• Hiện tại trang web đang trong quá hình chuyển đổi và tái cấu trúc lại chuyên mục nên có thể một vài chức năng chưa hoàn thiện, một số bài viết và chuyên mục sẽ thay đổi. Nếu sự thay đổi này làm bạn phiền lòng, mong bạn thông cảm. Chúng tôi luôn hoan nghênh mọi ý kiến đóng góp để chúng tôi hoàn thiện và phát triển. Cảm ơn

1001 CÂU CHUYỆN CẢM ĐỘNG!!!

Status
Không mở trả lời sau này.
Sao cậu không để nó quạt, rồi cho nó vài xu như ngày nào tôi đi với cậu?

Ba cười:

- ồ nhỉ! Mợ cũng nhớ lâu đấy. Hôm nay tôi bực mình nên mới đuổi nó.

- Cậu có điều gì mà bực mình?

- Nào biết điều gì? Đố mợ đoán được đấy.

Rồi Ba thêm:

- Hồi ấy tôi mới lấy mợ. Con trai mới lấy vợ gì mà chẳng vui. Lâu rồi thay đổi khác đi, hay sinh gắt gỏng. Xem ngày trước, tối nào cũng đi chơi, hình như cần lắm. Bây giờ...

Trầm ngâm giây lát, chàng uể oải tiếp:

- Bây giờ đi cũng được, mà ở nhà cũng vậy. Mợ có thấy không?

Kim có ý không bằng lòng. Nghe nói, nàng thấy tình ái của chồng không nồng nàn như trước. Tuy nàng cũng có thấy sự thay đổi đó, nhưng đàn bà, không ai muốn nghe đàn ông cho biết quyền thế mình đã bị giảm. Vả lại, sự thay đổi đó chỉ là ảnh hưởng của thời gian. Còn nàng đối với chồng bao giờ cũng giữ bổn phận người vợ, ái tình tuy kém nồng nàn, ân ái, nhưng thêm vẻ đầm ấm, dịu dàng.

Nàng không trả lời. Ba chăm chỉ nhìn vợ, muốn biết những điều Kim đang nghĩ. Chàng toan nói một câu gì quan hệ, nó giải nghĩa cuộc đi chơi hôm ấy, mà câu vừa rồi chỉ là cái mào đầu.

Chắc rằng không thể tránh được một điều khó khăn dù sao cũng xảy ra, Ba nhất quyết:

- Tôi hỏi mợ nhé. Nếu bây giờ tôi bỏ mợ, đi thật xa, thì mợ tính sao?

Kim ngạc nhiên, nhưng muốn tránh câu trả lời:

- Cậu định đi đâu?

- Miễn là đi xa. Đã đi xa thì đâu cũng vậy. Tôi muốn biết mợ sẽ coi tôi ra sao, và xử trí ra sao?

Kim uống sữa, nhìn ra ngoài. Bỗng nàng đặt cốc, nói:

- Hình như có ai quen đi vào đấy.

Ba thấy Phong, một người bạn học cũ. Phong ân cần chạy lại chào.

- Lâu nay mới thấy anh chị đi chơi.

- Chúng tôi đi luôn, ít gặp anh đấy thôi. Ngồi uống nước cho vui.

Phong từ chối:

- Có lẽ không tiện. Anh chị để tôi ra bàn khác.

Ba nói đùa:

- Có gì mà không tiện. Những chuyện kín chúng tôi đã nói cả ở nhà rồi.

- Nếu vậy thì xin phép anh chị.

Rồi cả ba người cũng chẳng có chuyện gì.

Trước đàn bà. Phong không dám bông đùa với bạn như hồi đi học. Vợ chồng Ba mải nghĩ đến câu chuyện lúc nẫy. Một lát, Ba hỏi:

- Anh đã đi làm đâu chưa?

- Tôi đã có gửi đơn đi mấy nơi, nhưng chưa đâu gọi, chắc cũng chỉ nay mai.

Ba nhìn ra hồ:

- Anh phải đi làm đi chứ. Con trai lớn, thi đỗ thì đi làm, lấy vợ. Lông bông mãi người ta cười cho.

Kim bảo chồng:

- Cậu khéo lên giọng ông cụ non, bác Phong còn kén chọn, chứ hớ điều gì mà cậu phải dạy.

Phong cười:

- Thưa bà chị, nào tôi có kén chọn gì đâu? Chưa ai lấy tôi đó thôi.

Ba hỏi:

- Bao giờ chúng tôi mới được hân hạnh biết bà Phong?

- Tôi cũng chưa biết đặt tên đó vào ai. Nhưng anh chị chớ lo, tôi không muốn chết già đâu.

Cả ba cùng cười. Chuyện bà Phong làm mất câu chuyện đi xa của vợ chồng Ba. Vầng không khí nặng nề tan hết
 
Ra về, Kim bảo chồng:

- Anh Phong lịch sự và vui vẻ tệ.

Ba không đáp. Kim lại sợ Ba hỏi đến câu chuyện cũ. Câu hỏi đó nàng không biết trả lời ra sao, vì không bao giờ nàng nghĩ tới. Nhưng không. Đến lúc về nhà, Ba không thêm một câu gì. Như mọi tối chàng lấy một cuốn sách, vặn to đèn lên giường nằm, không phải cuốn Nietzsrche hay Dosto?evsky như mọi lần. Nay là quyển Voyages của Capitaine Cook.

Đã khuya, Ba đặt sách hỏi vợ:

- ừ, nếu tôi đi xa thì mợ ra sao nhỉ?

Không thấy trả lời, Ba quay lại; Kim đã ngủ. Ba ngắm vợ, nhìn người đàn bà lúc ngủ, thường có nhiều cảm tưởng êm đềm. Nếu người đó đẹp thì lại càng thêm thi vị. Tiếc rằng người đẹp đó đã thuộc quyền sở hữu của Ba, một sự làm giảm mất thú.

*
* *

Kim nằm nghiêng, quay ra ánh đèn. Đôi vú thẳng căng, phập phồng theo hơi thở. Nàng giở mình, mấp máy cặp môi thắm, nói câu gì trong mộng. Giấc ngủ đàn bà như giấc ngủ con nít, phẳng phiu, êm ấm.

Trước cảnh đó, Ba nghĩ đến việc sắp làm, có ý bất nhẫn. Có lẽ chàng sẽ phụ người nằm đó. Phụ một người đã đem thân thể gửi vào mình, nhất là một người đàn bà, Ba không nỡ. Kim, khi lấy chàng, đã đem cả hạnh phúc, tương lai gửi vào chàng. Chàng đã nhận cái trách nhiệm đó, mà đêm hôm hợp cẩn là lúc ký tờ giao kèo. Có lẽ Kim không nghĩ đến ý nghĩa sâu xa đó. Kim lấy chàng cũng như lấy một người khác. Con gái lớn phải lấy chồng. Mà chán vạn người khác, như chàng, có thể làm chồng xứng đáng của nàng. Nhưng Ba tự băn khoăn với ý tưởng mình.

Lúc ấy chắc Ba suy nghĩ lung tung lắm. Chàng trở dậy, ra ngoài ghế châm thuốc hút. Bà mẹ vợ thức giấc đi vào hỏi:

- Anh còn thức à? Mấy giờ rồi mà chưa đi ngủ?

Ba giật mình. Hai tiếng chuông dõng dạc trả lời bà cụ, và phá tan cái lặng lẽ gian buồng.

- Đi ngủ đi thôi khuya rồi. Nên giữ lấy sức khỏe, mai còn đi làm.

Bà cụ ra. Ba lấy một phong thư xem, lần này không biết là mấy.

Saigon, le 16 juillet 19...

Anh Ba.

Đã lâu tôi không có thư thăm anh chắc anh cũng nghĩ đến thời giờ bó buộc của dân đi làm mà tha thứ cho. Tôi vẫn nhớ tới anh và nhớ tới hồi nào anh nói chuyện muốn đi xa, nhất là vào trong này. Thì vừa rồi trong hãng tôi khuyết một chân thư ký. Tôi có xin với chủ định viết bảo anh vào. Tình cờ gặp Đức nói anh đã có việc làm ở Hà Nội.

Đã có công xin, bỏ đi cũng uổng, mà tôi cũng chẳng quen ai nữa. Vậy nói anh rõ, hoặc anh muốn thôi ngoài đó mà vô chăng? Lương bổng tuy không nhiều (90$00), nhưng ở đây nhiều cảnh thú lắm, vào sẽ biết.

Nếu không thì anh coi trong bạn anh em mình, còn ai chưa có công việc, anh mách giùm họ. Cần nhất là phải người cẩn thận tử tế. Anh xem sao rồi viết thư ngay tôi rõ. Phải đi chuyến Claude Chappe đầu tháng Aoỷt, đi đường bộ cũng vào hồi đó mới kịp. Sẽ điện tôi biết, hoặc tìm tôi ở địa chỉ dưới này.

Trả lời ngay. Kính chúc anh chị bình an.

Tường

N.V.Tường
Chez M.Thân, 10 Rue des Reims

Saigon

*
* *

Nguyễn Văn Ba mồ côi mẹ từ nhỏ. Năm lên chín, cha chết.

Một người chú đem Ba về nuôi, chú thương cháu, nhưng nhà đông con, công việc ở cả tay vợ. Cái tình thương con mình hơn con người chẳng riêng người đàn bà nào.

Nhờ lời ủy thác của anh, ông chú cho Ba đi học. Từ lên mười đến mười sáu, Ba theo học cùng với mấy đứa em. Mấy đứa này hình như hiểu rằng Ba tranh mất một phần cơm áo của chúng nên ghét Ba, họp nhau thành bè đảng để hành hạ. Ba cũng biết đó không phải chỗ mình. Một đôi khi thấy thím vuốt ve mấy đứa em, Ba lảng ra cửa, phảng phất nhớ tới một người đàn bà đã bế ẵm Ba khi nhỏ. Người đó nhu mì, trẻ đẹp. Lâu dần, hình ảnh đó cũng mất đi.

Ba không hay nói, suốt ngày chỉ lủi thủi một mình; lúc nào cũng khép nép, sợ hãi. Khi đỗ bằng sơ học, và xin được lương vào làm lưu học sinh trường Bảo Hộ. Ba bỏ nhà chú không chút quyến luyến. Trái tim đứa trẻ đã khô lại, vì thiếu tình âu yếm của một người đàn bà.

Ba đã quen tính trơ trọi, dút dát. Khi anh em đua nhau nô đùa, Ba ngồi một chỗ xem sách. Ba không chọn, quyển nào cũng đọc, nhất là các tiểu thuyết. Rồi Ba thấy cuộc đời tẻ ngắt. Rồi đời chú Ba cũng thành chán ngắt. Nghĩ đến lúc thôi học sẽ phải sống như vậy, Ba sinh trễ nải công việc nhà trường.

Thi đến nơi, Ba vẫn ngồi xem Le Joueur của Dostoievsky hoặc Topaze của Marcel Pagnol.

Dostoievsky và Nietzsche là hai người Ba ưa hơn hết. Ba thấy ý tưởng Nietzsche rắn rỏi, ngang tàng, và trong tiểu thuyết Dostoievsky, những cuộc đời đầy đủ, mạnh mẽ.

Anh em có nhắc:

- Thi đến nơi rồi mà anh không lo học ôn à?

Ba cười:

- Học làm gì?

- Học làm gì? Lạ chưa! Học để đỗ chứ học làm gì? Anh không muốn đỗ à?

- Không cần lắm. Nếu chỉ sống với cơm áo, thì dù không đỗ cũng sống được.

Trưởng, một người tâm tính giống Ba, nói:

- Anh Ba nói phải đấy. Chúng mình học những món vô ích, ra khỏi cửa trường là quên hết. Sau này chúng mình bất quá chỉ cạo giấy. Anh Ba chỉ học được những món dùng được suốt đời.

Lại hỏi Ba:

- Sau này anh định làm gì?

- Tôi muốn đi xa, làm giầu. Đời này cần phải nhiều tiền, nhiều lắm. Có tiền mới có hạnh phúc.

- Sao tôi thấy người ta bảo hạnh phúc ở ái tình?

- Tôi chưa có dịp được biết ái tình.

*
* *

Một hôm Ba gặp một người con gái ở nhà chú. Lúc Ba đến người này đứng dậy về. Người thím níu áo giữ lại, mắt nhìn Ba. Chàng thấy người đó đáng yêu lắm. Khổ người đầy đặn, khuôn mặt tròn trĩnh lắm. Ba nghĩ đến một gia đình trưởng giả và bà mẹ phúc hậu. Cặp mắt bồ câu mỗi khi nhìn Ba, khiến đôi má ửng hồng. Ba đem theo hình người đó vào trường. Buổi học tối, chàng ngồi vẽ nhảm những con vật. Bất cứ con gì chàng vẽ cũng có cặp mắt người, một cặp mắt bồ câu.

Anh em thì thào bên cạnh; Phong bảo Trường:

- Kìa nhìn Ba, mấy hôm nay tôi chỉ thấy hắn vẽ.

- Anh chưa biết à? Hắn mới phải lòng gái đấy, đương nghĩ thư viết cho người yêu. Trước khi viết, phải tập vẽ.

- Có lẽ, vì vẽ là "thế giới ngữ".

- Phải rồi, chẳng những thế, có khi con vật mình vẽ lại biểu hiện được người yêu.

Phong không hiểu. Trường giải nghĩa:

- Như con mèo là người hay nũng nịu; con hươu, những cô tân thời; con bò, những chị hiền lành, ngu độn; còn con sư tử...

- Nói láo, dám khinh thường phụ nữ.

Họ khúc khích cười.

Ba ngồi nghĩ:

- Hay anh Trường nói phải, hạnh phúc ở ái tình?

Từ đấy, chủ nhật nào chàng cũng ra thăm chú. Một lần chàng thấy chú thím có dáng suy nghĩ, nhưng vui vẻ, như sau một chuyện can hệ mà tốt lành. Thấy Ba, người chú nói:

- Chúng tôi đương nói đến anh.

- Cháu cũng đoán vậy. Việc gì thế, chú?

- Anh ngồi đây chú nói cho nghe.

Bà Lý ở phố dưới có người con gái muốn gả cho Ba. Cô bé xinh, con một nhà giầu, có lần Ba đã gặp. (Ba nhớ đến một đôi mắt). Bà Lý thương Ba hiền lành, ngoan ngoãn, học giỏi (ông chú nhìn Ba, dằn mấy tiếng này) muốn gả cho Ba, nhưng phải ở rể.

Ông chú tiếp:

- Nhưng anh cũng tự do như ở nhà. Anh nên thuận đi, chẳng còn đâu hơn nữa. Cô Kim vừa đẹp vừa lành. Anh sắp thi ra, cần một gia đình, một cơ sở chắc chắn. Chú tuy săn sóc đến anh, nhưng nhà nghèo, các em đông, anh đã rõ, nên nghe chú.

Người thím nói:

- Cô ấy nhiều vốn lắm. Khi bà cụ chết, lại được hưởng gia tài ở nhà quê.

- Nếu anh bằng lòng thì chú thím thu xếp, anh thi rồi sẽ lo công việc.

Ông chú chẳng cần phải nói nhiều. Nếu chưa biết Kim, chắc Ba đã bắt chước một người nào trong tiểu thuyết, trả lời:

- Cháu không muốn lấy vợ. Cháu muốn yêu hết tất cả phụ nữ, mà không yêu riêng ai. Cháu nghèo nhưng cháu không lo, mà đâu cháu có nghèo? Cháu giầu lắm. Tư tưởng của cháu có sức mạnh bằng cái tủ két, tập ngân phiếu của các nhà tư bản. Cháu không muốn có một gia đình hẹp hòi, không đủ cho cháu thờ phụng chỉ làm vướng chân cháu trong bước đường đời thôi!

Nhưng lúc ấy chàng thấy cặp mắt đầy tình tứ và đôi má ửng hồng.

Chàng trả lời:

- Xin tùy ý chú thím.

Người thím nói:

- Anh tinh lắm. ít nữa anh giầu cho chú thím vay ít tiền tiêu nhé!
 
Ba đến nhà vợ, giang sơn có một cái rương với một chiếc va li đựng quần áo và mấy quyển sách. Lúc đầu chàng thấy sung sướng như sống trong một giấc mộng vàng.

Nếu Kim là gái giàu tư tưởng mới, nũng nịu như một con mèo, tân thời như một con hươu theo lời Trường, thì Ba đã vui lòng quay về với đời no ấm. Chàng đã thấy cuộc đời đầy đủ không còn ước mong gì.

Nhưng Kim không có tài đó. Cái thông minh, đảm đang của nàng chỉ đủ tính tiền chợ, hay biên sổ thợ giặt. ái tình của nàng gồm ở câu: "Chiều chồng lấy con".

Một lần Ba xem tiểu thuyết, chỗ tả một đôi trai gái tự tình dưới bóng trăng. Chàng thấy hay lắm, muốn cho vợ nghe. Kim đương mắng thằng bếp về tội ăn bớt tiền chợ. Chiều chồng, nàng cũng lên ngồi, vẻ mặt còn tức giận. Ba không để ý, lấy giọng thật hay đọc đoạn văn cho có ý vị. Lúc xong, Kim nói:

- Thế có tức không? Chẳng thà nó hỏi xin ngay mấy xu thì ai không cho nó. Lại đỡ lộn ruột.

Những buổi chiều mát mẻ, hai vợ chồng thường thơ thẩn ngoài vườn. Mặt trời đã ngang hẳn, bóng cây nằm dài trên cỏ. Thỉnh thỏang gió đưa hai bông hoa sát vào nhau, rồi lại rún rẩy xa ra. Những lúc này Ba thấy trong tâm nồng nàn. Ba ôm lấy vợ hôn. Kim đẩy chồng ra kêu: "Rõ trẻ con!" và nhìn chung quanh như đứa trẻ có lỗi sợ người lớn bắt được.

Ba sinh chán nản. Mấy tháng sau chàng đi làm cho một nhà buôn. Chàng như đã lấy vợ được ba, bốn năm. Nếu có việc ngay từ trước thời kỳ mật nguyệt có lẽ dài hơn ít nữa.

Quên hẳn vợ, chàng tìm thú khác. Bắt đầu chàng thay Âu phục, bỏ quần áo ta lụng thụng. Chàng muốn biết những món cần thiết cho con trai thế kỷ này như: vặn xe hơi, bắn súng, chụp ảnh. Chàng để dành hai tháng không đủ mua một cây vợt. Mỗi lần lấy tiền của vợ lại phải kể sự tiêu dùng, tính từng hào, từng xu. Chàng không ưa, đành dẹp ý muốn chơi ten nít. Đi làm không đủ thù phụng nổi một điều sở thích, chàng lấy làm bất bình, Ba lại đọc các văn sĩ khi xưa. Những tư tưởng khô khan đã bỏ chàng, nay lại quay về. Ba vơ lấy, như người ốm vơ bát thuốc.

Ba thành hai người. Bề ngoài: ngày hai buổi đi làm, đứng đắn, hiền lành. Bên trong: một khối óc đã chán nản, mệt nhọc, đối với đời mình như một người khách. Một trái tim bồng bột, một ý muốn ngấm ngầm muốn vượt khỏi hiện cảnh, giống như nước sông mưa lụt, chỉ rình phá vỡ đê.

Lúc đó, chàng nhận được thư của Trường.

*
* *

Chàng đọc bức thư bốn, năm lượt. Mấy dòng chữ đưa chàng đến những nơi xa lạ, đầy cảnh vui thú. Chàng tưởng tượng một cuộc đời sung sướng ở Nam, nơi nhiều con gái đã đẹp lại văn minh. Chàng nghĩ đến những nơi danh thắng ở miền Trung. Rồi sau này, biết đâu chàng chẳng giầu có, sống một đời lãng mạn như ai?

Ba giờ khuya. Chàng châm điếu thuốc nữa, lấy giấy bút viết thư từ biệt Kim. Viết xong, chàng gật gù đắc chí, vứt điếu thuốc, vặn đèn, lên giường nằm. Kim thấy động cũng thức dậy.

Ba thấy vợ xinh đẹp, nồng nàn hơn mọi ngày.

Kim được chồng yêu như đêm mới cưới, ngạc nhiên mà không hiểu vì sao. Khi xác thịt đã mệt mỏi, Ba gối đầu lên cánh tay vợ, nằm thiêm thiếp quên hẳn chuyện đi, chỉ biết người đàn bà ôm trong lòng và cuộc ái ân vừa qua. Khi Kim sẽ lay chồng dậy, và đưa thức ăn sáng, Ba xé bức thư đã viết, vui vẻ đi làm.

Trưa về, thấy mấy người xúm quanh mâm cơm, chàng lại chán nản về tấn kịch ngày nào cũng diễn. Chàng không muốn xem, không muốn đóng. Tiếng gọi phương xa lại văng vẳng.

Sau mấy ngày do dự, một sự tình có làm Ba định ý. Ba về chậm vì có anh em rủ đi chơi. Kim không bằng lòng, sinh chuyện ỉ eo. Ba càng bực mình. Chàng phân vân một lần cuối cùng, rồi nghĩ:

- Ta còn sợ gì mà dùng dằng? Nếu chỉ khư khư trong cái gia đình hẹp hòi này thì đời ta cũng chẳng đáng là bao. Mất đi, ta cũng chẳng thèm tiếc. Sự gì giữ ta? Vợ, người đàn bà kia?...

Chàng quên hẳn Kim xinh đẹp nồng nàn trong cuộc ái ân đêm nọ. Chàng bĩu môi:

- Nếu không chờ được thì không thiếu gì người như ta, có thể làm chồng xứng đáng của nàng.

Những ý tưởng trưởng giả cố giữ chàng một lần nữa. Nhưng ý Ba đã quyết. ý tưởng kia tựa như người hấp hối muốn níu lấy cái sống, thở dội lên một lúc rồi tắt nghỉ.

Ba đi Sài Gòn.
 
Ánh lửa hồng - Tobias Wolff

Mẹ tôi đã thề không bao giờ đến ở trong ký túc xá nữa, nhưng hoàn cảnh không cho phép mẹ giữ trọn lời thề của mình. Do đó buộc lòng mẹ quyết định đổi đến thành phố khác. Dù sao mẹ con tôi cũng cần một nơi tạm trú. Hóa ra ký túc xá này còn tệ hơn nơi chúng tôi đã ở trước kia. Ở đây thiếu sự thân ái, buồn tẻ như đưa đám, và nặng mùi ẩm mốc khó ngửi. Nói chung, không khí nặng nề u ám dễ gây cho người ta sự thối chí. Ngay nền nhà dưới chân mẹ con tôi là người thủy thủ tàu buôn đã về hưu có chứng ho muốn vỡ phổi. Ông già là người thân thiện luôn chào hỏi khen ngợi mẹ tôi khi chúng tôi đi ngang qua căn phòng tăm tối mà ông đang ngồi hút thuốc sát mé giường. Lúc ban ngày tôi thương hại ông, nhưng đêm về khi nằm trăn trở lo lắng cho số phận đen đủi bấp bênh của mình trong những ngày sắp đến, mẹ con tôi nghe sự im lặng dâng cao bao trùm niềm thống khổ, chúng tôi ghét ông thậm tệ. Nhất là tôi.

Mẹ tôi tự an ủi đây chỉ là thời gian tạm bợ mà thôi, không bao lâu nữa chúng tôi tuyệt đối sẽ thoát khỏi cảnh này. Ðể chứng tỏ cho tôi, và có lẽ cũng cho riêng bản thân mẹ, thiện chí của mình, mỗi ngày chủ nhật vào giờ ăn sáng, mẹ miệt mài trên từng trang báo, khoanh tròn các ô quảng cáo cho thuê nhà. Rồi ghi xuống hàng chữ 'đúng nhu cầu.' Tôi khoái cung cách đầy tự tin và sốt sắng của mẹ. Ðiệu bộ ấy cho tôi có cảm tưởng nhu cầu của mình ít ra có chút ý nghĩa với cuộc đời chung quanh, và bản thân mình cũng là phần tử đáng kể trong xã hội. Khuôn mặt mẹ đăm chiêu như đang tính toán. Mẹ so sánh giá cả các căn nhà, và loại ra những căn đắt giá hoặc rẻ nhất. Khi tìm được năm hoặc sáu căn vừa ý, mẹ gọi hỏi nếu người ta còn mở cửa cho xem. Có thể nói, chúng tôi dành cả ngày đi xem hết căn này đến căn khác.

Thật ra chúng tôi chưa mướn được căn nào cả. Chủ nhà đòi tiền tháng đầu và tháng cuối, cộng thêm tiền đặt cọc để họ lau chùi sang sửa. Tôi biết phải chờ thêm một thời gian nữa mẹ tôi mới có đủ khả năng. Thế là cứ đến chủ nhật, mẹ tôi lại tiếp diễn, lật báo, khoanh tròn, ghi chú, gọi diện thoại, đi xem nhà, và tôi bị lôi kéo theo. Mẹ con tôi cứ đi xem và chẳng quyết định được gì, tuồng như đi tham khảo thị trường. Ở vị trí của người đi mua sắm đôi khi rất thú vị. Tôi hạnh phúc trong vai trò của người biết mình đang cần gì, muốn gì và có thể mua mang về. Mặc dù chỉ đi ngắm nhìn, nhưng tôi thoải mái vui vẻ, vì có gan ngắm nhìn rờ mó đã đời mà không cần phải mua.
Mẹ tôi càng không phải là người khách hàng thích tính toán thiệt hơn, đi thẳng đến bảng giá, lắc đầu hoặc than phiền giá cả với người đi mua chung quanh. Mẹ tôi không có hứng thú về giá cả. Nói cho cùng, mẹ đâu có tiền để quyết định sự đắt rẻ. Mẹ thích đi phố, đóng vai người mua vì mẹ thấy thoải mái tự nhiên và muốn tìm hiểu về sản phẩm. Nhân viên bán hàng tiếp đãi mẹ một cách cực kỳ kiên nhẫn. Tỷ như, góp ý khi mẹ con tôi xem xét bộ vali bằng da, dẫn giải về chiếc tivi màn ảnh rộng hoặc chọn hộ tấm thảm Ðông Phương. Ði xem thảm không phải là điều nhẹ nhàng dễ chịu vì người bán hàng làm việc vô cùng cực nhọc. Họ phải ra sức kéo lê lết từng tấm thảm nặng nề vắt cao nghều nghệu cho khách xem. Nhìn họ đổ mồ hôi, thở hào hển, xiểng niểng bước chân dưới sức nặng của tấm thảm, tôi tưởng chừng khuôn mặt của họ muốn xơ ra như những sợi bố bện trên tấm thảm vô hồn kia. Khách hàng đôi lúc phải trơ trẽn làm mặt dầy, như mẹ con tôi chẳng hạn. Biết chắc một điều, mình chỉ đi xem đã đời, mà chẳng bao giờ mua.
 
Khi có thời trang mới về, mẹ tôi thử hết bộ áo này đến chiếc váy kia để tôi nhìn ngắm. Xưa kia mẹ tôi từng một thời làm người mẫu, cho nên mẹ biết cách đi đứng nhún nhảy, làm dáng trước tấm gương, biết bước tự nhiên, dừng lại bất chợt, nghiêng đôi vai, lắc nhẹ một bên hông, hoặc liếc ngang liếc dọc ra chiều có ai gọi tên mình. Khi mẹ nhìn tôi, tôi gật gù với nụ cười, cái nhún vai, hoặc khe khẽ lắc đầu. Tôi biết mẹ đẹp hoàn toàn trên mọi phương diện, nhưng trong vai trò một vị giám khảo tôi bắt buộc phải có chút khắt khe kỳ thị.
 
Khi chúng tôi đi xem nhà, mẹ thường mặc bồ đồ đầm màu xám. Phần mình, tôi mặc bộ đồ tây khá bảnh baọ. Chiếc áo len thêu hàng chữ "Vòng Tay Bác Ái" trước ngực, cổ hình chữ V, và thắt thêm chiếc nơ thật trịnh trọng. Mấy ngày qua chúng tôi xem các căn nhà trong khu đại học. Ba căn đầu tiên khá thích hợp cho mẹ con tôi, nhưng đến căn thứ tư thì thật tồi tệ. Người đàn bà cuối cùng sống trong căn nhà ấy bày bừa hoang tàn chẳng khác nào thú dại nơi hang động hoang sơ. Chủ nhà đã bỏ công dọn dẹp, nhưng chẳng vớt vát gì. Căn nhà xông lên mùi thịt thối rữa, dù cửa sổ đã mở toang và gió lồng lộng. Mọi nơi mọi phía đều nhớp nhúa. Chủ nhà tiết lộ rằng người đàn bà ấy bị khủng hoảng tinh thần sau cuộc hôn nhân đổ vỡ. Hắn đề nghị sơn lại căn nhà và lót thảm mới, nhưng lộ vẻ nản chí chẳng sốt sắng, đang thao thao bất tuyệt đột nhiên im bặt khi trông thấy vẻ thờ ơ nơi mẹ con tôi. Hắn tự hiểu cá không cắn câu, nên chẳng buồn để lại danh thiếp của mình. Còn vài căn nhà nữa nhưng mẹ tôi chừng đã mệt mỏi. Mẹ hỏi tôi muốn ra bến tàu hóng gió, đi về, hoặc dạo phố. Mẹ cố gắng tạo vẻ tự nhiên, nhưng tôi biết mẹ đang bực dọc. Tôi thật sự chưa muốn về nên gợi ý muốn tham quan khu đại học. Mẹ liếc ra đường.
- Ðằng nào mình đã đến đây, phải đi cho biết chứ !

=))=))
 
Mẹ con tôi đi dọc hàng phong bên đường. Lá rụng bị gió cuốn thổi xoáy vào chân chúng tôi. Mẹ vòng tay ôm lấy người, cúi xuống đất.

- Phải sống có ý chí và niềm tin nghe con. Không vì bất kỳ điều tại bị nào cả.

Lời mẹ nói làm tôi khó chịu, nhưng tôi biết mình chẳng làm điều gì sai nên tôi yên lặng, không trả lời trả vốn. Mẹ bảo:

- Không cần biết chuyện gì xảy ra, con không được bỏ cuộc nửa chừng. Không được đổ cho hoàn cảnh. Con nghe mẹ nói hay không ?

- Dạ.
 
Một nhóm người Hoa từ phía sau mẹ con tôi đi lên. Khoảng mười, mười hai người thanh niên nói chuyện thật sôi nổi. Khi qua mặt chúng tôi, họ còn cười nói ròn rã như nước chảy róc rách quanh hòn đá. Chúng tôi đi theo bọn họ đến đầu đường cái, và băng qua con lộ dẫn đến trường đại học. Mẹ con tôi lang thang qua từng khu lầu cho đến khi trời bắt đầu tối và gió thổi mạnh. Ðây là ngày đầu tiên trời trở lạnh từ hôm chúng tôi dọn về nơi này. Hôm nay tôi không chuẩn bị ăn mặc ấm, nhưng tôi không dám cho mẹ biết vì tôi chưa muốn về trong lúc này. Trước đến nay, tôi chưa hề đặt chân vào trường đại học, và tôi thật lòng muốn so sánh sự thật của nó với những ý nghĩ mà mình từng hình dung trong đầu. Những dẫy lầu cổ kính bằng đá, các lối đi có hình vòng cung và cửa sổ vòm cao. Thảm cỏ xanh mướt và các dây leo đã ngã sang màu đỏ. Trên dẫy lầu hướng tây, mặt trời le lói những chiếc lá tim tím lấp lánh khi gió thổi. Có tiếng reo hò từ sân vận động đưa sang. Tôi thầm nghĩ đến một cuộc đấu tài đấu sức đang diễn ra. Qua tiếng hò reo tôi phấn khởi nghe vô cùng thân thuộc. Thâm tâm tôi lưu luyến gắn bó nơi chốn này. Các sinh viên đi qua, tôi tưởng chừng họ nhìn tôi như một người anh em của họ trong 'Vòng Tay Bác Ái,' nếu không phải vì người đàn bà đang đi bên cạnh tôi, vì bàn tay quá đỗi nặng trĩu đang đặt trên vai tôi.

Mẹ tôi vô tình chẳng để ý. Có lẽ mẹ vui trở lại. Mặt mẹ ửng hồng vì gió lạnh và vì kỷ niệm của thời học ở Yale và Trinity tìm về. Ngày ấy mẹ thường được vé đi xem đấu bóng cà na từ người bạn gái có kép là cầu thủ. Mẹ cũng từng cặp bồ với một cầu thủ người Mỹ chính gốc, tại Yale, tên Dutch Diefenbacher. Mẹ nói qua giọng hờ hững.

- Anh ấy cầu hôn với mẹ.
 
Ông ta thật sự ngỏ lời với mẹ sao ?

- Hắn tặng mẹ một chiếc nhẫn mua từ cửa hàng của ông ngoại, nhưng mẹ không nhận. Mẹ còn bảo, tôi không thể lấy một người lớn tuổi như anh.

Mẹ tôi cười lớn sau câu nói. Tôi ngắt lời:

- Thật sự có chuyện ấy ? Một người Mỹ trắng chính gốc, xuất thân từ Yale cầu hôn với mẹ và bị từ chối ?
- Dĩ nhiên !
Sao mẹ không lấy ông ấy.

Chúng tôi dừng lại bên cạnh chiếc máy nước ngập đầy lá. Mẹ nhìn lom lom vào mặt nước.

- Mẹ không hiểu. Thuở ấy, mẹ quá trẻ và Dutch không phải là người nổi bật. Anh ta tử tế dễ thương, nhưng cù lần. Quá cù lần.

Mẹ thở dài, thốt lên như quát.

- Trời ơi, anh ta chán ngấy chịu sao nổi.

Tôi bảo:

- Nếu là con, thì con sẽ lấy ông ấy.

Thật sự trước đây tôi không hề biết điều này. Không thể tưởng tượng, một nữ sinh đua đòi như mẹ tôi mà có thể để vuột mất của tôi một người cha Mỹ trắng chính gốc, xuất thân từ Yale. Nếu không giờ này tôi đã giàu sụ, biết đâu còn có người ăn kẻ ở, và mọi việc sẽ hoàn toàn khác hẳn.

Mẹ con tôi đánh vòng quanh bùng binh và đi ngược trở lại. Khi ra đến đường mẹ hỏi tôi còn muốn xem thêm căn nhà nào nữa. Mẹ do dự:

- Dù sao đã đến đây ...

Tôi thấy lạnh nhưng đã lỡ im lặng ngay phút đầu nếu bây giờ than van này nọ e kỳ. Mẹ chận hai cô gái lại hỏi thăm đường đi. Trong lúc họ chỉ dẫn mẹ, tôi cúi nhìn uyển sách đang chưng bày trong tiệm nhỏ ngay đó, vờ như mình chỉ vô tình đứng gần người đàn bà không quen thuộc đang lạc đường chẳng tìm được lối ra.

Buổi tối trời trong. Ánh sáng toả yếu và dần tắt. Mẹ con tôi đi qua vài con phố, đến dẫy nhà xưa cửa sổ còn sáng. Gió thổi sau lưng chúng tôi. Tôi bắt đầu run rẩy, nhưng dấu không cho mẹ biết. Lẽ ra tôi đã nói từ sớm, nhưng tôi ngu ngốc không chịu nói, cho nên bây giờ chỉ biết che đậy cái lạnh của mình bằng mọi cách. Chúng tôi dừng lại trước căn nhà tầng trên tối đen. Tôi ngập ngừng:

- Tối quá mẹ ơi.

- Tối gì tối, căn nhà mình xem ở tầng trệt mà, lo gì.

Mẹ tôi bước đến mái hiên trong khi tôi đứng chờ ngoài ngõ. Tôi nghe tiếng chuông và thấy cửa sổ lay động. Mẹ quay lại khi một cánh cửa hé mở và người đàn ông thò đầu ra ngoài. Bóng ông ta thật to choáng hết khung cửa. Mẹ tôi lúng túng:

- Xin lỗi, lẽ ra tôi nên gọi trước.

- Thưa bà cần chi ?

Ông ta lộ vẻ khó chịu, nhưng khi mẹ tôi nhìn ông thì ông dịu giọng. Mẹ tôi nói về căn nhà. Mẹ khe khẽ.
 
Có lẽ tôi đến hơi muộn.

Mẹ tôi phân trần vì mãi xem chung quanh trường nên quên cả giờ giấc. Mẹ nói và nói, nhưng vẫn đứng yên tại chỗ không nhúc nhích nửa bước, như khẳng định nếu chẳng xem được nhà thì chẳng chịu cáo lui. Tôi tự tin, bước đến. Người đàn ông nhìn chúng tôi qua chiếc gọng kính màu đen, giọng nói thoảng chút thân thiện.

- Dù sao bà đã đến đây, xin mời.

Vật đầu tiên đập vào mắt tôi là ngọn lửa. Tôi để ý đến mọi vật chung quanh như bàn ghế, tủ nẻo, tranh ảnh, nhưng thật ra cặp mắt cứ chỉa thẳng vào ánh lửa. Ngọn lửa đang reo vui trong lò sưởi. Có đứa con gái nằm sấp trước vùng ánh sáng lung linh, bàn chân trần giơ lên cao, lắc nhè nhẹ, một tay chống cằm. Cô bé đang đọc sách. Khi chúng tôi bước vào, cô cố đọc thêm một phần, đoạn chồm dậy chào khách rất lễ độ.

- Chào bác, chào anh !

Cô bé không hẳn là người đẹp. Ngược lại, to thô, mang đôi kính tương tự người đàn ông. Quan sát khách lạ, cô chớp mắt liên hồi. Tôi thấy dễ chịu với cô bé ngay lập tức, khác hẳn vẻ xe lạ hờ hững lúc tôi gặp con gái đẹp. Tôi cười tươi, tự nhiên:

- Chào em !

Tôi bước đến gần ngọn lửa và ngồi xuống đưa lưng vào, gập hai tay ra sau. Tiếng người đàn ông trả lời mẹ tôi:
- Vâng, căn nhà này đầy đủ tiện nghi lắm thưa bà.

Gian phòng thật rộng, to nhất so với những căn nhà tôi đã xem qua. Chắc mẹ con tôi chẳng có đủ khả năng để ở căn nhà này, nhưng tôi không màng quan tâm đến điều ấy.

- Ðể tôi gọi nhà tôi.

Người đàn ông bảo thế, nhưng vẫn ngồi y nguyên tại chỗ nhìn mẹ tôi. Mẹ mĩm cười với ông, rồi gật gù một mình như trầm tư mặc tưởng tính toán trong đầu.

- Căn nhà thật ấm cúng. Sao ông bà nỡ bỏ đi.

Ông ta không trả lời câu hỏi của mẹ tôi, đưa mắt nhìn đứa con gái đang nhặt vật gì dưới nền thảm.

- Chúng ta chuẩn bị cho một vài thay đổi, phải không nào cô bé ?

Ðứa con gái gật đầu không đáp và chẳng nhìn lên. Người đàn bà từ phòng bên cạnh bước vào, tay cầm một khay bánh. Bà ta ốm và cao, với mái tóc muối tiêu cột đuôi ngựa. Trên mặt có rãnh nhăn sâu bên má chảy xuống hai khoé miệng. Bà hướng về phía chúng tôi, chậm rãi từng bước rất nhẹ, và đặt khay bánh trịnh trọng lên chiếc bàn con.

- Quý vị đến đúng lúc dùng bánh đặc biệt của giáo sư Avery.
 
Thoạt đầu tôi cứ tưởng bà ám chỉ công thức làm bánh, nhưng khi ông chồng vội vàng nhào đến, và vốc đầy một tay thì tôi chợt hiểu. Chẳng những ông là giáo sư Avery, mà bánh kia dành cho ông. Tôi e ngại khi thò tay lấy bánh, trong khi cô bé tự nhiên nhón hai ba chiếc. Khi ăn, người đàn bà thả tay ra sau giáo sư Avery và tựa vào người ông. Hình ảnh ấy gợi cho tôi quan hệ đầm ấm giữa chồng và vợ như màn kịch diễn thật xuất sắc trước khán giả và ngôi nhà ấm cúng này là nơi người ta âu yếm trìu mến nhau. Nhìn bà giáo sư trong niềm hạnh phúc thật đơn thuần tôi thật sự vui dùm bà. Mẹ tôi xin phép xem qua căn nhà.
- Nếu ông bà không ngại, tôi có thể xem chung quanh ?

Giáo sư Avery ra dấu cho con gái đưa mẹ con tôi đi xem các căn phòng còn lại. Thêm những phòng to rộng, hai gian có lò sưởi. Sau một lúc chúng tôi trở lại phòng khách và cùng ngồi xuống quanh ngọn lửa. Giáo sư Avery và vợ ngồi trên chiếc trường kỷ, mẹ tôi ngồi trên chiếc ghế ngựa đối diện với họ, cô bé và tôi nằm dài dưới nền nhà. Cô bé mở quyển sách, chân giơ lên cao đong đưa nhịp nhàng trong khoảng không. Mẹ tôi và bà giáo sư bàn bạc với nhau về căn nhà. Tôi đưa mắt chăm chú vào ngọn lửa. Tiếng động chung quanh hoàn toàn vô nghĩa đối với tôi. Mẹ tôi kể cho bà giáo sư về chuyến tham quan khu đại học. Mẹ khen ngợi ngôi trường đẹp. Giáo sư Avery ngắt lời:

- Ðẹp ? Theo bà, đẹp chỗ nào ?

Mẹ tôi im lặng.

- Có lẽ bà muốn nói về các dẫy lầu, phòng ốc ...

- Thưa vâng, trường lớp, khuôn viên. Nói chung, toàn bộ thiết kế ...

Giáo sư Avery lên tiếng:

- Giả tạo như cảnh trong phim trường.

Bà vợ đỡ lời:

- Ý của giáo sư muốn nói, trường đã quá chú trọng đến hình thức bên ngoài.

Giáo sư Avery nói:

- Họ chỉ để tâm vào đó mà thôi.

Mẹ tôi nhỏ nhẹ:

- Ðiều ấy thì tôi không rõ, tôi không phải là chuyên gia về kiến trúc. Tôi chỉ có cái nhìn đơn giản, quang cảnh nơi đây thật đẹp

- Trông như các trường đại học khác mà thôi. Họ kinh doanh ngành giáo dục. Tất cả chỉ là sư giả dối từ đầu đến chân. Nổi tiếng một cách giả dối. Họ chỉ biết sơn phết bằng vật chất bên ngoài mà không chú tâm vào thực chất tinh thần.

Một phút trước đây giáo sư rất im lặng, nhưng khi bắt đầu mở miệng thì ông nói không ngừng. Và tôi chẳng muốn ông ngừng. Giọng ông nói làm tôi ngột ngạt, như khi đi xe mà bị ngồi phía sau trên đoạn đường dài thăm thẳm. Ðến lúc này, bà giáo sư đành lên tiếng phụ họa theo lời chồng phát biểu. cô bé trăn trở cạnh tôi. Cô ngáp dài và lật trang sách. Trong lò sưởi, củi vang tiếng nổ lách tách nho nhỏ, chẳng khác nào con chó già nua đang bẻ mình vươn vai.

Giáo sư hăng say diễn thuyết. Mẹ gọi tên tôi. Mẹ ngồi yên không thêm bớt tiếng nào nữa cả, chỉ khẽ gọi tên tôi. Giáo sư vẫn nói tuồng như chẳng nghe. Ông nghiêng người về phía trước, ngón tay nhịp nhàng đưa theo lời nói, đôi kính lắc lư theo chiếc đầu gật gù. Tôi nhìn mẹ mình ngồi bất động, khuôn mặt lạnh lùng không cảm giác. Ðó là thái độ chịu đựng của mẹ khi bị gài cứng ngắt trước người bán hàng dai dẳng, hoặc nhà truyền giáo kiên trì không chịu bỏ cuộc. Tôi biết mẹ muốn tháo lui. Nhưng tôi chưa muốn về và tôi cũng quên hẳn đấy không phải là nhà mình. Sự ấm cúng bên ánh lửa hồng tỏa ấm lòng tôi và giọng giáo sư đều đều ru ngủ trong cảnh êm đềm của một gia đình hạnh phúc. Tôi cố quên đi sự thật trước mắt. Họ đâu phải có máu mủ họ hàng với mình, và chẳng bao lâu nữa họ sẽ rời bỏ căn nhà và nơi chốn này. Song, tôi lại tô đậm vẽ hồng thêm thắt họ vào câu chuyện thêu dệt của mình, bất kể một điều rất vô lý là họ còn có cuộc đời riêng của họ.

Tôi hoàn toàn không hiểu việc gì đã xảy ra sau đó, vì tôi không còn gặp lại họ thêm lần nào nữa. Ðến bây giờ, sau nhiều năm trôi qua, tôi ngồi đây suy nghĩ vẩn vơ, giáo sư Avery bị từ chối quyền cư trú trong khuôn viên trường đại học. Ðây không phải là ngôi trường đầu tiên đối xử bất công với ông, cũng không hả(n là ngôi trường cuối cùng. Tôi hình dung sự tranh đấu của ông từ một trường kém phẩm vị này đến một trường khác. Qua mỗi lần bị từ chối, tinh thần chống đối và đời sống nội tâm của ông càng dâng cao. Ðồng nghiệp của ông, những con người có đầu óc hạn hẹp và trái tim không rộng mở chế nhạo ông là kẻ hay gây hấn, tạo sự phiền hà và nhàm chán. Họ ám chỉ dè bĩu sự thanh cao của ông, cho rằng để che đậy phần thiếu sót, yếu kém trong phạm vi chuyên môn của mình. Qua năm này tháng nọ ông cứ thuyên chuyển hết trường nọ sang trường kia. Bà giáo sư đành an ủi vết thương lòng của ông, cuộc sống nội tâm có chiều sâu của chồng mình bằng sự chung thủy tận tụy khó ngã gục của bà, và đương đầu với nỗi khổ tâm của chồng về cuộc sống vật chất ngày càng lấn lướt bằng các khay bánh ngày càng đầy và nhiều hơn. Bà tin tưởng ở chồng mình. Niềm tin của bà, trong bất cứ nguyên do nào cũng đều đáng được tuyên dương. Bà luôn nghĩ rằng niềm vui đơn thuần của mình, như người bạn cũ thân thiết, như cõi riêng bất khả xâm phạm, như cuộc sống đâm chồi bám rễ từ cộng đồng xã hội, tất cả đều là vật hy sinh không phải cho lẽ phải sự thật, cho điều cao cả mà cho phù du ảo mộng, cho ích kỷ và sự kiêu căng tự mãn. Lẽ tất nhiên, đâu phải người đàn bà nào cũng có thể sâu sắc thấu hiểu được những điều như thế.

Có thể nói, phần mất mát ấy thuộc về cô bé. Cô phải được tuyên dương anh hùng. Cô đâu có quyền lựa chọn nguồn gốc của mình, làm con của họ. Chẳng bao lâu, cô sẽ hiểu rõ những điều bất như ý trong đời mình. Tất cả đều bắt nguồn từ thất bại của cha mẹ. Ai có thể hiểu điều thua thiệt cay đắng ấy rõ ràng hơn cô bé ? Bối cảnh còn đây. Giáo sư Avery bị lên án về con người quá thật của ông, bà giáo sư bị lên án về con người tế nhị điềm đạm của bà. Chuyến thăm nhà từ Barnard hoặc Reed, hoặc bất cứ nơi nào học bổng đưa đẩy cô bé, từ thành phố xa xôi nơi cô làm việc. Tất cả diễn ra như màn kịch có tuồng tích lớp lang. Lời giận dữ thầm thì to nhỏ trong gian bếp, tiếng la mắng bên bàn ăn, hoặc cuộc khởi hành trong sương sớm. Tất cả lập đi lập lại nhiều năm, và chắc chắn chẳng phải là điều vĩnh viễn. Cô bé cố tạo sự bình yên bên cha mẹ. Thậm chí cô còn mang niềm vui thay thế lòng bất mãn oán hận của mình, bao chuyến dời đổi không ngừng, cuộc sống lặng câm của cha mẹ, và bản chất độc lập khác người của họ trong một xã hội mập mờ đầy khó hiểu. Cô chẳng thể làm gì khác hơn là yêu thương cha mẹ mình. Ai có thể yêu mến họ hơn cô bé\ ?

Bằng cách này hay cách khác, tôi đã lồng họ vào nhân vật trong câu chuyện của mình, mặc dù chẳng biết rõ họ là ai. Chỉ biết, ngay đêm ấy tôi mơ màng tưởng tượng mình là một phần tử của gia đình họ, khi chúng tôi chỉ là những người hoàn toàn xa lạ. Trải qua bốn mươi lăm phút vỏn vẹn trong ngôi nhà ấy, vừa đủ cho tôi thấy ấm áp cõi lòng và quên hết mọi sự trên đời.

Mẹ gọi tên tôi một lần nữa, nhưng tôi vẫn không nhúc nhích cục cựa. Thông thường, chẳng cần mẹ kêu réo, tôi đã chuẩn bị khi biết mẹ muốn ra về, chẳng phải vì tôi ngoan ngoãn vâng lời. Chỉ vì tôi khoan khoái mang đôi chút hãnh diện khi muốn chứng tỏ mình có nề nếp. Nhưng lần này, nghe tiếng mẹ gọi tôi chỉ đưa mắt nhăn nhó. Thấy tôi ngồi lỳ, mẹ từ từ đứng dậy. Tôi đọc được sự ngạc nhiên trong mắt mẹ. Mọi người đứng lên theo mẹ, ngoại trừ tôi. Khi mẹ ra gần đến cửa, tôi mới vội vàng bật dậy ấp úng chào từ giã trong họng, và chạy theo. Giáo sư Avery tiễn mẹ con tôi ra tận bên ngoài. Mẹ ngập ngừng.
- Ðến bây giờ, tôi vẫn nghĩ đây là một ngôi trường tuyệt đẹp.

Ông cười thật lớn. Chẳng hiểu vì hoan hỉ hay chua chát.

- Cho là thế. Ðẹp với nó thôi chứ đẹp với ai.

Ông chờ mẹ con tôi ra đến đầu ngõ mới quay trở vào tắt đèn, đóng cửa. Tôi nghe tiếng cửa đóng sầm sau lưng. Mẹ tròn mắt.

- Thế là sao ?

Tôi nhún vai chẳng trả lời.

- Con có sao không ?

- Không sao cả mẹ ơi, ... chỉ lạnh tí mà thôi.

- Lạnh ? Sao suốt buổi ngậm câm không nói ?

Mẹ cởi áo khoác đưa qua tôi.

- Nè !

- Con không sao mà ...

- Mặc vào !

- Thật mà, con không sao hết.

- Mặc vào, đồ ngốc !

Tôi khoác chiếc áo. Hai mẹ con đi một đoạn, tôi bảo:

- Dị quá mẹ.

- Rồi sao ? ai cười ?

- Con thấy kỳ.

- Biết kỳ hở ? Cả buổi tối mi dở dở ương ương.

- Con không mặc lên xe đâu nhé.

- Ai bảo mi mặc lên xe ?

Tôi kéo cổ áo lên cao, và so vai.

- Còn lạnh hở ?

- Tí ti.

Tôi rùn mình, lạnh như chưa bao giờ biết lạnh, và đổ lỗi cho mẹ đã bắt tôi rời ngọn lửa hồng. Tôi hiểu không phải do lỗi của mẹ, nhưng tôi muốn đổ cho mẹ, cho ngọn gió thổi lên mặt tôi rát buốt và cho mọi điều không tên tuổi lẽ ra đừng nên xảy đến.

- Sang đây, con !

Tôi nhích ra xa, mẹ kéo tôi đến gần, và chà xát bàn tay của mẹ lên cánh tay tôi. Tôi né ra ngoài, nhưng mẹ giữ tôi lại, và tiếp tục vuốt tay tôi. Tôi thấy dễ chịu. Mẹ chợt hỏi:

- Nè con ! con nghĩ sao về ngôi trường này ? thành thật nhé.

- Con thích nơi này.

- Mẹ nghĩ ... ngôi trường rất khá.

- Con cũng vậy.

Mẹ tôi lẩm bẩm.

- Lão kiêu căng, như mắng vào mặt người ta.

Giờ tôi đã có lò sưởi riêng cho mình. Nơi tôi ở, mùa đông thật dài và thật lạnh. Gió thổi bần bật, giạt tuyết qua hai bên lối đi. Căn nhà trở mình kêu kèn kẹt, cửa sổ đóng đầy sương và đá. Sau bửa ăn tối, tôi chất củi nhóm lò. Các con tôi nôn nóng chờ đợi. Sau đó chúng ngồi ngắm ngọn lửa bằng đôi mắt tôn sùng chiêm ngưỡng. Nhà tôi bước vào trìu mến nhìn ánh lửa hồng. Nàng cầm quyển sách và nằm xuống chiếc ghế dài, nhưng chẳng đọc. Tôi cũng thế, quyển sách nằm chơ vơ bên cạnh tôi. Tôi ngắm ngọn lửa, ngắm ánh sáng lung linh thay đổi trên từng gương mặt thân yêu của mình. Tôi khoan khoái trong sự đầm ấm ngọt ngào của gia đình. Tuy nhiên sâu xa trong tâm hồn, tôi nghe vướng víu thoáng lo âu, sợ niềm hạnh phúc này sẽ tan biến, như có tiếng gọi từ đâu bất ngờ đánh thức cơn mơ choàng dậy.
_________________
 
Án mạng đêm cuối năm - Agatha Christie

Luật sư Mayher chăm chú quan sát chàng trai ngồi trước mặt ông, con người bị buộc tội giết người có dự mưu.

- Voler, tôi thiết nghĩ, anh nên thành thật khai báo, tôi mới có thể bào chữa cho anh được.

- Biết nói thế nào nhỉ. Tôi không thể bị buộc một tội mà tôi không hề làm. Tôi vô tội, tôi vô tội. Ông phải hiểu điều đó.

- Vâng. Tôi đang cố gắng lo cho anh được tự do. Nhưng mọi bằng cớ đều chống lại anh. Không phải cứ la lên là mình sẽ vô tội.

- Tôi xin thề trước Thượng đế là tôi bị nghi oan. Tôi đã rơi vào một cái lưới không thể thoát ra được.

- Anh đừng thề mà hãy nói rõ cho tôi nghe, anh quen bà Fren trong trường hợp nào?

- Hôm đó, bà Fren suýt bị xe buýt tông, nên hoảng hồn đánh rơi đồ đạc tung toé ra đường. Tôi có mặt ở đó nên đã nhặt giùm cho bà ấy. Sau đó, tôi gặp lại bà trong một bữa tiệc tại nhà người bạn. Bà nhận ra tôi, nói chuyện với tôi rất thân mật, và khi ra về, bà yêu cầu tôi ghé thăm bà. Bạn tôi nói bà là một cô gái già rất giàu có, sống một mình với chị người làm và tám con mèo.

- Anh đang túng thiếu, lại làm quen với một bà già giàu sụ và cố tình kéo dài sự liên hệ thân mật. Nếu chúng ta chứng tỏ rằng anh không hề biết bà Fren giàu và anh chỉ đến thăm vì xã giao...

Mặt Voler tái đi:

- Havey, bạn tôi đã nói vụ bà Fren giàu trước mặt tôi và rất nhiều người, một vài người còn chế giễu tôi là chuột sa hũ nếp nữa chứ.

- Như vậy thì tôi phải giải thích sao khi một người trẻ tuổi đẹp trai như anh lại mất thì giờ cho một bà đã luống tuổi có tính khí khác thường.

- Thú thật với ông, sau lần viếng thăm đầu tiên, bà đã khẩn khoản mời tôi đến nữa. Bà than rằng bà cô đơn quá, nên xem tôi như con. Bà tử tế, nuông chiều tôi, do đó, tôi thực sự cảm mến bà như một người mẹ.

- Đến lúc nào thì bà ấy yêu cầu anh trông nom sổ sách cho bà?

- Sau bốn, năm lần viếng thăm. Bà ấy tính toán kém trong việc hùn hạp làm ăn.

- Vậy mà chị hầu phòng Jannette quả quyết rằng bà chủ của chị rất thạo việc. Đấy cũng là ý kiến của các ngân hàng có tài khoản của bà ấy.

- Họ nói sao ấy chứ trước mặt tôi, bà ấy tỏ ra rất vụng về.

Luật sư Mayher nhìn Voler. Ông tin vào sự vô tội của chàng thanh niên. Voler đã nói thật. Tâm lý các cô gái già là thường giả bộ ngây thơ để nhận ở những người đàn ông sự giúp đỡ. Và Voler đã đáp ứng được điều đó. Tằng hắng, ông hỏi:

- Có bao giờ anh lợi dụng lòng tin của Fren để kiếm lợi riêng cho anh không? Tôi sẽ có hai cách để bào chữa. Nếu trung thực, anh sẽ không cần nhúng tay vào máu để kiếm được món tiền mà anh có thể kiếm được một cách lương thiện. Bằng ngược lại, anh có những thủ đoạn mà bên công tố biết và sẽ đưa ra. Khi đó, tôi sẽ bảo rằng anh chẳng dài gì mà giết con gà đẻ trứng vàng ấy cả.

- Cảm ơn lòng tốt của ông. Tôi lúc nào cũng ngay thẳng khi làm việc với bà ấy. Nếu người ta cho rằng, tôi lợi dụng vật chất nơi bà ấy, thì cái chết của bà chỉ thiệt hại cho tôi thôi.

Luật sư Mayher nhìn thẳng vào mắt Voler:

- Anh có biết là bà Fren đã lập di chúc để một phần lớn tài sản cho anh không?

Voler nhỏm dậy như bị điện giật"

- Ông nói sao? Bà ấy để của cho tôi à? Vô lý.

Giọng luật sư vẫn điềm tĩnh:

- Anh không biết việc này thật à?

- Ồ, tôi hoàn toàn không biết gì cả.

- Vậy mà cô Jannette lại quả quyết là anh biết cơ đấy. Chính bà Fren đã tiết lộ với cô ta về chuyện này.

- Jannette ghét tôi nên bịa đặt đấy. Ông phải tin lời tôi.

- Anh đã đến nhà bà Fren vài buổi tối, chỉ có mình bà, và sáng hôm sau bà bị giết ở phòng khách. Quả thật tối hôm đó, lúc 9
 
Voler đứng phắt dậy:

- Vậy là tôi thoát nạn rồi. Vào lúc chín rưỡi, tôi đã về tới nhà. Vợ tôi có thể chứng minh cho tôi. Cảm ơn Thượng đế xui khiến Jannette ghé về đúng lúc.

Nét mặt luật sư vẫn không bớt đăm chiêu:

- Vậy theo ý anh, ai đã giết bà Fren?

- Một tên cướp. Y đã dùng thanh sắt đập vào đầu bà Fren. Một cánh cửa sổ bị phá vỡ, một số đồ vật bị lấy đi. Nếu không có sự nghi ngờ vô lý của Jannette và ác cảm của cô ta đối với tôi...

- Sự việc không đơn giản như vậy đâu. Anh nói anh về nhà lúc chín rưỡi, vậy mà Jannette lại nghe tiếng đàn ông nói chuyện với bà chủ trong phòng khách. Không lý bà ấy đi nói chuyện bình thường với một tên cướp?

- Dù sao đi nữa, người đó cũng không phải là tôi. Tôi đã có mặt tại nhà lúc chín rưỡi. Xin ông hãy đến gặp Romen, vợ tôi sẽ xác nhận lời khai của tôi.

- Bà Fren biết anh có vợ không?

- Dĩ nhiên là có.

- Jannette đã khai là chưa bao giờ anh đem vợ đến thăm bà Fren, cho nên bà ấy tưởng anh độc thân và có ý định sẽ lập gia đình với anh.

- Vô lý, bà ta quá già.

- Chuyện đó không thành vấn đề.

Voler đỏ mặt:

- Đó chỉ là sự tưởng tượng của Jannette. Tôi van ông, hãy đến gặp vợ tôi.

Romen, vợ Voler là một phụ nữ cao lớn, tiều tụy. Bà tiếp luật sư Mayher với vẻ hững hờ. Trông bà bình tĩnh đến lạnh lùng, điều này đã làm cho luật sư e ngại. Dù muốn dù không, ông cũng phải trình bày mọi việc cho người đàn bà ấy nghe. Im lặng một lát, Romen cất giọng đanh thép:

- Voler muốn tôi xác nhận là tối hôm đó, hắn trở về nhà lúc 9 giờ 20 phút chứ gì. Đừng hòng. Tôi không bao giờ đồng lõa với kẻ sát nhân đâu. Ông hãy nghe cho rõ đây, tôi xác nhận là Voler đã biết Fren có để lại gia tài cho hắn nên hắn đã giết mụ già để sớm được vinh thân. Tối hôm đó hắn trở về lúc 10 giờ hai mươi, trên áo đầy máu. Hắn thú nhận tất cả với tôi. Tôi sẽ là nhân chứng buộc tội hắn.

- Chị không thể làm chứng chống lại chồng.

- Hắn không phải là chồng tôi mà là một người đàn ông tồi tệ. Tôi căm thù hắn. Tôi muốn trông thấy hắn bị treo cổ.

- Tôi sẽ đến gặp chị sau khi liên hệ với Voler.

Romen bĩu môi:

- Ông tin là hắn vô tội ư? Thật đáng thương!

Trước ngày tòa xử, luật sư Mayher nhận được một lá thư, nét chữ nguệch ngoạc: "Nếu ông muốn vạch mặt mụ đàn bà đã hại chồng mình như thế nào, mời ông mang theo 2.000 đô la, đến địa chỉ X... vào lúc 19 giờ, hỏi bà Motion".

Khó khăn lắm, luật sư Mayher mới tìm thấy địa chỉ căn nhà. Đó là một túp lều ổ chuột nằm trong một con hẻm lầy lội, dơ dáy. Một mụ già lưng còng đợi ông sau cánh cửa:

- Chào anh chàng luật sư. Vào đây, vào đây.

Ngọn đèn trên trần tỏa ánh sáng lờ mờ. Luật sư Mayher giật mình khi thấy gương mặt mụ già đầy những vết sần sùi đỏ hỏn. Mụ cất tiếng the thé:

- Axit đấy, anh bạn trẻ ạ. Tôi sẽ trả thù, trả thù.

- Thôi đi, bà hãy vào vấn đề nhanh lên.

Bàn tay gầy đét với những ngón cáu bẩn đưa ra:

- Thế tiền đâu? Phải đủ hai ngàn đấy nhé.

- Nếu bà biết điều gì đó, bà có bổn phận ra tòa làm chứng.

- Không. Tôi chả biết quái gì cả, nhưng tôi có thể cho anh một vài thứ rất hay. Anh có thích đọc một lá thư của mụ Romen không? Rất cần thiết cho anh đấy. Đưa tiền đây.

- Tôi chỉ có một ngàn thôi. Nếu bà không chịu tôi xin kiếu.

- Quỷ tha ma bắt anh đi. Nào, bốc xỉa ngay.

Mụ già rút dưới tấm nệm rách ra một xấp bì thư, ném trước mặt Mayher:

- Chắc chắn anh sẽ khoái lá thư trên cùng.

Tất cả đều là những bức thư tình, do Romen viết gửi cho một người tên Mac. Lá thư cuối cùng viết đúng ngày Voler bị bắt: "Mac yêu quý, Voler vừa bị bắt vì tình nghi giết người. Em biết, Voler là một tên hiền như bụt, không hại đến một con ruồi. Nhưng em sẽ khai trước tòa là hắn trở về nhà với máu me đầy mình và đã thú nhận tội lỗi với em. Hắn sẽ bị treo cổ và chúng ta sẽ có nhau...".

Mụ già nói thêm:

- Mac là chồng tôi. Ngày xưa, vì con bé Romen mà anh ta đã tạt axit vào mặt tôi. Tôi thù nó và đã theo dõi, rình rập nó trong bao nhiêu năm trời. Bây giờ nó sẽ bị trừng phạt vì tội khai man để đẩy chồng vào tù. Anh cứ tin đi. Hãy đến rạp chiếu bóng Eden đưa tấm hình Romen ra, người ta sẽ cho anh biết sự thật.

Không bỏ phí thời gian, luật sư Mayher đến ngay rạp chiếu bóng và ông đã đạt được ý muốn. Chẳng qua, trước khi lấy Voler, Romen từng là diễn viên kịch, nên nhiều người biết mặt. Họ xác nhận, đêm hôm xảy ra án mạng, Romen vào rạp coi xuất chót, vào lúc 10 giờ 20.

Ngày họp tòa. Romen khai rằng buổi tối hôm xảy ra án mạng, Voler ra khỏi nhà mang theo một thanh sắt. Hắn trở về lúc 10 giờ 20 và thú nhận với chị là đã giết bà Fren, hắn còn dọa sẽ giết chị nếu chị nói sự thật.

Lập tức, lá thư tội lỗi được đưa ra. Các chuyên viên về chữ viết đã xác nhận chữ trong thư đúng là của Romen. Người đàn bà điêu ngoa đã phải gục đầu thú nhận. Quả thật, Voler đã trở về nhà lúc 9 giờ 20 như lời anh đã khai.

Voler được trắng án.

Nhưng sự việc không ngừng ở đây, bởi lương tâm luật sư Mayher cảm thấy không yên. Lòng dạ ông bồn chồn khi nhớ lại những cử chỉ của Romen trước vành móng ngựa. Lưng chị hơi còng, bàn tay phải luôn xòe ra, một thói quen kỳ lạ... hình như ông đã thấy một người cũng có cái tật như thế. Ai? Luật sư giật nẩy mình. Đúng rồi, Romen đã từng là kịch sĩ... mụ già mặt thẹo!

Ông tìm đến nơi Romen đang trả giá ba tháng tù vì tội khai man. Đầu óc ông quay cuồng với bao câu hỏi. Tại sao? Tại sao?

Người đàn bà trở lại vẻ lạnh lùng cố hữu:

- Tại sao tôi lại chơi cái trò ấy à? Tôi phải cứu chồng tôi chứ. Một lời khai của người vợ thương chồng đâu có thuyết phục được ai. Nếu những lời nói của tôi không tự ý mình, mà do những tác động bên ngoài bắt buộc thì ai cũng phải tin. Tôi bị phạt tù vì khai man hại chồng, nhưng chồng tôi sẽ được cảm tình của tòa và mọi việc sẽ thuận theo chiều hướng tốt đẹp.

- Còn tập thư? Còn anh chàng Mac?

- Nếu chỉ viết một lá thư thì có vẻ giả tạo quá. Còn anh chàng Mac ư? Làm gì có, đó chỉ là một cái tên ma.

Luật sư Mayher hậm hực:

- Lẽ ra chị không nên làm thế. Chúng ta có thể chứng minh sự vô tội của Voler bằng một cách hợp pháp hơn.

Romen nhếch mép:

- Thế ông vẫn tin Voler vô tội ư?

- Dĩ nhiên. Chị đã rõ là tôi tin như vậy.

- Tôi thì chả rõ gì cả. Tôi biết chắc là chồng tôi đã giết bà Fren. Để làm gì ư? Vì chúng tôi quá nghèo, ngài luật sư ạ.
 
Amen - Ngôi nhà Ma (Nyy)

Có muôn ngàn chuyện ở trên đời, nhưng có một chuyện làm tôi không thể nào quên được. Ngày xửa ngày xưa, chuyện xảy ra lâu lắm rồi, không ai còn nhớ nữa, chỉ mình ta nhớ thôi. Lão Nyy đương đương tự đắc rung cặp râu dài tới 2 mét quét đất. Chả là ở vương quốc của lão có rất nhiều điều kỳ bí xảy ra. Mọi người ai ai cũng có phép màu và khả năng đặc biệt nào đó, riêng lão thì không. Vì vậy, lão mới để bộ râu dài khủng khiếp như thế để tạo ra sự quái dị cho phù hợp với cái xứ sở mà lão đang sống. Lang thang với cái bộ râu của lão thế đủ rồi. Chuyện mà lão muốn kể với dân làng hôm nay là một câu chuyện hoàn toàn có thực. Lão cảnh báo trước, ai mà bị đau tim hay choáng ngất thì dừng có nghe, lão không dán nhãn bảo hành cho câu chuyện của lão đâu.
Vào một đêm trăng, trời sáng trong như mực, tại vương quốc kỳ quái của lão Nyy có một ngôi nhà nhỏ heo hút ven đồi. Người ta đồn rằng cứ vào 12 giờ đêm có tiếng hú rất man rợ vang lên từ ngôi nhà nhỏ đó. Có lần 8 người đi săn về muộn lỡ đường trú tạm trong căn nhà đó. Sáng ra người ta đi tìm và chỉ thấy 8 cái đầu lâu trông rất hãi. Máu me be bét trào ra quanh hốc miệng mỗi cái đầu lâu. Dường như họ bị tra tấn rất khủng khiếp trước khi chỉ còn lại bộ xương. Sọ của ai cũng bị thủng một lỗ nơi đỉnh đầu... Và kinh dị hơn là cứ vào đêm trăng rằm mõi khi có tiếng hú man rợ trong căn nhà cất lên là y như rằng có một người trong làng chết...
Lão Nyy kể đến đó thì đột nhiên dừng lại. Cả bọn quây quần bên đống lửa giữa rừng ngồi sát vào nhau hãi hùng nhìn quanh. Tiếng các con thú ăn đêm hú lên rùng rợn, xa thẳm. Rồi thì cơn mưa rừng ập tới. Mưa ào ạt, xối xả, không kịp trú vào đâu cả bọn ướt nhoét. Cơn mưa rừng đến nhanh và qua đi cũng thật nhanh y như lúc nó đến. Xa xa có ánh đèn thật ấm cúng. Cả bọn dắt tay nhau tiến bước. Dũng cảm nhất là Hạt tiêu đi trước. Tiếp theo sau là Qxxx, Ktac, Feeling, LLS, LT, Nhat-my...Và cuối cùng là lão Nyy. Vì lão có bộ râu dài nên phải có người đi trước cầm râu cho lão. Kể kỳ quặc quá thế cũng khổ.
***
Đường đến ngôi nhà thật gian nan, đất lở đá trượt, nhưng rồi cả bọn cũng tới nơi vừa đói vừa mệt. Trong nhà đèn đuốc thắp sáng trưng. Hạt tiêu nhạy cảm nhất với mùi vị hích hích cái mũi lên ngửi.
- Chà chà ! Thơm gớm nhẩy ! Hình như có mùi thịt nướng.
- Oái ! Có cả mùi hành phi thơm phức- Ktac mắt sáng ngời mơ mộng
- Hình như có cả mùi bia Halida nữa - Qxxx ngó cổ dòm.
- Vào đê anh em ơi ! - lão Nyy hô to
Cả bọn vội xô cửa vào trong.
- Có ai không nhẩy? - LLS hỏi
Không một tiếng đáp lại. Căn nhà khá ấm cúng. Nó có một thang đặt ở góc nhà.
- Chắc là có tầng nữa nên mới có thang thế này- Qxxx nhận xét
- ờ ờ ! Cả bọn tán thành. Nhưng chợt nhìn thấy bàn ăn phía đó đang bốc khói nghi ngút, cả bọn quên cả chuyện cái thang lên tầng 2, nhao ngay ra đó. Quả đúng như Hạt tiêu, ktac và Qxxx đoán. Trên bàn ăn có bày đủ thứ. Có một mâm toàn lợn rừng còn bốc khói nghi ngút. Hành phi thơm phức. Một thùng bia to kếch sù nằm ngay cạnh bàn. Cả bọn chẳng ai bảo ai nhảy vào ăn uống no say. Và...khi cái bụng đã căng thì con mắt bắt đầu trùng xuống. Cả lũ lăn quay ra ngủ. Qxxx có lẽ chơi cả nửa thùng bia Halida nên quay ngay...
Đêm đã về khuya. Sấm chớp lại nổi lên đùng đùng. Căn nhà cọt kẹt kêu lên rùng rợn. Đèn chợt tắt. Lúc này chỉ còn LLS và Hạt tiêu là có vẻ còn lơ mơ chưa ngủ hẳn. 12 giờ đúng. Trăng nhô cao. Bầu trời đẫm nước. Một hiện tượng quả là kỳ lạ. Một tiếng hú rùng rợn cất lên nghe thật khủng khiếp, trên bức vách có những hình bóng kỳ lạ nhấp nhô. Những hình quái dị ấy cứ lững thững từ trên gác bước xuống. LLS và Hạt tiêu bừng tỉnh. Trong cái không gian ấy họ thấy có mùi máu tanh tưởi, mùi chuột bọ hôi hám bốc lên thật là ngột ngạt. hạt tiêu bỗng thấy lạnh xương sống. Hình như có cái gì quệt lên cổ làm hạt tiêu thấy rờn rợn, nhờn nhờn.
- Dậy mau ! Hạt tiêu hét lên trong khi LLS thì sợ hãi co người lại không kêu nổi một tiếng.
- Gì thế ? lão Nyy mơ màng. Nhưng rồi lão cũng nhận ra có cái gì đó không ổn sau gáy. Lão choàng tỉnh dậy và hét toáng lên như Hạt tiêu đã hét. Tất cả cùng tỉnh dậy. Qxxx như vẫn còn phê cáu quá tát lung tung. Thật là đen đủi lại trúng ngay mặt lão Nyy làm lão nổ đom đóm mắt. Cây nến trong nhà bắt được ánh đom đóm từ mắt lão Nyy sáng bừng lên. Cả bọn bàng hoàng nhìn thấy trước mặt mình những hình thù kỳ quái nhất từ trước đến nay. Chúng có những cái lưỡi thật dài đang liếm trên gáy mọi người. Những cặp nanh dài và nhọn cáu bẩn máu khô lúc lắc như ngà voi chỉ trực húc thẳng vào ai đó. Chúng là những con ma...
Lão Nyy lúc này đã trấn tĩnh. Lão nhặt một lúc mấy quả táo, rút mấy cái nan cửa sổ bày ra sàn nhà. Sau đó lão đào mấy cái hố nhỏ. Mỗi lỗ chỉ đủ một quả táo rơi xuống. Lão lấy gậy chọc như trò chơi bi-a của tụi thanh niên vẫn chơi. Cả lũ ma đứng há hốc mồm nhìn chăm chú. Bỗng một con ma cất tiếng :
- Ê này lão. Chơi gì đấy? dạy ta với?
- khà khà ! Thử đi- lão Nyy đưa một cái que nan cửa cho con ma
- úi chà, khó gớm. Từ thuở lọt lòng tới giờ ta chưa bao giờ chơi trò này, bây giờ ta mới thấy có một trò khoái thế.
Cả lũ ma xúm lại cùng chơi. Chúng bắt đầu ham. Cả bọn không còn sợ nữa cũng xúm vào hò hét. Chơi được một lúc, bọn ma bắt đầu chán, chúng mệt và đói. Chúng nhìn nhóm người thèm thuồng.
- Ê ! Ma nhỏ , mày chọn thằng nào ? Cả bọn ma chỉ vào lão Qxxx. Tao thấy cái tên này ngon nhất, béo ngậy, phi với hành thơm phải biết.
- ờ ! Nhưng mà tao thích cái thằng cao cao kia- mato lên tiếng
- Đứa nào thế ? ma xó hỏi
- à à ! Cái thằng đeo kính kia kìa, mắt nó to, vừa giòn vừa bổ- bọn ma trỏ vào Ktac.
- Mấy đứa còn lại còn trẻ chưa đến lúc phát tướng, cứ để vỗ béo đã- Ma trơi lên tiếng.
- Có lý đấy- Ta còn gầy lắm, đợi vỗ béo đã- Lão Nyy lên tiếng.
Cả bọn ma thống nhất xong thì bắt đầu đi đun nước sôi. Chúng súc miệng ùng ục rung động cả quả dồi. Bây giờ nước đã sôi, sang mục cạo lông làm thịt. Ma nhỏ vung vẩy con dao rất điệu nghệ lành nghề. Cả bọn ma chuẩn bị rất chu đáo. Đứa mài dao, đứa băm hành, đứa lấy chậu chuẩn bị đánh tiết canh. "đúng 2 giờ không sai một khắc ta sẽ làm thịt chúng nó nhá, anh em ơi ?" "đồng ý" Cả bọn ma nhao nhao.
 
Bỗng nhiên chẳng thấy có phản ứng gì cả từ phía bọn người kia, lũ ma đâm ra tò mò. Bọn chúng tiến tới chỗ nhóm của lão Nyy. Cả nhóm đang hì hụi ngồi bên những cái hộp. Chẳng ai nói với ai một câu. Thỉnh thoảng lại có kẻ cười thầm hay nhăn nhó. Căn nhà trở nên yên tĩnh lạ kỳ. Những iếng lách cách từ bọn người cứ phát ra đều đều.
- Chúng bay làm gì thế? - Ma xó lên tiếng
- Yên nào đang chat dở- Lão Qxxx cáu nhặng lên.
- Quái nhỉ ? Chat là cái quái gì mà lạ nhỉ? Ma CASPER thắc mắc
Chúng xà đến bên lão Nyy:
- Lão ! Lão già nhất ta nể lão. Kể mau bọn người đang làm gì ?
- ờ chat mạng. Hay lắm, còn hơn cả ăn thịt người
- ờ ! Dạy ta đi- bọn ma nhớn nhác
- Đây, các bạn cho mỗi con ma một máy nào- lão Nyy đề nghị
Cả bọn vốn sống có tổ chức quen nên đồng ý ngay. Mỗi người dưa cho bọn ma một cái máy tính xách tay với công nghệ hiện đại siêu nhỏ, có thể bỏ túi. Bọn ma lại nhớn nhác:
- Chat thế nào?
- Mới đầu là quay số 1260 - Nyy giải thích
- Yên nào- Nhat-my lên tiếng- quay số đó có mà toi à. Toàn account dùng chùa. Vào số đó bị phát hiện ngay, lại mang tiếng tiếp tay cho ma. Phải quay 8223122 hoặc 8223155 mới không bị phát hiện.
- Chí lý , chí lý- Lão Qxxx sướng run lên vì thuở bé đến giờ mới nghe một chân lý sáng suốt đến thế.
Cả bọn ma online thâu đêm quên cả bữa ăn đêm hấp dẫn kia. Cả bọn người lặng lẽ chuồn lúc nào không hay...
***
Ngôi nhà lại chơ trọi trong gió. Người ta bây giờ không thấy những tiếng hú man rợ nữa mà chỉ còn thấy những tiếng lách cách từng đêm trên quả đồi đầy huyền bí. Hơn thế nữa, người ta còn thấy trên nóc ngôi nhà có một cây thập át, bên ngoài có biển để chữ Amen - ngôi nhà ma ...
 
Chiều ba mươi tết, Quỳ đạp xích lô ra ga, tính đón khách chuyến tàu vét rồi gửi xích lô, bắt xe đò về quê. Vừa vào sân ga, tàu chưa về đã có khách gọi, may thế. Khách là một trung niên mặt rỗ, quần bò áo thun, kính đeo gọng vàng.
- Bưởi! Gã vươn vai dựa hẳn vào thành xe, rút thuốc lá hút. Ông cho con ba chục. Quỳ chưa đi vội. Loại này hoặc công chức, hoặc ma cô, phải ngã giá trước. Gã quay lại, lột kính lừ lừ nhìn Quỳ. Quỳ cảm thấy hai tia sáng mắt gã đang soi từng lỗ chân lông da mặt mình.
- Mày định ăn thịt người ta hay sao mà thét dữ thế.
- Dạ tết nhất đến nơi. Ông gọi hàng nào cũng thế. Âëy là con lấy rẻ năm ngàn.
Thì ra gã chỉ mắng thế thôi chứ không thêm bớt một hai gì. Đường phố ngày tết người ta đi như ăn cướp, như chạy giặc. Quỳ cũng lạng lách như ai, chủ yếu để người ta không coi mình là thằng nhà quê, ngờ nghệch quá. Từ từ thôi! - gã nhắc.
- Văng. Đi tử tế vào, rồi tao trả nốt năm ngàn.
-Văng. Quỳ thả lỏng, thong thả đạp. Xem ra gã cũng tử tế. Từ ngày ra phố làm ăn, cứ ba ông khách thì một ông tử tế. Quỳ thường khoe với vợ như vậy. Vợ Quỳ tròn xoe mắt: “Tử tế mà lắm thế à?”. Đàn bà suốt đời rúc xó bếp biết gì! Vợ Quỳ mặt đã to lại phèn phẹt, nhưng từ cổ trở xuống thứ nào thứ nấy không đáng yêu cũng đáng nể. Ăn uống kham khổ lắm, thế mà cái đít lúc nào cũng vổng lên. Rõ đáng tự hào.
- Ây! Gã khách kêu lên. Quỳ không kịp phanh xe, gã đã nhảy xuống lật đật chạy về phía sau nhặt lên một cái vòng. Quỳ cũng chạy tới. Vàng! Cái vòng vàng. Gã khách mân mê cái vòng vàng, cười toét một cái: “Một cây là cái chắc!”. Gã nhét ngay vào túi và nhảy phốc lên xe.
- Đi nhanh, mày. Tao tăng gấp đôi tiền cho. Quỳ thấy xót quá, nếu mình không nghĩ vẩn vơ thì mình đã thấy trước gã.
- Ông tính một mình lấy luôn cái vòng à? Quỳ hỏi giọng run run.
- Chứ sao, tao thấy trước mày.
- Con thấy trước ông nhưng con không kêu lên. Quỳ cố gắng không để lộ cái giọng run run của mình. Gã khách cười cái “rắc”, nghe như ai vừa bẻ một cành khô.
- Ai bảo mày không chịu phát biểu ý kiến! Quỳ thấy mình đuối lý. Đối đáp với người phố bao giờ Quỳ cũng là thằng đầu đất. Hôm qua có ông khách mắng Quỳ: “Tụi mày đói là vì không biết ngậm miệng ăn tiền”. Quỳ cũng thấy đúng quá. Quỳ cố nặn óc nghĩ được câu gì hòng thuyết phục gã chia cho một ít.
- Tết nhất được lộc trời, ông cho con xin một ít. Dứt lời, mặt Quỳ nóng bừng, khi không lại mở mồm xin xỏ. Gã khách lại quay lại nhìn Quỳ.
- Mày trông thế mà cũng có văn hóa đấy. Được, mày xin thì tao cho. Tao bảy mày ba, được không? Quỳ cười nịnh, cái mặt cười mới thảm hại làm sao:
- Ông cho con bao nhiêu,ơn ông bấy nhiêu. Gã khách lại cười cái “rắc”. Thằng cha cười đến hay, như chó khạc xương.
- Ơn nghĩa! Tụi mày đói mà xài sang quá. Cái vòng này cỡ một cây. Tao trả mày tiền ba chỉ, tao lấy cái vòng - Gã xỉa ra tập tiền sáu trăm ngàn, hất tay phía sau - Cầm lấy! Nhìn sáu tờ một trăm ngàn. Quỳ thấy chân tay mình cóng lại.
- Ông ơi, vàng bây giờ một chỉ gần năm trăm ngàn. Ông cho con ba chỉ mà được có... Gã lập tức đút tiền vào túi.
- Không lấy thì thôi. Vàng rụng vàng rơi, một chỉ hai trăm là quá lắm.
Quỳ định nói: “Thôi, ông cho con xin” nhưng không hiểu sao lại kêu lên:
- Một chỉ hai trăm thì thiệt con quá!
Gã khách nhảy phắt xuống, chậm rãi tiến sát chỗ Quỳ:
- Mày được voi đòi tiên. Đã bảo vàng rụng vàng rơi giá chỉ có thế thôi. Mày thích thì tao đưa tiền cho, không thích thì đưa tiền cho tao. Cũng giá đó.
Chưa bao giờ Quỳ tính nhẩm nhanh như lúc này. Một chỉ lãi ba trăm ngàn. Bảy chỉ lãi hai triệu mốt. Đạp xích lô cả năm trời cũng thế thôi. Gã khách moi cái vòng vàng ra, đưa cho Quỳ.
- Đây, mày xem có đúng một cây không. Hay bảo tao nói phét? Quỳ cầm cái vòng xoay xoay. Một chỉ lãi ba trăm ngàn. Bảy chỉ lãi hai triệu mốt. Cộng với ba chỉ phần mình nữa, bán vứt đi cũng được 4 triệu bạc. Chợt gã khách đập nhẹ vào tay Quỳ. Quỳ giật mình ngước lên. Một cô gái đang hớt hải chạy tới. Quỳ vừa kịp đút cái vòng vào túi quần.
- Các bác được cái vòng của cháu phải không ạ? Cô gái mặt non choẹt nhưng son phấn kỹ lưỡng lắm. Áo hở rốn, quần bò bó căng, cố tình làm nổi bật cái phần cần giấu đi. Xem “phong độ” biết ngay loại ăn chơi ngoại hạng.
- Cái vòng của mẹ cháu. Các bác được thì cho cháu xin. Không mẹ giết cháu.
- Vòng vèo nào ở đây. Gã khách trợn mắt quát. Không dưng lại túm áo người ta mà hỏi. Biến đi!
 
Không mà... Người ta chỉ cho cháu...
- Biến! Gã khách đẩy cô gái ngã ngồi. Cô gái lồm cồm bò dậy vừa đi vừa nấc lên. Tự dưng Quỳ muốn gọi cô gái lại quá... Cách nào thì mày giải quyết đi. Nó đi gọi công an đấy.
Quỳ sực tỉnh, vội vàng lôi trong lưng quần ra cái bọc. Gã khách giật lấy. Bao nhiêu đây?
- Một triệu ba năm chục. Tao thiệt đơn thiệt kép. Gã khách thở ra. Thôi mày đi mau lên!
Quỳ cắm cổ đạp xe chạy vù vù. Thỉnh thoảng phanh kít lại, đập tay vào túi quần: Vẫn còn! Cái vòng vẫn còn! Lại đạp xe chạy vù vù. Còi ô tô kêu cái “roét!”, mồ hôi Quỳ túa ra, lạnh toát. Gớm, không biết cách nào Quỳ đã vọt ra tận Hồ Tây. Sờ túi, cái vòng vẫn còn, Quỳ cười nhăn một mình. Bây giờ phải quay trở lại, về Hàng Đào bán mới có giá. Ở đấy Quỳ có quen một chị hàng vàng, năm ngoái Quỳ đưa đón con chị đi học. Chị này giàu nứt đố đổ vách lại tử tế, chắc chẳng thèm ăn bớt của Quỳ. Một cây gần năm triệu, có cân non đi đằng giời cũng cầm chắc bốn triệu. Bốn triệu! Quỳ chưa bao giờ cầm số tiền lớn như thế. Vợ Quỳ cũng thế. Thị sẽ thế nào khi mình giơ bọc tiền ra nhỉ? Thị sẽ không dám cầm, ngờ vực hỏi: “Ai cho mà nhiều thế?”. Ai cho” - Quỳ bế xốc thị lên giường - “Tưởng tớ không kiếm được ngần ấy tiền à?”. “Ây, ây... Con đang chơi ngoài sân”. “Gọi nó vào, đem cái đĩa bảo đi mua nước mắm”. Thị đẩy Quỳ ra, lườm: “Thì tắm rửa đi đã. Được mấy hơi mà hoắng lên thế”. Ừ thì tắm. Tắm xong tớ sẽ nghiền nát cái đít tự hào của mình ra, xem có còn khinh tớ nữa không. Xong rồi, thể nào thị cũng hỏi đi hỏi lại: “Ai cho đấy, nói thực xem nào? Hay là có con đĩ nào nó cho?”. Chà thích quá rồi, còn ra vẻ! Quỳ kể Quỳ gặp vận may như thế nào, cái ông khách tử tế ra sao. Thị lại tròn mắt kêu lên: “Tử tế mà lắm thế à?”. Tử tế mà lắm thế à. Rõ lũ đàn bà đần độn ngu si. Quỳ vừa nghĩ ra câu thơ. Quỳ nhẩm đi nhẩm lại cho thuộc, mai về sẽ đọc cho thị nghe. Thị sẽ ré lên bóp cho Quỳ một cái. Thị bóp thì đau lắm nhưng mà thích.
 
Chị hàng vàng tung nhẹ cái vòng mấy lần rồi ngước lên nhìn Quỳ. Có khi cái này không phải vàng. Nhẹ lắm.
Quỳ cười to, vui vẻ nói:
- Thì chị cứ thử đi. Trông điệu bộ đi tìm đèn khò không được nhiệt tình cho lắm của chị, Quỳ đã thấy lo lo. Tuy vậy, Quỳ vẫn nói cười như không.
- Vàng đang lên phải không chị?
- Ừ. Bốn chín hai.
- Em bán bây giờ là được giá, chị nhỉ?
- Ừ. Đèn khò bật lửa. Ở cái nơi tia lửa liếm vào, một thứ nước rỉ xanh tứa ra. Mắt Quỳ tối sầm.
- Đồng em ạ. Mạ vàng thôi.
Một khối nước đá từ trên đỉnh đầu đang tràn xuống chân. Quỳ đứng trơ, nước đái từ hai ống quần túa ra, đọng thành vũng trên nền đá hoa.
Quỳ rơi phịch xuống ghế. Và kể. Chị không hỏi, Quỳ cũng kể. Không phải, Quỳ đang lảm nhảm như một thằng điên.
- Vàng giả sao nó dám đưa tiền cho em? Em ơi, có khi đó cũng là tiền giả. Quỳ nuốt nước bọt, ngước lên ngẩn ngơ nói:
- Tại em tham quá. Trong tích tắc, nước mắt Quỳ dàn dụa. Chị đưa cho Quỳ cốc nước lọc, khẽ thở dài.
- Em cũng đừng dằn vặt nữa. Tham là bệnh tật của giống người. Người ta trước sau rồi cũng mắc phải, chẳng ai nói phách nói tướng được. Thôi, coi như mình vừa bị mất cắp, bị trấn lột, còn mấy tiếng nữa là hết năm, ráng kiếm vài chục, về quê còn có chút gì đưa vợ. Quỳ đạp xe ra ga, về bến xe phía Nam, vòng vèo ra tận Phà Đen, lên chợ Bưởi, cũng chẳng có ma nào gọi. Phố phường vẫn đầy người ra đấy nhưng hôm nay là ngày vui của người ta, ngày chết tiệt của Quỳ. Đêm xuống rất nhanh, gió hun hút thổi. Quỳ không rét nhưng mà đói. Đói lắm. Phố xá tịnh không ai còn mua bán gì. Khổ nỗi đường phố giờ này lại ngậy mùi xôi thịt, rúc vào đâu cũng ngậy mùi, càng hít chân tay càng rời rã. Quỳ dừng xe một góc phố, tính làm một giấc lấy sức rồi gửi xe cuốc bộ về quê. Gần 40 cây số nhưng đi mãi rồi cũng đến, cũng không hết tết đâu mà lo.
Không ngủ được, nhạc nhéo đinh tai nhức óc. Nhà sát đường chưng đèn kết hoa như đám cưới, nhưng nhìn vào thời trống hoác, chỉ một đôi trai gái đang ôm nhau nhảy. Chúng nhảy như động rồ, ngoắc của nợ vào nhau chứ đâu phải là nhảy. Bỗng Quỳ đứng phắt dậy. Gã khách! Thằng quần bò áo thun! Thằng mặt rỗ! Con kia đích thị là đứa đến xin vòng. Tiên sư cha quân mất dạy! Quỳ chực xông vào nhưng hú hồn đã khựng lại được trước cổng. Đêm ba mươi vào làm ầm ĩ nhà người ta thì cầm chắc tiền mất tật mang. Cứ đứng đây đợi. Thằng kia nếu là chủ thế nào cũng tiễn con kia, nếu là khách thì quá lắm đến giao thừa cũng phải cút. Còn hai tiếng nữa đến giao thừa chứ mấy. Quỳ ngồi xổm, tựa lưng thành cổng, nghiến răng chờ đợi. Con chó bẹc-giê thấy có người lạ liền đủng đỉnh đi ra, đưa mắt lừ đừ nhìn Quỳ, gừ một tiếng, ra cái điều: “Nhìn cái gì mà nhìn”. Chó nào chủ nấy. Chó nhà quê nghe tiếng người cuối xóm, đầu xóm đã sủa nhặng lên, ra vẻ hung hăng lắm, nhưng người ta dậm chân một cái đã cụp đuôi mất dạng ngay tắp lự. Con bẹc-giê đến sát cổng, nằm bẹp xuống, trễ nải lim dim mắt nhìn Quỳ. Rõ nó coi Quỳ bằng nửa con mắt. Quỳ cười khẩy, nghĩ bụng: “Mầy là cái đéo gì. Đồ liếm cứt nhà giàu”. Nó lại gừ một tiếng rồi ưỡn ngực vươn vai, đủng đỉnh đi vào, ra cái điều: “Chẳng dư hơi đôi co với lũ chúng mày”. Thế mới tức. Tự nhiên Quỳ uất lên.
“Ba-ái!”. “Xí ố ghẻ-ên!”. Rồi! Thằng kia ra rồi. Quỳ vụt dậy. Gã vừa ra khỏi cổng, Quỳ đã túm chặt lấy tay gã.
- Ông! Đây là cái vòng giả! Ông cho con xin lại tiền.
Gã từ tốn nhìn Quỳ, không lộ một chút gì tức giận hay sợ hãi. Tuồng như gã đã biết trước thế nào cũng gặp Quỳ, thế nào cũng nghe Quỳ nói thế. Thì buông ra đã nào. Tao có chạy đi đâu mà sợ.
- Con đã thử rồi. Đây là cái vòng đồng mạ vàng.
Quỳ đưa cái vòng cho gã. Gã cầm cái vòng ngắm nghía. Giả à?
- V-ăng. Ừ, nếu giả thì tao đưa lại tiền cho. Coi như tao không được cái gì.
Gã nhảy lên xích lô, vui vẻ nói:
- Đi! Đi thử một lần nữa cho chắc. Rồi mày chở tao về Bưởi, tao lấy tiền đưa mày. Mau lên, giao thừa sắp đến rồi.
Quỳ định nói: “Thôi, không thử nữa, ông cho con xin lại tiền”, nhưng lại nghĩ bụng: “Thử thì thử, sợ gì! Lần này có ông nội mày cũng không lừa được ông nữa đâu, con ạ”.
Gã bảo Quỳ dừng lại trước cửa hàng vàng cách hàng vàng quen của Quỳ có mấy trăm mét. Chủ nhà đã đóng cửa nhưng thấy gã thì vui vẻ lắm, nhanh nhẩu tìm đèn khò ra xịt. Ủa, nước vàng chảy ra tươi rói! Thế là thế nào nhỉ?
 
Mày thử kiểu gì lạ thế? Làm mất thời gian tao! - Gã vừa đi ra cửa vừa càu nhàu và nhét cái vòng vào túi.
Quỳ lẽo đẽo theo sau, nói giọng thiếu tự tin hẳn:
- Con thử nhà người quen hẳn hoi.
Lập tức gã quay ngoắt lại.
- Đâu? Nhà người quen mày ở đâu?
- Đó kìa! Có một đoạn.
Gã rút cái vòng ra đưa cho Quỳ:
- Cho mày thử lại. Không bảo tao hợp đồng nhà người quen lừa mày. Đi mau lên, Quỳ co cẳng chạy. Không kịp bấm chuông, cứ thế lao thẳng vào nhà.
Chị hàng vàng cầm cái vòng lật đi lật lại. Đâu? Vết thử của người ta đâu? Mỗi vết thử của chị đây này.
- Vừa thử xong mà. - Quỳ thở hắt ra.
Chị hàng vàng bỗng tái mặt kêu lên:
- Thôi rồi! Nó thử cái vòng thật của nó. - Chị đẩy Quỳ, hối hả giục. - Ra đi! Khéo không cái xích lô của em...
Quỳ lao như tên bắn. Ối cha mẹ ơi, họa vô đơn chí! Cái xích lô lấy lại của người ta, còn chưa trả hết tiền. Quỳ ngã sấp xuống mặt đường, mãi sau gượng ngước lên đã thấy chị hàng vàng ngồi trước mặt. Chị đỡ Quỳ dậy, nói như rên:
- Về quê mà làm ăn em ạ. Ỉa vào phố với phéo. Quỳ biết mình khóc nhưng không đừng được.
- Chị ơi, bao giờ em mới hết ngu?
Chị nhét năm mươi ngàn vào túi Quỳ, giọng nghèn nghẹn:
- Em đừng mơ tưởng viển vông nữa. Mình hết ngu thì người ta mưu mẹo lên gấp năm gấp mười. Cũng coi như mình ngu như cũ. Thôi, về đi em.
Không! Không về! Phải đến nhà con kia! Nó cùng duộc với thằng mặt rỗ. Không lấy được tiền thu được của thì cũng xé tan xác chúng nó ra.
Cô gái vẫn thức, đang ngồi ngắm nghía, nắn nắn ngực mình
- Cô gì ơi! Ra tôi bảo! - Quỳ nói như quát. Cô gái thủng thẳng đi ra, vênh mặt lên, hất hàm hỏi:
- Gì thế? Tự nhiên Quỳ tịt ngỏm, không biết nên tiếp tục thế nào.
- Cô mất cái vòng phải không? - Phải. Đây là cái vòng giả! Cô lừa tôi!
Cô gái cầm lấy cái vòng, bất ngờ ném thẳng vào trán Quỳ.
- Đồ ăn cướp! Đây mà cái vòng của tao à?
Cô gái nhào tới túm chặt lấy cổ áo Quỳ, kêu to:
- Mẹ ơi! Đây rồi! Thằng ăn cắp đây rồi! Quỳ há hốc mồm, không biết nên làm gì, nói năng thế nào.
Trong nhà đi ra một người đàn bà chừng năm mươi tuổi, mặt mày xem ra phúc hậu lắm.
- Thằng này giật cái vòng của con. Bắt được, nó lại trả lại cái vòng giả.
- Không phải! Cô lừa tôi! - Quỳ vặc lại và giật tay cô gái.
- Thôi, thôi. Đừng ồn. Nhà chị đang có khách. Có gì vô nhà nói. Chuyện đâu có đó em ạ.
Bà cất tiếng dịu dàng, nghe êm như tiếng Phật bà từ trời xanh rót vào tai Quỳ. Bà tự tay mở cổng, nhẹ nhàng kéo Quỳ vào.
Vào thì vào! Cây ngay không sợ chết đứng. Chừng nào còn chưa lấy được tiền và cái xích lô thời ông còn nằm ỳ ra đấy, chúng mày không cho ông ăn thời ông ỉa ra cho mà dọn.
Bà nhẹ ấn vai Quỳ xuống ghế bành. Cái ghế to đến nỗi Quỳ thấy mình như đang tụt xuống một cái hố. Bà xăng xái đi lấy nước, rất lâu sau cầm cốc nước đi ra ấn tận tay Quỳ, ân cần nói:
- Con bé nhà chị nó cũng hư lắm. Em uống nước đi, rồi kể chị nghe đầu đuôi thế nào. Quỳ tu một hơi, quẹt mồm, nói:
- Chiều nay con đi chở khách... Thì uống nước đi đã nào. Chuyện đâu có đó mà em. Bà tươi cười cắt ngang lời Quỳ. Vô lẽ bà này lại đẻ ra con khốn nạn kia? Quỳ uống thêm ngụm nước, đang nghĩ xem mình nên bắt đầu thế nào cho vừa gọn vừa rõ ràng thì một chiếc xe Jeep đỗ xịch trước cổng. Ba người đàn ông bước vào. Hai người trẻ, một người đã đứng tuổi có cái mũi cà chua. Hai người trẻ chẳng nói chẳng rằng ập đến bẻ quặt tay Quỳ.
- Ô, sao lại thế này? - Quỳ kêu lên.
- Câm mồm! - Người mũi cà chua quát khẽ. - Lôi cổ nó ra ngoài! Quỳ ra sức trì lại nhưng không được. Tuyệt vọng, Quỳ quay mặt về phía bà chủ kêu to:
- Bà! Bà ném cho Quỳ một nụ cười khinh bỉ rồi quay lại người mũi cà chua, thở ra:
- Tết nhất... phiền các chú quá.
Người mũi cà chua cụp mắt xuống, cố gắng lễ phép với bộ ngực xốp lúc nào cũng muốn nhào ra khỏi cổ áo của bà.
- Dạ có chi... Anh đâu chị?
Bà nhỏ giọng: Anh có khách.
Người mũi cà chua liền co vai, rụt cổ, nói khẽ:
- Thôi, em chào chị, em về đây. Chị cứ yên tâm đi, thế nào em cũng lấy lại cái vòng cho cháu.
- Thôi, khỏi phiền các chú đến thế.
Bà nói và tiễn người mũi cà chua ra cổng.
Xe jeep biến khỏi cổng. Bà quay lại lườm cô gái nãy giờ vẫn ườn ra trên đi-văng.
- Cái vòng đâu rồi, con chó?
Cô gái cười rúc rích. Mẹ cũng quá lắm. Mắng nhà quê xơi xới. Cứ làm như mẹ không phải ở quê ra. Bà ngồi xuống, hực ra một tiếng cười khô khốc.
- Là tao nói thế, chứ không có chúng, bố con mày bốc cứt mà ăn. Nói rồi bà vươn vai ngáp dài.
- Khách với khứa. Giờ này còn ngồi thầm thầm thì thì.
Bà uể oải lên cầu thang. Lát sau đã nghe tiếng bà ngọt như tiếng tơ đồng:
- Âëy không. Về là thế nào. Anh đến giờ này là lộc trời ban cho nhà em đó.
Cô gái ngửa cổ cười dài, thò tay nhổ một nhúm lông ném lên phía cầu thang.
Xe Jeep chở Quỳ đến ngã tư thì dừng lại. Người mũi cà chua tự tay cởi trói cho Quỳ.
- Thôi, cho về ăn tết với vợ con.
Quỳ chẳng thấy vui sướng gì, cứ ngồi lì không chịu xuống xe. Ngồi tù còn đỡ nhục hơn về nhà kể cho vợ chuyện này.
- Con không về.
- Sao?
- Chúng nó là bọn lừa đảo.
Người mũi cà chua cười phì:
- Mày bây giờ mới biết à?
Rồi anh vỗ vai Quỳ, dịu giọng:
- Về đi em, giao thừa rồi đó.
- Nhưng, chúng nó là bọn lừa đảo! - gần như Quỳ rú lên.
- Bé mồm thôi! Mày còn nói nữa, tao lại bắt mày bây giờ!
Xe Jeep biến mất, Quỳ đứng trơ giữa ngã tư đường. Bốn ngã đường vắng hoe. Không một bóng người, cả bọn mất dạy lẫn người tử tế.

Bắc Linh Đàm 11-2001
 
1. MỜ

Hoàng ra Bắc, muốn thăm lại những nơi ngày xưa Hoàng đã sống. Căn nhà số 13B phố Hàng Nồi, Nam Định; cùng với lòng tiếc nhớ Cô Bé Áo Len Đỏ.

Di cư vào Nam năm 1954, hơn năm sau, Hoàng mới tình cờ biết cô áo len đỏ ấy là cháu của người quen với gia đình Hoàng; cô tên là Trần Thu Hà, quê ở Hải Hậu, Nam Định. Rồi năm 1978, sau khi ra khỏi tù cải tạo, Hoàng lại được biết thêm, cô Trần Thu Hà có một thời làm giáo viên ở Hà Nội. Những năm Mỹ ném bom Bắc Việt Nam, cô giáo Hà phải đưa học trò đi sơ tán gần núi Thiên Thai, thuộc vùng Hà Bắc.



Còn bây giờ không người nào cho được tin, cô đang ở đâu.



Chẳng ai, ngay cả cô giáo Trần Thu Hà, cũng không ngờ được rằng, có một cặp mắt đã theo cô, trong tấm áo len đỏ, giữa mùa đông mù sương, năm 1953. Cặp mắt đó giờ đây vẫn mong ngóng, như ngày xưa thường tìm về cuối phố, mừng thấy được một mầu áo đỏ, với mái tóc uốn quăn.



Nhưng khi đứng trước căn nhà số 42 phố Hàng Vôi, Hà Nội; Hoàng bỏ tuột rơi ý muốn trở về thăm lại Nam Định.



Chẳng còn gì nữa! Tất cả không giống như Hoàng vẫn nhớ về. Căn nhà trước mặt hoàn toàn khác; nguyên dẫy phố cũng đổi hẳn, lẫn trong một mầu lạ, vì hàng cây sấu suốt dọc đường đã biến mất. Ngay cả tên phố với lòng đường trải nhựa, dù chẳng đổi, cũng vẫn rất xa với những gì đậm nét trong lòng Hoàng, từ bao lâu nay. Phố Hàng Vôi ngày xưa dài tuột, giờ ngắn tũn; lòng đường rộng thênh, nay Hoàng chỉ xoạc có vài bước chân đã sang đến lề bên kia.



"Thưa bác, ở lâu nhất tại đây chỉ có gia đình chúng cháu. Trước cả đời ông cháu cơ! Nhưng chúng cháu chẳng biết gì. Ngay cái năm tiếp quản 1954, tít tìn tịt, cũng là những chuyện cháu chỉ được nghe kể lại thôi ạ."



Anh con trai đứng trước cửa căn nhà đối diện nói như vậy, sau khi chụp giúp Hoàng một tấm hình.



Vậy thì về lại Nam Định làm gì nữa. Nghe nói ngay cả tên phố Hàng Nồi bây giờ cũng đã được đổi thành Hàng Đồng rồi. Có về thăm thì dấu xưa cũng chẳng còn. Tấm phông cũ của những phập phồng đầu tiên sẽ biến mất, sẽ làm mờ đi bước chân luống cuống, non dại của một Cậu học trò Tiểu học, đầu cạo trọc, mặc áo bông...



Hình ảnh ấy, mỗi khi nhớ lại, bao giờ cũng đến với Hoàng như người đang mơ, lòng lẫn vào thời xa vời...



Mùa đông năm 1953, tại thành phố Nam Định, ngoài Bắc Việt.



Khói sương mù đục, nhuốm mầu u sầu vào những chiều mùa đông lạnh lẽo, từ từ tan loãng. Sắc hồng ấm áp của những xao động đầu đời trong lòng Cậu học trò, dần dần tràn ngập không gian. Ánh sáng của màn ảnh cứ tuần tự thay đổi, xoay vần từ khói sương mờ nhạt sang sắc hồng ấm áp. Cảnh buồn thì mờ tối, ảm đạm. Lòng vui thì sáng hồng, rực rỡ.



Năm 1953, lính Tây kéo về Nam Định nhiều lắm. Tây trắng, Tây đen, Tây rạch mặt Sénégal, Tây ngăm ngăm Ma-rốc-keng. Tây lổn nhổn khắp nơi. Tây sỗ sàng cùng đám me Tây, nguyên là phụ nữ Việt trôi nổi từ những hoàn cảnh khốn cùng, của một thời đất nước bị Thực dân Pháp xâm chiếm.



Súng ống, xe cộ kềnh càng, lạ mắt, lôi kéo trẻ con ồn ào, ùa theo, nhìn ngắm, chỉ trỏ. Xe nào cũng rầm rộ! Súng to ơi là to!



Phố xá bụi bậm, lòng đường lồi lõm. Dân tỉnh Nam ngỡ ngàng, dáo dác, sợ sệt. Họ ngỡ ngàng theo vận nước, dáo dác cho phận nhà, và sợ sệt trước nhiều cảnh lạ. Lạ, xẩy ra ngay trước mắt. Lạ, không thể có được trong đầu, cho dù cố mà tưởng ra.



Sinh hoạt tại thành phố đảo lộn với nhiều chuyện bất tường, diễn ra hàng ngày. Trường học phải đóng cửa, lấy chỗ cho Tây đóng quân. Lớp học phải phân tán, mượn chùa làm trường. Tiểu học Bến Ngự, còn gọi là trường Ca-rô, nơi Cậu học trò đang học lớp nhì, cũng chung số phận. Buổi sáng Cậu phải tới học tại ngôi chùa trên phố Khách; con phố của người Tầu, hai bên toàn tiệm buôn, lúc nào cũng chờ dịp kiếm bạc.



Nhà Cậu học trò, số 13B phố Hàng Nồi; xế cửa cũng có ngôi chùa nhỏ, được mượn làm nơi cho bọn học trò lớp dưới. Chiều chiều có Cô bé áo len đỏ, tóc uốn phi-dê, tới đón em học ở chùa này về. Cô thường tới sớm và họp với các cô khác, cũng tới đón em học ở chùa, cùng vui chơi với nhau. Các cô vẽ ô, nhẩy cò cò, ngay vỉa hè, chỗ cửa sổ nhà Cậu trông ra.



Chẳng biết từ hôm nào, Cậu học trò bé con chú ý tới Cô bé nhỏ, mặc áo len đỏ, tóc uốn phi-dê. Chiều nào Cậu cũng chờ Cô tới. Hôm Cô tới muộn, Cậu mong. Bữa Cô tới sớm, Cậu mừng. Cậu biết rõ giờ giấc của Cô, nhưng bữa nào Cậu cũng thấp tha thấp thỏm, đi ra đi vào, bồn chồn ngóng mong. Từ cửa nhà, Cậu phóng mắt về cuối phố, chỗ ngã ba rẽ sang phố Hàng Cau. Mầu áo đỏ sẽ đến từ phía ấy; mái tóc quăn không thể lẫn với ai được.



Đó là những ngày ấm áp nhất của Cậu giữa mùa đông thời nhỏ dại. Đó cũng là những ngày đầu tiên trong đời, Cậu mon men, dò dẫm, lần vào vùng hoang lạ, cuốn lôi. Những bước chân non theo lời mời gọi từ chốn âm u. Mới mẻ. Lạ lùng. Rạo rực. Say sưa. Hấp hút. Toàn thân Cậu thấm mật ngọt của lúa non. Băn khoăn. Ngại ngùng. Vội vã. Hoảng sợ. Lo âu. Đầu óc Cậu hình như chợt ăn năn với tội lỗi cội nguồn, như người đời vẫn bảo.



Chiều chiều Cậu vẩn vơ bên cửa sổ, kín đáo, mắt liếc trộm qua cánh cửa chớp, được cố tình khép hờ. Các cô vô tình, không biết đang bị rình, vẫn ồn ào ganh đua trong cuộc chơi. Một cô lò cò nhẩy, cẩn thận nhắm từng bước chân chim. Cô khác sắp tới lượt được vào thay thế, dập dình chờ, về phe với cả bọn. Các cô xét nét theo vạch kẻ của từng ô...



Những khi áo len đỏ chợt lấp kín khe cửa, Cô bé tóc uốn phi-dê gần ngay bên cạnh! Cậu rộn ràng trong lòng, phập phồng theo hơi thở. Tuồng như có dòng điện chạy dọc theo thân xác từ đầu xuống tới chân. Tay Cậu lóng ngóng. Chân Cậu bủn rủn. Và làn sóng chợt dập dình trồi lên, làm Cậu choáng ngộp. Hình như có muôn vàn bong bóng vỡ tan trong lồng ngực. Mê mẩn thoát ra ngoài, qua trái tim, thấm khắp châu thân. Cậu mềm người, gờn gợn, và gai gai. Cậu hoa mắt trong cảnh vật xoay nghiêng, đảo lộn, bập bùng tối sáng.



Cảm giác mân muội, thầm kín đầu đời này là một quý báu.



Linh thiêng lắm!



Không thể chia xẻ cùng ai được!



Hình như Cậu đang đi vào cõi chết với hơi thở ấm áp, và với thịt da rạo rực của người đang sống.



Rõ ràng Cậu vẫn còn sống.



Cái lạnh mùa đông không len qua được tấm áo bông. Nhưng buốt giá cù vào cần cổ, sau gáy. Cậu quay đầu lại, lao đao ánh mắt, lạc lẫn trong sinh hoạt của cả nhà.



"Anh, các chị và mẹ quanh quẩn ngay đây!"



Lý trí với thực tại chợt trở về như một chớp nhoáng, quét nhanh mọi bề bộn trong lòng. Nguy lắm! Cậu tỉnh hồn, phập phồng, bẽn lẽn ngó quanh. Lo quá! Cậu bối rối, ngại ngùng, ăn năn cúi xuống.



Hoá ra rung động là cái tội!



Cánh bướm vẫy vời là lời mời gọi của xấu xa!



Vết thương đầu của tình yêu không phải vì ngang trái của cuộc tình. Vết thương của con tim non dại chính là do bề dầy của cuộc sống, đã nhận chìm mọi sôi động tình cảm. Buồng phổi và dưỡng khí cần thiết cho đời sống hoang dã đã bị người đời ngồi bệp lên, đè dí xuống. Động tác áp chế này không biết vì sao mà có? Bắt đầu từ bao giờ?



Phải xô mạnh sức nặng của cuộc sống đen đúa đó đi. Nhiều người muốn thế. Nhưng mấy ai làm được thế?



Thế là vụng trộm được bầy ra, thay thế cho đàng hoàng, ngay thẳng.



Và một chiều Cậu dám bạo gan đi theo, trên đường hai chị em về nhà.



Áo len đỏ dắt tay cậu em nhỏ bên kia vỉa hè; Cậu giữ một khoảng cách vừa đủ, dáo dác đi theo bên này. Bộ ba im lặng, quẹo phải ở phố Hàng Cau, hướng về phố Paul Bert. Cậu ngấp nghé, chỉ sợ bị lộ, lẽo đẽo theo suốt con phố Paul Bert sầm uất, xương sống của thành phố Nam Định, tới tận chợ Rồng. Cậu e người hàng phố hiểu được lòng riêng tư của cậu, và thẹn lắm nếu Áo len đỏ hay.



Khi hai chị em vượt qua chợ Rồng, ra ngoại ô, với những vườn rau mờ mờ, trong hơi nước là là, thì Cậu chùn bước...



Vắng quá! Cả một vùng mênh mông, im ắng chỉ có ba người.



Tối rồi! Khoảng cách giữa Cậu và hai chị em chìm lẫn trong màn sương đùng đục.



Hai chị em vẫn đều bước, xa dần vào miền phẳng lặng, nhoà nhoẹt trong không gian nhờn nhợt, nhập nhoè của buổi chiều muộn, cuối đông.



Lạnh lẽo từ đâu ào trở lại. Cậu rùng mình, quay đầu, co giò chạy...



Sợ hãi chợt khởi dậy. Sợ hãi không từ câu chuyện liễu trai của Bồ Tùng Linh, Cậu được nghe người lớn kể lại. Sợ hãi đến từ những vụ việc xẩy ra hàng ngày, ngay đây. "Tây kìa! Chạy đi chúng mày ơi!"



Tây trắng, răng nhờn nhợt nhe.



Tây đen, răng trắng nhởn, môi dầy.



Tây rạch mặt Sénégal, mặt đen sì như củ ấu.



Tây ngăm ngăm Ma-Rốc-Keng, mắt đục lờ của con cá ươn.



Bé gái trần truồng bị bắn chết hồi đêm, xác vứt nằm tênh hênh ngay hè phố...



Sợ hãi ập vào tim, từ con phố Cậu đang chạy.
 
Status
Không mở trả lời sau này.
Back
Top