• Hiện tại trang web đang trong quá hình chuyển đổi và tái cấu trúc lại chuyên mục nên có thể một vài chức năng chưa hoàn thiện, một số bài viết và chuyên mục sẽ thay đổi. Nếu sự thay đổi này làm bạn phiền lòng, mong bạn thông cảm. Chúng tôi luôn hoan nghênh mọi ý kiến đóng góp để chúng tôi hoàn thiện và phát triển. Cảm ơn

1001 CÂU CHUYỆN CẢM ĐỘNG!!!

Status
Không mở trả lời sau này.
Làng Vạn năm ấy hạn lớn. Người già trong làng bảo lâu lắm mới như thế, chắc tại con cháu đứa nào làm gì bậy bạ khiến cho trời đất trừng phạt đây.

Họ nói vậy vì mấy mươi năm về trước có một đôi trai gái đã phạm vào điều cấm kị của làng, lấy nhau bất chấp sự dè bỉu, khiến cho cùng năm ấy hạn rất lớn, người ốm đau bệnh tật nhiều vô kể.

Đình làng nghi ngút khói hương trong khi ngoài đồng đất vẫn nứt nẻ khô trắng.

Lúa đang kỳ nghén cũng không trổ đòng được vì gặp hạn; ngọn xanh sắt lại, loe hoe trong cái nóng hầm hập từ mặt đất bốc lên và từ ánh nắng mặt trời chiếu xuống như thiêu đốt. Cả làng như bốc hỏa.

Thao cũng không ngủ được. Chị nằm trằn trọc mãi. Trăng sáng quá. Trăng sáng thế này thì không biết đến bao giờ mới có mưa. Ngoài vườn không có một cơn gió nào.

Thao thấy nóng đến bực bội cả người. ở chái bên kia, bà Cảo hình như cũng không ngủ được. Chị nghe thấy có tiếng trở mình và tiếng chiếc quạt lá cọ trẽo trẹt…

Bà Cảo là mẹ chồng Thao. Bà là người phụ nữ thuộc loại bất hạnh. Thấy bảo ngày xưa bà đẹp và hát chèo hay nhất làng này. Đẹp thì Thao không rõ vì đến bây giờ hình như những nét đẹp đó giữ lại không được bao nhiêu.

Trên khuôn mặt khắc khổ của bà Cảo chỉ có đôi mắt là vẫn còn sáng rõ và ánh lên vẻ tinh anh. Giọng hát cũng vậy. Nhưng riêng Thao thì tin là bà đã từng hát rất hay vì cho đến giờ những âm sắc vang rõ đó vẫn còn.

Nhưng lại nghe nói đã từ rất lâu rồi người ta không còn thấy bà hát nữa; mà lâu đến bao nhiêu thì đến bây giờ người ta vẫn đang còn tranh cãi nhau. Có người bảo bà thôi hát từ khi ông Chỉnh bỏ làng ra đi.

Ông Chỉnh là một kép hát nổi tiếng trong đội văn nghệ của làng Vạn. Nổi tiếng sang cả xã bên khiến nhiều cô thầm thương trộm nhớ. Sánh vai với ông Chỉnh ngày ấy là bà Cảo.

Bà thường đóng những vai đào thương bên cạnh ông. Họ là một đôi rất đẹp. Mến tài mộ sắc, họ đã thầm yêu thương nhau nhưng mối tình đó không được chấp nhận bởi vì một nguyên do rất vô lý là hai người có cùng họ với nhau.

Từ rất xưa rồi, người làng Vạn đã có một điều cấm kị, một tục lệ bất di bất dịch rất ác nghiệt như thế, dù cho những con người khốn khổ đó chỉ có họ giống nhau mà chẳng có một chút máu mủ thân thích gì.

Kẻ nào muốn chống đối lại điều cấm kị đó chỉ còn cách bỏ làng ra đi, sống như những kẻ tha hương cho đến chết mà không dám vác mặt về làng.

Còn nếu cứ ở lại, họ sẽ sống như những kẻ ngoài lề xã hội, bị nguyền rủa như là những căn nguyên gây nên tai họa cho làng nước; con cái họ sẽ lớn lên như những đứa trẻ vô thừa nhận, bị khinh rẻ coi thường, mãi mãi không ngóc đầu lên được.

Mối tình giữa bà Cảo và ông Chỉnh đã không vượt qua được những điều đó. Ông Chỉnh rủ bà Cảo bỏ làng đi trong một đêm trăng rười rượi sáng nhưng vì gia đình cấm cản, canh giữ bà rất ráo riết nên bà đã không đến được chỗ hẹn. Từ đó, cứ mỗi dịp làng có hội hè, người ta không còn được thấy bà trên chiếu chèo nữa.

Cũng có người bảo không phải như thế. Bà Cảo vẫn hát cho đến tận ngày đi lấy chồng, chỉ có điều bà chuyển sang đóng những vai hề gậy, hề mồi trong những vở diễn của làng.

Có người bảo bà rất yêu sân khấu, mê hát từ nhỏ nên không dễ rời bỏ được nó, nhưng cũng không thể đóng những vai đào thương được nữa, đành giấu khuôn mặt u sầu của mình trong những vai hề cho lòng khuây khỏa.

Còn người làng thì ai cũng vẫn thương tiếc hình ảnh cô đào tung tẩy trên chiếu chèo khi xưa. Bà lấy một người con trai cùng làng theo lời bố mẹ.

Người này không mê hát cũng không thích xem hát, chỉ tối ngày quần quật ngoài đồng, thô lậu và cục mịch như những củ khoai hà sượng. Từ khi bà sinh Thịnh - đứa con trai đầu lòng và là chồng Thao sau này, thì ông ta cấm bà đi hát.

Nhưng cũng chỉ khoảng ba năm sau thì ông ta mất. Bà ở vậy, một mình nuôi Thịnh cho đến ngày lớn khôn. Năm mười bảy tuổi, Thịnh theo lời rủ rê của một nhóm bạn đi lên thành phố kiếm ăn.

Bà khóc hết nước mắt khuyên can không được, lúc nào cũng âu sầu, rầu rĩ. Có người bảo, đấy, vì thế bà mới thôi hát, chứ trước đó bà vẫn hát và đóng những vai lão trên sân khấu. Thực hư thế nào chẳng rõ, chỉ biết từ khi Thao về nhà này thì tịnh không thấy bà hát bao giờ…

Vậy mà cũng đã gần chục năm rồi kể từ khi Thao về làm dâu nhà bà Cảo. Đó như là một định mệnh. Số là, đi được hai, ba năm thì bỗng đâu Thịnh trở về.

Xác xơ, mệt mỏi, dặt dẹo và đầy bất mãn. Thịnh bảo với bà Cảo là sẽ tu chí làm ăn ở nhà. Bà Cảo vui mừng ra mặt, những nếp nhăn giãn bớt ra khiến khuôn mặt bớt vẻ nhàu nhĩ.

Và một hôm, bà Cảo mang trầu cau đến nhà hỏi Thao về làm vợ cho Thịnh. Thao khi ấy mới đôi mươi, tuy không đẹp nhưng duyên ngầm, hát chèo rất hay, cũng chưa hề biết yêu.

Thao thường đóng những vai đào lệch, đào lẳng khiến cho nhiều chàng trai để ý nhưng họ thường ngại cảnh nhà Thao. Nhà Thao neo người, bố mất, mẹ ốm yếu bệnh tật, lũ em sau Thao còn nhỏ dại. Nên khi đồng ý lấy Thịnh, Thao cũng không nghĩ ngợi gì nhiều.

Nhưng cuộc sống của vợ chồng Thao rất tẻ nhạt và miễn cưỡng. Ăn ở với nhau được hơn một năm, chưa có con thì Thịnh lại lặng lẽ đi. Cũng trong một đêm trăng rười rượi sáng, rất nhiều gió nhưng lại không mưa nổi một hạt nào. Chẳng biết Thịnh đi đâu.

Có người bảo gặp Thịnh trên mạn ngược, có người lại bảo Thịnh vào Nam. Thịnh cũng không hề báo tin gì về nhà. Bà Cảo lần này thì không còn nước mắt để khóc nữa, cứ ngồi lặng lẽ rồi nhìn trân trối lên tấm ảnh thờ chồng đầy vẻ trách móc. Chẳng biết bà nghĩ gì nữa.

Thao cũng dần trở nên mòn mỏi hơn. Mỗi lần nhìn thấy khuôn mặt u tối của Thao, bà Cảo lại giật mình như bắt gặp phiên bản của chính mình trong gương. Những lúc như vậy, bà bèn quay vội mặt đi và nói xa xôi: “Chẳng biết đến bao giờ tôi mới được đi theo bố thằng Thịnh…”.

Nghĩ lan man về những chuyện đã qua, những chuyện mà Thao chưa một lần dám hỏi bà Cảo, khiến Thao càng thêm khó ngủ. Nghe tiếng trẽo trẹt đều đều của chiếc quạt, Thao lại càng thấy khó chịu.

Mặt chiếu dấp dính mồ hôi. Chiếc giường này là chiếc giường hạnh phúc của vợ chồng Thao. Thật chua chát. Thao ngồi dậy, nhìn trăng chiếu chênh chếch vào mặt chiếc gối cưới đã ố vàng vì nước mắt bao đêm mà thấy ngực tưng tức. Dạo này đến việc khóc, Thao cũng còn cảm thấy khó khăn.

Thao mở cửa ra ngoài sân sau một thoáng bần thần. Trăng con gái chảy tràn trên mặt sân một màu lơ đễnh. Thao thấy người như bốc hỏa, khát kinh khủng, lưỡi khô bỏng lên.

Thao chạy lại chum nước mưa bên gốc cau và uống từng ngụm to một. Nước chảy tràn qua khóe miệng ngày xưa rất duyên của chị, chảy xuống cổ một cảm giác lành lạnh.

Thao càng thấy khát hơn, dường như uống cũng không thể làm dịu đi được. Chị vục cả gáo nước lên người và thấy mình như lên cơn sốt. Nước chảy tràn xuống ngực.
 
Qua làn áo mỏng, Thao đau đớn nhận ra những đường nét con gái đã không còn được như xưa nữa. Tất cả chỉ còn lại sự khô héo đến tàn nhẫn của thời gian. Trăng vẫn rười rượi sáng. Thao bất giác rùng mình khi nghe tiếng trẻ con khóc ở một nhà kế bên.

Vào buồng, Thao vẫn không ngủ được. Cái nóng đã dịu đi. Nghe xao xác đã có tiếng gà gáy. Bất giác nhìn ra ngoài cửa sổ, Thao thấy giàn mướp đã rạc khô.

Dưới ánh trăng, những dây mướp nghều ngoào đen xạm lại. Vài quả mướp còng queo chẳng rõ hình thù gì. Thao chợt nhớ đến câu hát mà thời trước mẹ chị thường hát: “Con gái như trái mướp non…”.

Thao trở mình làm chiếc giường kêu cọt kẹt. Có tiếng bà Cảo vọng vào nghe thật mơ hồ: “Mai còn phải ra đồng sớm đấy…”. Thao không nói gì, tay giữ ngực để khỏi trào ra tiếng thở dài.

Rồi cứ như thế, Thao trân trối nhìn lên trần nhà… lùng nhùng tiếng quạt trẽo trẹt… tiếng chim kêu như ngái ngủ đằng xa…

Vừa mới sáng trời đã nóng hầm hập. Tiếng bầy ong vo vo nghe càng khó chịu. Bà Cảo đang nấu cơm trong bếp. Làn khói xanh dường như cũng bị bốc hơi dưới ánh mặt trời.

Thao đang xem xét mấy cái cuốc và xẻng ở trước sân. Trán chị nhíu lại khi thấy cái thì long cán, cái thì mẻ cùn. Bà Cảo quay đi, không dám nhìn con dâu.

Đã lâu lắm bà không dám nhìn thẳng vào mặt Thao. Bà vừa sợ, vừa e dè vừa thương hại. Bà nhận ra Thao đã khác rất nhiều lúc mới về nhà bà. Trong mắt Thao, cái ánh vui tươi đã mất đi, thay vào là một cái gì đó như chịu đựng.

Đôi khi bà thảng thốt nhận ra nó lại thoáng có một chút gì đầy hờn tủi, tàn nhẫn, bất mãn khi bà vui miệng kể về một đám cưới nào đấy, về một nhà nào đấy vừa có cháu.

Những lúc ấy, gương mặt Thao trở nên u ám như vừa nãy chị nhìn mấy cái cuốc hỏng… Ngoài ngõ đã có tiếng người lao xao. Thao vác cuốc lên vai, đội nón lên đầu rồi đi ra; trước khi đi còn quay lại dặn với bà Cảo vài câu.

Ngoài đồng hôm nay rất đông người. Cả làng Thao cùng với các làng khác trong xã tham gia đào kênh mương dẫn nước từ hồ Bấc ở xã bên về để cứu hạn. Thao cũng có mặt trong lực lượng ấy.

Nhìn đám thanh niên mặc trời nắng gắt, vẫn vừa làm, vừa hát, vừa trêu ghẹo nhau khiến lòng Thao như trẻ lại. Những nỗi ấm ức, chua xót và ghen tỵ như cũng dịu đi.

Chị bất giác mỉm cười và tham gia vào màn hát đối lúc nào không hay. Thao cũng không thể ngờ được là mình vẫn còn có thể hát hay và sôi nổi đến như thế.

Chị bỗng cảm thấy hình như có một ánh mắt khác lạ nào đó đang nhìn mình chăm chú. Mồ hôi rơi trên má Thao đỏ lựng. Những sợi tóc mai bết lại nhưng đôi mắt chị thì sáng bừng lên.

Đôi tay như dẻo hơn, chân như vững hơn. Ngắm nhìn mặt hồ, tự dưng chị lại thấy khát, chỉ muốn được ngụp lặn trong màu xanh thuê thỏa của nước, của cây…

Bỗng Thao thấy hai mắt hoa lên; không gian xung quanh quay cuồng trong một màu vàng nhờ nhờ như thể trước những cơn giông. Tai chị ù đi, không nghe rõ gì nữa, chỉ thấy mình như đang rơi tự do từ đỉnh trời xuống, mơ hồ có tiếng những bước chân dồn dập, tiếng người lao xao, lao xao…

Tỉnh lại, Thao thấy mình đang nằm trong một cái lều canh ngô; đầu nặng như đúc chì, hai thái dương đau nhói, chân tay bải hoải, miệng lưỡi tê đắng lại và có hai người đang ngồi cạnh mình.

Một người là Lý – người cùng làng với Thao, còn người kia là một người đàn ông có gương mặt cương nghị, rắn rỏi. Cả hai người cùng lo lắng nhìn Thao.

“Tốt rồi! Chị đã tỉnh lại! Chị cố gắng nghỉ ngơi đi nhé!” – người đàn ông cất giọng trầm ấm nói với Thao và quay sang chào Lý đi ra. Thao hỏi Lý xem chuyện gì xảy ra với mình thì được biết là chị bị cảm nắng.

Người đàn ông vừa rồi là Sang, đội trưởng đội sản xuất của xã bên, người đã bế Thao đưa vào đây khi chị bị ngất ngoài đồng. Anh đã gần bốn mươi tuổi, nghe đâu vì chuyện tình thời cắp sách không thành mà vẫn một mình cho đến giờ.

Thao đã gặp anh vài lần trong những đợt tập huấn về kinh nghiệm sản xuất ở trên huyện. Và có một lần, hai người còn hát chung một làn điệu chèo trong buổi giao lưu với trung tâm khuyến nông huyện nữa.

Sang có đôi mắt rất ấn tượng và nhạy cảm… Thao nhìn quanh căn lều tuềnh toàng và cảm nhận được một mùi vị gì đó đầm đầm ấm ấm vừa quen lại vừa lạ, vừa gần gũi lại vừa xa xôi, vừa mơ hồ lại vừa ám ảnh… Chị nhắm mắt lại và trôi đi trong trạng thái bồng bềnh, chơi vơi…

… Đã lại hơn một tháng rồi mà trời vẫn chưa mưa. Hồ Bấc chỉ còn bằng cái nong. Cánh đồng ưỡn mình khao khát chờ mưa để được hồi sinh. Đêm nay, trăng lại sáng vằng vặc.

Thao không ngủ được, bèn ngồi dậy, tựa lưng vào tường, hít thở thật sâu để cố nén những bồn chồn, xao xuyến đang chực trào ra. Sang đã hẹn với Thao đêm nay hai người sẽ rời làng ra đi để tìm cho mình một miền hạnh phúc mới.

Sang hẹn Thao ở gốc đa đầu làng sát bên bờ sông, khi trăng lên đến đỉnh trời. Đã sắp đến giờ hẹn… Vài tiếng chó sủa vu vơ cũng khiến Thao hơi giật mình, lòng càng thêm lưỡng lự.

Mấy hôm nay, bà Cảo tự dưng lại hơi mệt. Chiều nay xông, bà đã thấy khá hơn nhưng đến bây giờ Thao vẫn nghe thấy tiếng bà thở khò khè, thỉnh thoảng lại húng hoắng ho.

Căn nhà càng thêm u tịch trong bầu không khí ngột ngạt. Thao nhắm mắt, cố ru lòng trấn tĩnh lại mà không được vì hình ảnh đôi mắt Sang đầy mong đợi, hy vọng cứ hiện lên ám ảnh.

Thao quyết định cầm cái túi nhỏ và nhẹ nhàng theo cửa ngách đi ra. Gần đến cổng, Thao còn ngoái lại nhìn ngôi nhà - nơi chị đã sống bao năm tuổi trẻ.

Cái mái ngói cũ nát, những bức tường lở lói; bậc thềm nhẵn mòn bước chân… tất cả đều quen thuộc. Con Vện kêu ư ử chạy đến bên, liếm liếm bàn chân Thao và vẫy đuôi rối rít. Nó đưa Thao ra đến tận cổng.

Thao đang định quay đi thì bỗng nghe tiếng cốc chén vỡ và tiếng người ngã. Thao vội chạy trở vào thì đã thấy bà Cảo nằm run rẩy dưới chân giường, bên cạnh là cái cốc nước, mọi hôm vẫn để trên chiếc ghế con ở đầu giường, đã vỡ tan. Bàn tay của bà bị thuỷ tinh đâm chảy máu.

Thao vội vàng đỡ bà lên giường và đi tìm bông băng cầm máu cho bà. Chợt chị buột miệng thốt ra lời trách móc: “Sao mẹ không gọi con?” – một lời trách mà ngay lập tức khiến Thao tự cảm thấy xấu hổ và trơ trẽn.

Bà Cảo dường như không để ý lắm đến câu nói đó, lặng lẽ nhìn Thao dọn dẹp với ánh nhìn xa xót. Bất chợt, Thao nghe giọng bà run run: “Sao con không đi đi? Sao còn quay lại làm gì? Phải tự tìm hạnh phúc cho mình chứ?”.

Thao ngồi chết lặng, không nói được gì, một lúc lâu rồi nước mắt ứa ra xót mặn: “Xin mẹ tha thứ… tha thứ…”. Thao không nói được gì nữa mà chỉ ngồi nấc nghẹn.

Bà Cảo cũng khóc sụt sùi rồi bảo con dâu đi lấy cho bà cái hộp gỗ nhỏ phía sau ban thờ. Thao đi ra gian ngoài, cúi gằm mặt xuống để tránh không nhìn những tấm ảnh trên ban thờ.

Thao vừa cầm vào cái hộp thì bát hương trước mặt ông bố chồng bỗng bốc cháy đùng đùng. Ánh sáng đỏ rực soi tỏ những đôi mắt nghiêm nghị khiến chân Thao như nhũn ra, chỉ chực khuỵu xuống. Phải một lúc, Thao mới lê được trở vào chỗ bà Cảo.

Bà Cảo lấy từ trong chiếc hộp ra một bức thư và một mảnh giấy đưa cho Thao. Thao ngây dại đánh rơi bức thư khi đọc xong. Đó là thư của Thịnh gửi cho mẹ từ mấy tháng trước.

Trong thư viết rằng Thịnh đã vào Đắc Lắc sống và đã có gia đình ở trong đó. Thịnh xin được đón mẹ vào ở cùng và cũng gửi lời tạ lỗi với Thao, trả lại tự do cho Thao bằng một lá đơn xin ly hôn đã có sẵn chữ kí của Thịnh được gửi kèm theo bức thư.

Thao mở lá đơn, mắt tối sầm lại khi nhìn thấy chữ ký ngạo nghễ của Thịnh. Thao gục xuống giường khóc rưng rức, đôi vai gầy guộc khẽ rung lên theo tiếng nấc. Bà Cảo cuống quýt: “Con ơi… Con đừng trách mẹ…”.

Một lúc lâu sau, Thao đã bình tâm trở lại và hỏi bà Cảo xem bà định thế nào. Bà nói rằng bà không thể bỏ quê hương, mồ mả cha ông mà đi được, hơn nữa ông ấy đã trở về, lại đang bệnh rất nặng. “Ông ấy? Mẹ nói ai kia?”.

“Ông ấy… ông Chỉnh đã về, vẫn một mình, đang ở nhờ nhà một người bạn trên huyện…”. Bà phải chuộc lỗi. Bà xin Thao hãy ở lại làm con gái bà và bà cũng rất quý mến Sang. “Con đi đi… và hãy bảo nó ở lại… Quá nhiều người đã ra đi rồi…”.

Thao bỗng giật mình nhớ ra thì trăng đã quá đỉnh trời rồi. Thao lao ra cổng, chạy líu ríu trên bờ đê. Từ lúc nào và từ đâu gió bỗng thổi về lồng lộng, xô giạt những đám mây hình thù kì dị lao đi trên nền trời.

Mặt trăng bỗng biến đâu mất. Chó sủa nhặng lên trong làng. Những ánh chớp rạch trên trời, sáng lòa, đầy hăm dọa. Thao chợt cảm thấy sợ. Mồ hôi túa ra lạnh toát sống lưng, ngực nghẹn thắt lại.

Không biết Sang còn đợi chị không hay đã đi rồi? Nếu Sang đi rồi thì sao? Gió quất lên mặt Thao rát bỏng hay là những giọt nước mắt đang rơi? Rồi Thao cũng đã đến nơi… không thấy ai!

Thao hốt hoảng, nghẹn ngào, ngồi gục xuống trên một cái rễ đa xù xì, đau đớn đến không thể khóc lên thành tiếng được nữa. Có tiếng chim non kêu thảng thốt trên một cành cao. Con chim mẹ đập cánh loạn xạ, vừa bay vòng quanh tổ vừa kêu lên những âm thanh hoảng loạn. Gió vẫn thổi điên cuồng.

Bỗng… Sang hiện ra từ sau gốc đa, vững chãi dưới ánh chớp xanh chói. Thao lao vào ngực anh tức tưởi: “Em tưởng không bao giờ được gặp lại anh nữa!”. “Sao anh có thể đi được? Anh vẫn chờ em, đến suốt đời…”.

Hình như gió đã dịu đi. Và đúng lúc ấy, sau một tiếng sấm tưởng vỡ cả trời đêm, mưa bỗng tuôn xuống ào ạt… Có lẽ chưa bao giờ người làng Vạn lại thấy mưa nhiều đến thế!
 
Trước chuyến bay một ngày, tôi đổi ý, không đi bằng đường hàng không nữa mà đi bằng tàu hoả. Vé toa mềm đã hết và Linh phải dùng mãnh lực của nhan sắc mới mua được vé nằm giường cứng cho tôi.

Nó ca cẩm:

- Mày điên cũng điên vừa vừa thôi, sướng không muốn, tự nhiên lại muốn khổ.

Tôi chỉ cười trừ.

Hoá ra chiếc vé Linh mua cho tôi ở tận tầng ba. Khi đưa tôi lên tàu, Linh trợn tròn mắt, kêu lên một cách tức tối:

- Vậy mà cái thằng khốn đó dám nói với tao là tầng trệt. Tao phải ra kiếm chả chửi cho một trận mới được. Thôi mày đừng đi nữa. Tuốt trên đó làm sao mày leo được?

Tôi bảo:

- Mày làm như tao già nua lắm rồi vậy. Kệ, tao thích tầng ba. Ở trên đó đỡ có người đi qua, đi lại.

Linh vẫn không yên tâm:

- Mày đừng leo lên, cứ ngồi ở dưới chờ, xem người nào dễ tính thì xin đổi chỗ rồi bù tiền cho họ.

Tôi nói:

- Được rồi, mày giống má tao quá. Thôi về đi, để tao yên.

Khi hồi còi thứ nhất báo giờ tàu chạy nổi lên, khoang tàu của tôi đã đủ khách. Tầng trệt phía tôi nằm là một người phụ nữ dáng vẻ yếu ớt, túi hành lý nhỏ xíu như của trẻ con. Tầng kế là của một cô gái trẻ, trông như công nhân đi làm xa về thăm nhà, với lỉnh kỉnh quà bánh, áo quần.

Tầng trệt phía đối diện là của một cô gái trẻ khác. Dáng vẻ bứt rứt, ngơ ngác, cô ngồi không yên trên giường, chốc chốc lại đứng lên nhìn ra cửa khoang, vặn vẹo tay. Đôi mắt của cô ầng ậng nước như sắp khóc. Hai tầng trên của hai phụ nữ chắc là dân buôn chuyến đi cùng nhau. Một bà khi bước vào khoang, nhìn quanh, đã buông ra một câu:

- Toàn thị mẹt. Đỡ.

Bà kia chẳng nói chẳng rằng, lôi xềnh xệch bao tải hàng vào rồi thản nhiên bảo cô gái ngồi tầng trệt:

- Em xê cái đít để chị cất cái túi hàng dưới khoang một chút.
 
Hồi còi thứ hai đã nổi lên. Tiếng xình xịch bánh xe bắt đầu chuyển động. Phía dưới ga, tiếng kêu ơi ới bỗng rộn lên: "Thối tiền nhanh lên, không thấy tàu chạy rồi à?", "Hào ơi, về nhé", "Bà ơi, còn một chiếc, cháu lấy rẻ bà năm nghìn, cháu không có tiền thối", "Của khỉ, thôi đưa đây"...

Bất thình lình, cô gái ở tầng trệt khóc nấc lên. Hai bà đi buôn chưng hửng, ngỡ ngàng:

- Ấy ấy, sao thế? Không bằng lòng chúng tôi ngồi đây à? Thì để chúng tôi trèo lên, việc gì phải thế?

Cô gái vừa khóc, vừa lắc đầu:

- Không ạ, hai bác cứ ngồi đi.

Đúng lúc ấy, một bóng người nhớn nhác, vội vã xô vào từ cửa khoang:

- Đây rồi. Anh đi tìm em mãi. Em điên thật đấy.

Đó là một cậu trai khoảng gần ba mươi tuổi. Cô gái ngẩng đầu lên, mặt nhoè nhoẹt nước mắt:

- Tìm làm gì? Anh về đi.

Rồi cô lại úp mặt vào đầu gối, nức nở. Cậu trai đứng lọng ngọng bên cạnh, gãi đầu bối rối.

Hai bà buôn chuyến lẳng lặng nhìn nhau, lẳng lặng đứng dậy, trèo lên tầng kế tiếp, cả hai. Cô gái công nhân ở tầng dưới tôi đột nhiên lên tiếng:

- Một tầng chỉ được một người thôi ạ. Hai bác ngồi thế kia, chẳng may nó sập xuống thì đè bẹp chị ấy mất.

Hai bà lại đưa mắt nhìn nhau, rồi một bà lồm cồm chui ra, leo lên tầng trên cùng, miệng ca cẩm:

- Đã bảo mua vé tầng trệt mà cứ tiếc tiền, để bây giờ phải cong lưng cong cật như con rùa thế này đây.

Cô gái ở tầng dưới bật cười:

- Bác có muốn đổi chỗ không, cháu đổi cho.

Bà buôn chuyến hớn hở:

- Cảm ơn em. Để tí nữa nhé. Giờ chị vẫn còn chịu được.

Lúc này, cậu trai đã ngồi xuống cạnh cô gái. Vẫn úp mặt vào đầu gối, cô gái dịch người vào trong, dằn dỗi:

- Ai bảo anh đi tìm? Để người ta đi cho xong.

Cậu trai kín đáo liếc nhìn mọi người trong khoang rồi ngồi sát vào, đưa tay ôm vòng ngang người cô gái:

- Em điên thật đấy. Ai lại bỏ nhà đi như thế bao giờ! Em chỉ toàn làm khổ anh. Đến ga sau là phải xuống đấy.

Cô gái nguẩy người:

- Không xuống. Người ta cút về với bố mẹ luôn. Anh chả bảo như vậy là gì?

Cậu trai thì thầm:

- Ngoan nào, lúc cáu thì anh thuận miệng mắng thế chứ anh có nghĩ vậy đâu. Thôi, anh xin lỗi. Em không thấy anh chạy tìm em phờ cả người ra đây à? Mà anh bảo cho biết, anh lên đây là nhảy tàu đấy, chả có vé gì đâu. Nếu mà họ bắt được, đuổi xuống dọc đường là em chịu trách nhiệm đấy.

Cô gái ngúng nguẩy, giọng đã bớt ngẹt nước mắt:

- Kệ anh, người ta không cần.

Vòng tay cậu trai có vẻ chặt hơn, giọng cũng to hơn, đầy ngọt ngào:

- Không cần à? Thật không? Thế lúc nãy ai lên tắc-xi mà nói rõ to là đi ra ga cho mọi người nghe được? Không phải muốn anh chạy theo à? Lại còn ngồi khóc nữa chứ. Sợ anh không đuổi theo chứ gì? Yêu người ta chết được mà cứ làm bộ.

Ở tầng trên cùng, bà buôn chuyến vừa than cong lưng, cong cật phì cười, nói chõ xuống:

- Gớm, chúng tôi cứ ngỡ cô ấy khóc vì bị chúng tôi ngồi nhờ. Ai mà biết đang đợi chồng nhỉ?

Bà buôn chuyến thứ hai cũng chặc lưỡi:

- Nghe chuyện mà cứ tủi cho mình. Lão nhà tôi ấy à, tôi có đi vắng một tháng, lão cũng chả biết, hoặc biết cũng mặc kệ, cho đi luôn. Nói gì đi tìm. Như giờ này đây, chém chết cũng đang ngáy khò khò.

Dưới tầng trệt, có vẻ "đôi chim non" kia vừa ngượng, vừa thích. Cô gái đấm thùm thụp vào người chồng những cái đấm yêu,mặt dở cười, dở khóc. Cậu trai gồng người chịu cho vợ đấm, cứ ôm chặt cô gái vào lòng.

Ga sau. Đôi vợ chồng trẻ bẽn lẽn chào mọi người trong khoang rồi dắt tay nhau đi. Hai bà buôn chuyến hớn hở tụt xuống, chiếm ngay chiếc giường tầng trệt. Một bà thở phào:

- Kể cũng hay nhỉ! Nhìn họ mà nhớ đến ngày xưa của mình.

Bà kia bĩu môi:

- Chỉ được ba bảy hai mốt ngày thôi rồi đâu lại vào đấy cho mà xem. Trông cái tướng cậu kia là gia trưởng lắm. Con bé ấy còn phải khóc nhiều. Có khi bỏ nhau thật ấy chứ.

Cô công nhân dưới tầng hai bên tôi nằm bỗng thò đầu ra, nhập chuyện:

- Cháu không nghĩ thế đâu. Vợ chồng trẻ ai mà chẳng có lúc mâu thuẫn. Nhưng cháu thấy họ yêu nhau lắm đấy.

Bà "cong lưng, cong cật" cũng đồng tình:

- Ừ, tôi cũng nghĩ thế. Còn nhớ cái mặt bạc ra của cậu ấy lúc mới chạy vào không? Hớt hơ hớt hải như mất của.

Cô công nhân chồm hẳn người ra:

- Còn hơn cả của nữa chứ ạ. Vợ chứ có phải là bàn ghế, tủ giường đâu.

Bà "cong lưng, cong cật" vỗ đùi đánh đét:
 
Hay. Chị phải nhớ câu này để nói với lão nhà chị mới được. Thỉnh thoảng, lão vẫn xem chị như cái bao cát đấy.

- Sao ạ?

- Là cái bao để tập võ ấy mà. Lão mà uống say rồi là cứ chị mà thụi.

- Thế bác cứ để yên à? Sao bác không nhờ hội phụ nữ phường can thiệp? Mấy ông chồng bạo hành là phải trị đến nơi đến chốn mới được.



Cô công nhân đã ngồi hẳn lên, giọng đầy bức xúc. Bà "cong lưng, cong cật" liếc nhìn cô một cách phê phán:

- Hội hội cái gì? Chuyện nhà chuyện cửa người ta có nguyên nhân sâu xa hẳn hoi. Ông ấy buồn bực vì đương không bị giảm biên chế, phải ở nhà để vợ đi buôn. Đàn ông là tự ái to lắm. Ông ấy không thích bị cho là vô dụng...

- Thế rồi đánh bác à? Vô lý. Sao không phụ bác đi buôn để vợ chồng cực khổ có nhau?

- Cái cô này. Cô thì biết gì. Ông ấy là người văn vẻ, người ngồi bàn giấy. Làm sao mà lặn lội "đá cá lăn dưa" được? Nói phải tội. Ông ấy từng đi một lần rồi ấy chứ. Lần ấy, con ốm, tôi phải ở nhà trông. Thế là ông ấy đi thay, bị chúng nó lừa sạch cả vốn. Tội nghiệp! Về đến nhà, ông ấy cứ ngồi trong bếp mà khóc. Nhìn mà nhũn cả ruột. Tôi không chịu được đàn ông khóc. Thà tôi cực thế này...

Yên lặng. Tiếng xình xịch xình xịch của máy tàu vang lên đều đều. Bà "cong lưng, cong cật" nói xong, nhìn ra cửa sổ, gương mặt chợt buồn. Cô công nhân đột ngột leo xuống:

- Cháu ngồi chung với nhé. Ở trên ấy nóng chết được.

Bà buôn chuyến thứ hai vui vẻ:

- Ngồi đi, thêm bạn cho vui.

Hướng mắt lên chỗ tôi nằm, bà gọi:

- Này cô gì ơi, cô muốn xuống ngồi chơi không? Nằm trên ấy cả chuyến đi bức bối ngạt thở lắm đấy.

Tôi hất chăn sang một bên, thò đầu ra, tìm cách trèo xuống. Cái vẻ loay hoay của tôi khiến bà "cong lưng, cong cật" quan tâm:

- Kiểu này mới đi tầu hoả lần đầu rồi. Sao không mua toa mềm mà đi, lại mua cái vé chót vót trên cao ấy chứ? Để tôi giúp cho

Chân tôi bước líu ríu thế nào hụt ngay ở bậc cuối cùng. Cả người tôi đổ xiêu vào bà "cong lưng, cong cật".

Thật bất ngờ, bà không đưa tay đỡ mà lại đẩy tôi ngã ngồi xuống chiếc giường ở tầng trệt, giường của chị phụ nữ thanh mảnh. Cả phần lưng của tôi đè mạnh lên người chị. Tôi vội vã ngồi thẳng dậy, hấp tấp nói với chị:

- Ôi chết. Em xin lỗi.

Vừa lúc ấy, tôi nhận ra dưới lưng mình, cả người chị phụ nữ đang rung động. Chị đang khóc. Âm thầm.

Bà "cong lưng, cong cật" cũng vừa nhận ra. Khoé môi bà vừa mở tròn định nói câu gì đó, chợt ngưng lại. Ánh mắt bà nhìn tôi dò hỏi. Tôi khẽ lắc đầu. Thế là bà ngồi ngay xuống bên cạnh chị. Bàn tay bà vỗ lên tấm chăn trên người chị:

- Em gì ơi? Bọn chị làm em bị đau à?

Dưới chăn, bật ra tiếng nức nở, rồi chị phụ nữ lắc nhẹ đầu. Bà "cong lưng, cong cật" nhíu mày. Rồi đột ngột, bà kéo cái chăn ra:

- Thế thì vì chuyện gì mà phải khóc nào? Toàn chị em cả, cứ nói ra không chừng bọn chị giúp ý kiến cho đấy.

Ở tầng trệt bên kia, cô công nhân buột miệng:

- Hay nhỉ, hôm nay cả hai người nằm tầng dưới đều khóc.

Bất thình lình, chị phụ nữ đang khóc chợt phì cười. Tiếng cười của chị làm tất cả mọi người trong khoang đều chưng hửng. Chúng tôi dán mắt nhìn.

Chị ngồi dậy, đưa tay vuốt tóc. Gương mặt đẫm nước mắt vẫn còn giữ nguyên nụ cười. Thở phào một cái, chị đưa tay quẹt nước mắt rồi nói:

- Em không sao đâu.

Bà "cong lưng, cong cật" ngồi dịch sang phía đối diện, hỏi:

- Không phải giận chồng rồi bỏ nhà đi đấy chứ?

Mặt chị phụ nữ thoáng buồn:

- Không đâu. Em làm gì có diễm phúc ấy. Chồng em... anh ấy mất rồi.

Cả khoang chợt lặng đi.

Tiếng máy tàu xình xịch, xình xịch mãi, rồi một hồi còi hú lên báo hiệu sắp đến ga tiếp theo. Cô công nhân nhoai người ra mời mọi người:

- Cháu có mang theo thức ăn. Mời hai bác và hai chị ăn chung cho vui nhé!

Tôi cũng vội nói:

- Em có trái cây và mấy lon nước ngọt. Mời mọi người dùng luôn.

Bà "cong lưng, cong cật" vui vẻ:

- Chúng tôi cũng có. Thôi thì mình liên hoan luôn. Gọi là chị em gặp nhau, bốn bể là nhà.

Bà kia phì cười:

- Ăn nói sặc mùi xã hội đen. Ăn thụi quen có khác.

Kéo tay cô công nhân. bà xởi lởi bảo:

- Này, em cứ dịch đít đứng dậy để chị lôi cái túi hàng dưới khoang ra lấy thức ăn.

Cô công nhân phê bình:

- Bác nói còn xã hội đen hơn bác kia. Bác cứ bảo cháu đứng dậy là được rồi, lại còn thêm cái chữ kia vào làm gì?

Bà "cong lưng, cong cật" gập người lại mà cười. Thở hổn hển, bà bảo:

- Nói cho các cô biết. Vì bà ấy quen mồm nói thế nên mới chết tên "Ba đít" đấy.

Lần này thì cả khoang cùng cười ồ. Bà "Ba đít" đỏ mặt tía tai càu nhàu:

- Quỷ sứ. Cái đó mà cũng nói ra được!

Ăn xong, mọi người đều có vẻ thoải mái, thân mật hơn. Khôi, tên cô công nhân, bảo đây là cái Tết đầu tiên cô trở về nhà sau ba năm vào thành phố kiếm việc làm. Tôi bảo mình ra Hà Nội, đơn giản vì nhớ mùa đông ở ngoài ấy, nhớ những cây bích đào nở rộ hoa ở gần quảng trường Ba Đình, nhớ cháo tim gan ở khu Văn Miếu...

Bà "cong lưng, cong cật" nghe vậy gật gù:

- Cô lãng mạn nhỉ! Kể ra thì cái rét Hà Nội cũng đáng nhớ thật đấy. Nước đá phải gọi bằng cụ...

Mặt bà bỗng nghệt ra:

- Chả hiểu bố con nhà nó có bật bếp điện lên mà sưởi cho ấm không nữa. Cái lão khốn đấy... Cứ sợ vợ đi buôn cực khổ, cái gì cũng tiết kiệm...

Bà kia gắt nhẹ:

- Thôi thôi, lại sắp đến bà rơi nước mắt đấy hả? Ai mà không phải tiết kiệm? Lão ấy tiết kiệm là đúng quá rồi. Thế mới là chồng tốt. Chứ đã cho ăn thụi lại còn phung phí, có mà bà chết!

Tôi hỏi Hoà, tên chị phụ nữ:

- Còn chị? Chị về quê ăn Tết hay đi dâu mà xách hành lý có một túm bé tí thế kia?

Hoà nhìn sững tôi rồi tự dưng rơi nước mắt. Tôi hoảng hốt:

- Em hỏi chị cái gì sai à? Em xin lỗi.

Hoà khẽ lắc đầu. Chị đưa tay ôm chặt túi hành lý vào lòng, nước mắt tiếp tục tuôn rơi. Bốn người phụ nữ trong khoang nhìn nhau, im lặng. Rồi bà "cong lưng, cong cật" không nhịn được, bảo Hoà:

- Em không thích kể thì thôi, nhưng mà cứ giữ nỗi buồn trong người là dễ ốm đau lắm đấy. Thà cứ kể hết ra. Chúng mình mấy chị em tình cờ gặp nhau ở đây, xuống tàu là mỗi người một đời rồi. Nỗi buồn của em phân tán đi nhiều nơi có phải là tốt hơn không?

Hoà nuốt nước mắt, nói giọng ngập ngừng:

- Em chỉ sợ em nói ra, các chị lại sợ...

Khôi nói:

- Có gì mà sợ hả chị? Không sao đâu. Phụ nữ mình đầy nghị lực, cái gì cũng vượt qua được cả. Chị cứ kể đi.

Tôi và Ba gật đầu ủng hộ. Hoà ngập ngừng rồi thở dài:

- Thật ra, đây là... hũ cốt của chồng em. Anh ấy mất nhiều năm nhưng em mới tìm được tung tích gần đây thôi. Trong Nam đã chôn cất anh ấy tử tế, nhưng bố mẹ chồng em, cả em nữa, đều muốn đưa anh ấy về nhà.

Vì nhà nghèo, bố mẹ lại già yếu, chỉ có mình em đi đón anh ấy mà lại phải giấu diếm, sợ nhà tàu biết, họ không cho đem lên... Em nghĩ mà tủi thân cho anh ấy quá...

Giọng nói của Hoà nhỏ dần rồi chìm đi trong tiếng xình xịch của máy tàu. Tất cả mọi người đều lặng đi. Rồi bà "cong lưng, cong cật" ôm chầm lấy Hoà:

- Tội em quá. Có gì đâu mà sợ hả em. Bọn chị sẽ đồng lòng bảo vệ em để đưa anh ấy về nhà bình yên.

Bịn rịn mãi, chúng tôi mới chia tay nhau được ở cửa ga. Mượn cớ chờ người nhà đón, tôi lần lượt đón xích lô cho từng người về trước. Nhìn cái bóng mảnh mai của Hoà, càng mảnh mai hơn trong giá rét mùa đông Hà Nội, nước mắt tôi cứ chực trào. Khôi lên chiếc xe thứ hai, vẫy tay chào rồi vội vã giục xe đi. Cô còn phải tiếp tục đi tiếp một chuyến xe khách nữa mới về đến Hải Phòng. Hai bà buôn chuyến tất bật với hàng hoá nhưng không quên gọi tôi thật to khi ra khỏi cửa ga:

- Đi nhé. Em đi sau nhé. Bọn chị về đây.

Tùng đến đón tôi ngay lúc ấy. Anh kêu lên:

- Linh nó gọi điện mà anh không tin, hôm qua cứ ra chỗ hàng không mà chờ. Em sao thế? Tự nhiên lại đi tàu. Nghe Linh bảo em phải nằm giường cứng. Gãy hết cả lưng chưa? Lần sau thì chừa nhé.

Tôi áp mặt vào lưng anh, khép mắt lại. Trong làn mưa bụi lất phất lạnh tê người, tôi nghe giọng mình nhẹ như hơi thở:

- Lần sau em lại đi tàu giường cứng nữa. Thật đấy.

Liệu tôi có gặp lại ai trong năm người phụ nữ đi cùng tôi hôm nay? Những người bình thường nhưng có tâm hồn đẹp!


Phạm Thị Ngọc Liên
_________________
 
Thuê bao quý khách tạm thời không liên lạc được, xin quý khách vui lòng gọi lại sau… Hai, ba hôm nay cứ 22h là Quang tắt máy cho đến sáng. Không phải là một chuyện bình thường với một người luôn mở điện thoại 24 / 24.

Công việc đòi hỏi Quang phải thường xuyên nghe điện thoại để nhận các hợp đồng từ khách hàng. Quang cũng không có thói quen tắt máy kể cả khi ngủ. Và số của Khương luôn được Quang gài bằng tiếng chuông ầm ĩ nhất. Cô hay trêu đó là tiếng còi báo động tầm xa 10 km ( khỏang cách từ nhà Quang đến nhà Khương) - đủ để đánh thức anh dậy ngay cả lúc 2, 3h sáng. Sáu tháng yêu nhau, điện thoại Quang chưa một lần nằm trong tình trạng ngoài vùng phủ sóng. Khương quen với việc cứ hở chút hở chút là nhấc điện thoại lên gọi Quang, quen với việc có thể dễ dàng tìm anh bất cứ khi nào cần.

Khương chưa bao giờ nghĩ đến chuyện có một ngày anh tắt máy. Ban đầu cô ngỡ là mình gọi nhầm số. Không! Chắc tại kẹt mạng. Làm gì có! Mọi người vẫn cứ gọi cho nhau ầm ầm đấy thôi, hôm nay có phải Noel hay giao thừa đâu? Điện thoại hư? Cũng chẳng phải. Cô đã thử dùng nhiều máy khác để gọi mà. Rõ ràng là có một chuyện gì đó bất bình thường. Hay đứa ác ôn trời gầm nào đó đã lấy mất điện thoại của anh. Hay anh đang đi chung với một ai khác không - phải - em? Hay…anh bị tai nạn? Ôi, không? Cô bắt đầu lo lắng phát sốt lên. Cũng may là cô vẫn còn giữ số của cậu bạn ở trọ chung nhà với anh. Khương gọi hú hoạ, không ngờ lại phát huy tác dụng. Cậu ta chuyển máy, cô nghe giọng Quang ngập ngừng bên kia đầu dây: “Máy anh hết pin!” Okie. Cô chấp nhận lý do đó như cô vẫn hằng tin tưởng anh.

Nhưng đến khi chuyện này lặp lại liên tục trong một tuần liền thì đó không còn là việc “máy anh hết pin” nữa rồi. Tự nhiên cô oà khóc như một đứa trẻ đi lạc tìm hoài không thấy mẹ. Tự nhiên cô nhận ra rằng bấy lâu nay mình ngủ quên trong sự quan tâm mà anh đem lại. Tự nhiên cô giật mình vì một nỗi sợ hãi mơ hồ. Chính xác đó là cảm giác bất chợt hiểu ra: một cái gì đó dẫu đang là của mình vẫn có thể vụt tan biến trong chốc lát.

Cô tự trấn an mình: “Mày đa cảm quá đấy! Đơn giản là người ta thích yên tĩnh nên tắt máy thế thôi. Anh đã làm gì sai với mày đâu nào?”. Không xinh đảo nước nghiêng thành, nhưng nốt ruồi duyên bên khoé môi và đôi mắt buồn xa xăm vẫn khiến khối chàng trai trong trường cô muốn thay thế vị trí của anh. Trước giờ chỉ có anh phải nghĩ nên làm gì để giữ cô chứ chưa bao giờ cô cảm thấy sợ mất anh như thế này.

***

Thi thoảng có đôi lần cô cảm thấy chán anh. Một con người luôn thích khám phá, chinh phục những cái mới như Khương luôn không vừa lòng với những gì mình đang có. Cô không thích bị ràng buộc, cô bực bội với những câu hỏi quan tâm của Quang mà cô đánh đồng với sự kiểm soát. Khương dị ứng với những câu đại loại như “Em đang làm gì thế?”, “Em đang đi chung với cậu bạn nào à!”. Nhưng ngược lại, cô tự cho mình cái quyền đuợc nhấc điện thoại lên bất kì lúc nào chỉ để xem Quang đang làm gì, với ai! Duy nhất một lần Quang đang đi ngoài đường không nghe điện thoại Khương là y như rằng sau đó anh nhận được một chuỗi những giận hờn trách móc. Nhưng túm lại, dù thế nào thì cái điện thoại của Quang vẫn hoạt động tốt trong 6 tháng nay.

Ngày xưa khi Thượng đế tạo ra con người sao lại lỡ tay bỏ hạt giống mâu thuẫn vào trong mỗi tâm hồn làm chi để bây giờ nhiều lúc Khương không biết mình muốn gì ở anh. Quan tâm đến Khương quá thì Khương đâm cáu kỉnh. Thờ ơ thì Khương lại trách anh bỏ bê. Mỗi tối đi chơi về, anh đều hôn nhẹ lên má và không quên nói một câu quen thuộc “Em ngủ ngon nhé!”. Thích à? Vài lần đầu thì có, nhưng chưa được mấy hôm Khương lại cảm thấy nhàm. Không còn gì lãng mạn hơn sao! Lại chán. Nhưng anh cứ thử quên xem. Có chuyện ngay. Thế đấy! Với Khương, tình yêu phải luôn luôn tràn ngập sự mới mẻ và bất ngờ. Kiểu như anh chàng trong 50 first dates ấy. Mỗi ngày phải làm quen lại từ đầu cùng một cô gái với cả ti tỉ cách chinh phục thú vị khác nhau. Cứ kiểu như mi thì chẳng bao giờ yêu ai thật sự được đâu Khương ạ, người ta giấu tay ra sau lưng là mi đã biết hắn chuẩn bị tặng hoa hồng thì còn quái gì là cảm xúc!

Chẳng phải đã có lần Khương chơi trò ấy ư! Một tin nhắn cho anh vỏn vẹn: “Một sáng ngủ dậy bỗng dưng người ta thấy chán nhau, anh nhỉ! Đừng liên lạc với em nữa.” Khương tự hỏi mình làm thế để làm gì? Đùa thôi mà. Để thử xem anh yêu Khương tới mức nào. Và để tìm một cảm giác mới mẻ cho tình yêu đã mòn mèn cũ kĩ với thời gian. Nói anh đừng liên lạc nhưng cô cứ thấp thỏm, lâu lâu lại mở máy kiểm tra xem có tin nhắn của anh không. Có vẻ anh hiểu cái tính khí mưa nắng thất thường của Khương. Một tin nhắn hồi đáp không nằm ngoài dự tính của Khương. “Chắc dạo này công việc làm cho em mệt mỏi lắm phải không? Anh không thể làm gì được cho em, chỉ có thể giúp mỗi chuyện… qua nhà em ăn trái cây thôi. Mặc dù em tắt máy nhưng anh vẫn thích nhắn tin”.

***

Đùng một cái, sau hơn nửa năm quen nhau: “Thuê bao quý khách tạm thời không liên lạc được…”. Lần này người tắt máy là anh. Không phải Khương. Hàng tá câu hỏi lùng bùng trong đầu cô. Anh đổi số (chính anh đã vô tình buột miệng như vậy mà) nhưng không muốn nói cho cô biết. Để nhắn tin với một ai khác (chắc là cái Hải Thy chứ còn ai, anh và nó cứ nhìn nhau hoài là gì!). Anh đang gặp trục trặc trong công việc (dạo này nghe đâu sếp anh đang sát hạch nhân viên). Anh chán cô rồi (làm ơn, nếu thực sự là như thế thì anh nói thẳng một câu có hơn không, như cô đã làm ấy). Một cô gái logic như Khương không chấp nhận một chuyện gì đó xảy đến bất bình thường mà không có nguyên nhân. ít nhất thì “chán” cũng là một nguyên nhân.



22h30. Khương đứng ngoài ban công nhìn con phố vắng lặng phía dưới. Tự hỏi tại sao tối nay Quang không tới. Chợt thấy nhớ đến quay quắt cái hôn nhẹ vào má, thấy cần đến thiết tha câu nói quen thuộc: “Ngủ ngon nhé em!” Khương bấm số điện thoại Quang liên tục tưởng như trở thành vô thức, mặc dù biết không nghe được gì ngoài “Thuê bao quý khách vừa gọi tạm thời không liên lạc được…”.

Tít tít. Một số máy lạ hoắc. “Em ra khỏi nhà, mở cửa đi”.

Khương tò mò. Vẫn với thói quen suy đoán trước những gì người khác định làm, Khương tự nhủ ắt hẳn không ai khác ngoài Quang.

Cửa mở. Làm gì có ma nào. Không lẽ mình bị lừa. Chưa kịp tìm đáp án cho thắc mắc thì…

Tít tít. “ Này, anh không đến đâu. Em đừng hí hửng thế chứ?”.

Tức thật. Lần đầu tiên Khương bị một người giấu mặt bắt tẩy.

Tít tít. Vẫn số lạ đó. “Giờ thì quẹo trái, đếm 20 bước nhé”.

Tít tít. “Anh quên. Em có lạnh thì khoác thêm áo vào. Trông em ăn mặc phong phanh thế kia…”.

Là sao? Còn biết mình mặc gì nữa cơ à. Được rồi! Em sẽ đợi xem anh định làm gì.

Tít tít. “Tới rồi. Em có thấy chiếc xích lô ngay trước mặt không. Giờ thì mở tấm ván lên nhé. Điều bất ngờ đang nằm phía dưới đấy!”

Khương dáo dác ngó xung quanh. Không thấy bóng dáng một ai. Cô nhè nhẹ giở tấm ván lên bằng hai ngón tay. Gì thế này: một phần gà KFC kèm theo một mảnh giấy được xếp cẩn thận.

“Em ơi,

Chắc em đang đợi anh mở điện thoại để căn vặn anh: “Tại sao anh tắt máy? Có phải anh đổi số để nhắn tin cho Hải Thy trong công ty phải không? Anh đang giấu em chuyện gì thế?”...Vân vân và vân vân. Em ngốc quá! Trước giờ anh chưa làm điều gì để em bị tổn thương, đúng không! Đừng suy nghĩ lung tung nhé.

Sáng hôm qua đón em, nhìn gương mặt xanh xao và hốc mắt thâm quầng của em, anh chợt giật mình. Cô bé với đôi má hồng và đôi mắt tinh anh (lúc nào cũng liếc qua liếc lại) của anh đâu rồi?! Em bảo tại đêm trước nói chuyện điện thoại với anh tới 2h sáng nên mới thế. Anh còn tình cờ phát hiện em đang phải hoàn thành một dự án lớn trong tuần này. Em có biết mấy hôm nay em ốm đi nhiều lắm không?

Đến đêm thứ hai, thứ ba em vẫn tiếp tục “tám” hết chuyện này đến chuyện kia với anh tới khuya thì anh bắt đầu lo rồi đấy. Sao dạo này em lại chuyển thói quen nói chuyện khuya thế nhỉ! Anh sợ em sẽ bệnh mất thôi. Mà bệnh vì cái lý do “nhiều chuyện với anh mỗi tối” thì vô duyên quá em nhỉ! Nhưng anh bảo thế nào em cũng có nghe đâu. Anh lo cho em quá thì em lại chán. Anh mặc kệ em thì em lại nói anh không yêu. Anh chẳng biết phải làm thế nào cả. Cuối cùng mới nghĩ ra cách tắt điện thoại. Đó là cách duy nhất khiến cho em có thể đi ngủ sớm để giữ sức khỏe mà hoàn thành dự án tốt nhất. Lại không làm em chán! Trọn cả đôi đường. Anh thông minh chứ em nhỉ!

Có thể anh không là người đem lại cho em một tình yêu đầy bất ngờ và nhiều thú vị như em mong muốn, nhưng anh sẽ luôn là người xuất hiện những khi em cần anh nhất!”.

Tình yêu đích thực chỉ có thể xây dựng trên niềm tin và sự chân thành. Lần đầu tiên thực tế và những suy đoán bắt bài người khác của Khương không trùng khớp với nhau.

Tít tít. “Đừng gọi lại cho số này làm gì. Đây chỉ là số điện thoại của một người đi đường tốt bụng cho anh mượn để chữa trị virus chán của cô gái mà anh đang yêu thôi. Ngủ ngon em nhé!”.

Có một điều mà đến bây giờ Khương mới hiểu: hóa ra “chán” cũng là gia vị của tình yêu. Một sáng ngủ dậy tự nhiên thấy yêu anh nhiều hơn, đủ để Khương với tay lấy điện thọai hí hoáy: “Mặc dù anh tắt máy nhưng em vẫn thích nhắn tin. Để khi nào mở điện thoại lên anh sẽ thấy em chúc anh một ngày mới tốt lành… Cám ơn anh đã luôn ở bên cạnh em, ngay cả khi bỗng dưng ta chán nhau nhất… Để em hiểu rằng: Cái gì là của mình rồi sẽ vẫn là của mình, nếu em biết nâng niu gìn giữ không phải bằng tay mà bằng cả trái tim”.
 
Ma học trò
Truyện ngắn của Di Li


Rõ một điều rằng, làm cái anh thầy giáo là sự lựa chọn hết sức ngờ ngệch. Bởi lẽ sau 16 năm đèn sách, anh vui mừng hớn hở vẫy tay chào bảng phấn và sách bút, nhưng rồi sau đó lại dại dột gắn bó với chúng suốt đời. Khổ một nỗi, đã trót chen chân với nghề bảng phấn rồi, anh sẽ không tài nào mà dứt ra được. Hồi đó tôi về một trường trung cấp làm giáo viên. Ngày ấy ai thích làm thầy giáo, nhưng cả hai họ nhà tôi đều nêu những khó khăn khi bươn ra làm thuê cho doanh nghiệp và so sánh với nghề cao quý, là người kỹ sư của tâm hồn. Bố tôi bảo rằng HDI của ta đang tăng và phần lớn là nhờ vào giáo dục. Hơn nữa chẳng cần làm sếp mà cũng đựơc khối người nghe theo, ấy chính là lũ học trò. Tôi xuôi dần và thi đỗ công chức, trở thành thầy giáo 3 tháng ngay sau khi tốt nghiệp. Dạy hết một học kỳ, tôi được cử đi công tác Thái Nguyên. Trước khi lên đường, các đồng nghiệp len lén nhìn tôi cười bí hiểm. Một chị đã lên đó trước tỏ vẻ thương tình "Tụi học sinh ở đó hơi nghịch, nhưng Quang nhà mình cũng kinh qua hết mấy lớp cá biệt ở đây rồi còn gì. Lên đó để ý thằng Tuân béo, đừng lơ là nó ngay từ phút đầu tiên." Tôi cười tủm trong bụng, bận rộn với các đồ đạc mang theo. Tôi vứt ba lô lên xe máy và thong thả phóng ra ngoại ô, bụng nghĩ đến mấy trò phá phách của lũ học trò: Hỏi khó thầy giáo? Cho học sinh nữ ăn mặc bắt mắt rồi ngồi lên bàn đầu để ngắm thầy? Ăn quà vặt, hút thuốc lá, nắm tay nhau trong lớp học? Ngày xưa đi học tôi còn nghịch hơn tụi học trò bây giờ ấy chứ. Trời bắt đầu mưa nặng hạt nên tôi không phóng nhanh được. Tôi cho rằng mình không thể vào Thái Nguyên như giờ đã định vì cơn mưa này. Cơn mưa tháng ba khiến tôi tê cóng cả hai tay. Những rặng cây ven đường bắt đầu tím thẫm lại. Khi tôi còn cách thành phố chừng 20 cây số nữa thì... xe tự động đỗ lại. Lúc đó là 9 giờ tối. Tôi kiểm tra xăng, bugi? đều ổn cả. Lúc này tôi mới định hình được tình thế tồi tệ của mình. Con đường hun hút tịnh không một bóng người. Những ngọn núi đen sì thấp thoáng sau màn mưa nhắc chừng rằng xung quanh nơi này hẳn không có nhà dân. Ðói, rét, mệt, chẳng ăn thua gì với một thằng trai 23 tuổi, nhưng tôi có một nỗi sợ còn khủng khiếp hơn nhiều. Tôi rất sợ ma. Ngay bên vệ đường là một nghĩa địa khổng lồ. Thỉnh thoảng ánh chớp loà lên soi rõ những lùm đất còn mới nguyên, những vòng hoa nằm rải rác đã nhão nhoẹt vì nước mưa tạo nên các hình thù quái lạ. Hai đầu đường hút dài như vô tận. Bấy giờ, bất kỳ một tiếng động nào ngoài tiếng mưa rả rích đều làm tôi hãi hùng. Ðến độ có lúc chiếc áo mưa của tôi sột soạt vì những cử động của chính mình cũng khiến tôi giật bắn lên. Tôi cố tập trung vào cơn cồn cào ở dạ dày để quên đi, nhưng những hình ảnh ma quỷ trong các câu chuyện tôi được nghe kể cứ rõ mồn một từng chi tiết. Ma mặt thớt thường hoá thành anh xích lô tốt bụng đèo khách lỡ độ đường về. Vừa đi vừa trò chuyện rôm rả đến nửa đường tình cờ quay lại thấy mặt anh ta phẳng lì như cái thớt. Khách ngất đi, lúc tỉnh dậy thấy mình đang nằm vắt vẻo trên một cái mả mới tinh. Ma cây cứ nửa đêm hoá thành cô gái đẹp đi bán bánh bao. Khách bửa ra ăn thử thấy trong toàn gián với nhện, nhìn lên định bắt đền đã thấy cô gái thè cái lưỡi đỏ lòm dài như đòn gánh cười khanh khách. Rồi ma nam nấp dưới hồ rút chân người, ma xó di chuyển mọi đồ đạc, ma trơi lập lờ ngoài cánh đồng trêu đùa kẻ yếu bóng vía, ma gà có viền mắt vàng khè sống chui lủi trong núi. Thậm chí cả ma sói, ma cà rồng chuyên hút máu người trong những cánh rừng Bắc Âu âm u, và thây ma sống bên châu Phi cũng như tập trung cả lại để giật tung mọi tế bào thần kinh của tôi. Tôi lấy chiếc xe làm điểm tựa đề phòng mọi sự tấn công từ phía sau và bắt đầu cầu nguyện thành tiếng, gọi tên từ ông Khổng Tử, Mạnh Tử cho đến Anselm, Rousseau và Décartes1. Ðúng vào lúc tuyệt vọng nhất thì một âm thanh ầm ì từ phía xa báo hiệu một chiếc xe sắp chạy tới. Những hình ảnh vẫn còn túm chặt trong đầu khiến tôi thay vì mừng rỡ lại đầy cảnh giác với cái vật đang chuyển động. ánh đèn pha quét vào chiếc xe cũng đang rúm ró như chủ nhân của nó. Cái bóng trùm áo mưa lừ lừ tiến lại phía tôi. Tôi quát to "Ðứng lại. Người hay ma?". Khuôn mặt bịt kín bằng một chiếc khăn tối màu càng khiến ảo giác của tôi tăng lên. Người kia cúi xuống chiếc xe của tôi "Ma mà chữa được cho anh chiếc xe này cũng tốt. Hay muốn đứng đây ngắm nghĩa địa. Ðây là nơi tập trung nhiều ma nhất vùng này đấy". Tôi ngần ngừ "Sao phải bịt mặt?" - "Ði mấy chục cây số muốn thủng mặt vì mưa hả ông nội". Dứt lời anh ta đứng dậy, đạp nổ máy. Chiếc xe lại ro ro như thể lúc nãy nó bị ma ám vào. Ân nhân của tôi trèo lên xe. "Xe của anh nên bảo dưỡng bộ chế hoà khí. Anh về Thái Nguyên hả. Tốt nhất nên đi cùng tôi đề phòng nó lại chết máy lần nữa". Tôi líu ríu đi theo anh ta. Chúng tôi không nói lời nào cho đến tận lúc về tới Thái Nguyên. Khi xe vào đến thành phố, đã 12 giờ đêm. Những mái nhà u ám im lặng trong mưa rét. Bất chợt tôi nghe vẳng xa xa tiếng thanh la, chuông mõ như gọi hồn ma quỷ cốc lên từ cõi âm. Âm thanh ngày càng tới gần, và lờ mờ trong làn mưa một đoàn người di chuyển chầm chậm đầy ma quái. Tôi hét lên thất thanh "Cái gì thế?". Người kia cười ha hả "Anh chưa nhìn thấy đám ma bao giờ hả. Thôi chào nhá". Tôi cuống lên "Cho tôi hỏi trường Nghiệp vụ du lịch Bình Minh". Anh ta ngần ngừ "Anh đến đấy làm gì giờ này?". Không muốn để lộ thân phận mình trong hoàn cảnh bất đắc dĩ này, tôi nói bừa "Bác bảo vệ ở đó là chú tôi". Hoá ra ngôi trường nằm ngay góc quẹo trước mặt. Tôi nhận phòng, một căn nhà cấp bốn chừng hơn chục mét vuông kế ngay phòng bảo vệ. Chặng đường dài mệt nhọc và nỗi sợ hãi vẫn còn ám ảnh làm tôi chìm luôn vào giấc ngủ đầy mộng mị.
 
Sáng hôm sau, tôi có mặt tại lớp học đúng giờ. Cũng là một dãy nhà cấp bốn nằm đối diện căn phòng tôi ở. Trời vẫn mưa lất phất và bầu trời thì tối một cách quái gở. Lớp học lợp mái ngói, những chiếc bàn gỗ ẩm mốc và bức tường lở lói bổ sung vào khung cảnh thê lương của một ngày không lấy gì làm đẹp trời. Khiếp hơn, chiếc cửa sổ bên tay mặt duy nhất sát cạnh bàn giáo viên lại trông ra một khu vườn um tùm cây cối với hơn chục ngôi mộ nằm rải rác. Không đủ can đảm thò tay với cánh cửa sổ phía bên ngoài, tôi bảo một cô bé ngồi bàn đầu với hai bím tóc dài tận đầu gối "Ra đóng giúp thầy cánh cửa cho đỡ gió". Tức thì một giọng con trai lên tiếng phản đối "Thưa thầy, người ta muốn xem thầy giảng bài đấy ạ". - "Ai?" - "Những người ngoài kia". Một tên học trò béo ị ngồi cuối lớp, mấy chiếc răng cửa to tướng như răng thỏ đang trân trối nhìn tôi, đầu hất hất về phía cửa sổ. Tôi bắt đầu nghẹt thở, vờ tiến về giữa lớp "Tôi là Quang, phụ trách môn nghiệp vụ lễ tân, sẽ dạy các em trong vòng bốn tuần. Du lịch là một ngành dịch vụ quan trọng và trong thế kỷ 21, du lịch sẽ trở thành mũi nhọn trong nền kinh tế của nước ta". Những tiếng nhao nhao bắt đầu ồ lên "Thưa thầy Thái Nguyên sẽ trở thành mũi nhọn chứ ạ", "Thầy ơi, chỉ còn 275 ngày nữa là sang thế kỷ 21, chúng em sắp thành đầu tàu rồi.", "Sao tóc thầy nghệ sĩ thế, thầy cắt ở đâu đấy ạ?". Hơn 50 đứa học trò, đứa ngồi đăm chiêu, đứa mặt mũi hớn hở, đứa nheo mắt tinh quái, đứa thản nhiên câng cáo. Tôi bắt đầu cảm thấy sự đe dọa vô hình. Tôi khoanh tay trước ngực, đầu ngẩng cao "Comenxki2 nói rằng: Những kẻ giàu có mà không có học vấn thì chẳng khác gì những con lợn béo ị vì ăn nhiều cám. Những người nghèo khổ mà thiếu hiểu biết thì cũng không khác gì những con lừa đau khổ buộc phải tải nặng. Một người có hình thức đẹp mà không có văn hoá chỉ là một con vẹt có bộ lông hào nhoáng". - "Thầy ơi cần phải có một bộ luật mới để bảo vệ động vật nuôi", "Thế thì chúng em là loài bò sát đấy ạ". Tên học trò béo ị đứng bật dậy, hai tay chắp trước ngực, khuôn mặt nghiêm trang giả tạo một cách đáng ghét và ngân nga giọng như bắt đầu bài diễn văn "Thưa thầy, chúng em xin thầy hãy rủ lòng thương xót cứu rỗi chúng em thoát khỏi cảnh sống kiếp động vật." Hắn ta cười hô hố và bắt nhịp cho cả một tràng cười với đủ mọi thanh âm đa dạng. Tôi thay đổi chiến thuật "Thôi nhé. Tôi bắt đầu điểm danh. Các em biết nguyên tắc rồi, nếu em nào nghỉ quá 20 phần trăm số tiết sẽ bị học lại". Quả nhiên lũ học trò ngồi im thin thít để chờ nghe tên mình. Tôi dò đến tên Nguyễn Văn Tuân, sinh năm 1980 "Em có mặt". Tên học trò xấc xược nhất lớp nói dõng dạc một cách hài hước khiến tiếng rúc rích lại nổi lên. Ðúng là Tuân béo. Tôi ra vẻ không để ý đọc tiếp "Lê Thái Vân". Im lặng. "Lê Thái Vân. Bạn này nghỉ học?". Có vài tiếng nho nhỏ ở bàn đầu "Bạn ấy mất rồi ạ. Chắc trường quên chưa gạch tên". Tôi định hỏi tiếp xong lại thôi "Các em mở trang 4..." Tụi học trò không mất trật tự như tôi tưởng. Trái lại ngồi im lặng một cách đáng ngờ, như thể chúng đang chuẩn bị thực hiện một âm mưu hết sức mờ ám. Tôi dạy hết hai tiết và nhân giờ giải lao ra đầu hồi đứng hút thuốc. Tôi ngắm ngôi trường. Chỉ là một chiếc sân bé tẹo xen giữa hai dãy nhà cấp bốn mà một dãy là lớp học còn một dãy dành cho giáo viên và học sinh nội trú. Tuy nhiên không hiểu sao dãy kia không có người ở ngoài phòng tôi và phòng ông bảo vệ già cách đó hai gian. Riêng lớp học cũng chỉ có độ bốn lớp. Ðang giờ nghỉ nên chúng nô đùa ầm ĩ trong lớp học. Tuy nhiên những âm thanh vui nhộn đó cũng không thể xua đi không khí ảm đạm của ngôi trường, hay ít ra do tôi cảm nhận thế. Vứt điếu thuốc, tôi bước vào phòng nghỉ giáo viên. ở đó có ba chị, có vẻ là giáo viên ở đây, đang chuyện trò rôm rả. Thấy tôi bước vào, họ ngừng cả lại dò xét. Tôi cất tiếng "Chào các chị. Hôm nay trời ẩm ướt quá". Họ rót cho tôi một tách trà nóng và bắt chuyện "Hôm nay em mới lên à? Thấy học sinh ở đây thế nào?". Tôi cười gượng "Dạ, các em ngoan và rất hiếu học ạ." Tôi buộc phải nói ra câu xã giao ấy mà lòng buồn rầu rĩ. Một chị đứng tuổi, mặc áo hoa tay bồng, tóc tết đuôi sam phía sau cười thông cảm "ừ tụi học sinh ở đây hơi nghịch nhưng tâm tính tốt. Mà đa phần hoàn cảnh đều vất vả nên nhiều lúc cách cư xử cũng khác học sinh Hà Nội". Tôi hoà nhập nhanh chóng và bắt đầu đi vào những điều cần hỏi "Sao khu vườn phía sau lớp nhiều mộ thế chị, mà lại chưa dọn đi?". Chị trẻ nhất có nước da rất trắng, áng chừng hơn tôi vài ba tuổi hạ giọng "Trước đây trường này là nghĩa địa của những người vô gia cư. Hồi nạn đói năm 45, người chết nhiều lắm, chôn chung cả ở đây. Mãi vừa rồi chính quyền mới trưng dụng để làm trường học. Cũng là do anh Ðĩnh hiệu trường làm đơn mở trường dạy nghề cho các em." Tôi nổi da gà "Nghĩa là ngay chỗ mình ngồi á?" - "Tất nhiên. Khắp mọi nơi. Cả khu lớp học lẫn khu ở. Em đừng sợ, các tiểu sành được dọn đi hết rồi" - "Nhưng vẫn còn một số trong khu vườn sau lớp học". - "Mọi người kể rằng mấy cái đó không rời đi được, vì cứ hễ ai động vào là y như rằng bị trúng gío cấm khẩu. Có người về nhà còn hoá điên mất một tháng. Lúc tỉnh ra mới kể suốt mấy ngày vừa rồi hôm nào cũng được mời đến một khu nhà lá. Người ngợm ở đó ăn mặc rách rưới nhưng ăn uống linh đình lắm. Hỏi ăn món gì thì người kia bảo không biết, chỉ cười ngây ngô". Tôi uống nốt chén trà và quay vào lớp, cố gắng tránh chiếc cửa sổ. Trời vẫn mưa rả rích và có vẻ ngày càng tối hơn. "Các em bật điện lên". - "Thưa thầy mất điện rồi ạ'. Tôi cố ghìm lại để khỏi văng ra một từ khó chịu. Tôi tiếp tục bài giảng và bất chợt cảm thấy điều gì đó không ổn. Tôi nhẩm đếm lại số học sinh trong lớp, và đếm lại đến ba lượt. "Sao trong sĩ số chỉ có 53 mà ở đây có tận 54". - "Sĩ số 54 chứ thầy" - "Tôi biết rồi, nghĩa là trừ bạn Thái Vân ra." Cực chẳng đã tôi đành phải nhắc đến tên người học trò vắng mặt. Tôi vốn không bao giờ thích kêu tên những người đã chết. Trong ánh sáng lờ mờ của lớp học, tôi nhận ra một cô gái ngồi ngay cạnh Tuân béo. Rõ là lúc nãy Tuân béo ngồi cạnh học trò Quốc Hữu. Tin chắc vào trí nhớ của mình từ lúc điểm danh đầu giờ, tôi trỏ tay "Bạn nữ này là ai?". Cả lớp im lặng, ngơ ngác. Ngay cả Tuân béo lúc này cũng ngẩn người ra "Thầy bảo ai ạ?". Tôi đanh giọng lại "Tôi hỏi người ngồi cạnh em" - "Là bạn Quốc Hữu ạ". Tôi bắt đầu gầm lên "ý tôi hỏi bạn nữ ngồi cạnh em." - "Cả bàn em toàn nam ạ. Chắc thầy thấy Quốc Hữu giống gay quá đây mà." Cả lớp bắt đầu cười rinh rích. "Tôi không đùa". Từ một chuyện rất nhỏ, tôi thấy sự việc bắt đầu trở nên nghiêm trọng khi lũ học trò trở nên bất hợp tác. Tuân béo đứng hẳn lên. Nhìn mặt hắn và cả lớp, tôi biết không ai đùa hết "Thưa thầy, bàn em có 5 con trai ạ. Không có bạn nữ nào. Em không hiểu ý thầy định nói gì". Tôi luống cuống "Cả lớp, tôi hỏi bạn nữ ngồi cạnh Tuân là ai?". Toàn bộ những cái đầu còn lại quay xuống ngơ ngác, tỏ vẻ không hiểu. Tôi điên tiết "Thôi, tôi hỏi chính em. Em nữ áo trắng ngồi cạnh Tuân đứng lên và nói cho tôi biết em tên là gì?". Cô gái ngồi cạnh Tuân mặc chiếc áo trắng nhờ nhờ và vì ngồi cuối lớp, lại trong cảnh tranh tối tranh sáng nên tôi không rõ mặt cô ta. Chỉ biết cô bé rất trắng với đôi mắt to đen buồn rười rượi và mái tóc cũng đen dài lấp gần hết khuôn mặt. Kỳ cục, cô gái chỉ chăm chắm nhìn tôi vẻ ủ ê như không nghe thấy tôi nói gì. Tôi nhắc lại "Nếu em không đứng lên tôi sẽ lên mời ban giám hiệu". Cả lớp nhìn tôi khó hiểu. Tuân béo lại đứng dậy, vẻ nghiêm trọng "Em xin thề với thầy rằng bàn em không hề có bạn nữ nào và ngồi cạnh em là bạn Quốc Hữu. Chỗ cạnh em trước đây thì có một bạn nữ thật, là bạn Thái Vân. Nhưng giờ bạn ấy... Thế thầy nhìn thấy người như thế nào ạ?". Sống lưng tôi lạnh toát, trả lời thằng Tuân như một cái máy "Một bạn nữ da trắng, tóc dài, mắt đen...". Một học trò nữ da ngăm ngăm ngồi bàn đầu giở chiếc ảnh trong ví "Có đúng bạn này không thầy?". Tôi nhìn xuống cô gái cuối lớp, vẫn với khuôn mặt đượm buồn ngồi lặng lẽ như không mảy may để ý đến những điều người khác đang nói về mình "Ðúng rồi". Có vài tiếng nói rất nhỏ "Ðúng là bạn Thái Vân rồi. Thỉnh thoảng bạn ấy vẫn đến lớp". Thốt nhiên một làn khói mảnh bốc lên bao phủ lấy khuôn mặt trắng bệch của Thái Vân. Tuân béo bất ngờ rú lên một tiếng thất thanh, cả lớp nhốn nháo, còn tôi, theo phản xạ đủ thu hết sức lực còn lại nhấc đôi chân nặng hơn chì chạy như bay ra khỏi lớp.
 
Trong lúc tinh thần hoảng loạn, tôi đâm sầm vào một người đàn ông đang đi giữa sân trường. Ông này chừng ngoài 40, khuôn mặt thông minh và thân thiện, mặc bộ comple màu xanh cổ vịt. Ông ta nhìn tôi mỉm cười, hàm răng sáng bóng kỳ lạ "Cậu là Quang hả. Tôi tên Ðĩnh. Mới lên hôm qua phải không? Ðang giờ dạy chạy đâu mà như ma đuổi thế?". Tôi ấp úng, vẫn còn đủ tỉnh táo để biến báo "Em định lên nhờ ban giám hiệu điểm danh cho hôm đầu. Em là giáo viên mới chưa thuộc hết mặt nên...". Ông Ðĩnh cười ha hả "Chắc tụi học sinh nó lại quậy chứ gì. Không sao, các em ở đây chăm học lắm. Hôm nào cũng đi đủ hết. Cậu đứng ngoài chờ, để tôi vào dặn dò". Tôi đứng nép dưới hàng hiên, hít một hơi căng lồng ngự để lấy lại bình tĩnh. 5 phút sau, ông hiệu trưởng ra ngoài miệng tươi cười "Ðủ rồi, 53 đứa, cậu vào dạy tiếp đi". Tôi cuống lên "54 em cơ ạ". - "Trước đây thì thế nhưng có một em nữ mới bị bệnh tim mất tháng trước, giờ chỉ còn 53". Tôi hoảng hốt "Nhưng ban nãy em đếm trong lớp có 54". Ông Ðĩnh nhìn tôi không hiểu "Cậu vào đây với tôi". Tôi đi sau ông bước vào lớp. Cô gái ban nãy biến mất. Ðúng là bàn của Tuân béo chỉ có 5 nam sinh. Ông Ðĩnh đếm lại thành tiếng và xoa tay "53 mà. Chắc ban nãy cậu đếm nhầm. Thôi thừa còn hơn thiếu". Ông ta bông đùa, vỗ vai tôi và bước ra khỏi lớp. Tôi chạy theo "Có khi nào bạn bè của các em ấy đến chơi không ạ?" - "Không bao giờ, vì các giáo viên của chúng tôi luôn điểm danh rất kỹ. Nội quy nhà trường không cho phép bất kỳ người lạ nào vào lớp học. Bảo vệ cũng rất nghiêm ngặt trong việc này". Tôi thẫn thờ quay vào lớp và... suýt ngất xỉu khi nhìn thấy ở vị trí ban nãy lại hiện lên gương mặt của Thái Vân. Tôi tựa lưng vào tường "Các em làm bài tập trang 6... Cuối giờ tôi thu bài" rồi vội vã bỏ ra ngoài.

Hôm đó, tối mịt tôi mới quay lại trường, sau một buổi chiều ngồi lì trong một quán cà phê bình dân. Ngôi trường nằm trong ngõ nhỏ cách đường cái chừng 50 mét, xung quanh tịnh không bóng người ở, chỉ có đồng không mông quạnh và một khu vườn hoang um tùm lá. Lúc này ngôi trường chìm trong bóng tối. Những ô cửa sổ khoét thành mấy cái lỗ đen ngòm như ẩn chứa bên trong không chỉ là bàn là ghế. Các phòng học ban ngày chở tiếng cười nói của mấy trăm học sinh giờ im lìm đáng sợ. Duy nhất có ngọn đèn vàng lờ nhờ trong phòng bảo vệ đầu hồi là nhắc nhở tôi về sự tồn tại của con người. Tôi tiến về phía ánh sáng. Ông bảo vệ cỡ ngoài 60, thấp bé, quê kệch và nhạt nhẽo. Giá mà ở nơi đô thị đầy ánh sáng thì có thể tôi và ông ta chẳng có chuyện gì để nói với nhau. Nhưng giờ nhìn thấy ông ta tôi mừng húm như thể chiếc phao cứu nạn. Tôi bắt chuyện "Hôm nay trời ẩm ướt quá". Nhưng ông già có vẻ hờ hững như đã quen với sự cô độc hàng thế kỷ "Chào cậu". "Bác cho cháu sang ngủ cùng cho vui nhé. ở một mình thật buồn quá". Ông ta không buồn nhìn tôi "Tuỳ cậu. Tôi còn một chiếc giường xếp đấy". Tôi sung sướng mở chiếc giường ông bảo vệ lôi từ gầm giường ra và thậm chí không dám quay về căn phòng tối om để thay quần áo nữa. "Bác đã bao giờ nhìn thấy ma chưa?" - "Khối". Ðôi mắt người bảo vệ già bỗng ánh lên kỳ lạ khiến tôi run như cầy sấy "Hồi tôi còn đi bộ đội. Có lần lạc đường vào ngủ nhờ một ngôi nhà nằm trên sườn đồi. Chủ nhà là một bà goá có cô con gái chưa chồng. Hai mẹ con tiếp đón tôi niềm nở và mặc dù lúc đó là nửa đêm, vẫn ra ngoài vườn thịt cho tôi một con gà giò rồi nấu một nồi cháo nóng. Tôi ăn xong ngon lành leo lên giường ngủ tới sáng bảnh. Sáng dậy chả nom thấy ai, đoán là hai mẹ con đi ra đồng. Lúc đó có mấy người đốn củi đi qua nhìn thấy tôi mới ngạc nhiên hỏi tôi làm gì ở đấy. Tôi kể lại câu chuyện hôm qua thì họ hết hồn nói rằng ngôi nhà đó bỏ hoang. Trước ở đó có hai mẹ con bà goá thật. Họ hoạt động cách mạng nhưng đã bị địch bắt và xử bắn rồi. Chắc chắn người tôi gặp đêm qua là oan hồn của họ đấy thôi. Tôi chả sợ. Nghĩ rằng ma mà đón tiếp mình tử tế như vậy thì cũng phải biết ơn họ. ở đây tôi cũng gặp khối. Thỉnh thoảng cứ có người vào xin lửa rồi lại kêu đói, kêu rét, ăn mặc rách rưới chẳng giống ai, ra nhìn theo thấy mất hút vào mấy khu vườn hoang kia. Chả ma thì là gì. Nhưng mình có làm điều gì xấu đâu mà sợ. Ma cũng từng là người giống mình cả thôi." Tôi bỗng cảm thấy hối hận vì đã xin vào đây ngủ nhờ, hối hận vì không cáo ốm mà từ chối lên đây dạy học, hối hận vì đã ưng thuận đi làm thầy giáo và bỗng nhiên thấy oán trách bố mẹ tôi hơn bao giờ hết. Tôi buột miệng "Thế có bao giờ mình nhìn thấy ma giữa ban ngày không bác?" - "Có chứ. Ðấy là những con ma có căn số nặng, linh hồn không thoát đi được nên cứ lẩn khuất nơi chốn cũ." - "Nhưng không phải ai cũng nhìn thấy ma phải không bác.?" - "Ðúng thế. Chỉ những người hợp với cõi âm thôi. Ðấy là những người có khả năng đặc biệt. Như tôi chẳng hạn." Tôi chẳng thích cái khả năng đặc biệt này tí nào. Tôi đâm sợ ông bạn già mới quen này, và tự nhiên, sợ luôn cả chính tôi nữa. Không biết ngày mai tôi có phải đối diện với Thái Vân lần nữa không, trong khi không ai nhìn thấy cô bé cả. Ðêm thứ hai. Tôi có một giấc mơ hãi hùng
 
Thái Vân vẫn lên lớp, ngồi ghi chép đầy đủ. Khuôn mặt đượm buồn nhìn tôi không chớp. Những đứa khác cũng thôi không giở trò trêu ghẹo tôi nữa. Quả như ông Ðĩnh nói, chúng khá chăm học. Tuy nhiên giờ thì tôi không còn hứng khởi nào để giảng bài nữa. Nỗi sợ hãi làm tôi tê liệt cả đầu óc. Tôi lên lớp trong tâm trạng u u mê mê, hư hư thực thực. Nỗi khổ lớn nhất của người thầy giờ tôi mới thấm thía, ấy là anh không được phép bỏ học sinh trong bất kỳ hoàn cảnh nào, vì bất kỳ lý do gì ngoài ốm phải nhập viện. Chị Hoa béo dạy cùng bộ môn tôi bị học sinh đặt tên là Hắc Phong, có lần sốt đùng đùng vẫn cố lên lớp. Hỏi sao không nghỉ kêu phiền phức lắm. Tôi bỏ về Hà Nội vì lý do gì, bịa ra một căn bệnh cấp tính hợp lý? Lũ học sinh sẽ không có người dạy trong mấy hôm cho đến khi trường cử được người khác lên thay. Ðể có được người lên thay ấy phòng đào tạo sẽ phải bố trí thay đổi toàn bộ giờ giảng. Mọi thứ sẽ rối tung lên. Hay tôi nói thật về con ma kia? Khéo người ta cho rằng tôi đã phát điên cũng nên. Cơn mưa phùn rả rích không có vẻ gì là ngớt. Tôi vẫn phải đối diện với cái không khí nhợt nhạt ấy hàng ngày, đối diện với những ngôi mộ vô chủ lũ lượt nằm xếp lớp ngoài cửa sổ, với đôi mắt u buồn của Thái Vân và tối tối co ro trên chiếc giường xếp hôi mùi cớm nắng. Tôi bắt đầu thích nghi với không khí kỳ quặc ở ngôi trường, cố gắng nhìn thẳng vào những thứ làm tôi sợ hãi. Tôi gầy xọp đi. Chiều chiều vẫn giở sách ra soạn bài, cảm thấy ngôi nhà quen thuộc đầy ánh sáng và tiện nghi nằm giữa khu phố sầm uất cạnh Hồ Gươm như một giấc mơ xa vời. Tôi quen dần với những con phố hẹp buồn tẻ, quen với những quán cà phê ghế nhựa thiếu internet và điện thoại không dây, quen với những đứa học sinh lôi thôi luộm thuộm, cách pha trò nhạt nhẽo của mấy chị giáo viên giờ giải lao, câu chuyện ma quái hàng tối của ông bảo vệ già, rồi đôi lúc còn ngỡ rằng có khi tôi sinh ra là để nhập vào cái không khí ảo ảo thực thực đầy màu xám này cũng nên. Lũ học trò lại ngày càng ham học một cách đáng ghét. Thậm chí Thái Vân cũng ham học không kém, như thể cô bé thấy tiếc những ngày còn sống vậy. Nhiều khi tôi quên mất thân phận của Thái Vân, còn định gọi cô lên đọc bài. Làm cái anh thầy giáo hay ở chỗ cho dù có tâm trạng thế nào nhưng cứ hễ học trò nó hau háu ngồi nghe lại hăng máu lên mà giảng say sưa. Thằng Tuân béo lạ thay, không quậy phá nữa và mấy lần nhìn tôi len lén như định nói gì song lại thôi. Thấm thoắt chỉ còn ba ngày nữa là tôi được về nhà. Cơn mưa phùn may thay đã tạnh từ hôm trước. Sáng ấy, ông bảo vệ báo cho tôi một tin rất sốc là bà vợ già của ông sẽ ở quê lên thăm. Vì vậy tôi liệu mà thu xếp chỗ ngủ, ông ta sẽ không cho mượn chiếc giường xếp hôi mùi cớm nắng ấy nữa. Dù đã quen với cái không khí kỳ dị của ngôi trường nhưng việc phải ngủ một mình trong căn phòng đen ngòm mà biết đâu dưới nền vẫn còn vài cái tiểu sành còn sót lại là một chuyện khác hẳn. Tối đó, sau khi quán cà phê quen thuộc của tôi đóng cửa sau lời đuổi khéo của bà chủ quán ?Gớm, nom thế mà đã 11 giờ, cậu về ngủ sớm đi rồi mai còn lên lớp?, tôi còn lang thang chừng non một tiếng nữa. Con đường vắng lặng đến nỗi tôi có thể nghe rõ tiếng bánh xe chà sát lên mặt đường lổn nhổn đá dăm. Ðèn đường đã tắt hết và lúc này chỉ còn ánh sáng duy nhất rọi từ chiếc đèn pha của tôi. ánh đèn màu vàng nhạt bất chợt lướt qua một người mặc sơ mi trắng đang đạp xe đằng trước, là một cô gái. Chẳng mấy chốc khoảng cách giữa tôi và cô ta thu hẹp dần. Cô gái quay đầu lại, đối diện với ánh đèn pha sáng loá. Là Thái Vân. Nụ cười lần đầu tiên tôi nhìn thấy với hàng răng trắng đều tăm tắp "Em chào thầy ạ". Tôi không nhớ mình nằm dưới mặt đường bằng cách nào, vì cú phanh đột ngột hay do mặt đá dăm trượt vào bánh xe nhưng não của tôi đã tê liệt. Khuôn mặt trắng toát của Thái Vân cúi xuống càng làm tôi khiếp đảm "Thầy có sao không ạ?". Tôi thều thào "Tránh xa tôi ra. Ðã là ma sao không siêu thoát đi. Còn ám tôi làm gì". Thái Vân bật khóc "Thầy ơi. Em không phải là Thái Vân đâu. Em là Bích Hoa. Trò này là do tụi Tuân béo bày ra. Cả cái vụ đốt hương làm khói nữa. Em xin lỗi thầy". Lúc này tôi như bị ném từ một hồ nước đóng băng tê cóng vào đống lửa đang bén cao từ những cành cây khô nỏ. Cánh tay tôi đau điếng song tôi thấy có chỗ khác còn đau hơn "Tôi không tưởng tượng nổi...". Bích Hoa cuống quýt "Thầy ơi, chỉ vì em không có điều kiện đi học nên Tuân béo mới bày ra đủ trò. Em đã định nói với thầy nhưng em sợ...". Mơ ước của tôi mấy hôm trước đã trở thành sự thật. Cánh tay của tôi bị rạn sau cú ngã xe và tôi từ chối sự thăm hỏi của lũ học trò trong bệnh viện. Hôm cuối cùng, tôi vẫn cố lên lớp với cái tay bó bột trắng toát. Tôi chỉ nói vỏn vẹn một câu "Tôi đã lặn lội gần trăm cây số đến đây để mong gặp các em. Vậy mà tôi thất vọng". Hơn 50 khuôn mặt xanh lét. Cả Tuân béo cũng cúi gằm mặt xuống. Chúng tôi chia tay nhau chẳng vui vẻ gì.

Sáng hôm sau, trời rất đẹp nhưng tôi đã chán ngán cái thành phố này đến tận cổ. Cái cảm giác mình là một thằng ngốc trên bục giảng suốt một tháng qua làm tôi phiền muộn. Ðúng vào lúc tôi loay hoay tìm cách dắt chiếc xe bằng một tay ra cửa, thì có tiếng lao xao rộn lên trong sân trường vắng lặng. Tất cả lũ học trò quý hoá của tôi đã tề tựu đông đủ, dẫn đầu là Tuân béo và Bích Hoa. Tuân béo tay xách chiếc ba lô cho tôi, mắt nhìn đi hướng khác "Em xin lỗi thầy. Chỉ vì hôm thầy bị hỏng xe giữa đường, thấy thầy... sợ ma nên em tính đùa chút xíu. Chúng em vẫn luôn tôn trọng thầy". Tôi trố mắt lên nhìn Tuân béo và chợt nhớ ra cái dáng mập tròn trong chiếc áo mưa màu tím than. Tuân béo lúc này mới dám nhìn tôi "Thầy không phải đi ô tô đâu. Ðể em đưa thầy về tận Hà Nội."


***


Có một vài lý do khiến tôi không thể nào ghét lũ học trò được, cho dù đôi lúc chúng còn khó chịu hơn tụi yêu ma quỷ quái. Bích Hoa năm nào cũng gửi cho tôi một gói trà vào ngày 20 tháng 11. Mùa thu năm ngoái, tôi tình cờ gặp cô bé trong một hội chợ du lịch, đang đứng giới thiệu sản phẩm trà của gian hàng. Mới tuần trước, Bích Hoa cũng gửi thư từ trong Nam ra khoe rằng đã chuyển hẳn sang một công ty du lịch lớn và cô bé được tiến cử phụ trách bộ phận nội địa. Tuân béo cũng hay gọi điện hỏi thăm. Cậu này hồi đi học còn làm thuê cho cửa hàng sửa xe máy giờ đã mở một nhà hàng ăn uống ở Thái Nguyên. Nghe đâu còn có tham vọng đầu tư vào dịch vụ du lịch Hồ Núi Cốc.
 
Di Li tên thật là Nguyễn Diệu Linh, sinh năm 1978 tại Hà Nôi. Truyện ngắn Cocktail của chị đã đoạt giải ba trong cuộc thi Truyện ngắn Quân Đội 2005-2006



Cocktail
Truyện ngắn của Di Li


Tôi kể lại câu chuyện này mà các tình tiết của nó chẳng liên quan gì đến “Chuyện tình nơi quán rượu”1 với nam tài tử Tom Cruise trong vai anh chàng pha rượu bảnh trai có cái lắc hông khiến cả nửa dân số thế giới dán mắt vào vô tuyến. Cũng không hề dính dáng tới những bữa tiệc cocktail của giới thượng lưu, nơi các quý ông ngày ngồi đếm phong bì tối đến đứng tụm lại thành vòng tròn bàn chuyện nên mua hòn đảo nào giữa đại dương, và các quý bà vai trắng nõn nà bận rộn với việc bắt tay hơn là uống champagne. Câu chuyện của tôi xảy ra cách đây 8 năm và nó gây cho tôi một phản xạ có điều kiện khi cứ mỗi lần uống một ly cocktail vào lúc 11 giờ đêm (thói quen tôi không thể bỏ) là phải soi tận đáy cốc qua cái ánh đèn kềnh kệch trong quầy bar. Và đôi mắt nàng, vẫn hiện hữu như thể 2920 ngày mới chỉ là hôm qua.

… Năm ấy tôi 26 tuổi, chưa từng có việc làm. Hai chữ “thất nghiệp” đeo bám trong đầu tôi đến nỗi tôi đâm thù ghét tất cả mọi cuộc gặp gỡ xã giao với những câu hỏi được đúc khuôn như phát ra từ một chiếc đĩa hát thu sẵn “Thế bao giờ mới cho bọn tớ ăn bánh kẹo đây? Đang làm ở đâu rồi? Lương lậu thế nào?”. Dần dần tôi hình thành thói quen hễ cứ thấy bóng người quen là vờ tuột giây giày hoặc quên gì đó phải quay hướng ngược lại. Một lần gã anh họ của tôi đến chơi sau hơn 10 năm sống lưu vong ở nước ngoài. Gã trịnh trọng chia card visit cho cả sáu thành viên trong gia đình tôi, trên đề chức danh chủ tịch hội đồng quản trị tập đoàn Tư vấn thương mại. Gã vỗ vai tôi bồm bộp “Cậu phải đi theo học hỏi tớ. Hai bằng đại học như cậu mà vẫn ăn cơm mẹ nấu là không ổn đâu”. Tôi ngượng chín người. Cái điều vẫn lẩn khuất trong tiềm thức được gã nói trắng ra trước thanh thiên bạch nhật khiến cả nhà tôi gật gù. Gã ngoáy mũi rồi chùi luôn vào vạt áo complê “Bằng cấp mà làm đếch gì. Giáo sư tiến sĩ còn đang thất nghiệp đầy ra nữa là các cậu”. Mẹ tôi bê nước trà đến trước mặt gã mà quên mất 10 năm trước bà cấm tiệt không cho anh em tôi giao du với ông anh họ quý hoá. “Thì bây giờ anh em bảo ban nhau mà làm ăn. Gia đình ta neo người nên thím giao nó cho anh. Anh có việc vặt gì sai bảo nó cũng được”. Nghiễm nhiên tôi có việc làm. Dù không ưa lắm tay anh họ ruột thịt nhưng giữa chúng tôi cũng có điểm chung. Tôi thù ghét từ “thất nghiệp” còn gã thù ghét từ “bằng cấp”. Nỗi khổ tâm làm chúng tôi dính lấy nhau như hình với bóng. Gã luôn giới thiệu tôi với đám khách hàng “Chú em tôi giỏi lắm. Hai bằng đại học, tiếng Anh nói như gió, việc gì cũng thạo. Có gì cần các anh cứ bảo chú ấy.” Thật tình thì tôi làm sang cho gã cũng như những bức tranh treo ở phòng khách công ty mà khách khứa đều phải khâm phục trí sáng tạo phong phú của chủ nhân, bức tranh Phật bà treo cạnh poster in mẫu Cadillac ba khoang đời mới nhất, kế tiếp là tấm ảnh khổ lớn gã chụp cùng một quan chức trong chính phủ tại một buổi lễ cắt băng khánh thành và kề ngay đó là chân dung cô gái tóc vàng có vòng một vừa được mua bảo hiểm 2 triệu đô la. Cái việc cần mà gã anh họ nói với các ông khách nước ngoài mắt một mí được trịnh trọng giao phó cho tôi. Những ngày đầu tôi tháp tùng gã và mấy ông khách kia đi ngoại giao tại các quán karaoke ruột của gã trong thành phố. Trên đời có hai thứ tôi chưa từng được đụng đến dù có mục sở thị, đó là rượu và phụ nữ. Trước nay tôi vẫn được khen sáng dạ, song lần này gã anh họ khẳng định “Chú tối lắm. Tao thấy lạ khi thím tao khai giới tính cho chú mày trong giấy khai sinh”. Gã cười khìn khịt “Đấy, bằng cấp mà làm đếch gì. Hôm nào cắp sách đến tao chỉ cho vài đường cơ bản”. Kết quả những ngày đi làm đầu tiên của tôi là những cơn buồn nôn thường trực. Đến độ chẳng cần mùi whisky hay mùi nước hoa sộc ra từ những bộ ngực không che đậy tôi cũng đã đủ gợn cổ họng vào mỗi sáng như đàn bà ăn dở. Hết tháng đầu gã anh họ tuyên bố “Từ nay công tác ngoại giao tôi giao cậu quản lý.” Tôi phản ứng yếu ớt “Hay anh chỉ định người khác. Em chưa quen việc”. Gã cười nhạt “Vậy thì ai làm? Tao làm? Mấy con thư ký õng ẹo kia hay thằng tài xế?”. Nói đoạn gã dỗ dành “Thôi, tao giao cho chú công việc nhẹ nhàng nhất, chỉ việc ăn với chơi. Đấy là tao nể thím lắm. Đối tác họ thích chú vì mặt mũi hiền lành lại nói được tiếng Anh. Chú làm tốt thì tháng sau tôi bổ chú làm trưởng phòng đối ngoại”. Dĩ nhiên là tôi vẫn tối như thường. Đối tác của gã phàn nàn liên tục và lần cuối cùng trước khi đoàn khách thứ bảy về nước, gã gọi tôi lên phòng “Mày ăn gì vào mồm mà ngu thế?”. Tôi cứ ngắm mãi mũi giày. Gã càng tức “Sao mày dám đánh khách hàng của tao. Mày có biết hợp đồng tiền tỉ nằm ở đấy không.” Tôi cắt ngang “Em chỉ lỡ tay xô lão thôi. Tại lão tát con bé trong quán”. Gã nhìn tôi như thể nhìn con bệnh ung thư giai đoạn cuối “Mày để tình thương của mày cho thím tao ấy, người đã nuôi báo cô mày mấy chục năm. Còn loại đàn bà kia không thằng này tát có thằng khác tát. Thôi từ mai chú mày lại về nhà ăn cơm mẹ nấu, nhá”. Câu sau cùng này khiến tôi suýt khuỵu xuống. Có ông Maslow nào đó đã cho rằng trong Năm Nhu cầu2, nhu cầu sinh tồn là nhu cầu đầu tiên và mạnh mẽ nhất. Lần này tôi thấm nhuần mớ lý thuyết của Maslow hơn lúc nào hết. Sáng sớm hôm sau, tôi bê một tách cà phê thơm phức và xẹt lửa vào điếu thuốc cho vị cứu tinh. Tôi nhìn thẳng vào đôi mắt ti hí sát sống mũi của gã “Anh cho em tiếp tục đi làm. Việc hôm qua em sai rồi”.
 
… Một năm sau, tôi là cục cưng của cả công ty. Hợp đồng tôi kéo về đủ để tôi muốn gì được nấy. Giờ không những chai lì với mùi whisky và nước hoa, tôi còn có thể thẩm định được tất cả các dòng rượu mạnh cũng như thuộc lòng ý thích của từng khách hàng. Gã buôn phế liệu tàu biển người Nhật Bản thích rượu gin và con gái da ngăm đen phốp pháp. Thằng cha Mễ Tây Cơ lai Tàu kinh doanh bất động sản lại chỉ thích rum trắng và phụ nữ dong dỏng cao. Còn tay giám đốc Đài Loan vừa gặp chân ướt chân ráo đã uống Brandy3 tì tì như nước lã và vỗ mông bất kỳ cô gái nào đi qua bàn của hắn. Mỗi lần như vậy tôi cũng cười hềnh hệch hưởng ứng, rồi gọi cô gái kia lại để hắn nhét tiền vào khe áo. Các đối tác của gã anh họ mê tôi như điếu đổ. Đến nỗi mỗi lần xuống sân bay, từ đầu tiên họ nhắc đến là tên tôi rồi mới đến câu chào và chuyện làm ăn. Thế rồi tôi quen nàng trong một quán bar, hay đúng hơn trong một chuyến công tác vào phương Nam. Năm ấy khủng hoảng kinh tế châu Á. Lượng khách hàng của gã anh họ ít dần. Họ rút hết vốn đầu tư lại để dồn sức cho công ty mẹ trong nước. Gã anh họ thức thời không biết cũng sắm sanh được ở đâu hai bằng đại học giống như tôi, rồi lần hồi có cả bằng tiến sỹ. Gã được bổ nhiệm vào một Vụ quan trọng. Khởi đầu là chuyên viên, nhưng một ngày nọ gã trịnh trọng gọi tôi lên “Tôi được thăng chức rồi. Chức giám đốc công ty tôi trân trọng giao lại cho chú”. Tôi thành giám đốc, đương nhiên, chỉ trên giấy tờ.

Lần đó tôi dẫn một khách hàng đi khảo sát thị trường phía Nam. Sau giờ làm việc, tôi với hắn lại rúc vào một quán bar. Hắn chỉ cô gái đang quấn lấy chiếc cột inox bằng động tác của một con mèo hoang “Đẹp lắm”. Tôi hét lên át tiếng nhạc “Tao có thứ này còn hay hơn”. Đôi mắt một mí của hắn sáng lên “Thật à”. Tôi ra ngoài và dẫn vào một cô gái có đôi môi trễ nải ướt át. Tôi trao đổi vài câu với cô gái bằng tiếng Việt và với hắn bằng tiếng Anh. Hắn cảm ơn tôi rồi vui vẻ khoác vai cô ta đi ra ngoài. Tôi thở phào, gọi cho mình một ly Margaritta và ngay khi vừa chạm môi vào viền muối trên cốc, có vật gì đó chạm nhẹ vào tôi “Anh mới vào nghề à?”. Tôi trố mắt nhìn cô gái trước mặt qua ánh sáng mờ ảo quyện khói thuốc, cảm thấy vừa ngượng vừa tức. Hẳn cô ta tưởng tôi là một tên ma cô chuyên nghiệp. Tôi cuống cuồng rút chiếc card visit từ trong ví ra, chẳng màng nhìn lại quần áo xem có ra dáng một giám đốc không. Cô gái mỉm cười vẻ hối lỗi “Em chỉ… tưởng nhầm nên báo anh cảnh giác với tụi chuyên nghiệp ở đây. Tụi nó dữ đòn với những ma mới lắm.” Cô gái nói giọng Bắc. Đôi mắt đen đến ngạc nhiên. Nhìn chung khuôn mặt cô không có vẻ gì ấn tượng ngoài đôi mắt với hàng mi dày rợp dễ khiến những gã đàn ông như tôi quên mất ly cocktail hấp dẫn trước mặt “Tối nay em rảnh chứ?”. Tôi đặt tay lên vai cô gái. Bất ngờ cô đứng phắt dậy, hàng mi nhướng lên “Em không phải là… Em là một bartender4”. Tôi ngồi lại đến một giờ sáng. Trước khi định gọi một chiếc taxi về khách sạn, tôi đi tới đi lui trước quầy bar rồi cuối cùng cũng cất lời “Em mắt đẹp ơi. Cho anh xin lỗi chuyện hiểu lầm ban nãy nhé. Mới đầu em cũng hiểu lầm anh còn gì. Một đều được chưa. Mà em pha Margaritta ngon lắm”. Cô gái đang thoăn thoắt đôi tay với bình shaker, đôi mắt tươi rói trong khi khuôn miệng hơi trĩu xuống giận dỗi “Margaritta chào đón anh lần sau”.

Sau lần ấy, những chuyến bay về phương Nam của tôi dày hơn. Thậm chí chẳng cần dẫn khách đi ngoại giao tôi cũng tự mình mò đến quán bar của Margaritta. Tôi đặt tên cho nàng bằng tên loại cocktail tôi yêu thích, cũng là tên cô đào hồng nhan bạc mệnh được một tay bartender vô danh nào đó gắn lên thứ nước pha cồn diệu kỳ này. Tôi chỉ được gặp nàng vào ban đêm. Đó cũng là lý do cho đến những năm về sau, mỗi lần tôi nhìn thấy nàng trong những giấc mơ không màu, chỉ đôi mắt nàng là có thật và đen hơn cả màn đêm. Tôi không biết nhiều về nàng. Cho dù sau vài lần bị từ chối khi có nhã ý đưa nàng về, tôi đã cất công đứng ngoài cửa đến tận 3 giờ sáng để bám theo nàng về nhà. Nhưng lần nào cũng hướng ấy, con đường ấy, nàng mất hút vào một xóm nhỏ ven nội, như thể nàng mãi là bóng đêm, trên đường phố, trong quầy bar, trong những giấc mơ đen trắng và cả ký ức rặt một màu bóng đêm của tôi nữa. Có lần tôi gọi ly Margaritta thứ chín trong một buổi tối và hỏi nàng “Trước em học trường nấu ăn à?”. Nàng mỉm cười dịu dàng, lấy cho tôi vài tờ giấy ăn để thấm vết ướt trên cà vạt “Không, trước em học dược. Sau này vì kiếm sống mà phải học pha cocktail thôi”. Trước nay tôi vẫn coi cocktail là một thứ làm mát cổ họng sau khi dạ dày được tưới đẫm whisky. Nhưng những lúc nhìn ánh loang loáng của bình shaker trên đôi tay nhỏ nhắn, nhìn cách nàng đổ rượu vào ly đầy điệu nghệ, nhìn nụ cười khi nàng đặt ly Margaritta lên quầy bar, lần đầu tiên tôi cảm nhận vị mặn của muối hoà quyện với hơi cay từ vỏ chanh và hương thơm lan tỏa của rượu tequila trên đầu l¬ưỡi. Nó cũng ám ảnh chẳng khác nào đôi mắt đen hơn bóng đêm của Margaritta. “Học dược khó nhất điều gì em”. Nàng thái vỏ chanh vào một chiếc ly mà không nhìn tôi “Khó nhất là phân biệt những nguyên tố để riêng thì vô hại mà kết hợp với nhau thì thành độc tố”. Tôi giơ chiếc ly đã uống cạn “Như Margaritta phải không. Để riêng muối, chanh và tequila thì chẳng ai muốn uống nhưng hòa vào nhau thì thành độc dược chết người. Uống rồi không sao quên được”. Tôi nhìn nàng đầy ý nghĩa. Chút tequila chẳng đủ làm tôi say nhưng tôi thấy mặt nóng bừng. Margaritta cũng nhìn tôi luống cuống. Nàng suýt đổ nhầm nước sốt Tabasco vào ly Tom Collins.
 
Lần khác tôi hỏi nàng “Sao em không làm nghề dược” – “Em bỏ học giữa chừng” – “Tại sao?” – “Em sang Nga” – “Còn sau đó?”. Nàng vờ bận pha cocktail không trả lời. Tất cả những gì tôi biết về nàng chỉ có thế. Nàng mãi là một bí ẩn như những dải đêm phía sau Thiên Hà. Nhiều lần sau, tôi vẫn gắng gợi chuyện “Anh họ anh cũng ở bên Nga hơn 10 năm”. Nàng nhướng mi “Vậy à, anh họ anh làm gì ở bên ấy” – “Anh không biết. Anh ấy không nói. Cũng như em vậy”, tôi giận dỗi. Quả thật, tôi cũng không biết sau 10 năm lưu lạc xứ người, gã anh họ tôi đã làm gì để kiếm được ngần ấy tiền. Thời gian này, tôi chỉ gặp gã những lúc trao đổi công việc cần thiết. Dù mối làm ăn với đối tác nước ngoài ít dần, gã vẫn tuồn công việc ra ngoài nhờ vào chiếc ghế mới. Một lần gã gọi tôi lên phòng, chốt cửa cẩn thận, đôi mắt sít vào sống mũi “Không xong rồi. Lão cốp này đưa gì cũng không nhận”. Tôi xoè lửa cho gã “Cả thứ kia cũng không à?”. Gã rít thuốc khổ sở “Nó không thích hàng chợ” – “Hàng tinh vậy” – “Cũng không được”. Tôi văng tục “Thế vụ giấy phép này hỏng mất à. Sếp ơi, dạo này làm ăn khó lắm. Em vất vả lắm mới kéo được hợp đồng này về đấy”. Gã vò điếu thuốc, tay dò số điện thoại “Biết rồi. Mày đừng làm tao cuống. Thằng trợ lý của lão nói lão này chỉ thích hàng độc”. Tối hôm đó, gã hẹn tôi ở một khách sạn ngoại ô. Gã đi cùng một cô bé trạc 20 tuổi mà tôi đã gặp vài lần. Gã từng tâm sự với tôi rằng cô bé sinh viên quê mùa ấy chính là điểm dừng tuyệt vời của cuộc đời gã, rằng gã sẽ giữ cho cô nguyên vẹn đến tận ngày cưới. Lúc đó tôi cho rằng chính khuôn mặt như Đức Mẹ đồng trinh của cô bé đã khiến gã ngụy tạo một điều mê tín hoang tưởng. Gã thì thào với tôi “Tao phải đi đây. Lão kia sắp đến. Tao giao phó cho mày.” – Tôi kinh hoàng “Em không làm được”. Gã rít lên “Vậy thì ai làm? Tao làm? Mấy con thư ký õng ẹo kia hay thằng tài xế?”. Mặt gã đỏ tía “Mà việc này không chỉ mỗi giấy phép thôi đâu. Lão này đã nắm hết mấy phi vụ trước của mày rồi. Mày làm. Mày ký. Mày là giám đốc. Mày thích tự tử thì cứ về trước đi”. Tôi thề rằng gã anh họ ruột thịt kia chưa hề tham vấn ông Maslow nhưng đã đánh gục tôi khi đụng đến cái nhu cầu thứ hai. Tôi cúi mặt “Vâng ạ. Em sai rồi”. Những ly Margaritta nhẹ như nước khoáng chẳng thể làm tôi quên đôi mắt ngơ ngác trên khuôn mặt Đức mẹ. Tôi còn bị gã gửi gắm “hàng độc” thêm vài lần nữa và sau mỗi bận, tôi đều bay hai nghìn cây số chỉ để xin nàng vài ly Brandy. “Anh có chuyện căng thẳng à? Thứ này không tốt như Margaritta đâu”. Nàng đẩy ly Brandy của tôi ra xa. Tôi ngước nhìn nàng như con chiên thú tội trước Đức Cha. Nàng đâu biết rằng tôi đã trở thành một tên đồ tể chính hiệu.

Có một lần tôi dẫn gã anh họ đến quán bar của Margaritta. Vừa thoáng thấy bóng nàng tôi vẫy tay, định sẽ giới thiệu nàng với người thân duy nhất mà tôi có thể đưa vào thành phố này. Nhưng nhìn thấy tôi, khuôn mặt nàng tái lại và phút chốc biến mất trong bóng tối phía quầy bar. Đận ấy tôi không gặp được nàng cho dù tối nào cũng hứa với gã anh họ nhất định sẽ giới thiệu nàng, người đầu tiên khiến tôi cảm nhận vị ngọt ngào của những ly cocktail. Chuyến công tác kề sau đó, nàng chủ động gặp tôi với một vẻ bồn chồn hiếm có ngay khi tôi vừa bước chân vào quán. “Người đi cùng anh hôm nọ là ai vậy” – “Anh họ anh. Anh đã kể với em rồi. Sao mấy hôm đó em mất tích lâu thế?”. Nàng không trả lời, vội vã đi pha cho tôi một ly Margaritta, không quên hỏi gã nước ngoài cao lớn đi bên cạnh tôi uống gì. “Tequikalu”, gã dụi bàn tay đầy lông lên cằm, nheo mắt thích thú. Margaritta đặt hai ly cocktail lên quầy bar, đôi mắt nàng lộ rõ vẻ căng thẳng. Gã đối tác lông lá của tôi chồm qua quầy bar túm chặt cổ tay nàng, khèn khẹt cái giọng Mỹ miền Tây “Tao muốn uống Tequikalu theo kiểu Mexico”. Tôi uống cạn ly cocktail để đẩy cơn điên dại tụt xuống dạ dày, cố gắng giải thích cho gã khốn kiếp kia hiểu trong lúc ra hiệu cho nàng lẩn ra phía sau. Gã càng hăng tiết “Gọi người quản lý ra đây. Tequikalu phải uống thế nào hả, lũ lừa cái.” Gã trỏ tay vào mặt nàng, rút xấp tiền xanh lè in hình ngài Franklin huơ huơ như lên đồng. Tên quản lý xanh mắt, rít lên với nàng “Làm đi”. trước khi tôi kịp định hình được chuyện gì xảy ra, trước khi tôi kịp phang nắm đấm vào giữa mặt thằng cha lông lá và trước khi tôi kịp ngỏ lời yêu nàng, câu nói mà hàng trăm ả đàn bà cố moi từ miệng tôi, Margaritta lạnh lùng dằn mạnh ly tequikalu xuống mặt bàn. Màu nâu sẫm của rượu Kahlua từ từ hoà lẫn ánh vàng rượi của tequila như những xấp hợp đồng mà gã anh họ ruột thịt đã nhuộm đen cuộc đời tôi. Margaritta thản nhiên kéo vạt áo lên. Nếu là lúc khác, trong một hoàn cảnh khác tôi đã có thể ngắm nhìn và tôn thờ món quà tặng tuyệt vời mà tạo hoá đã ban cho nàng. nhưng khi ấy, tôi kinh hoàng nhìn Margaritta thản nhiên áp bộ ngực màu ngà voi lên cái mặt lông lá đang ngửa sẵn chờ đợi và từ từ đổ thứ cocktail đen ngòm kia vào mồm gã. Cả quán bar đã dừng mọi hoạt động, nhạc tắt, các cô vũ nữ ngừng quấn lấy cây cột inox, những ly rượu mạnh nằm yên lặng trên mặt bàn. Tôi có thể nghe rõ tiếng nuốt ực khi những giọt cocktail cuối cùng trườn vào cái cổ họng khả ố. Tiếng vỗ tay dậy lên hưởng ứng. Gã kia cười thỏa mãn, nhét xấp tiền vào ngực nàng “Cô khá lắm.” Tôi gặp nàng ở cửa sau quán bar “Em làm cái trò gì vậy?”. Nàng không nhìn tôi “Em cần việc”. Tôi khổ sở “Anh sẽ cho em công việc khác, tốt gấp trăm lần ở đây”. Nàng bỏ vào trong, kiên quyết “Em cần làm việc ở đây”. Tôi mãi mãi không hiểu nàng. Cả cho đến bây giờ nữa. Hôm sau Margaritta gọi điện cho tôi “Em sẽ bỏ việc ở đây. nhưng anh mời anh họ anh đến một lần để em pha cocktail đãi anh ấy”. Khỏi phải nói tôi mừng rỡ đến mức nào và lấy tình cảm keo sơn ruột thịt mấy năm trời nay để thuyết phục gã anh họ rời chiếc ghế sa lông một ngày vào gặp nàng. Tôi nháy mắt với nàng và ngay lập tức, hai ly Margaritta được đặt trước mặt chúng tôi. Gã anh họ như thường lệ, cho dù là rượu mạnh, cocktail hay trà đá đều uống cạn một hơi ngay khi vừa mang ra. Nàng mỉm cười “Chào anh. Em là bạn gái của em họ anh. Dạo này anh khoẻ chứ?”. Vừa nhìn thấy đôi mắt màu bóng đêm của nàng, cái miệng rộng ngoác của gã bỗng cứng lại, rồi khó khăn lắm mới thốt lên được “Tại sao cô… lại ở đây…?”. Chưa nói được hết câu, gã ôm chặt lấy cổ họng rồi nện cả thân hình kềnh càng xuống mặt sàn đầy vết rượu. Đôi mắt bé tí dãn ra ngoài sống mũi và kinh hoàng nhìn thẳng lên trần nhà.

Cả quán bar nhốn nháo. Sau đó giám định pháp y tìm thấy trong mớ hỗn độn ở dạ dày gã một hợp chất cực độc nhưng không rõ chất tạo thành. Nhiều ngày liên tiếp tôi phải ở phòng thẩm vấn. người ta khoanh vùng những thức ăn gã tống vào tối hôm đó và mọi mối quan hệ của gã từ trước đến nay, nhưng cả hai thứ đều lộn xộn và bí hiểm như nhau. Margaritta của tôi cũng bị hỏi đến, song từ lúc nhìn thấy ly cocktail cuối cùng do nàng pha, tôi không còn được gặp nàng nữa. Giữa ánh sáng chói chang nơi thành phố đầy nắng và gió, nàng biến mất như bóng đêm không để lại dấu vết. Tay chủ quán bar đắt khách tìm mọi cách lo lót để đầu mối của cuộc điều tra lái về một hướng khác. Một tháng sau, tôi tìm thấy một mẩu giấy trong túi chiếc áo vét mặc hôm cuối cùng gặp nàng và gã anh họ. Một dòng chữ nắn nót, nhưng hơi run rẩy, chứng tỏ người viết ra nó không vội vàng gì “Hãy tin em, ly Margaritta của anh ngày hôm nay chỉ có muối, tequila và nước chanh. Vĩnh biệt anh”. Mãi mãi, tôi không thể đoán được gã anh họ tôi đã làm hại gì nàng, đến nỗi, để sắp xếp kế hoạch cho một ly Margaritta chết người, nàng sẵn sàng từ bỏ lòng tự trọng khi đổ rượu vào mồm tên khách bỉ ổi, sẵn sàng từ bỏ cuộc sống tuyệt đẹp dưới ánh sáng mặt trời và, sẵn sàng từ bỏ tôi, người mà nàng biết sẽ uống bất kỳ ly cocktail nào nàng pha, cho dù trong đó có thứ gì đi nữa. Vụ ngộ độc của gã anh họ tôi vẫn là điều bí ẩn. nhưng những cái tít giật gân trên mặt báo rồi phai đi, những cuộc thẩm vấn th¬a dần và gia đình tôi cũng thôi không nhắc đến gã. Có người nói rằng những vụ án giết người thế nào rồi cũng được tìm ra, cho dù không còn chút manh mối nào. Đấy là linh hồn của những người bị chết oan đưa đường chỉ lối cho người điều tra. Nhưng tôi tin rằng, ở dưới kia có những linh hồn tốt, nhưng cũng có những linh hồn xấu, hay có cả linh hồn nửa tốt nửa xấu, như dưới ánh mặt trời kia, có những người nửa tốt nửa xấu, giống như tôi và nàng vậy.
 
Đường quanh co ở giữa hai bên rừng núi phần nhiều là hẹp và xấu lắm; chúng tôi phải cho ngựa dẫn hàng một tiến lên.

ở Pa Khá, chỗ nghỉ sau cùng tới đây, từ 12 giờ trưa đến bây giờ gần 6 giờ chiều, mà chỉ đi được chừng ba mươi cây số. Hồi ấy vào trung tuần tháng hai. Trời về tiết xuân, nhưng gặp được lúc ấy cũng ấm áp dễ chịu.

Chúng tôi dừng ngựa lại trước một cái nhà lều rộng lớn, làm trên một khoảng đất san phẳng, lấn vào khu rừng phía tay trái độ bốn năm sào. Lều dựng theo lối ta, mái lợp tranh, ba phía vách bằng phên nứa hãy còn xanh tươi: cửa cũng bằng phên, nhưng đan chưa xong, còn đặt nằm dưới đất. Chỗ này dựng lên để cho những người đi xa nghỉ chân và nhân thể cho bọn người Thổ săn bắn ở vùng này làm nơi tạm trú. Cái lều cao, rộng hơn nhà ta ở nhiều lắm, nhưng trống hơn không có bầy biện gì. ở mặt đất giữa lều, chỉ thấy một đống củi gỗ rấm, một tia khói đưa lên thong thả, với năm ba chiếc ghế thấp vứt bỏ chung quanh. áp theo cả chiều dài bức vách trong cùng và bức vách phía trái còn có một thứ tầng cũng đan bằng nứa, rộng ngót một thước tây, cao lên tới ngực, buộc vào những cột chống là mấy khúc cây nhỏ mới đẵn về. Thấy có hai người Thổ đang thõng chân nằm ngủ ở trên, tôi đoán đó là một thứ chõng hay một thứ giường phên mới ứng chế.

Gởi người buộc ngựa rồi, chúng tôi vào lều giở bánh tây, cơm nắm, lạp xường và giò chả ra ăn với nhau. Trong lều không có đèn, chúng tôi ngồi quây lấy đống củi bấy giờ đã thổi cháy to lên cho sáng. Những chuyện Mán Thổ núi rừng tất nhiên được dịp đem ra nói. Người thì khoe những cảnh lạ, những điều kỳ quái ghê sợ mà mình đã trải qua; người thì thuật những phen thập tử nhất sinh ở chốn ma thiêng nước độc; nhưng đậm đà nhất là những chuyện trăng gió đường rừng, những chuyện hát đúm ở các chợ phiên. Mỗi người đều có một chuyện "tìm hoa" trong làng để nhắc lại.

Nhân đó một người bạn kể cho tôi nghe những bước phiêu lưu của một người đàn ông mà thỉnh thoảng tôi được gặp trong cái thì giờ đứng uống bát nước ở một hàng quán. Ông này là người Kinh, nhưng nét mặt với tiếng nói thì y như người Thổ; vóc dáng trông đẫy đà lực lưỡng, bao giờ cũng mặc một bộ quần áo bằng vải ka-ki. Ông ta rất táo tợn; trong bọn đi rừng đến cả người Thổ cũng phục ông ta là người thạo và xông pha nhất. Họ gọi ông ta là ông Ba-đi-ghệt - nhưng cái sính đi ghệt ông ta đã bỏ, chỉ còn lưu lại cái tên hiệu thôi. Ông Ba chẳng ở lâu được một chỗ bao giờ; gặp việc gì ở đâu cũng đi nhận làm ngay, thấy cái gì cũng buôn: gỗ, vải vóc, thuốc phiện lậu, xương hùm, nấm hương, nhung hươu, đủ mọi thứ. Có một điều ai cũng chú ý nhất mà ông vẫn đem khoe với bất kỳ người nào muốn nghe chuyện, là đến đâu, ở đâu ông ta cũng tìm được một người con gái để kết duyên hờ với mình. ở với nhau được ít ngày rồi một hôm, người con gái Thổ thấy ông ta đi không bao giờ trở về nữa. Tôi chưa ngồi nói chuyện với ông Ba-đi-ghệt bao giờ nên không biết rõ tâm địa của người đàn ông ấy. Nhưng tôi xem ra thì không mấy người ưa. Họ bảo rằng ông ta bạo dạn thì không ai hơn, nhưng mà giảo quyệt nham hiểm cũng không ai bằng nữa.

Ăn uống xong, tôi để các bạn ngồi đó, giải áo khoác lên chiếc chõng bên cạnh một cái cửa sổ mắt cáo rồi nhảy lên ngả lưng. Tôi duỗi thẳng chân ra nằm, vươn vai mà thở một hơi thực dài đuổi hết những cái mệt nhọc nặng nề từ trước. Không gì khoái chá bằng được nghỉ ngơi sau một cuộc trèo non lội suối đường trường.

Hai người Thổ vẫn ngủ say, tiếng ngáy rờn rợn. Các bạn đi đường thì bàn nhau vào ngủ trong làng, nhân tiện để tìm mấy đóa hoa rừng. Hôm ấy có cuộc hát thi, vì gặp ngày làng mở hội.

Tôi lẳng lặng nhắm mắt không trả lời ai hết, vì tôi không muốn theo họ và để phí mất lúc khoan khoái dễ chịu bấy giờ. Tâm hồn tôi thấy bâng khuâng như nằm ở trên mây, trí tưởng chập chờn... rồi giấc ngủ dịu dàng dần tới.
 
Tôi mở mắt ra thì trăng xuyên qua khung cửa sổ mắt cáo đã đặt trên mình tôi những mảng sáng vuông nhỏ. Bấy giờ có lẽ đã nửa đêm, hai người Thổ không còn ngủ gần tôi, mà các bạn người Kinh cũng đi cả.

Tôi không muốn ngồi dậy, cứ để nguyên giầy mà nằm yên đó, hai mắt lim dim.

Nhưng tôi không buồn ngủ thêm nữa.

Trong mình thấy tỉnh táo vui lắm. Huyết mạch lưu thông như hơi gió thổi; tôi tưởng chừng có thứ thuốc tiên trong thân thể, khiến cho người tôi bỗng chốc thành khinh khoái như bay...

Tôi lắng tai nghe. Một dải suối róc rách ở gần, tiếng sóng như thủy tinh gieo vào trong thứ giọng rù rì rối tăm của những côn trùng dưới cỏ. Sau lều thì khu rừng cây yên lặng như ngủ kỹ, nhưng ở trong đưa những tiếng bí mật, khiến cho mình cảm thấy được cái sinh hoạt của nó trong lúc đêm khuya. Một con hươu đang ngớ ngẩn nhìn cái lều vắng không. Những tiếng rất nhẹ của con sóc chạy trên cành; những tiếng lá cựa dưới mình một con vật đang nằm, một tiếng vỗ cánh nặng nề của con chim lớn. Từng trận gió thổi qua, một loạt lá rơi dào dạt, rồi tất cả lại im lặng như ngóng đợi, như nín hơi. Xa xa, rõ thực xa, giọng thác ào ào, để ý thì mỗi lúc thấy một gần thêm, rồi lại xa dần, rồi lại như biến đi mất. Có khi nghe như tiếng muôn nghìn người ồn ào đưa từ đâu đâu tới; phảng phất trong trí não tôi hình dung ra những cảnh chợ búa xe pháo ở chốn thị thành.

Tôi cứ nằm đó nghe hoài. Nghe càng lâu muôn tiếng càng hỗn độn. Sau cùng thành một thứ giọng rì rào mờ ám mỗi khắc một nhạt dần. Thần trí lại chịu một sức thôi miên ma túy đưa lại đâu từ chốn bồng lai. Văng vẳng trên không, chỉ còn những tiếng nhạc gần rồi lại xa, với những hơi sáo rất nhỏ, rất trong, và cao tít.

Bỗng đâu, một cơn gió lạnh thổi qua làm tôi hơi rùng mình. Tôi thở dài rồi mở hé mắt; trên lông mi những phấn bụi ánh sáng đang nhảy nhót rập rờn. Tôi lại thấy như không phải nằm đó một mình... Hình như có ai đứng bên tôi. Mà "ai" đó hình như là một người thiếu nữ. Tôi chắc đó chỉ là hình ảnh của sự mơ màng thôi, nên cứ lặng yên, bỗng thấy một bàn tay, một bàn tay bé nhỏ dịu dàng, êm ái để lên vai tôi:

- Đêm trăng sáng đẹp như thế này mà không đi nghe hát một lúc chơi, lại nằm đây ngủ!...

Câu nói tiếng Thổ, giọng dẻo dang trong trẻo nghe rất hay. Chưa nhìn cũng chắc người đứng đó là đẹp lắm. Tay người thiếu nữ lại lay tôi lần nữa.

Tôi mở hẳn mắt nhìn cô ta nhoẻn miệng cười:

- Đi dậy đi anh. Dậy đi chơi một tý!

Cô ta đứng trước cái cửa sổ vách liếp và ngoảnh mặt ra phía rừng. Người vào trạc mười chín, hai mươi, hai mắt tinh anh, đẹp lạ thường, đôi má đầy, mơn mởn đào non, nhỏ và mướt.

- Trời ơi! Con gái Thổ mà có người nhan sắc đến thế này ư? Tôi mơ hay tỉnh?

Tôi nghĩ bụng thế, rồi ngồi dậy, thì ra tỉnh chứ không phải mơ. Tôi hỏi cô ta:

- Cô em ở đâu đến?

- Tôi ở trong làng (Cô vừa nói vừa lấy bàn tay lau miệng).

- Làng cô xa không?

- Không xa lắm.

- Cô em có đi với ai nữa không?

- Không.
 
Tôi bối rối quá, vì cô ta bỗng dưng có vẻ thẹn. Tôi ngẩn người ra, không biết hỏi thêm câu gì. Tôi nhìn cô ta một lúc lâu, cô ta ngẩng lên nhìn tôi rồi trông đi chỗ khác.

Giá tôi đừng nín lặng, hỏi chuyện nữa đi mới phải. Nhưng biết hỏi gì? Những phút đối diện yên lặng ấy sao mà dài và khó chịu đến thế!

Tôi ngượng nghịu quá chừng. Xin thú thực rằng xưa nay tôi nói đùa với các chị con gái Thổ đã nhiều, nhưng tôi đều coi thường, không để ý gì đến ai hết. Cũng nhiều cô kháu lắm, song không ai có thể gọi là đẹp, đẹp trong trẻo và say đắm như cô này.

Tôi nghĩ mãi, mà chẳng có câu nào cho hợp lúc cả; mãi sau mới hỏi lên được:

- Cô em ở đâu đến?

Thì lại là câu mình đã hỏi rồi.

Cô con gái nhìn tôi hơi ngạc nhiên, song cũng đáp:

- Tôi ở trong làng.

- Gần không?

- Không xa lắm.

- Nhưng cô em đi đâu thế?

Cô Thổ đã hết thẹn, tươi cười nét mặt và nhanh nhẹn trả lời:

- Tôi đi chơi. Tôi đến đây thấy có ngựa buộc ở ngoài kia, tôi vào, không có ai, chỉ có anh ngủ... Tôi vào rủ anh đi nói chuyện chơi.

Rồi cô cười, mà cười quá chừng: tiếng giòn và đầy đặn. Tôi cũng cười góp nhưng nghĩ thầm:

- Quái lạ, chả nhẽ người này lẳng lơ đến nỗi đi tìm một người đàn ông ngủ một mình để nói chuyện với, hay sao?

Tôi nhìn người thiếu nữ một lần nữa: Không! Cô ta chỉ có vẻ đẹp đẽ, trong sạch và rất đáng yêu quý thôi. Đôi mày đưa cong lên ở dưới cái trán bịt khăn chàm, có một vẻ kín đáo ý nhị, tôi ưa quá. Tôi lại hỏi cô:

- Thế cô em vào đã lâu chưa?

- Vào lâu rồi. Tôi xem anh ngủ mãi.

- Tôi không ngủ, mà sao tôi không biết?

- Anh ngủ đấy mà!

Cô vừa thong thả nói lại vừa cười. Cô cười sao xinh thế! Con người nhan sắc mà có duyên thay!

- Này cô em...

Cô bé nhìn tôi. Nhưng tôi không tiện hỏi câu ấy. Miệng cô vẫn hé nở, để lộ ra một nét trắng nhỏ của đầu hàng răng trên. Cô lại ưỡn ẹo dựa cái thân mềm mại vào chân tôi, làm cho tôi gợn cả người lên và không nghĩ đến những cái vẩn vơ như trước nữa. Tôi mỉm cười và liều để tay lên vai cô ta. Người con gái nói luôn:

- Anh nhé, anh đi chơi nói chuyện với tôi nhé. Tôi... tôi đến rủ anh đi chơi...

- Cô thích đi chơi với tôi à?

- Thích. Mà thế nào cũng đi nhé?

- ở đây nói chuyện cũng được chớ sao?

Nói rồi, tôi liền xốc nách bế cô ngồi lên với tôi, và lấy áo phủ khoác cho tấm thân xinh bé ấy. Cô ta có ý không bằng lòng, bỏ áo của tôi xuống và ngồi nhích ra một chút. Cô mặc một chiếc áo chàm mới, lúc ấy trông thẫm đen: áo cài một bên nách, hở cổ, thân ngắn, tay rộng, thắt ở ngang lưng; chiếc váy cộc cũng bằng vải chàm và cũng mới. Cái đen tối dưới lều trong trẻo dịu dàng; chúng tôi hình như ở dưới bóng rợp của một thứ "nắng trăng". Cửa trước lều không đóng, lại thêm có ba cái cửa sổ mắt cáo ở vách trong nên chúng tôi trông được tỏ mặt nhau và cả những gói hành lý để ở một góc.

Lúc ấy hai tay cô gái thu lại để chồng lên một đùi. Chân cô buông thõng và hơi đưa đẩy, nét mặt cô có vẻ buồn bực làm cho tôi lo ngại.

Tôi lấy tay nhẹ nâng lấy cằm người thiếu nữ rồi kéo lại cho trông tôi:

- Cô em không muốn ngồi với tôi sao?

Cô sẽ mỉm cười:

- Sao không muốn? Không thì tôi "lại với anh" làm gì?

- Thế cô muốn nói chuyện với tôi lắm sao?

Cô Thổ lại cười:

- ừ, muốn!

Tôi đánh liều hỏi một câu nữa:

- Thế cô em yêu tôi chứ?

- Anh bảo cái gì hả?

Tôi ghé vào tai cô nói:

- Em... có yêu tôi không?

Cô vơ vẩn trả lời:

- Không biết.
 
Rồi lại vơ vẩn nhìn tôi.

Bấy giờ, tấm lòng xuân phơi phới của tuổi hai mươi lăm bị khích động mà sôi nổi trong người tôi, khiến cho tôi quên cả chủ định từ trước. Tôi liền ôm lấy cô bé, ôm bằng cả một tấm lòng chứa chan yêu dấu và bảo cô rằng:

- Sao lại "không biết" hở em? Em đến đây với tôi như một người trong giấc mơ màng, tôi có biết em là ai đâu; nhưng tôi yêu em ngay, mà sao em cứ lững lờ không để cho tôi biết bụng em thế?

Tôi còn nói nhiều câu rất ngọt ngào, nhiều lời rất hay, mà cái vốn tiếng Thổ của tôi có thể cho nói được.

Hơi nóng trong người cô thiếu nữ như thấm vào người tôi, vào tận trong huyết mạch; tôi mơn trớn cô ấy như một con chim bé nhỏ mà người ta nâng lên để vào trái tim mình...

Bỗng nhiên, cô đẩy khẽ tôi ra, ngồi thẳng lên, buộc lại cái khăn chàm; rồi tụt đứng xuống đất. Tôi nhìn cô ra ý hỏi duyên cớ, thì cô cau đôi mày lại, bảo tôi:

- Tôi không bằng lòng thế ! Tôi lại rủ anh đi đằng này với tôi kia mà.

Tôi cũng đứng xuống đất, giữ lấy hai vai cô, rồi nhìn vào cái mặt lạnh lùng của cô mà nói:

- Trời ơi! Em biết không! Trong lúc đêm khuya canh vắng em đến đây, em gọi tôi, em làm cho tôi vui sướng vô cùng; em là con gái, mà em lại xinh đẹp dường này! Thế thì em bảo tôi không yêu mến em sao được?

Cô Thổ nhìn tôi:

- Nhưng anh đi đằng này với tôi đã.

Tiếng cô nói gọn, nhất quyết; tôi hơi sinh nghi. Nhưng cô mỉm cười ngay; cô lại kéo lấy tay tôi nói một cách nũng nịu:

- Đi chơi một lúc thì sao? Anh nhé, đi chơi với tôi một lúc nhé, anh bằng lòng đi!

- Mà đi đâu bây giờ?

- Chơi bên rừng... trên bờ thác, xem nước chảy. Đêm trăng đẹp, đẹp quá, không đi cũng hoài...

Tôi nói:

- Không sợ hổ à?

Cô ta cười mấy tiếng khẽ:

- Sợ hổ! Đây không có hổ - hay có cũng ít khi lắm. Vả lại có trăng kia mà. Anh nằm đây còn không sợ thì đi chơi có sợ gì? Anh à, anh đi với tôi nhé!

Bên rừng tối trên thác sâu, ở những nơi phong cảnh đêm khuya hoang dại này phải đâu là nơi để khách đa tình đến cùng nhau than thở? Người con gái Thổ chắc cũng chả ưa gì những chốn ấy cho lắm, thế mà cứ thiết tha nài tôi đi cho được, hẳn cũng có duyên cớ gì đây? Mà duyên cớ gì? Trông cái mặt nhan sắc dịu hiền thế kia, tôi không thể cho cô ta là một người có lòng bí hiểm được.

Tôi ngẫm nghĩ một lát, rồi quyết thử "đi chơi" với cô ấy xem sao.

Tôi lấy cái áo phủ khoác lên vai, thắt lại cái thắt lưng da ở áo ngoài rồi đi lấy mũ đội.

Cô ấy trông theo tôi từng cách cử chỉ một: lúc thấy tôi thu gọn lại cái đống dây thừng to nằm cuộn tròn trong một góc lều, để lấy một cái gậy ở dưới thì cô Thổ liền chạy lại hỏi ngay:

- ồ! Anh có những dây tốt nhỉ! Để làm gì thế?

- Để qua cầu.

- Sao lại để qua cầu?

- Cầu nhỏ ở ven núi trên này chật chưỡng lắm. Giá không có cuộn dây này thì tôi rơi xuống núi mấy lần rồi.

Cô Thổ cười:

- Thế mà tôi đi không việc gì đấy!

Chúng tôi đã ra tới cửa; cô Thổ toan dắt tôi theo một lối tắt đi về bên rừng. Bỗng cô đứng yên, mắt nhìn vào mắt tôi, rồi chạy vào trong lều, đến bên cuộn dây chão. Tôi hỏi:

- Cô làm gì thế?

- Anh à, đem cái này đi!

Cô vừa nói vừa lôi cuộn dây ra. Tôi hỏi lại:

- Đi chơi kia mà?

- Cứ đem đi, anh ạ.

Tức khắc, tôi không nói một lời nào, đi vào bỏ gậy và mũ áo ra, rồi toan trèo lên cái "giường" phên nằm, nhất định không đi đâu nữa. Cô ta liền chạy lại bên tôi níu lấy tay tôi năn nỉ:

- Anh đi với tôi một tí, đi với tôi một tí thôi mà.

- Không! Đi làm gì thì cô phải nói rõ cho tôi biết đã.

- Rồi anh biết mà!

- Nói ngay bây giờ kia!

Người thiếu nữ ra chiều thất vọng vô cùng:

- Không... anh đi, anh đi với tôi một tí thôi, rồi anh thấy cái này hay lắm.

Cô ta vừa nói vừa cầm cái mũ và dìu tôi ra cửa, cuộn dây chão đeo nặng một cánh tay.

Tôi không còn hiểu gì trong cái cử chỉ lạ lùng của người con gái nữa. Miệng cười của cô ta cũng không còn duyên gì hết; tôi thấy bực mình lắm; nhưng tôi cứ theo.

Ra đến ngoài thì thấy mặt trăng đã chếch về tây. Đám rừng âm u với dãy núi trập trùng tắm trong một bầu ánh sáng rõ ràng và lạnh lẽo. Tiếng ve sang sảng kêu ran như đã kêu từ mấy thế kỷ; bóng trăng theo đó mà rung trên ngọn cỏ, bụi cây.

Chúng tôi xuống một con đường dốc nhỏ đi vào nách rừng. Cô Thổ trước còn cười nói đon đả để tôi vui lòng; đến sau, thấy tôi đã nhất định đi theo, thì cô chỉ rảo chân bước. Người thiếu nữ ấy cũng đủ nhan sắc và dịu dàng để tôi quên được cái lo ngại; và cái trường hợp cũng đủ ly kỳ để gợi tính tò mò và lòng mạo hiểm của tôi.
 
Tôi có ý xem xét những chỗ vừa đi qua, thì phần nhiều đường lối giống nhau không thể phân biệt và nhớ được rõ. Phải là người ở lâu và quen đây lắm mới thuộc được những đường tắt này.

Chúng tôi đang đi ở trong bóng những cây lá chen nhau, bỗng đến ngay một nơi quang quẻ rộng rãi toàn ánh trăng sáng. Tôi nhíp mắt lại vì hơi chói, trông ra thì núi non nhấp nhô, tỏ mờ trước mắt; khuôn trăng tròn vẹn, kê ngay trên một đỉnh núi, bình tĩnh như có ý đợi chờ.

Tiếng thác nghe thấy từ lâu, bấy giờ đang rộn rã cuồn cuộn ở phía dưới chân. Nhưng tôi chưa trông thấy nước: nguồn thác sâu lắm, mà chỗ ấy thì cao. Một con đường nhỏ chạy qua mặt tôi, dẫn đến một cái cầu ghép bằng thân cây như tôi thường gặp. Cầu này thay một chỗ đất sụt làm lở một quãng đường ven núi đất và cắt đứt mất lối đến Hoàng Su Phì: Bấy giờ tôi đã nhận ra rằng cô con gái dẫn tôi đi toàn nẻo tắt và hà tiện được tới ba phần tư đường. Vì từ chỗ lều tranh đến đây, đi khỏi một quãng đường thấp rồi lên những đường leo lưng chừng núi, còn phải qua một khúc cầu nữa.

Chúng tôi tiến lên chừng hai chục bước thì đến bên cầu. Cầu hẹp và dài, chỉ có mươi khúc cây đâm ngang cắm sâu vào núi để nâng đỡ. Cô Thổ nhẹ nhàng đi ra tới giữa rồi ngoảnh lại đợi tôi đi theo. Tôi trông xuống, thấy dưới sâu lắm, và rải rác có những tảng đá lớn; nước thác chảy như xiết, ầm ầm từ một nẻo khuất giữa hai chân núi, vòng khúc rắn xông ra. Tôi còn ngập ngừng một hồi chưa dám đi lên vội. Sau đánh bạo tiến lên được ba bước. Một khúc gỗ cựa mình một cái làm tôi sởn cả gai ốc, đã tưởng cái cầu gẫy nhưng không việc gì.

Tôi phải hết dè giữ mới lại dám bước lên, dò đi như người "leo cầu vồng" vậy. Dưới chân, nước vẫn gầm như chuyển đá, mà bên trái thì cái núi dốc như tường xiêu, lại ở quá tầm tay không thể nào vịn được.

Dò được nửa cầu rồi. Càng thấy ghê sợ thêm. Liệu chừng không thể qua được khỏi cầu mà không ngã, tôi phải lấy cuộn dây định tìm quăng lên một cái chạc cây nào trên lưng núi, rút chung đôi lại rồi víu lấy mà sang.

Bỗng người con gái Thổ giữ lấy tay tôi nói:

- Thôi! Không phải đi nữa.

Tôi vừa ngật ngưỡng vừa nhìn cô ta, lấy làm kinh dị. Cô Thổ điềm nhiên nhắc lại:

- Thôi, không phải đi nữa: Đến nơi rồi!

- Sao? Đến nơi?

- Phải.

- ồ quái lạ! Quái lạ! Quái lạ! - tôi nghĩ bụng thế - người con gái này thực kỳ quái, nó định trêu mình đây hay sao?

Tôi nhìn mặt người con gái để dò xét ý tứ, nhưng cô ta không nhìn tôi và có ý quay mặt đi. Tôi vừa bực mình vừa lo ngại, quát khẽ lên một câu:

- Làm sao lại thế này!

Cô ta không trả lời. ánh trăng chiếu vào sắc da người con gái, lúc ấy xanh bệch như da người chết. Nét mặt sắt lại như lo sợ hay tức giận, miệng mím vào một cách đặc biệt, rồi bỗng nói rất nhanh:

- ở dưới cầu này có một người ngã xuống chết!

Tôi còn chưa hiểu, hỏi lại, thì cô ta nói luôn:

- Người ấy là một người đàn ông cùng đi với tôi, rồi lỡ chân rơi xuống đây chết.

- Cùng "đi chơi" với cô à?

- ừ.

- Thế làm sao, nói mau! Sao cô lại gọi tôi đến?

Cô Thổ nói:

- Tôi nhờ anh đem nó lên đây cho tôi.

- Nhờ tôi? Sao lại nhờ tôi. Nhờ tôi mà được à?

Cô ta điềm tĩnh không đáp câu hỏi của tôi, nhưng trỏ xuống dưới gầm cầu mà bảo:

- Kia kìa, nó ngã xuống mắc vào cành cây ở lưng chừng núi kia kìa.

Tôi chú mắt trông, chỉ thấy nước thác chảy xuống từng bực, bọt sùi lên trắng như tuyết ở chung quanh những tảng đá cuội lù đen.

- Đâu nào?

- ở cái cây kia mà. Kia kìa, chỉ có một cây thôi, mà nó ở lưng chừng núi.

Tôi quỳ gối, đầu cúi về phía trong mà trông xuống thì quả thấy ngang núi đâm ra một cây nhỏ, rễ ăn chặt vào, có lẽ sâu lắm, nên đất lở đến tận chỗ ấy mà cây vẫn vững nguyên. Mình cây cong cong ở chân rồi đâm vát lên trời, cành lá xòe ra gần che mất một nửa mình người bị nạn. Lúc ấy tôi chỉ trông thấy có một cái vai dốc xuống mắc vào gốc cây.

- Các người đi xem hát hội ở làng xa hết cả (người con gái nói). Tôi đi tìm chỉ thấy có anh, tôi mới định nhờ anh lấy nó lên hộ tôi.

- ừ thế làm sao không nói thực ngay để cho tôi... (tôi nghĩ đến những cử chỉ của tôi trong lều) để cho tôi tưởng cô đến rủ tôi đi chơi thực?

Cô gái mỉm cười một cách nhạt nhẽo:

- Tôi sợ anh không đến, tôi phải nói thế...

Thấy tôi có dáng nổi giận, cô vội nói thêm:

- Mà rồi tôi cũng về với anh kia mà!

Tôi vừa lườm vừa nhại:

- Hừ ! Về - với - anh!

Cô Thổ lại hết lời nói với tôi những câu rất ngọt ngào và thiết tha; mặt thì nhợt nhạt, mắt thì long lanh mà miệng vẫn gượng cười: giọng nói khác đi, hình như cô ta cố nén sự cảm động.

Tôi không nỡ từ chối giúp đỡ cô ta. Nhưng tôi không giấu cái bực mình, vừa tìm cách xuống đến cái cây vừa gắt.

Chỗ sườn núi lở, dốc như bức vách nghiêng, mà trừ cái cây giữ lấy người chết cách chúng tôi khá xa, thì chả còn bấu víu vào đâu được nữa; người bị nạn chắc hẳn ngã về phía trong, nên mới tình cờ mắc vào gốc cây đó, chứ nếu ngã phía ngoài hay ngã nhích ra chút nữa thì không còn mình xác nào. Tôi giở cuộn dây ra, nằm úp mình trên cầu rồi ròng dây xuống ướm thử. Cái dây dài được hơn hai chục thước mà thả đến chỗ ấy cũng không thừa được bao. Tôi thử tìm cách buộc vòng, câu lấy người chết lên, nhưng vướng nhiều cành nên không làm thế được. Tôi lại phải kéo dây lên thắt hơn một chục nút để cho dễ bám. Trong khi ấy người con gái lẳng lặng ngồi bên cạnh tôi mà xem.

Nước thác vẫn réo ào ào, làm tăng cái vẻ to tát của chốn núi vực cao sâu ở dưới bóng một vành trăng ngàn năm lặng lẽ.

Tôi nhìn cô Thổ thì cô ta nhìn lại, tôi cau mày mắng:

- Buộc đi chứ, ngồi đấy à?

- Buộc gì?

- Thì thắt nút đi chứ!

Cô ta lôi một phần dây lúng túng thắt được một nút rồi hỏi:

- Anh làm những nút này làm gì thế?

Tôi không thèm đáp. Rồi thấy cô ta cứ dang tay kéo dây mãi chưa thắt được vòng nào thêm, tôi tức mình giật về, không khiến nữa.

Nút thắt xong tôi buộc rất chắc chắn một đầu dây vào ba thân gỗ về phía núi; bỏ mũ ra; bảo cô Thổ giữ lấy mối buộc chắc chắn để tôi leo xuống. Chân tôi đạp vào đất núi làm cho cát bụi ở đấy theo gió bay cả vào mắt mũi tôi. Tôi vừa buông một tay để dụi thì "sựt" một tiếng ở đầu dây. Tôi lạnh cả người vội quát:

- Cái gì thế, cái gì thế?

- Không hề gì. Cái mối đây nó thắt chặt lại đấy mà.

- Phải cẩn thận, nghe không! Phải nằm xuống mà giữ!

Cô Thổ trên cầu nằm áp người xuống, hai tay nắm lấy phần đầu dây.

Xuống đến nơi, tôi bẻ mấy cành lá đi cho quang, và để chân lên một cái chạc dún thử mấy cái. Cây này là một giống ổi rừng, thân già quánh và to. Lúc đứng trên cầu tôi tưởng là một thứ cây dai và mềm vì thấy nó nhỏ lắm, nên định buộc cuộn dây vào người, ôm lấy cái xác mà bảo cô Thổ kéo lên. Như thế thì khó nhọc vô cùng, chưa chắc người con gái Thổ đã kéo nổi.

Nhưng bấy giờ tôi lại tính cách khác. Người chết là một người đàn ông to lớn mặc quần áo tây vàng; hai chân dạng ra, áp với núi và đâm ngược lên trời, mình úp vào trong nên tôi không thấy mặt. Hắn bị mắc vai bên phải vào ngay gốc cây và hình như bị nát cả cổ và có lẽ gẫy xương dầm vai; nhưng máu chỉ đẫm ra ngoài áo có một ít. Một cánh tay nắm lại chọc vào núi, còn tay kia bị đè ở dưới mình. Tôi ngồi quắp lấy một cành to, tròng lọng dây vào hai chân người kia rồi lựa cho lách xuống đến tận thắt lưng.

Mặt trăng lúc ấy mới lọt một phần xuống sau đỉnh núi trước mặt. Tôi trông thấy bóng cây với bóng người tôi in lên cái thây chết. Những cành lá theo gió và theo cách cử động của tôi mà lung lay một cách bình yên.

Xem cách ăn mặc của người chết thì tôi đoán là một người Thổ "văn minh" giầu có, hoặc một người Kinh buôn bán ở đường rừng.

Tôi bám dây tụt xuống, để một chân lên mình người chết và ghì cho cái tròng ở lưng hắn thắt vào rõ chặt rồi đạp chân kia vào núi, tôi đu người tôi sang một bên. Vai cái xác liền rời ra cùng với một loại đất vụn rời xuống: Người chết đã nằm ngang ra dưới đầu dây. Cổ hắn treo về một bên và hơi ngật ra đằng sau; tóc bộn bề và ướt đẫm, da xám như mầu đá mài.

Tôi lại ngồi lên một cành cây nắm lấy vai hắn dìu lại xem cho rõ mặt. Nhưng tôi kêu lên một tiếng kinh dị: ồ lạ này!

Người bị nạn nào phải ai đâu? Chính là ông Ba-đi-ghệt!

Phải, ông Ba-đi-ghệt, cái người mạo hiểm táo tợn chúng tôi vẫn biết tiếng, mà tôi mới gặp được hơn nửa tháng, trong một làng ở gần Pa Khá. Ông này đi trước chúng tôi đã lâu kia mà, sao bây giờ lại vẫn ở đây, rồi lại chết thảm hại thế này? Mà sao người con gái Thổ kia lại...

Tôi thoáng nghĩ đến một điều làm cho tôi căm tức.

- à thì ra (tôi lẩm bẩm nói thế) thì ra họ trăng gió với nhau đã lâu, hôm nay đi chơi trên cầu này rồi một người rơi xuống chết, rồi nó tìm mình đến, nó dụ mình đến để mình gỡ xác tình nhân nó lên!

Hai con mắt ông Ba mở lim dim như ngủ gà, như xem cái tức giận trong lòng tôi. Trên cái mặt đầy những máu, máu đọng đen thẫm lại một bên, hai môi dầy trên lún phún một hàng râu; miệng thì nhăn một cái cười kinh khiếp.

Tôi liền buông tay ra bám dây leo lên cầu. Người con gái hỏi, nhưng tôi lặng thinh. Lên tới nơi tôi nhìn nó một cách rất khinh bỉ.

Nó hỏi nữa:

- Sao? Anh? Xong rồi chứ?

Tôi cười gằn:

- Xong. Chị cứ việc kéo tình nhân chị lên!

Nó chỉ trông tôi một cái nhanh, không nói gì, chống tay ngồi lên rồi mắm môi kéo.

Nhưng cái xác nặng lắm, nó ngã hẳn người ra mới lên được một chút, rồi lại để tụt xuống ngay. Tôi thấy nó làm ngứa mắt liền vuốt tóc lại bên kéo đỡ. Không đầy năm phút cái xác đã lên nằm trên cầu.

Tôi toan cuốn xong cái dây thừng rồi mới hỏi xem người con gái định xử trí ra sao, thì bỗng thấy nó cười nhạt một tiếng nghe lạnh đến xương tủy. Tôi ngẩng lên nhìn.

Bấy giờ cô thiếu nữ dịu dàng ở trong lều không còn đó nữa. Tôi chỉ thấy một người con gái kỳ dị, đang nghiến răng mà lẩm bẩm ở trước mặt tôi. Nó vẫn xốc nách người chết để ngồi rũ dưới chân, trông thẳng vào mặt tôi nhếch mép một cái, rồi nói:

- Anh tưởng nó là tình nhân tôi hả? Không! Nó là kẻ thù của tôi. Tại sao? Nó giết mất anh Cẩm của tôi.

Anh Cẩm là người sắp lấy tôi, mà nó giết đi, rồi quẳng xuống đây cho mất xác.

Nói đoạn nó chỉ tay xuống những từng nước trắng xóa ở dưới. Tiếng thác chảy như dữ dội thêm. Nhưng cái trường hợp ấy làm tôi quên cả ghê rợn.

Người con gái lại nói - phải nghe giọng nó nói mới thấy được cái cảm giác của tôi lúc bấy giờ.

- Nó nhiều tiền, nó muốn lấy tôi, nó đến dụ tôi, tôi bằng lòng ngay; nhưng tôi bằng lòng ở với nó để lừa giết nó. Tôi rủ nó đến đây chơi, nó không nghi ngờ, tôi liền chém cho nó một nhát. Anh trông đây này!

Tôi trông.

ở sau gáy ông Ba quả có một nhát dao bổ thực sâu, nhưng chỗ ấy máu đọng lại thâm xì nên lúc nãy tôi không để ý.

- Tôi chém nó (lời người con gái) để cho nó cũng chết ở dưới cầu này, để chồng tôi... (giọng nói ngày một thêm đầy, gần như nghẹn ngào) để cho chồng tôi trông thấy được hả dạ... Nhưng mà nó không rơi xuống thác, nó lại vướng vào cây. Tôi muốn cho nó rơi xuống đến tận dưới thác kia, tôi mới gọi anh đến. Bây giờ anh đứng mà xem.

Trước cái dáng điệu kia, cái giọng nói kia, tôi không biết trả lời ra sao cả. Tôi cũng không biết xử trí thế nào nữa; tôi đứng ngẩn ra nhìn.

Trông con mắt lóng lánh của người con gái, cùng với cái mặt đanh thép kia, tôi tưởng như thấy cái khí chất rừng núi, cái tâm hồn Thổ Mán hiện ra.

Tôi vẫn ngẩn ra nhìn.

Người con gái lại cười nhạt mà láy lại câu lúc nãy:

- Bây giờ anh đứng mà xem.

Nói xong, nó đứng dạng hai chân ra, cái mép váy đằng trước căng thẳng bởi hai ống chân hơi thô và trắng. Một tay nó xốc ông Ba đứng dậy, một tay nữa nâng ở ngang lưng. Tôi toan dò bước đến gần thì đã thấy người con gái dướn mình văng cái thây chết xuống. Rồi, không biết vì quá đà hay cố ý, cả người con gái cũng văng theo...

Mặt trăng kia đã kín đáo ẩn mình sau đỉnh núi; hai cái thân người trên cao rơi xuống một tiếng gớm ghê trong những tiếng thác đổ ầm ầm không bao giờ ngớt.

Rút từ tập truyện ngắn Vàng và máu, 1934.
 
Năm ấy chúng tôi cùng học chung lớp 9. Mai giỏi văn, còn tôi giỏi đá banh bàn. Mai đã đứng nhất trường trong một kỳ thi văn có cả anh chị lớp 10, 11, 12 tham dự. Còn tôi, cũng đứng nhất trường trong các cuộc thi đá banh bàn với các anh lớp trên. Chúng tôi thân nhau không phải vì hai người đều "nhất". (Hai người nhất như hai đường tàu chạy song song biết đến bao giờ mới gặp nhau). Chúng tôi thân nhau vì gặp gỡ thường xuyên.

Mỗi ngày ngoài 4 giờ học chung trong lớp, tôi thường gặp Mai ở nhà của bạn ấy. Nhà Mai có cho thuê những bàn đá banh "ngon" nhất phố. Ðấy là lý do khiến tôi thường đến nhà Mai.

Một buổi chiều, không có đồng xu dính túi, tôi vẫn đến nhà Mai. Một phần vì "ghiền" xem đá banh bàn, một phần nghĩ sẽ "câu độ" em nào dại dột mời tôi thi đấu.

Mai ngồi ở trước chiếc bàn có để hộp đựng giơ tông ở trước mặt. Tóc Mai kết thành hai bím, cột nơ màu tím nhạt. Mai đang cúi đầu lẩm bẩm học bài. Trong phòng vắng người. Bốn bàn đá banh chưa có khách đến chơi. Tôi đến nắm một cây sắt có gắn hình những cầu thủ bằng gỗ, giựt mạnh. Mai ngẩng đầu nhìn:

- Trịnh không ở nhà ôn bài ? Sáng mai thi rồi !

Tôi giật một cây sắt cho cầu thủ đá một trái banh tưởng tượng rồi trả lời.

- Sáng mai thi, tối học cũng kịp.

- Trịnh học kiểu đó coi chừng ở lại lớp.

- Không lên lớp năm này sang năm lên, học cũng từng ấy bài. Có thiếu bài nào đâu mà lo !

- Trịnh đừng nói bướng. Ở lại một năm rồi sẽ ân hận.

Vừa lúc đó có một anh học lớp 12 cùng trường với tôi bước vào. Anh đến bên Mai nói nhỏ gì đó và Mai hét lên:

- Tôi không quen anh. Anh đi đi cho tôi học.

Anh học sinh đỏ mặt nói:

- Cô bé chăm chỉ quá nhỉ. Nhưng anh đến đá banh bàn được chứ ?

Rồi anh lấy tay ngoắc ngoắc tôi.

- Em đá với anh một bàn cho vui.

- Không anh em gì cả. Ðá đồng chịu không ?

- Cậu khá lắm. Ðá một chầu cà phê đá, chịu không ?

- Không. Ai thua người đó ra khỏi quán.

Anh học sinh cười:

- Anh cũng đang mong vậy.

Tôi đến lấy một đồng giơ tông thảy vào hộp đựng banh, giựt mạnh. Chín trái banh gỗ lăn ra. Tôi đặt một trái ở vòng tròn đỏ giữa mặt bàn màu xanh và bắt đầu giao bóng. Chúng tôi thi đấu rất căng thẳng. Không ai còn để ý đến Mai. Kết quả 3-6. Dĩ nhiên phần thắng nghiêng về tôi. Anh học sinh lững thững bước ra khỏi quán. Tôi đến chỗ Mai ngồi khẽ nói:

- Cho tôi thiếu một đồng giơ tông.

- Mai tặng Trịnh đó. Mai chỉ sợ Trịnh thua và hắn sẽ ở lại đây. Ðợi Mai pha đá chanh uống nghe.

- Thôi cám ơn. Tôi về để Mai học thi.

- Nhớ thứ năm đến dự sinh nhật Mai.

Buổi tối tôi đang ngồi ôn bài, bác tôi đến chơi. Ông vỗ đầu tôi khen chăm học và hỏi:

- Lớn lên cháu muốn làm gì ?

Tôi phân vân vì câu hỏi đột ngột. Ba tôi nhắc khéo:

- Con muốn làm bác sĩ hay kỹ sư ?

Rồi mẹ tôi nhắc khéo:

- Hay con muốn làm giáo sư ?

Tôi buột miệng đáp:

- Con muốn làm chủ tiệm cho thuê đá banh bàn và có bạn Mai ngồi bán giơ tông.

Ba tôi thở dài, má tôi thở dài và bác tôi cũng thở dài:

- Hoài bão của cháu bé nhỏ và tầm thường quá. Ðời cháu rồi sẽ khổ.

Ðến ngày sinh nhật Mai, mấy đứa bạn trong lớp đều lo mua quà tặng. Ðứa mua cây viết máy, đứa mua hộp bánh bích qui, đứa mua tấm ván thông có khắc hình cây nến... Tôi chẳng biết mua tặng Mai quà gì đặc biệt. Tôi nhớ đã học lén một quyển tiểu thuyết của chị Hai trong đó tả đôi trai gái đã tặng nhau trái trim của họ (chứ không phải của người khác). Tôi cũng muốn tặng Mai trái tim của tôi. Nhưng nếu tặng Mái trái tim của tôi thì làm sao tôi còn sống được ? Tôi đem thắc mắc ấy hỏi chị Hai. Chị cú đầu tôi đau điếng và nói:

- Mày ngu lắm. Ðấy là người ta nói theo nghĩa bóng. Chứ ai ngu gì tặng người khác trái tim thật của mình.

Tôi không đủ thông minh để hiểu nghĩa bóng. Tôi chỉ hiểu nghĩa đen. Vì vậy tôi đã giết con gà mái tơ của tôi, lấy trái tim gà luộc chín bỏ vào hộp gói giấy bóng đỏ, đem đến tặng Mai.

Trong buổi tiệc sinh nhật vui vẻ đó, khi mở hộp quà của tôi. Mai đã hét to lên. Không biết bạn ấy quá sung sướng hay sợ hãi. Riêng tôi phải chạy ra khỏi nhà vì hai lỗ tai bị lùng bùng nhức buốt.

Cuối năm học, Mai thi đậu lên lớp 10. Tôi thi rớt vì hai lỗ tai lùng bùng đã nghe sai những lời thầy dạy. Con gái 15 đúng là khôn hơn con trai cùng tuổi. Ở lại lớp một năm, tôi đã phải ân hận. Tôi không đuổi kịp Mai trên đường học vấn cũng như trên đường đời. Bạn ấy luôn luôn đi trước tôi một năm.

Bây giờ tôi đã hai lần tuổi 15. Bác tôi đã chết. Tôi không thể gặp ông để cùng góp tiếng thở dài.

- Hoài bão cháu nhỏ bé vậy mà cháu chỉ thực hiện được một nửa. Nếu ngày xưa cháu nuôi hoài bão lớn và chỉ thực hiện được một phần trăm thì đỡ khổ vô cùng.

Vâng hiện nay tôi đã là chủ tiệm cho thuê một bàn đá banh để cải thiện đời sống. Nhưng người ngồi bàn giơ tông không phải là Mai mà là chính tôi sau những giờ làm việc ở xí nghiệp.

Nếu bạn có thắc mắc hỏi: "Mai 15, bây giờ ở đâu?". Tôi xin thưa: "Mai mãi mãi sống trong trái tim (gà) của tôi".
 
Ở cuối lịch niên hiệu Duy Tân năm thứ mười, bia vàng nhòe nét son sấy kim ấn toà Khâm Thiên Gián, thấy tiết thu phân và ngày lập thu qua đã lâu rồi.

Mùa mưa dầm tháng chín chỉ là những giọt than vãn triền miên của kỳ Ngâu còn kéo dài mãi đến bây giờ. Xứ đồng chiêm Sơn Nam hạ đã biến thành một vùng nước rộng nhấp nhô những con đò đồng li ti. Síong đồng hỗn loạn vỗ vào mép những con đường đất thó nhuyễn và những bờ luỹ tre già ướt át. Làng mạc vùng quê Nam Định nhói lên khỏi làn nước trắng lạnh như những quần đảo xanh một màu hoang vu.

Nước mùa mưa hợp các xứ đồng chiêm lại thành một khối lớn và trên nước đồng mông quạnh, những con thuyền thúng đi về nhiều như tre rụng lá mùa thu. Đêm mưa gió, mặt nước bình rộng âm hưởng rất xa cái tiếng kêu đánh cướp nhóm lên từ những làng cù lao lẻ loi.

Bên bờ đường cái quan, hoa hòe nở vàng ối. Dậm hòa đất Sơn Nam hạ trổ bông đã từ lâu. Hoè đã rầu cánh, vàng úa tối mãi xuống.

“Hòe hoa vàng, cử tử mang”. Thấy dậm hòa ngả màu vàng, lòng những người có chữ bắt đầu bận bịu. Dưới mảnh trời sụt sùi, hòe vàng nở đều, làm ấm lại lòng người sĩ tơ tưởng đến sự hiển đạt về sau này. Màu vàng của sắc hoa nơi dậm hò đã nhắc bao nhiêu học trò vùng Sơn Nam hạ phải nghĩ đến cái màu vàng một tấm giấy cáo trục phong tặng hoặc là phần hoàng mai sau cho hai đấng sinh thành.

Một hôm kinh truyện sũng ướt nước mưa, ôm khư khư mà ngồi trong lòng một chiếc đò đầy đang tìm lại bến cũ, ông Đầu Xứ Em nghĩ xem giờ xuống tỉnh, nên trọ nhà ai cho tiện trong suốt một kỳ thi. Cái nhà bà Phùng quen kia đã chật hết chỗ rồi.

Hoa hòe lả tả đánh rớt những cách vàng nâu cuối cùng lên bả vai bao nhiêu học trò các vùng đổ về tỉnh Nam. Năm nay nhà nước lại mở khoa thi. Một khoa thi cuối cùng. Có những ông đồ già tóc râu đã ngả bạc màu vì sự đùa nhả của công danh đánh lừa suốt mấy phen, chuyến này cũng cố chen ra hồ vớt lấy một chút phấn hương cuối chầu của triều đình.

Trường Hà Nam hợp thi khoa Mậu Ngọ có ông Đầu Xứ Em dự, còn nhộn nhịp gấp mấy khoa Ất Mão trước.

Khoa Ất Mão trước, ông Đầu Xứ Anh bị loại ngay vòng đầu, bay kỳ kinh nghĩa. Khoa Mậu Ngọ này, ông Đầu Xứ Anh nhất định không đi nữa, mặc dầu đây là khoa cuối cùng, rồi đây bãi hẳn sự thi cử. Ở vào buổi giao thời, nếu người ta còn cái lòng công danh thì khoa thi Mậu Ngọ là một chuyến thuyền vượt biển cuối cùng. Từ Mậu Ngọ về sau, sẽ mở một thời khác, chữ Hán chỉ còn là một thứ xa xỉ phẩm trong học vấn của một lớp người. Từ sau khoa này, cái lều chõng chỉ là những vật cổ tích mỗi khi nhắc tới lại gợi một chút nhớ tiếc trong lòng một đám người còn sống thêm một ngày là càng chỉ thêm một ngày bỡ ngỡ với phong hội mới.

Ông Đầu Xứ Anh nhất định không nộp quyển khoa này, tuy bao nhiêu người, từ Quan Đốc tỉnh cho đến anh em đồng song, thảy đều gởi hy vọng vào ông. Thơ phú làm rất nhanh: sách nhớ có thể vạch ra từng chương từng tiết một. Tính người lại điềm đạm hồn hậu; ai nấy đều khen nhà ông có đất học. Khen rồi lại lấy làm lạ cho ông. Có một ông tam trường khoa trước lại ngờ hay là khoa này, tại nhà nước bắt đám sĩ tử phải chụp ảnh dán vào quyển nộp mà ông Đầu Xứ Anh không đi chăng... Có một hôm, đang cùng mấy người dạo chơi ở phố Hàng Thao, nhận được tin này, chính ông Đầu Xứ Anh đã kêu: “Từ trước tới nay, có bao giờ như thế. Nhà nước Bảo hộ, đãi đám sĩ phu trong nước, thật không ra quái gì. Chụp hết ảnh ông Thám, ông Đề, chụp đến nhà pha, nay lại chụp nốt học trò.".

Hôm người em là ông Đầu Xứ Em xuôi tỉnh để soạn sửa đi thi; ông Đầu Xứ Anh đưa ra khỏi cái dốc đầu làng và lúc ông Đầu Xứ Em đã ngồi lọn trong lòng đò đồng, ông dặn:

- Xuống tỉnh, nhà bà Phùng đã đông người ở trọ rồi, có phải ở chỗ khác, chú có ở đâu, cũng cứ tạt lại đấy mà nhắn hộ cho tôi. Đến hôm các quan tiến trường, cữ hạ tuần tháng này, thế nào tôi cũng có mặt dưới tỉnh.

Người em đứng dậy, nói với lại, làm chiềng con đò đầy.

- Cô Trinh, con gái út bà Phùng, hình như vẫn chưa lấy chồng phải không anh... Khoa Tý năm trước anh cũng trọ ở đấy phải không...

Người em cũng muốn tiết nỗi vui ra ngoài một cách quá đáng để trấn tỉnh cái rối ren trong bụng một người đi thi. Ông Đầu Xứ Anh nói lảng ra ngoài câu hỏi:

- Cứ quanh quẩn ở phố Cửa Trường ấy thôi nhé. Đi về nó tiện hơn. Ở đây dễ gặp anh em các nơi về thi.
 
Status
Không mở trả lời sau này.
Back
Top