nhãn nơi đây mới có được. Ngoại chỉ mỉm cười khi nghe tôi nói điều ấy . Ngoại âu yếm vuốt mái tóc đã khá dài của tôi: "Lớn bộn rồi mà còn con nít lắm, bằng tuổi này là mẹ con theo ba con về bên nội rồi đó". Tôi bối rối khi nhìn thấy Bình, tên nhóc, cứ đứng nhìn tôi cười tủm tỉm. Hình như Bình chưa bao giờ thấy cảnh một con nhỏ mười bảy tuổi, tóc dài tha thướt mà lại nhỏng nhẽo . Những cô gái ở đây thường lấy chồng rất sớm, khi còn là một thiếu nữ thì họ đã lập gia đình, và chấm dứt chuỗi ngày mộng mơ, nũng nụi trong vòng tay cha mẹ.



Bình hái cho tôi chùm nhãn đầu mùa thơm ngát: "Mùi hương riêng biệt, chắc là vị ngọt cũng vậy há?". Tôi nhìn hắn bằng nữa con mắt: "Dường như phải ăn hết vườn nhãn này mới biết được". "Và cả vườn nhà ngoại chị nữa chứ?". Tôi nhìn kỹ Bình, người ta nói "đàn ông miệng rộng thì sang", còn Bình miệng rộng thì rất hay hỏi . "Nhưng lúc nhãn ở nhà ngoại chị chín thì chị đã về Sài Gòn rồi". Tôi nhăn mặt : "Không đâu, phải ăn hết hai vườn nhãn mới về". Bình trợn mắt: "Chị không được xạo đó". Tôi vênh mặt: "Người lớn thì không bao giờ xạo".
Bỗng dưng Bình trở thành "hướng dẫn viên" tích cực của tôi . Hắn dắt tôi đi lòng vòng khắp xóm, có khi còn lấy cả xuồng bơi ra sông hái hoa lục bình. Có bao nhiều trò hắn cho là hay thì đều giới thiệu tận tình với tôi .
"Chiều nay em với chị đi hái phượng nha". Bình rủ. "- đâu ?". "Ngoài đình làng. - đó đẹp lắm, cho chị mặc sức mơ mộng". "Bình không sợ ông thần đình hả?". Bình cười: "không, ông thần hiền lắm. Khi nghĩ hè em cũng leo hái cho mấy nhỏ trong lớp một nhánh phượng lớn ơi là lớn, có sao đâu". Tôi cười : "Bình ga lăng quá hé". Bình mắc cỡ: "Đâu có, tại tụi nó nhờ, nên em mới hái". Cây phượng ở đình rất lớn, chỉ một nhánh của nó đã che rợp một khoảng rộng. Rễ phượng bò ngoằn ngoèo trên mặt đất tạo thành những chỗ ngồi lý tưởng. Những cơn gió nhè nhẹ từ con sông cái ngoài xa thổi vào mát rượi, nắng chiều rải vàng lấp lánh trên mặt sông.
Bình xăn tay áo lên: "Để em hái phượng cho chị nha ?". Tôi lắc đầu: " Thôi chị không giống như mấy nhỏ lớp em đâu . Chị không thích phượng. Mình ngồi đây hóng gió thích hơn. À, Bình học lớp mấy ?". "Năm tới em lên 12". "Đã, mười hai ?". "Dạ, còn chị?". "Chị, à tui ... cũng lên mười hai". Tôi nghe mặt mình ê ê, người ta học bằng mình mà mình cứ "chị chị, em em". Có lúc "cưng" nữa chứ. Nhưng tại sao Bình lại "em-chị" với tôi tỉnh bơ như vậy . Qua ngoại, Bình biết khá rõ về tôi, chắc hẳn hắn cũng biết tôi học bằng hắn mà. Hứ, muốn làm em hả, được thôi . Tôi làm mặt tỉnh hỏi Bình: "Em tuổi con gì? " "Dạ con khỉ ". " Á!". Tôi buột miệng kêu lên. Bình giật mình: " Chị sao vậy ? ". Hắn hơn tôi một tuổi thì có sao đâu, vẫn là em tuốt - Tôi tự nhủ. "Hình như có con sâu rớt xuống tóc chị". Bình vội đứng dậy, chăm chú tìm và nhón tay lấy xuống một cánh phượng đã tàn. "Không phải sâu đâu, phượng". Điều đó thì tôi biết từ lâu rồi vì chính tay tôi đã cài cánh hoa này lên tóc.
Nắng sắp tắt, thủy triều đang dâng lên. Những xác hoa muộn màng rơi xuống mặt sông, lững lờ trôi theo dòng nước ngầu đục. Tôi ném cánh phượng xuống nước để nó chở nốt một chút hè đi cùng bạn bè.
"Mình về đi Bình". "Chị chán gió sông rồi hả?". "Ừ, lạnh lắm". " Chị Hoa nè, chị học sớm một tuổi phải không?" " Ừ!" " Chị giỏi quá há ". Tôi nhìn Bình châm chọc: " Đâu có giỏi bằng những kẻ lớn hơn người khác một tuổi mà còn gọi người ta là chị, xưng em ngọt như nhãn". Bình có vẻ bối rối . " Thật tình không ai muốn như vậy, nhưng ngoại nói phải kêu bằng chị vì vai vế giữa hai nhà. Mặc dù biết Ngân Hoa nhỏ tuổi hơn nhưng vẫn phải gọi chị, thật là tức". Tôi bật cười vì tính trẻ con của Bình. "Hè nào Hoa cũng về sao không gặp BÌnh hả?". "Bình chỉ mới về ở ngoại một năm thôi . Vậy mà đã biết rất nhiều về Hoa đó. Vì Bình hay qua nhà ngoại Hoa chơi, bao giờ ngoại cũng kể về Hoa cặn kẽ đến nỗi, nhìn phía sau thôi là Bình đã nhận ra đó". "Chỉ giỏi xạo . Thôi mình về đi trời tối rồi kìa".
Hoàng hôn ở đây buông xuống rất nhanh và những tháng ngày êm đềm đã trôi qua vùn vụt. Nhãn nhà ngoại vẫn chưa chín, riêng cây nhãn gia bò đã có trái mọng nước. Bình hái cho tôi những trái đầu tiên, chúng cũng ngon ngọt như những trái ở vườn nhà bà Ba . Tuy nhãn của ngoại chưa chín nhưng tôi vẫn được hái nhãn, bơi xuồng đi bán và ăn thỏa thích vì vườn nhãn nhà bà Ba lớn gấp đôi vườn nhãn của ngoại . Cả tháng qua tôi sống trong hương nhãn dìu dịu êm đềm. Tôi yêu hương nhãn, tôi yêu miền quê này, miền quê có ngoại, bà Ba, mấy cậu dì và bây giờ có Bình nữa . Bình rất ư là dễ thương, dịu dàng và luôn tìm mọi cách để tôi vui . Vậy mà đã đến lúc tôi từ giã tất cả. Năm học mới đã gần kề mà tôi thì chưa chuẩn bị gì cả. Có lẽ giờ đây, bạn bè tôi đã náo nức cho ngày tựu trường của năm học cuối cấp đầy ý nghĩa .
Chiều, tôi và ngoại qua nhà bà Ba để chào bà vì ngày mai tôi sẽ về.
Cả nhà bà đang quây quần lựa ra những trái nhãn tiêu trong đống nhãn thơm ngát. Thảo, cháu nội của bà Ba quay sang hỏi tôi: "Khuya nay chị Hoa đi chợ không? "Tôi lắc đầu: " Sao hôm nay chị buồn ngủ quá ". Thật tình tôi không dám nói mình về lại Sài Gòn khi chợt thấy Bình buồn một cách lạ lùng. Thảo chun mũi: "Vậy là chị Hoa không đi rồi . Em nói chị Hoa nghe nè, không đi uổng lắm đó". " Sao vậy Thảo ?". "Tại vì đây là lần cuối cùng đi chợ khuya bán nhãn". Tôi chưng hửng, bà Ba giải thích: "Năm nay nhãn nhà bà chín, được giá nên bán nhanh. À, mà sao con không đi chợ với mấy em cho vui ?". Tôi im lặng, ngoại đở lời: "Ngày mai nó về Sài Gòn để đi học. -, còn phải lo tập sách quần áo . Thằng Bình với con Thảo cũng lo là vừa rồi đó con. Ngày mai đi rồi, con nên nghỉ sớm cho khỏe . Sáng sớm mai bà kêu Bình hái ít nhãn để con làm quà cho gia đình".
Đêm cuối cùng ở đây tôi không sao ngủ được và ngoại cũng vậy, chốc chốc, tôi lại nghe ngoại thở dài . Hương nhãn chín ngoài ngỏ theo gió bay vào cữa sổ quấn quít. Cây nhãn gia bò đa chín khá nhiều . Tôi thiếp đi trong mùi hương ngọt ngào và tinh khiết.
Khi tôi thức giấc, trời hãy còn mờ đất nhưng đã thấy ngoại ngồi đun nước. Ngoại nhìn tôi đầy thương yêu: "Rửa mặt đi con. Bình nó đang chờ con đi hái nhãn đó". Tôi và Bình chạy lúp xúp trên con đường làng còn ngái ngủ. Sương từ những cành lá trên cao rớt xuống lộp độp, lạnh buốt. Vườn nhãn bây giờ trông xơ xác đến tội nghiệp, duy chỉ có cây nhãn to cuối vườn vẫn trĩu quả. "Ngoại để dành cho Hoa đó". Bình nói với ánh mắt đượm buồn. Mùi hương của những trái nhãn cuối cùng, nồng nàn trong sương sớm.
Tôi rung một cành nhãn cho sương rơi xuống tóc: "Hái ít thôi nha Bình". "Nhãn nhà ngoại Hoa chưa chín mà Hoa đã đi rồi". Bình nói có vẽ trách móc, tôi cười nhỏ: "Vậy là Hoa ba xạo rồi há". "Hoa nè". "Gì vậy Bình". " Mùa nhãn tới Hoa lại về đây nữa nha". "Chắc chắn là về mà". " Bình sẽ ra thị trấn đón Hoa". Nhìn giỏ nhãn đã đầy ấp, tôi vội kêu " Thôi đi Bình. Hoa xách không nỗi đâu". Bình đưa tay vuốt những giọt sương bám đầy trên tóc: "Rồi Hoa sẽ không quên hương nhãn này chứ?".
Tôi nhắm mắt, hít một hơi dài mùi hương ngọt ngào thấm đượm trong làn gió rờm, nhè nhẹ gật đầu trả lời Bình.
Đúng vậy, dù chỉ vài giờ nữa tôi trở về cuộc sống quen thuộc của mình nơi đô thị sầm uất, dù cho quanh tôi có bao thú vui khác cùng đám bạn vui nhộn, dù cho chín tháng ròng rã sách vở ở phía trước và dù cho Bình với cuộc sống êm đềm nơi đây, rúi rít bên những cô bé thích hoa phượng trong ngôi trường rêu phong cổ kính ngoài thị trấn, tôi vẫn tin rằng chúng tôi sẽ lại cùng nhau rong ruổi nơi đây trong mùa nhãn tới . Bởi những hương nhãn thì không bao giờ thay đổi, phải không Bình?
 
N.V. ngày 20 tháng 11 năm 197...

Rét! Rét quá! Ba đứa một giường ôm nhau, mình nằm giữa, hai chăn trùm kín đầu và chân mà mãi không sao ngủ được. Có lẽ do trong hang ẩm và nước nhỉ bám đầy tường đá mới rét thế. Đêm nay ra bến phà gió mạnh, không biết còn rét đến đâu.

Không ngủ được, nằm suy nghĩ vẩn vơ mãi cũng chán, đành dậy viết nhật ký. Xưa nay mình ít viết nhật ký, lại viết dở nên rất ngại, cả viết thư cũng thế. Nhưng lúc này... Biết làm gì cho hết thời gian lúc này?

Điều đầu tiên mình muốn viết là - nhớ nhà. Nhớ và thương mẹ quá! Mẹ bây giờ đang làm gì nhỉ? Chắc buồn và giận mình lắm. Hãy tha lỗi cho con mẹ nhé, vì con bỏ mẹ ở nhà một mình, già yếu không ai giúp đỡ. Hôm được tin con ghi tên đi thanh niên xung phong, mẹ không nói gì, còn cố gượng cười để con yên tâm, nhưng con biết trong lòng mẹ rất buồn và có thể còn trách con không hỏi ý kiến mẹ trước. Mẹ ơi, con hiểu lòng mẹ. Bản thân con, con cũng chẳng dễ gì khi phải xa mẹ, xa ngôi nhà tranh bé nhỏ thân yêu của ta. Nhưng việc con ra đi là cần. Rất cần mẹ ạ. Con tin mẹ hiểu điều đó...

Có nên cho mẹ biết sự thật về điều kiện sống và làm việc ở đây không nhỉ? Không! Chỉ làm mẹ thêm lo nghĩ. Vả lại, chắc gì mình ở lâu một chỗ? Mới tuần trước còn làm đường ở Trường Sơn, bây giờ đã ở đây, cao điểm phà sông L, cách biển chưa đầy hai chục cây số. Không hiểu nay mai còn đi những đâu nữa.

Nhớ cái Hòa và bọn bạn cùng đơn vị. Không được đi với mình lần này, chắc nó buồn lắm. Hai đứa cùng làng, cùng đi một ngày, cùng ở với nhau chừng ấy thời gian, thế mà... Biết làm thế nào được. Cả đội xung phong, người ta chỉ lấy năm. Năm người để dẫn đường cho ô-tô qua sông ở bến phà này, thay cho cả tổ, cũng nữ và đều là thanh niên xung phong, vừa hy sinh ba ngày trước đó. Những người được chọn là Vân, Yến, Lộc, mình và út. Mỗi đứa một tính, một kiểu người, nhưng đều rất trẻ và chưa chồng, chưa cả người yêu, trừ cái Yến, già nhất, hai mươi hai tuổi, nghe nói đã có "chàng" nào đấy. Cũng nghe nói thôi chứ chưa bao giờ thấy cô nàng nhận thư hoặc nói gì về anh ấy. Nó kín lắm. Lại nghiêm khắc nữa. Tổ trưởng mà! Từ nãy đến giờ đã hai lần nhắc mình ngủ, đêm còn đi làm. Cả cái út nữa (nó cũng là em út của tổ), nó đã mấy lần cấu mình, bắt nằm xuống để ôm nó cho ấm. Cứ như con nít...

21 tháng 11.
Ngày cũng như đêm, không lúc nào ngớt tiếng máy bay. Thỉnh thoảng còn pháo từ biển câu lên.

Tổ mình ở phía Bắc bến phà. Cả năm đứa đứng rải trên một đoạn đường dài, từ mặt nước tính lùi lại, mỗi đứa cách nhau hai trăm mét. Tổ trưởng Yến phân công út đứng trên cùng vì nó nhỏ nhất, lại mới ra chiến trường. Tiếp đến là Vân, rồi Lộc. Chặng cuối cùng phải hai người, là mình và Yến.

Đây là một trong những trọng điểm ác liệt nhất của mạch máu giao thông Bắc Nam. Cách sông còn những mấy cây số mà mặt đường đã bị bom và rốc-két địch cày tung, ô-tô không thể tự đi một mình, nếu không có người xi-nhan. Nhiệm vụ bọn mình là đi trước, dẫn xe men theo những miệng hố bom mới lấp sơ sài, tránh chỗ đánh dấu có dấu bom nổ chậm, cho tới tận mép nước. ở đấy sẽ có người xếp xe lên phà. Vì đêm không được đốt đèn, bọn mình đứa nào cũng phải mặc áo trắng để từ ca-bin, lái xe thấy mà đi theo. Những lúc có máy bay - ấy là nói khi chúng thả pháo sáng hoặc lao xuống bắn phá, chứ bay ngang hay vần lượn thì kệ - ai ở trên có thể chạy lánh xa khu vực bến phà, còn người phía dưới thì ở nguyên tại chỗ, trú trong các hầm cá nhân được đào sẵn bên cạnh. Có lúc chúng bắn mặc chúng, phà cứ chạy, ô-tô cứ đi, tất nhiên con người cứ tiếp tục làm việc. Càng sáng! Càng không phải dò dẫm như trước!

Ban ngày bến phà thật yên tĩnh, nhưng chỉ là cái yên tĩnh tương đối của chiến tranh. Không tiếng phà, không tiếng ô-tô, không có gì ngoài một dải đất nham nhở, màu sắc lẫn lộn, lổng chổng những xác xe bị lật hoặc bị bắn cháy chưa kịp thu dọn. Bên cạnh, giấu hết mọi sự khốc liệt của chiến tranh vào lòng, con sông vẫn không ngừng chảy, bình thản và hiền từ như nghìn năm nay. Thật khó tin rằng chỉ chốc nữa, khi mặt trời vừa lặn, là hàng đoàn ô-tô, hàng đoàn người sẽ từ đâu đó chui ra. Cả bến phà sẽ bừng tỉnh dậy, bắt đầu một "ngày" mới, một cuộc chiến đấu mới...

25 tháng 11.
Hôm nay cả hai phà cùng trúng bom một lúc. Gần mười chiếc xe được dẫn xuống tận sông phải đứng trơ trọi dưới ánh sáng chói rực của đèn dù, dưới làn bom và rốc-két máy bay địch.

Phòng không ta bắn rất dữ.
Tổn thất...
 
Mình có sợ chết không? Biết nói thế nào được nhỉ? Có. Sợ, nhất là những lúc thế này, khi suốt ngày nằm dài trong hang yên tĩnh và có quá nhiều thời gian để suy nghĩ. ừ, có lẽ nói sợ cũng chưa thật đúng. Mình chỉ tiếc. Bây giờ mà phải chết thì tiếc lắm. Lại thương nữa. Thương mẹ ở nhà. Thương bọn bạn phải buồn, phải gánh thêm một phần việc.

Không hiểu sau khi chết thế nào nhỉ? Không lẽ mình sẽ chẳng còn biết gì nữa? Chẳng biết cả việc một ngày nào đó chiến tranh kết thúc, mọi người sẽ tìm gặp lại nhau, sẽ đi học, làm việc, hay chỉ đơn giản sẽ được sống hòa bình? Ôi, hòa bình!... Chết chắc phải đau lắm. Hẳn thế. Không đau sao được khi cơ thể bị xé ra từng mảnh? Người khác nghĩ thế nào về cái chết? Cái Lộc và cái Vân, cái út hay cái Yến chẳng hạn? Chúng có sợ như mình không? Chắc có. Nhưng chúng không bao giờ để lộ điều ấy ra ngoài. Chúng vẫn lặng lẽ làm việc, các tốp thanh niên xung phong chữa đường cũng thế. Anh em lái xe, lái phà cũng thế. Mình cũng thế.

27 tháng 11.
Đọc mấy trang vừa rồi, thấy buồn cười. Toàn chuyện vẩn vơ không đâu. Lúc nãy tò mò, mình hỏi út:

- Này út, em có sợ chết không?

út tư lự một lúc, rồi thay cho câu trả lời, nó hỏi lại:

- Em hỏi chị, chị phải nói thật nhé, chị Liên. Đã bao giờ có người con trai nào hôn chị chưa?

- Chưa... Sao em hỏi thế?

- Em cũng chưa. Con gái chết mà chưa được hôn kể cũng thế nào ấy, chị nhỉ? - nó nói, giọng mơ màng và hơi buồn, rồi lại rúc vào chăn, ôm mình đến nghẹt thở. Con bé rõ đến lạ.

1 tháng 12.
Cả bọn được một phen hú vía. Chiều qua một thằng "Con Ma" bất chợt phóng liền mấy quả tên lửa vào đúng cửa hang. May không ai việc gì. Lý do là trước đó mấy đứa tắm xong, bao nhiêu đồ lót, đồ vệ sinh phơi tuốt cả một dây ngoài nắng. Tuy biết làm thế có thể nguy hiểm, nhưng kệ! Cứ trêu thằng Mỹ, xem hắn tồi đến mức nào. Và thằng Mỹ đã cho biết hắn tồi đến mức nào. "Cứ thấy xu-chiêng đàn bà là mò đến!" một đứa châm chọc.

Sau đó họp tổ, cái Yến cấm từ nay không được ai phơi bất cứ cái gì trắng ngoài cửa hang, thậm chí cả khăn mù- xoa. Nhưng ác thay trong hang luôn ẩm ướt, không có gió, phơi bao nhiêu vẫn không khô. Mặc vào người thật khó chịu.

5 tháng 12.
Nhớ nhà quá!

Thèm bữa canh rau mồng tơi. Hay rau ngót, rau bầu cũng được. ở đây không chợ, không vườn, cái cần và khó kiếm hơn cả là rau xanh, vì miền Trung đất cát, quanh năm nắng nóng chẳng tìm đâu ra những thứ ấy. Khắp nơi đất bị cày tung, có hôm đi suốt buổi chỉ nhặt được nhúm rau má già hoặc rau sam chua loét. Da cứ sùi lên như bị hủi...

6 tháng 12.
Cái Lộc có thư. Nét chữ trên phong bì nắn nót, lại không ghi tên người gửi. Cả bọn đoán thư người yêu nên hồi lâu bắt nó phải khai thật hết mọi chuyện mới cho nhận. Cái Lộc nói ngay là chẳng có gì để khai, bảo cứ bóc tại chỗ, đọc to mọi người cùng nghe. Thì ra đó là thư một người bà con xa ở Hà Nội, nội dung khô khan và chỉ những lời thăm hỏi bình thường. Không hiểu sao nghe xong, đứa nào cũng có vẻ như bị hẫng và hơi buồn, vì cứ tưởng và muốn đó là một bức thư loại khác, thư tình với những lời âu yếm dè dặt và kín đáo, dù những lời ấy không dành cho mình.

Lát sau nằm trong chăn, lại cái út cấu vào tay:

- Chị Liên này, chị có người yêu chưa?

- Chị cũng không biết. Có lẽ chưa.

- Sao lại có lẽ? Có hay không thì chị phải biết chứ?

- Chuyện không đơn giản như thế... Mà thôi, út ngủ đi.

Nhưng cái út không chịu thôi. Tính nó thế, muốn biết cái gì là phải hỏi bằng được.

- Anh ấy là ai? ở đâu?

Mình buộc phải trả lời nó:

- Xa lắm. Anh ấy đang học ở nước ngoài. Nhưng từ ngày xa nhau, chị chưa bao giờ nhận được thư anh ấy. Còn chị thì không biết địa chỉ, mà có biết cũng không gửi. Chị và anh ấy cùng làng.

- Thế anh ấy có yêu chị không ?

- Chị không biết. Chắc anh ấy quên chị rồi.

- Còn chị?

- Đừng hỏi nữa. út ngủ đi! Mà rồi giữa anh ấy và chị chưa có gì đặc biệt. Chỉ thế thôi.
Cái út nằm im một lúc rồi bỗng nói, giọng hờn dỗi:

- Em là em chúa ghét những anh đi nước ngoài. Cứ tưởng mình ghê lắm, mặt vênh lên, nhìn người khác bằng nửa con mắt...
 
ấy, em đừng nói thế. Không phải ai cũng như em nghĩ đâu.

Cái út không nói gì thêm, nhưng chắc còn lâu nó mới ngủ được. Nó trong trắng, vô tư quá. Hôm nọ nó nói gì nhỉ? ừ, "con gái chết mà chưa được hôn kể cũng thế nào ấy...?" Ngộ thật.

2

- Cái này mãi gần hai năm sau khi nó hy sinh tôi mới nhận được. - Bà Nghĩa vừa nói, vừa hất đầu chỉ cuốn nhật ký tôi đang đọc dở. - Cùng ít quần áo và tư trang của nó. Tôi nhờ thằng lớn nhà Cả Chung bên cạnh đọc cho nghe. Tội nghiệp con bé. Tôi chỉ có mình nó. Nhiều khi nghĩ mà đứt ruột. Cậu xem, tôi già yếu thế này, vậy mà trời bắt phải sống lâu hơn con, sống để nghe những lời kia của nó...

Rồi bà thở dài, cúi xuống sàng nốt mẻ gạo mới giã.

Nhà bà Nghĩa và nhà tôi chỉ cách nhau mấy con ngõ. Chồng chết sớm, bà chưa quá năm mươi mà trông như cụ già.

Năm nay tôi dành trọn cả mười ngày phép về thăm quê. Theo lời khuyên của mẹ tôi, tôi đi một vòng gọi là "thăm xã giao" các nhà trong xóm, một việc những lần trước phần vì bận, phần vì ngài ngại, tôi vẫn chưa làm được. Tôi đến nhà bà Nghĩa, và bà đã cho xem cuốn nhật ký của Liên, con gái bà, để lại.

Bà Nghĩa có đoán ra tôi là "anh ấy" mà Liên đã nhắc trong nhật ký không? Có thể lắm. Vì vậy bà cho tôi xem để trách khéo việc tôi để con gái bà đau khổ chăng? Cũng có thể bà không biết gì. Xưa nay bà là người tốt bụng, chất phác, không quen suy xét sâu sắc kiểu ấy. Vả lại, trong xóm tôi không là người duy nhất đi học nước ngoài những năm chiến tranh.

Còn tôi, tôi và Liên thì thế nào?

Không ngờ Liên tình cảm và sâu sắc đến thế. Bây giờ nghĩ lại, tôi thấy lúc đó quả tôi là một cậu bé ngờ nghệch, vô tư đến tàn nhẫn. Chúng tôi là bạn thân, học cùng trường, tôi hơn một lớp. Trường xa, cùng đi cùng về mà nào có bao giờ nói chuyện với nhau, hoặc giả có nói, cũng chỉ toàn chuyện bông đùa, trêu chọc như phần lớn những đứa khác vào tuổi ấy. Tất nhiên tôi không thể không nhận thấy Liên là một cô bé (trong ký ức tôi, bao giờ Liên cũng là cô bé) tốt, lại xinh. Nhưng lúc ấy, về tâm, sinh lý tôi chưa phát triển đến tình cảm yêu đương, và tất nhiên không biết có thể Liên đã chú ý, hay thậm chí còn thầm yêu tôi.
Đêm trước hôm tôi đi, cùng một số bạn gái khác, Liên đến chia tay, uống nước chè xanh, ăn kẹo lạc và hát những bài ca cách mạng. Suốt buổi Liên im lặng. Rồi tình cờ hai đứa ngồi cạnh nhau. Cũng im lặng. Có thể lúc ấy tôi lờ mờ đoán được tình cảm của Liên với tôi, nhưng Liên không dám nói. Còn tôi, không hiểu tôi có nói điều gì không để Liên hiểu theo cách mình và hy vọng, dù không đâu, mong manh, nhưng vẫn cứ là hy vọng?

Tôi xa nhà bảy năm. Có thể nói suốt thời gian ấy tôi quên hẳn Liên, không hỏi thăm hoặc viết cho Liên một bức thư nào. Khi Liên hy sinh, tôi được bố mẹ báo cho biết. Tôi buồn và thương Liên, hẳn thế, nhưng vẫn là cái buồn thương chung chung như khi nghe tin ai đấy trong làng từ chiến trường không trở lại. Có lẽ tôi sẽ còn tiếp tục nghĩ như thế về Liên, nếu hôm nay vô tình không được đọc cuốn nhật ký này.

Bà Nghĩa đã bỏ ra sân thái rau cho lợn. Tôi ngồi lại một mình bên chiếc bàn học của Liên ngày nào, xúc động lật tiếp những trang chữ li ti đã ngả màu cùng năm tháng...

3
10 tháng 12.
Mỗi đứa được phát hai mét vải trắng. pôpơlin pha ni-lông hẳn hỏi. Để may áo thay những chiếc đã ố màu, lái xe kêu họ cứ lẫn với màu trắng của đất.

Cả hang sôi nổi hẳn lên. Đi làm về, vừa chợp mắt một chốc đã vùng dậy, đứa nào cũng hý hoáy may may cắt cắt.

Bỗng cái Vân ngừng tay, ngồi thừ một lúc rồi nói:

- Kể cũng buồn cười thật đấy, chúng màỵ ạ. Bọn mình thì tỉ mẩn may móc từng mũi nhỏ, nhỡ một tý đã xuýt xoa như may áo cưới không bằng, lại còn kiểu này, kiểu nọ nữa. Nhưng thử hỏi để làm gì? Ban ngày không dám mặc, mà cũng chẳng biết mặc cho ai, còn đêm, đêm thì thế nào chẳng được! Tớ ấy à, tớ thì muốn cứ để cả tấm mà khoác. Càng rõ! Càng khỏe! Còn hơn phải vất vả thế này để làm duyên... làm duyên với những chiếc ô-tô mù!

Mắt cái Vân ươn ướt như muốn khóc. Nó nói là nói thế thôi, chứ cả tổ, nó vẫn là đứa ưa diện nhất, kỹ tính nhất trong chuyện ăn mặc, chắc chắn lần này áo của nó cũng được may cẩn thận và đẹp nhất.

- Cánh lái xe là chúa tếu đấy nhé. - Một chốc sau Lộc lên tiếng, có lẽ để xua đi sự im lặng bất tiện. - Một hôm có chàng bảo mình thế này, chúng mày nghe có được không? "Này, đồng chí áo trắng ơi, đồng chí có xinh không đấy?". "Không đến mức khó coi như anh tưởng đâu", mình đáp. “Vì sao anh hỏi thế?". "Là vì cái xe của tôi ấy mà, không hiểu sao từ khi gặp cô, nó không chịu nghe theo tay lái của tôi nữa. Cô đi, nó đi, cô đứng, nó đứng. Tự nó quyết định. Còn tôi, tôi chỉ ngồi khoanh tay mà nghĩ rằng chắc cô phải xinh lắm nên mới thôi miên được nó như vậy. Tôi lo chốc nữa nó sẽ tự theo về lán của cô mất. Tôi không có lỗi đâu nhé! à mà lán các cô ở đâu nhỉ?” Mình cũng không vừa, mình nói: "Nhà em ở kia, ở phía cái hang kia kìa. Hôm nào từ chiến trường quay ra, cứ để cái xe khó bảo của anh rẽ vào, chồng em sẽ cho nó một trận!..."

- Giỏi lắm! Rồi anh chàng đáp sao? - một đứa hỏi.

- Anh chàng im, nhưng chắc hiểu mình đùa. Anh ta thấy màu trắng áo mình. Còn mình thì chẳng thấy gì. Chỉ nghe giọng nói. ấy thế mà buồn cười lắm, chúng mày ạ. Xe đi rồi mà không hiểu sao mình cứ thấy bâng khuâng thế nào ấy... - Cái Lộc ngồi im một lúc rồi đột ngột hỏi: - Chúng mày có nghĩ một ngày nào đó anh ta sẽ vào đây không?

12 tháng 12.
Ngày đầu tiên cả năm đứa diện áo mới đi làm. Mỗi đứa mỗi kiểu, vuốt, gấp cẩn thận rồi đặt dưới lưng nằm suốt đêm cho thật phẳng, thành nếp hẳn hoi như được là kỹ. Ngay từ chiều, đứa nào cũng mặc áo mới, soi gương ngắm nghía, rồi cởi ra, rồi lại mặc vào, đổi áo, ướm thử áo nhau mãi. Khi không còn việc gì nữa để làm, cả bọn cứ mặc áo mới ngồi chờ đêm xuống để ra khỏi hang, bồn chồn và sung sương như chờ cái gì đấy thật hệ trọng.
Không biết hôm nay các chàng lái xe có nhận thấy sự kiện mới lạ này không ?

15 tháng 12.
Mấy ngày nay thằng Mĩ hoạt động đặc biệt ác liệt. Nó quyết phá. Ta quyết giữ. Máy bay bay suốt đêm. Pháo từ biển câu vào không còn theo giờ như trước. Nhưng dòng xe không vì thế mà bị dừng lại. Bến phà phải đổi chỗ nhiều lần. Kể ra, gọi là chỗ vượt sông thì đúng hơn. Nhiều chỗ vượt sông như thế. Có cả chỗ để nghi binh. Thiếu người, tổ phải chia ra làm việc ở ba nơi.

Nhớ nhà quá. Nhớ mẹ quá.

Anh ấy có lúc nào nghĩ về mình không nhỉ?

16 tháng 12.
út hy sinh! Ba giờ sáng hôm nay. Nó làm một chỗ với Vân. Một thằng lao xuống phóng rốc-két, như hàng trăm thằng trước đấy từng lao xuống phóng rốc-két. Tiếng nổ bình thường, trận đánh phá cũng bình thường, nghĩa là tất cả giống mọi ngày, thế mà sau đó út không còn nữa. Một mảnh đạn cắm đúng tim nó. Một mảnh khác cắt đứt phần trên vú trái. Một tiếng sau khi nó chết, mình mới biết. Biết mà chẳng đến được vì còn phải làm việc. Khi gặp út thì trời đã sáng. Yến đã lau sạch máu và bụi bẩn trên người nó. Một đứa nào đó trong tổ cởi chiếc áo trắng mới còn nguyên lành của mình mặc cho út. Khuôn mặt út thật thanh thản. Đôi mắt vuốt mãi không chịu nhắm, như đang mơ màng nhìn một điểm nào đó trước mặt. Nó chỉ ngạc nhiên, hơi buồn vì phải chết sớm và vô lý như vậy. Một bên miệng của nó hơi nhếch, thơ ngây, bẽn lẽn như hôm nào nó hỏi: "Con gái chết mà chưa được hôn, kể cũng buồn, chị Liên nhỉ?".

Mình cúi xuống, lặng lẽ hôn lên đôi môi của út.

17 tháng 12.
Hôm nay đi làm về, thương út, cả bốn đứa ngồi ôm nhau khóc.

20 tháng 12.
Vẫn ác liệt như trước. Xe vẫn thông.

24 tháng 12.
Thế là đã ở bến phà N.V. này hơn một tháng. Một tháng cộng với hai năm nay đây mai đó theo các con đường của khu Bốn khói lửa. Chỉ mấy ngày nữa là năm mới. Năm mới... mọi người sẽ già thêm một tuổi. Mình cũng thế.

Liệu mình phải già thêm bao nhiêu tuổi nữa trước khi chiến tranh kết thúc? Còn út thì vĩnh viễn ở lại với cái tuổi mà bây giờ nó có, chiến tranh hay không chiến tranh cũng thế. Vĩnh viễn yên nghỉ với cảm giác thanh thản của người đã cống hiến cho người khác cái quý nhất mình có. Đúng, thanh thản, nếu không kể nỗi sợ rất con gái kia mà nó vẫn cảm thấy đâu đó sâu trong lòng cho tới khi xuống mộ. Tội nghiệp con bé...

27 tháng 12.
Xe vào nhiều quá, có lẽ sắp đánh lớn. Ban ngày ít được ngủ hơn vì thường đi chữa đường giúp các đội thanh niên xung phong.

Hàng ngày bốn đứa vẫn mặc áo từ chiều, những chiếc áo được may đẹp, gấp vuốt phẳng phiu, ngắm nghía, sửa sang cho nhau để tối đến, như cái Lộc một lần chua xót nói, “làm duyên với những chiếc xe mù”. Kể cũng buồn cười, biết người khác không thấy mặt mình và mình không thấy người khác, chỉ những cuộc gặp gỡ thoáng qua mấy phút, lại trong hoàn cảnh ác liệt như hiện nay, thế mà cả tổ trước khi đi đứa nào cũng chăm chút vẻ ngoài như sắp làm dâu không bằng. Một bản năng rất con gái, có lẽ cũng chỉ con gái mới hiểu nổi. Chao, ước gì hoà bình! Ước gì được mặc những chiếc áo trắng này tự do đi lại giữa ban ngày...

28 tháng 12.
Hôm nay Yến hy sinh!...

Còn lại ba người: Vân, Lộc và mình. Mình được cử làm tổ trưởng.

Yến ơi, thương mày quá! Mày là đứa duy nhất có người yêu chờ đợi, thế mà mày hy sinh... Mày quá kín đáo, mày chẳng cho chúng tao biết người yêu của mày là ai, ở đâu, để chúng tao báo cho anh ấy biết mày là người thế nào.

31 tháng 12.
Hầu như đêm nào cũng có xe đổ và người chết. Mỗi lần ra phà, đâu đó sâu trong tim, một ý nghĩ nhỏ thôi, nhanh thôi, nhưng sắc như mũi dao lại nhói lên - ý nghĩ rằng hôm nay sẽ đến lượt ai đây? - mình, cái Vân, cái Lộc, hay thậm chí cả ba?

Trước khi bước ra khỏi hang, ba đứa nhìn nhau im lặng, nhưng rất hiểu...
Xe vẫn thông...

4
Nhật ký của Liên ghi đến đây thì dừng. Bất giác tôi ngước lên nhìn tấm bằng liệt sĩ lồng kính treo trang trọng trên tường. Thì ra Liên hy sinh đúng vào ngày 31 tháng 12 năm 197..., ngày cuối cùng ghi trong nhật ký. Cũng là ngày cuối cùng trong năm. Tôi nhẩm tính - Liên đã không gắng sống thêm được mấy giờ nữa để bước sang năm thứ hai mươi đẹp đẽ của đời mình.

Từ trên tường, qua lớp kính phủ nhẹ một màng bụi mỏng, một cô bé tóc tết đuôi sam, khuôn mặt còn trẻ con với đôi mắt thơ ngây mở to đang nhìn tôi. Đó là Liên. Chắc đây là bức ảnh duy nhất của con gái bà Nghĩa còn giữ được, chụp vào dịp Liên tốt nghiệp lớp mười. Tôi không dám nhìn thẳng vào đôi mắt ấy; không dám nhìn cả vào đôi môi đang hé mở, đôi môi chưa một lần trong đời được biết cảm giác của cái hôn âu yếm.

Tôi lặng lẽ trả lại cuốn nhật ký cho bà Nghĩa, lơ đãng trao đổi thêm ít câu rồi ra về.
Sáng hôm sau, trước sự ngạc nhiên của mọi người, tôi thu gói đồ đạc lên đường, nhưng không phải đi Hà Nội, mà ngược lại, vào Vinh mua vé ô-tô đi Quảng Bình, tới bến phà N.V. mà Liên nói đến trong nhật ký.

5
ở trụ sở ủy ban xã S. nơi có bến phà N.V. ngày nọ, sau khi nghe tôi tự giới thiệu và nói rõ mục đích chuyến đi của mình, người ta chỉ cho tôi đến gặp ông Nam, phó chủ tịch xã.

Ông Nam là người vui tính và cởi mở. Ông nhìn qua một lượt suốt người tôi và hỏi:
- Anh là bà con cô Liên à? - Nhưng không chờ tôi trả lời, ông nói luôn: - Chính tôi là người tìm thấy và đọc cuốn nhật ký đó. Tội nghiệp các cô gái. Hồi ấy tôi là trung đội trưởng dân quân xã. Tôi được lệnh điều các cô dân quân của tôi dẫn xe ở đoạn trên, còn ba cô thanh xung phong thì làm ngay sát bến phà. Vào cái đêm cuối năm đáng nhớ ấy, hình như độ mười giờ thì phải, bất ngờ một chiếc "Thần Sấm" từ đâu lao đến ném một loạt bom, không lượn vòng nào, cũng chẳng thèm bắn pháo sáng, thế mà trúng phà, trúng luôn cả ba cô gái. Anh xem có đau không ... - Ông Nam dừng lại, ngồi im một chốc như cố nhớ điều gì, rồi nói tiếp, giọng trầm hẳn xuống: - Thậm chí đêm ấy, bận việc thông xe, chúng tôi chẳng kịp nhặt hết các mẩu xác bị bom chặt đứt vung vãi khắp nơi. Mãi chiều hôm sau mới tìm được hết, xác định cái gì là của ai rồi làm lễ chôn cất. Sau này, chiến tranh kết thúc, khi người ta định đưa các cô - cả năm cô - vào nghĩa trang liệt sĩ xã, tôi đem chuyện nhật ký cô Liên ra kể, và đề nghị xây riêng mộ cho các cô ở cạnh bến phà cũ. ý kiến của tôi được chấp nhận. Bây giờ ta ra đấy chứ?

Nói rồi, ông phó chủ tịch xã hăm hở đi trước, tắt qua một cánh đồng lúa vừa trổ bông thoang thoảng hương thơm, về phía dòng sông L. đang trải rộng, trắng lóa dưới ánh mặt trời tháng Tư. Tôi lặng lẽ bước theo với cảm giác hồi hộp như sắp được chứng kiến một cái gì đấy linh thiêng và trọng đại.

Trên đỉnh một ngọn đồi xanh vươn sâu tận mép sông, người ta xây mộ năm cô gái thanh niên xung phong thành năm cánh của một bông hoa, đầu chụm vào nhau. Một bông hoa màu trắng, vì mộ được quét vôi trắng. Các bia đứng kề sát nhau, tạo thành một hình tròn có trồng những bông hồng và cúc lẫn lộn, tức là làm nhị của bông hoa xi măng trắng vĩ đại. Trên những tấm bia ấy tôi đọc thấy tên cô Yến tổ trưởng nghiêm khắc; tên cô Vân ưa diện; tên cô Lộc mơ hồ chờ đợi một chàng lái xe mà cô chỉ mới trò chuyện một lần nhưng không thấy mặt; tên cô út bé nhất tổ chỉ sợ duy nhất một điều là chết mà chưa được hôn. Và tất nhiên tôi thấy cả tên của Liên, cô hàng xóm, cô bạn cùng trường của tôi, người con gái đưa tôi vượt hàng trăm cây số đến đây, và quan trọng hơn là đã giúp tôi tự nhìn nhận lại mình, tự đánh giá nghiêm khắc những gì tôi đã, đang và sẽ làm trong đời.

- Nghĩ mà thương các cô gái, - vừa bật lửa châm hương, ông Nam vừa khe khẽ nói. - Đang tuổi ăn diện mà đến cái áo trắng cũng không được mặc ban ngày. Còn bây giờ thì...- ông ngập ngừng chốc lát rồi quay sang bảo tôi: - Những ngôi mộ này, anh ạ, cứ đều đặn nửa năm một lần tôi cho quét vôi mới. Cũng có người kêu lãng phí, nhưng tôi thì tôi cứ cương quyết...

Ông Nam còn nói thêm điều gì nữa nhưng tôi không nghe rõ, vì lúc ấy tôi đã bỏ đi xa, tìm nhặt những bông hoa bướm, hoa mua mọc nhiều quanh đấy. Một chốc sau, tôi quay lại với một bó lớn trong tay. Tôi chia đều thành năm phần, nhẹ nhàng đặt lên năm cánh trắng của bông hoa xi măng. Rồi vô tình như hẹn trước, cả tôi và ông Nam cùng cúi đầu đứng lặng mấy giây.

- Liên ơi, hãy tha lỗi cho tôi Liên nhé!

6

Sáng hôm sau, tôi lên đường ra Hà Nội. Từ ô-tô, tôi thò đầu qua cửa sổ, ngoái nhìn mãi những ngôi mộ màu trắng được xếp thành hình một bông hoa trên ngọn đồi xanh, trông xa như chiếc nơ trên đầu một cô gái. Suốt đường đi, những ý nghĩ đượm buồn cứ quanh quẩn trong đầu tôi, ý nghĩ rằng ngày xưa đã từng một thời có nhiều cô gái chỉ thèm được một lần mặc áo trắng tự do đi giữa ban ngày, thế mà các cô chỉ được mặc vào ban đêm để làm nhiệm vụ, để "làm duyên với những chiếc xe mù". Và rồi các cô hy sinh, lặng lẽ mang theo xuống đất cùng tuổi trẻ là cái ước mơ tưởng vô cùng đơn giản ấy, cũng như các cô đã lặng lẽ lập chiến công, lặng lẽ yêu và lặng lẽ ra đi để một ngày nọ, như trong câu chuyện cổ tích, lặng lẽ biến thành những cánh hoa màu trắng, cái màu trắng phải đổi bằng màu của máu...

Đà Lạt tháng 4, 1982 - Hà Nội, tháng 2, 1984.
 
Một hôm, cách đây chừng 7, 8 tháng, có người bạn hỏi tôi:
- Tại sao anh không đeo kính?
- Làm sao tôi phải đeo?
- Tuổi anh bây giờ là phải đeo rồi chứ còn sao nữa. Không đeo, đến lúc mắt hỏng nặng, không nhìn thấy gì đâu!
Từ lúc người bạn đó ra về, mắt tôi tự dưng mờ hẳn. Nhìn gần nhìn xa đều không rõ nữa.
Lâu nay tôi vẫn thầm mong cho tóc chóng rụng, cho trán hói đi. Rồi đeo thêm chiếc kính vào cho ra dáng trí thức. Vì tôi cho như thế là dấu hiệu của một anh trí thức. Ngay như anh bán thịt bây giờ mà để trán hói và mang kính vào, tôi cho trông cũng không khác gì giáo sư đại học! Nhưng cái mơ ước ấy của tôi không thực hiện được, vì tóc tôi mỗi ngày một dày thêm. Thế thì ít ra tôi cũng nên sắm cái kính mà đeo vậy. Ai nhìn thấy tôi, người ta phải bảo: bác học đấy!
Vậy là tôi đi khám đốc tờ. Khám xong, ông này bảo tôi:
- Anh bị cận thị! 1, 75 đi-ốp!
Theo đơn ông ta dặn, tôi sắm một cái kính. Nhưng cứ động đeo vào là tôi thấy mặt mày sa sầm, buồn nôn không chịu được. Thậm chí có lần, nói vô phép các bạn, tôi nôn thật! Nôn thốc nôn tháo, nôn ra cả mật xanh mật vàng. Không đeo thì không nhìn thấy gì, mà đeo thì tuy nhìn thấy được, nhưng lại bị cảm giác buồn nôn. Thật đúng là khổ!
Một ông bạn khác thương hại bảo tôi:
- Tôi có thể giới thiệu với anh một ông bác sĩ giỏi. Anh hãy đến ông ta khám xem!
Ông bác sĩ này xem mắt tôi, rồi xem chiếc kính.
- Thằng cha lang băm nào cho anh đơn mưa cái kính này thế? Có phải anh bị cận thị đâu!
- Thế tôi bị làm sao ạ?
- Viễn thị ! 2 đi-ốp!
Tôi lại mua kính mới. Đeo chiếc kính này tôi không còn thấy chóng mặt buồn nôn nữa, nhưng lúc nào cũng bị chảy nước mắt. Đâm ra mắt tôi lúc nào cũng đỏ hoe; như khóc ai vậy. Tôi bị cái cảm giác thương xót rất lạ. Cặp kính này chỉ có đeo để đi đưa đám là hợp.
Một ông bạn thân tỏ vẻ ái ngại cho tôi:
- Thế này thì cậu đến mù mất! Cậu phải đi khám bệnh viện nhà nước xem sao! ở đấy họ khám cẩn thận. Lại có giáo sư nhãn khoa nữa, chứ không như mấy ông bác sĩ tư!
Bệnh viện nhà nước quả là có khác thật : máy móc nhiều, mà dụng cụ cái gì cũng sáng loáng.
Tôi được một giáo sư khám. Tôi kể cho giáo sư nghe cái bất hạnh của tôi:
- Người thì bảo tôi là cận thị, người thì bảo là viễn thị!
Giáo sư giận lắm :
- Quân ngu! Anh không phải cân thị, cũng không phải viễn thị, mà là loạn thị!
Theo đơn của giáo sư, tôi mua đôi kính khác. Cặp kính này tôi đeo vừa lắm, trông cái gì cũng rõ. Phải mỗi tội bây giờ cái gì như cũng lùi hẳn ra xa. Mấy bức tường trong căn buồn tôi sống hàng chục năm nay dường như bị lùi xa đến hàng ba chục thước. Tôi giơ tay chực bắt tay người quen, nhưng không sao với tới được. Định viết, giấy đã chạy xa khỏi tay đến hai thước. Nhìn vật gì cũng thấy bé tí xíu. Người thì chỉ bằng hạt đậu ván... Nhưng hại nhất là tôi không ăn uống gì được. Vì vừa ngồi vào bàn là đĩa thức ăn đã chạy đi xa hai chục thước rồi. Mùi súp nóng bốc ngay dưỡi mũi, nhưng cứ cầm thìa chực múc, thì bát súp đã ở cách xa hàng hai mét! Tôi không ăn uống cử động gì được nữa. Một anh bạn phải dắt tay tôi đến một bác sĩ khác tốt nghiệp ở Mỹ về. Khám xét cẩn thận xong ông ta bảo tôi:
- Đứa nào cho anh đơn mua cái kính này đây? Đúng là đồ lang vườn dốt nát ! Anh cứ kiện lên phòng công tố cho nó bỏ mẹ!
- Thôi ! Cứ để thánh Ala trừng phạt hắn ! - Tôi nói.
Tôi lại thay kính mới. Bây giờ mắt tôi nhìn cái gì cũng hoá hai. Nhà tôi đang bảy người, bỗng nhiên thành mười bốn. Mỗi người lại có một người giống hệt mình. Thật tôi chưa bao giờ thấy chuyện lạ như vậy. Chả lẽ lại có những người giống nhau đến mức độ như thế hay sao? Vô lý quá! Nhìn xuống chân thì thấy bốn chiếc ủng, nhìn bàn tay thì thấy có mười ngón!
Tôi đến một ông bác sĩ khác. Ông này học ở Đức về.
- Ai bảo anh đeo kính này?
- Làm sao ạ?
- Sai chứ còn sao nữa!
Hoá ra một mắt tôi bị viễn, còn mắt kia thì cận. Vị danh y mới lại ghi cho tôi chiếc kính khác. Bây giờ tôi không phân biệt được sáng tối ưữa. Xung quanh tôi tối như hũ nút.
- Đứa dốt nào ghi cho anh chiếc kính này vậy hả? Mắt anh hoàn toàn bình thường, có làm sao đâu?
- Nhưng tôi không thấy gì cả! Tối cứ như bưng ấy!
- Thế là anh bị quáng gà thôi, chứ chẳng có làm sao hết!
Lại uống thuốc, lại tiêm, lại kính mới... Bây giờ các vật ở xa trông lại hoá gần. Chân đáng lẽ leo lên tàu thuỷ, thì lại bước ngay xuống biển... Vì tàu chưa cập bến, nhưng trông cứ như đã ngay sát bờ. Không còn viên bác sĩ nào trong tỉnh là tôi chưa mò đến! Ông này bảo mắt phải tôi cận, mắt trái viễn thì ông khác nói ngược lại. Ông trước kêu bị loạn thị thì ông sau phán là bị đục nhân mắt. Đeo kính của cái ông bảo tôi bị đục nhân mắt, thì cái gì cũng xa màu xanh cả. Có ông còn đoán tôi bị chứng mù màu. Nhìn phía trước nhìn sang bên, nhìn xa nhìn gần, cái gì cũng biến thành hai, màu sắc lẫn hết. Đi trên đường thẳng mà tôi có cảm giác như bước xuống cầu thang, mỗi bậc cách nhau hàng bốn năm chục phân. Tôi cứ phải bước từng bước dài như lạc đà vậy.
Một lần, đang đi trên cầu, thế quái nào tôi bước hụt một cái, ngã lăn quay xuống dưới. Vì cứ tưởng những bậc cầu thấp hơn đến một mét. Cái kính bị văng đi làm tôi không nhìn thấy gì nữa. Cái gì cũng mờ mờ ảo ảo. Người ta đỡ tôi dậy:
- Cái kính của tôi đâu rồi? - Tôi hỏi.
Họ tìm thấy kính đưa cho tôi. Tôi đeo kính vào thì... Thánh Ala ơi!... Mọi vật bỗng trở nên sáng sủa rõ ràng quá ! Vật nào đúng vật nấy, rõ mồn một! Rõ như chưa bao giờ tôi có thể nhìn rõ vậy. Hay kính của người khác chăng? Không! Đích thị kính của tôi đây mà! Đúng gọng sừng to màu đen đây! Tôi sướng không sao tả được! Bây giờ thì đừng hòng tôi bước chân đến một anh bác sĩ mắt nào nhé! Tôi đã đọc được cả mấy dòng chữ nhỏ nhất trên báo và nhìn rõ cả tên chiếc tàu thuỷ đậu tít ngoài xa. Tôi đi về nhà, lòng vô cùng sung sướng.
- Kính của anh sao thế kia? - Vợ tôi hỏi.
- Làm sao?
Tôi bỏ kính ra xem. Ngón tay thò qua được cả lỗ gọng! Té ra mắt kính đã bị vỡ rơi mất rồi mà tôi không biết.
_________________
 
Gió Rừng







-Nhà anh ở đâu ?
Cô ngập ngừng hỏi , thoáng thấy trên nét mặt cô 1 chút gì đó là thoải mái lắm .
- Nhà tôi cũng gần đây , ở trong dinh điền ấy , cách đây khoảng 4 cây số cô à !
Anh thôi không tập trung vào tờ báo, ngước nhìn cô trả lời
- Mỗi tuần thấy anh ra đây đọc báo 1 lần .
Khuôn mặt cô gái giờ đây không giấu nổi nét tò mò .
- Tôi đi học trên Sài Gòn, về thăm bố mẹ . Trong đấy không có sách báo nên tôi ra đây đọc nhờ .
...
Cô gái im lặng , giành cho anh khoảng không cuối chiều ... Anh vẫn tiếp tục duí đôi mắt sâu hoẵm vào những trang báo ..

Thật ra thì cô cũng chẳng có gì để mà hỏi anh nưã . Cứ mỗi tuần , chiều thứ bảy là thấy anh ở sập báo nho nhỏ cuả cô gái .. Riết rồi quen , cô cho anh mượn hẳn cái ghế ngồi đọc cho thoải mái .


**


Cái nội thị ấy chỉ vỏn vẹn 1 con đường và hai bên là hai dãy nhà , 1 trạm xe - nói là trạm xe thế thôi chứ thực chất là cái bến cho 2 chiếc xe đò tạm dừng lại đón khách , 1 quán cơm cho những người khách đợi xe ghé vào , 1 quán hủ tiếu , 2 quán cà phê , dăm người buôn thúng bán bưng ..và cái sạp báo nhỏ cuả cô .
Khách mua báo của cô chủ yếu là những người đi xe đò, mua 1 tờ rồi ngồi chờ xe đến ..Ít có ai như anh ..à, không , hình như không có ai như anh ..

Cô gái có khuôn mặt bầu bầu , tóc ngắn ngang vai uốn cúp vào trong , dáng người cô đầy đặn , tay chân trắng trẻo , không giống như những cô gái lúc nào cũng phải làm lụng vất vả ở cái quận Chân Thành ấy . Cô bán báo chỉ để giải trí , để có cơ hội nhìn mọi người qua lại trên những chuyến xe đò ... Cô không thích lúc nào cũng ở nhà nhìn 4 bức tường xung quanh mình . Bố cô làm nghề đốt than , ông có 3 cái lò than lớn nhất vùng . Ờ, mà có lẽ nhà ông giàu nhất vùng rồi . Cái sạp báo ông cho cô , thích thì cô bán , không thích thì về , mà cũng có ai mua đâu , dăm họa ra thì chỉ có những người trí thức mới mua ...

Thường thì đến 10 giờ trưa là cô đã về , nhưng hôm thứ 7 ấy cô lại ngồi đến chiều . Cũng không hiểu tại sao . Anh đến và xin mượn 1 tờ báo để đọc , cô gái cảm thấy lạ lùng rồi cũng để anh đứng đọc ...
Và cứ thế , chiều thứ bảy nào cũng vậy , cô lại ngồi đó ngắm anh đọc say sưa , đợi đến khi nào anh đọc xong, cô mới dẹp tiệm về nhà ...

Anh, một gã thanh niên khoẻ mạnh , trắng phau . Nhìn thì cô đoán chắc là anh chàng thư sinh ở thành phố , chứ không phải là những gã trai đen xì , hùng hục , cục mịch như trong lò than của bố cô . Anh có đôi mắt đen sâu và lông mày rậm , .. Cô phải khẳng định là anh đẹp trai , dáng người cân đối , cao ráo , trông khuôn mặt điềm tĩnh và ít nói , hai tay lúc nào cũng đút vào trong tuí quần .


**


Anh vưà thi xong trung học đệ nhất cấp thì theo bố mẹ đi Dinh Điền lập nghiệp theo chương trình của Chính Phủ để khai hoang lập ấp .. Ông bà khoảng 60 tuổi , còn đứa con trai mới 17, những người chị thì 16 tuổi đã đi lấy chồng , và chỉ còn anh chăm sóc 2 ông bà già .
Nhà anh dựng cạnh bià rừng , mỗi ngày anh làm rẫy, chặt cây rừng , trồng ngô, cao su .. ngũ cốc . Người ta có cái duyên, và hình như anh có duyên với đất . Những lúc công việc xong xuôi , anh lại vô rừng một mình , mắc võng nằm , chơi với sóc , tìm trứng chim .. 17 tuổi , cái tuổi vẫn còn mộng mơ lắm, anh nhớ lớp , nhớ bạn bè và thèm đọc ...
Trong rừng lúc nào cũng ít nắng , lá rừng khiến làn da anh trắng trẻo , nhưng cây rừng lại làm tay anh chai sần ..


**


Cô không muốn cắt ngang dòng suy nghĩ của mình , và cũng không muốn cách ngang sự im lặng giữa cô và gã thanh niên đang say mê đọc những dòng chữ . Cô gái lại tiếp tục nhìn, cô thích được nhìn anh, thích cái khoảng không gian giữa cô và anh . Cô cảm nhận được trái tim mình đang thở , hương thơm lạ cuả rừng vương vào làn gió chiều len vào mái tóc bồng bềnh , những kẽ tay và cả lồng ngực ...


**


...Những chiếc xe đò vẫn ghé bến , những người khách chờ xe thỉnh thoảng vẫn mua vài tờ báo trong cái sạp nhỏ gần đấy .. những chiếc lá bị gió thổi cuốn tít vào nhau rồi bung vào trong không trung ... dáng chiều dần tàn .. cô gái dọn sạp nhỏ , chạy theo sau cô là cô bé có đôi mắt cuả gió rừng .........

chieuha
 
Status
Không mở trả lời sau này.
Back
Top