• Hiện tại trang web đang trong quá hình chuyển đổi và tái cấu trúc lại chuyên mục nên có thể một vài chức năng chưa hoàn thiện, một số bài viết và chuyên mục sẽ thay đổi. Nếu sự thay đổi này làm bạn phiền lòng, mong bạn thông cảm. Chúng tôi luôn hoan nghênh mọi ý kiến đóng góp để chúng tôi hoàn thiện và phát triển. Cảm ơn

1001 CÂU CHUYỆN CẢM ĐỘNG!!!

Status
Không mở trả lời sau này.
cửa hàng trên phố Paul Bert đã đóng cửa. Con đường dài mới đó, giờ chẳng còn ai. Lo lắng từ sâu thẳm bỗng dâng cao. Toàn thân hẫng hụt, dập dình theo nhịp đập của con tim. Cậu toát mồ hôi, đôi chân luống cuống. Toàn thân vướng víu với bập bùng, dồn dập trong lồng ngực. Dạo này, trời tối không ai dám ra ngoài đường.



"Đã có người bị Tây bắn chết vào ban đêm, ở gần trại lính."



Nhà Cậu lại gần ngay trại Commando, lính mũ đen, sát bờ sông.



Ám ảnh vừa mới đây chợt xuất hiện. Hồi đó đã hai lần, Việt Minh ban đêm xâm nhập vào thành phố. Những bước chân khua động, cùng những lời nói, gọi nhau giữa đêm khuya. Rồi tiếng súng chát chúa, hoặc nguyên cả băng rền vang ở chợ Rồng và giữa lòng phố Paul Bert. Trời gần sáng Việt Minh rút đi, để lại vài xác chết bên đường. Truyền đơn dán trên cửa nhà dân, cho biết, họ sẽ trở về Nam Định, ăn tết Giáp Ngọ 1954 sắp tới.

Người dân trong thành phố đi coi xác, về kháo lại với nhau. Họ bảo:



"Việt Minh béo tốt chứ không ốm eo như mọi người vẫn tưởng ."



2. LO



Trông anh ta cũng hơi lạ đấy!



Thì cũng béo tốt, trắng trẻo, hồng hào, có bụng chứ không có eo. Bề ngoài này không lạ; nhiều người từ nước ngoài về, trông vẫn thắm da, đẫy đà như thế. Nhưng quần áo anh mặc, lẫn với người trong nước, lộn cùng đám đông; và cách nói năng lại không giống như Hạnh Đào đã tưởng.



Không vồn vã. Chẳng bận tâm. Tự tin. Phải nói là rất tự tin mới đúng. Anh tỏ ra rất thoải mái, rất quen, rất hợp với nếp sống hỗn tạp, lổn nhổn tại Sài Gòn. Anh cứ như người trong nước, chứ không phải là Việt kiều về nước lần đầu, sau hơn hai mươi năm xa xứ.



Anh không cả lên tiếng, chào lại Hạnh Đào, khi hai người mới gặp nhau. Anh chỉ mỉm cười, nheo con mắt, thản nhiên nhìn.



Chuyện đó cũng có thể là sơ ý, do cố tật của nhiều người Việt đứng tuổi khi tiếp xúc với những người rõ ràng trẻ hơn họ. Vì thế Hạnh Đào đã lên tiếng chào lại, nhấn mạnh hơn, cả bằng lời, lẫn cách gọi luôn tên của anh:



"Chào anh Hoàng!"



"Ủa? Sao cô biết tên của tôi?"
 
Hoàng đã phải lên tiếng hỏi đấy, nhưng vẫn trịch thượng làm sao ấy. Thế này thì không đúng. Chắc chắn trước khi được mời tới đây, anh cũng được cho biết sơ về Hạnh Đào rồi; ít ra thì cũng biết tên của nhau. Nhưng chẳng hiểu sao, Hạnh Đào lại xí xóa cho anh.



Câu chuyện lúc ban đầu chẳng ra ngô ra khoai gì. Lời nói nhát gừng, lủng củng, nhẩy cóc. Nhưng bất chợt Hạnh Đào đổi hướng, ngước lên nhìn Hoàng, dừng mắt mình trong đôi mắt của người kia, cốt ý để cả hai cùng phải nhìn nhau, kỹ hơn. Cái trò đánh đố nhau bằng mắt này, mỗi khi Hạnh Đào dùng tới, cô đều thành công. Nhưng lần này không như những lần trước. Ánh mắt của Hoàng vừa mới phớt qua vầng trán rộng của cô, đã lơ đãng trườn lên trên, chếch qua khỏi đầu, lạc vào khoảng không.



Lòng Hạnh Đào rơi tuột xuống hố sâu, chớm phật ý.



Cái trán gồ, nhô cao ra, của Hạnh Đào nổi rõ cá tính bướng bỉnh, muốn được chiều theo. Cái trán ấy không thể nào không vương buồn, khi không được chú ý. Tâm trạng này Hạnh Đào vẫn thường có từ những năm phải đi sơ tán...



Tình hình mỗi ngày một gay đấy!



Máy bay Mỹ đã bắt đầu ném bom!
 
Nó đen xì, vượt bức tường âm thanh, im lặng lướt nhanh, bỏ xa lắc chuỗi tiếng động như sấm nổ theo sau từ cuối chân trời. Nó loang loáng, lao tới như một tên ăn cướp lành nghề. Nó nghiêng cánh bổ nhào xuống. Nó nhanh nhẹn ngóc cổ lên. Nó xé trời xanh. Nó cất cao, thẳng đứng. Nó biến vào thăm thẳm, thành một chấm đen. Nó vòng trở lại từ hướng nào cũng không ai định được. Nó ngang ngang, dọc dọc như chốn không người.



Hằm hằm, hung hăng.



Ngông nghênh, ngang ngược.



Tự tung, tự tác.



Nó là tên cướp trắng trợn, giết người giữa ban ngày.



Ẩm! Tiếng nổ đập vào lồng ngực, cắm phập xuống đất tạo chấn động nẩy ngược lên tim. Bom. Lửa. Hoả tiễn. Công trình đổ xuống. Đất bằng tung lên. Đời người bên dưới phải đảo lộn lại Thời Kỳ Đồ Đá, như lời người Mỹ vẫn hằm hè hăm doạ xứ sở nhỏ bé này, trên báo chí.



Ẩm!.. Ẩm!.. Dân các thành phố lũ lượt đi sơ tán!



Trốn chết.



Níu sống.



Gia đình Hạnh Đào bổ ra làm tư. Bố mẹ cùng với cơ quan, quyết phải giữ Thủ Đô Hà Nội; các anh chị lớn chia ra hai trường ở hai nơi khác nhau; cô út Hạnh Đào, mới bẩy tuổi, được ném cho một đời mới lẫn lộn với các bạn cùng lớp, sơ tán dưới gốc các cây Thị, trồng rất nhiều tại Hà Bắc.



Bữa ăn bánh bao nhân rau muống. Tối ngủ sắp lớp, cùng lên giường theo lời cô Bảo mẫu, trước khi đèn tắt. Đốm sáng của cái bấc dầu lạc được thổi phù; nhưng căn phòng ngủ tập thể lại sáng hẳn lên, trong ánh trăng bạc. Trăng lách qua bức tường, được cất lưng chừng, ngăn giường ngủ với bờ ao bên ngoài. Đây là lúc ếch nhái và ễnh ương nhao nhao đòi quyền sống. Đêm dài từ từ trũng xuống, não nề cùng với lòng người tan theo trăng sáng, mất tăm trong điệp khúc ai oán thâu đêm của đám côn trùng, ếch, nhái, ễnh ương.



Thứ hai trăng sáng; ba, đêm sáng trăng; bốn, đêm trăng vẫn sáng; năm, đêm lạc lõng; sáu, đêm mong ngóng; bẩy, đêm nhớ, lo, và khóc.



Ngày chủ nhật là ngày để khóc. Bắt đầu từ đêm qua, vài người bắt đầu khóc. Rồi cả lớp cùng khóc. Đến cô Bảo mẫu và cô Giáo Chủ nhiệm cũng dân dấn nước mắt, nữa là.



Sáng chủ nhật, cả lớp được thả ra, nhào lên bờ đê, thốc lên cây lớn, chót vót níu, bám cành cao nhất. Đàn cào cào phóng mắt ngóng từ bờ đê tới con đường dẫn vào phố huyện.



Chờ!



Huyên náo chờ từ sáng cho tới khi trời đứng bóng!



"Kìa!.."



"Kìa!... Xe ô tô!... Xe ô tô tới rồi, kìa!"
 
Trẻ con oà lên khóc. Bố mẹ tấm tức, thương. Tắm rửa. Giặt giũ. Khâu vá. Sắp cho con nắm cơm, gói lẫn với nỗi xót xa, mang theo từ nhà. Dúi vào lòng bé một gói kẹo nhỏ. Chuyển cho đứa trẻ khác túi quà, của bố mẹ nó gửi theo, vì hôm ấy không đi thăm con được. Những trẻ này, chủ nhật không có ai lên thăm, phải theo lời cô Bảo mẫu ra giếng tắm tập thể với nhau. Chúng ngoái cổ lại nhìn những đứa bạn, đang phùng mang, trợn mắt nhai và nuốt.



Ông bà Quốc, từ Hà Nội, cố đi thăm Hạnh Đào mỗi tháng ít ra là một lần. Cô con út có khi nào lại chả được hơn các anh chị? Tình thương con như nước trong nguồn, không bao giờ cạn. Nhưng thời gian và đời sống chỉ có hạn, phải chia đầy đủ cho các con. Bom đạn của Mỹ như mưa trời vãi xuống, gắng mà níu kéo che cho nhau, cố cùng nhau đắp điếm cho các con! Giòng nước ấy, từ trong nguồn, bao giờ cũng chẩy xuôi xuống; kể từ khi loài người có bố, có mẹ .



"Đêm chủ nhật nào cũng là đêm ráo nước mắt, đêm thao thức đầu tiên của cả một tuần... Đêm chủ nhật ấy, em thức khuya lắm. Tình cờ có tiếng của cô giáo Hà, chủ nhiệm lớp, rấm rứt nho nhỏ bên ngoài bức vách vọng vào... Sau này khi lớn lên em mới biết, đó là lời đối thoại của mối tình lo. Mối tình mong. Mối tình không muốn phải đành đoạn vì bom đạn."



Hạnh Đào đã kể lại cho Hoàng nghe những năm đầu nàng phải đi sơ tán theo trường Nội Trú số 1, tại Hà Bắc; khi hai người đã hiểu nhau hơn, sau đôi lần gặp gỡ.



"Cô giáo Hà?"



"Vâng. Cô Trần Thu Hà, cô giáo chủ nhiệm lớp một của em."



"Trần Thu Hà? Người Nam Định?"



"Vâng. Cùng quê với em, ở Hải Hậu, Nam Định . Anh biết à?"



"Hải Hậu?. Ờ... ờ... Không!"



Và lời đối thoại của cô giáo còn trẻ, Chủ nhiệm lớp cũng đã được Hạnh Đào nhắc lại .



Tiếng cô giáo Hà dồn dập, đứt quãng theo hơi thở:



"Đừng!... Đừng!. Không được đâu anh!..."



"Anh yêu em. Anh yêu em mà. Em ơi!"



"Đừng! Đừng anh.Em cũng yêu anh. Nhưng chúng mình còn nhiều cái phải lo lắm. Anh yêu!"



"Lo gì?."



"...Lo!...Lo!"



"Còn chờ đến bao giờ?... Mai anh đi "B" rồi. Còn gì nữa mà lo?"



"Anh ơi! Cố chờ!. Chờ đến bao giờ hết bom đạn. Chờ đến khi không còn phải lo. Chờ anh trở về trong chiến thắng, rồi anh cưới em."



"Biết bao giờ mới chiến thắng? Biết anh có trở về không mà chờ?. Cả nghìn năm nữa!. Cả nghìn năm nữa, em ơi!"



"Không! Anh đừng nói thế. Em mãi mãi chờ anh. Tin em đi!"



"..."



Mối tình của cô giáo Hà với người đi "B" đã bị bóp mũi, tắc thở và chết tươi. Bom Mỹ đốt sạch dưỡng khí. Tình yêu không còn gì để thở, khi Mỹ quyết tâm đem bom đạn dội lên đầu dân Việt.
 
Tám năm sau khi chia tay với người đi "B", cả nhà cô giáo Trần Thu Hà vùi thân dưới đống gạch vụn, tại phố Khâm Thiên, ngay Hà Nội. Người tình đi "B" có lẽ cũng chẳng hay là cô đã chết. Chính anh, từ ngày ấy, có tin gì gửi về đâu?...



Hạnh Đào kể với Hoàng về trận bom B52 Mỹ trải thảm xuống Hà Nội liên tiếp trong mười hai ngày trước Giáng Sinh 1972 như sau:



"Sáng hôm sau, tất tần tật dân còn ở lại Hà Nội tay cuốc, tay xẻng đổ xô về khu phố Khâm Thiên... Mọi người đào bới, moi người còn sống lẫn với thây người đã chết. Người ta chết ngay, vì bom cháy... Người ta chết chờ, vì không sao cứu ra được đống gạch đè lên thân... Nguyên cả chợ và cả con phố rền vang tiếng rên la, van nài, kêu khóc. Tất cả lẫn trong tan tành, sấp ngửa, chất đống giữa gạch vụn. Thống khổ dâng tràn trời xanh! Người ta quên đi tội ác của loài người! Người ta tưởng như vạ trời rơi xuống!... Nhà báo Lữ Phán có tặng bố em tập thơ, có bài khóc thương những cánh hoa phù dung ở phố Khâm Thiên hôm đó. Em còn nhớ được vài câu như sau:



Sớm tinh mơ linh hồn em trinh trắng

Đẹp vô ngần rạng nắng trời trong

Chiều hoàng hôn má em hồng kỳ vọng

Sau trận bom, phố đã vắng em rồi.

Phố hoá mồ côi!"



Hoàng ngồi lặng im nghe Hạnh Đào nói. Lòng người như tờ giấy thấm, bây giờ đã loang kín dấu mực thẫm...



Không lẽ cô giáo Trần Thu Hà, chủ nhiệm lớp Hạnh Đào học, lại là Cô Bé Áo Len Đỏ trong sương mù của mùa đông năm xưa?...



Hoàng đánh rơi mất hiện tại, quên luôn Hạnh Đào bên cạnh. Dấu hỏi trong đầu quay tròn cùng năm tháng. Chuyện ngày xưa, chuyện bây giờ, cái gì mà chẳng có thể xẩy ra?...



Thì, cô em út của Hoàng vẫn thế; tới bây giờ cô vẫn từ chối mọi lời mời mọc. Người tình đầu của cô phải chết, chỉ vì anh ta là giáo sư dậy tiếng Anh. Những người chiếm được Huế trong dịp Tết Mậu Thân 1968, dứt khoát quyết định đơn giản như vậy. Và nấm mồ tập thể vùi nông cả ngàn nạn nhân tại Cố Đô cũng đã chôn luôn con tim rớm máu, cùng với người tình duy nhất của cô em...



Rồi mới hôm qua đây, có đến hai đám cưới kéo nhau lên Sài Gòn chụp hình, quanh bên Nhà Hát Thành Phố. Mấy tay lái xe cho đám cưới kháo với nhau:

"Hai chú rể là anh em bà con với nhau. Họ đều là người Trung Quốc cả."



"Cô dâu khóc vì lo. Không biết số tiền để lại, có giúp đủ vốn cho ba má kiếm sống. Cô cũng còn lo vì sẽ phải sống nơi xa lạ, bơ vơ giữa đám người không nói cùng một thứ tiếng. Lo vì lạc lõng. Và lo vì lỡ làng."



"Sao biết?"



"Tôi đón họ từ dưới Long An lên. Nhà gái không đòi hỏi cỗ bàn hay đưa đón gì. Ba má và cô dâu, chỉ có ba người, lên Sài Gòn là do ý đàng trai muốn có tấm hình. Trên xe cả ba đều dấm dứt, thở dài. Cô dâu nhờ gửi lại một lời lỗi hẹn với ai, dưới miệt vườn."



Hoàng không muốn nghe nữa. Anh trở bước, đẩy người bạn đi. Bạn anh ở lại Việt Nam sau ngày nước nhà thống nhất; bây giờ hai người mới gặp lại nhau. Họ quen nhau từ hồi còn đi học. Ngày ấy nữ ca sĩ Khánh Ly đi chân đất, tới sân trường Đại Học Văn Khoa, hát nhạc Trịnh Công Sơn...



"Mẹ kiếp! Mày vào bưng kháng chiến chống Mỹ, cực khổ như vậy; để bây giờ lại như thế à?. Trường Sa, Hoàng Sa tít ngoài khơi, còn thác Bản Giốc ngay biên giới đấy! Tây chiếm, ta đánh được; Mỹ tới ta đuổi đi; Tầu đớp thì chỉ có đi đứt! Lịch sử còn ghi lại chuyện lưỡng Quảng, tức Quảng Đông, và Quảng Tây, giáp biên giới đấy!."



Sau câu nói, Hoàng nghiêng mặt nhìn bạn. Anh ân hận vì đã thở ra lời ai oán. Lòng người chợt trùng xuống, và tình thương bốc lên cao.



Nhiễu điều phủ lấy giá gương. Cùng là người Việt với nhau cả!



Huống chi lại là bạn thân của nhau, từ cái thuở cả hai cùng dấm dứt, dùng dằng, rồi chia tay nhau mỗi người theo một ngả.



3. LỠ



Từ hai ngã đường khác nhau, họ gặp nhau ở đây.



Hạnh Đào đi công tác Vũng Tầu, cùng với những người khác, bằng xe của cơ quan. Hoàng theo đường sông, đi tầu Cánh Ngầm tới Vũng Tầu, thuê phòng trong khách sạn Hải Ấu, ngay bên kia đường, chỗ con tầu cặp bến.



Hai người hẹn gặp nhau sáng thứ bẩy, ngoài bãi sau.



Trên đầu họ là bầu trời trong, cao, tràn ngập nắng vàng. Cả hai đi mãi, dọc theo bờ biển, bỏ bãi tắm đông người lùi tít lại đằng xa. Gió dìu những đám mây trắng, nhẹ như bông đi lang thang theo họ. Hình như mây chỉ cho sóng biển tràn lên, xoá sạch dấu chân trên cát vàng.



Dưới trần gian, không một ai lần ra được dấu tích của họ nữa. Giữa vùng hoang vu ấy, chỉ có hai người bên nhau. Lời họ lẫn với lớp sóng trắng tràn lên, thấm xuống cát vàng. Chuyện tình của người này thấm vào lòng người kia tưởng như muối mặn, trong nước biển, lắng sâu dưới cát.



Hạnh Đào nghe Hoàng nói; cái năm Hoàng kể, nàng đã sinh ra đời đâu mà biết. Giọng Hoàng vẫn như trong mơ; mơ về cô giáo Trần Thu Hà, mơ lại mầu đỏ, đã cuốn lôi lòng trẻ... Chuyện đầu đời đó, một mình anh, anh biết; bây giờ là hai:



"Mùa đông năm 1953, tại thành phố Nam Định, ngoài Bắc Việt. Khói sương mù đục, nhuốm mầu u sầu vào những chiều mùa đông lạnh lẽo, từ từ tan loãng. Sắc hồng ấm áp của những xao động đầu đời trong lòng Cậu học trò mười tuổi, dần dần tràn ngập không gian."



Rồi Hạnh Đào cũng kể chuyện của mình. Lời trầm của lòng ngẩn ngơ, tiếc một thời đã mất:



"Em yêu hoa, thích cây cối, ham leo trèo. Từ cành cây cao nhất trên bờ đê, em ngóng mắt trông về phố huyện, chờ mong bóng dáng chiếc xe ô tô của bố mẹ vẫn lại thăm em, nơi trường đang sơ tán. Có lẽ đời em đã bị bom đạn cắt mất giòng mật ngọt của tình yêu đôi lứa. Tuổi lớn lên, em đợi người tình đến. Em mộng mơ mong đợi. nhưng tất tật những người trai trẻ còn đang vướng mắc trong lưới đạn. Không như anh. Em chưa biết yêu là gì."



Khi đất nước hoà bình, phải chờ cả chục năm sau đời sống mới tạm ổn định. Năm tháng đó, Hạnh Đào đã bước vào lứa tuổi thản nhiên. Đám trai trẻ thoát lửa đạn trở về cũng trầy trụa quá đỗi.



Phải tham dự vào cuộc chiến quá sức tưởng tượng, đám trẻ tơ bị bom đạn và hoá chất đẩy lùi dần tới đường ranh bấp bênh giữa sống và chết. Họ cũng chẳng thiết sống, hay sợ chết nữa; khi hiện tại, họ đang vật vờ giữa địa ngục của trần gian. Vì thế đám trẻ tơ hồi trước, bây giờ đã quá tuổi mơ hoa với bướm, ngơ ngoáo thoát về, dật dờ bị cuốn hút vào mọi nhu cầu của đời sống khô cằn. Nhu cầu phải có vợ hay có chồng là cần nhất. Càng sớm càng tốt! Bởi vì tuổi đã muộn từ lâu rồi...



"Ơ hơ. Anh làm gì ở đây?"



"Ở đâu thì ở đâu. Anh cũng phải làm cái gì để mà sống chứ?"



"Vậy là anh làm ở đây à?"



Đó là vài câu đối thoại mở đầu, của hơn hai mươi năm về trước, khi Hạnh Đào gặp lại Đức, cậu bé cùng khu phố. Và câu chót của buổi tình cờ đó là lời mời của Đức:



"Chiều mai, anh gặp lại em?"



"Ờ... ờ... để xem có bận gì không?"



"... nếu trời không mưa?"



"Nếu trời không mưa. Ừ! Nhưng ở đâu?"



Chiều hôm sau trời không chiều lòng người. Nhưng mưa với nắng là chuyện của những người yêu nhau, thường hay mơ với mộng. Đằng này thì khác. Vì thế có tiếng sáo huýt ở ngoài đường, bên cửa sổ. Và vì thế mới có lời trách nhẹ, để dò xem ý tứ của nhau:



"Anh chờ em mãi!"



"Thì anh đã hẹn, nếu trời không mưa, cơ mà."



"Nếu trời không mưa!. Chỉ là bước lùi, để em dễ nhận lời."



Hạnh Đào yên lặng. Khoảng trống thời gian này đủ để Đức yên tâm, tiến theo điều đã định trong đầu; khô khan đến độ chỉ những người sống sót sau cuộc chiến, và cùng cảnh ngộ mới hiểu nổi:



"Anh muốn cưới em làm vợ!. Em về suy nghĩ. Một hai hôm nữa trả lời anh cũng được."



Hạnh Đào phá lên cười:



"Nếu trời không mưa, là một bước lùi. Em về suy nghĩ, là bước lùi thứ hai. Một hai hôm nữa, là bước lùi thứ ba. Anh cứ làm như anh đang đánh trận không bằng!. Bây giờ hết chiến tranh rồi anh ơi!"



Hạnh Đào ngừng lại một chút để dứt cười, và để Đức lấy lại bình tĩnh sau chuỗi cười vừa qua của mình; rồi nói tiếp, cũng dứt khoát như trên sân khấu của vở kịch, viết về một mùa xuân đã lỡ:



"Khỏi phải nghĩ ngợi lôi thôi gì hết. Em trả lời anh luôn. Em đồng ý lấy anh đấy!"



Ngừng kể chuyện xưa, Hạnh Đào dừng lại, đưa chân khoắng một lớp sóng lớn, dâng nước biển ngập nửa bắp chân nàng. Hoàng yên lặng chờ, vì đoán chừng thế nào Hạnh Đào cũng lên tiếng tiếp:
 
Tuổi lớn lên, em đợi người tình đến. thì trai trẻ còn đang vướng mắc trong lưới đạn. Thời gian chẳng bao giờ cho ai chờ đợi lâu. Lứa tuổi chúng em đành lỡ những chuyện tình. Lỡ chuyện tình thì gọi là Tuổi Tình Lỡ vậy!... Như thế, dù sao cũng còn một cái gì để ấp ôm."



Hoàng vẫn kiên nhẫn chờ; có lẽ Hạnh Đào sẽ còn gì để nói cho hết:



"Không như anh, em chưa biết yêu là gì cả... Dù bây giờ, đã có chồng, có con..."



Lời Hạnh Đào về cuối ngắt quãng, lẫn với sóng vỗ, nên Hoàng nghe không được chắc.



Bát ngát từ ngoài khơi lẫn trong gió cuốn, đưa lời thầm thì của biển cả mơn trớn vành tai Hoàng. Rõ ràng Hoàng có nghe, văng vẳng từ khoảng không, lời Hạnh Đào nói: "Không như anh, em chưa biết yêu là gì cả... cho đến ngày nay. chưa biết yêu là gì cả... cho đến hôm nay. Anh ơi!"

"Đào!. Đào ơi!"



Hoàng bàng hoàng đứng lại, từ lồng ngực thoát ra lời gọi.



Sóng nước kéo theo cát, dưới chỗ đứng, rút ra biển rộng. Đôi bàn chân Hoàng lún sâu dưới cát ấm, ngâm mềm với vị mặn của tình ngàn khơi.



Hạnh Đào nghe tiếng gọi, cũng dừng bước, xoay hẳn người, nhìn lại. Trong ánh mắt có lớp sóng chao lên. Một cơn gió thoảng rung rinh bờ môi, mở ra nụ cười hiền, làm nền cho lời nói trong, tách khỏi tiếng rầm rì của biển cả:



"Anh!... Anh sai rồi!"



"Không. Anh sai làm sao được. Anh hiểu chứ!. Anh hiểu lòng lỡ làng của người vẫn còn chờ mong."



"Anh nói gì?. Anh sai rồi! Tên em không phải là Đào. Phải có chữ Hạnh nữa. Hạnh nhân là hạt của cây Hạnh Đào, Bố em bảo vậy. Em có tên kép. Bố em rất ghét ai gọi sai, tên cô con gái út của bố. Phải có chữ Hạnh nữa mới đúng. Anh nhớ đấy!"



Hoàng đứng giữa khoảng gió thoáng của biển khơi, dưới bầu trời trong, cao, tràn ngập nắng vàng. Đôi bàn chân của anh mỗi lúc một lún sâu hơn, dưới cát; và bây giờ đã quá mắt cá chân. Biển vẫn tràn lên, đưa vị mặn thấm vào cát mịn, xen vào kẽ các ngón chân.



Sóng thì lúc nào mà chẳng có? Và tiếng rì rào vẫn là lời của biển nói với mọi người, muôn đời, một lời nói đều đều như nhau. Nhưng quả thực Hoàng có nghe được một lớp sóng khác, từ vành môi của ai đó mở ra, riêng với anh. Và Hoàng thực lòng nghĩ, hàm răng khẽ hờ ra đó không chỉ là lời gọi thầm, trong giấc mơ...



Bởi vì, Hoàng đứng đó, tỉnh như sáo sậu. Bên cạnh anh, Hạnh Đào đang khoắng chân đùa với từng lớp sóng. Trẻ như là một đứa trẻ!



Hình như mây trắng trên trời đã chỉ cho sóng biển tràn lên, xoá sạch dấu chân trên cát vàng, khi hai người tới nơi vắng vẻ này.



... Và dưới trần gian, không một ai lần ra được dấu tích của họ nữa...
 
Ba đứa chúng nó tự phong cho mình là ba chàng Ngự Lâm Pháo Thủ, nhưng bà con làng trên, xóm dưới chỉ thân mật gọi đùa chúng là bộ ba Xe, Pháo, Mã.

Chúng nó không phải là bạn nối khố từ lúc nhỏ, chỉ làm bạn với nhau từ tuổi mười bốn, mười lăm, theo gia đình từ thành phố về quê kiếm đất làm nông, thằng Mã từ Ðà Lạt xuống, thằng Pháo từ Sài Gòn ra, còn thằng Xe từ xứ Huế vô, nhưng rất hợp và thân nhau như anh em một nhà. Không như bọn trẻ mới lớn vùng quê này, tập hút thuốc, uống rượu, theo gái, ba thằng Xe, Pháo, Mã học đàn, tập làm thơ, viết văn dù học vấn cả ba chưa đứa nào qua hết lớp mười hai, cuối tuần chúng còn đạp xe cộc cạch hàng mười mấy cây số để học Anh văn, thứ ngôn ngữ mà thời điễm đó, nhà nước còn cấm vì cho là thứ tiếng thực dân mới, đế quốc Mỹ. Hết văn đến võ, ba đứa thi nhau học võ, tập tạ dù ăn Sắn khoai nhiều hơn cơm gạo. Ði đâu hay làm gì, dân làng cũng thấy ba đứa đi chung, làm chung nên mới đặt tên, gọi chúng là Xe, Pháo, Mã nhiều hơn gọi tên thật của chúng.

Ba đứa cùng học đàn miễn phí tại nhà anh Giai mù, lính Tâm Lý Chiến, bù lại chúng nó cùng giúp vợ con anh Giai trong việc ruộng rẫy. Không nhà nào có sách vở mà không bị ba đứa tụi nó năn nỉ, làm phiền để mượn sách, bất cứ loại sách gì. Còn việc ruộng rẫy của ba nhà, chúng nó đều làm chung, hết cuốc đất nhà này, lại quay qua trồng khoai nhà khác. Những lúc rãnh rỗi, chúng nó bàn luận, mơ mộng cao vời việc Văn Võ Song Toàn, Tu Thân, Tề Gia, Trị Quốc, Bình Thiên Hạ bất cứ nơi nào, khi ngủ chúng cũng mang theo vào giấc ngủ những anh hùng Ðông Tây, bóng dáng các nhân vật của các nhà văn cả Tư Bản lẫn Cộng Sản. Cha mẹ thấy ba đứa thân nhau qúa, rù rì chuyện trò, cười rúc rích đêm ngày đâm lo ngại, sợ chúng biến thành “Bê-Ðê”, nên kiếm cách tách rời, la mắng, nhưng vài ngày sau lại thấy chúng nó trốn gặp nhau đành thôi. Bọn con gái, con trai trong làng xã chê ba đứa là dỡ hơi, không thèm chơi với chúng, dù ba đứa đẹp trai, trắng trẻo, biết nhiều, đàn hay, hát giỏi hơn bọn con trai cùng lứa. Ðến tuổi trưởng thành, Xe, Pháo, Mã ba đứa đèo nhau trên xe đạp cùng đi kiếm bạn gái cho mỗi đứa, nhưng chỉ có thằng Pháo to con là kiếm được vợ.

Ngày mộng mơ chưa hết, đêm chiến tranh đã đến. Cả ba đứa đều nhận được giấy đăng ký nghĩa vụ quân sự, rồi khám sức khỏe. Thật khó quên ngày ba đứa trần truồng, sắp hàng cùng đám con trai tồng ngồng của xã, trong phòng xã đội. Ðứa nào mặt cũng đỏ gay bẻn lẻn, im thin thít, cúi xuống chỗng mông, quay qua, nhích lại những động tác thật khó coi, để cho một nữ bộ đội “sồn sồn” tay cầm thước nâng nâng mấy thằng nhỏ khám xét. Cả bộ ba Xe, Pháo, Mã đều trúng tuyển nghĩa vụ quân sự, đi Campuchia làm nghĩa vụ quốc tế.

Từ trước đến nay, bất cứ việc gì cả ba cũng đồng lòng một ý, nhưng lần này thì lại khác. Thằng Xe khuyên hai thằng kia cùng đi trốn, nó đưa ra nhiều lý lẽ vô lý của cái gọi là nghĩa vụ quốc tế, của các nước anh em cộng sản, môi hở răng lạnh. Kể cả dẫn chứng hậu qủa là lớp thanh niên đàn anh đi qua Campuchia trước, kẻ chết nhưng không, người về cụt chân vì mìn Cóc và bao nhiêu là mất tích. Thằng Mã ruột ngay nhất định không theo, quyết đi cho biết đó biết đây, thỏa chí tang bồng, với lại chán cảnh cuốc đất, bốc khoai hàng ngày, thà da ngựa bọc thây chứ không chịu trốn chui chỗ này, trốn nhủi nơi khác, nhục nhã. Thằng Pháo mới cưới vợ kẹt gí ở giữa, nữa muốn đi, nữa muốn trốn.
 
Ủy ban nhân dân xã qua kinh nghiệm những đợt tiển quân đợt trước, như đã đoán được ý trốn nghĩa vụ quân sự của đám thanh niên trong xã, nên đã ra một lịnh chết người là thanh niên nào trốn, sẽ tịch thu ruộng rẫy của gia đình người đó. Số là từ khi các Hợp Tác Xã Nông Nghiệp tan hàng, rã gánh, tất cả ruộng rẫy được chia bình quân theo đầu người của mỗi hộ gia đình. Các hộ nông dân nhận đất làm ăn khoán, mặc làm sao thì làm, cuối vụ nộp đủ chỉ tiêu là được, cứ như nông dân mướn ruộng đất của nhà nước vậy. Nông dân sống nhờ đất, nay nghe lịnh lấy lại đất thì chỉ có từ bị thương tới chết.
 
Ðêm trước ngày lên đường, sau bữa tiệc chia tay, thằng Xe biến mất khỏi thôn xã dưới những cặp mắt canh chừng của du kích, xã đội. Thằng Pháo sợ mất đất, hết còn phân vân, đành để vợ trẻ ở lại làm dâu nuôi cha mẹ gìa. Tàn tiệc nó khóc sướt, say mèm, phải dìu mới về với vợ được. Thằng Mã uống say, đá chân vào tường, lần đầu tiên bất cần đời, chữi tục một câu trước bàn dân thiên hạ rồi lững thững về nhà dưới trời đầy sao.
 
Trời sáng, trước sân ủy ban xã hai chiếc xe treo đầy biểu ngữ, cờ quạt đỏ rực bị bao vây bỡi người đi kẻ tiễn.Thằng Mã lên xe ngồi, không ló đầu nhìn ra cửa xe, không nói một lời tiễn biệt. Thằng Pháo bịn rịn chia tay vợ trẻ, cha mẹ gìa ở nhà rồi lật đật chạy ra ủy ban thiếu điều trễ xe. Còn thằng Xe thì vẫn mất tăm, bị tụi du kích, xã đội lùng kiếm, chữi rũa vang trời. Từ thằng tép riu du kích cho đến ông chủ tịch xã, ai cũng chữi thằng Xe thấy vậy mà tệ qúa, thà nó chịu tiễn lên tới huyện rồi trốn mấy lần cũng được, đằng này nó làm xã nhà mất bằng khen đạt chỉ tiêu của trên giao.

Từ đó ba thằng Xe, Pháo, Mã không còn kỷ niệm chung nào thời mới lớn đầy mộng mơ nữa.
 
Trong ba thằng ra đi, thằng Mã là thằng về làng trước nhất. Qua Campuchia để được từng trãi kinh nghiệm trận mạc, nhưng thằng Mã chưa một lần được đánh trận. Chỉ đóng quân ru rú một chỗ, thỉnh thoảng theo đám bộ đội đàn anh xuống làng chơi bời, chọc gái. Có lần trên đường đi chơi về bị bọn tàn quân Pôn-Pốt phục bắn, cả đám ôm súng bỏ chạy có cờ. Ðám tàn quân Pôn-Pốt chỉ có dám đánh lén, chứ nghe bộ đội Việt Nam hành quân tới đâu là chúng trốn tới đó, ngay cả bộ đội và người dân Campuchia cũng sợ bộ đội Việt Nam. Vì vậy thằng Mã chưa được đánh trận nào mà phải trở về Việt Nam, không phải hết chiến tranh hay mãn hạn gì, mà là một lần đóng quân, ngủ trong rừng, nữa đêm nó mò ra đi tiểu đạp trúng mìn Cóc, bỏ một bàn chân phải lại đất Campuchia. Sau nhiều tháng điều trị, nó về làng không kèn, không trống với một mảnh bằng thương binh, cùng bàn chân gỗ, kèm cây nạn nhôm. Mộng phỉ chí dọc ngang không thành, thằng Mã đâm hận đời sinh ra rượu chè say sưa. Hể chỗ nào có sòng nhậu là nó lết cái chân gỗ đến xin giúp vui, nhậu ké. Cũng như lần tiệc rượu tiễn chân ngày lên đường, mỗi khi nhậu say nó đứng lên đá chân vào tường chữi đổng, nhưng lần ra đi nó đá chân thật, còn bây gìơ đá chân vào tường là bàn chân gỉa của nó kêu lên cái “cốc”, rồi xoay ngược mũi chân ra sau làm cả bàn nhậu cười ré lên. Nó đau lòng vì tiếng cười nên hay sinh sự, riết không ai dám nhậu với nó nữa. Sau này người ta thường thấy thằng Mã tháo bàn chân gỗ, đặt lên mặt bàn ngồi nhậu, chuyện trò với bàn chân.
 
Thằng Pháo đóng quân ở Campuchia, nhận được thư trước của vợ báo là có thai, chưa kịp gởi thư mừng hồi đáp thì thư sau của vợ tin rằng hư thai. Vợ thằng Pháo có thai mấy tháng, ngày ngày lội sình, lội nước qúa thắt lưng làm ruộng, bị nhiễm trùng nên con chết trong bụng mà không hay, đến khi đau bụng qúa chở đến nhà thương, mới biết là con mình chết đã lâu. Nhà thương trục cái thai ra, đó là một thằng bé tí xíu, nằm còng queo, nhăn nheo chết đã đen thui, đen thủi. Vợ thằng Pháo đem con về chôn dưới gốc cây chùm ruột, cạnh cửa sổ phòng ngủ của hai vợ chồng, làm cái mộ thật nhỏ, không tên không tuổi, phải nhìn kỷ mới thấy được. Từ đó vợ thằng Pháo cứ bịnh hoài lại vừa làm dâu không chồng, không con hơn ba năm. Thằng Pháo mãn hạn về, không một thương tích, chỉ có bịnh sốt rét lâu lâu tái phát. Thật kỳ cục khi hai vợ chồng đều bịnh, nhưng cứ sinh con năm một, năm đứa, đứa thôi nôi lôi đứa đầy tháng. Nhà nó trở nên nghèo nhất làng nghèo. Nhân lúc xã đang phát động phong trào kế hoạch hóa gia đình, đàn ông cắt thiến, đàn bà cột treo thì được bồi dưỡng bốn chục ký lúa và thưỡng hai chục ngàn đồng, hai vợ chồng thằng Pháo bàn tính để nó đi thiến kiếm tiền, kiếm lúa nuôi con. Từ ngày thằng Pháo bị thiến, đâm đổi tính thất thường, la con mắng vợ. Rồi một ngày nó nằm lăn ra bịnh liệt giường, chằng có thuốc men gì, bụng và chân cứ mỗi ngày mỗi sưng to ra. Qúa đau đớn nó chỉ mong chết sớm cho đỡ khổ gia đình, nhưng gia đình, bà con xóm giềng không chịu nên mới khiên nó vào chùa nằm chửa thuốc Nam miễn phí. Thằng Pháo thoát chết nhờ gặp thầy, hợp thuốc nhưng chân tay yếu ớt không còn làm việc nặng được. Ðể tạ ơn chùa, công thầy cứu mạng, nó xin ở lại trong chùa làm công qủa.
 
Thằng Xe lên thành phố, trốn trong nhà ông em của ông ngoại nó. Trong nhà ông em của ông ngoại nó có một góc xép trên nóc cầu tiêu, chiều ngang một mét, chiều dài hai mét, cao một mét. Cái hốc này dùng để chứa đồ linh tinh, phế thải, nay được sắp xếp đồ đạt chung quanh để trống ở giữa làm ổ ngủ cho nó, vào ổ chỉ có ngồi hoặc nằm chứ không đứng được. Cái cửa để chui vào, chui ra ổ là một bao trái bông gòn khô, còn nguyên vỏ và hột, không hiểu sao ở thành phố mà cũng có trái bông gòn khô. Vách che cái ổ ngủ của nó là những bao áo quần cũ, nồi nêu, thùng hộp, sắt thép lỉnh kỉnh bụi bặm chẳng ai muốn dính tay vào. Nó phải tập leo lên, tụt xuống cho thật nhanh và luôn quanh quẩn gần đó như chuột ăn quanh miệng hang, để chui vào nếu có công an xét nhà đột xuất. Bạn của nó và kẻ thù của thằng Xe lúc đó chính là những con chuột nhắt tinh ranh. Ban ngày thằng Xe loay hoay tìm bắt, làm quen với những con chuột nhắt chạy quanh ổ nằm, nhưng chưa lần nào bắt được chuột vì sợ làm sập ổ nằm. Còn ban đêm thì đám chuột rình mò, chờ nó ngủ say là xông vào cắn ngón chân, có lẽ vì nó đã chiếm chỗ của những con chuột này chăng. Sau này phần để tránh chuột cắn ngón chân, phần để kiếm ăn, ban đêm nó mượn xe đạp trong nhà, ra bến xe hay nhà ga làm nghề đạp xe thồ hoặc làm nghề bốc vác, còn ban ngày chui vào ổ ngủ vùi
 
Năm sau thằng Xe theo đám bạn cũng trốn nghĩa vụ, vào vùng đang xây đập thủy điện Trị An, làm nghề cưa gỗ lậu ở lòng hồ. Một con đường đất bụi mịn như phấn đỏ, dầy cả gang tay vì xe tải qua lại nhiều. Theo con đường dài hàng mấy chục cây số, qua con sông La Ngà là làng cưa gỗ lậu ven rừng. Nói là làng nhưng chỉ hơn chục mái nhà tranh, đều là hàng quán, chủ chứa gái hết thời, và mươi căn láng bằng tre nứa để dân lậu ngủ khi chuẩn bị vào rừng hay khi từ rừng ra. Dân làng này là dân anh chị tứ chiến giang hồ, cánh chị em bán thân nuôi miệng, là hàng tá bọn con nít không quần và đám hạ dân cùi không sợ lở. Mười người dân ở đây thì mười một người bi sốt rét thâm niên. Có người mỗi ngày sốt nóng lạnh một lần, có người vài lần một ngày. Lại có người thì sốt cách nhật đều đều, ngày lên cơn, ngày không, tháng này qua năm nọ khỏi có thuốc chữa, rồi một hôm ngủ không thấy thức dậy. Sau cơn sốt họ trở dậy cưa gỗ, ăn nhậu, chơi gái, đánh bài, đánh lộn. Thằng Xe trước khi vào làng đã uống một nắm thuốc ngừa sốt rét, vậy mà chỉ tuần sau nó bị cái bịnh sốt cách nhật này, ai bị bịnh sốt cách nhật thì không dễ chết như những bịnh sốt khác, nhưng cũng khó mà chữa cho lành hẳn. Dân lậu làng này, người nào người nấy đều ốm dơ xương, mặt choắt, da vàng như nghệ, bụng ỏng vì sưng gan. Ðám công an, bộ đội cũng chừa cái làng này ra, không bao gìơ vào tra xét hộ khẩu, phần dân làng lậu này chả có cái gì ngoài cái liều mạng.

Cánh rừng hàng ngàn Hécta, sau này sẽ chìm sâu vào làn nước được các công ty, các ông chủ mới khai thác cây to, gỗ qúy, khai thác vô tội vạ ra khỏi lòng hồ, thoái mái khai thác vô tới rừng cấm. Ðám dân lậu cùng vào rừng cưa lậu gỗ Hương, gỗ Trắc với người của các quan, các công ty. Người của các quan và các công ty chở hàng đoàn xe gỗ ngang nhiên trên đường thì không sao, nhưng mấy khúc gỗ đèo trên chiếc xe đạp thồ của dân thì phải đi lén lút trong rừng để tránh Kiểm Lâm kiếm ăn. Có khi gạo cơm thức ăn mang vào rừng hàng nữa tháng trời, tìm cây, cưa kéo, chịu cho muỗi vắt hút máu, gánh bao gian lao mới đem ra bờ sông được mấy khúc gỗ, vậy mà bị kiễm lâm tịch thu thì trắng tay. Nhưng dân cưa gỗ lậu không còn đường nào để chọn, vả lại dân làng này rất kiên trì nên thua keo này, bày keo khác.

Có lần sốt nóng qúa cao, hai mắt thằng Xe sưng đỏ cả tháng trời, người ta nói nó bị đỏ mắt mà gặp đàn bà, con gái có kinh nên mới nỗ mắt như vậy. Không biết thực hư thế nào nhưng nhỏ thuốc gì cũng không lành, ai chỉ nhỏ gì, nó đều thử, kể cả nhỏ trụ sinh vào mắt. Lần cuối nó nghe lời người ta nhỏ nước vôi vào mắt, thì nó hết còn thấy đường. Người ta khiên nó vào bịnh viện, chỉ cứu được một con mắt, còn con mắt phải thì màng mây kéo che trắng dã phải móc ra. Bác sĩ nói nếu không chịu lấy con mắt hư ra, sẽ lây qua con mắt lành, nó đành chấp nhận trở thành thằng chột. Thằng Xe ở làng này, cưa gỗ lậu được mấy năm thì nước ngập nên bỏ nghề về quê.

Sau này ba thằng cũng thường họp mặt
 
Cần phải sòng phẳng ngay từ đầu rằng trước tác này không có gì liên quan đến thế giới động vật. Phải nói toẹt ra “mất lòng trước được lòng sau”, cơ quan nào có nhiều nữ nhân viên xấu, nhà ai có nhiều con gái xấu, thì đấy… cái cụm từ đập vào mắt bạn đọc ngay trên tiêu đề: Trại Cá Sấu.
Lối nói này ban đầu thịnh hành trong đám thị dân Hà Nội, rồi sau lan ra cả đằng ngoài, rồi sau lan vào cả đằng trong, lan vương vãi theo cả kiều bào xa Tổ quốc. Thời điểm cao trào, một nhân vật phụ trong truyện này còn phát biểu: “Bảo với chúng nó nhá, chúng nó cặp nhiệt độ nhau thì phải kiếm chỗ cho bất khuất, đừng có Nghĩa Lộ quá trước mắt bà, bà Lũng Cú lên, bà thịt băm cho mấy nhát thì anh ả đứt phựt dây đàn”. Lối nói ấy cho phép tính từ chuyển hoá thành động từ danh từ, danh từ riêng chỉ một vùng đất có thể biến thành động từ tính từ, chính tả phát âm có thể bị khinh mười lăm phút.
Đọc đến đây, sao cũng có nhà biên tập hạ bút phê viết thế này là hỏng, chọn đối tượng để viết thế này là sai lầm ngay từ đầu. Viết về cái xấu xin hãy chọn cái xấu về tâm hồn về nhân cách, bằng không an toàn nhất là cứ viết về cái đẹp, nếu thiếu cái đẹp nội dung thì ít ra vớt vát bằng vẻ đẹp bên ngoài.
Không, xin được cắn rơm cắn cỏ trình bày với nhà biên tập kiêm nhà phê bình, xung quanh chuyện xấu đẹp, lâu nay mới chỉ thấy người ta viết về ba loại đối tượng:
1- Người đẹp về tâm hồn, và
2- Người đẹp về hình thức, và
3- Người xấu về tâm hồn.
 
Đến đó là chấm hết. Bộ tứ bình thiếu mất một chiếc. Vế thứ tư hầu như bị phớt lờ. Bị phớt lờ tức là để im lặng cho nó rơi vào lãng quên, một thứ silent treatment. Bị phớt lờ cũng tức là gây tò mò gây thu hút kích động khám phá. Văn chương chỉ chịu viết về ba đối tượng đã được lên khung ấy là thứ văn chương không theo kịp đời sống mất rồi. Ai cũng phải công nhận ngày nay bao nhiêu người đẹp đều đã đeo khẩu trang bằng hết: trong bệnh viện thì họ là bác sĩ, y tá, hộ lí hoặc bệnh nhân đường hô hấp, ngoài đường họ là những nàng thích khách bịt mặt phóng xe máy cảm tử. Chỉ còn lại những người xấu với nhau không đeo khẩu trang trơ mắt ếch nhìn nhau. Đấy, người xấu là đa số áp đảo khắp nơi mà văn học không chịu dành cho họ một mảnh đất cắm dùi, văn học cứ lờ họ đi, càng thêm kích thích tò mò. Người soạn trước tác này phải thú nhận mình thiếu bản lĩnh, không vượt lên được thói hiếu kì tầm thường, cứ bị hút vào bị kéo lê theo cái đề tài các bậc cao thủ văn chương đã ngồi xổm lên. Thôi thì xin phép. Thôi thì vô phép. Xin được bắt đầu:
Năm thứ hai thế kỉ hai mươi mốt ở vùng kia có một trại cá sấu
 
Nói rằng cả hai nàng xấu tức là đã nôm na hoá một khái niệm. Hàng phố láng giềng thường bảo hai nàng đẹp giai như bố. Chính xác tuyệt vời. Ngôn ngữ bình dân ấy xứng đáng đưa lên cân tiểu li và bày bán từng chỉ từng lượng.
Nhưng cũng không thể tả chân theo kiểu ông Nam Cao, một nhà văn táo tợn đối diện với cái xấu ngoại hình của đàn bà: “Cái mặt của thị thực là một sự mỉa mai của hoá công: nó ngắn đến nỗi người ta có thể tưởng bề ngang hơn bề dài”. Văn chương thị dân ngày nay không ai viết thế. Giọng văn phải được chèn được kê được chêm được đệm như đã trình bày ở trên. Hai nàng nhân vật chính của tôi phải được tả là một mắt nhìn núi Đôi một mắt nhìn sông Nhị, một thân hình rắn giả lươn một thân hình cá trắm lai cá chép trứng, một khuôn mặt sủi cảo một khuôn mặt mưng mưng thủ lợn thiu, răng cửa phi nước đại răng hàm đi nước kiệu. Thôi, nói tóm lại, hai nàng xấu, nói từ đầu rồi, đay mãi làm gì. Cái xấu ngoại hình là tội của tạo hoá, tội của mười hai bà mụ thợ thủ công mĩ nghệ kém tay nghề, tội của ông bố đẹp giai cứ muốn con gái mình cũng đẹp giai theo.
Cả hai cá sấu đều đã ngoài băm, băm đã vài ba nhát. Cá Sấu 1 an phận, đi làm thì chớ, về nhà ở tịt trong nhà sống chung với ảo tưởng hồi mười tám đôi mươi mình cũng tươi ngon như ai. Cá Sấu 2 hùng hục lao ra ngoài hoạt động xã hội theo mốt mấy bà sồn sồn tứ tuần ngũ tuần lục tuần. Chiều tối mốt phó Đoan đi đánh ten nít. Sáng sớm mốt tiên nữ hạ thuỷ đến bể bơi. Bể bơi nước biếc đong đưa cái mình xà giả lươn, tròng trành con mắt núi Đôi sông Nhị. Phô trương chào mời đồ ăn sẵn như thế thì ở nơi nào cũng có thực khách. Đàn ông thích đồ ăn sẵn. Cơm nóng sốt, cơm nguội, hơi hẩm một tí, hơi ôi một tí, hơi thiu một tí mà sẵn mà dễ thì cũng xong, chén tuốt.
Nãy giờ xem ra tác giả này thù đàn bà, nhân vật đàn bà nào của gã cũng xấu cũng mưu mô ti tiện cạm bẫy, không thì cũng hoang tưởng thần bí. Xin quý độc giả kiên nhẫn đọc tiếp, nhân vật đàn ông ở đây cũng chẳng kém, thậm chí còn xấu hơn.
Người đàn ông bên bể bơi xơi ngon Cá Sấu 2 là một hoạ sĩ. Hoạ sĩ đến bể bơi, có mà chuyện lạ? Đã có một kết luận chưa được kiểm chứng rằng hoạ sĩ nhem nhuốc màu nước màu dầu đất sét thạch cao là kẻ thù không đội trời chung các loại nước, trừ nước có nồng độ cồn. Nhưng cam đoan không dám bịa tí nào, bể bơi mấy hôm ấy có một hoạ sĩ hạ cố tìm đến, chàng đi tìm một người mẫu cho công trình sắp tới. Mục tiêu ban đầu chỉ là người mẫu, nhưng mà nàng dễ quá nhưng mà nàng sẵn quá. Hoạ Sĩ đưa Cá Sấu 2 về xưởng hoạ ngả bàn đèn trước, ngả xong thì cặp làm bồ. Hoạ Sĩ thấy cái mình xà của nàng là đẹp, nhất dáng nhì da thứ ba mới đến mặt. Mặt đẹp da đẹp dáng đẹp Hoạ Sĩ có nhiều rồi, cô bồ một tuần trước đá đểu Hoạ Sĩ là một người mẫu kiêm hoa hậu kiêm emxi dẫn chương trình. Bây giờ vồ được Cá Sấu 2 hoạ sĩ đắc thắng ngầm đã báo oán được con bồ cũ, cho nó thấy tắt đèn thì cao ốc cũng như nhà cấp bốn, cho nó thấy khoảng cách từ cái đẹp đến cái xấu chỉ có một tí, cho nó thấy cá sấu chứ không phải nó sẽ nổi tiếng sẽ đi vào lịch sử hội hoạ.
 
Hôm gặp nhau lần đầu ở bể bơi, Hoạ Sĩ khen cái phom Cá Sấu 2, mỗi lời khen là một cục nước bọt bắn toé ra trúng đâu thì trúng. Một cục thong thả tìm chỗ đậu trên má Cá Sấu 2. Nàng vờ như má mình mất cảm giác, vờ như không biết trên má có UFO vật bay lạ chưa được xác định. Nhưng bản tính Hoạ Sĩ thẳng thắn phũ phàng, chàng thản nhiên lấy mu bàn tay quệt ngang lau sạch má cho nàng. Lát sau cục nữa. Lại lau. Cục nữa. Lại lau. Nàng ngấm ngầm hãnh diện mình được chàng cư xử âu yếm.
Ngay tối hôm ấy cả đôi đưa nhau tới một quán sinh viên. Thuở karaoke còn là mốt, Hoạ Sĩ đã đi tiên phong. Karaoke là tổng hợp của nhiều ngành nghệ thuật, có âm nhạc, có lời thơ, có điện ảnh truyền hình giao duyên. Hoạ Sĩ đắm chìm trong đó là dễ hiểu. Nhưng bây giờ sành điệu là phải cầm micrô hát trước khách hàng. Hoạ Sĩ có vẻ đã sành điệu quán này, chàng giật phắt micrô từ tay emxi băm băm bước ra. Áo thổ cẩm Mèo không biết là màu chàm hay màu đen. Nước da thâm không phải vì sắc tố da mà thâm màu lười tắm. Giọng ngầu. Hát bài Giết người yêu. Giết người yêu giết người yêu. Càng thêm chứng tỏ là ta yêu nhiều. Giết người yêu giết người yêu. Càng thêm chứng tỏ là con ấy điêu. Nước bọt phun như sương muối. Khán giả rú rít. Lại đi. Lại đi.
Đọc lên thấy Hoạ Sĩ có vẻ ngầu. Nếu bạn đọc có cảm giác ấy thật thì đó là lỗi của người viết. Thực sự Hoạ Sĩ thấp bé như cái dải khoai héo, khung người xộc xệch, đi đứng xiêu vẹo chỉ có chân phải giẫm vào chân trái mà tự ngã, chẳng cần đồng nghiệp đểu đẩy xô ngáng khoèo xin bát cơm nguội. Người thế mà đã xong đời vợ thứ tư, mỗi vợ đẻ một đứa, mỗi vợ khi chia tay đều đã trở thành hoạ sĩ. Chàng có biệt tài biến tất cả những người đàn bà từng lên giường với chàng thành hoạ sĩ cho dù trước đó họ là cô bán phở, cô kế toán, cô y tá, cô ôsin.
Đồ thị suôn sẻ như vậy thì tương lai của Cá Sấu 2 sẽ ở chân trời hội hoạ. Hội hoạ thời này đồng nghĩa khá giả, có tiền mua biệt thự thời Pháp nội thành, dăm ba miếng đất khu công nghệ cao, một vài quả đồi Sóc Sơn đặt vào đôi ba nếp nhà sàn. Tranh nghệ thuật bán được thì bán không bán được úp tường để đấy chờ sự phán xét của công chúng và thời gian là hai thứ bùa hộ mệnh cuối cùng của kẻ bất tài. Trong khi ngồi chờ, ta vẽ tranh trang trí dễ nhìn dễ bán cho Tây, yếu hơn tí nữa ta vẽ tranh tân gia, tranh ghelơri bờ hồ, tranh xúvơnia. Kiểu gì cũng bán được. Hình hoạ kém ta trốn vào trừu tượng nguệch ngoạc mù mờ nhìn lâu thấy đẹp. Trừu tượng mãi không ăn thua thì ta trốn sang sắp đặt installation, trốn sang hội hoạ biểu diễn performance art. Mỗi lần trốn là một lần thu hoạch.
Lần thu hoạch này Hoạ Sĩ xin được cái tài trợ của quỹ Tô quỹ Pho quỹ Philíp, ba bốn cái quỹ xúm vào đánh hôi mới đủ cho chàng làm một cái giao duyên sắp đặt và biểu diễn. Mượn bối cảnh vườn bách thảo. Những tấm xô vải màn băng bó quanh các gốc cây. Mực đỏ đổ cheo choét lên xô trắng. Đấy là thiên nhiên đang bị thương đang đổ máu, hãy cứu lấy thiên nhiên. Thời nay phụ nữ đã có Kôtếch Oai Xóptina luôn luôn giúp bạn tự tin, thời xưa chưa xa thì không tự tin bằng, chỉ có vải màn. Ai vào xem triển lãm của Hoạ Sĩ nhìn xô trắng mực đỏ cũng tăng nỗi hoài niệm về một thời thiếu tự tin. Nhìn sang gốc cây bên kia, Hoạ Sĩ và Cá Sấu 2 mỗi người chỉ độc cái khố, trát bùn từ mặt xuống chân, ôm nhau quấn cuộn trong một vũng bùn như hai con cá tát ao thoi thóp giãy đành đạch. Lại còn âm nhạc nữa, mấy cái loa thùng treo trên cây, một bài hát sáng tác riêng cho sô này thất thanh: Bạn có nghe môi trường khóc môi trường cười? Còn ngoặc thêm điệp khúc: Hi hô hì hồ. Hi hô hì hồ. Như hành khúc bảy chú lùn
 
Cá Sấu 2 đang nhem nhuốc ngoi ngóp trong vũng bùn thì được ông đạo diễn điện ảnh tới xem mời đi đóng phim luôn. Vai Mỵ Nương.
Mỵ Nương của Trương Chi? Giao cho một cô cá sấu vai diễn mơ ước của bao nhiêu thế hệ mĩ nhân? Ngày xưa có bao nhiêu mĩ nhân đều chạy hết lên màn ảnh. Bây giờ có bao nhiêu mĩ nhân đều bỏ màn ảnh chạy ngược trở lại ngoài đời, ra đến ngoài đời rồi thì khẩu trang bịt mặt tránh ô nhiễm môi trường. Mười cô Hàn Quốc gặp trên đường chỉ có hai cô đẹp, trong hai cô ấy chỉ một cô có quyền lên phim. Mười cô Việt Nam gặp trên đường chỉ có hai cô xấu, trong hai cô ấy thì cô kém tài hơn lên phim. Các đạo diễn bạn của Hoạ Sĩ bảo: Quan niệm cái đẹp thời nay không chỉ khác trước mà là cả một cuộc cách mạng.
Ông Đạo Diễn mụốn làm cuộc cách mạng bắt đầu từ phim Trương Chi. Người đời bảo anh Trương Chi thậm xấu, trong phim ông Trương Chi đẹp giai ngời ngời. Người đời bảo anh ta hát thì thậm hay, trong phim ông Trương Chi hát như dở hơi. Người ta bảo nàng Mỵ Nương con quan xinh đẹp tót vời, đã thế thì ông chọn ngay một cô cá sấu. Người ta bảo chuyện Trương Chi đâu như ở xứ bắc, đã thế ông cắp ngay Cá Sấu 2 vào Sài Gòn làm phim.
Kịch bản viết Mỵ Nương chèo thuyền thúng đi tìm Trương Chi. Cả đoàn ra đến bờ sông thiết kế mĩ thuật và phó đạo diễn mới bảo vùng này không có thuyền thúng. Đạo diễn gầm lên chết cha tôi rồi, tư tưởng của người ta nhân văn của người ta là ở cái thuyền thúng ấy, nó tròn đầy nó viên mãn nó đối nghịch với tâm trạng chưa thoả mãn của Mỵ Nương. Nhưng bây giờ muốn có thuyền thúng từ miền Trung gửi vào thì phải chờ hai ngày, đội giá lên mấy triệu, nếu bốc cả đoàn đi ngay ra ngoài Trung thì đội giá lên cũng bằng ấy triệu. Thôi thà mấy triệu ấy để lại chia bôi chủ nhiệm và đạo diễn thêm được vài lượt em út. Không có thuyền thúng đi tìm một cái thuyền nan. Thuyền nan cũng không có. Thôi thuê ngay cái xuồng máy kia kìa, tháo cục máy ra cho có vẻ thủ công. Chủ xuồng đòi ngày công hai trăm ngàn. Chả dại thuê xuồng mà làm hao hụt thu nhập. Cuối cùng phải mượn mấy cây nứa tháo ra từ một bè cá cho Mỵ Nương đứng lên giả vờ làm bè chèo đi.
Mỵ Nương lóng ngóng chèo một lúc cũng xong, cũng gặp được Trương Chi trên bến sông. Chàng bỏ chạy. Nàng đuổi cật lực. Phó đạo diễn hô Trương Chi chạy chậm thôi ra khỏi khuôn hình bây giờ. Người chạy đã không được phép chạy nhanh thì người đuổi cũng phải giảm tốc độ đuổi như giả vờ.
Giả vờ mãi rốt cục chàng và nàng cũng gặp được nhau. Mỵ Nương giáng cho Trương Chi một cái tát uất giận. Trương Chi choáng óc chửi giọng Nam Bộ đờ má sao dám tát thiệt, giả bộ thôi nghe, tao đập cho bể sọ đó. Mỵ Nương sợ ngay, hai đúp sau chỉ dám tát như phủi bụi trên má chàng, động tác hệt như Hoạ Sĩ chùi nước bọt trên mặt Cá Sấu 2.
Xong. Cá Sấu 2 đi vòng ra sau máy, thấy Đạo Diễn ngồi bên màn hình monitơ đang để cho một cô vầy vò mái tóc sáu mươi hai tuổi đen nhức đáng ngờ. Ủa ông già kì này tính chuyện vô Sài Gòn hẳn đó à? Sài Gòn hổng phải nghĩa trang văn nghệ sĩ đâu nghe mà anh chị nào về hưu chấm dứt sự nghiệp cũng chuyển vô Sài Gòn. Một anh giai sáu mươi hai để cho một con hăm lăm nó với mình giọng ấy thì rõ ràng anh đã trót ngả bàn đèn nó trên cái giường tuyển diễn viên của anh rồi. Đạo Diễn lả lơi đấu hót với nó, hổng phải nghĩa trang mà là lò luyện thi, người ta về hưu vô đây chuyển sang dạy học cho các lò luyện thi diễn viên điện ảnh triển vọng. Miệng nói, hai bàn tay Đạo Diễn chu du trên người con kia theo kiểu muốn đặt tay vào đâu thì đặt. Con kia cũng ngả người theo kiểu muốn làm gì thì làm. Giống hệt tư thế Cá Sấu tối hôm trước trong phòng Đạo Diễn. Thế là Cá Sấu đi vòng sang lạnh lùng tát hai cái vào mặt con kia. Tát thiệt. Hổng phải giả vờ cóng róng trầy trật như đóng phim. Này thì nghĩa trang. Này thì lò luyện thi.
 
Cái đẹp du hành qua nghệ thuật và còn ở lại. Hình như một danh nhân đã nói vậy. Nếu không bỏ quên mất một nửa cặp phạm trù thì cũng có thể nói cái xấu du hành qua nghệ thuật và còn ở lại. Vốn liếng nghệ thuật còn lại của Cá Sấu 2 là một bộ phim. Vốn liếng còn lại là hai ca khúc sáng tác cho riêng nàng, một là Bạn có nghe môi trường khóc môi trường cười, một là bài hát cho phim Trương Chi, ca sĩ lạm dụng luyến láy, hát một nốt thành bảy nốt, hát theo lối rất mất vệ sinh môi trường. Anh Trương Chi anh đừng đi anh đừng đi í… ì… ị. Xong phim thì Cá Sấu 2 đã co một đám bạn bè văn nghệ mang cả về nhà cho cô chị trổ tài nấu nướng. Bây giờ xin được chuyển sang nhân vật cô chị này.
Người đẹp có cái đáng yêu là hoang tưởng về trí tuệ của mình. Các cô cá sấu cũng vậy, cô nào cũng là một bồ hoang tưởng. Minh không đẹp nhưng duyên thầm, cô nào sau một hồi tuyệt vọng ngắm mình trong gương đều đi đến một kết luận như thế. Hoang tưởng là vũ khí hiệu quả tiêu diệt cái nghiệt ngã của thực tại. Người đẹp người xấu đều nghiện hoang tưởng như nghiện tiền bạc danh tiếng địa vị, chí ít cũng như nghiện rượu nghiện thuốc nghiện giai nhân. Cá Sấu 1 thường hội thảo với chị em cơ quan rằng đàn ông trong ngõ phố nhà nàng mười thằng thì cả mười là con yêu râu xanh. Chúng lượn lờ chúng lảng vảng chúng ám quẻ chúng huýt sáo trước cửa sổ phòng nàng. Nàng mà ra khỏi nhà một bước là chúng nhìn chằm chằm hai điểm trên một điểm dưới, chúng nhìn như lột vỏ bóc tem. Mỗi lần người nhà đi vắng lâu, một mình ở nhà nàng đều rơi vào tình trạng trần trụi giữa bầy sói. Chị em cơ quan nghe nàng nói vậy thì biết vậy, gái già băm mấy nhát lại cá sấu thế kia, đã cá sấu lại đắm chìm trong tiểu thuyết là cái thứ xui người ta nuôi dưỡng ảo tưởng.
Đọc sách mãi sinh ra cái bệnh cứ như mình quen hết tác giả. chị em khen cái áo len mới của nàng trông rất trang nhã, nàng khoe ngay là áo của Bảo Ninh đem tặng. Nàng chìa ra cái ví đầm Gucci khoe ví của Nguyễn Quang Thiều tặng. Nàng mua táo Mỹ đem đến cho chị em ăn bảo táo Hồ Anh Thái hôm qua đi Mỹ mang về. Chị em lại cười thầm, Bảo Ninh Nguyễn Quang Thiều còn nghe được chứ Hồ Anh Thái bọ không ăn của ai thì thôi, ai mà ăn được gì của bọ.
Hồn nhiên vô tư vậy mà có ông thầy bói bảo năm nay nàng hạn lớn, người hư hại nặng. Âu sầu được mấy hôm. Rồi đâu lại hoàn đấy, lại hân hoan yêu cái đời hết anh này đến anh kia tặng quà. Nàng ghé vào nơi bán đồ hiệu chọn một cái đồng hồ thật sành điệu, định bụng đến nói xa xôi với chị em rằng hôm qua anh Nguyễn Huy Thiệp đến chơi anh ấy mới có một khoản nhuận bút thật lớn. Mua xong đồng hồ ra thì cái xe máy đã tan vào cõi vô cùng. Mất xe, thế mà phản ứng đầu tiên là nàng suýt nữa hét lên sung sướng. Thế là cái xe tịch chứ không phải nàng tịch. Của đi thay người.
Nhưng mất cái xe cũng là hạn lớn. Hạn bao giờ cũng dễ đẩy người ta lui vào cõi huyền bí tâm linh. Gã đồng cô bạn của người quen gặp ở quán bún ốc bảo chị phải xoay hướng bàn thờ đi, xoay xong là châu về hợp phố, bao nhiêu đồ đánh mất ùn ùn kéo về tìm chủ cũ cho mà xem. Cá Sấu 1 đưa cho Đồng Cô một triệu mua hộ bàn thờ mới, thêm sáu trăm nghìn mua hộ đồ thờ.
Câu trước nói chuyện lập bàn thờ, câu sau Đồng Cô bảo em có buổi lên đồng hôm nay em đến muộn mất, chị đi với em. Cá Sấu 1 như bị ốp đồng đi theo ngay. Ngang qua Bờ Hồ, Đồng Cô lẻo bẻo người ta vừa bỏ dự án xây thêm ở đây ba cái WC Uôncúp hệ thống ngầm, không thì từ nay cứ đi ba trăm mét lại có quyền tháo nước trong lòng em ra một cái, thôi chết nói chuyện nhà vệ sinh là em lại sắp tiểu luận, chị dựng xe chờ em vào thử chất lượng cái Uôncúp cũ. Nàng sợ cái cảnh phải đứng trông hai chiếc xe trước nhà vệ sinh bảo thôi đi đến nơi rồi hẵng tiểu luận.
 
Status
Không mở trả lời sau này.
Back
Top