• Hiện tại trang web đang trong quá hình chuyển đổi và tái cấu trúc lại chuyên mục nên có thể một vài chức năng chưa hoàn thiện, một số bài viết và chuyên mục sẽ thay đổi. Nếu sự thay đổi này làm bạn phiền lòng, mong bạn thông cảm. Chúng tôi luôn hoan nghênh mọi ý kiến đóng góp để chúng tôi hoàn thiện và phát triển. Cảm ơn

NHỮNG CÂU CHUYỆN VỀ MA QUỶ!!!

Hồn Ma Trong Biệt Thự 2


Tôi bắt đầu lên tiếng. Tôi không nhớ lúc đó tôi nói những gì mà chỉ biết đại khái là những lời giận dữ, sỉ vả Tân vì cái trò ma quái rẻ tiền của anh, vì việc dàn cảnh để biến tôi thành một trò hề. Tôi không biết tôi đã nói trong bao lâu mà chỉ nhớ rằng lúc đó tôi chợt cảm thấy phục tài hùng biện của chính mình.
Với bàn tay máu còn đang nhỏ giọt, với mái tóc đẫm mồ hôi phủ xuống khuôn mặt giận dữ đến cực độ, lúc đó coi tôi chắc không giống ai. Trong khi đó, Tân thu mình ở đầu giường, có lẽ giống như tôi khi vừa nhìn thấy “hồn ma”. Anh ngồi run rẩy không nói được một lời tuy một hai lần tôi thấy anh liếm môi như toan lên tiếng. Hình như Tân đang bận suy nghĩ cái gì vì hai tay anh đưa lên đưa xuống, đôi môi anh thỉnh thoảng lại mấp máy nhưng không một âm thanh nào thoát ra.
Đột nhiên có tiếng chân chạy huỳnh hụych bên ngoài hành lang, rồi vợ Tân lao vào, mặt mày tái ngắt, run lẩy bẩy:
- Có chuyện gì đó? Trời ơi! Chắc nó lại hiện lên nữa phải không?
Thấy Tân đang ngồi co rúm, run rẩy trên đầu giường, nàng chạy tới ngồi sát bên chồng và cả hai cùng nhìn tôi chờ đợi.
Tôi cho nàng biết những gì xẩy ra trong phòng ngủ của tôi. Tôi nói rằng tôi đã làm hỏng việc dàn cảnh trò ma quái láo lếu của họ để biến tôi thành trò cười...
Trong khi tôi nói, Tân có vẻ ngơ ngác, làm như không hiểu tôi đang nói gì. Thấy thế, tôi bèn gằn giọng:
- Tôi đã đập nát món đồ chơi quái gở của ông bà thành hàng trăm mảnh rồi! Về Sài Gòn tôi sẽ cho tất cả bạn bè hay cái trò chơi hèn hạ này.
Rồi tôi ném miếng xương trên tay xuống sát cái chân giường gần chỗ hai vợ chồng Tân đang ngồi:
- Đó, hãy giữ lại món quà kỷ niệm trò chơi đốn mạt của ông bà đi!
Tân nhìn thấy mảnh xương, và trong một thoáng, anh khiến tôi sợ hãi. Anh la hét thất thanh như con heo bị thọc huyết. Anh la hét, la hét tới độ vợ anh, có lẽ vừa sợ hãi vừa kinh ngạc như tôi, ôm lấy anh vỗ về như vỗ về một đứa trẻ.
Rồi Tân xô vợ ra, bước xuống đất, vừa la hét vừa ngồi thụp xuống, run rẩy lượm mảnh xương dính đầy máu lên.
Khi anh đứng lên, tình hình chợt biến đổi, mở đầu cho sự hãi hùng thực sự đêm hôm đó.
Cầm mảnh xương trong tay, Tân đột nhiên nín bặt, có vẻ như đang lắng nghe một cái gì. Rồi anh lẩm bẩm “tới giờ rồi, tới giờ rồi...” trước khi té xuống, đập đầu vào cạnh giường chảy máu. Mảnh xương trong tay anh văng vào một góc phòng.
Không suy nghĩ, tôi bước tới nâng Tân dậy. Mặt mũi anh bơ phờ, hốc hác và đầy máu. Tuy nhiên anh vẫn lẩm bẩm: “Nghe kìa... nghe kìa...”. Vợ Tân và tôi nhìn nhau và lắng tai nghe.
Khoảng mười giây sau, tôi nghĩ rằng tôi nghe thấy một cái gì. Tôi không chắc lắm nhưng tôi không thể lầm được. Hình như có tiếng chân di chuyển thật êm, thật nhẹ ngoài hành lang. Rồi những bước chân nghe rõ hơn trên sàn gỗ, đang tiến về phía chúng tôi.
Tân bước tới chỗ vợ đang ngồi run rẩy trên giường mặt mày tái ngắt, kéo mặt vợ úp vào vai anh. Rồi Tân tắt đèn, kéo vợ xuống và cả hai nằm úp mặt lên một cái gối trên giường như cố tránh né hoặc không muốn nhìn thấy một cái gì.
Bây giờ chỉ còn lại mình tôi đối diện với cánh cửa mở toang và tiếng chân mỗi lúc một gần. Tôi đưa tay vỗ vai vợ Tân để tìm đồng minh nhưng người đàn bà không phản ứng. Sự sợ hãi, sự hèn nhát của họ có lẽ đã kéo tôi về phe với họ. Hai chân tôi tự nhiên khụyu xuống và tôi thấy mình cũng úp mặt xuống giường.
Cả ba chúng tôi nằm yên hầu như nín thở, lắng nghe.
Bây giờ tiếng chân đã dừng lại ngay trước cửa phòng. Tôi cố gắng ngước đầu lên nhưng thần kinh tôi hình như tê liệt khiến tôi không còn điều khiển nổi một phần thân thể của mình nữa!
Rồi chúng tôi nghe như có tiếng áo quần xào xạc, tiếng thở xì xì và biết rõ “nó” đã bước vào phòng. Tôi cố gắng ngóc đầu lên nhưng hình như bị một sức mạnh vô hình đè xuống. Tôi thầm sỉ vả sự hèn nhát của mình trong khi tai vẫn lắng nghe tiếng “nó” di chuyển trong phòng. Rồi những bước chân dừng lại ở góc phòng nơi có mảnh xương sọ mà Tân vừa đánh rơi.
Rồi tôi nghe thấy tiếng bước chân hòa lẫn những tiếng loạt xoạt tiến về phía cửa phòng, bước ra ngoài và từ từ đi xa.
Trong một phút sự can đảm đột nhiên trở lại, tôi đứng bật dậy lao mình ra cửa nhìn theo về cuối hành lang, nơi tôi nghĩ rằng tôi nhìn thấy một cái gì mờ nhạt mỗi lúc một xa. Rồi chỉ một giây sau, tất cả hoàn toàn trống vắng!
Tôi thẫn thờ quay vào phòng nói với Tân:
- Ông bật đèn lên đi.
Ánh đèn vừa bật sáng, tôi nhận thấy ngay mảnh xương ở góc phòng đã biến mất và vợ Tân đang bất tỉnh. Tân hoàn toàn như kẻ mất hồn và phải mất tới gần mười phút tôi mới khiến vợ Tân tỉnh lại.
Trong khi Tân lẩm bẩm, mà tôi không hiểu anh muốn nói gì hoặc đang cầu nguyện, tôi chỉ nghe được một câu đáng nhớ khi Tân nói với tôi bằng giọng của kẻ mơ ngủ “Ông không nói chuyện với cô ta phải không?”.
Sau đó, ba chúng tôi ngồi bên nhau trên giường cho tới sáng. Thực ra vợ Tân đã ngủ gục sau một hai tiếng đồng hồ. Trong giấc ngủ này chắc chắn nàng chỉ nằm mơ toàn ác mộng nên thỉnh thoảng lại run rẩy, giẫy giụa và la ú ớ khiến tôi phải đánh thức nàng dậy mấy lần. Tân thì hoàn toàn không nhờ cậy được gì khi anh ngồi yên lặng như một pho tượng không hồn, tuy có đôi ba lần anh nói với anh những gì tôi không nghe rõ.
Trong đời tôi, chưa bao giờ đêm dài đến thế! Thành thực mà nói, cứ mỗi phút trôi qua tôi lại cảm thấy thêm khổ sở nhưng không dám làm gì khác hơn là tiếp tục ngồi bó gối trên giường.
Hai biến cố khủng khiếp trong cùng một đêm - hồn ma ngồi dưới chân giường và những tiếng chân vô hình tiến vào phòng lượm mảnh xương rơi - khiến quan điểm vô thần của tôi hầu như hoàn toàn xụp đổ.
Trong khi ngồi co rúm trên giường, tôi không biết làm gì khác hơn là lấy khăn tay quấn chặt chỗ máu chảy.
Những tiếng gà gáy đầu tiên vọng lại từ phía xa xa chẳng khác gì những liều thuốc hồi sinh đối với chúng tôi. Và khi những tiếng chim ríu rít trên cành hòa lẫn với giữa những vạt sáng đầu tiên trong ngày, chúng tôi biết ngay sẽ phải làm gì.
Tuy nhiên cả ba chúng tôi vẫn ngồi bất động cho tới khi bác quản gia già bước vào. Tân lên tiếng với giọng khàn khàn mệt mỏi:
- Bác Tư, nói bà bếp chuẩn bị điểm tâm. Sáng nay tôi muốn ăn ở nhà.
Bác Tư là quản gia trung thành của vợ chồng Tân và chắc chắn bác sẽ không hở môi với bất cứ ai về cảnh tượng lạ lùng mà bác nhìn thấy.
Bác Tư đi rồi nhưng sự xuất hiện của bác khiến chúng tôi sực tỉnh. Tôi nói với Tân là tôi phải về phòng.
Tuy nói như vậy nhưng thực ra tôi chỉ muốn bước ra phòng khách ngồi chờ tới khi trời sáng hẳn chứ không đủ can đảm trở về phòng ngủ dù rất muốn biết bộ xương bị tôi đập nát có còn ở đó hay không, vì tôi mường tượng một sự liên hệ nào đó giữa bộ xương bị tôi đập nát và những bước chân vô hình trong phòng ngủ của Tân.
Tưởng tôi nói thật, Tân có vẻ ngại ngùng nhưng cũng bước xuống giường, nói là anh sẽ đi với tôi. Vợ Tân đồng ý ở lại trong phòng sau khi yêu cầu Tân kéo hết màn cửa ra và đừng đóng cửa ra vào.
Khi tôi và Tân bước ra khỏi phòng thì trời đã sáng hẳn khiến chúng tôi thêm hăng hái.
Tới trước cửa phòng ngủ của tôi, hai đứa chúng tôi hơi ngần ngại trước khi bước vào. Trong phòng vẫn hơi mờ mờ vì mành cửa sổ được buông xuống vào buổi tối trước khi tôi đi ngủ.
Không ai bảo ai, tôi và Tân chia nhau bước tới hai cánh cửa sổ, kéo màn cửa lên.
Ánh sáng dịu dàng của buổi ban mai rọi sáng căn phòng. Tôi nhìn quanh phòng nhưng không thấy một mảnh xương nào hết! Căn phòng vẫn ngăn nắp như khi tôi lên giường vào tối hôm trước, ngoại trừ cái mền nằm bừa bãi.
Một điều khác nữa là chúng tôi thấy rất rõ những vết máu nhiểu đầy phía chân giường, nơi tôi tung cú đấm vào hồn ma. Máu cũng dính đầy những ngăn kéo, nơi tôi bẻ gẫy những khúc xương, và trên mặt thảm, nơi tôi xé nát tấm vải liệm ra thành từng mảnh vụn và cũng là nơi tôi hăng say làm công việc tàn phá bộ xương!
Tôi quay nhìn Tân và thấy mặt anh lộ vẻ hãi hùng: Trên tay Tân là một mảnh vải trắng nhỏ tả tơi trông như một mảnh vải liệm bị xé nát.
 
Bí Ẩn Lời Nguyền

Liệu những cái chết bí ẩn xung quanh kim tự tháp có liên quan đến lời nguyền.
Vào thế kỷ 17 và 18, những hầm mộ đầu tiên của các Pharaon bị khai quật. Từ đó, câu chuyện có thật về lời nguyền đã hơn một lần vượt khỏi các kim tự tháp, vang lên điều răn đe khủng khiếp. Người ta nhớ đến vụ cả nước Anh run lên vì cái nắp quách được tìm thấy vào năm 1860, thuộc sở hữu của Viện Bảo tàng Hoàng gia Anh.
Cái nắp đó lấy lên từ phần mộ của một nữ tu sĩ thời xưa. Khi về Anh quốc, vật phẩm lạ kia đã gieo rắc tai họa cho tất cả những người tiếp xúc với nó. Người chủ sở hữu đầu tiên là ông Douglas Murray. Ông này bị mất hẳn một cánh tay ngay sau khi mua cái nắp bởi một viên đạn phát nổ từ chính khẩu súng của mình. Ít lâu sau, người thứ hai nếm trải sự trừng phạt là một nhà báo ở London. Cô mượn cái nắp về nhà để… xem. Ít ngày sau, mẹ cô đột ngột qua đời, rồi lời hứa hôn bị tan vỡ và cô bị mắc một chứng bệnh nan y bí hiểm, y học thời đó bó tay.
Nhưng sự trừng phạt vẫn tiếp tục khi ông Murray “cung tiến” cái nắp quỷ quái nọ cho Viện Bảo tàng. Một nhà khoa học về Ai Cập, khi đang xem xét những dòng chữ cổ in trên nắp, bỗng lăn ra chết bất ngờ. Nạn nhân tiếp theo là một nhà nhiếp ảnh. Ông này đột tử sau khi chụp được tấm ảnh làm rõ nét gian ác của khuôn mặt vẽ phía ngoài nắp (mà ai cũng cho là gương mặt hiền lành, khả ái)…
Tin đồn về sự ghê gớm của cái nắp quách lan nhanh đến nỗi vào thập niên 1930, đồ cúng lễ từ khắp hành tinh tới tấp gửi về Viện bảo tàng Hoàng gia Anh, đặc biệt là các vòng hoa quanh nắp luôn tươi mới. Nhưng nhiều cái chết kỳ lạ và đột ngột vẫn liên tiếp diễn ra ở các điểm khai quật khảo cổ ở Ai Cập và những nơi khác trên thế giới.
Lời nguyền không chỉ có từ các đồ vật ở mộ phần các Pharaon. Những vị chủ nhân khác cũng có khả năng “tẩm” lời nguyền độc địa vào cái mà họ cảm thấy cần giữ gìn. Thurston Hopkins ghi lại câu chuyện như sau:
Vào thời Nữ hoàng Victoria, tên sát nhân William Corder đã giết chết tình nhân của hắn tại Polsted (nước Anh) vào khoảng tháng 5/1827. Hắn bị hành hình. 50 năm sau, phần thi thể của tên sát nhân được vị bác sĩ có tên Kilmer cất giữ. Ông là một nhà khoa học có quan điểm rõ ràng đối với hiện tượng kỳ bí. Vị bác sĩ đã tách chiếc sọ của tên giết người, đánh bóng nó và bày “làm cảnh” ở phòng làm việc. Thế rồi điều kỳ lạ xảy ra. Vị bác sĩ và cả cô hầu đều cùng nhìn thấy lúc mơ hồ, lúc rất rõ kẻ lạ mặt đứng trong phòng, vận y phục thời Victoria. Riêng bác sĩ Kilmer còn nghe rõ cả tiếng lẩm bẩm và hơi thở phì phò. Nhiều lần nửa đêm thức giấc, bác sĩ nghe nhiều tiếng động bất bình thường ở căn phòng chứa cái sọ. Một đêm, cơn gió lạnh từ đâu thốc tới, giữa lúc Kilmer bước vào phòng, cái giá đặt sọ rơi vỡ tung, còn sọ tên sát nhân tự dịch chuyển sang vị trí khác và ông thấy nó như cười nhăn nhở (?). Kilmer đã kiểm soát nhà cửa nhưng tịnh không thấy dấu hiệu nào của người lạ hiện diện bên trong. Vị bác sĩ, nhà khoa học, thật sự thảng thốt. Ông đem chiếc sọ Corder trả lại cho cha Thurston Hopkins, ông này đem các thứ ấy chôn cất ở nghĩa địa. Từ đó trở đi, hiện tượng kỳ lạ trong gia thất bác sĩ Kilmer cũng biến mất.
Chuyện chiếc áo khoác của Nhà hát Công tước York gây ra nỗi khiếp sợ đến lạnh người. Vào năm 1948, Thora Hird, nữ diễn viên hài kịch nổi tiếng đã mặc chiếc áo đó khi trình diễn một vở kịch. Cô kinh hãi khi thấy chiếc áo cứ ngày càng thít chặt vào mình. Tất cả đồng nghiệp của cô cũng gặp nỗi sợ tương tự khi khoác chiếc áo này lên người...
Phải chăng lời nguyền đã bao phủ lên tai họa trong các câu chuyện trên, hay tai họa có nguyên do từ nỗi khiếp sợ ám ảnh. Câu hỏi vẫn lơ lửng khi người ta ngày càng tìm thấy nhiều bằng chứng kỳ bí ở những vật hiếm hoi, đắt tiền hơn. Viên kim cương “Hy vọng” là điển hình của chuỗi giai thoại theo mô típ ấy: Mở đầu là thảm họa của vị chủ nhân thứ nhất: mất cả người lẫn của. Sau đó tai ương giáng xuống hoàng hậu Marie Antoinette, cũng từ việc sở hữu “Hy vọng”. Tiếp đến, nó liên tiếp reo rắc những vụ tự sát, khuynh gia bại sản cho một loạt những người khác, trong đó có một vị vua Hồi giáo mất ngôi.
Đi tìm lời giải cho truyền thuyết có thật về lời nguyền, nhiều nhà khoa học đồng tình với ý kiến cho rằng nguyên nhân của những cái chết và cả loạt tai họa bí ẩn trên là do một loại vi khuẩn “chưa biết đến” đang nằm yên trong hầm mộ, tích tụ ngày một nhiều trong các đồ vật. Khi hầm mộ được khai quật, các “quái vật” nhỏ li ti giải phóng khỏi chổ ẩn náu, chúng liền chứng tỏ ngay sức mạnh tàn phá.
Nhưng vẫn còn nhiều điều bí ẩn chưa biết đến, và liệu lời giải thích bằng loại “vi khuẩn chưa biết đến" này có đủ sức chinh phục những người còn tin vào sự hiện hữu mang vóc dáng thêu dệt của lời nguyền.

 
Con Ma Áo Trắng

Bà Nam vốn là người mê xem cải lương... Mỏi khi có doàn cải lương nào về hát là bà không một khi bỏ lở cơ hội dể dược di xem... Mat dù có khuya cở nào, có dày cách mấy bà củng không ngại dị Ma).t dù bà biết và củng dả nghe qua biết bao nhiêu lời dồn là làng nầy có ma hay là có người bảo là dả từng chứng kiến thấy ma, nhưng bà vấn không sợ Vì bà nghỉ không gì hấp dấn ba)`ng 1 tuồn cải lương haỵ..
Tối hôm ấy bà lo di buôn bán hang về cho sớm... Tấm rửa rồi sửa soạn quần áo rồi lên dường di sem cải lương. Rạp hát cách xa nhà bà củng khoản 15 phúc di bộ Lúc ấy trời dả sới chiều trời nhưng ánh sáng lờ mờ củng dủ soai sáng cho bà dị.. 2 bên dường vẩn còn dông người dúc người qua dường và lủ con nít chạy dủa giởn trước sân nhà chúng. Bà Na)m rất quen thuộc còn dường nầỵ.. Từng con lộ lớn cho dến các ngỏ hẻm nhỏ Bà biết gần dó có một con hẻm nhỏ di ta)'t dến rạp hát thật nhạnh. Nhưng bà nghỉ trời vẩn còn sáng bà muốn thả bộ di trên lộ lớn dể sem người qua kẻ lại cho vuị Còn cái hẻm ấy thì khi sem hát sông bà xẽ di hướng ấy cho mau và tiện hơn. Thế là bà dả tính toán trước và cứ thế mà dị..
- o O o -
Giản hát cải lương sông củng dả gần 12 giờ khuya rồị... Mải mê sem cải lương mà thì giờ trôi qua mau mà chảng haỵ.. Khi giản tuồng rồi thì bà dả hoản hồn, ba giò bốn ca)?ng lật dật mà dị... Theo dự dịnh bà xẻ di ngan cái hẻm nhỏ dể có thể rút nga)'n thì giờ về nhà. Trời dả khuyạ các bóng người trong rạp cáng lúc càng thưa dị Bà cố di cho mau và một lúc một va)'ng tanh và tối den, 2 bên dường toàn là cây cổ thụ và từ xa la)'m mới có dược 1 ánh dền lu lu không dủ dể soai sáng con dườn. Bà vừa di vừa có cảm thấy như lành lạnh. KHông hiểu cảm giác ấy là do dêm khuya hay là gì bà nghỉ tới nhửng lời dồn trong làng ra)`ng làng nầy có mạ.. Bà cứ mải mê di, và cố sua di cái ý nghỉ rùng rợn ấỵ Mải di một lúc bà dả dến cái hẻm nhỏ ấỵ Cái hẻm tối ôm không có một ánh sáng chỉ vỏng vẻn có 2 cột dèn ba)'t từ dầu hẻm và cuối hẻm mà thôi, cái hẻm thật dày cho nên chỉ nhờ 2 cây cột dền ấy củng không dủ sôi sáng cái hẻm nhỏ nầỵ Bà nhìn cái hẻm một hồi lâu thở một hơi thật dày, lưởng lự có nên di hay không... Một hồi sau bà mạnh dạng bước vào cái hẻm, rồi bớp 2 ngón cá vào trong lòng bàn tay cho thật cha).c rồi lẩm bẩm niệm một câu thần chú gì... Cứ mải thế bà dả di gần dến cuối hẻm. Trong bóng tối bà bỏng nghe có tiếng ai khóc... và bà cứ lảng tai nghe cho thật kỷ thì dó chính là tiếng khóc của 1 người con gáị.. Bà vẩn cứ di cho dến gần cột dèn. Mai ra nhờ ánh sáng mờ mờ của cái cột dèn thì bà củng dở sợ Khi di dến cột dèn thì bà vẩn nghe có tiếng khóc của cô gáị Ban dầu thì tiếng khóc rất nhỏ nhưng càng lúc tới gần cột dèn thì tiếng khóc càng lúc càng to hơn và càng thảm thiết hơn. Bà vừa sợ và củng tò mò muốn biết xem người con gái dó dang khóc ở dâu, và nhất là bà muốn biết dó có phải là người hay là mạ Khi bà di dến cái cột dèn thì quả thật bà nhìn thấy có cái bóng của một cô gái bận 1 chiếc áo tra)'ng sóa và sỏa mái tóc dày den mun... Cô gái dang ôm ma).t khóc nức nở và rất thảm thiết... Trong cô gái dang dứng trong bóng tối, bận chiếc áo tra)'ng và soả cả tóc phủ xuốn và ôm ma).t khóc bà cảm thấy rợn rợn cả ngườị.. Óc gái bà nỏi cả lên bà muốn bỏ chạy di cho mau nhưng dôi chân bà dả không còn nghe lời bà nửạ Tuy nhiên bà vẩn cứ trấn an ra)`ng cô con gái kia chín là người thật chứ không phải là ma quỷ gì cả Bà cứ dứng và nhìn cô gái ôm ma).t khóc nức nở Trong lòng bà thay vì sợ co ta la ma nhưng giờ bà cảm thấy thương hại và lo ngại cho cô khóc lóc trong dêm khuyạ.. Bà thở thật dày rồi tự nóị "Tội nghiệp.... KHông biết gì cái gì mà cô ta khóc lóc thảm thương như vầy trong dêm khuyạ.. cha)'t là ga).p nhầm cái tha)`ng sở khanh nào bỏ rồi chớ gì... Con gái mà nhẹ dạ quá thì dẻ bị dụ Nếu mà mình bỏ di không khuyên cô ta lở cô ta làm chuyện giại dột thì củng tội cho cô tạ" Nghỉ tới dấy thì bà liền lên tiếng hỏị
-Cô à.... Chuyện gì mà cô khóc lóc thảm thương vậy cổ Chuyện gì thì củng về nhà mà tín. chứ khi không khuya la)'c khuya lơ dứng ngoài dường mà khóc? Thôi cô về nhà dị.. Dả khuya la)'m rồị.. Cô mà dứng dây thì ga).p quân cướp bóc thì nguy la)'m dó. Thôi nghe lời tôi khuyên dị
Cô gái vẩn cứ ôm ma).p mà khóc. Bà sót ruột, phần muốn di về cho sớm, phần thì nghỉ cho cô gáị Vẩn không nghe cô trả lời trả vốn, bà hỏi tiếp, lần nầy bà di lại gần có gái hơn.
-Nầy cô à... Nghe lời tôi dị.. Tôi nghe nói ở dây có ma dó... Cô haỷ mau mau di về dị.. Nhà cô ở dâủ
Cô gái vẩn không trả lờị Bà vẩn tiếp tục di lại gần cộ.. Một cơn gió nhẹ thổi nhạnh qua làm bà rợn cả sương sống. Bà vẩn tiếp tục hỏị
-Thôi thì cô di với tôi nè cho bớt sơ và củng an toàn hơn... Dầu dì củng 2 ngườị
Bà Na)m vừa nói sông thì bà nấm vọi bàn tay cô gái dang ôm ma).t khóc. Bàn tay cô rời khỏi khuôn ma).t thì bà chết sửng, Bà buôn tay cô gái ra và thục luôi lại 3 bước, miệng há hóc như bà muốn kêu lên một tiếng thất kinh nhưng cái miện cứng dơ và cuốn học như dả bị nghẹt. Bà muốn bỏ chạy nhưng chân bà như tê di và không còn cảm giác gì khi bà chợt nhận ra khuôn mặt cô gái ấy tra)'ng tinh, tra)'ng một cách ma quái và không có ma)'t, mủi và miệng... Hoàn toàn trống trơn và ba)`ng tha)?ng.................


 
Tiếng Cười Trong Đêm Khuya

Ha... hạ.hạ.ha! há..há..ạ.ha! Hú... hu... hụ.hu... u!
Thiệt là hãi hùnh, khi không sao lại có tiếng cười ai đó văng vẳng trong đêm làm cho bất cứ ai nghe được cũng cảm thấy rợn người... Sáng hôm sau đâu đâu người ta cũng nghe lời bàn tán về tiếng cười đêm trước - người thì cho đó là tiếng rên rĩ của muột người con gái còn rất trẻ, người thì bảo đó là tiếng hú của một chàng thanh niên trong tuổi đôI mươi, còn có người thì cho rằng đó là tiếng la hét của hai người... mà là hai người đã chết v.v. Thiệt ra thì đó là tiếng cười, hay tiếng rên rỉ, hoặc là tiếng la hét. Nhưng những tiếng đó phát xuất từ đâủ Phải chăng là ở bãi tha ma vắng vẻ trên ngọn đồi phía bắc làng, hay là những tiếng đó phát ra từ ngôi nhà hoang ở phía nam?...
Rồi thì sự sinh hoạt trong làng cũng trở lại bình thường và đêm lại một lần nữa trở lại với vạn vật như mọi khị Nhưng đêm nay thì khác, hầu như mọi người trong làng đều cảm thấy lành lạnh. Lạnh mà họ cảm được đây không phải là do thời tiết mà là lạnh do tiếng cười đêm qua ám ảnh. Mới có 10 giờ tối mà cả xóm làng đều im phăng phắc; không biết là đã có ai ngủ vô chưa nhưng vạn vật hình như đã bị lắng đọng lại - cả đến những tiếng động do súc vật gây ra cũng không có. Không lẽ chó, gà, heo, vịt cũng đều kiếm chỗ ẫn nấp hết rồi saỏ Tại sao tiếng cười lại có ma lực ghê gớm như thế? Không lẽ thật là tiếng ma kêu quỉ hú?...
Chuyện gì tới rồi cũng sẽ tới... Trong lúc mọi người trong làng đều trùm mền kín đầu thì tiếng cười đêm trước lại lanh lãnh vang dội... Hảhảha!?Hủhủhu! Và cứ như thế 5, 10 phút một lần. Người Công Giáo thì thì thầm đọc kinh, người Phật Giáo thì Nam-Mô-AĐi, còn trẻ con thì ôm cứng lấy cha mẹ anh chị chúng. Thật là khinh khủng sợ hãi... Nhưng rồi một đêm kinh sợ cũng qua đi và mặt trời lại ló dạng. Mọi người lại một lần nữa xôn xao bàn tán - "Làng mình chắc là có ma quỉ xuất hiện, phải nhờ cụ Tám ra giúp giải quết vấn đề!" một người xướng. "Đồng ý! Đồng ý!" mọi người khác đều hưởng ứng.
Cụ Tám là người nổi tiếng không sợ trời, không sợ đất. Cụ là người duy nhất luôn luôn tắm xác cho người chết trước khi bỏ vô hòm. Người ta khẩu truyền rằng cụ đã gặp rất là nhiều ma quỉ nhưng chưa một lần tỏ ra khiếp sợ... Tuy rằng không muốn liều mình, nhưng vì xóm làng cụ Tám cũng đành phải miễn cưỡng tuân theo để tìm hiểu nguyên do tiếng cười bí mật kiạ
Cụ Tám sửa soạn con dao cặt củi mà cụ cho là một vũ khí lợi hại nhất của cụ. Trời vừa chập tối là cụ đã ra khỏi nhà. "MớI có 9 giờ mà mọi nhà đã đóng cử tắt đèn rồi," cụ lẩm bẩm và từ từ tiến tới ngôi nhà hoang ở phía nam khu xóm, nơi mà cụ nghĩ rằng sẽ tìm được nguyên do tiếng ma gào quỉ khóc kia.... Đã hai tiếng trôi qua mà không có gì xãy ra, cụ cảm thấy người cụ hơi mỏi mệt vì nấp trong bụi cỏ trước căn nhà hoang... Nhưng, bất chợt, cụ cảm thấy rờn rợn lạnh trong ngườị Linh tính báo cho cụ biết là có gì không ổn đâu đâỵ Cụ cố lấy bình tĩnh để chờ đợi thêm.
Khoảng đúng 12 giờ đêm, thì Hủ.hủ.hủ.hu! Tiếng hú làm cho cụ giật bắn người giậy; tay cụ nắm chặt con dao để chờ đợị Tiếng Hụ.hụ.hủhảhảha! mỗi lúc một tiến gần nơi cụ nấp là cho cụ toát mồ hôi lạnh và tự nhủ, "Trong suốt cuộc đời, đây là lần ta cảm thấy rợn nhất, không biết tại ta đã già nua hay là tại con quỉ này ghê gớm đến vậỵ"... Một lần nữa tiếng Hủhu lại nổi lên bên cạnh cụ và một bóng trắng xuất hiện trước mặt cụ. Hai tay nắm chặt con dao, cụ định tung ra một nhát vào bóng trắng kia nhưng bóng trắng đã bay xa hơn và dùng tay để vẫy cụ như là muốn thách thức cụ Tám. Cụ cứ tiến gần thì bóng trắng đó lại bay xa thêm... Cứ như thế mà đã đến gần bờ biển. Bất chợt, lại thêm một bóng trắng xuất hiện. Lần này thì cả hai bóng trắng đều quay lại như muốn nói với cụ Tám điều gì đó và cả hai chợt biến mất trước mặt cụ Tám. Cụ mĩm cười ra điều hãnh diện vì con ma ác ôn đó mà cũng sợ cụ. Sau đó cụ quay người trở lại để ra về thì chân cụ vấp phải vật gì đó. Bật chiết đèn lên cụ chợt hốt hoảng vì dưới chân cụ là hai xác chết của một đôi nam nữ độ đôi mươị Lúc này thì cụ đã đoán ra được 9 phần 10 của câu truyện. Cụ khéo hai cái xác lui vô trong để nước khỏi cuốn đi, rồi ra về... Sáng hôm sau dân làng mang hai cái xác đi chôn và lập một bàn thờ cho đôi trai gái xấu số; và từ đó người ta không còn bị ám ảnh bởi tiếng gào thét kinh sợ giữa đêm khuya nữạ​
 
Mọi người có vẻ đều thích chuyện ma nhưng không biết đã ai gặp được ma chưa nhỉ? Nếu ai muốn gặp ma nhưng chưa gặp và tự tin có đủ bản lĩnh để thử mình sẽ bày cách để gặp ma cho. >:):))
 
Mọi người có vẻ đều thích chuyện ma nhưng không biết đã ai gặp được ma chưa nhỉ? Nếu ai muốn và tự tin có đủ bản lĩnh để thử mình sẽ bày cách để gặp cho. >:):))

Bạn có cách nào để gặp ma nói thử nghe coi!!!;;);;);;)
 
Mọi người có vẻ đều thích chuyện ma nhưng không biết đã ai gặp được ma chưa nhỉ? Nếu ai muốn gặp ma nhưng chưa gặp và tự tin có đủ bản lĩnh để thử mình sẽ bày cách để gặp ma cho. >:):))

Bạn bày thử mình cách xem sao ? :-/
 
Cách thức đây:

Cách 1: Cầu cơ
CẦU CƠ chì dành cho ai gan dạ,dám chơi dám chiu.
Sau đây là cách vẽ bàn cầu cơ:
*Lấy tờ giấy A4,viết 24 chữ cái,sau đó 1 bên viết ra Thần - Thánh - Ma- Quỹ, 1 bên thì ghi Đúng - Sai - Có - Không, còn góc phía dưới thì ghi là Thăng.
*Tìm 1 tấm ván hòm (có thể tìm được ở các nghĩa địa đang giải tỏa), Đặt tờ giấy đã viết lên tấm ván hòm.
*1 CÁI ĐỒNG TIỀN XU (có thề lấy đồng 2000 hoặc 5000)
*1 bát hương và 3 cây nhang.

Đặt đồng tiền lên giấy và cần có 1 hoặc 2 người để ngón tay trỏ trên đồng tiền, (ngón tay ko được đụng vô đồng tiền, ngón tay cách đồng tiền khoảng 5mm). Thắp nhang và thành tâm đọc câu thần chú này:
"Cầu ma quỹ thánh thần,
trên thiên đàng,
dưới địa ngục,
hay đang phiêu dạt phương nào
xin hãy nhập vào đồng xu này,
3 nén hương thắp sẵn.
Xin mời người đến chơi
xin làm cho cơ quay cờ chạy vòng vòng.
Xin mời người lên chơi.'


LƯU Ý:
* Sau khi hòi thì phải nhớ các chữ cái mà đồng xu dừng lại, để ghep thành câu trả lời
* Không được chơi quá 10 lần sẽ bị giảm tuồi thọ.
*Người ngồi cơ ko được suy nghĩ gì trong đầu (nếu suy nghĩ thì câu trả lời sẽ ko chính xác).
*Nhất thiết phải chơi từ 3 người trở lên(nếu chơi 1 người thì dễ bị ma nhập)
*Khi vừa gọi được hồn, thì nên hỏi xem hồn là Thánh, Thần, Ma hay là Quỷ. Nếu như đồng tiền đi vào chữ Quỷ thì hãy nói là THĂNG (ko nên chơi vói quỹ)
*Ko được đẩy đồng tiền, để đồng tiền tự chạy, ngón tay chỉ lướt theo.
*Ko được chơi ở chổ có bàn thờ Phật. Nếu có điều kiện, khoảng sau 22 giờ, các bạn ra nghĩa địa hoặc ngôi mộ nào gần nhà là tốt nhất.

Cách 2: Gọi ma đói
Ma đói là những người chết đường ,chết chợ linh hồn ko về được nhà ,cũng ko được siêu thoát ,vất vưởng bờ bụi. Không ai cúng tế nên gọi là ma đói.
-Chuẩn bị : 2 bát cơm, một bát canh rau.
Một lọ cắm hương
3 cây nhang
2 ngọn nến
1 bát không, 1 đôi đũa (tùy thuộc vào số người, mỗi người 1 bát ,một đôi đũa).
Cách gọi: Ra chỗ ngã tư,(nếu ra ngay miếu chổ tai nạn giao thông sẽ dễ ứng nghiệm), thắp nến, thắp hương lên. Dùng đũa gõ vào bát .Dần dần bạn sẽ thấy được ma đói đến bốc cơm ăn. Bạn phải gõ liên tục như thế ma mới không nhìn thấy bạn. Nếu bạn dừng lại sẽ rất nguy hiểm ...

Cách thứ 3:
Chuẩn bị: Yêu cầu ít nhất phải có 5 người
Một con mèo đen (mèo mun).
Cách làm: Đến một chỗ đất có nhiều cây, buổi tối sau 22 giờ nhe, chơi trò chơi trốn tìm, người phải đi tìm ôm con mèo đen trên tay. Sau đó đi tìm mọi người. Chắc chắn nếu chơi nhập tâm, thì sẽ ko tìm thấy 1 người, vì người đó bị ma che mất. Nếu muốn tìm thấy người đó hãy thả con mèo đen ra. Nó sẽ dẫn bạn đến chỗ người đó.

Cách 4:
12h đêm tắt đèn, (nam thắp 7 ngọn nến, nữ thắp 9 ngọn nến), rồi chải đầu trước gương, vừa chải vừa gọi tên hồn ma mình muốn gặp, cứ gọi thời gian ma xuất hiện trong gương tùy theo vía của bạn.

Cách 5:
Sau 22 giờ đi vào nghĩa trang. Nếu bạn cảm giác có ma theo sau mình, hãy đứng rộng 2 chân bằng vai, từ từ cúi xuống nhìn qua 2 chân...

Cách 6: Khoảng 12 giờ đêm, trong nhà mở ô (dù).

Cách 7 - Đổi mắt người chết:
Sau 12h đêm, đến ngôi mộ mới chôn, đào đất phần đất gần tấm bia (canh ngang với tầm 2 mắt của người chết bên dưới.Dùng đất ở đó (chỗ vùng mắt) bôi lên mi mắt mình, mắt người chết sẽ nhập vào mắt bạn, và bạn sẽ thấy quang cảnh nghĩa địa vô cùng sinh động...
(Chú ý: nên có người đi theo bạn, dùng khăn ướt bôi sạch đất khi bạn ko muốn nhìn thấy ma nữa)

Cách 8:
12 giờ đêm, đến chỗ nghi là có ma, 3 người đứng ở 3 góc,lần lượt người này chạy đến vỗ vào vai người thứ nhất, người thứ nhất chạy đến vỗ vào vai người thứ 2, cứ thế sẽ ko chơi được 2 lần vì chỉ có 3 người mà 4 góc... Tuy nhiên cứ chơi như vậy trong 30' sẽ chơi dược 2 vòng vì có người thứ 4 xuất hiện ...

Cách 9:
Mặc đồ người chết, ngủ trong áo quan, thắp hương, nhờ bà đồng cúng khấn. Bạn có thể đến thế giới người chết, thời gian bạn có là thời gian que hương cháy hết. Bà đồng sẽ dùng chuông để gọi bạn. Nếu lúc đó bạn ko về kịp để nhập vào thân xác thì bạn...die

Cách 10:
12 h đêm lên sân thượng, cầm theo cái gương, giơ về phía mặt trăng.


Mình nói nghiêm túc chứ không đùa đâu nên mình khuyến cáo đừng nên thử vì chính mình cũng không dám.
 
Chuyện thật của gia đình tôi

Tác giả: Tam Tang


Note: Tuy tôi chưa bao giờ thật sự thấy ma, và thường chỉ nghe người ta kể lại hay đọc truyện ma trong sách mà thôi! Nhưng sau đây là một truyện thật của gia đình tôi! Tuy vậy nó cũng chỉ là do các người bạn nói lại cho tôi thôi! Tùy ý các bạn nhận xét đó là chuyện thật hay giả vì chính tôi cũng không thể xác nhận chuyện này đúng hay sai nữa !


Tam Tang


Gia đình tôi thuộc diện đông anh em! Bố mẹ chúng tôi chỉ là những người có tầm vóc của những người VN trung bình, nhưng mấy tên con trai trong nhà tôi đều thuộc diện cao so với người VN ta! Tên thấp nhất trong nhà thì cũng 1 mét 70. Lúc xảy ra chuyện này thì em trai út tôi mới 4 tuổi mà đã cao hơn 1 thước rồi!

Nhà tôi ở một chung cư, gần đó có một cái hồ lớn nhưng không sâu lắm, mùa mưa nước đầy thì ven bờ chỉ sâu khoảng 1 mét 40 thôi. Hồ chỉ cách nhà tôi chưa tới 100 mét! Ngay hông nhà tôi có một con đường đất rộng chạy thẳng ra hồ!Một buổi trưa vào tháng 5, chúng tôi đều đi học, bố tôi đi làm, chỉ có mẹ và hai đứa nhỏ ở nhà! Mẹ tôi đang đút cơm cho em gái tôi thì thấy em trai út tôi ở ngoài bước vào, quần áo nó ướt nhem lẫn với sình! Nó dọc nước ngoài sân và té vào vũng sình! Mẹ tôi doạ:

_ Có đi thay đồ và rửa ráy mau không mẹ cho một trận bây giờ !

Em tôi trở ra phía sau chổ có mấy lu nước loay hoay ở đó! Mẹ tôi bận trông và đút cơm cho con gái nên cũng không để ý gì nữa! Cứ tưởng là nó rửa ráy, thay quần áo rồi trốn lỉnh trong phòng vì sợ mẹ đánh!

Chừng 20 phút sau mẹ tôi nghe có tiếng la ồn ào phía bờ hồ! Bà bế em tôi chạy ra xem thì hỡi ôi! Mấy người đàn ông đang vác em tôi trên vai chạy lên chạy xuống để xốc nước! Mấy bà thấy mẹ tôi ở đó liền kéo bà một mạch về nhà tôi (vì họ nói rằng nếu người chết đuối thấy thân nhân mình thì sẽ không cứu được!) Mấy người đàn ông chỉ biết vác dốc ngược em tôi trên vai chạy để xốc nước mà thôi! Họ không biết cách làm hô hấp nhân tạo là gì cả ! Bụng em tôi xẹp lép hết nước rồi nhưng không ai biết làm gì hơn! Có người kêu là bồng thằng bé đi nhà thương đi! Thế là họ bế em tôi chạy đi kiếm xe chở đi bệnh viện! Nhưng tới nơi thì không còn kịp nữa rồi!

Anh em chúng tôi đi học về thấy người ta bu quanh nhà đông nghịt! Không biết chuyện gì đã xảy ra, tôi chạy xông vào nhà thì thấy mẹ tôi đang nằm vật vả khóc! Có người kéo tôi ra nói là em trai út của tôi bị chết đuối! Mấy anh chị em tôi khóc òa cả lên! Tôi bặm môi để không khóc theo họ và lủi vào phòng khóc một mình trong đó! Tôi rất xấu hổ nếu khóc trước mặt người lạ ! Đến đêm về tôi nằm nghĩ đến em mà khóc thầm một mình trên giường! Thương cho em tôi còn bé mà đà chết non!

Người đàn bàthấy em tôi đầu tiên nói là bà ta thấy chùm tóc đen của nó vật vờ ở mặt nước nên hô hoán cho người đến vớt lên! Người đàn ông vớt em tôi lên nói là nó vẫn đứng thẳng chưa chìm và chỉ cách bờ khoảng 2 thước thôi! Nếu nó cao thêm một vài tấc nữa thì đã không sao rồi! Và nếu có ai biết làm hô hấp thì nó đã không chết đâu !

Xác em tôi được quàng tại phòng khách và hai ngày sau thì đem chôn ở một nghĩa trang Công Giáo! Trước kia, hằng đêm tôi thường giăng ghế bố ngủ tại phòng khách! Lúc này tôi cũng hơi ơn ớn nên chui vào ngủ chung với anh em trong phòng một thời gian! Cả tháng sau tôi mới giám lên đó giăng ghế bố ngủ lại, nhưng vẫn cảm thấy hơi rờn rợn dù biết người chết là em mình!

Nhưng rồi cũng quen đi! Tôi chẳng thấy gì lạ cả! Cuộc sống cứ lần trôi qua! Bố mẹ tôi cũng nguôi ngoai nỗi thương tiếc con mình! Anh em chúng tôi còn là con nít nên còn chóng quên hơn nữa! Ngày đi học, chiều về chơi đá banh hay đánh vũ cầu v.v... Chúng tôi không để ý và cũng chẳng thấy gì lạ Ở nhà chúng tôi hết !

Một hôm tôi cùng mấy thằng bạn ngồi uống nước chanh muối sau một trận đá banh! Bổng một đứa buột miệng hỏi tôi:

_ Mày có thấy gì ở nhà mày không ?

_ Thấy cái gì ?! _ Tôi hỏi ngược lại nó !

_ Thiệt tình mấy người trong nhà mày hổng thấy gì lạ hết sao !?

_ Bình thường không có gì lạ cả !!

_ Vậy mà họ đồn nhà mày có ma đó !

Tôi hơi xanh mặt nhưng cãi bay:

_ Ai nói tầm bậy vậy ! Có ma thì tao phải thấy chứ !

Tôi giám đoan chắc như vậy vì tôi ngủ ngay phòng quàng xác em tôi mà! Mấy thằng bạn tôi nhao nhao lên:

_ Có thiệt đó ! Nhiều người thấy lắm mà !

Rồi tụi nó đua nhau kể là cứ mỗi đêm tối trời, người đi chơi khuya về thường thấy một cục lửa to như trái banh, bay từ bờ hồ về đến ngang hông nhà tôi thì dừng lại lơ lững ở đó một hồi mới biến đi mất ! Rất nhiều người thấy chứ không phải chỉ một hai người đâu! Mấy người ở gần nhà tôi còn nói là đêm họ ra đi tiểu thì thấy một ngọn lửa xanh dờn cháy ở sau nhà bếp chổ cầu tiêu nhà tôi!


Tôi nghe tụi nó kể cũng rợn xương sống nhưng mặt cố làm tỉnh, gân cổ cãi lại:

_ Làm gì có ma cỏ trên đời này! Tao không tin đâu! Bọn họ chỉ hù tui. mày thôi !

Tuy nói thế nhưng về nhà tôi cũng kể cho mẹ tôi nghe các điều nghe được! Mẹ tôi nạt ngang:

_ Hơi đâu con tin các chuyện tầm phào đó!

Tuy không tin lắm vào các chuyện tụi bạn kể, tôi cũng không giám đi chơi khuya nữa! Chỉ 9 giờ tối là đã về đến nhà rồi ! Tôi không giám nói chuyện này cho anh em tôi nghe sợ họ cũng đâm ra hoảng như tôi! Thật tình thì tôi chẳng thấy gì cả! Không biết các điều người ta nói có thật không! Nhưng người trong khu vực đó đều nói rằng có ma về chung quanh nhà tôi! Họ còn nói rằng sở dĩ ma không vô nhà tôi vì nhà có bàn thờ Chúa ở trong !!

Cũng may bố tôi mua được một căn nhà và một mảnh vườn rộng ở gần chổ ông ngoại tôi, nên gia đình tôi dời về chổ ở mới này! Tôi không biết sau đó ma có còn hiện ra hay không vì tôi không có dịp trở lại chốn cũ nữa !


Tam Tang
 
Chiều Xuống


Trường Lane Tech năm ấy học sinh Việt Nam tốt nghiệp khá đông. Bọn con trai chúng tôi kiếm bạn gái để đi prom đang gặp khó khăn. Bí quá, chín giờ đêm thứ bảy hôm đó tôi lao ra xe chạy đi vũ trường Chiều Tím với hy vọng “mượn” được em nào cho đỡ quê với bạn bè. Tôi lấy Foster đi east về khu Uptown, vừa đến đường St Louis gặp đèn đỏ tôi ngừng, nhìn vào trạm đợi xe buýt chợt thấy một em Á Đông đang đứng chờ xe một mình. Như thỏi nam châm cực mạnh hút vội mảnh kim khí, tôi cho xe tấp vào, quay kiếng xe xuống hỏi bằng Anh ngữ vì sợ lầm không phải người Việt:
"Cô là người Việt?"
"Dạ, em là người Việt."
Cô gái trả lời bằng giọng Huế rất nhẹ và ngọt. Gặp người Việt đã mừng, còn là người cùng quê nữa thì nỗi mừng càng tăng hơn, tôi trở nên ấp úng:
"Cô... Cô đi đâu giờ nầy? Tôi đưa cô đi hỉ, tôi cũng đi về hướng nớ."
Vừa nói tôi đưa tay chỉ về hướng hồ Michigan. Cô gái dạ rất khẽ rồi tự nhiên mở cửa chui vào xe tôi không chút ái ngại. Lúng túng với người đẹp ngồi bên cạnh, tôi không biết phải mở đầu từ chuyện gì. Nhưng may mắn, nàng hỏi tôi trước:
"Anh đi dạ vũ à?"
"Dạ, tôi đi xuống Vũ Trường Chiều Tím nghe nhạc, hôm nay có ca sĩ Ngọc Anh về."
Trong bóng tối, tôi chỉ có thể thấy mặt nàng khi nào có ánh đèn xe chạy ngược chiều mà thôi. Tuy vậy, tôi vẫn nhận ra nàng hơi lớn tuổi hơn tôi một tí, nhưng chẳng sao, tôi có đi hỏi vợ đâu mà so sánh. Chưa biết nói gì thêm, ngày ra trường sắp tới nơi mà chưa tìm được cô nào kẹt quá, tôi định lung khởi cho câu chuyện đi prom vào đầu tháng sáu nầy. Bỗng cô gái lên tiếng:
"Em cũng đi dạ vũ ở Chiều Tím, nhưng đợi mãi không thấy xe buýt tới, có duyên lại gặp anh."
Hai chữ 'có duyên' làm tất cả rụt rè trong tôi như tan biến, tôi mạnh dạn nói:
"Chính tôi mới là người có duyên mới được đón và đưa chị về."
Cô gái liếc nhìn tôi gật đầu rất nhẹ như có vẻ đồng ý tiếng 'chị' hơn là cô làm tôi thoáng ngượng. Rồi từ đó trên đường đi, chúng tôi trò chuyện thật vui, nói và trả lời rất Huế.
Khi ca sĩ Ngọc Anh mở đầu bằng một vũ điệu ba-sô, cô gái lôi tôi ra sàn nhảy, không cần tôi đồng ý. Chúng tôi quyện lấy nhau như một cặp vũ công đang biểu diễn. Không hiểu sao hôm đó bước của tôi điêu luyện lạ lùng. Bình thường tôi chỉ nhảy những bản dễ, hôm nay điệu nào tôi cũng khá cả. Nỗi sung sướng đang tràn khắp cơ thể tôi vì những cọ xát thường xuyên nơi các vùng núi đồi trên cơ thể của nàng. Có điều lạ là tay và hơi thở nàng rất lạnh. Dù chúng tôi nhảy với nhau thật lâu, thật nhiều bản mà bàn tay nàng cứ lạnh. Những bản nhạc chậm, nàng đã không ngại nép sát vào tôi. Trong ánh đèn mờ ảo của vũ trường, tôi vẫn nhận thấy ở khóe mắt nàng toát ra nét u buồn như người mang nhiều tâm sự.
Cái vui bao giờ cũng trôi qua rất nhanh, chỉ để lại không gian bao nhiêu luyến tiếc. Tôi thì muốn kéo dài thời gian gần gũi, nên tan dạ vũ tôi đề nghị với nàng xuống phố Tàu ăn mì. Trong thâm tâm tôi cũng muốn lợi dụng cơ hội nầy để hỏi nàng về vụ đi prom, điều mà tôi đoán chắc là nàng sẽ đồng ý. Nhưng không, nàng từ chối yêu cầu của tôi, viện lẽ tuần lễ đó phải đi xa cùng gia đình làm tôi chới với. Tô mì tôi đã sạch, nhưng đường như nàng không đói nên tô nàng vẫn còn nguyên. Ăn xong, nàng bảo tôi đưa về cho mau vì sợ trời sáng mất. Khi ra tới quày tính tiền, nàng đưa mũi ngửi đoá hoa hồng đang cắm trong lọ. Tôi biết nàng thích hoa nên đã đặt năm đồng ngay chiếc lọ và rút nhánh hoa tặng nàng trước sự lặng lẽ đồng ý của cô gái thu tiền. Vềà gần đến trạm xe buýt, ngã tư Foster - St Louis, chỗ tôi đón nàng tối qua, tôi cho xe ngừng và hỏi nhà đâu để đưa tận nơi thì nàng chỉ tay bảo:
"Cho em xuống chỗ ni được rồi, nhà em đằng nớ thôi."
Nàng tự mở cửa xe bước ra, bên ngoài sương khá dày. Tôi cũng bước ra khỏi xe, đi vòng qua phía nàng để cám ơn. Nàng chìa tay cho tôi nắm nhưng bàn tay nàng lạnh khiến tôi tưởng như mình đang nắm lấy thỏi kim loại. Thấy chiếc áo mỏng, cổ rộng nàng đang mặc tôi e sợ nàng bị cảm lạnh nên tôi phải cởi chiếc áo lạnh của tôi khoác lên vai nàng. Chúng tôi chia tay, nàng bước đi khoan thai, dáng sang trọng. Tôi đợi một giây rồi chui vào xe phóng đi. Đi được một đoạn, tôi tự vỗ trán phải quay lại vì quên xin số điện thoại, nhưng khi trở lại chỗ cũ thì chung quanh không có nhà nào còn đèn.
Chiều hôm sau khi tan học, tôi phóng xe đến gần chỗ nhà nàng. Tôi hỏi thăm người Mỹ da trắng đang đứng tỉa mấy cành khô của khóm hoa trước sân để biết nhà nào là nhà Việt Nam. Người ấy trả lời chung quanh đây không có nhà nào Á Đông. Tôi đi xa hơn chút nữa, gặp người đàn bà đang chạy jogging tôi hỏi thì được biết cách đó nửa dặm có một nhà người Việt. Tôi cũng đi nhưng không nghĩ là đúng vì từ chỗ bỏ nàng xuống hồi khuya rất xa làm sao nàng dám đi về. Tôi hỏi thăm hai ba lần nữa mới tìm được. Đến nơi, một bà lão đang ngồi cầm cái quạt giấy phe phẩy. Tôi vào chào rồi hỏi thăm cô gái có những đặc điểm như đã gặp. Bà ta nhìn tôi từ đầu tới chân rồi nói giọng Huế:
"Theo cậu tả thì đó là con gái tôi."
Tôi như không tin lỗ tai của mình. Cô ta phải là cháu chứ sao lại là con, bà cụ đã già làm gì có con nhỏ như vậy.
"Mệï nói răng? Con của mệï còn trẻ rứa à."
"Trẻ gì, nếu còn sống nó cũng ba mươi mấy tuổi rồi."
Tôi biết đã lầm nhà, nhưng vẫn níu kéo:
"Cháu có việc quan trọng, cần chị ấy giúp, mêï có tấm hình chị đó không?"
Bà cụ khó chịu.
"Việc gì mà cậu khó khăn rứa! Nó làm gì mà giúp ai được."
Nói thế nhưng bà cũng vào nhà lấy tấm hình trên vách đưa cho tôi xem. Một luồng điện chạy từ đầu xuống chân làm tôi lạnh xương sống. Quả hình cô ta đây, cũng mặc chiếc váy tím cổ rộng, cũng “đôi mắt nầy đêm qua lạc vào hồn tôi”. Nhưng không hiểu sao bà cụ bảo chết. Tôi nghi bà cụ sợ tôi dụ dỗ cháu bà, hoặc bà đã đãng trí nên không biết mình nói gì.
Tôi nói để bà yên tâm:
"Chúng cháu là bạn học thường thôi mệï ạ, không có ý gì khác xin mệï chớ nói chơi."
Bà cụ hơi giận vì câu nói ngây ngô của tôi, nhưng cũng trả lời:
"Bạn học cách mô được, tuổi con tôi có thể bằng mạ cậu, tôi có nói chơi mô, chị ấy bị xe đụng chết cách đây hơn mười năm rồi. Không tin cậu đi ra mộ với tôi."
Đáng lẽ tới đây tôi có thể từ giã bà cụ được rồi, nhưng không hiểu sao tôi lại muốn cùng bà cụ đi ra nghĩa trang. Một phần tôi muốn tìm ra sự thật, một phần tôi chưa hoàn toàn tin lời bà cụ. Ngồi trên xe tôi nhìn sang, quả nhiên trên gương mặt bà cụ có vài nét giống người con gái đêm qua. Đường trong nghĩa trang ngoằn nghoèo, bà cụ phải hướng dẫn tôi mới khỏi bị lạc. Xe chưa kịp đậu hẵn, bà cụ nhìn vào thốt:
"Ai đem chiếc áo bành tô phủ lên tấm bia con gái tôi rứa?"
Nhìn theo hướng mắt bà cụ, tôi rùng mình bước ra khỏi xe đến mộ bia cầm chiếc áo vác lên vai. Nhánh bông hồng tôi tặng nàng đêm qua nằm trơ vơ dưới chân tấm bia đá có hàng chữ Hoàng Thị Tường Vi 1957-1990. Tôi rùng mình lần nữa.
Buổi chiều xuống chậm bao trùm lấy nghĩa trang buồn.


Thủy Lâm Synh
 
Chiều sương 1

Tác giả: Bùi Hiển


Vào một chiều trung tuần tháng giêng, chàng trai ấy lang thang trong những ngõ hẻm làng. Chàng đi không mục đích, hồn lặng thấm cái êm ả lắng tự vòm trời trắng hơi biêng biếc như giát bạc, cái êm ả của những cuối ngày thôn dã. Chàng đi và nghĩ đến trăm điều vu vơ, những ý nghĩ thoáng qua trong trí rồi vỗ cánh bay đi, như những con bướm đa tình vội hôn đóa hoa này để đến với hoa kia.

Chàng đi lơ đãng, đến nỗi sương tỏa xuống mù trời từ bao giờ mà chàng không biết. Sương bạc đã tỏa rất nhanh, một cách bất ngờ. Thấy ẩm lạnh trên đầu và có hơi nước đọng trên mi, chàng mới ngơ ngác nhìn lên.

Cảnh vật, như dưới một đũa tiên mầu nhiệm, đã tan biến trong giây phút. Chỉ còn trơ lại quanh mình những nét thâm thâm của vài nhánh cây khẳng khiu và những vuông xám mờ của các túp tranh. Những bụi xương rồng và râm bụt chạy hai bên đường đẫm sương, óng ánh, xanh tươi lại. Vài mạng nhện mắc giữa hai cành yếu, trắng toát như dệt bằng những sợi tơ bạc li ti.

Trời không lạnh lắm, nhưng hơi sương ngấm vào mình; chàng trai lẳng lặng trong tâm hồn buồn, cái buồn tê tái và mang mang, cái buồn ôm trùm, như kết bằng những sầu thảm nào mơ hồ và đã xa xôi lắm, tưởng tượng hay là thực, chàng cũng không biết nữa. Hơi ẩm đọng trên mi, chàng tưởng nước mắt rưng rưng.

Chàng đi lang thang, mặc hồn lang thang... Sương bay từng luồng, hạt sương bám khẽ vào da mặt như một làn phấn bụi.

Những tiếng người trao đổi trong sương, như gần như xa, lãng đãng. Ngoài sông mờ, bóng một chiếc thuyền chài sửa soạn ra khơi: sương mù đã tới báo mùa cá thụ Chàng rẽ vào nhà một ông bạn già. Chàng thấy lão đang ngồi xổm đan lưới, hai chân co trước ngực, mình quàng trong một manh chiếu vuông buộc túm một đầu để khoanh lấy cổ, thứ áo tơi và áo rét của dân chài.

Chàng chào, và lão Nhiệm Bình với dáng điệu giản dị của những người chất phác, vỗ vai người bạn nhỏ, bảo ngồi trên phản. Chàng hỏi:

- Cố (#1) không đi biển à?

- Không, chú ạ. Già rồi, không năng đi được nữa.

- Cố kể chuyện đi chài nghe đi.

Chàng nói thế bằng cái giọng nũng nịu của đứa cháu vòi bà. Chàng thường đến đánh bạn với lão chài, và ông lão, đối với chàng trai mới lớn, có một tình yêu thương che chở, tốt quá mức đến cưng chiều, như tình yêu thương mà tất cả những người già đùm bọc trẻ con. Lão cười đáp:

- Còn chuyện gì mà kể nữa! Chú nghe hết cả chuyện của tôi rồi.

- Không... Cố phải kể đi... à, cố kể chuyện ma đi. Cố đi chài có bao giờ gặp ma không?

Lão Nhiệm Bình có một nụ cười hồn hậu nhuốm vẻ độ lượng của kẻ không biết từ chối bao giờ.

- Chuyện ma à? Tôi cũng ít khi thấy ma lắm... Có vài lần thuyền neo ngoài khơi, tôi ngồi câu đêm, thấy giằng mạnh ở câu, vội kéo lên. ái chà, sao nặng khiếp. Mà lạ, chỉ thấy nặng thôi, như có tảng đá trì giữ lại, chứ không thấy giật giật vùng vẫy như con cá tọ Tôi nghĩ thầm: khéo lại cái nố ta (#2) rồi, hắn muốn trêu mình đây... Quả nhiên! Tôi vừa kéo câu lên khỏi mặt nước, thấy hắn xòa một cái, xanh lè cả nước biển, mình hết hồn. Nhìn lưỡi câu, con mực mồi vẫn còn nguyên.

Đó, tôi chỉ gặp vài lần như vậy thôi. Đêm khuya lạnh lẽo, vắng vẻ, chắc cụ buồn tình, bày chuyện phá mình tí cho vui.

Có người họ kể, đêm ở ngoài khơi, trời êm biển lặng, mọi người đang neo ngủ, thấy các chú bơi lù lù rồi trèo lên ngồi dăng dăng hai bên mạn thuyền; họ nói: "Thôi mà, anh em mình cả, trêu nhau làm gì?", thế là cả bọn nhảy sùm xuống, bơi đi.

Mồ ma ông cụ Bình khi xưa, dạn khiếp. Nửa đêm ông ta đi lưới về, qua dưới cây đa trước miếu, một bầy hắn bíu lấy taỵ Không thấy người đâu, nhưng nghe tiếng hắn léo nhéo xin cá. Ông ta đáp: "Chà, xin với xỏ, được mấy con cá về cho vợ con đây!". Thấy nhẹ trong rổ, sờ vô thì cá đã biến mất. Ông ta nạt: "Đồ quỷ, cứ nghịch thôi!". Thế là tiếng cười bật lên ríu rít, hồi sau lại thấy nặng rổ.

Lão chài kể như vậy, giọng bình thường như nói chuyện người dương gian (#3), tay vẫn thoăn thoắt đưa que đan qua mắt lưới. Chàng trai khẽ rùng mình thích thú. Chàng vốn không tin ma quỷ; chắc chắn đó chỉ là điều huyễn tưởng (#4), nảy sinh từ một khung cảnh, một tâm trạng nào đó; nhưng có thể nào không tin ở cái giọng kể từ tốn hiền hòa của ông lão! Trong ý nghĩ lão chài, chàng đoán, âm dương không phân ranh giới rõ ràng, cõi sống và cõi chết nương nhau vấn vít. Mấy chú ma, hồn của những người dân chài đã bỏ mình trong bão tố, trở về ngồi lặng lẽ trên mạn thuyền, chắc hẳn chỉ để tìm lại chút hơi ấm cuộc đời, vì cảm thấy lòng biển quá mênh mông, lạnh lẽo. Và tuy đã tìm thấy cái chết trong tai ương (#5), bi thảm và dữ dội, không phải bao giờ hồn họ cũng ngậm giữ oán hờn; họ còn biết nghịch ngợm đùa trêu người sống, và chàng trai tưởng nghe, vẳng từ sương mù dày đặc, tiếng cười giòn ríu rít của những cái bóng vô hình cạnh cây đa già miếu cổ...

- Có bao giờ người ta thấy một cái thuyền ma, hay cả một đoàn thuyền ma không, cố?

Chàng trai lại cất tiếng hỏi.

- Thuyền ma à?... à... có một lần, đã lâu lắm, chính mắt tôi thấy. Hồi ấy tôi còn trẻ lắm, tôi còn đi trai dưới thuyền mồ ma (#6) ông Phó Nhụy... Ờ cũng trời sương mù mịt như thế này, thuyền thì vừa tháo tố xong, thoát nạn chết này lại đâm liền vô nạn chết khác.

Bữa đó thuyền ra lạch...

*

* *

Sáng hôm ấy, một buổi sáng thanh quang. Bình minh giát ánh vàng trên những dải mây bông thoáng nhẹ. Các bác chài tay đưa chèo theo nhịp đều đặn, ngước nhìn trời, lòng không ý nghĩ, không lo lắng. Nhưng khi thuyền chạy ngang nhà Thương chính, một chiếc xuồng do hai đứa con nít chèo bỗng lướt ngang trước mũi. Mọi người chửi rủa chúng ầm ĩ; dân chài rất kiêng bị "ngáng đường" như thế, và ông lái hơi nhăn trán lại.

Ra khỏi lạch (#7), thuyền kéo buồm bắt cơn gió tây nam chạy thẳng ra khơi. Chiếc thuyền, dáng hơi nặng nề, lừ đừ tiến, hai mắt tròn trân trân nhìn về trước. Khi một ngọn sóng kéo đến, nó chồm dậy rồi đâm chúi xuống, làm tung tóe một làn nước bạc xóa. Càng xa bờ, sóng càng bớt mạnh, chỉ còn là những cái lượn, lưng cong và rộng, kéo lừ đừ nhưng hùng cường. Những mảnh nước lớn thốc vào dưới mũi thuyền khiến bọt trắng tóe, rồi tự rẽ đôi chảy róc rách hai bên mạn. Các bác chài đã gác chèo ngồi bện dây neo, quai chèo hay tán chuyện, có vẻ không biết đến sự nhồi lắc của sóng.

Gió lên lồng lộng, thuyền chạy phăng phăng, để lại sau một vạch phẳng lì, vì nước đã bị khối nặng của thuyền dàn ra. Nhưng chẳng bao lâu, những làn sóng lô nhô hai bên mép tiến vào và xóa mất vạch phẳng.

Càng xa bờ, gió càng mạnh, như dậy từ bốn phương của khoảng rộng. Nắng vàng và gay gắt thêm. Khi mặt trời đứng bóng, biển biếc ngả sang mầu lục.

ông Phó Nhụy, nhà nghề và chạy lái, ra lệnh bỏ neo (#8). Đoạn người ta tháo dây neo cho thuyền trôi tới gần chỗ đã thả bóng hôm trước. Bóng là một cái lồng tròn lớn và đan thưa, thả lưng chừng nước, trong có lót lá tre làm chỗ êm mát rủ cá lội vào. Cạnh bóng, người ta cột vài ba cây gầy, một loại tre vầu. Cá tìm thấy ở đó một nơi nghỉ tới nhóng xung quanh, có khi hàng đàn lớn.

Hai bác chài, lặng lẽ và nhanh nhẹn, ngồi đầu mũi thả lưới, trong khi thuyền, dưới mái chèo, nhẹ tiến tới. Sau một lát chờ đợi, thuyền lùi lại và hai bác, có thêm người trợ lực, kéo dần lưới lên. Những con cá mắc đầu vào mắt lưới, giãy đành đạch làm lóe những ánh bạc biêng biếc. Vài con cá nhỏ nhảy lanh tanh trong đám rong rêu lẫn những hạt tròn nhớt và trong, mà người ta gọi là trứng nước. Bình hồi ấy còn là một chú trai quèn, túm từng mảng lưới hất mạnh cho cá bật vào rổ rồi đổ dần cá xuống khoang. Từ khoang bốc lên một mùi tanh mặn và man mác, mùi của biển cả. Những con cá trích, cá đốm, lẫn cá thu, cá hồng, mắt tròn mở trân trân, há miệng méo xệu một cách tuyệt vọng cố hớp không khí, trong tiếng lách tách của vây cứng.

Thuyền nặng dần, đè ép sức lắc nhồi của sóng. Chú Trai đã đi thổi cơm. Xế trưa, thuyền nghỉ để dùng bữa. Trên mâm gỗ, lỏn thỏn hai bát cá đầy và một bát muối; cạnh mâm, một rá cơm và một xanh canh cá. Cơm xới trong bát đầy có ngọn, các bác chài và rất nhanh như chèo đua cho chóng xong bữa. Chợt một bác kêu:

- Nhìn kìa!

Và chỉ ra phía bên trái, chỗ mặt nước lăn tăn báo có đàn cá đi quạ Mọi người vội vàng bỏ đũa, kẻ chạy đến chèo, kẻ chạy đến lưới.

Họ mê mải trong công việc trong khi trời đã ngả về chiều. Mặt trời, lúc còn ba con sào, bỗng khuất sau đám mây. Bác Hoe Trăn nhìn lên và kêu:

- Coi kìa! Trời đổ ráng ngoài.

Mọi người nhìn theo, lo ngại. Ông nhà nghề, hơi rụt đầu trong cổ béo, quay ngó xung quanh, cũng kêu theo:

- Sắp có tố (#9) đến nơi!

Họ vừa nhận thấy điềm báo không thể lầm lẫn. Trời đã đột ngột đổ ráng ba phương đỏ rực: ráng ngoài, nơi chân trời, và phía trong bờ, hai ráng Lò (Cửa Lò), ráng Cương (Cương Gián). Mặt các bác chài đỏ cháy lên trong ánh phản chiếu. Ông nhà nghề ra lệnh:



- Kéo lưới lên! Giương buồm!

Chân người chạy trên sạp rầm rập. Các bác chài co chân đu mình trên dây để kéo buồm, miệng "dô hò" lấy nhịp. Một bác hỏi:

- Gió gì?

Người khác đáp:

- Gió trong. Khó tháo kịp.

Gió từ bờ thổi ra, thuyền cố vát (#10). Sóng vùng lên, cuốn, réo, đuổi dồn nhau, va vào nhau tóe bọt, ngụp xuống, trồi lên, đã thấy một sức mạnh hỗn độn và bất ngờ trong gió vừa cuồng lộng (#11) thổi. Buồm vát không ăn gió, xương buồm đánh cành cạch lên cột, có khi cọ vào gỗ rít ghê tai. Hình như thuyền trôi lùi ra khơi. Nhìn vào bờ để lấy cữ, ông Phó Nhụy kêu:

- Mưa đến rồi!

Phía bờ đã mờ mịt sau màn mưa trắng bệch, mặt sóng trong kia thâm sẫm lại. Mưa tiến ra khơi rất nhanh phát thành tiếng ào ào, một giây sau, các bác chài, ngồi co mình trong tơi chiếu, đã vuốt mặt không kịp.

Một bác bảo:

- Bỏ neo thôi, không lại bạt mãi ra ngoài khơi đông xích đế cho mà coi.

Neo buông xuống nước. Trong khi dây neo tụt xuống vùn vụt, thuyền trôi lùi về sau, đoạn giật nảy mình, chúi hẳn mũi: dây đã tháo hết. Người ta hạ buồm. Nhưng từ đó, thuyền cứ hục hặc với dây neo như một con trâu dữ bị buộc. Sóng đánh té tát, khi mũi thuyền chúi xuống thì vội thừa dịp nhảy chồm, nước tóe trang lang đến tận sau lái. Nhưng rồi chiếc thuyền rấ khỏe, lại hếch cái mũi ướt sướt mướt, chờ mảng nước khác. Ông nhà nghề nhảy tới ngồi phục ở mũi thuyền, tay lăm lăm cầm con dao rựa. Những giọt nước lớn ném vào mặt ông như vốc đá cuội, khiến rát bỏng da.

Một lần, thuyền tì lại nặng quá. Nước thốc từng mảng lớn, thuyền dốc đứng tưởng như cứ thế mà đâm thẳng xuống đáy sâu như một cái dùi. Các bác chài, miệng há ngờm ngợp vì bị nước đánh tối tăm mặt mũi, rời chỗ vịn, lăn trên sạp lông lốc. Ông nhà nghề bị ngụp trong mảng nước. Không trì hoãn được nữa! Một tay bám cọc chèo lấy thế, ông vội giơ cao con dao rựa, phăm phăm bổ xuống. Dây neo đứt phựt. Con thuyền hết ràng buộc quay mình trôi phăng phăng. Các bác chài vội nhảy đến đầu mũi giúp sức ông nhà nghề hất xuống nước cái neo sắt còn lại, mà ông này vừa chặt cánh gỗ đi. Không còn cánh, mỏ neo không cắm, nằm bẹt trượt trên nền đáy biển như một hòn sắt nặng. Như thế, thuyền không bị giằng lại, mà cũng chỉ trôi từ từ, kéo cái neo sắt rê trên đáy cát.

Nhưng gió vun vút lên mãi, mưa bay ngang chích vào mặt dày đặc thêm, sóng giận dữ gầm réo, nổi lên như núi. Mặt người nào người nấy tái mét; tuy có tơi che, quần áo họ ước mềm dính vào da, và vải đã bở sẵn, khi thấm nước rách toạc nhiều chỗ. Chú Trai, lúc nãy bị sóng đánh lăn xuống khoang, ở luôn dưới ấy tát nước, tay lia lịa đưa cái mu sam (#12). Hai bác chài tới giúp sức, chuyền cho nhau những thùng nước đầy để trút ra ngoài. Thuyền giằm, ít bị nhồi lắc, nhưng sóng dễ tràn lên; nước trong khoang nhiều đến nỗi cá nổi lềnh bềnh. Theo lệnh ông lái, người ta xúc cá đổ bớt ra ngoài; nhưng sóng biển, trong một hằn thù mai mỉa, đánh vào thuyền, trả lại. Những con cá đập lên áo các bác chài và nằm trắng ràn rạt trên sạp, chờ một ngọn sóng tràn qua liếm đi và thay bằng lớp khác. Thuyền nhẹ bớt, nổi hơn, nhưng vì thế lại làm mồi thêm cho gió, trôi phăng phăng. Người ta bèn xở buồm (#13), buộc dây vào bốn góc, rồi thả xuống biển. Gặp nước, buồm mở tung như một chiếc diều mà đầu lèo (#14) đã cột vào mũi thuyền. Nước cản tấm buồm rộng căng, làm cho thuyền bớt trôi.
 
Chiều sương 2


Đoạn, mọi người lại ngồi im lặng, co ro, cho mưa dội, sóng nhồi, gió táp. Màn mưa xám càng lúc càng sẫm thêm, rồi bóng tối ăn loang khắp không gian. Ông nhà nghề bảo:

- Anh em ai có đói, bốc nhúm gạo mà nhai.

Nhưng không ai trả lời. Họ ngồi thu mình, run run trong cái lạnh của nước ngấm vào da thịt.

Chừng quá nửa đêm - họ chỉ đoán vậy, và không còn một ý niệm nào về thời gian - sóng bớt gầm réo và bớt nhồi lắc, gió hạ dần, nhưng mưa vẫn rơi liên miên. Con thuyền mệt nhọc xang đưa (#15) lừ đừ. Và khi một ánh trắng xám ló nơi chân trời, thì biển đã lặng hẳn. Các bác chài, tai còn đầy cái huyên náo hồi đêm, nghe trong đó ù ù như điếc. Họ không còn đủ sức để tỏ niềm vui mừng; một cảm giác mỏi mệt và co rút hầu như làm tê liệt các bắp thịt.

Mầu trắng sữa liếm dần bóng tối của vòm trời, và mưa đã ngớt hẳn. Nhưng trên mặt biển, ùn ùn từ đâu đến - dân chài bảo từ Thủy phủ (#16) đùn lên - một đám sương mù dày đặc, mang vị mặn và hơi lạnh thấm thía. Người ta kéo cái neo sắt lên, đẽo cánh mới lắp vào, rồi neo thuyền cho đứng yên. Mỗi người góp một câu để đoán vị trí của thuyền. Họ chắc ở ngang Thanh Hóa, vì trong cơn bão, gió chướng (#17) thổi từ phía tây nam. Nhưng còn cách bờ bao xa thì không ai đoán được. Một bác chài đo được hơn năm mươi sải nước và họ biết là đã bị giạt ra ngoài khơi xa lắm.

Đột nhiên, không ai bảo ai, tất cả im lặng: họ vừa ngửi thấy một mùi kì dị, một mùi nhạt và ẩm ướt, tanh lợm như mùi rong rêu. Rồi một bóng đen dài hiện trong sương, phía trước mặt. Một người đoán:

- Chết, mình trôi đến cồn đá. Ra nãy giờ neo rê.

Một người khác đáp:

- Neo rê thì biết liền chứ. Đó là cái thuyền, nhìn kỹ mà coi.

Quả nhiên trong sương bóng đen rõ dần thành một chiếc thuyền, trên đó lố nhố những bóng người chèo. Họ chèo lặng lẽ dị thường, tưởng như thuyền lướt trên biển dầu. Một bác chài bắt loa miệng hỏi:

- Ai đó?

Thuyền bên kia có người đáp:

- Thuyền Xin Kính đây. Có phải thuyền ông Phó Nhụy bên ấy không?

ông Phó Nhụy hỏi bạn chài:

- Tiếng ai nhỉ? Nghe giọng lạ gớm. Mà sao họ biết thuyền mình?

Đoạn cất cao tiếng:

- Tôi Phó Nhụy đây. Thuyền bên ấy cũng vừa tháo tố đó phải không? Có biết đây là đâu không?

Bên kia đáp:

- Ngang Cương Gián. Giờ phải đi xế lên mà vô lạch.

Trên thuyền ông Phó Nhụy, người bàn cãi lao xao. Gió thổi từ phía nam, sao thuyền lại giạt xuống ngang Hà Tĩnh được? ông Phó Nhụy lại hỏi to:

- Sao mà biết?

Bên kia có một câu trả lời kì quặc và bí mật:

- Sao lại không biết... à kìa, nồm vừa thổi đó, ta bắt ngọn gió này mau mà lên lạch.

Trong nháy mắt, đã thấy thuyền bên kia giương buồm. Chẳng hiểu sao họ làm nhẹn và lặng lẽ được đến thế. Ông Phó Nhụy, tuy bụng phân vân, sai kéo buồm chạy theo. Trong lúc tâm trạng đang bơ vơ và còn in dấu vết sự hãi hùng vừa qua, người ta không muốn rời bỏ bạn đồng hành đã gặp tình cờ.

Gió quá nhẹ, buồm không ăn gió đập phần phật. Sương tạt từng luồng như một cơn mưa trắng. Thuyền đi trước vẫn chỉ nom thấy dáng mờ mờ ảo ảo như trong giấc mơ, với quãng cách không thay đổi.

Chợt chú Trai kêu:

- Có ai như người trôi kìa?

Một bác dùng sào khều cái vật trôi lềnh bềnh đen thui và nói:

- Người thật.

Họ cúi vớt người kia lên. Tay anh ta co quắp còn cắp chặt trong nách một cái chèo ngắn; mặt anh ta tái nhợt, mắt nhắm nghiền, hai hàm răng cắn khít.

Một người bảo:

- Hà hơi, hà hơi đi, hình như còn thở thoi thóp.

Từ bên kia thuyền Xin Kính, tiếng người hỏi:

- Vớt được ai đó?

Mọi người cúi nhìn tận mặt kẻ bị nạn, nhưng không nhận ra ai. Mặt anh ta co rút nhăn nhúm đến nỗi đã méo dệch hẳn đi. Chú Trai góp ý kiến:

- Giống như anh Hoe Chước.

ông Phó Nhụy nói to sang thuyền kia:

- Hoe Chước!

Nhưng ông lại chợt nhớ ra. Sao thế được nhỉ? Hoe Chước đi bạn (#18) trên thuyền ông Xin Kính kia mà? ông hỏi to:

- Có Hoe Chước bên ấy không?

Thuyền bên kia có một im lặng kì quặc. Chú Trai, thính tai nhất trong đám, nghe như bên kia đang bàn cãi gì láo nháo. Chú bỗng kêu lên:

- Ô kìa, đâu mất rồi?

Thuyền ông Xin Kính vừa biến đi, như vụt chìm xuống đáy biển. Cái bóng cả thuyền lẫn buồm, đen nhờ nhờ, chỉ còn để lại một khoảng trống không trắng toát, khoảng trắng ấy nhòa dần vào màu sương phơn phớt xám. Trên thuyền ông Phó Nhụy, mọi người câm lặng, tim bóp chặt trong một lo âu ghê rợn, mở to mắt nhìn trân trân.

Chú Trai lại kêu:

- Có tiếng gì om om lạ gớm?

Cùng một lúc, tất cả ai nấy đều nhận ra quả có tiếng sóng đánh phòm phọp âm âm như vỗ vào hang hốc. Ngay trước mặt, một khối to đen đồ sộ vụt xuất hiện, chỉ cách thuyền vài chục thước. Tức thời, ông lái nhảy bổ tới, túm lấy lèo, giằng riết. Chiếc thuyền quặt mũi về bên trái, có một phút do dự rồi tiến theo ngả mới. Các bác chài vội chạy đi tra chèo, ráng sức chèo tới. Cái khối đen mờ dần trong sương, rồi biến đi. Ông Phó Nhụy thở phào: thuyền ông vừa suýt đâm phải núi đá.

Khi thuyền ông Phó Nhụy, sau một buổi chạy vờ vật ngoài khơi, lần về tới lạch, thì anh Hoe Chước hơi tỉnh. Anh kể rằng trong cơn bão, thuyền ông Xin Kính bị sóng đánh giạt vào núi đã vỡ tan tành, và có lẽ chỉ mình anh sống sót, vì đã vớ được một cây chèo nhảy trước xuống biển. Những người kia, sau đó, nếu có nhảy khỏi thuyền cũng đã muộn và bị sóng quật vào lèn đá (#19) đến rã xương.

Vợ họ nay vẫn sống trong góa bụa - có người đã chết. Và cái hy vọng mong manh một ngày trở về của người thân cũng đã tắt trong họ từ lâu.



Chú thích:

(1-) Cố: tiếng dùng gọi người già.

(2-) Cái nố ta: lũ chúng.

(3-) Dương gian: cõi dương (đối lập với cõi âm), thế giới người sống.

(4-) Huyễn tưởng: mơ tưởng, ý tưởng viển vông, không có thực (gần giống như ảo tưởng).

(5-) Tai ương (như tai họa): điều rủi ro, gây nên tổn thất, đau khổ lớn.

(6-) Mồ ma: thời còn sống của một người nào đó đã mất.

(7-) Lạch: đường nước chảy hẹp, thông ra sông, biển.

(:cool: Neo: vật nặng buộc vào dây thả chìm dưới nước để giữ cho tàu, thuyền đỗ lại, không trôi.

(9-) Tố: gió mạnh đổi chiều đột ngột xảy ra trong cơn giông.

(10-) Vát: lệch, xiên chéo.

(11-) Cuồng lộng: gió thổi điên cuồng ở nơi trống trải.

(12-) Mu sam: mu con sam, cứng và lõm, có thể dùng làm gầu múc nước.

(13-) Xở: gỡ; xở buồm: gỡ buồm.

(14-) Lèo: dây buộc từ cánh buồm đến chỗ lái để điều khiển buồm.

(15-) Sang đưa: đưa qua đưa lại; đung đưa.

(16-) Thủy phủ (như thủy cung): nơi ở của thủy thần, Long vương.

(17-) Gió chướng: gió ngược, thổi từ phía tây.

(1:cool: Đi bạn: người đi làm thuê cho vụ, việc.

(19-) Lèn đá: núi đá có vách dựng đứng.
 
Chiếm đoạt...

Tác giả: Tam Tang



Sáu năm trước đây nhân kỳ nghỉ hè, tôi cùng với mẹ về thăm ông bà ngoại tôi ở Ban Mê Thuột. Gia đình của ngoại tôi sống ở cây số 5 và gia đình cậu Ba tôi ở cách đó chừng 2 cây số. Vùng này có nhiều đồn điền cafe và cao su do người Pháp trồng từ mấy chục năm trước. Nhiều người sống ở vùng này là công nhân cho các đồn điền của những người Pháp này. Mẹ tôi lập gia đình và theo chồng về Nha Trang vì bố tôi làm việc ở đó. Tôi rất thích chạy nhảy dưới các tàng cây cao su được trồng thẳng tắp bát ngàn này. Mùa hè cũng là mùa cafe nở hoa, mùi thơm dịu dàng của hoa cafe cũng làm tôi sảng khoái lắm. Nhìn những chùm bông trắng mọc dày kịt trên các cành cafe làm ta liên tưởng đến các cành hoa anh đào ở xứ Nhật!

Tôi cũng thường tới nhà cậu Ba tôi chơi và ngủ lại ở đó. Vợ chồng cậu Ba rất dễ dãi và vui vẻ, họ chưa có con nên quý tôi lắm. Có một điều lúc đầu làm tôi hơi sợ là có nhiều sự kiện lạ xảy ra trong nhà cậu. Như có lúc cả nhà đang chơi đánh cờ cá ngựa với nhau thì tự dưng các con cờ bị hất đổ cả xuống sàn nhà. Tôi sợ xanh cả mặt nhưng cậu tôi chỉ cười rồi nói "Vui nhỉ, làm ơn xếp lại cho tôi nhờ". Thế là các con cờ lại như có cánh bay trở lại chổ cũ trên bàn. Cậu tôi trấn an tôi và mọi người lại tiếp tục chơi. Cũng có vài sự việc lạ khác xảy ra ở nhà cậu, nhưng tôi thấy mọi người tỉnh queo nên riết rồi tôi cũng coi những việc này là sự thường. Vợ cậu nói chuyện với mẹ tôi là cậu tuy là có Đạo (Thiên Chúa) nhưng hay giao du với những người Thượng làm trong cùng đồn điền và học cách giao tiếp với ma quỷ ở thế giới bên kia! Chỉ có vợ cậu và tôi tin là cậu có thể thông tin với thế giới bên kia vì chúng tôi đã chứng kiến những sự kiện lạ thường xảy ra trong nhà, còn những người khác thì chỉ mỉn cười chứ trong lòng họ không tin chuyện đó là có thật.

Một hôm Chủ Nhật mọi người rủ nhau đi chơi ở thác Trinh Nữ (sở dĩ thác này có tên là Trinh Nữ vì cứ mỗi năm đến dịp Noel và Tết Nguyên Đán, nam thanh nữ tú rủ nhau đến thác này chơi rất đông, và một điều đáng nói là hằng năm thường có một vài cô bị trượt chân và chết ở thác này, các cô này thường còn trẻ nên người ta đặt tên là thác Trinh Nữ). Khi mọi người đến thác thì cũng đã quá trưa nên cùng nhau trải bạt và dọn thức ăn ra để ăn trưa. Ở trên bờ sông có nhiều tảng đá rất to cao, trên có mọc các cây nhỏ và dây leo trông rất đẹp, có những tảng đá khổng lồ hợp với nhau thành một hang khá rộng mà người ta gọi là Hang Dơi, trong hang không khí ẩm thấp và hôi vì mùi dơi và phân của chúng. Nói chung thì cảnh vật rất hùng vĩ và đẹp. Thật ra thác Trinh Nữ nên được gọi là gềnh thì đúng hơn vì nó không đổ từ trên cao xuống như những thác ta thường thấy, nó chỉ là dòng nước xoáy xiết khi chảy ngang qua các tảng đá khổng lồ nằm chặn ngang qua giòng sông. Có rất nhiều tảng đá lớn nhỏ và người gan dạ có thể nhảy từ hòn này qua hòn nọ và băng qua sông. Trên các tảng đá này rêu mọc xanh dờn và rất trơn trợt. Cũng vì ham ra các tảng đá để nhìn ngắm dòng chảy mà đã có nhiều cô trợt chân té xuống giòng nước xiết và bị cuốn chìm kẹt trong các hốc đá mà chết.

Khi mọi người ăn xong và nằm nghỉ mát dưới các bóng cây, cậu tôi leo lên các tảng đá ở giữa giòng và kêu mọi người ra xem sự gan dạ của mình. Mặc cho ông bà Ngoại tôi và các người khác kêu réo cậu trở vào! Cậu vẫn nhảy thoăn thoắt từ tảng này qua tảng khác! Và rồi việc kinh hoàng đã xảy ra! Cậu tôi trượt chân té nhào xuống giòng nước đang cuồn cuộn chảy xiết trong những tiếng kêu thất thanh của mọi người. Không ai dám nhảy xuống để cứu vì có xuống cũng sẽ bị hút chìm theo giòng xoáy mà thôi. Ông tôi vội chạy đi kêu cứu và gần một tiếng sau trở lại với mấy người thợ lặn cát (những người này làm nghề lặn lấy cát ở dưới lòng sông lên bán). Họ lặn xuống kiếm cả gần hai tiếng mới tìm thấy xác cậu bị vướng dưới một khe đá cách thác chừng 100 mét. Ngày đi chơi hóa ra ngày đại nạn cho gia đình. Mọi người đều ủ rủ chở xác cậu về nhà để lo việc an táng. Bà ngoại và mợ tôi thì đã ngất xỉu và được chở về nhà từ trước rồi.

Ngày an táng đến và sự kiện lạ bắt đầu xảy ra ở nhà cậu Bạ Vợ cậu mặc đồ tang nhưng không biết nên chọn áo ngực màu gì, cái màu đen hay cái màu trắng, cuối cùng mợ chọn cái màu trắng mặc và rồi đi kiếm cái nhẩn đính hôn để đeo. Mợ không tìm thấy nó trong hộp nữ trang mà mợ đã cất giữ. Mợ chạy đến nhà ông bà ngoại và nói điều này, bà ngoại nói lấy cái nhẩn của bà đeo đỡ cũng được. Khi mợ mở cái hộp nữ trang của bà ngoại thì lạ thay cái nhẩn đính hôn của mợ nằm ở trong đó! Không ai biết làm sao cái nhẫn lại nằm trong đó được!

Trong khi cử hành nghi thức chôn cất ở nghĩa trang, tôi luôn cảm thấy như có ai đó nhìn tôi từ trên cành cây cao phía trên đầu tôi. Tôi cứ ngước mắt lên nhìn để xem có ai núp trên đó không! Tuyệt nhiên không có ai trên đó cả, nhưng cái cảm giác đó vẫn bám lấy tôi suốt buổi lễ. Khi ra về mẹ hỏi tôi làm gì mà cứ nhìn lên cành cây trên đầu vậy, tôi nói là có ai núp nhìn tôi từ trên cành cây đó. Mẹ tôi chỉ buông một câu "Mẹ biết!"

Sau khi mọi người ăn cơm xong ở nhà ông bà ngoại, mợ Ba xin cáo từ ra về. Khi về tới cửa nhà, mợ giật thót mình vì cái áo ngực màu đen nằm chình ình trước ngưởng cửa như muốn nói là "cái này mới chính là cái cô nên mặc". Mợ mỉm cười và nghĩ đó là do cậu Ba làm ra! Mợ vào nhà lục các thư mà cậu mợ viết cho nhau trước khi cưới đem đi đốt hết vì sợ thấy chúng càng làm mợ đau lòng thêm.



Một hai tuần trôi qua, những sự việc nhỏ xảy ra như các thư mà cậu Ba viết cho mợ khi xưa lại xuất hiện chổ này chổ khác trong nhà, mặc dù những thư này mợ đã đốt đi từ hôm chôn cất cậu rồi! Cửa nhà được gài khóa lại nếu mợ quên khóa nó khi đi ngủ. Mợ cho đó là do cậu làm để muốn bảo vệ cho mợ thôi. Rồi thì mợ bắt đầu đi chơi với bạn bè cho khuây khỏa, nhưng cũng từ đó sự kiện xảy ra trong nhà có khác biệt hơn, không còn những việc như có tính cách tình tứ hay chăm sóc bảo vệ nữa, mà thay vào đó là những đồ vật mợ cần thì bị mất một cách bí mật, cửa phòng mở ra đập vào giữa đêm khuya, chén dĩa bị rớt vỡ sổn sảng trong nhà bếp. Mợ không ngủ yên được trong đêm vì các tiếng động này, thêm vào đó mợ luôn nghe có tiếng chân bước quanh giường mợ trong đêm.



Bữa kia mợ đang trang điểm để đi ăn đầy tháng con của một người bạn thì phấn son đang ở trên bàn như bị ai hất bay cả xuống đất. Tức quá mợ thét lên "Có để chúng lại chổ cũ cho tôi không thì bảo!!" rồi mợ rời phòng. Khi quay trở vào thì các vật đã trở về chổ cũ. Rồi những sự việc bực mình như thế cứ xảy ra hàng ngày làm cho mợ từ bực mình đâm ra sợ hãi! Mợ nghĩ có thể hồn ma phá phách mợ không phải là câu Ba! Mợ đã đoán đúng điều này, hồn ma trong nhà không phải là cậu Ba...

Mợ Ba thật sự không tin là cái hồn ma trong nhà là cậu Ba, vì nếu là cậu thì làm thế nào mà cậu lại làm những điều có hại cho mợ được vì cậu rất thường yêu mợ mà! Mang ý nghĩ đó trong đầu, một hôm mợ quyết định tới gặp một thày phù thuỷ ở buôn ALê B. Khi mới bước vào nhà sàn của thày phù thuỷ, ông ta trợn mắt nói:

_ Trời ơi! Cô đang trải qua một thời kỳ hải hùng trong đời cô! Chồng cô vừa chết trong vòng 3 tháng trở lại đây có đúng không?

Mợ Ba hoảng kinh vì mợ còn chưa nói cho ông ta biết mợ là ai nữa vậy mà ông ta có vẻ nói trúng phóc những gì đang xảy ra cho mợ! Mợ trấn tỉnh rồi làm bộ hỏi lại:

_ Thày nói chuyện gì vậy?

_ Tôi thấy âm khí bao phủ đầy người cô đó! Nó quyện lẫn đầy sự thất vọng, buồn rầu, và sự ganh ghét! Cô có thể để tôi tới thăm nhà cô được không?

Mợ đồng ý để ông phù thuỷ tới thăm nhà, và mợ rồi trở về nhà mình. Khi mở cửa nhà thì một cảnh tượng xáo trộn chưa từng thấy ở trong nhà mợ! Bàn ghế bị lật đổ , bóng đèn bị đập vở, trên tường nhà đầy những vết cào xước! Mợ nghĩ ra ngay là con ma trong nhà không thích việc mợ đi gặp thày phù thuỷ! Nhưng là một người gan dạ, mợ không để việc này làm thay đổi điều mà mợ đã đồng ý cho thày phù thuỷ tới nhà!

Hôm sau ông phù thuỷ tới nhà và gỏ cửa. Một giọng đàn ông trầm trầm nói tiếng Pháp mời thày vào nhà. Thày vào trong nhà và cảm thấy có sự hiện diện lạnh lùng của một ai đó trong nhà! Thày ngồi đợi ở phòng khách và rồi mợ từ trong bếp bước ra. Mợ rất kinh ngạc vì thấy thày phù thuỷ đang ngồi trên ghế! Mợ hỏi:

_ Thày đến hồi nào vậy? Tôi đâu nghe tiếng gỏ cửa của thày đâu? Làm sao thày vào nhà được vậy?

Thày nói cho mợ biết các điều đã xảy ra và mợ cho thày biết là khi cậu Ba còn sống thỉnh thoảng cậu cũng có giao lưu với hồn của một người Pháp, người Pháp này chết từ năm 1945 khi Việt Minh nổi dậy đánh chiếm chính quyền ở đây. Mợ còn cho biết thêm là cái hồn này nhiều lần yêu cầu cậu Ba cho nó được giao lưu với mợ Mợ thường cảm thấy có ai đó nhìn và mơn trớn mợ mỗi khi mợ tắm hay thay quần áo! Nhưng mợ cho thày biết là cái hồn này lâu nay đã rời nhà khi mợ vô tình đốt một gói giấy gì đó của cậu, vì từ đó mợ không còn cảm thấy bị có ai nhìn lén nữa! Tuy thế mợ cho là cái hồn ma này cũng tử tế chứ không dữ dằn gì cả! Nghe xong câu chuyện, thày xin phép đi xem vòng vòng trong nhà, mợ gật đầu. Thày đi chậm chậm vòng vòng trong nhà chừng 10 phút rồi bổng đứng khựng lại. Thày quay lại phía mợ, mặt trắng bạch nói trong hơi thở:

_ Cô phải rời nhà này càng sớm càng tốt!

_ Có chuyện gì vậy thày? Làm ơn cho tôi biết đi?

_ Không thể chần chờ được! Mau đến nhà tôi ngay đi rồi tôi sẽ nói cho cô nghe! Chúng ta cần phải rời căn nhà này gấp!

Khi cả hai về đến nhà thày phù thuỷ, thày mới nói:

_ Cô đoán đúng! Cái hồn ma trong nhà không phải là chồng cô! Nó là một người Pháp, và cũng có thêm mấy hồn ma người Thượng khác, nhưng hồn ma Pháp là kẻ cầm đầu. Ngay cả khi chồng cô còn sống cái hồn này đã có ý thích cô rồi, cũng vì thế mà nó làm cho chồng cô bị trượt chân rớt xuống thác chết để độc quyền chiếm lấy cô đó! Nó phá cô vì nó ghen tuông đó mà!

Mợ Ba nhớ lại là thời gian đầu sau khi chồng chết thì con ma đối xử với mợ rất nhả nhặn, và có vẻ chăm sóc mợ lắm. Nhưng từ khi mợ bắt đầu đi chơi với bạn bè thì nó bắt đầu trở nên hung bạo! Có lẽ nó ghen với mợ thì phải! Mợ chợt nhớ ra điều gì vội hỏi:

_ Lúc ở nhà tôi có gì ghê gớm xảy ra sao tôi thấy mặt thày trắng bạch ra vậy?

_ Tôi cảm thấy một luồng khí lạnh bao trùm lấy tôi và một giọng ồm ồm bằng tiếng Pháp bảo tôi là hãy để cô yên vì cô là của hắn ta, hắn còn nói là nếu tôi mà không nghe lời hắn thì hắn sẽ thanh toán tôi! Rồi hắn đuổi tôi ra khỏi nhà ngay lập tức đó! Nhưng tôi thấy tội nghiệp cô nên tôi mới khuyên cô rời nhà đó! Cô hãy nghe tôi đừng trở lại ngôi nhà đó nữa nhe chưa!!!



Mợ đồng ý và đêm đó mợ ngủ lại nhà của bà ngoại. Nhưng mợ cần một số quần áo và vật dụng cá nhân cho nên chiều tối đó mợ nhờ một người bạn trai tên Tài (làm cùng sở với mợ) chở mợ về nhà để thu nhặt các thứ cần dùng. Khi cả hai vào trong nhà thì đồ đạc cũng lại bị lật tung lên, ngã đổ ngổn ngang! Chú Tài thấy cảnh tưởng như vậy mới hỏi lý do, mợ nói sơ sơ về hoàn cảnh của mợ! Chú ta không tin và cho là chắc có kẻ nào đó thích phá phách mợ thôi! Mợ nói đó là sự thật và nếu chú ấy muốn nghe thì mợ sẽ kể cho chú ấy nghe. Cả hai ngồi ở phòng khách và mợ bắt đầu kể đầu đuôi câu chuyện cho chú ấy nghe.



Trong khi kể thì chú Tài thường ngắt quảng và đưa ra các câu hỏi và những nhận xét của mình. Khi mợ chấm dứt câu chuyện thì đồng hồ cũng đổ 9 giờ đêm. Mợ vội vàng vơ vài thứ cần thiết và nói với chú Tài mau rời khỏi nhà. Cả hai vừa định bước ra phía cửa thì nghe có tiếng đập nhè nhẹ Ở cửa, cả hai lắng nghe và tiếng đập mỗi lúc một mạnh hơn. Rồi tiếng đập như là có ai đang đấm vào cửa vậy. Chú tài lấy hết can đảm bước tới phía cửa để mở! Khi chú ấy còn cách vài bước thì hai cánh cửa chợt như long bản lề bay về phía chú làm chú phải nhảy lùi lại để tránh! Nhưng cái cánh cửa không ngã xuống mà bay trở về vị trí cũ như không có gì xảy ra hết! Mặt mợ và chú Tài đều sợ dến trắng bạch cả ra, và chú ôm lấy hai tai rồi la lớn là phải rời khỏi nhà ngay lập tức.



Cả hai tông cửa chạy ra ngoài, chú Tài leo lên mở khoá và đạp cho chiếc Honda nổ máy! Nhưng không biết vì quá sợ hay vì lý do nào đó mà cái xe không chịu nổ !! Gió thổi vi vu lạnh buốt, không biết chú Tài thấy gì hay vì lạnh mà tay chú run lẩy bẩy, miệng chú đánh bò cạp! Chú ấy sợ muốn đái cả ra quần!! Cuối cùng chú ấy bật lên được một câu:

_ Tôi để cô ấy một mình! Hãy cho tôi đi!

Xe bổng nổ máy và chú ấy nhảy lên xe dọt mất! Mợ Ba sợ quá cắm đầu phóng ra đường và chạy một mạch về nhà ông bà ngoại tôi! Từ đó mợ Ba không bao giờ dám bước chân về căn nhà đó nữa. Ông bà ngoại tôi là người đứng ra bán căn nhà đó. Nghe nói người chủ sau có mời một vị Linh Mục tới làm phép trừ ma cho căn nhà và họ sống yên lành trong căn nhà đó.

Sau ngày đó mợ thỉnh thoảng muốn nói chuyện với chú Tài khi họ gặp nhau trong sở làm, nhưng chú ấy luôn lẫn tránh. Sau cùng chú ấy xin nghỉ và đi làm ở chổ khác để tránh việc chạm mặt mợ Ba !!

Cuối cùng mợ tái giá và theo chồng về Nha Trang. Tôi cũng thỉnh thoảng đến thăm mợ vì ở cùng một thành phố! Một hôm mợ có cho tôi coi một bức thư của chú Tài trong đó chú nói là xin lỗi mợ vì đã bỏ rơi mợ lại đêm đó và đã làm ngơ không chuyện trò với mợ từ đêm xảy ra sự cố ! Chú ấy nói là lúc cánh cửa long ra rồi ghép lại thì chú ấy nghe tiếng nói cùng khắp nhà vang lên. Chúng kêu lên là mợ là của chúng và nếu chú không rời mợ thì chúng sẽ giết chú hay làm chú trở nên điên khùng. Cũng vì sợ mà chú đã làm những điều không nên làm đối với mợ. Mợ cũng đã viết thơ trả lời và thông cảm với những điều mà chú ấy đã đối xử với mợ!

Từ khi bỏ nhà đi và sau đó căn nhà được vị Linh Mục trừ quỷ thì mợ Ba, chú Tài, và tất cả những người trong gia đình không còn bị quấy rầy bởi cái hồn ma Pháp và mấy tên đầy tớ Thượng nữa! Có lẽ Bề Trên đã đem chúng về chổ chúng phải được ở sau khi chết. Chúng đã lẩn trốn và lang thang trên trần thế cả mấy chục năm rồi!

Chú thích:

Viết theo ý của một chuyện ma mà tôi được nghe kể bởi một người bạn trước sống ở Ban Mê Thuột nay sống ở Massachusetts.

Rất nhiều người Thượng (nhất là những người già) trên Cao Nguyên biết nói và đọc tiếng Pháp vì trong thời Pháp thuộc vùng này thuộc quyền cai trị của người Pháp chứ không phải dưới sự cai trị của vua quan nhà Nguyễn.
 
Chiếc Vòng Cẩm Thạch 1


Hôm nay là một ngày thật đặc biệt, một ngày vui mừng, ngày đám hỏi của Dung. Tối hôm qua, Dung không ngủ được, cô nôn nóng chờ ngày này đã mấy tháng nay rồi, kể từ lúc Đức cầu hôn với cộ Ngồi trước gương, Dung ngắm đôi mắt hơi sưng, chậm một lớp phấn hồng lên má, cô mỉm cười nhớ đến Đức. Chắc giờ này anh cũng hồi hộp như mình thôi, nhiều lúc Dung thấy Đức thật giống như con nít. Ở nhà ngoài, tiếng ba Dung đang oang oang hối mấy đứa em cô dọn dẹp nhà cửa. Dung đứng lên, vuốt nhẹ lên thân áo dài, hình như Đức và ba má anh đã tới. Nhóc Hùng hé cửa phòng, ló đầu vô nháy mắt:

-Chị Dung ơi, ba kêu chị ra kìa! Dung ngoắc Hùng:

-Chị run quá, em coi chị có được không?

Hùng kéo lại chiếc cà vạt nghiêng thắt dở:

-Chị đừng lo, bộ chị sợ anh Đức ảnh đổi ý hay sao? Nói xong, nó cười hi hi, lè lưỡi ra rồi bỏ chạy trước khi Dung kịp ký đầu nó. Bên ngoài phòng khách mọi người đều im lặng khi Dung bước ra, cô cảm thấy thẹn thùng, hai bàn tay thừa thãi. Trong tiếng cười của mọi người, có tiếng lách cách và ánh sáng chớp lên của những cái máy chụp hình. Đức lại gần Dung, nắm lấy tay cô và kéo đến trước mặt mẹ anh. Mẹ Đức là một người đàn bà đẫy đà có gương mặt phúc hậu, bà mỉm cười:

-Từ hôm nay con có thể kêu bác là mẹ như Đức, mẹ có quà này cho con.

Mẹ Đức trịnh trọng lôi một chiếc hộp gỗ trong ví ra, bà mở nắp hộp, cầm lấy tay Dung, vừa đeo lên tay cô vừa nói:

- Đây là quà của một người bạn thân tặng cho mẹ, mẹ chưa dùng bao giờ vì đeo không vừa, nhưng đây là một vật vô giá, mong rằng con sẽ thích....

Dung cẳm động lí nhí cám ơn, chiếc vòng mầu đỏ mát lạnh vừa khít với cổ tay nhỏ nhắn của cô và nổi bật trên nền da trắng mịn. Thủ tục sau đó là đeo bông tai, đeo kiềng, nhẫn, lỉnh kỉnh, nhưng mọi người ai cũng trầm trồ khen chiếc vòng đặc biệt.

Theo như bàn tính của hai nhà, một năm sau Dung và Đức sẽ làm đám cưới. Mãi tới chiều Đức mới có một ít thời gian nói chuyện riêng với Dung. Anh nâng cổ tay người yêu, hôn lên chiếc vòng, hỏi Dung:

-Em có thích không?

-Thích chứ, cho dù là vòng giấy em cũng thích....

Trời hôm nay nóng nực nhưng chiếc vòng vẫn mát, bỗng nhiên Dung rùng mình, cô cảm thấy lạnh, Dung cúi xuống lau nhẹ chiếc vòng, thấp thoáng chỗ lạt chỗ đậm của màu đỏ như máu là một đường gân đỏ mới xuất hiện.

Theo như lời Đức kể lại, chiếc vòng là do một người bạn của bố mẹ Đức mang về tận bên Ai Cập. Không biết xuất xứ chiếc vòng từ đâu nhưng chắc chắn đó là một món đồ cổ lâu đời rồi. Nghe nói là vòng cẩm thạch ngừa được cảm mạo phong hàn cho người mang nó.

Mẹ Đức vẫn cất giữ kỹ nói là để tặng cho con dâu tương lai. Nửa đùa nửa thật, Dung trêu Đức:

-Chiếc vòng này là đồ cổ, chắc mắc tiền lẳm hả anh, sau này anh mà không nuôi em nữa, em đem bán cũng đỡ khổ.

Đức làm mặt nghiêm:

- Đây là đồ kỷ niệm, quà cưới của chúng mình, em phải đeo không được cởi ra, sống đeo, chít mang, vật còn người còn....

-Anh nói gì thấy ghê, bộ muốn trói em suốt đời sao, đừng có hòng.

-Anh không nói giỡn đâu, anh nghe mẹ anh nói, đây là vật có linh khí, cẩm thạch mang tính âm nên có màu xanh, người xưa họ mang chôn chung với xác chết để lấy thêm khí âm, chôn lâu ngày vòng biến thành màu đỏ, gân đỏ trên vòng là linh khí của nó đó.

Dung rú lên, đấm thùm thụp vô vai Đức:

-Anh đã biết em sợ ma mà còn hù em hả, không thèm nói chuyện với anh....năm phút.

Đức cười lớn, anh giữ tay Dung lại:

-Em dữ như vậy chỉ có anh là chịu nổi em thôi, ma nào dám nhát....đừng la nữa, trong nhà ba má nghe thấy giờ.

À, tuần sau làHalloween rồi, nhà bạn anh có tổ chức mặc đồ hoá trang, em có muốn đi không?

-Em hông sợ ma giả đâu, coi ai sợ ai cho biết, mà anh tính làm ma gì vậy? Đức nháy mắt chọc tức Dung:

-Tới ngày đó anh mới cho em haỵ Tụi mình hẹn gặp nhau ở đó, nếu em nhận ra được anh, sẽ có thưởng.

Dung nguýt Đức một cái dài cả thước:

-Xí, ai mà thèm.

.......

Ngày Halloween Dung chuẩn bị thật kỹ, cô vẽ mắt bằng viết chì đen thật đậm, môi cũng thoa son đen. Cả tuần nay cô bị mất ngủ, nếu ngủ được lại mơ thấy toàn ác mộng, cặp mắt cô hiện lên hai cái vòng đen, Dung chép miệng nghĩ thầm:

-Như vậy càng hay, càng giống ma chứ sao. Nhìn đồng hồ, đã hơn 7 giờ tối rồi mà Đức vẫn chưa kêu điện thoại cho cô, Dung bực mình, bụng cô bắt đầu kêu réo, đói quá rồi mà. Chạy xuống bếp, lục tủ lạnh, Dung bốc vội miếng bánh, vừa ăn cô vừa ngẫm nghĩ:

-Hay là mình đi trước để hù anh ấy cho vui, ngồi nhà cũng vậy thôi. Khi Dung ra khỏi nhà, đường phố đã bắt đầu lên đèn, ngoài đường người đi bộ phần lớn là con nít. Dung cố gắng lái xe chầm chậm, lỡ không gặp ma mà đụng nhằm người sống mới là xui xẻo. Thỉnh thoảng có những tà áo đen chạy băng qua đường bất chấp xe cộ, Halloween có lẽ là ngày phá phách thì đúng hơn. Dung phải đậu xe ở góc đường thật xa, xe xếp hàng dài kiếm mãi mới ra chỗ trống. Bước lên con đường dốc, Dung hít một hơi dài, gió lạnh có mùi biển mặn làm cô cảm thấy thoải mái, cô tự trách thầm:

-Lại quên không mang áo lạnh nữa, lát nữa thế nào cũng phải mượn áo của anh Đức.

Tiếng giầy cao gót của Dung nện cồm cộp lên lề đường vội vã lẫn trong tiếng nhạc càng ngày càng lớn.

Đang đi bỗng Dung ngừng hẳn lại, hình như có người đang đi theo cộ Cô quay lại, không có ai, đằng xa chỉ có tiếng la hét của mấy đứa con nít đi xin kẹo. Dung lắc đầu tự cười mình nhát gan.

Ngôi nhà của Thành, bạn Đức, tọa lạc riêng biệt ở cuối đường, chung quanh trồng toàn thông, treo lủng lẳng trên mấy cây thông là những bộ xương người bằng giấy bay phất phới. Tiếng phong linh kêu leng keng nhè nhẹ trước cổng nhà như chào đón. Dung vừa bước lên thềm tính bấm chuông thì cánh cửa gỗ xịch mở, một con quỷ, không, một người với mặt nạ quỷ có hàm răng lởm chởm ra mở cửa, trên ngực cắm một con dao....nhựa dính máu. Con quỷ cất tiếng nói:

-Vào đây, mời hai bạn vào. Dung đưa tay lên che miệng cười, sửa lưng con quỷ:

-Có mình Dung hà, ai....xin lỗi....anh là ai đây? Con quỷ chỉ tay ra sau lưng Dung:

-Còn ai đằng sau lưng bồ đó? Hihi....tui là Thành....chủ nhà này. Dung giật mình quay ra sau, đằng sau lưng cô, không biết tự hồi nào, một cái xác ướp bọc vải từ đầu đến chân đứng sừng sững im lặng. Dung lùi lại né sang một bên:

-Tui đâu có quen người này....xin lỗi nha, bạn vô trước đi. Cái xác bọc vải lấp loáng cặp mắt như điện nhìn Dung như thôi miên, nói nhỏ chỉ để cho cô nghe thấy:

-Anh đây mà....anh là chồng em.

Dung dụi mắt, sững sờ vài giây rồi cô vụt cười phá lên:

-Trời đất ơi, anh Đức, anh làm em hết hồn, giống....ma quá trời, em nhận không ra! Dung lôi đống vải trắng biết đi vô trong nhà, theo sau lưng Thành. Trong phòng khách đèn mờ mờ ảo ảo, góc nào cũng có....ma đứng. Ma quỷ đủ loại, tóc tai màu mè, nào làDracula, phù thủy cầm chổi cán dài, quỷ hai sừng cầm búa, có cả công chúa Bạch Tuyết, chỉ thiếu có bẩy chú lùn....Dung dựa sát vô người Đức nói nhỏ:

-Anh mặc đồ như vầy làm sao nhảy đầm với em được?

Quên nữa, anh ăn gì chưa? Vừa nói Dung vừa nhìn kỹ lại khuôn mặt xác ướp, ủa, sao Đức quấn vải gì mà quấn khéo ghê, mũi và miệng chừa ra có chút xíu, chỉ có cặp mắt đen nhánh là có hồn thôi. Dung ngờ ngợ đưa tay lên xoa cái đầu vải:

-Ai quấn vải cho anh mà chặt vậy? Có phải anh Đức đó không?

Đức cựa quậy cái đầu, giọng nói ấm ớ:

-Anh muốn làm cho em ngạc nhiên, anh là chồng em mà....

Một lần nữa, câu nói này làm Dung chú ý, cô hỏi:

-Sao anh hôm nay nói chuyện kỳ ghê, cứ nhận là chồng người tạ -Phải rồi, anh là chồng em, chiếc vòng này là bằng chứng.

Bàn tay vải nắm lấy chiếc vòng Dung đang đeo đưa lên miệng hôn một cách trìu mến.

Vừa lúc đó, tiếng nhạc slow nhẹ nổi lên, Thành đẩy Dung và Đức vô đám người nhốn nháo:

-Hai người chơi cho vui vẻ, tự nhiên đi nha, tui đi tiếp khách đây. Phòng khách nhà Thành khá rộng rãi, sàn nhà bằng gỗ đánh bóng, trên trần là một chiếc quạt đang quay lơ lửng, tuy trời không nóng nhưng vì....ma sợ ngộp hơi nên quạt được mở tối đạ Dung cảm thấy hồi hộp, không hiểu sao cô có cảm giác như thật là xa lạ mà cũng thật thân thiết với Đức, cô nhìn đăm đăm vô hai cái lỗ mắt đen, xuyên qua lần vải là tia mắt sáng lấp lánh:

-Anh có nóng không? Thiệt tội cho anh ghê, lát nữa anh tháo vải ra bớt đi. Hết chuyện làm rồi hay sao mà ăn mặc kiểu này. Đôi mắt sáng vẫn không rời Dung, bàn tay quấn vải nắm lấy tay cô đặt lên ngực mình, trong tiếng nhạc dập dìu, Dung nghe tiếng anh thầm thì:

-Anh chờ ngày hôm nay đã lâu lắm rồi đó, cuối cùng anh cũng được toại nguyện.

Những chiếc bóng lượn lờ in lên trên tường vờn theo tiếng nhạc cùng với bước chân....ma quay tròn làm cho Dung có cảm tưởng như đi trên mây. Người cô nhẹ hẫng đi, Dung ngả đầu lên vai....xác ướp, cô thấy mình bay về một cõi xa xăm nào đó, đâu đây có mùi thơm của gỗ thông, mùi nến cháy và mùi trầm hương ngào ngạt. Cô mơ hồ thấy mình đang mỉm cười với một người đàn ông khác, không phải là Đức, người này đẹp trai hơn ( ) mặc y phục kiểu cổ xưa sang trọng, chân tay đeo đầy vòng vàng. Khuôn mặt của người này mang đầy vẻ kiêu ngạo nhưng tia nhìn của hắn đối với cô lại dịu dàng, nụ cười thật quyến rũ. Dung giật mình bừng tỉnh, đẩy....xác ướp ra:
 
Chiếc Vòng Cẩm Thạch 2



-Anh là ai? Anh không phải là Đức....

Cùng một lúc là những tràng cười lớn của mọi người chung quanh, nhạc tắt, đèn bật sáng trong khi xác ướp luống cuống nắm lấy....bụng mình. Thì ra trong lúc mọi người du dương nhẩy đầm, có kẻ nghịch ngợm, không biết ma đưa lối quỷ đẫn đường nào, đã len lén lấy kéo cắt đi một đầu vải trên lưng xác ướp quấn vô cái quạt quay vòng vòng trên trần. Vải tuột ra từ từ, một chất nước màu đỏ ứa ra từ trong bụng xác ướp, có lẽ là cat chup (!). Dung rú lên, cô loạng choạng suýt ngã trong khi mọi người lại càng cười to hơn, ai cũng nghĩ đây là một màn biểu diễn haỵ Thiệt là quê quá đi, Dung vừa nhìn thấy một xác ướp khác đang đứng ngoài cửa nhìn vô nói chuyện với Thành và lớn tiếng kêu Dung, giọng nói xác ướp ngoài đó không xa lạ gì, đúng là của Đức.

Dung nghĩ thầm, thì ra từ đầu tới đuôi chính là do Đức xếp đặt với mọi người để hù cô như mọi năm, Halloween lần này anh thật là quá đáng, tội này không thể tha thứ được. Thừa lúc mọi người đang bu lại xác ướp giả (phải nói là người giả làm Đức mới đúng) Dung chạy ra cửa sau, không thèm trả lời khi có tiếng Đức gọi vói theo sau lưng.

Sau vườn nhà Thành cũng là một hàng thông cao che kín, Dung ngồi xuống một bụi cây, lần này cô phải hù cho Đức sợ mới đủ để trừng trị anh. Trong bụi cây, Dung thở mạnh nhìn vô trong nhà chờ đợi, cô cảm thấy đau nhói nơi cổ chân, Dung tuột giầy ra vén áo đầm dài ngồi xuống cho thoải mái, những viên sỏi nhỏ mát lạnh dưới chân làm cô rùng mình. Đâu đây có tiếng dế kêu và hình như có....tiếng thở dài. Dung giật thót mình, thấp thoáng ngay sau lưng cô lại có một đống vải trắng toát ngồi đó tự hồi nào! Bàn tay vải úp lên miệng Dung ra dấu cho cô đừng la, thật ra cũng bằng thừa, vì Dung có muốn la cũng không nổi, người cô run lẩy bẩy, miệng mở lớn trong khị.. xác ướp chậm chạp quấn từng vòng, từng vòng vải trắng từ người nó lên mặt cô và nói như an ủi một đứa bé:

-Hãy ráng chịu khó đi em, chỉ một lát thôi, chúng ta sẽ vĩnh viễn ở bên nhau, không bao giờ chia lìa... Vòng lớn vòng nhỏ như những cơn ác mộng trong tuần qua được ráp nối lại một cách thật rõ ràng trong đầu Dung, cô cảm thấy ngạt thở, ngoài kia, tiếng Đức đang la gọi:

Đung, Dung ơi, em ở đâu? (Năm 1245, trước Thiên Chúa giáng sinh) Aicapcap là một ông vua Ai cập đời thứ....mười bạ Vương quốc Ai Cập lúc đó rất phồn thịnh và phát triển. Như những ông vua khác, Aicapcap có rất nhiều vợ, cả trăm cung phi và ngàn cung nữ, nhưng người được quốc vương thương yêu nhất là một cô gái thường dân mới được nhập vô cung tên là Becon. Becon rất xinh đẹp và nết na, cô biết đàn, biết múa hát và nói chuyện văn chương lưu loát nên được quốc vương thương yêu hết lòng. Quốc vương thuộc giòng giống đa tình nhưng lại rất sợ vợ Hoàng hậu Aidada là một người đàn bà ghen có hạng, từ ngày Becon nhập vô cung, hoàng hậu Aidada cảm thấy bị rẻ rúng nên rất tức giận, thường tìm cách ám hại cung phi Becon. Hiểu tính ghen của hoàng hậu nên quốc vương Aicapcap lúc nào cũng dè dặt, ngài đã phải xây một cung điện riêng biệt cho ái phi, xa rời nơi cung đình nhiều hiểm ác. Năm 1250, quốc vương Aicapcap mắc phải một căn bịnh ngặt nghèo, bao nhiêu đại phu đều phải bó tay, lắc đầu và khuyên nhà vua nên lo liệu hậu sự.

Theo phong tục của cung đình Ai Cập thời bấy giờ, tất cả các cung nữ và cung phi đều phải chết theo quốc vương cho....có bạn.

Bên giường bệnh của Aicapcap, cung phi Becon nức nở khóc, vừa thương cho quốc vương vừa tủi cho thân phận mình. Nhà vua cũng cầm lòng không đậu, ra lệnh đuổi hết người hầu chung quanh để trăn trối với người yêu:

-Ái phi đừng khóc, nếu em không muốn, ta sẽ ra lệnh cho thừa tướng mang em ra khỏi nơi đây, không cần phải chết theo tạ Becon sụt sịt ôm tay Aicapcap:

-Không phải em khóc vì sợ chết, em chỉ sợ không được chết chung với ngài thôi, sau khi chết ngài sẽ quên em.

Nhà vua ôm lấy Becon vào lòng, ngài ngẫm nghĩ hồi lâu rồi phán:

-Em đừng lo, ta đã có cách, không ai có thể chia rẽ được chúng mình, ngay cả đức Ma Ha La cũng vậy, em hãy đưa tay ra. Nói xong, nhà vua cầm lấy chiếc vòng cẩm thạch màu đỏ ái phi đang đeo trên tay, vật ngài đã tặng cho Becon khi nhập cung, ngài khấn:

-Nguyện xin thần Ma Ha La ban phép lành cho chúng con, để cho con tìm ra được vợ con trên chiếc vòng này. Những lời nói chuyện của nhà vua Aicapcap và cung phi Becon đã được một nữ tỳ thân tín của hoàng hậu nghe rõ hết. Sau khi nhà vua băng hà ba ngày là lễ táng xác cho toàn thể cung nữ và cung phi trong một nhà mồ kiên cố. Đây là lúc để trả thù, trước khi cung phi Becon vô nhà mồ chịu chết theo quốc vương, hoàng hậu Aidada đã sai người chặt cánh tay có đeo chiếc vòng đem đi vứt trong rừng cho thú dữ tha đi. Hoàng hậu Aidada còn cẩn thận và ác độc hơn, tất cả các cung phi và cung nữ đều bị chặt cánh tay trái trước khi vô nhà mồ. Sau một tuần, khi tất cả mọi người đều bị ngạt hơi và chết trong cổ mộ, cửa mồ sẽ được mở ra và xác của các người trong mồ sẽ được đem đi tẩm liệm bằng một thứ thuốc đặc biệt bào chế bởi nhiều loại côn trùng khác nhau. Chỉ có quốc vương và các cung phi mới được quấn vải quanh mình để giữ gìn thể xác cho khỏi thối nát.

Người Ai Cập tin là sau khi quốc vương chết đi một trăm ngày, ngài sẽ sống lại, xác ướp và linh hồn vĩnh viễn tồn tại trong ngôi cổ mộ, do đó rất nhiều vàng bạc và châu báu được chôn chung với ngài để....cho ngài xài ở trỏng. Vàng bạc mà chi, danh vọng quyền thế mà chi, chết đi rồi cũng chẳng còn gì, ngay cả người yêu dấu cũng không nhận ra, Aicapcap ôm mối hận tình trong ngôi cổ mộ hàng ngàn năm cho tới khi chiếc vòng thất lạc được tình cờ xuất hiện và chẳng may thay, nó đã được đeo lên tay một cô gái, cô gái đó là Dung! Lời hứa hẹn của Aicapcap với vương phi Becon nay đã được đức Ma Ha La giám chứng.

Nhắc lại Dung lúc đó đang nằm trong vòng tay của xác ướp, cô như đang nghe những tiếng leng keng va chạm từ những bước chân, những cổ chân có đeo vòng của những bóng người đưa tiễn cô, họ đang đưa cô đến gần bên cổ mộ, đến gần bên thần chết. Giữa cái sống và chết, Dung lại thấy mình rất bình tĩnh trong khung cảnh xa lạ. Các cô gái xếp hàng ngoài kia đều có sự buồn rầu thảm não hiện rõ trên nét mặt, không một ai đeo khăn voan, đi chết chung với quốc vương là một sự vinh hạnh vui mừng, ai nấy đều phải ăn mặc diêm dúa. Từng đoàn, từng hàng người cúi đầu đi bên nhau. Xa xa, nơi cung điện êm ấm có tiếng tù và báo hiệu giờ lành đã đến. Một vài người bắt đầu lẩm nhẩm tụng kinh, có người sợ quá đã nhịn không được bật lên tiếng khóc. Một cô gái xinh đẹp bị lôi đi xềnh xệch lên phía trước trong khi cô khóc lóc thảm thiết. Tay phải cô níu chặt cánh tay trái, trên cánh tay là chiếc vòng cẩm thạch màu huyết dụ, suýt nữa Dung buột miệng la lên, cô gái đó chính là cung phi Becon. Nhưng sao lạ quá, khuôn mặt của Becon không giống Dung tí nào, Becon rất giống một người....Dung tưởng mình nhìn lầm, cô run rẩy nức lên cùng với tiếng thét của Becon khi đao phủ đưa dao lên và cánh tay rơi xuống đất.

-Ai đó, phải Dung đó không?

Đức cúi đầu nhìn vô bụi rậm cùng lúc xác ướp buông lỏng tay quấn vải chiếu những tia điện lấp loáng nhìn anh. Đức hơi sững sờ vài giây, hai cái xác ướp nhìn nhau, qua lần vải Dung sợ hãi mơ hồ nhận ra hai xác ướp thật tương xứng và giống nhau, ánh mắt họ như xẹt ra hai dòng lửa điện. Xác ướp (Aicapcap) đột nhiên ngửa mặt lên trời cười hú như điên dại, tiếng cười của nó vừa hạnh phúc vừa đau khổ, thật là khó hiểu. Trong lúc Aicapcap không để ý tới mình, Dung đưa tay hất những vòng vải trắng trên mặt để nhìn cho rõ, cô suy nghĩ thật nhanh, cánh tay cô đưa lên cao và đập mạnh xuống đám sỏi cứng đưới chân, chiếc vòng bể ra làm hai mảnh rơi ra khỏi cổ tay cộ Đức (xác ướp giả) cùng Aicapcap đều đồng thanh la lên nhưng quá trễ. Đức lúc này như vừa thoát khỏi cơn thôi miên, chạy lại đỡ Dung đứng lên, anh hỏi ngay:

-Tại sao em làm vậy? Dung ấp úng:

-Em lo cho anh, hắn....hắn là ma, hắn là quỷ đội mồ....hắn sẽ hại anh.

Vừa nói, Dung vừa chỉ tay ra phía Aicapcap. Cả Dung lẫn Đức đều há hốc miệng, trợn mắt ngạc nhiên không tin, trước mặt họ chỉ còn một đống vải trắng bèo nhèo, chung quanh im lặng và lạnh lẽo, trong nhà Thành, tiếng nhạc vẫn còn đang sôi động.

...... Một năm sau, buổi tối khuya trong phòng tân hôn của đôi vợ chồng trẻ, Dung cười hỏi chồng:

-Khách đông quá hả anh? Cũng may là nhà hàng còn chỗ chứ nếu không....

Đức ngồi xuống giường mệt mỏi:

-Càng đông càng mệt, ma chê cưới trách, em coi, mình còn thiếu sót nhiều thứ lắm, cũng may là một đời chỉ có một lần, à, hồi nãy có mấy gói quà chưa mở, mình lấy ra coi thử nhạ Dung ngáp dài, một tay cô xoa nhẹ lên cánh tay Đức, dấu "birthmark" màu đỏ dưới khuỷu tay trái của anh như nhắc cô nhớ lại chuyện cũ, cô lắc đầu nhắm mắt lại xua đuổi bóng ma ám ảnh. Hình như có tiếng Đức reo vui bên cạnh:

-Em xem, bác Thanh sang ghê chưa, tặng cho mình hai vé đi du lịch, vậy mà gói kỹ như hộp quà....hmmm....u?a, ai đây, Dung, coi nè....

Dung mở mắt ra giựt mình:

-Gì đó anh? Ahhhhh....

Thì ra đó là một chiếc vòng cẩm thạch màu đỏ, giống y chang như cái vòng trước. Dung hét lên vứt nó vô góc phòng, tình cảnh ở ngôi cổ mộ năm xưa lại hiện rõ trong tiềm thức. Hoàng hậu Aidada đứng thản nhiên nhìn cảnh cung phi với cung nữ bị hành hình chính là Dung, và vương phi Becon với bộ mặt quen thuộc không ai khác hơn là người chồng cô mới cưới!!!
 
Chài

Tác giả: Tam Tang


Note:

Chúa Nhật tôi hay lái xe về chổ bố mẹ tôi cư ngụ, nơi đó có đông người Việt sinh sống hơn! Bố tôi quen một số người mới qua (5 năm trở lại) theo diện HO! Họ hay tới nhà bố tôi chơi, ăn uống và kể chuyện đời. Trong đó có những chuyện về đời lính) Tôi rất thích nghe những mẫu chuyện vui buồn này của họ, và nhiều khi viết lại và đăng lên đây để chia sẻ với các bạn !

Trong thâm tâm tôi, những người xứng đáng nhất để được định cư tại Mỹ này chính là những người đi theo diện HO này ! Họ đã chiến đấu khi xưa, bị bỏ rơi không thương tiếc! Và sau cuộc chiến 75, họ bị tù đày bao năm trong ngục tù CS! Hầu hết thì rất nghèo làm gì có tiền đi vượt biên như những người khác ! Họ là kẻ ngậm đắng nuốt cay suốt gần hai chục năm nay!! Tôi rất khâm phục họ !

Có những kẻ nhờ thời thế, nhờ tiền bạc v.v. có được cơ hội qua đây trước, nhìn những người HO với con mắt khinh thường, coi họ là kẻ nghèo hèn hơn mình! Họ nói đến từ HO với một giọng chứa đầy vẻ miả mai! Họ có biết đâu nếu những người HO này có cơ hội qua đây sớm thì họ cũng đâu thua gì ai! Mà có lẽ còn hơn nữa kià vì đa số hàng sĩ quan đều có bằng Tú Tài khi xưa ! Tôi tin chắc là với căn bản sẳn có như vậy, nếu có cơ hội họ sẽ dễ dàng thành công trong việc học vấn ở bên này! Vì qua đây quá trể nên đa số đã lớn tuổi, họ đành phải hy sinh bản thân mình cho gia đình, bám vào các nghề với đồng lương thấp kém với hy vọng con cái của họ sau này có cơ hội may mắn hơn họ !

Hãy nhìn những người HO với con mắt thán phục và biết ơn hơn, vì sự hy sinh của họ cho đất nước và cho cả chúng ta (những kẻ may mắn hơn họ, nhưng thường thì vô ơn !!)

Bài sau đây tôi viết theo lời kể của một người lính thuộc tiểu đoàn 21 Biệt Động Quân đồn trú tại tỉnh Đarlac (nay gọi là Đắc Lắc mà nhiều người chỉ biết nó qua cái tên quen thuộc hơn Ban Mê Thuột )

Tam Tang


Sau năm 73 khi lính Mỹ rút khỏi VN thì các căn cứ biên phòng dọc biên giới Việt Lào và Miên Việt được giao lại cho quân đội VNCH trấn đóng! Và Biệt Động Quân là lực lượng được giao phó cho trách nhiệm này! Tiểu đoàn 21 BDQ của tôi trấn giữ một đồn biên phòng sát vùng Tam Biên (Việt Miên Lào) gần Buôn Đông tỉnh Đarlac! Buôn Đông là một nơi bị cô lập với thế giới bên ngoài! Chỉ có một con đường đất đỏ nối với Ban Mê Thuột, nhưng đã bị CS phá nát và gài mìn bẫy! Binh lính CS lại thường phục kích trên con đường này nên mọi phương tiện ra vào, tiếp tế v.v... đều được thực hiện bằng phi cơ trực thăng ! Nhưng vì viện trợ Mỹ đã bị cắt xén thê thảm cho nên việc tiếp tế chỉ thu hẹp lại một tháng một lần mà thôi ! Ngay cả việc tiếp tế lương thực, thuốc men, đạn dược, tải thương, phát lương, đi phép v.v. cho đồn chúng tôi cũng chỉ có một lần cho mỗi tháng !!

Vùng này rừng núi âm u, chung quanh chỉ thấy mây mù và cây cối trùng trùng điệp điệp ! Ngày ngày chỉ nghe tiếng vượn hú quanh đồn! Tiếng chim "bắt cô trói cột" kêu buồn thảm trong các buổi chiều u ám! Cách đó mấy cây số có một làng người Thái, họ đã được ông Diệm đưa lên đây lập nghiệp sau khi họ di cư vào Nam năm 54 ! Cũng có vài buôn làng của các dân tộc khác như Ra Đê, Mơ Nông, Lào v.v. Nhưng họ Ở xa đồn hơn mà chúng tôi không có dịp đặt chân tới! Nhiệm vụ của chúng tôi là ngăn chận đường xâm nhập của quân chính qui CS từ bên kia biên giới sang! Vì thế Tiểu Đoàn Trưởng của chúng tôi thường phái các toán quân nhỏ đi hành quân tảo thanh, đi tiền đồn với một công hai chuyện: Bảo vệ cho đồn biên phòng và phát hiện quân CS, rồi báo cáo về xin phi cơ dội bom các nơi đóng quân của địch!

Tôi là trung đội trưởng của một trung đội thuộc đại đội 3, nên cũng thường được phái dẫn trung đội đi thi hành các nhiệm vụ này! Tôi thường tránh cho binh lính đi vào các bản làng ! Một là tránh bị phát hiện, hai là đề phòng việc các phần tử xấu gây thiệt hại cho dân chúng ! Ta thường nghe nói: "Bạc như dân, bất nhân như lính! Nên đề phòng thì vẫn tốt hơn! Trong một cuộc hành quân an ninh vòng đai như thường lệ , tôi dẫn trung đội băng rừng về hướng Tây của đồn cố giữ bí mật với hy vọng sẽ phát hiện được dấu vết của bọn CS để lại khi chuyển quân ! Nhưng gần cả ngày vất vả chúng tôi không tìm được gì ! Qúa trưa tôi ra lệnh rút về đồn, khoảng hai tiếng sau chúng tôi băng qua khu rừng gần làng Thái ! Tôi ra lệnh bố trí nghỉ mệt, hầu như mọi người đều đã uống cạn bi đông nước của mình ! Hai người lính xin tôi vào làng xin mấy nón sắt nước cho mọi người cùng uống! Tôi ngại lắm nhưng rồi cũng phải bằng lòng vì đồn vẫn còn cả 5 cây số nữa và nước suối vùng này rất độc không thể uống bậy được!

Khoảng 20 phút sau hai người lính trở ra với bốn nón sắt nước, mọi người chia nhau uống rồi tiếp tục lên đường về đồn ! Thế nhưng chuyện lạ đã xảy ra ! Một người lính của tôi đâm ra đau bụng thảm thiết! Mà anh này lại là một trong hai người đã đi xin nước bữa trước ! Rồi bụng anh ta một ngày một lớn ra! Anh ta rên la thảm thiết, y tá cho uống thuốc giảm đau cũng chỉ tạm thời dịu bớt mà thôi ! Xui cho anh ta là lúc ấy chỉ là khoảng mười mấy tây thôi, chúng tôi phải đợi đến gần cuối tháng mới có chuyến trực thăng vào ! Thời cuối cuộc chiến lúc đó rất khó mà xin được phương tiện cho nhu cầu mình muốn !! Anh ta bỏ cả ăn uống, rên la kêu vợ kêu con thảm thiết lắm mà chúng tôi đành đứng nhìn thôi ! Tôi không biết việc gì đã gây cho anh ta bịnh đó, hay là trong nước có độc! Nhưng các người khác không sao mà ! Tôi muốn hỏi anh ta nhưng anh ta mê man, lên cơn sốt liên miên đâu có tỉnh táo đâu để mà hỏi ! Tôi bèn kêu người lính cùng đi xin nước với anh ta lại hỏi cho ra đầu đuôi !

Anh lính trả lời:

_ Tui thiệt tình không rỏ lắm! Tui vào một nhà ở đầu làng và xin nước, bà già chủ nhà đồng ý và tui ra giếng kéo nước đổ vào bốn cái nón sắt ! Trong khi đó thằng Hải (tên người lính kia) nói là để nó đi vòng vòng xem có gì lạ không và đồng thời bảo vệ an ninh cho tui trong khi lấy nước ! Khi lấy nước xong tui kêu với nó! Nó chạy ra từ một căn nhà gần đó, miệng còn nhồm nhoàm nhai! Trên đường ra nó nói với tui : "Tao vào cái nhà đó lên tiếng gọi, không có ai ở nhà hết ! Tao thấy ba trái bắp luộc để trong cái rổ trên bàn, đang đói bụng tao dớt hết trọi! Mà lạ một điều là nhà không có ai mà mỗi khi tao ăn một trái là tao nghe có tiếng đếm mày à ! Cả thảy là ba cho ba trái bắp tao ăn đó! Tao cũng hơi teo teo nhưng đói quá tao làm hết trơn ba trái luôn! Êm cái bụng cho tới chiều rồi !" Tui chửi nó là đồ tham ăn, không biết để dành cho tui một trái ! Nó cười trừ hề hề ! Không biết có phải là do nó ăn mấy trái bắp mà bị sình bụng hay trúng thực không nữa !

Mấy hôm sau có máy bay vào đồn tiếp tế, chúng tôi cho tải anh ta về Quân Y Viện để chửa trị ! Ba ngày sau chúng tôi nhận được điện gọi vào từ hậu cứ cho biết là anh ta đã chết ! Trong bệnh án ghi là chụp quang tuyến X thấy đương sự nuốt ba cây đinh 10 phân vào trong bụng, bị nhiễm trùng rất nặng, đã lây lan qua gan, phổi! Qúa trể nên bị chết vì nhiễm trùng! Đêm đó tôi qua chổ thằng bạn chơi, ngồi uống cà fê đen và kể chuyện đời với nhau ! Tôi kể cho nó nghe về chuyện của người lính vừa chết ! Người trung sĩ trung đội phó của nó cũng ngồi đó nghe chuyện, anh ta là một người thượng Ra Đê! (Lính trên vùng cao nguyên này hơn một nữa là dân thiểu số rồi!) Nghe tôi kể xong anh ta chậm rãi lên tiếng:

_ Nó bị chài rồi! Mấy cái người Thái đó bùa ngãi đữ lắm! Nó đã bị ma xó đếm rồi ! Không biết thì chỉ có nước chết thôi !

Tôi ngạc nhiên hỏi:

_ Cái gì là ma xó! Tôi chưa hề nghe qua loại ma này lần nào hết !?!?!

_ Một số người Thái thờ ma xó trong nhà để giữ của ! Ai vào lấy cái gì mà không được phép chủ nhà thì ma xó sẽ đếm ! Cứ mỗi thứ thì nó đếm lên một, và tùy loại ma xó mà nó sẽ chài đinh hoặc đá, hay khúc gỗ vào bụng của kẻ ăn trộm đó!

_ Thế là không có cách gì cứu à ???! _ Tôi hỏi lại !

_ Nếu biết sớm thì lại xin chủ nhà trả lại đồ, hay thường bồi thiệt hại thì may ra chủ nhà sẽ xin ma xó tha cho ! Nếu mà tui biết anh ta ăn mấy trái bắp của người Thái thì có lẽ tui đã đoán ra và kêu ông cho người tới nhà đó xin để cứu nó rồi !Để lâu quá thì ma xó cũng không cứu lại được người nó thư đâu! Vì cái bụng cái gan cũng bị sình thúi hết rồi! Tội nghiệp cho nó quá !

_ Nói cho tôi biết ma xó là thứ ma gì mà người Thái lại thờ vậy ?! Dân tộc các anh có thờ nó không vậy ?!

_ Khi gia đình người Thái nào muốn thờ ma xó thì khi gia đình họ có ai chết, họ chặt một khúc cây to, xong khoét bọng bên trong rồi nhét kẻ chết vào đó rồi bít kín lại ! Họ làm lễ tế phù phép gì đó rồi để khúc gỗ đó ở chổ kín trong góc nhà !! Và kẻ chết trở thành ma xó coi nhà cho gia đình ! Chỉ họ mới biết cách biến người chết thành ma xó mà thôi, đó là bí quyết của người dân tộc ở biên giới Việt Hoa! Còn các dân tộc ở Cao Nguyên này không biết được cái bùa phép này ! Nhiều người Thái còn cho ma xó giữ nương rẫy của họ nữa kìa! Cho nên các dân tộc khác ở vùng này không ai dám lấy trộm cái gì trên rẫy của người Thái hết ! Ông nên nói cho mấy người lính của ông biết để họ đừng có động đến các thứ gì của người Thái sau này !

Tôi bán tín bán nghi, không biết người trung sĩ thượng này có đúng không !!! Nhưng thường thì những người thượng chất phát này không nói dối! Để đề phòng sự việc có thể tái diễn, các lần đi hành quân sau này tôi luôn dẫn lính tránh xa các bản làng, không riêng gì một mình làng Thái ! Biết đâu các dân tộc khác lại có thứ bùa ngãi khác của riêng dân tộc họ thì sao ! "Cẩn tắc vô áy náy" mà, từ đó cho đến tháng 3/75 đơn vị tôi không thấy có trường hợp nào tương tự xảy ra nữa ! Cho đến bây giờ tôi cũng không biết có đúng là người Thái có thờ ma xó thật không nữa vì tôi chưa từng trực tiếp tiếp xúc với một người Thái trắng nào cả !!!
 
Cây Chổi Yêu Tinh

Lâu ngày thành yêu, vật nào cũng thế, không những chỉ có vàng và ngọc... Như trong vườn hoang ở một ấp kia có một tòa miếu cổ xây bằng gạch. Đằng trước có một cửa nhỏ, chỉ vừa một người ra vào, bên trong chỉ rộng bằng một chiếc chiếu. Trên đặt bái hương và một cây đèn bằng gỗ. Mỗi năm có hai lần người trong ấp đến lễ bái thì mở cửa mà vào, quét miếu thắp hương. Xong việc lại ra, đứng bên ngoài khép cửa lại, còn người dưng thì không ai bước tới. Trong miếu có một cái chổi rễ kết bằng những mảnh tre nhỏ. Khi vào cúng bái, dùng để quét, quét xong lại dựng trong góc miếu. Tương truyền là chổi rễ ấy dùng đã lâu ngày mà lúc nào cũng vẫn thấy như mới. Người trong ấp thường thấy có ma hiện ra. Khi ấy có người học trò quẩy tráp đi học, đến ấp thuê nhà ở gần đó để tiện đến nhà thầy nghe giảng. Ở trọ được ba tháng. Bỗng một đêm khuya thấy người con gái đẹp đứng ngoài cửa sổ ném một bài thơ vào:

Thiếp vốn sao trời xuống dưới trần,

Trên cùng Cơ Vĩ vốn cùng thân. (Hai câu này nói bóng là hình cây chổi)

Thường đem quét tước trần ai sạch,

Muốn kết ái ân Chu với Trần.

Người học trò nhặt bài thơ xem, ngồi im lặng hồi lâu.

Người con gái nhìn vào cửa sổ cười rằng:

- Thế gọi là "văn cùng" đó.

Người học trò thấy cô gái có nhan sắc đẹp, cùng nhau ngâm họa rồi lân la gần gũi. Đến gà gáy, ả vội đứng dậy từ biệt. Người học trò muốn giữ lại, ả nói:

- Thiếp là con gái quan nội triều (chữ triều ở trong là chữ miếu) ở trong ấp này, ở không đã lâu, nhưng tính cha mẹ nghiêm ngặt, quanh năm không cho ra khỏi cửa, người trong ấp chưa ai trông thấy mặt. Vì thế, thiếp chưa có gia thất. Hôm qua, ngẫu nhiên nhìn qua khe cửa, thấy chàng đi quạ Đã ưa người đẹp, lại mến tài cao. Cho nên chui lối ngạch đi ra, quên cả hổ thẹn. Nếu mãi vui, có người biết được, thì không những mang tiếng chê bai, suốt đời không ai dám hỏi nữa, mà lại còn điếm nhục cả đến gia thanh, để lo buồn cho cha mẹ, đến phải tự tử mà chết mất. Nếu chàng có lòng yêu thiếp phải nói dối kẻ trên để lén lúc đợi đêm tối sẽ đến, dần dần ta sẽ kết duyên giai lão, như thế có hơn không? Giữ thiếp ở lại làm gì? Nhưng điều này nên giữ kín, nhất thiết không nên nói chuyện này với ai.

Nàng nói xong thì vội vàng ra đi.

Người học trò từ đó học hành chểnh mảng. Ngày thì ngủ say, đêm thì vui đùa với con yêu nữ. Đã hơn một tháng, thầy không thấy anh ta đến học, sai người đến nhà trọ hỏi duyên cớ và bảo anh ta đến gặp thầy. Người học trò thấy thầy gọi, liền đi theo người đến.

Thoạt trông thấy anh, thầy giật mình hỏi rằng:

- Mới qua một tin hoa nở mà nhan sắc xanh xao, tinh thần sút kém đến như vậy. Ngươi mắc bệnh gì thế?

- Thưa, con không bệnh gì.

Thầy nói:

- Không bệnh gì mà hình dung thế kia à? Đúng là bị gái hư nào làm mê hoặc rồi. Nếu không, can chi vóc người sút hẳn đi như thế?

Người học trò trước còn giấu diếm, sau bị thầy hỏi vặn đến cùng bấy giờ anh mới nói rõ đầu đuôi câu chuyện.

Thầy nghĩ hồi lâu nói:

- Bên nhà ngươi trọ, có cây cổ thụ không? Có đầm sâu hay là có miếu cổ nào không?

Người học trò nói:

- Trong vườn hoang có ngôi miếu cổ, không biết làm từ đời nào. Cảnh miếu vắng vẻ, cách nhà con trọ độ năm trăm thước, hàng ngày con đi học thường phải qua đó.

Thầy nói:

- Đứa con gái ấy tất là con yêu trong ngôi miếu cổ. Ngươi không nói sớm, chỉ ba tháng nữa là chết.

Anh ta sợ quá, lạy phục trước giường xin thầy bảo cho phép trừ yêu.

Thầy nói:

- Xem lời lẽ bài thơ, trong lúc vội vàng, chưa có thể đoán được tà yêu. Hãy để xét nghiệm dần dần xem nó là yêu gì mới có thể trừ được. Nói xong thầy lấy một cái khăn vuông lụa đỏ đốt hương thư phù vào mặt khăn, rồi đưa cho anh học trò và dặn rằng:

- Nó đã là yêu thì những câu gì ta nói với ngươi, tất nhiên nó cũng biết. Đêm nay con yêu đến, nếu nó có hỏi đi hỏi lại, phải kiên quyết nói là không. Nếu nói lộ ra thì kế ta không thể thi hành được, nhà ngươi tất phải chết. Nên làm thơ tự tình gấp hai mọi ngày. Đợi khi gà gái con yêu sắp dập từ biệt, cầm khăn hồng này tặng nó và nói: "Tình nương, tình nương của ta, có yêu hàn nho không? Có định cùng ta kết làm vợ chồng không? Chúng ta nguyền ước ba sinh, há lại không có một vật gì làm tin ư? Vuông khăn hồng này, khi ta mới sinh, có một ông quan trông ấp mừng chọ Cha mẹ lấy làm quý báu cất kỹ để dành. Nay ta đem tặng này, xin đừng khinh thường. Nàng nên buộc nó vào dây lưng, như vậy thì suốt ngày, như có ta ở bên cạnh. Đợi khi thành hôn, ta với nàng lau chung với nhau, có sung sướng hơn không? Bảo nó như vậy, nếu con yêu nhận lấy chiếc khăn là phúc cho nhà ngươi:

Anh học trò bỏ khăn vào túi áo, lạy hai lạy rồi ra về.

Đêm hôm ấy con yêu vừa đến đã hỏi ngay rằng:

- Lang quân! Lang quân! Hôm nay đi đâu thế?

Anh học trò trả lời:

- Không!

Con yêu nói:

- Thiếp ở trong cửa thấy lang quân đi quạ Thiếp đi theo sau đến chỗ cổng nhà thầy, thiếp muốn theo vào, nhưng thấy khí văn bốc lên cao vút, lởm chởm trông rất sợ. Thiếp đứng nấp ngoài cổng để đợi lang quân. Một lát lang quân ra, thiếp lại theo về. Sao lại nói là không đi đâu? Hay là đã có đám nào đấy chăng? Có lẽ đúng. Ngạn ngữ có câu:

"Vợ chồng mới cưới nói ba phần thật,

Chưa thể bày ra cả tấm lòng."

Câu nói ấy đúng tâm lý lang quân lắm đấy!

Anh học trò nói:

- Cũng là ngày đi học đấy thôi!

Con yêu im lặng, rồi lại vui cười như trước.

Đến lúc từ biệt, anh ta theo lời thầy, đưa tặng khăn hồng và nói rất thiết thạ Con yêu nhìn khăn hai ba lần, xem mặt trên rồi mặt dưới, tựa hồ có ý sợ hãi, nghĩ ngợi rồi thở dài, nói rằng:

- Ai đưa vật này cho chàng? Đây là một vật làm cho vợ chồng ta lìa nhau. Không thế thì sao bây giờ mới có, trước kia lại không?

Anh học trò nói thác cớ là cha mẹ vừa mới gửi đến. "Thương nàng, yêu nàng, ta không tặng nàng, thì tặng ai? Đã khăng khít với nhau như liền khúc ruột, sao nỡ đem lòng ngờ vực như thế?". Anh ta giả đò giận. Con yêu mới lấy khăn rồi ra về.

Sáng hôm sau thầy đến hỏi chuyện, biết là con yêu mang khăn về rồi, liền bảo anh đi xét trong miếu cổ. Quả nhiên thấy vuông khăn hồng vắt trên cái chổi rễ bằng trẹ Thầy trỏ vào cái chổi nói rằng:

- Đúng là cái chổi này thành yêu.

Thầy bảo đem chổi về đốt, thì nghe trong ngọn lửa có tiếng kêu khóc. Từ đó con yêu chổi không còn đến quấy rầy anh học trò nữa..
 
Back
Top