• Hiện tại trang web đang trong quá hình chuyển đổi và tái cấu trúc lại chuyên mục nên có thể một vài chức năng chưa hoàn thiện, một số bài viết và chuyên mục sẽ thay đổi. Nếu sự thay đổi này làm bạn phiền lòng, mong bạn thông cảm. Chúng tôi luôn hoan nghênh mọi ý kiến đóng góp để chúng tôi hoàn thiện và phát triển. Cảm ơn

NHỮNG CÂU CHUYỆN VỀ MA QUỶ!!!

Cánh bướm trắng


Vào khoảng thập niên 1940 lúc phong trào kháng Pháp đang lên cao độ, tại một thị trấn nhỏ có một cặp vợ chồng trẻ vừa mới cưới, thương yêu nhau rất đậm đà, chồng là tài xế hỏa xa còn cô vợ buôn bán nhỏ qua ngày. Ngay đêm vợ đau nặng chàng nhận lệnh phải lái chuyến tàu hỏa tốc về Hà Nội, không muốn ra đi nhưng dưới ánh mắt trấn an của người vợ trẻ, chàng đành bấm bụng khởi hành.

Đoàn tàu dục tốc tiến về Hà Nội, càng về đêm lòng chàng trai càng bồi hồi khôn tả, nổi lo cho trọng trách khó khăn, lòng thương người vợ hiền đang nằm trên giường bệnh. Bâng quơ anh tài xế nhìn vào bóng đêm trước cửa phòng lái... lo lắng vu vơ, tâm trạng bồn chồn... chập chờn một cánh bướm đêm... cánh vổ nhịp nhàng, lúc chậm lúc mau... chập chờn cánh bướm trắng... bất chợt chàng trai dụi mắt nhìn kỷ đôi cánh trắng, lúc nhanh lúc chậm... lúc nhanh lúc chậm... dừng lại... dừng lại... theo tín hiệu Morse tích tích te... Ngạc nhiên chàng chú ý nhìn thật kỷ, rỏ ràng đôi cánh của con bướm đang lập đi lập lại tràng tín hiệu... dừng lại... dừng lại... nguy hiểm... nguy hiểm . Tin vào đôi mắt mình nhưng đây là chuyến tàu tốc hành, đâu thể nào dừng lại vô cớ được . Đoàn tàu cứ tiến nhanh về phía trước, cánh bướm chập chờn mỗi lúc một gấp rút hơn... đoàn tàu cứ băng băng tiến... Bất chợt văng vẳng bên tay chàng nghe một giọng người hớt hải... dừng lại... dừng lại đi anh... vẳng vẳng bên tay giọng la thất thanh của người vợ thân yêu... nguy hiểm lắm, dừng lại đi mình ơi... tàu càng chạy nhanh, tiếng la vang càng hớt hải, chuyển thành giọng van xin... dừng lại đi mình ơi, yêu yêu mình lắm... dừng lại, nguy hiểm lắm chàng ơi... Không dừng được chàng tài xế thò tay kéo mạnh chiếc phanh... két... két... chuyến xe tốc hành thắng gắp, người người lăn lộn, hành lý đổ ngả tứ tung...

- Chuyện gì thế ? - Trưởng tàu hỏi lớn.

- Không biết, có chuyện gì phía trước đây - Chàng ngập ngừng đáp trả.

Cầm ngọn đèn bảo họ đi từng bước thăm dò về phía trước... bóng đen phủ kín màng đêm, lá rừng xào xạt... hải hùng cả bọn dừng chân, miệng há hốc họ bàng hoàng... Phía trước mặt chiếc cầu bị Việt Minh đặt mìn giật sập... Lầm lủi chàng thanh niên trở về khoang lái, bỏ lại sau lưng nhưng tràng hỏi tại sao anh biết... Nhặt cánh bướm trắng bướm trắng đã gục chết bên buồng lái, chàng trai linh tính một chuyện chẳng lành... Xong nhiệm vụ chàng hối hả quay lại quê nhà... ngay đêm ấy người vợ thân yêu đã trở bệnh qua đời... giờ nàng tắt thở đúng vào lúc cánh bướm trắng chập chờn báo hiệu... hồn người vợ thân yêu đã theo theo chồng trước giờ lâm tử.
 
Cái mặt nạ của Thần Rhê

Tác giả: Tam Tang



Note: Chuyện này được viết theo lời kể của một người quen ở Massachusetts (trước kia sống tại Ban Mê Thuột, VN.) Và cũng được gợi hứng từ phim "MASK" của Mỹ !

Tôi xin mạn phép ghi chú mấy từ địa phương mà có lẽ các bạn sống ở thành thị hay vùng đồng bằng ít quen thuộc!


_Bao cát: Bao dùng để đựng cát. Dùng để đắp bờ chống lụt ở Mỹ! Các người lính cũng dùng các bao này để làm các công sự phòng thủ (bunkers)

_Lán: Căn nhà rất dài lợp tranh, dùng làm chổ ở tập thể cho các công nhân hay thanh niên đi công trường (Mỹ gọi là barrack.)

_Nhà Giàng: Nhà sàn dài trong buôn Thượng được dành để các dụng cụ và đồ trang sức và vật thờ cúng. Người Thượng hàng năm tổ chức các cuộc nhảy múa cúng Giàng (Trời, Thần) trong căn nhà này !

_Cúng Giàng: Cúng Trời và các Vị Thần Thánh của buôn . Trong các cuộc cúng Giàng, các thanh niên thiếu nữ vẽ mặt mày, hay đeo các mặt nạ để nhảy múa để triệu hồn các vị Thần về chứng giám buổi lễ !

_Chúa làng: Trưởng làng, thường là cha truyền con nối và có uy quyền nhất trong Buôn (như Tù Trưởng của các bộ lạc Da Đỏ bên Mỹ)

_Rượu cần : Rượu được làm bằng cách lấy một loại lá cỏ cho vào hủ đất (khá to và cao) rồi cho một vài chất mà người Thượng dùng để lên men rượu! Rượu này chua chua chứ không giống như rượu đế của người Kinh ta! Khi uống rượu này, người dân tộc dùng các ống dài (long straws) bỏ vào hủ để hút uống vì thế được gọi là rượu cần !



Vào mùa hè năm 78, anh tôi cũng như các thanh niên cùng lứa tuổi phải đi "Thanh Niên Xung Phong" cho nhà nước 3 năm. Chổ anh tôi làm công trình thủy lợi gần một Buôn Thượng. Buôn này thuộc huyện Lạc Thiện, huyện này cách TP/BMT khoảng gần 50 cây số về hướng Tây Nam. Thỉnh thoảng anh về thăm nhà vài bữa rồi lại đi . Một lần kia, anh tôi mang về khoe mọi người trong gia đình một cái mặt nạ bằng gỗ đen sì sì, trông rất gớm ghiếc và dữ tợn! Trong nhà chẳng có ai tỏ ra thích nó cả, chỉ riêng anh ấy là có vẻ hảnh diện vì nó lắm! Anh tôi để nó trong ngăn kính của tủ buffet như để khoe với các khách lạ đến nhà chơi về cái mặt nạ kỳ bí của mình! Chúng tôi thấy nó quá xấu xí nên không ai muốn rờ mó gì đến nó hết! Còn anh tôi thì một năm chỉ về nhà chơi vài lần ! Cái mặt nạ nằm chình ình trong đó không ai màng chú ý đến!


Chừng gần một năm sau đó, một người bà con xa ở quê lên phố ghé nhà tôi chơi, thấy cái mặt nạ trong tủ bèn tới lấy ra ngắm nghía và hỏi mẹ tôi về nó . Mẹ tôi nói là do anh tôi lấy ở một Buôn Thượng về! Ông ta ở chơi đến chiều rồi ra chợ đón xe về! Hôm sau có người ra báo cho gia đình tôi là ông ấy bị lật xe chết chiều hôm qua ! Gia đình tôi xuống chia buồn và dự lễ an táng! Ai cũng nghĩ đó là tai nạn xui xẻo thôi! Chừng hai tuần sau đó, một anh công an khu vực ghé vào nhà tôi chơi ! Anh ta nói là sắp về thăm quê ngoài Bắc, và nói manh mánh để xin ít tiền làm lộ phí! (Chả là mẹ tôi buôn bán ngoài chợ nên có đồng ra đồng vào nên công an khu vực thường tới xin xỏ, và vì muốn yên thân mẹ tôi cũng như các người buôn bán khác thường phải biếu xén cho khỏi bị phiền hà!) Khi sắp ra về, anh ta thấy cái mặt nạ trong tủ bèn cầm xem và xin nó mang về Bắc làm kỷ niệm ! Mẹ tôi từ chối và nói đó là của anh tôi, mẹ tôi không có quyền lấy cho ai cả ! Anh ta kiếu từ ra về ! Hôm sau, mọi người trong phường nghe tin anh ta bị đạn nổ chết trong lúc lau súng ở trong phòng anh ta ! Trong nhà tôi cũng chẳng ai để ý đến sự trùng hợp đó cả _ Hai người đến chơi nhà tôi khi về thì bị chết _ Mọi người đều cho đó là tai nạn rủi ro !



Nhưng trong tháng đó, tự dưng tiền điện nhà tôi lên đến gần cả 400 đồng! Lúc đó điện nước đều bị hạn chế, xài nhiều là bị phạt, và còn có thể bị cúp nữa ! Gia đình tôi chỉ giám xài theo mức hạn chế của nhà nước mà thôi, thế sao tiền điện lại cao như vậy kìa! Không ai biết cả ! Trong nhà có một bàn ủi điện, một cái bếp điện hai lò tư trước 75 còn lại, nhưng bố mẹ tôi đâu cho ai dùng các thứ xa xỉ này! Tôi lấy làm thắc mắc về việc này lắm ! Một đêm kia, khi tôi xuống bếp để lấy ly uống nước. Tôi xanh mặt vì thấy hai cái lò trên cái bếp điện cháy đỏ rực! Tôi chạy lại định vặn công tắc để tắt nó đi! Nhưng cái nắm vặn vẫn ở vị thế OFF! Tôi không biết làm sao kỳ lạ vậy nữa! Tôi bèn cúi xuống gầm bếp nắm sợi giây điện kéo cái phích ra khỏi ổ cắm, rồi chạy lên nói với bố tôi về việc này, và đoán chắc tiền điện lên là do cái bếp điện mà ra! Bố tôi đoán là cái bếp điện bị chạm hay hư nên có tắt mà vẫn bị chạm hồng lên ! Mẹ tôi lên tiếng! Nếu nó chạm thì cũng chỉ mới hôm nay thôi chứ lâu thì mẹ tôi đã thấy khi nấu nướng rồi ! Cái bếp đó chỉ để làm kiểng chứ có ai dám nấu nướng bằng nó đâu! Tiền điện quá cao giống như ngày nào cũng nấu bằng bếp điện vậy ! Bố tôi liền xuống bưng cái bếp điện đem cất vào nhà kho !


Hôm sau, bố tôi dẫn cái xe Honda ra để đi xuống rẫy, ông đạp hoài mà chẳng làm sao cho nó nổ máy được ! Bố tôi xem lại xăng nhớt, mọi thứ đều còn đầy ! Ông tháo lau bugi, đạp thử để xem lửa! Lửa bắn rất mạnh! Nhưng khi ráp bugi vào rồi đạp cũng chẳng làm nổ nổi cái xe! Bố tôi dắt xe ra tiệm đầu phố để nhờ anh thợ sửa xe xem hộ ! Anh thợ máy xem xét mọi thứ và nói là không có gì hư cả ! Lạ là ngay cả anh ta cũng chẳng làm sao đạp nổ máy được ! Bố tôi đành chịu thua, dẫn xe về và phải ở nhà hôm đó ! Đến tối bố tôi bổng bị sốt nặng! Mẹ tôi đi mua thuốc cảm sốt của mấy bà bán chợ đen về cho bố tôi uống, nhưng bệnh mỗi ngày một nặng thêm! Mấy hôm trước bố tôi vẫn còn khoẻ như voi mà bây giờ ông nằm liệt giường như là người ốm nặng cả năm rồi! Mẹ con tôi lo lắng lắm, cứ sợ bố tôi chết thì không biết xoay sở ra sao trong cái thời buổi khó khăn này !!


Cả nhà đang lo lắng thì anh tôi lại về, vẻ lo lắng hiện trên nét mặt! Mới vào đến nhà, anh tôi hỏi mọi người trong nhà đều bình yên cả chứ! Và khi nghe mẹ nói bố tôi bị đau nặng đột ngột mấy hôm nay, anh ấy nhào ngay về phía tủ trà buffet, mở lấy cái mặt nạ bỏ vào cái ba lô anh đang xách trên tay! Xin mẹ 200 đồng (lúc này 200 đồng rất lớn) nói là có việc khẩn cấp phải dùng nó, xong anh ấy phóng ra cửa đi một mạch chẳng ai kịp hỏi lấy thêm một lời nào cả ! Sáng hôm sau bố tôi ngồi dậy, tỉnh táo như chẳng có một tí gì là bệnh hoạn hết ! Cả nhà đều ngạc nhiên ! Mẹ tôi hỏi bố cảm thấy trong người thế nào! Ông nói là rất khoẻ khoắn chẳng cảm thấy mệt mỏi hay bệnh hoạn gì cả !




Chiều hôm đó anh tôi lại trở về nhà , mặt lộ vẻ hân hoan vui vẻ chứ không hốt hoảng như hôm qua! Tối đó sau khi tắm rửa, ăn uống xong, cả nhà tôi quây quần trong phòng khách và anh tôi bắt đầu kể chuyện:


"Vào một ngày Chủ Nhật khoảng 10 tháng trước đây, tụi con được nghỉ nên rủ nhau vào Buôn Thượng chơi . Uống rượu cần và hút thuốc vấn với mấy người dân tộc ở trong buôn! Tối về, một thằng bạn con móc ra từ bao cát một cái mặt nạ bằng gỗ khoe với mọi người trong lán. Tụi con hỏi nó lấy được ở đâu. Nó nói là nó đã lẻn vào "Nhà Giàng" của Buôn, và chôm cái mặt nạ này! Nó khoe là có rất nhiều mặt nạ khác nhau ở đó, nhưng thấy cái này có vẻ kỳ lạ nên lấy về chơi! Nó để cái mặt nạ này ở đầu giường của nó ! Bẳng đi cả tháng chẳng còn ai để ý đến cái mặt nạ đen thui đó nữa! Hôm con về phép nó nhờ con tới nhà nó để xin mẹ nó ít đồ tiếp tế, và để trả công trước, nó cho con cái mặt nạ đó, và lần đó con mang về để chưng trong tủ buffet!




Đầu tháng rồi, thằng bạn cho con cái mặt nạ đang đứng trên bờ mương thủy lợi thì bị trượt chân té đập đầu vào cục đá to ở đáy mương chết liền tại chổ . Mấy thằng thanh niên Thượng trong toán con nói là nó bị Thần Rhê vật chết ! Bọn con không tin, nhưng bọn dân tộc này nói với giọng rất là nghiêm trọng lắm làm tụi con cũng không dám giỡn thêm! Tối đó về tới lán, tụi con hỏi ai là Thần Rhê vậy, tụi nó mới kể lại là tuần trước đây trong Buôn có cúng Giàng và họ khám phá ra là bị mất cái mặt nạ của Thần Rhê (Đó là tên của Thần Núi Lửa.) Trong buổi cúng đó, họ cầu thần hãy giết bọn trộm vật đại diện cho Thần! Và người đầu tiên bị Thần giết là thằng đã lẻn vào ăn cắp cái mặt nạ trong Nhà Giàng! Tụi con hỏi thế thì có thể làm gì để Thần tha cho không, bọn nó nói phải mang cái mặt nạ về giao trả cho Chúa Làng và xin dân làng làm lễ cầu Thần tha tội thì mới xong! Con lo lắm vì cái mặt nạ nằm trong nhà mình! Con muốn về để mang nó trả lại cho Buôn, nhưng bố mẹ biết đó đâu phải con muốn về lúc nào là về được đâu! Con đành phải đợi cơ hội mới xin phép về được! Hôm qua con về đến và biết bố bị bệnh nặng đột ngột là con biết không xong rồi! Con mang cái mặt nạ vào Buôn đưa cho Chúa Làng và nhờ thằng bạn người Thượng giải thích cho ông ta biết là do đâu con có được nó, rồi đưa cho ông ấy 200 đồng xin ông và dân làng làm lễ cúng Thần cho con! Ngay chiều tối ấy họ làm lễ cúng có con ngồi xem tận mắt ! Trông họ la múa, trống chiêng con cũng thấy rợn người! Đến khi tan buổi lễ con mới về sau khi đã được Chúa Làng trấn an là mọi chuyện sẽ êm xuôi, đừng sợ gì nữa cả vì Thần đã hứa tha rồi! Hôm nay về nhà thấy bố tự nhiên hết bệnh, có lẽ ông Chúa Làng nói đúng! Và nhất là sau khi biết các việc xảy ra trong vòng một tháng nay, cái chết của thằng bạn, của bác Bảy, của anh công an khu vực, và các sự lạ xảy ra trong nhà mình, con nghĩ rằng đúng là cái mặt nạ đó đã mang lại các điều xui xẻo cho người nào cầm nó ! Con và bố may mắm là chưa bị Thần Rhê làm chết !! Từ giờ trở đi con tởn tới già không giám nhặt ba cái vật kỳ quái hay dị hợm về nhà nữa đâu ! "


Nói là làm, anh tôi chẳng bao giờ mò vào các Buôn Thượng nữa! Sau này khi đã sang Mỹ rồi mà trong những kỳ đi chơi ở các thác hay vùng núi, mọi người đua nhau nhặt các viên đá đẹp, các hòn có hình dáng kỳ lạ giống mặt người về làm kỷ niệm thì anh tôi dửng dưng như không! Ai hỏi tại sao, anh ấy chỉ trả lời là không thích chơi nghịch các hòn đá thôi ! Nhưng tôi biết ngay rằng anh ấy vẫn bị ám ảnh bởi cái mặt nạ ghê gớm ngày xưa đó !!
 
Bóng ma trên tầng cao 1

Một ngôi nhà xanh hai tầng, một gác xép, một khu vườn, một nhà xe và rặng cây ngăn cách nhà hàng xóm. Người ta gọi là ngôi nhà xanh vì những cánh cửa sơn xanh. Ông và Baoman ở đây đã nhiều năm, đã sơn đi sơn lại cửa nhiều lần đến mức tường đá cũng có màu xanh nhạt.

Rặng cây cũng xanh, và những tấm màn cũng xanh.

Một ngôi nhà đẹp, vì một mối tình đã năm mươi năm, từ năm 1941. Mácta và Giuliút Baoman không có con nhưng hạnh phúc. Giulíut nguyên giám đốc ngân hàng, nghỉ hưu và Macta làm bánh nhân anh đào. Họ nghe đài, đôi khi cũng cùng nhảy một điệu van cũ thành Viên hoặc một bài tăng gô Achentina.

Trong khu nhà ở ngoại ô Đenve này, dưới chân những ngọn núi đá, vợ chồng Baoman được nhiều người biết, được ngưỡng mộ. Họ sống thật hạnh phúc nên cũng vui khi thấy học khoác vai nhau cùng nhau đi dạo thanh thản. Giulíut bảy mươi ba tuổi, Macta bảy mươi hai.

Macta bước xuống thang, đôi chân còn nhanh nhẹn. Bà vừa bận quần áo để đi dạo chơi và gọi:

- Giulíut, ông xong chưa?

- Tôi đã chờ bà rồi đây...

Macta Baoman cất tiếng cười vui, bỗng Giulíut nghe chuyển thành tiếng kêu. Rồi một tiếng ngã lăn, một tiếng kêu nữa và im bặt. Ông vội chạy vào phòng, thấy vợ Ông nằm dài trên nền, thở hổn hển, mặt nhăn nhó đau đớn...

- Macta, có việc gì xảy ra thế?

- Tôi ngã từ thang gác... Lạy Chúa, tôi có cảm giác chân tôi bị hất lên... như có người không cho tôi đặt chân xuống đất... Ông Giulíut, tôi đau lắm.

Ông Baoman gọi hàng xóm đến cứu. Ông hơi sợ, Macta chắc chắn bị gãy chân, cong người lại một cách kỳ lạ. Hàng xóm, một đôi vợ chồng trẻ hơn gọi xe cấp cứu và ổn định tinh thần ông già.

- Thôi nào, ông Baoman... một chân gãy thì có sao...

- Họ sẽ đưa bà ấy đi bệnh viện, ông bà không biết chứ. Bà ấy không bao giờ rời tôi... và tuổi ấy mà bị gãy chân...

Bác sỹ thì đỡ lo hơn.

- Một chân gãy, dù ở tuổi bà ấy, cũng giải quyết được thôi, ông Baoman, vợ Ông có sức khoẻ.

Thế là ông Baoman đưa bà vợ đi bệnh viện, chiều về buồn bã, cô đơn đến nỗi ông bà hàng xóm thương hại.

- Ông sang nhà tôi ăn tối với chúng tôi... đỡ cô đơn.

- Bà ấy phải nằm lại bệnh viện mười lăm ngày...

- Ông cứ ăn bên chúng tôi trong mười lăm ngày.

Giulíut Baoman biết ơn, nhận lời. Và tám ngày tiếp đó cứ đúng bảy giờ, ông sang ăn tối.

Ngày thứ chín, ông sang chậm; bà hàng xóm lo ngại mất nửa tiếng.

- Để tôi sang xem ông ấy đang làm gì.

Chồng bà nhún vai.

- Ông ấy ở bệnh viện về chậm, hoặc đang ngủ...

- Ông ấy không hay chậm giờ. Tôi sang xem.

Bà choàng chiếc áo mưa, thắt khăn quàng cổ và đi ra trong gió lạnh mùa thụ Đi qua bãi cỏ cách nhà bà với nhà Baoman, bà hơi run rẩy.

Không có ánh đèn, cửa đóng. Bà đứng dưới mái cổng nhìn vào nhà xe, thấy có xe, như vậy là Giulíut có ở nhà... Trong khu này người ta không đi bộ ra ngoài, nhất là buổi tối. Thành phố và hàng quán ở cách đó hơn sáu cây số. Một số quán hiếm hoi thì giờ này đã đóng cửa. Bà bấm chuông không có trả lời, ngẩng đầu lên nhìn cửa sổ tầng hai... Hình như một tấm màn lau động, nhưng đây là do được chiếu sáng; một chiếc xe vừa chạy qua hắt một luồng ánh sáng vào ngôi nhà rộng.

Bà hàng xóm đánh trống ngực, không biết vì sao. Ngôi nhà thường ngày dễ mến, êm dịu với mọi màu xanh, tối nay giống như một ngôi nhà có mạ Trống trải, sầu thảm, hung gở. Bà đi một vòng nhìn xem các cửa sổ khác. Tất cả đều đóng kín, chỉ những cánh bên ngoài không khép. Cửa ra vào bếp và phòng khách gần khu vườn cũng vậy. Tất cả đều đóng.

Một chiếc xe khác đi qua, chiếu sáng vào cửa sổ. Bà lợi dụng ánh đèn xe ngó vào khe hở ở phòng khách.

Một tiếng kêu sợ hãi mắc trong họng.

Bà đã thấy ông Baoman nằm dài trên sàn, bất động, trong tư thế trông thật đáng sơ... Bà chạy, chạy dưới trời mưa bụi nhớp nháp. Bà có cảm giác ông Baoman đã chết. Bà biết vậy. Một thứ linh tính...

Mười phút sau khi hàng xóm báo tin, đội trưởng cảnh sát Đon Carudơ cùng hai nhân viên vào ngôi nhà xanh.

Đon Carudơ cao lớn, một loại chim có cái nhìn sắc xảo, giọng nói nghiêm khắc. Qùy xuống bên cạnh người Giulíut, ông càu nhàu:

- Nói với bác sỹ không vội, ông già chết được một lúc rồi.

Giulíut mặc quần nhung và áo trong nhà. Tay phải ông cầm một khẩu súng ngắn, một mảng máu bắt đầu đông lại phía sau đầu.

Đon Carudơ vẫn lẩm bẩm:

- Ông già không kịp bắn, khốn khổ... này, anh bạn tìm cho tôi cái gì đó nặng gây ra vết thương này...

Rồi Đon Carudơ đi quanh nhà trong lúc hai người của ông lục lọi cẩn thận. Ông cũng có một cảm giác lạ.

- Bà hàng xóm này... bà nói cửa đóng bên trong cả à?

- Vâng, trừ cánh bên ngoài.

- Như vậy là ông già bị giết khi trời còn sáng. Điều tôi băn khoăn là kẻ sát nhân. Hoặc hắn còn ở trong nhà, hoặc có chìa khoá.

- Chẳng ai có chìa khoá. Chúng tôi cũng không.

- Thế tên kia đóng tất cả bên trong bằng cách nào?

Đon Carudơ nhìn ngó, kiểm tra... làm ông bà hàng xóm sợ.

- Ông nghĩ trong lúc này hắn ta đang ở trong nhà?...

- Nếu có, chúng ta sẽ tìm ra...

Một nhân viên bước ra:

- Thủ trưởng, chúng tôi tìm được cái này trên tủ gần lò sưởi ở phòng khách.

"Cái này" là một sắt thọc lửa to lớn, đẫm máu. Một mảng da và một số tóc còn dính ở đó.

Đon Carudơ lại quỳ xuống quan sát vết thương rồi lục túi ông già, lấy ra chiếc ví, tiền nong. Ở tay trái ông già còn đeo đồng hồ, chiếc đồng hồ có giá các nhân viên tặng lúc về hưu. Như vậy kẻ sát nhân muốn gì? Nhà không bị lục lọi, không có gì bị đảo lộn. Chẳng bị lấy trộm vật gì.

Tên kia chắc gây ra tiếng động, ông già đi lấy khẩu súng trong ngăn kéo tủ hiện vẫn mở. Ông chưa kịp bắn. Sau đó hắn bỏ đi vì mấy người lục lọi khắp nhà chẳng thấy ai, không một dấu vết chạy trốn. Như vậy hắn có chìa khoá. Đon Carudơ suy đi nghĩ lại những tình huống, không thấy giả thuyết nào khác vấn đề có chìa khoá. Chắc hắn không biết ông Baoman đang có người chờ ăn tối, hy vọng còn lâu mới bị phát hiện; không rõ vì động cơ gì.

- Ông bà già có kẻ thù không?

- Ông cũng biết là không... Ông biết rõ họ như chúng tôi. Họ đáng kính phục đến thế kia mà.

Bà Baoman khốn khổ nằm trong bệnh viện không biết gì cả. Cảnh sát tìm tòi xong, thi thể ông Baoman được đưa đi. Ngôi nhà được đóng kín cùng điều bí mật của nó.

Vì có một điều bí mật. Cái gì đó mà những người cảnh sát không thấy. Mặc dù xảy ra rất gần...

Ngôi nhà xanh im lìm, mọi cửa kính đóng dưới mưa thụ Ở nhà mình, bà hàng xóm đoán vậy sau bức màn cây và nói với chồng:

- Một ngôi nhà bất hạnh.

- Nào, bà, vấn đề trộm cướp thôi.

- Tôi nói với ông là ngôi nhà bất hạnh, lởn vởn như có bóng ma...

- Được rồi, chỉ còn thiếu điều đó... Bà say sưa khen ngôi nhà như mọi người trong khu phố... và bây giờ lại là ngôi nhà có mả Bà có thấy ma không?

- Không... nhưng tôi có một cảm giác kỳ cục, viên cảnh sát cũng thế. Giống như có một sự hiện diện vô hình.

- Tốt lắm, bà cứ thêm điều đó vào nỗi đau khổ của và Macta Baoman thì sự việc sẽ hoàn chỉnh.

Bà Macta khốn khổ đúng là bị cắm chặt ở bệnh viện, thậm chí không thể dự lễ tang chồn. Khi ra viện với đôi nạng, bà đến mặc niệm trước mộ chồng và quyết định đến sống với bạn ít lâu ở Caliphocnia. Để thoát khỏi những kỷ niệm trước mắt và hạnh phúc đã mất trong ngôi nhà xanh.

Việc điều tra không làm sáng tỏ được gì. Vẫn hoàn toàn bí mật. Macta không thể nói rõ gì hơn với cảnh sát mà ngược lại. Bà không thấy ai có thể có chìa khoá nhà mình. Nếu có người nào đó có là họ làm trộm. Giuliust có lẽ biết nhưng ông chết rồi, không nghĩa lý gì cả. Không có động cơ rõ ràng.

Ngôi nhà xanh bỏ trống trong nhiều tháng. Mùa đông tới, khu vườn âm u, cây cối trụi lá, những gian phòng rộng rãi, nội thất trang trí theo lối cổ không còn vang tiếng cười của Macta, vắng tiếng nhạc, nhảy múa, hạnh phúc. Vào mùa xuân, bà Baoman trở về nhà được nhiều người chào hỏi. Ông bưu tá là người gặp bà trước tiên, thái độ kín đáo nói với bà:

- Bà biết không... nhà bà... ai cũng bảo là có ma...

Macta Baoman khẽ cười:

- Ông nói gì thế? Ma à? Nó ở đây suốt mùa đông, đúng không?

- Tôi nói để bà biết, thế thôi...

- Nhưng biết việc gì? Ông nhận thấy có vấn đề gì à?

- Tôi thì không, nhưng những người hàng xóm của bà có đấy... và cả những người khác nữa... rồi bà sẽ thấy...

Macta Baoman không tin vào ma quỷ. Bà vững vàng về thể chất và tinh thần. Sự goá bụa là một bất hạnh lớn nhưng bà can đảm chịu đựng, lạc quan, yêu cuộc sống như xưa nay và mê say hạnh phúc. Bà sống một mình với kỷ niệm về Giuliust và những năm qua... vì số phận đã định thế. Đừng ai nói vớ bà về ma quỷ. Đúng ra là cảnh sát phải tìm ra kẻ giết người.

Bà hàng xóm đến thăm. Lại nói về ma.

- Bà cũng nghĩ thế à?

- Không, tôi cũng như bà, không tin vào ma quỷ; đêm đó tôi có cảm giác không hay nhưng hết rồi. Chính bọn trẻ con phao đồn chuyện này. Chúng bảo nhiều lần thấy có ánh đè trong đêm, ở cửa sổ gác xép. Cảnh sát cũng đi tuần vài lần nhưng có lẽ chỉ là ảo giác... Chắc đèn ô tô... có điên chúng mới để đèn trên đó...

Một ông hàng xóm khác sang chào bà Baoman và cũng nói chuyện về ma.

- Bà biết không, chắc vợ tôi không nói với bà vì sợ là kỳ cục nhưng một hôm đi qua nhà bà, bà ấy thấy một chuyện lạ. Lúc đó bà chưa về. Một buổi sáng, đi chợ về qua nhà bà, bà ấy rú lên chạy về tận nhà như người điên, nói rằng thấy một khuôn mặt nhìn ra từ cửa sổ gác xép. Một khuôn mặt trắng bệch như bóng ma của ông nhà. Bà ấy rất xúc động nhưng bây giờ công nhận có thể là nạn nhân của ám ảnh. Với những chuyện nhà có ma người ta kể từ trước đến nay, bà đã cho lục soát hết mọi xó xỉnh của ngôi nhà chưa?

- Tôi không chỉ cho lục soát mà còn quét dọn. Tôi thuê một bà giúp việc làm; ở tuổi này tự mình không chăm lo được nữa, nhà rộng quá. Tôi đoán chắc với ông chẳng thấy con ma nào trên gác xép hoặc phía sau tủ.

Bà Baoman bỏ qua điều bí mật, không để ý đến nữa. Cũng như những nhân viên cảnh sát vậy.

Bà tỏ ra vô cảm về không khí kỳ lạ quanh mình. Thực ra có nhiều nguyên nhân. Có lẽ vì bà nguyên là giáo viên về địa lý, tính tình lạc quan, có đầu óc thực tế và những chiếc bàn quay ma quỷ hoặc có sự hiện hình không xâm nhập vào thế giới trí thức. Macta chỉ sợ những việc thật. Như ngã trên cầu thang chẳng hạn. Chân bà không vững vàng và bà tránh lên xuống cầu thang. Một vấn đề nữa là dù không muốn chấp nhận, bà đã thành nặng tai theo thời gian. Trở ngại đó không làm bà băn khoăn nhưng làm bà ngạc nhiên về những ý nghĩ của bà giúp việc:

- Thưa bà... tôi nghe có tiếng bước chân trên kia...

Cô gái Mêhicô trẻ, búi tóc đen như mực, ở một phòng trên tầng gác từ khi đến giúp việc bà Baoman. Như mọi người Mêhicô, cô quan niệm về cái chết rất đặc biệt. Thần chết hiện diện hàng ngày trong cuộc sống, những người chết luôn ở bên ta và bóng ma ông Giuliút Baoman đối với cô hoàn toàn có thể có thật.

- Thưa bà... Bà có nghe thấy không?

- Không, gì thế nữa cô?

- Như có ai bước đi trên kia... Tôi nghe tiếng động...

- Nào, cô bạn, cô tưởng tượng ra đấy.

Và bà Baoman lại tiếp tục đọc sách, đan áo hoặc nghe nhạc cổ điển.
 
Bóng ma trên tầng cao 2


Ban đêm, gió lay động màn cây in bóng cành lá lên tường nhà. Những chiếc đèn pha ô tô đôi khi hắt mạnh ánh sáng vào những gian phòng rộng và đồ đạc cũ trong nhà như xuất hiện từ bóng tối, có những hình thù lạ và dễ sợ.

Cô giúp việc lắng nghe, thấy, cảm nhận, phỏng đoán và một hôm tuyên bố:

- Thưa bà, nhà có ma, tôi, tôi không ở lại được...

Đến văn phòng thu xếp việc làm, bà Baoman xin một người mới với đề nghị cụ thể:

- Tôi không đảng phái cũng không phân biệt chủng tộc chút nào nhưng tôi không thích người giúp việc Mêhicộ Họ rất mê tín, ông hiểu chứ?

Không thật sự hiểu vì chẳng quan trọng gì, văn phòng tìm việc giới thiệu cho bà Baoman một quản gia chủng tộc Anglô-Xaxông, người vạm vỡ, quả quyết, chân to, tóc ngắn, có thói quen của những người đứng tuổi và làm cả một đoàn ma sợ hãi. Không vì thế mà chỉ sau một tuần làm việc bà rời bỏ bà Baoman. Bà đến cơ quan cảnh sát.

- Nhiệm vụ tôi là phải nói. Tôi thấy một con mạ Nó đi dưới chân cầu thang lên gác. Một loại thật gớm guốc. Tôi kêu lên và nó biến mất.

Viên cảnh sát ghi lời tố cáo, bỡn cợt hỏi:

- Bà kiện nó chứ?

Nhưng Đon Carudơ, người trước đây một năm được cử điều tra về cái chết Giulíut Baoman, chú ý lắng nghe. Ông đến thăm bà Baoman.

- Ông nói có một con ma gớm guốc ở nhà tôi à? Ông đội trưởng... Ông cũng tin có ma quỷ ư... Cái chết của ông nhà tôi không được làm sáng tỏ, tôi không trách nhưng tôi nghĩ điều bí ẩn đó gây nên những ý nghĩ ngu ngốc trong khụ Tôi đơn độc đã khá vất vả rồi và nếu những chuyện đồn đại đó cứ tiếp tục, tôi chẳng biết tìm ai giúp đỡ nữa...

- Không phải thế, bà Baoman... Tôi muốn biết bà có chắc chắn không có ai thỉnh thoảng lẻn vào nhà mà bà không biết không?

- Tôi đã nói đi nói lại, ông đội trưởng. Tôi chưa bao giờ thấy có gì không bình thường. Nếu có ai ở trong nhà thì tôi phải biết chứ...

- Có vấn đề hôm xảy ra vụ án mạng mọi cửa ngõ đều chốt bên trong... Điều đó lúc nào cũng làm tôi day dứt.

- Người của các ông lúc đó đã lục soát từ trên xuống dưới rồi còn gì...

- Tôi biết... Bà có cho phép tôi tìm kiếm lại không?

- Nếu ông thấy cần và nếu việc làm đó chấm dứt được những lời đồn đại ngu ngốc... tôi đồng ý. Với điều kiện người của ông đừng làm hư hỏng gì. Tôi đang chờ một bà quản gia mới mấy ngày nữa sẽ tới, các ông chờ cho đến khi bà ấy tới để sắp xếp lại trật tự sau khi các ông lục soát.

Đon Carudơ nhận lời. Hẹn trong tám ngày nữa.

ý nghĩ của viên cảnh sát cũng có lý phần nào. Bà già nặng tai, một tên vô lại có thể lợi dụng ngôi nhà rộng rãi này mà ẩn náu dễ dàng. Vào ra bà ta không biết. Có thể là kẻ giết người... Có thể chỉ là người lợi dụng ngôi nhà trống sau vụ sát hại... vì những chuyện ma quỷ nảy sinh trong lúc bà Baoman đi vắng.

Nhưng hôm sau, sự việc đến nhanh hơn. Đon đang ngồi trong văn phòng, một nhân viên chạy gấp vào:

- Thủ trưởng, bào Baoman gọi điện thoại. Bà lại ngã cầu thang! Bà lê được đến bên máy. Người ta đã cho xe cấp cứu đến; trong lúc chờ đợi bà ấy muốn nói chuyện với ông. Đon cầm máy, nghe giọng nói hổn hển của bà Baoman:

- Tôi nghĩ ông có lý, ông đội trưởng... Tôi bắt đầu thấy sơ... có điều gì đó... đề nghị Ông tới cho...

- Tôi sẽ tới!

Mấy phút sau viên cảnh sát đã đến bên cạnh bà già khốn khổ. Nằm dài trên cáng, nhăn mặt đau đớn, bà giải thích:

- Vẫn cái chân ấy... Ông biết lần trước chứ, tôi nhớ... rất lạ về cách bị ngã... tôi đã nói với ông nhà tôi... như có ai ngoặc chân tôi, hoặc ngăn cản tôi đặt chân xuống bậc thang... cảm giác kỳ lạ, nhưng khi ngã lăn qua nhiều bậc thì quên hết mọi chuyện.

- Lần này thì thế nào, bào Baoman, bà có thấy ai không?

- Không, ông đội trưởng ạ, nhưng trước khi ngã tôi cảm thấy có cái gì đó đụng vào mắt cá...

- Lúc ấy bà ở đâu, trên gác, gác xép hay tầng trệt?

Hỏi câu đó khi đang đứng ở sân trước, Đon máy móc nhìn lên bao lơn và ngây người. Ông vừa thấy một bàn tay trắng, gầy, thong thả nâng tấm màn cửa sổ trên tầng và bỏ nhanh xuống.

Bây giờ thì ông chắc chắn. Mẹ kiếp, có kẻ nào đó ở trong nhà này, sống ở đó, ẩn náu, mà bà Macta Baoman không biết.

- Có gì vậy, ông đội trưởng, ông thấy gì à?

- Không, không, nhưng nếu có người nào đó chúng ta sẽ tìm ra, bà đừng lo...

Chẳng làm bà già lo lắng thêm vô ích, nhất là bác sỹ bảo lần trật khớp này nặng hơn, bà ấy chắc chắn không bao giờ đi lại bình thường được.

Ông ra hiệu cho xe cấp cứu đi và chạy ra cổng ra lệnh cho một nhân viên đi theo ông.

- Trên kia có một tên. Anh cẩn thận, chắc hắn nguy hiểm đấy.

Hai người rút súng ra. Nhân viên đi với ông người to cao, một mét chín mươi, hàng ngày vẫn luyện tập ở câu lạc bộ thể thao của cơ quan. Không phải tình cờ mà Đon chỉ định anh.

Họ cùng leo nhanh lên cầu thang, lục tìm khắp căn phòng rồi đi vào một hành lang tối sát gác xép, có vẻ không dẫn đi đến đâu. Bỗng Đon nhận thấy phía cuối cùng có một tấm ván che như một cánh cửa nhỏ, động đậy... Một bàn chân trần xuất hiện, mò tìm thanh thứ nhất một chiếc thang dây. Đon ra hiệu cho nhân viên, lặng lẽ...

Anh này lại gần, hơi chúi chân lấy đà rồi dơ hai tay nhảy tới chộp lấy bàn chân đang lơ lửng. Trong bóng tối, Đon không trông rõ lắm nhưng hình như anh nhân viên đã nắm được, vì anh để treo người một lúc rồi rống lên đau đớn. Tên kia chắc đã đánh mạnh vào tay anh, anh phải thả ra và rơi nặng nề xuống đất.

- Trời, anh sao vậy?

Đon leo ngay lên thang dây, đến mấy nấc trên cao thì bắt kịp chân kẻ kia. Ông kéo mạnh và tất cả nhào xuống kêu lên đau đớn. Ông, thang dây, kẻ kia mà ông vẫn nắm chặt chân.

Trên sàn gác xép, một bóng người cựa quậy yếu ớt. Hai người cảnh sát cúi nhìn. Đó là một con mạ Khuôn mặt như xác chết, râu ria xồm xoàm, tóc dài, đôi mắt điên dại, thân hình gầy gò, quần áo tả tơi để lộ chân tay khẳng khiu. Con ma không cựa quậy nữa, nhắm mắt bất tỉnh. Trong lúc chờ xe cấp cứu, Đon quan sát chỗ ẩn của con mạ Một góc nhỏ sát mái, mạng nhện giăng đầy, chỉ có thể ngồi hoặc nằm. Có một chỗ như giường nằm, là chăn đệm cũ chất lại, cùng những hộp bìa dày, chai không. Diện tích toàn bộ dài không đến một mét rưỡi và rộng nửa chừng ấy.

Có tấm ván mỏng có lẽ để đấy đã lâu che kín hốc chuột đó lên đến mái nhà. Trước đây chắc có lỗ cửa nhưng đã bị bịt lại. Con ma ẩn náu trong ấy. Đã từ lâu nhưng không ai để ý đến tấm ván vì quá nhỏ, người ta không hình dung có người sau đó. Hơn nữa ván cùng màu với gác xép, đầy bụi và có vẻ được đóng chặt vào tường.

Một nhân viên cảnh sát nhớ lại:

- Thủ trưởng, lần đầu khi lục soát ngôi nhà, hôm xảy ra án mạng, tôi đã thấy chỗ này. Tôi gõ vào tấm ván, thử kéo ra không được... không ngờ...

Không ai ngờ, bà Baoman càng ít chú ý hơn. Hốc này đã bịt lại từ lâu rồi.

Con ma được bác sỹ khám; ông thấy không có trường hợp nào tương tự.

- Anh ta trong tình trạng quá yếu, do thiếu ăn uống và chắc có vấn đề ở phổi. Cú rơi xuống sàn làm anh ta hầu như hết sống. Nếu tỉnh lại tôi nghĩ còn lâu ông mới thẩm vấn được.

Đon cho chụp mấy tấm ảnh nơi ẩn náu của con ma và bản thân con ma, đưa lại cho bà Baoman xem.

Bà Baoman suy nghĩ... Khuôn mặt hốc hác, đầy râu, gần như chết rồi, không nói lên điều gì với bà... hay là... nhưng...

- Trời ơi, không thể... giống như là Giăcxơn. ?đua Giăcxơn... chúng tôi biết anh ta lúc mười tám tuổi...

- Ông bà có quan hệ với anh ta như thế nào?

- Anh ta chơi đàn, chúng tôi thích anh đến chơi. Anh ở xa đến đây vì tình trạng sức khoẻ, bệnh lai, cần không khí miền núi... Một hôm chúng tôi không nghe nói về anh nữa. Anh biến mất, chúng tôi nghĩ đã về với mẹ. Mấy năm sau chúng tôi gặp anh, đã trở thành đại diện thương mại, bảo vẫn khoẻ. Anh lại biến mất trong hai năm... và khi chúng tôi gặp lại, anh đã thay đổi ghê ghớm. Khoảng ba mươi lăm tuổi mà có vẻ như đã năm mươi. Gầy còm, thất vọng, cô đơn... bà mẹ chết rồi. Như chúng tôi hiểu, bà ấy bị người chồng thứ hai lột sạch, chàng trai không còn một xụ Chúng tôi muốn giúp đỡ anh ta từ chối. Chúng tôi vẫn yêu mến anh ấy, việc từ chối đó làm chúng tôi ngạc nhiên. Rồi anh bỏ đi, chúng tôi không bao giờ gặp lại anh ta nữa.

Tuy vậy, có đấy, họ vẫn gặp lại nhưng không biết thôi.

Mấy ngày sau báo chí đăng những lời khai của ?đua Giăcxơn với cảnh sát. Anh ta được mệnh danh "Người trên tầng cao". "Người trên tầng cao" ghét ông bà Baoman vì họ sống hạnh phúc. Chỉ có thế. Anh ta có định kiến về hạnh phúc không chịu nổi ấy, nghĩ mình là một con người bị đày đoạ, không yêu thương, bị mọi người bỏ rơi. Một tình trạng điên cuồng thực sự. Nếu người ta nói nhỏ gần anh, anh cho là nói xấu anh, nhìn anh cười là người ta chế nhạo anh. Người ta quên chào anh vì anh đáng ghét; nếu bắt tay anh thì chỉ vì thương hại.

Thể bệnh tâm thần này thật đáng sợ. Vì chủ thể nghĩ mình sáng suốt, có ý thức, chủ động. Hơi có một cử chỉ hoặc lời nói của người khác thì cho là công kích mình.

?đua Giăcxơn bị hấp dẫn bởi hạnh phúc của ông bà Baoman và ngôi nhà xanh đồng thời căm ghét hạnh phúc đó. Đấy là một loại tự kỷ ám sự suy sụp. Nguồn gốc ám ảnh bị đầy đoa. từ chỗ đó.

Lần cuối cùng đến thăm ông bà Baoman, anh ta nhận thấy nguồn dự trữ thực phẩm bao giờ cũng đầy đủ. Về hưu, đã có tuổi, Giulíut và Macta rất ít đi mua bán. Trong bếp, chiếc tủ lạnh luôn đầy cũng dễ lấy để dùng, cũng như chiếc bàn của ông Baoman bao giờ cũng có một ít tiền mặt.

?đua bèn quyết định lẩn tránh mọi người, đến sống ở nhà họ, bí mật, trong gác xép.

Anh ta sống ở đó nhiều tuần, nhiều tháng trong góc nhỏ kín đáo dưới mái nhà mặc nắng hạ rét đông. Từng lúc anh ta đi ăn, lấy trộm thức ăn trong tủ lạnh, mượn một cuốn sách, ngọn đèn chạy pin. Cũng từng lúc, nhất là sau cái chết của Giulíut, anh nhìn qua cửa sổ trong ngôi nhà trống vắng... với khuôn mặt ma, trong một giây rồi chẳng làm gì nữa.

Một hôm căm ghét bệnh hoạn anh tuồn một chiếc gậy vào giữa chân bà Baoman và bậc thang gác.

Khi bà đi bệnh viện, ở nhà một mình với Giulíut trong ngôi nhà hạnh phúc, anh ta bỗng nhận ra mình có thể phá tan hạnh phúc đó. Anh theo Giulíut, im lặng như chiếc bóng, từ phòng này đến phòng kia, tạm thời rời bỏ cảnh cô đơn. Nhưng như vậy, một hôm anh gặp nguy hiểm. Giulíut thấy anh, không nhận ra anh, rất sợ chạy đi lấy súng.

?đua đánh ông bằng que sắt thông lò. Ông chết ngay.

Rồi anh tiếp tục sống như một con chuột trong ngôi nhà hạnh phúc, bà Baoman trở về, lòng căm ghét lại dấy lên, càng độc địa hơn. Người đàn bà này muốn tiếp tục sống, can đảm vượt lên sự goá bụa, vẫn luôn nghe nhạc, đọc sách, thêu đan, cười nói... Thật không thể chịu được. Bà ta không có quyền chế nhạo anh. Bà vẫn đầy đoa. anh vì hạnh phúc tìm lại đó.

Thế là anh lại chơi trò ngáng ở cầu thang. Nhưng lần này... chiếc gậy dấu không kỹ lắm. Bà Baoman cảm thấy con ma làm hại mình...

Giới báo chí say sưa về "Người trên tầng cao" được toà án xem là tỉnh táo... Có nghĩa là ý thức được hành động của mình khi thực hiện. Nhưng khái niệm tỉnh táo có thể đến bất chợt, lúc có lúc không.

Dù sao thì anh ta cũng bị tù chung thân, trở thành người thủ thư của nhà tù và sống cuộc đời còn lại ở đấy.

Bao giờ cũng như một con chuột.
 
Bóng ma trên gác thượng

Tác giả: Tam Tang


Năm 75, Hùng mới lên 5 thì bố phải đi học tập cải tạo ở miền Bắc xa xôi. Mẹ Ở nhà phải buôn tần bán tảo để nuôi Hùng và đứa em gái kém Hùng 2 tuổi. Mẹ đã khổ sở như vậy mà vẫn phải cố gắng dành dụm tiền để đi thăm nuôi bố mỗi năm một lần. Một ngày kia, mẹ kéo Hùng lại dặn dò là phải nghe lời bác Tư (một người bạn của mẹ) và rồi bác ấy dẫn Hùng về ở một miền làng quê gần một con sông lớn. Một đêm không trăng sao, bác Tư và cả gia đình cùng Hùng kéo nhau xuống một cái ghe nho,û và họ chở mọi người ra một cái tàu khá lớn. Hùng bị đẩy vào phía trong hầm tàu. Hùng cũng không biết tàu chạy mất mấy ngày đêm, lâu lâu họ cho mọi người một chút thực phẩm và ít nước để sống cho qua ngày. Một trưa kia mọi người phía trên reo lên mừng rở vì họ đã thấy đảo. Chiều đó họ lên được đảo Ku Ku, ở đó ít lâu rồi mọi người được chuyển về đảo lớn hơn là Bidong để chờ duyệt xét cho đi dịnh cư ở nước thứ ba.

Ở đảo Hùng thuộc diện minor lại không có thân nhân nên được một gia đình người Mỹ bảo trợ qua Mỹ từ trại Bidong, Malaysia. Hùng được đưa về ở tại Salem, đó là một thành phố nhỏ tại tiểu bang Massachusetts. Lúc đó Hùng mới lên 10 tuổi.

Vợ chồng người Mỹ này không có con cái nên coi Hùng như con ruột của mình vậy. Họ chăm sóc Hùng rất chu đáo, cho ăn học đàng hoàng. Hùng cũng nhận ông bà này là bố mẹ nuôi của mình. Ngôi nhà của họ Ở gồm hai tầng và một gác thượng. Thời gian đầu họ cho Hùng ở một phòng ở tầng dưới, nhưng khi Hùng lên trung học thì Hùng đòi lên tầng trên ở cho thoải mái hơn.

Thế là bố mẹ nuôi thì ở tầng dưới còn Hùng một mình ở tầng trên. Cái cầu thang dẫn từ tầng một lên tầng hai và lên luôn cả gác thượng. Cả hai tầng đều có đầy đủ tiện nghi như phòng tắm, phòng ngủ, phòng để coi TV v.v., nên Hùng cảm thấy thoải mái vô cùng. Thỉnh thoảng bố mẹ nuôi có lên tầng trên để xem Hùng ăn ở thế nào, còn ngoài ra họ cũng ít khi quấy rầy đến Hùng.

Cái gác thượng thì trông có vẻ lạnh lẻo nên không ai bước chân lên đó cả. Tuy mỗi lần leo lên lầu Hùng đôi khi cũng nhìn lên trên đó vì tò mò, nhưng mỗi khi nhìn lên đó Hùng đều cảm thấy như có cái gì làm Hùng ơn ớn lạnh nên Hùng không bao giờ có cái ý định leo lên cái gác thượng này để xem trên đó có gì.

Mới lên ở được hai ngày thì đêm đó Hùng nghe có tiếng động lịch kịch trên gác thượng, rồi nghe cả tiếng chân bước ở trên đó nữa! Hùng cố lắng tai nghe để coi xem đó có phải đúng là tiếng động do người gây ra hay là do thú vật . Đúng rỏ ràng là tiếng bước chân của người rồi, Hùng cảm thấy hơi run và vơ lấy cái mền trùm kín cả người từ đầu tới chân. Tiếng động bổng im bặt, Hùng cố chờ một hồi nhưng không nghe thấy gì nữa cả và rồi thiếp ngủ lúc nào không biết nữa.

Sáng sau thức dậy Hùng không biết hôm qua mình nghe thật hay chỉ là trong giấc mợ Hùng cũng chẳng dám nói với bố mẹ nuôi sợ họ không tin và cười cho sự nhát gan của mình! Tối hôm đó sau khi ăn chiều xong, Hùng leo lên lầu để lên phòng, khi tới đầu cầu thang Hùng không tránh khỏi việc đưa mắt nhìn lên cái gác thượng. Tự nhiên Hùng thấy một làn hơi lạnh chạy dọc theo xương sống của mình. Hùng vội đi nhanh về phòng rồi lấy sách ra đọc. Chín giờ Hùng cất sách rồi lên giường nhưng vẫn trằn trọc chưa ngủ được. Một lúc sau thì tiếng động lại nổi lên, tiếng lịch kịch và tiếng bước chân vang xuống từ gác thượng. Hùng co rúm cả người trong cái chăn, tiếng động vẫn nghe rỏ nồn nộp! Có khi Hùng nghe như tiếng bước chân lê xuống cái cầu thang và tiếng bước chân dẫm lên các bậc thang bằng gỗ gây ra những tiếng kọt kẹt. Hùng càng co rúm người lại hơn vì sợ tiếng chân đó tiến về phòng mình. Nhưng may mắn là tiếng chân dừng lại ở lưng chừng cầu thang rồi lại bước trở lên gác thượng và im bặt.

Hùng vẫn không ngủ được. Đến cở 11 giờ, Hùng bổng mắc đi tiểu, cố nín một hồi rồi không thể nín nổi nữa Hùng đánh bạo bước xuống giường rón rén ra mở cửa phòng và đi lại phòng tắm để đi tiểu. Khi tiểu xong quay về phòng mình, Hùng cố tình nhìn xuống sàn nhà để khỏi phải nhìn về phía cầu thang, nhưng khi đến cửa phòng thì như có ai khiến, Hùng ngước mắt nhìn lên! Chúa ơi! Một bóng đen đã đứng thù lù ở cái cầu thang từ bao giờ. Hùng chỉ thấy một nửa dưới mà thôi vì nửa trên của cái bóng đó ở trên gác thượng. Hùng đứng chết trân một chổ và cái bóng đó cũng cứ đứng nửa trên nửa dưới như vậy một chổ! Không biết được bao lâu thì Hùng tỉnh hồn lại và chạy một mạch vào phòng đóng cửa rồi nhảy lên giường trùm kín cả người lại. Bên ngoài không có một tiếng động, Hùng đoán cái bóng đen vẫn đứng tại cầu thang. Hùng cố giữ để khỏi run nhưng không cầm được, tay chân đánh bò cạp liên hồi, và thỉnh thoảng một làn hơi lạnh lại chạy dài dọc theo xương sống của mình!

Sáng đó khi xuống ăn điểm tâm Hùng chỉ dám nói với bố mẹ nuôi là hình như có tiếng động lạ Ở trên gác thượng. Cả hai nghe, im lặng một chút rồi nói là có lẽ tiếng động do chuột gây ra, để khi Hùng đi học thì ở nhà bố sẽ lên dọn dẹp trên đó xem có ổ chuột nào không. Tuy thế đến trường Hùng cũng kể cho Tâm _ người bạn thân Việt Nam của mình _ nghe về chuyện mà Hùng đã nghe và gặp trong mấy ngày quạ Tâm là một người mạnh dạn, chẳng bao giờ tin vào ma quỷ cả. Khi nghe Hùng kể về chuyện này, Tâm liền phá lên cười và chọc quê Hùng là con thỏ đế. Nhưng thấùy mặt Hùng rất nghiêm trọng nên cũng không dám đùa dai nữa, nhưng trong thâm tâm thì vẫn không tin. Hôm sau là thứ Bảy nên Tâm đề nghị là tối nay Tâm sẽ xin phép bố mẹ mình đến nhà Hùng ngủ và để xem cái tiếng động kia có đúng là thật hay do Hùng tưởng tượng ra.

Đêm đó giữ đúng lời hứa, Tâm đến ngủ chung với Hùng. Tâm quấn mình trong cái túi ngủ và một lúc sau đã nghe thấy tiếng thở đều rồi, nó đã ngủ ngon lành. Hùng thì vẫn trằn trọc chưa ngủ được thì tiếng động trên gác thượng đã vang lên. Hùng cố nén nỗi sợ hãi trườn người xuống sàn nhà và bò tới chổ Tâm nằm. Lay lay một lúc Tâm mới cựa mình, tay dụi mắt hỏi "Gì đó?". Hùng dơ tay lên môi ra dấu im lặng rồi chỉ lên trần nhà. Tâm lúc này mới sực nhớ ra cái lý do mình tới đây ngủ. Tâm lắng tai nghe và rỏ ràng là co tiếng động trên gác thật. Nó bật dậy quơ lấy cái đèn pin rồi ra hiệu cho Hùng theo nó. Tuy sợ nhưng Hùng vẫn bước theo chân Tâm ra cửa rồi lần leo lên gác thượng. Tâm vẫn không chịu bật đèn pin lên, cả hai mò mẫm bước nhẹ nhàng lên các bậc thang vì sợ gây ra tiếng động thì sẽ hỏng việc bắt gặp ai đó một cách bất ngờ.

Hai đứa nhô đầu lên căn gác thượng. Qua ánh sáng nhờ nhờ của đèn đường xuyên qua cái cửa sổ sát mái nhà, hai đứa giật bắn người vì thấy một bóng người to lớn đứng lom khom như đang làm gì đó ở bên cạnh cái bàn ở xó nhà. Tâm bấm đèn pin về phía đó! Dưới ánh sáng chói chang hai đúa thấy đó chỉ là một bức tượng bằng thạch cao to như người thật đứng bất động cạnh cái bàn đầy bụi bậm. Hai đứa thở phào nhẹ nhỏm cả người. Hùng chưa bao giờ dám lên cái gác thượng nên chẳng biết có những thứ gì ở trên này hết. Tâêm soi đèn từ từ vòng quanh cái gác thượng xem có cái gì khác và có lẽ nó muốn xem có con chuột hay mèo nào lẩn quẩn đâu đó không, nó muốn chứng minh là Hùng chỉ sợ hoảng thôi chứ làm gì có ma quỷ trên đòi này.

Hai đứa dõi mắt theo ánh đèn và khi ánh đèn rọi lại chỗ cũ thì thiên thần quỷ địa ơi, cái bức tượng đã biến đi đâu mất tiêu rồi! Tự nhiên không ai bảo ai, cả hai đứa bỏ chạy một mạch xuống cầu thang, Tâm làm rớt luôn cả cây đèn pin ở trên gác mà chẳng dám quay đầu lại lượm!

Khi chạy về đến cửa phòng tự dưng hai đứa quay mặt lại nhìn lên chỗ cầu thang. Hai đứa thấy rợn cả người lên vì cái bóng đen đó đã sừng sững đứng đó từ hồi nào rồi, vẫn với tư thế nửa trên nửa dưới ở cái cầu thang. Tâm không dám nằm dưới sàn nữa, cả hai leo lên ngồi trên giường của Hùng và để đèn sáng choang cho tới sáng. Hai cặp mắt chăm chăm nhìn về hướng cửa vì sợ cái bóng đó sẽ bước vào phòng lúc nào không biết. Cũng may từ đó tới sáng chẳng có gì xảy ra cả.

Sáng hôm sau trước khi Tâm ra về nó không quên nói "Mày nên nói chuyện này với bố mẹ nuôi mày đi! Tao tin lời mày nói roià đó!" Khi ăn sáng Hùng cũng không dám nói sự thật mà chỉ xin dọn xuống nhà dưới ở thôi. Bố mẹ nuôi của Hùng nhìn nhau rồi nói là tùy Hùng thôi. Hùng vội lên lầu và dọn tất cả đồ đạc của mình xuống cái phòng cũ khi trước.

Trưa đó sau khi ăn cơm xong, ông bố nuôi mới kêu Hùng ngồi lại rồi chậm rãi hỏi:

_ Có chuyện gì xảy ra trên đó phải không con?

Biết không thể dấu được Hùng đành phải kể hết các sự việc đã xảy ra trong mấy đêm rồi. Nghe xong ông bố nuôi mới gục gặt đầu rồi kể:

_ Bố mẹ mua căn nhà này đã được 15 năm nay rồi. Khi mới dọn tới ở thì "ông ta" cũng có phá phách trong nhà đó con ạ! Mẹ con biết điều này trước vì bà ấy tỉnh ngủ hơn tạ Bà nói cho ta biết nhưng ta chẳng tin và cho là bà ấy sợ nhảm nhí mà thôi. Đến một đêm kia, bà lay ta dậy và ra hiệu cho ta nghe, ta lắng nghe và đúng là có tiếng động ở phía nhà bếp vọng về. Ta rón rén mò lấy cây đèn pin rồi mò ra phía cửa, ta mở cửa và rọi đèn pin về phía nhà bếp, như không thấy gì cả. Ta bật đèn nhà bếp và tìm tòi mọi nơi xem có con vật gì ở đó không. Cũng không thấy gì nên ta trở về phòng ngủ lại. Cứ thế sự việc xảy ra trong mấy đêm liền mà ta cũng chẳng tìm ra manh mối gì cả nên ta quyết định rình cho biết sự thật. Đêm đó ta ngồi sau cái ghế sofa, tay thủ sẵn cây đèn pin. Khoảng gần nửa đêm ta nghe tiếng động và tiếng lịch kịch leng keng của ly chén chạm nhau, ta ngó ra và thấy một bóng đen đang mở các cửa của cabinet. Ta nhào ra và bật đèn pin về hướng đó, nhưng cái bóng đen vụt mất về hướng cầu thang. Ta đuổi theo và rọi tìm khắp các phòng trên lầu nhưng không thấy gì! Ta bèn leo lên cái gác thượng soi tìm khắp xó xỉnh trên đó nhưng cũng chẳng tìm ra một bóng ai cả. Một điều làm ta hơi rùn mình là khi ta ở trên cái gác đó ta cảm thấy như là có ai đang nhìn theo dõi ta vậy đó. Ta lui trở xuống và tin là mình đãû chạm trán với con ma trên đo rồi. Hôm sau ta nói chuyện này với mẹ con, bà ta sợ hãi quá và đòi bán nhà đi chổ khác ở. Ta không đồng ý và còn lớn tiếng biện minh là ma sợ người chứ người không sợ ma! Bằng chứng là khi nó thấy ta là nó biến mất chứ có dám làm gì ta đâu! Nó chỉ nhát những ai sợ nó mà thôi. Chập tối hôm sau ta lên lại gác thượng nói to như để cho con ma đó nghe "Chúng tôi không đụng chạm gì đến ông và cũng không có ý định đó. Vậy ông hãy để chúng tôi được yên cũng như chúng tôi cũng sẽ không đụng chạm gì đến ông hết!" Từ đêm đó ông ta không còn hiện ra phá phách nữa cho đến ngày hôm naỵ Thôi thì để ta lên hòa đàm với ông ta lại một lần nữa xem sao.

Tối đó bố nuôi rủ Hùng lên gác thượng nhưng Hùng từ chối không đi. Bố nuôi lên một lúc rồi trở xuống nói:

_ Chắc là sẽ không có chuyện gì xảy ra nữa đâu!

Đúng như vậy! Từ đêm đó Hùng không còn nghe hay thấy điều gì lạ xảy ra nữa. Hùng cũng nói cho Tâm biết về điều này, dù vậy có năn nỉ cách mấy đi nữa thì Tâm cũng không bao giờ ngủ lại đêm ở nhà Hùng.

Cho đến bây giờ dù đã đi làm và ra ở riêng lâu rồi, và gia đình bố mẹ ruột cùng em gái Hùng đã qua bên này, nhưng mỗi khi về thăm lại bố mẹ nuôi của mình Hùng cũng không dám leo lên lầu chứ đừng nói gì là leo lên căn gác thượng đó. Nếu có ngủ lại đêm thì Hùng cũng chỉ dám ngủ ở căn phòng ở tầng dưới mà khi còn bé Hùng vẫn ngủ trong đó mà thôi!



Chú thích:

Trong một website về chuyện ma của Mỹ, tôi đọc được một đoạn văn rất ngắn (chỉ một paragraph) của một tác giả kể là hồi còn bé một lần đi tiểu ban đêm đã thấy một bóng đen đứng lưng chừng ở cầu thang dẫn lên gác thượng, và từ đó về sau tác giả đã không dám đi tiểu đêm nữa! Tôi lấy ý từ chuyện đó và thêm thắt các chi tiết để tạo nên câu chuyện này để giúp vui các bạn.
 
Bãi Đất Hoang Sau Nhà 1


Lần đầu tiên Vân tận mắt chứng kiến một người chết cách đây hơn một năm lúc còn ở Việt Nam. Chứng kiến một người chết, có nghĩa là nhìn người ấy đang từ cõi sống đột ngột bước sang thế giới bên kia. Đó là ông Thọ ở cách nhà Vân ba căn trên cùng con hẻm nhỏ thuộc phường 10 quận Tân Bình.
Chẳng phải vì là hàng xóm mà Vân quen ông , láng giềng thật xa mỗi người có một cuộc sống nên cũng ít khi gặp nhau huống chi ông lại hơn Vân quá nhiều tuổi. Nếu xưng hô cho đúng thì Vân phải gọi ông bằng chú. Nhưng sỡ dĩ Vân thân với ông chỉ vì ông là tài xế xe bus trên lộ trình từ nhà Vân đến sở làm. Dù muốn dù không , ngày nào Vân cũng phải gặp ít nhất một lần vào buổi sáng.
Có một dạo xe bus là phương tiện chuyên chở công cộng rất đắt khách , chuyến nào cũng chật ních. Nhưng khi VN chuyển sang kinh tế thị trường thì dân Sài Gòn nườm nượp mua xe gắn máy. Lại thêm xe ôm phát triển , xe bus dần dà trở nên ế ẩm vì đi lại chậm chạp trên đường phố đông đúc mà ít ai tôn trọng luật lưu thông.
Chỉ có những hành khách không có phương tiện khác như Vân mới bất đắc dĩ phải bám với xe bus mà thôi. Xe vắng khách , nên mỗi khi thấy Vân bước lên , ông Thọ thường vui vẻ hỏi chuyện vu vơ mặc dù trên nguyên tắc , ông không được nói chuyện khi lái xe. Vân cũng hân hoan đáp lại , chọn cái ghế trống gần ông để đàm đạo cho quên đoạn đường tới sở. Đại khái thì toàn những câu xã giao thủ tục thôi , lâu lâu nếu trong con hẻm nhà Vân có chuyện gì bất thường xảy ra thì hai người mới có đề tài mới để bình luận.
ông Thọ không có vợ con , sống nhờ nhà người anh ruột , nhập chung hộ khẩu và coi gia đình người anh như gia đình mình. ở tuổi bốn mươi lăm, mặt ông khắc khổ ưu tư , nước da đen sạm và mái tóc phía trước hơi dài lúc nào cũng rũ xuống trán làm Vân thấy rất ngứa mắt .
ông ít cười , dù nụ cười rất tươi. Hàm răng đều như hạt bắp , phải cái tội là lúc nào cũng úa vàng vì khói thuốc. ông ghiền thuốc lá nặng ,trong túi lúc nào cũng có gói Mai , loại thuốc đen nội hóa ít người hút. Mỗi khi đường kẹt xe, ông thường chạy xuống rít một điếu hoặc có khi chỉ vài hơi rồi lại leo lên lái tiếp. Dân Sài Gòn hút thuốc nhiều , nên chẳng ai thấy ngứa mắt và cũng không thấy khó chịu vì khói thuốc.
Một buổi sáng trên đường đi làm như thường lệ , Vân ngồi ngay chiếc ghế sau lưng ông , đang kể câu chuyện bắt ghen trong xóm, và xe đang chạy ngon trớn, thì Vân bổng giật mình thấy xe bus tự dưng rẻ nghiêng sang bên phải, rồi leo hẳn lên lề , húc mạnh vào một gốc cây rồi dừng lại . Xe vẩn nổ máy, nhưng ông Thọ gục xuống trên tay lái làm còi xe cứ inh ỏi réo liên tục. Cũng may , gặp khúc lề đường rộng lại có cây lớn chặn lối nên xe không cán phải người bộ hành hoặc đâm vào nhà người ta.
Hành khách nhốn nháo đứng ngồi cả lên , Vân lay vai ông Thọ và hốt hoảng hỏi :
− Ý thôi chết , lạc tay lái hả ông Thọ ? Tỉnh dậy ông Thọ !
Nhưng lay mãi mà ông không trả lời , hành khách xôn xao đưa mắt nhìn nhau rồi bỏ xuống tìm phương tiện chuyên chở khác vì sợ trể giờ làm việc . Vài người hiếu kỳ phần lớn là khách quen ngày ngày vẩn đi cùng chuyến này xúm lại cùng với Vân lôi đầu ông Thọ ngồi thẳng lên , lập tức tiếng còi xe ngưng bặt. ông Thọ ngẻo đầu sang một bên , mặt xám ngắt , miệng hơi há ra và đôi mắt lạc thần vẫn mở trừng trừng nhưng rõ ràng là mất hết sinh khí .
ông đứng tim chết mà người ta xét theo lối dân gian là ông bị trúng gió , và không ai tin là ông đã chết thật bởi nó xảy ra quá đột ngột. Vân lo lắng nhìn quanh và hỏi :
− Ơ...Có ai có dầu nhị thiên đường không ?...Dầu gì cũng được...Cho tôi mượn.
Đám đông xung quanh mỗi người một câu :
− Trời...trời , ông bà nào chịu khó chạy lên ngả tư thấy ông công an, kêu dùm một cái Người khác bảo :
− Kêu xe cứu thương chứ chờ công an đến kiếp nào...
Người ta giật tóc mai, lắc mạnh hai vai ông , hoặc ấn mạnh vào ngực ông , hy vọng có thể giúp ông hồi tỉnh trong lúc chờ vào nhà thương. Nhưng tất cả đều vô ích , có người thất vọng than :
− Thôi ! Chắc chết rồi , chết thiệt rồi . Trăm phần trăm là trúng gió rồi. Trời đất ơi ! Lúc này gió nó độc lắm nghen.
Cùng với nhận xét ấy , người ta tản mác xuống xe , lảng ra xa , tránh những phiền toái lát nữa khi nhân viên công lực đến thẩm vấn. Nhưng Vân không bỏ đi được , không nở bỏ ông hàng xóm , bởi nàng vẫn bám víu ý nghĩ là ông chưa chết hẳn, chỉ bất tỉnh nhân sự mà thôi.
Nàng xuống xe, mặt nhợt nhạt ngó quanh , rồi vẫy chiếc xích lô máy rồi nhờ người tài xế lên đỡ ông Thọ xuống và chở vào bịnh viện. Nàng bảo :
− Nhanh nhanh thì may ra cứu kịp nhé ! Chắc ông ấy chỉ bị nghẹt thở thôi , chưa có chết hẳn đâu.
Rồi nàng móc bóp lấy tiền trả ông xích lô , nhưng ông xích lô ngơ ngác nhìn Vân và hỏi :
− Bộ cô không đi với ông ấy sao ? Đâu có được , cô không có đi chung thì tôi không có chở ông ấy đâu ! Giỡn hoài , bộ tôi ngu sao ?
Vân khẩn khoản :
− Ông ơi , tội nghiệp người ta bị ngất xỉu ,ông làm ơn đưa vào nhà thương dùm. Tại tôi....tôi còn phải đi làm.
ông xích lô trợn mắt đáp :
− Ngất xỉu đâu mà ngất xỉu ? Chết ngắt rồi , tôi đưa vào bệnh viện , người ta hỏi lôi thôi lắm cô ơi. Phải có người nhà mới biết đường mà trả lời chứ !
Vân nhìn ông Thọ một lần nữa , quả thật ông chết rồi. cái xác không hồn , nằm rũ trên xích lô , đầu nghiêng sang một bên. Mắt vẫn trợn trừng , và mồm vẫn há ra. Nàng bảo ông xích lô :
− Nhưng mà tôi cũng đâu phải là người nhà !
ông xích lô vừa kinh ngạc , vừa bực bội , giậm chân lắc đầu lia lịa , ông toan chửi thề , nhưng nhớ rằng trước mặt phụ nữ , nên gắt lên :
− Cô không phải là người nhà của ông ấy thì mắc mớ gì cô đòi đưa ông ấy vào nhà thương ? Con người sao khờ quá ! Rồi công an hỏi cung về cái chết của ông ấy , rồi cô trả lời làm sao ?
Vân cũng vừa chợt nhận ra mình tự mang cái ách giữa đàng vào cổ , nhưng một phần vì là người quen , một phần thì bây giờ cũng đã lỡ rồi làm sao rút lui được ? Nàng cứ tưởng ông chỉ ngất xỉu nên mới động lòng tìm cách cứu chữa gọi xích lô đưa vào bịnh viện. Không ngờ ông đã về bên kia thế giới.
Từ lúc nghe ông xích lô xác quyết là ông Thọ đã chết, tự dưng chính Vân cũng thấy rờn rợn và không dám nhìn mặt ông nữa. Nhưng bây giờ biết làm sao , khách bộ hành đi ngang hiếu kỳ bu lại mỗi lúc một đông hơn vì ông xích lô khua chân, múa tay nói quá lớn , ông chán nản bảo Vân :
− Cà chớn ! mới sáng sớm đã gặp xui. Bây giờ cô phụ tôi khiêng ổng lên , bỏ lại trên xe bus đi rồi ai muốn làm gì thì làm. Tôi không có dính vào vụ này.
Dứt lời , ông xách nách xác chết và bảo Vân đỡ hai chân ông Thọ. Vân ngần ngại đứng yên , ông xích lô phải nạt lớn nàng mới chịu bắt tay vào khệ nệ khiêng cái xác không hồn lên xe bus, đặt vào sau tay lái. Rồi ông xích lô lao phắt xuống đường lên xe phóng vội đi miệng còn lào nhào chửi Vân là đồ ngu.
Vân xuống xe đứng phân vân bên lề đường không biết nên bỏ đi hay chờ cảnh sát tới để tường trình. Đám đông bu quanh mỗi người hỏi một câu , Vân lơ đãng trả lời rồi quyết định đón honda ôm về báo tin cho gia đình ông Thọ biết và vào nhà thương làm thủ tục nhận xác của ông chôn.
Định mệnh xắp đặt khiến ông chết đột ngột và tình cờ Vân lại là người đầu tiên chứng kiến cái chết bất ngờ của ông giữa lúc ông đang nói chuyện với nàng. Cách đây hơn một tháng Vân có khoe với ông là nàng đang chờ sang Canada định cư do người anh bảo lảnh. ông Thọ chớp mắt bảo :
− Mừng cho cô Nhưng rõ ràng , giọng ông có một chút buồn tủi cho thân phận mình , ước mơ xuất ngoại mà không có con đường nào. ông bảo Vân:
− Tôi cũng có nghe nói cô sắp ra nước ngoài , người ta bảo vì vậy cô nhất định chưa chịu lấy chồng.
Vân cười rồi nói lại :
− Trước khi tôi đi thì thế nào gia đình tôi cũng làm tiệc giã từ bà con lối xóm mà. Mời ông sang cho vui với gia đình tôi nhé !
− Vâng, quý hóa quá ! Cô nghĩ đến tôi là tôi mừng rồi. Tôi thì phải qua tiễn chân cô chứ !
Câu chuyện tưởng như mới hôm qua , Vân chưa lên đường , chưa kịp làm tiệc mời ông Thọ thì ông đã về bên kia thế giới, Vân chạy về nhà báo tin, rồi cùng người anh ông Thọ lãnh ông từ nhà xác về , mua đất chôn ở nghĩa trang Tân Việt, gần Bà Quẹo.
Vân có mặt từ đầu đến cuối , từ lúc tẩm liệm cho tới khi hạ huyệt. Đám tang ông Thọ thưa thớt lại gặp ngày mưa to gió lớn , nghĩa trang ở vào khu đất trũng , nước ngập mênh mông. Quan tài thả xuống huyệt cứ nổi lềnh bềnh khiến người ta phải dùng gậy dí hai đầu xuống để lấp đất. Mà lấp bao nhiêu đất ,đất biến ngay thành bùn theo nước trôi đi, người nhà vất vả lắm , ông Thọ mới chịu an lòng.
****** Gần một năm sau, Vân lên đường sang Canada , tạm thời ở chung với gia đình người anh đã bảo lảnh , tên là Hiếu , có vợ ba con tại Toronto. Hiếu mới mua nhà trước khi Vân qua , căn nhà mới , ở vùng ngoại ô phía bắc toronto , nằm trong khu vực vừa khai phá , giá tương đối rẻ và đất xung quanh còn rất khoảng cách. Phía sau nhà Hiếu cách một bải trống mọc đầy cỏ hoang rồi mới tới bìa rừng. Bải đất trống ấy cũng nằm trong kế hoạch xây cất tư gia hoặc chung cư , nhưng vì tạm thời kinh tế xuống , ngành địa ốc suy thoái nên người ta khựng lại bỏ không.
Gia đình Hiếu có năm người , nhưng hai đứa con đầu vừa lên đại học và đi ở xa , ở nội trú luôn trong trường. nên nhà chỉ còn hai vợ chồng với cô con gái út mười bốn tuổi. Vợ chồng Hiếu chiếm ngụ cái phòng ngủ chính trên lầu , đứa con gái cũng có buồng ngủ riêng bên cạnh. Dưới nhà bên cạnh buồng tắm , có một phòng nhỏ dành cho Vân, sát bức tường phía sau , có cửa sổ trông ra bải đất trống quạnh hiu.
Ngày ngày nhìn cảnh tượng hoang vu vắng lặng sau nhà , Vân còn đang nhớ Sài Gòn da diết thì bà chị dâu đã xa gần giục chồng kiếm việc cho Vân. Thật ra thì chẳng cẩn phải chị phải giục , chính Hiếu cũng đang để ý tìm việc cho Vân để nàng có thêm tiền chi dụng , và nhất là để vợ Hiếu khỏi cằn nhằn. Hai vợ chồng Hiếu cùng đi làm cả, cho nên vợ Hiếu rất ngứa mắt khi thấy Vân qua đây mà cứ ngồi im trong nhà.
Ba tháng sau thì Hiếu tìm được việc cho em gái ở một tiệm cà phê Dolnad mở 24 tiếng một ngày , tiệm nằm ở khu vực downtown , nghĩa là trung tâm của thành phố Toronto. Họ cho Vân làm ca đêm , bắt đầu từ 11 giờ đến 7 giờ sáng. Hiếu an ủi em :
− Thôi ! Cứ chịu khó làm tạm đi, rồi một thời gian sau sẽ đổi sang ca ban ngày. Họ có hứa với tao như vậy. Ca đêm thì buồn ngủ, nhưng mà bù lại thì ít khách hơn ban ngày.
Vân vui vẻ đáp :
− Em có ngại gì đâu , ngồi nhà chán chết.
Hiếu tỉ mỉ dặn dò Vân những kinh nghiệm làm việc nơi xứ lạ để em khỏi bở ngở , rồi Hiếu chỉ dẩn cho Vân cách đón xe đi làm.
Vì là khu tân lập ngoại ô nên trước cửa nhà Hiếu tuy đường xá mới mẻ nhưng chưa có xe bus , Vân sẽ phải đi bộ một khoảng khá xa để ra con lộ chính lấy xe bus đưa nàng tới trạm Metro. Rồi khi từ trạm Metro trồi lên, nàng sẽ lại phải đón thêm một chuyến bus nữa mới đến downtown, chỗ nàng làm việc. Hiếu dự trù vài tháng nữa, sẽ bắt Vân đi học lái xe , sắm chiếc xe hơi cũ, cho em gái đỡ vất vả.
Hiếu lấy thêm chìa khóa nhà trao cho em rồi cẩn thận bắt em ghi số phone nhà, số phone tiệm Dolnad và số phone chỗ Hiếu làm việc , cất kỹ vào bóp để lúc cần thì liên lạc, nhất là lúc chẳng may Vân bị lạc đường. Hiếu bảo :
− Mày đi làm ca đêm cũng khoẻ , sáng khỏi phải dậy sớm , ban ngày tha hồ mà ngủ. Đường sá không kẹt xe, bus rộng rãi, khỏi phải đứng mỏi chân.
Vân biết ông anh vì tội nghiệp mình nên cứ phải tìm cách an ủi , nàng che dấu nét xúc động và bảo :
− Anh khỏi phải lo, việc lgì em làm cũng được mà , ở Vn em quen vất vả. Với lại đi làm học tiếng anh còn nhanh hơn học trong sách nữa.
Sáng hôm sau, Vân dậy sớm hơn thường lệ dù mãi đến tối mới phải đi làm. Ngày đầu nhận việc, nàng hồi hộp không ngủ yên giấc , nàng lục đục một lúc rồi vợ chồng Hiếu mới từ trên lầu bước xuống. Bà chị dâu hôm nay nhìn Vân âu yếm hơn vì nàng đã có việc, không ngồi chơi, ăn bám như ba tháng vừa qua. Việc của Vân tuy lương chẳng có bao nhiêu, nhưng chính Vân cũng mừng thầm trong bụng bởi từ nay khỏi phải nhìn nét mặt hầm hầm đi ra đi vào lườm nguýt của chị dâu.
Hai vợ chồng Hiếu chuẩn bị đi làm sớm, đứa con gái đáng lẽ chưa cần đi gấp, nhưng tiện xe của bố mẹ , nên cũng ké luôn tới trường , khỏi phải cuốc bộ . Nhà chỉ còn mình Vân ngồi ăn sáng, nàng dự định sẽ ngủ thêm một giấc nữa rồi dậy nấu cơm cho cả nhà ăn chiều. Riêng Hiếu thì cứ nằng nặc bảo Vân phải ngủ một giấc dài , phải đến gần giờ đi làm hẳng thức.Vân gật đầu đồng ý, nhưng lúc cả nhà đi rồi , nàng chỉ ngồi coi tivi hoặc thơ thẩn ra trước nhà rồi lại vô làm bếp , muốn ngủ, cũng không ngủ được.
Buổi tối hôm ấy cơm nước xong, cả nhà ngồi coi tivi một lúc, rồi Vân chuẩn bị đi làm. Muốn chắc ăn , nàng ra khỏi nhà lúc 9 giờ rưỡi mới không sợ trễ giờ. Trời cuối tháng 11 bắt đầu se lạnh và mau tối. Mới khoảng 5 giờ chiều là đã thấy âm u xám ngắt , có năm Toronto giờ này tuyết đã trắng xóa. Năm nay trời khô, nhưng gió buốt , nhất là quanh nhà Hiếu còn quá nhiều bải đất trống.
Vân mặc quần jean, hai ba lớp áo trong áo ngoài, cổ quấn khăn , chân đi giày bata, tay cầm cái túi đựng thức ăn và dăm ba đồ lặt vặt. Nàng lầm lũi lội bộ qua mấy khúc đường vắng tanh tăm tối rồi mới đến con lộ chính. Đúng như Hiếu nói , giờ này người và xe đã vơi hẳn nên ở trạm bus chỉ có một hành khách đang đợi, đó là một bà người Canada, ngồi trên ghế băng trong nhà lồng kiếng, sốt ruột nhìn về hướng xe bus tới.
Vân cũng bước hẳn vào trong nhà kiếng để tránh gió , nàng gật đầu chào bà cụ, rồi ngồi xuống bên cạnh và cùng quay mặt về hướng xe sẽ đến. Khoảng hơn 5 phút thì nàng vui mừng thấy xe bus hiện ra xa xa mờ mờ với ánh đèn đường. Nàng vội đứng dậy, bước hẳn ra ngoài, bà cụ cũng bước theo Vân, co ro đứng sát lề. Vân ngước nhìn con số khá lớn ghi trên đầu xe và hài lòng gật đầu vì đúng số xe mà Hiếu đã dặn. Mới đi xe bus lần đầu, nàng rất sợ lầm lộ trình rồi không biết cách nào mà quay về. Chiếc xe bus nặng nề lăn bánh tới và tách vào lề, Vân đứng trước , một tay xách túi đồ ăn, một tay cầm sẳn hai đồng bạc cắt. Bà cụ đứng sau lẩm bẩm nói một mình thứ tiếng Anh pha giọng ý rất khó nghe. Xe bus vừa mở cửa , Vân hăm hở bước lên bổng nàng giật mình sửng sốt kêu lên , đứng khựng lại và run rẩy muốn té quỵ xuống đất bởi vì người tài xế xe bus chính là....ông Thọ ngay trước mặt nàng. Giờ này ông lại ngồi sau tay lái bên Canada , quay đầu nhìn Vân cười rạng rỡ. Cái khác duy nhất giữa ông Thọ lúc trước và ông Thọ lúc này chỉ là da mặt ông không đen xạm như xưa mà trắng bệch có pha chút xanh xao, y như bôi một lớp sáp trên mặt , hàm răng ông cũng không còn vàng ám khói như nghệ mà trái lại trắng nhợt như nước sơn khiến nụ cười trông thật ma quái.
Nhất định là ông Thọ , không thể lầm được. Vân tái mặt đánh rớt cái túi thức ăn xuống đất , lạng quạng bước lùi lại mấy bước rồi kinh hồn quay đầu chạy , bà cụ người Canada đứng sau Vân đưa hai tay đỡ lấy vai Vân và hỏi bằng tiếng Anh :
 
Bãi Đất Hoang Sau Nhà 2


− Cái gì thế , cô làm sao vậy ?
Vân không hiểu gì, run rẩy chỉ ông tài xế và ấp úng mãi mới nói đại được một câu nữa tiếng Anh, nữa tiếng Việt :
− Ông ấy...ông ấy...chết..rồi...he died...ông tài xế là người chết lâu rồi..
Rồi nàng quay lưng cắm cổ chạy, bà cụ vừa leo lên, vừa ngạc nhiên nhìn theo Vân lẩm bẩm vài tiếng không ai nghe rõ.
Chạy được một khoảng khá xa, vào hẳng trước dãy phố , Vân mới dừng lại thở , nàng quay đầu nhìn lại trạm xe, thì chiếc bus đã mất hút không thấy dấu vết gì nữa. Chỉ còn trơ lại cái nhà kiếng với ngọn đèn đường vàng úa. Dãy phố chỗ Vân đứng , nhiều cửa tiệm đã đóng im lìm ngoại trừ những quán cà phê, nhà hàng ăn, và tiệm tập hóa. Vân mệt quá ngồi đại xuống bậc thềm bên cạnh tiệm bánh ngọt đang chuẩn bị đóng cửa. Hơi thở nàng vẫn còn dồn dập , nàng nhớ lại nguyên vẹn khuôn mặt trắng xanh và hàm răng trắng ngời của ông Thọ lúc thấy nàng vừa bước lên xe , làm toàn thân nàng lạnh buốt như cơn bảo bất ngờ thổi buốt thấu xương.
Nàng không thể lầm được, ông Thọ đã chết , chính nàng đã đi đám tang và chôn ông ở nghĩa trang Tân Việt, Bà Quẹo. Sao giờ này lại lái xe bus bên Canada ? Vân phân vân suy nghĩ, đầu óc hoang mang, khuôn mặt đờ đẫn , quên cả cảnh vật xung quanh, đến nổi chủ tiệm bánh ngọt bên cạnh phải giục nàng đứng dậy để họ đổ rác vì nàng đang ngồi ngay bên cạnh thùng rác.
Vân đứng mép vào ngưỡng cửa nhìn ra đường , nàng nhớ tới lời Hiếu dặn là buổi tối lcứ khoảng 20 phút có một chuyến xe bus. Giờ đi làm và tan sở thì nhịp độ mau hơn. Vân uể oải bước đi, trở lại trạm cũ đứng chờ chuyến xe kế tiếp. Buổi đầu mà đến trễ, thế nào cũng bị mắng , có khi mất việc cũng chưa biết chừng. Vân chớp mắt thở dài, sực nhớ ra túi thức ăn lúc nãy đánh rớt. Vân cúi xuống nhìn lòng đường nhưng cái túi đã bị xe cán nát bấy chẳng còn hình dạng gì nữa.
Vân lại thở dài, gió khuya thổi vù vù từng cơn lạnh buốt. Nàng đứng hẳng vào trong nhà lồng kiếng , trạm xe vắng ngắt, không có ai ngoài nàng. Một lúc sau, từ khá xa xa , Vân thấy chiếc bus khác lờ mờ xuất hiện mỗi lúc một rõ ràng, nàng vén tay áo nhìn đồng hồ và hy vọng đón chuyến này vẫn còn kịp giờ đến tiệm cà phê Dolnad.
Nhưng bỗng nàng sực nghĩ ra một điều làm nàng rùng mình lạnh toát vì biết đâu trên chiếc xe bus kia , người tài xế cũng vẩn chính là ông Thọ , rõ ràng là hồn ông đã theo nàng từ Vn qua đây. Nàng mở to mắt nhìn chiếc xe đang lù lù tiến đến , rồi khi xe chỉ còn cách khoảng chưa đầy 100 thước, thì do một động lực mạnh mẽ thôi thúc trong lòng. Vân bổng hốt hoảng bỏ chạy , nàng chạy ra chỗ cũ, dãy phố chỉ còn vài căn tiệm mở cửa. Nàng đứng sát vách tường và đăm đăm nhìn ra. Khoảng cách xa quá mà trời lại tối , nàng không thấy được mặt người tài xế trên xe bus, nên không biết được người tài xế đó có phải là ông Thọ hay không ? Chỉ biết chiếc xe đó hầu như trống rỗng không có hành khách.
Chiếc xe đi rồi, nàng đứng thở bần thần vì không biết tính sao ? Đón xe bus thì nàng sợ gặp hồn ma ông Thọ , mà gọi taxi, thì Vân không biết có đủ tiền không? Vì nàng chưa biết từ đây ra trung tâm thành phố sẽ tốn bao nhiêu? Nhất là dù muốn kêu taxi, Vân cũng không biết kêu ở đâu số điện thoại nhà ?
Cuối cùng nàng đành đi bộ về nhà , và dự định sẽ báo cho Hiếu biết hôm nay nàng không đi làm để nhờ Hiếu phone cho tiệm Dolnad. Biết Hiếu sẽ trách, nhất là bà vợ, nhưng Vân không còn cách nào khác. Trừ trường hợp Hiếu lái xe đích thân chở nàng đi làm.
Vân lầm lũi bước đi trên con đường chưa kịp tráng nhựa chạy ngoằn ngèo giữa bải đất trống cỏ mọc bừa bãi bắt đầu chết úa vì thời tiết. Nàng sang đây vào cuối tháng 8 , trời Toronto còn nắng ấm chan hoà , mới gần ba tháng trôi qua , cái lạnh heo mây đã đến thật nhanh, càng gợi nổi nhớ Sài Gòn. Nhưng nhớ ai thì nhớ chứ chưa bao giờ nàng mảy may nhớ đến ông Thọ , dù chỉ thoáng trong giây phút. Mãi đến lúc nãy sau khi hồn ông hiện về nàng mới nhớ láng máng hình như trong xấp hình nàng mang theo có bức ảnh chụp đám tang ông , trong đó nàng đứng bên cạnh thân nhân của ông dưới làn mưa nhỏ sau khi hạ huyệt , nghĩa là ông Thọ đã chết thật , đã nằm sâu trong lòng đất, chính nàng đưa ra nghĩa địa, tại sao giờ này lại sang đây ?
Trong thế gian, người có giống người , nhưng không thể giống như vậy được , huống chi người Việt, đâu có ai chen vào được ngành lái xe bus công cộng ? Vân cắm đầu bước đi giữa tiếng gió vi vút lâu lâu rít lên từng cơn quanh khu đất trống tối tăm , dãy nhà Tân lập hiện ra mờ mờ, thấp thoáng ánh đèn , trong đó có nhà Hiếu.
Bổng Vân nhận ra mình không phải là kẻ độc hành trên con đường lởm chởm đá vụn này , sau lưng nàng rõ ràng có tiếng bước chân người đi nhanh, mỗi lúc một gần nàng hơn ,tiếng giày đàn ông mạnh bạo trên lớp đá vụn nghe xào xạc. Nàng đi chậm lại, tránh sang một bên để nhường bước cho người phía sau tiến lên. Nhưng tiếng giày cứ ở sau lưng Vân không vượt lên phía trước. Tò mò nàng quay lại thì không thấy ai cả , hoàn toàn trên quảng đường vắng quanh nàng không có một bóng người. Nàng giật thót người, và rảo bước nhanh hơn. Thì tiếng bước chân vô hình lại cũng tiến mau hơn theo sát sau lưng nàng. Nàng lấy hết can đảm , quay phắt lại, thì vẩn không thấy ai , tứ phía xung quanh không có người , chỉ có gió thổi vù vù.
Vân kinh hãi bỏ chạy, nhưng đôi chân dường như ghì lại , níu lấy không cho nàng bỏ trốn. Vân vùng vẫy lao tới, vấp chân té sấp xuống đường , nàng luống cuống đứng dậy, vừa thở vừa chạy ngay tới trước cửa. Vân hoàn hồn ngước lên nhìn ba bậc cầu thang , tay cầm chià khóa . Khu nhà tiền chế mới cất nằm san sát bên nhau, nhà này cách nhà kia chỉ hơn một thước. Nhưng con đường trước mặt thì rộng thênh thang và thường xuyên vắng lặng. Đang tra chià khóa vào cửa bổng nhiên giật thót người , vì nhìn qua màn cửa sổ nhà bếp thấy thấp thoáng bóng người đàn ông mờ mờ đi lại trong nhà làm nàng liên tưởng ngay đến bóng ma ông Thọ, nhưng thật ra đó chỉ là Hiếu đang lấy nước trong tủ lạnh bưng lên lầu . Nghe tiếng chià khóa lách cách ở ổ , Hiếu giật mình, đứng khựng lại ở chân thang và hỏi bằng tiếng Việt lẫn tiếng Anh :
− Ai đó ? Ai mở cửa đó ?
Rồi anh từ từ tiến ra vừa lúc cánh cửa mở và Vân xuất hiện , Hiếu ngơ ngác hỏi :
− Sao lại về ? Quên cái gì hả ?
Vân vừa thở hổn hển, vừa đáp vắng tắt :
− Tai... tại em..gặp ma Trên nhà vợ Hiếu và con bé Mỹ Linh nghe tiếng nói ồn ào cũng bước ra và đi xuống. Hiếu biết em gái mình không phải hạng người lười biếng, trốn việc huống chi anh cũng vừa nhận ra sắc mặt tái mét của Vân , nhưng cái lý do Vân đưa ra là một điều không chấp nhận được vì ngoài sự tưởng tượng của anh. Anh nhăn mặt hỏi lại :
− Mày nói cái gì ? Mày gặp ma à ? Gặp ở đâu ? Sao lại có chuyện lạ đời như vậy , Canada này làm gì có ma ?
Vừa nói, Hiếu vừa tiến lại đặt cóc nước lạnh xuống bàn , Vân bưng ngay ly nước của anh uống cạn vì cổ họng đang khát khô, nàng cởi áo khoác, máng lên thành ghế rồi kéo ghế ngồi , Hiếu cũng ngồi đối diện em, trố mắt nhìn ngờ vực , mặc dầu anh thấy rõ đôi mắt Vân chưa tan nỗi kinh hoàng. Vợ Hiếu và con gái kéo tới, tất cả đều ngồi ở bàn ăn , thấy vợ bên cạnh, Hiếu nhắc lại câu hỏi :
− Tại sao đang đi làm lại bỏ về là thế nào ?
Vân đặt cái ly xuống bàn và nói :
− Em đã nói với anh rồi , nhưng mà em hỏi anh là anh có nhớ cái ông Thọ ở gần nhà mình không ? Cùng con hẻm nhà mình đó , cách nhà mình ba căn đó , anh có nhớ không đã ?
Cái ông Thọ ngày xưa ổng đi lính cái lúc mà em còn bé xíu à !
Hiếu ngắt lời :
− Tao đi lâu quá rồi đâu có nhớ ! Nhưng mà mày làm sao ? Mày nhắc đến ông ấy để làm gì mới được chứ ?
Vân khổ sở kể tiếp :
− Trời ơi ông ấy chết rồi , lúc sau này ông ấy lái xe bus.....rồi chết luôn trên xe bus , cái lúc mà ông chết thì...thì... em có mặt trên chuyến xe bus đó , rồi chính em đưa ông ấy ra nghĩa địa...
Hiếu càng sốt ruột ngắt ngang :
− ..Nhưng mà rồi sao ? ông ấy chết thì có dính dáng gì đến mày ?
Vân mở to mắt nhìn anh nhấn mạnh :
− ..Thì...ông chết cả năm nay rồi...bổng dưng lúc nãy..ơ..ơ..lúc em lên xe bus thì chính ổng ngồi lái...
Hiếu nhìn em toan phì cười , vợ Hiếu mỉa mai chen vào :
− Cô mới qua Canada mà coi tivi nhiều quá...Nói chuyện như thế mà cũng mở mồm ra mà nói , không muốn đi làm thì ở nhà , bịa đặt chuyện ma làm cái gì không biết.
Vân bực bội đứng dậy đi lại phía tủ lạnh lấy thêm ly nước và gắt nhẹ :
− Em nói thật chứ bịa đặt cái gì , em thấy chính ông Thọ ngồi lái xe , vừa thấy em..ổng nhe răng ra cười rồi gật đầu chào em. Trời , em sợ quá, em bỏ chạy về liền.
Cả nhà cùng im lặng, nhưng rõ ràng không ai tin lời Vân. Một lúc sau con bé Mỹ Linh lên tiếng :
− Chắc cô phải đi bác sĩ tâm thần quá à !
Vân thở dài thường thượt rồi bực bội bảo Hiếu :
− Tức quá...Em không mang tấm hình nào của ông ấy..Anh nhìn mặt là anh nhớ ra ngay. Anh không tin thì...tối mai anh ra trạm xe bus với em.
Hiếu trầm ngâm nói :
− Tao phải đi ngủ sớm, đâu có thức được mà đưa mày đi làm , mà đi taxi thì lương mày không có đủ trả.
Rồi Hiếu quay sang đột ngột hỏi vợ :
− Em có nhớ ông Thọ không ?
Vợ Hiếu gật đầu :
− Nhớ ! Nhưng mà không có rõ lắm , hồi em mới lấy anh thỉnh thoảng gặp ông ấy đi ngang nhà mình ấy. Nghe nói chết bất đắc kỳ tử mà, hình như là đứt mạch máu . Nhưng mà...Giá như ông ấy làm ma hiện về thì hiện bên Vn chứ ma nào mà du lịch tận sang đây ?
Nói câu ấy, vợ Hiếu mỉm cười như chế giễu Vân. Hiếu vội lên tiếng bảo Vân :
− Tao có cách này , tối mai mày đừng có đón chuyến xe 9 giờ rưỡi như tối nay nữa , mày chịu khó đi sớm hơn nữa giờ, đón chuyến trước khoảng 9 giờ. Như vậy mày sẽ khỏi phải gặp ông tài xế bửa nay. Trong thiên hạ thì thiếu gì người giống nhau , nhưng mà muốn chắc ăn thì đi chuyến khác , khỏi gặp ông tài xế bửa nay mà mày bảo là ma !
Vân hài lòng đáp :
− Vâng , em cũng định như vậy , đi sớm nữa giờ cũng được chứ ngồi nhà làm gì , đến tiệm trước thì càng vui.
Vợ Hiếu chỉ muốn em chồng đi làm nên đề nghị thêm :
− Còn muốn chắc ăn nữa thì chịu khó cuốc bộ thêm lót đường nữa , thay vì đón xe đường số 4 thì qua hẳn đường số 5 đó , hai đường song song với nhau mà , xe nào cũng dẫn đến metro. Rồi đằng nào cũng đổi xe bus mới ra được downtown.
Vân gật gù đồng ý :
− Vâng, vâng..có lẽ như thế thì chắc ăn hơn.
Hiếu biết em không muốn ở nhà , nên gật gù nhắc lại :
− Ờ , cứ như vậy đi, chịu khó đi sớm một tí Ngừng một chút , anh hỏi thêm :
− Thế còn tối nay thì sao ? Bây giờ thì sao ? Mày có đi làm hay không ?
Vân im lặng không đáp , hình ảnh ông Thọ vẫn còn làm nàng kinh khiếp. Hiếu đứng dậy lại góc nhà nhấc phone gọi cho tiệm Dolnad mà chủ nhân là một người Hoa hồi trước làm chung sở với Hiếu , nói chuyện vài câu rồi anh gác máy rồi trở lại bảo Vân :
− Tối nay nghỉ cũng được người ta chưa cần mày lắm , thật ra thì họ muốn mày đến trước một hôm để học việc nhưng mà thôi đằng nào cũng trể rồi , tối mai bắt đầu làm. Thôi , ta đi ngủ thôi. Nhớ khóa cửa lại.
Vợ chồng Hiếu đứng dậy lên lầu, con bé Mỹ Linh cũng theo lên. Bình thường nó nhốt mình trong phòng riêng học bài hoặc nghe nhạc ít khi xuống nhà dưới. Mẹ nó có ác cảm sẳn với Vân , nhưng nó thì lại dửng dưng , không thành kiến. Thỉnh thoảng lúc rảnh rổi nó còn tận tình dạy Vân học tiếng Anh.
Mọi người lên lầu rồi, Vân cũng uể oải vào buồng ngủ lấy quần áo đi tắm. Nàng cảm thấy khó chịu vì không có cách nào chứng minh cho cả nhà biết là nàng đã gặp ma thật. Toan bước ra, bổng Vân nghe tiếng con chó nhà hàng xóm gầm gừ ngay sau sân nhà mình, sát cửa sổ buồng của Vân.
Tay ôm bộ quần áo , Vân nhíu mày lắng nghe rồi thì một phút sau hình như nó chồm và những móng sắt của chân trước gào liên tục vào tường nhà Vân làm nàng càng thêm khó chịu. Gần ba tháng nay, chưa bao giờ Vân thấy nó sang sân nhà mình , dù là sân sau. Nó hiền như cục đất , suốt ngày nằm lừ đừ ngoài hiên nhà bên cạnh bên tay trái nhà Hiếu, bổng dưng tối nay con chó giỡ chứng , Vân đập bàn tay vào tường mấy cái để xua đuổi nó đi chỗ khác. Nhưng chẳng được chỉ trong khoảnh khắc , con chó bắt đầu tru lên trong đêm vắng lặng trong khu dân cư thưa thớt , nghe ai oán đến rợn người. Vì tiếng cào vào vách , tiếng tru thảm thiết cứ đều luôn luôn, rồi chuyển sang tiếng sủa vang , đôi khi như tắt nghẹn. Vân bực bội lắm , nếu nó cứ sủa như thế này thì làm sao cả nhà ngủ được. Nàng định chạy lên nói Hiếu gọi điện thoại sang ông hàng xóm bảo họ nhốt chó lại. Cái ông hàng xóm này kỳ cục quá , tại sao không để chó trong nhà mà lại thả rong ngoài vườn khi đã bước vào muà lạnh.
 
Bãi Đất Hoang Sau Nhà 3


tay ôm bộ quần áo ngủ, Vân tò mò vén bức màn cửa sổ trông ra sân sau xem tại sao chó sủa , tức thì nàng kinh hải thét lên , buông rơi bộ đồ xuống đất và chạy lao ra ngoài bởi vì khi tấm màn vừa kéo ra thì nàng thấy ông Thọ đã đứng sẳn bên ngoài sát cánh cửa sổ , nhe hàm răng trắng bệch cười với nàng.
Trong lúc Vân bước tới , chỉ có ánh sáng từ trong buồng hắt ra, nàng vẫn thấy rõ khuông mặt xanh xao, cái mặt của ông cười rạng rỡ. Con chó nhà hàng xóm thì cứ lao tới phía ông mà sủa rồi lại lùi xa xa gầm gừ rồi lại chồm tới ynhư xua đuổi tên trộm.
Hiếu từ trên lầu chạy xuống gắt lên :
− Cái gì thế ? cái gì ma la ầm lên thế ?
Vân cũng vừa chạy ra, định lao luôn lên lầu , gặp Hiếu, nàng hổn hển thở và bảo :
− Em...em vừa thấy ông Thọ đứng ở cửa sổ..buồng em. Hèn gì con chó nhà hàng xóm sủa mãi từ nãy đến giờ !
Vợ Hiếu cũng vừa chạy ra xem , uất ức bảo Vân :
− Chó nào sủa ? Từ nãy đến giờ có nghe tiếng chó nào sủa đâu ? Cô này hay nhỉ , lắm chuyện quá. Không để yên cho người ta ngủ , ngày mai cũng phải đi làm nữa chứ !
Hiếu tin rằng em gái mình đang gặp khủng hoảng tinh thần vì một chuyện gì ghê gớm lắm đã xảy ra trong quá khứ ở quê nhà , nên anh dịu dàng nói :
− Anh có nghe tiếng chó sủa đâu ! Con Mỹ Linh nó nói đúng đó , chắc là cô bị tâm thần thiệt rồi. Hay là ngày mai em lấy hẹn đi gặp bác sĩ xem sao.
Vừa nói, Hiếu vừa xâm xâm đi lại bước vào phòng của Vân , Vân lửng tửng đi theo nhưng đứng ở cửa , không dám vào. Hiếu bước vô, vén bức màn cửa sổ trông ra rất lâu, và yên chí là chẳng có gì trước mặt vì trời bên ngoài tối như bưng. Anh bảo Vân tắt hết đèn trong buồng ngủ đi để nhìn ra cho rõ. Anh thấy chẳng có gì ngoài bải đất trống chạy dài tới ven rừng. Trên bải đất trống ấy chỉ có một cái cây khá cao , đứng chơ vơ cách nhà Hiếu khoảng 50 thước. Nay mai công ty xây cất cũng sẽ đốn luôn để cất nhà bán. Hiếu xoè hai bàn tay , và nhún vai bảo Vân :
− Có gì đâu , mày nhìn lại đi. Nhìn lại lần nữa đi , có cái gì đâu !
Vân từ nãy đến giờ vẫn đứng thập thò ngoài cửa , nghe Hiếu gọi , tức quá Vân tiến lại sau lưng anh, trố mắt nhìn ra rồi nhăn mặt phân trần :
− Rõ ràng là ông ấy vừa đứng đó mà , đứng sát cái cửa sổ này này. Em không thể lầm được...Mà..mà...bộ anh không nghe thấy tiếng chó sủa hay sao ? Lạ nhỉ ?
Hiếu bước ra và nhăn mặt bảo :
− Chắc mày nằm mơ chứ gì ?
Vân gắt lên :
− Em đã ngủ đâu mà mơ ? Vừa mới vào phòng , chưa kịp tắm kia mà !
hiếu kết luận :
− Thôi ngủ đi, mai tao với chị mày còn phải đi làm.
Rồi Hiếu lặng lẽ bước lên lầu. Hiếu ra rồi , Vân đứng lặng lẽ nhìn tấm màn cửa sổ , nàng tưởng tượng bất chợt trong đêm ông Thọ sẽ xuất hiện trở lại sau lớp kính và bức màn màu trắng đục.
Khá lâu, Vân mới lấy hết can đảm cuối xuống lượm bộ đồ rớt ở dưới đất sát tường ngay phía dưới cửa sổ, và chạy nhanh qua phòng tắm. Nàng bật hết các ngọn đèn cho căn phòng rực sáng , rồi nhìn ở trong gương, thấy rõ nét lo âu và nhợt nhạt còn đọng lại.
Nữa tiếng sau, Vân trở lại phòng đứng im nghe ngóng , nàng không dám khép cửa , không dám tắt đèn. Thậm chí bật luôn đèn ở trong nhà bếp rồi mới lên giường nằm nghiêng đưa lưng về phía cửa sổ , và trùm mền kín từ đầu đến chân. Vợ Hiếu từ nhà trên càu nhàu đi xuống và tắt hết đèn bếp cho đỡ tốn điện. Vân biết, nhưng đành nằm im. Cũng may , từ đó mọi chuyện đều bình lặng , không có gì xảy ra , con chó không gào , không sủa nữa. Tuy vậy Vân vẫn không ngủ được , Vân có cảm tưởng bên ngoài cửa sổ, hồn ma của ma vẫn lãng vảng với khuôn mặt bóng loáng vẫn đang tựa cửa đợi mình.
Khi nhắm mắt lại, khuôn mặt xanh xao của ông với hàm răng trắng nhợt lại hiện ra rõ mồn một như đang đứng ngay trước mặt Vân. Hồi nhỏ nàng nghe người lớn bảo, những người chết vào giờ linh , hồn không siêu thoát , cứ theo đuổi mãi một người nào đó trên trần gian , hay là...ông Thọ ở vào trường hợp đó ? Nếu thế , thì xui cho Vân quá !
Cả tiếng đồng hồ sau, chắc là đã quá nữa đêm, Vân mới rón rén ngồi dậy đi tiểu, rồi lại trở về nằm trăn trở rất lâu. Có lẽ căn phòng sáng quá khiến nàng ngủ không được , nghĩ thế Vân vói tay tắt cả hai ngọn đèn trần , cũng như đèn ngủ ở đầu giường rồi chun vào, cuộn mình trong chăn. Nhưng đèn vừa tắt, thì từ sân sau con chó nhà hàng xóm lại bắt đầu gầm gừ nho nhỏ , rồi hai chân trước lại cào vào bờ tường liên tục nghe rin rít , làm Vân thấy rùn mình ê răng và ghê cả người. Không biết tại sao , Vân đưa hai tay bịt tai lại, nhưng con chó lại tru lên, mỗi lúc một ghê rợn hơn , lát sau lại sủa từng hồi liên tục , và luôn luôn móng sắt lại tiếp tục cào vào bờ tường. Vân lại thót người , run lên bần bật vì biết chắc rằng hồn ông Thọ vừa hiện ra trở lại đằng sau nhà. Tiếng chó sủa lớn quá trong đêm khuya , tại sao cả nhà nàng không ai nghe thấy? Vân chờ đợi mãi mà chẳng thấy Hiếu lên tiếng , chứng tỏ chỉ có mình nàng nghe được , nàng nằm co quắp, ôm cái gối vào lòng, mắt nhắm nghiền lại . Một lúc sau , tiếng chó bổng im lặng, tiếng móng chân cào vào bờ tường cũng im hẳn , Vân nhè nhẹ kéo mép chăn xuống khỏi mặt để thở , nhưng tiếng chó vừa im được một lúc, thì phía sau nhà vang lên tiếng ầm ầm cổ máy xe hơi. Đúng là tiếng xe bus chạy từ từ , đơn độc , cứ lớn dần, lớn dần cho tới khi lướt ngang ngay sang cửa sổ nhà nàng. Nhà nàng ở giữa đồng trống , không thể có con đường có bất cứ xe nào chạy ngang phía sân sau ; Nàng lại run lên bần bật và kéo mền phủ lên mặt , nhắm mắt lại, nàng hình dung thật rõ chiếc xe bus cứ từ từ tiến tới gần nhà mình , chạy lướt qua, rồi lại quay đầu trở lại. Và ông Thọ ngồi lạnh lùng sau bánh lái , nàng cố trấn tỉnh choàng dậy với tay bật đèn, và ôm cái mền chạy lao ra nhà bếp , rón rén lên lầu. Nàng muốn chui vào ngủ chung với đứa cháu cho đỡ sợ , nhưng giờ này đã quá khuya , không dám đánh thức nó. Dần dà một chút , Vân nằm dài ra sàn nhà, ngay chiếc cửa sổ phòng con Mỹ linh, tung chăn phủ kín lên người.
Sáng hôm sau chuông đồng hồ đánh thức Hiếu dậy lúc 7 giờ như thường lệ , hầu như sáng nào, anh cũng dậy trước vợ , xuống nhà đọc báo , uống cà phê cho tỉnh táo. Anh đẩy cửa bước ra , ngơ ngác thấy Vân nằm co quắp ngay lối đi , anh đứng nhìn một chút, rồi thoáng hiểu ngay là em gái đêm qua không dám ngủ một mình ở dưới nhà. Anh tội nghiệp bước đi nhè nhẹ xuống nhà để khỏi đánh thức Vân , nhưng Vân choàng dậy , ngồi tựa lưng vào vách , tóc xỏa mệt mỏi, và đôi mắt đỏ ngầu , hai mắt nhìn ra cửa sổ.
Trời hãy vẩn còn tối , 7 giờ sáng muà hè, thì nắng đã lên. Nhưng muà đông thì chưa trông rõ cảnh vật. Dưới nhà , Hiếu bật đèn sáng choang , Vân uể oải đứng dậy cầm cái mền bước xuống. Hiếu đã vào buồng tắm khép cửa lại , trên lầu cũng có buồng tắm nhưng gần như Hiếu để dành riêng cho vợ và con gái vì mỗi buổi sáng cả hai đều lục đục trong đó rất lâu.
Vân tiến lại trước cửa phòng mình , đứng tần ngần một chút rồi mới dám bước vô, quăng cái chăn lên giường , nàng nhìn tấm màn cửa sổ , định bụng chờ trời sáng rõ rồi chút nữa mới kéo ra , nàng ra nhà bếp pha cà phê chờ Hiếu. Một lúc sau thì Hiếu từ trong buồng tắm bước ra , tiến lại và hỏi Vân một câu thừa thãi :
− Tối hôm qua mày không dám ngủ một mình dưới nhà phải không ?
Vân mệt mỏi nói :
− Anh Hiếu à , anh có cách nào tối nay đi với em được không ?...Anh không cần phải đến tiệm cà phê làm gì đâu. Anh chỉ đứng chờ xe bus với em thôi , để em xem ông ấy có hiện về lái xe nữa hay không ! Nếu có thì anh cũng lên xe với em chứ một mình em...em không có dám đâu.
Hiếu biết tinh thần em mình đang hỗn loạn , nhưng ngàn lần anh không thể tin được là hồn ma từ Vn sang tận đây để theo đuổi Vân , anh gắt nhẹ :
− Xe bus đâu có chỉ chờ có mình mày , mỗi chuyến cả mấy chục người , không lẽ cái xác chết lại lái được xe đưa cả mấy chục người đi làm ? Mày nói làm sao chứ ?
Vân ngắt lời nhấn mạnh :
− Nhưng mà tối nay anh đi với em ra bến xe được không ?
Hiếu rất muốn chìu em, đồng thời cũng muốn giải quyết một lần cho xong , nhưng anh sợ vợ anh không bằng lòng nên anh chẳng biết trả lời ra sao. Vân đặt tách cà phê , nhìn ra cửa sổ và nói :
− Trời sáng rồi , anh..anh đi với em ra đây , ra đằng sau nhà với em.
Hiếu ngần ngại không muốn ra ngoài, nhưng vì tội nghiệp Vân cả đêm mất ngủ, nên đành đứng dậy nhưng cằn nhằn bảo :
− Đứng trong buồng của mày nhìn ra sân sau cũng được , cần gì phải ra bên ngoài cho lạnh.
Vân giật mạnh tay anh quả quyết :
− Không , anh cứ đi với em , em nói thì anh không có tin đêm hôm qua ông Thọ hiện về ngay sau cửa sồ buồng em nè , con chó nhà bên nó cứ sủa ầm cả lên , rồi nó cào mãi vào trong tường. Đi ! Anh đi với em đi mà.
Vừa nói , Vân vừa lôi anh lại cửa sau , nàng đẩy cánh cửa sổ bước ra, quên cả cái rét buổi sáng. Hiếu theo sau, rùn mình vì lạnh. Trời chưa sáng hẳn , nhưng nhờ khoảng trống mênh mông phía sau , nên cảnh vật bắt đầu trong rõ. Hiếu bật thêm ngọn đèn máng trước máng hiên sân sau để quan sát cho rõ. Hiếu đứng trên mãnh sân sau, chưa có làm hàng rào , chưa tráng xi măng mà lớp cỏ thì đã chết úa vì lạnh. Bỗng Hiếu trố mắt giựt mình há mồm nhìn trên bức tường nhà mình , ngay cửa sổ phòng Vân quả thật chằng chịt bao nhiêu vết cào như có ai cầm cây đinh cố ý vạch vạch. Nhà mới xây, tường còn nguyên , nên dấu cào càng rõ. Vân lay vai Hiếu và kinh hãi nói :
− Anh...anh thấy chưa ? Em bảo anh mà , con chó nó cào cả tiếng đồng hồ ấy.
Rồi nàng hốt hoảng chỉ tay và nói lớn hơn :
− Đây..đây này..Anh coi này...dấu chân người đứng ngay sau cửa sổ nhìn vào buồng ngủ của em , rõ ràng là dấu giày còn in lại vì chỗ đất mềm. Sân này từ trước tới giờ đâu có ai lai vãng tới. Tối hôm qua mà anh..anh ở dưới phòng em thì anh mới thấy sợ , em phải chạy lên lầu là vì thế ấy.
Hiếu cũng vừa nhận ra dấu giày đàn ông quay mũi vào hướng buồng Vân, làm anh bắt đầu đổi thái độ. Một cảm rờn rợn bất chợt lan vào toàn cơ thể anh , anh im lặng quay đầu nhìn sang nhà hàng xóm có con chó quanh năm hiền lành , rồi anh kéo tay Vân ra hiệu bảo vào nhà khép cửa lại.
Anh đi ra sân trước dáo dác nhìn , con chó hàng xóm đã nằm lặng yên trước hiên không có một dấu hiệu nào chứng tỏ đêm qua nó đã gặp ma. Anh bảo Vân :
− hay là kẻ trộm nó rình nhà mình ?
Vân lắc đầu :
− Đằng sau nhà mình là bải đất trống , trộm nào dám đứng khơi khơi giữa bãi đất trống mà rình ?
Hiếu cũng đã nghĩ đến điều ấy , nhưng anh vẫn cố nêu ra một giả thiết để tự an ủi mà thôi. Vào nhà , anh ngồi ở bàn ăn , hai mắt đăm chiêu suy nghĩ. Vân rót cà phê cho anh, rồi bưng lại đặt trước mặt , Hiếu hỏi :
− Cái ông Thọ mà mày bảo là hiện hồn về đó , lúc còn sống ông ấy có..ông ấy có..có dính dáng gì đến mày không ? Tại sao lại hiện về để chọc ghẹo mày?
Vân kéo ghế ngồi và lại tỉ mỉ kể hết diễn tiến mọi chi tiết cho Hiếu nghe, chỉ khác một điều là lần này nàng kể phấn khởi hơn bởi vì Hiếu đã chăm chú lắng nghe không xem thường câu chuyện của nàng như tối hôm qua. Nàng kết luận :
− Tối nay anh chịu khó ra đón xe bus với em được không anh?
Hiếu gật đầu đáp :
− Ừ , để tối nay tao đi với mày , nhưng tao dặn mày để xíu nữa chị mày dậy , đừng có nói gì cả. Bả nhát lắm , biết là có ma thật , chị mày có thể đứng tim chết đó.
Vân gật đầu mặc dầu trong lòng rất ấm ức , vì rõ ràng bà chị dâu cho là Vân bịa đặt , chị cứ yên chí cho là Vân lấy cớ để nghỉ ở nhà để khỏi phải đi làm. trong lúc tức tối , Vân chỉ mong cho hồn ma hiện về cho bà chị dâu gặp một lần để bả tởn. vân đứng dậy và nói :
− Thôi , anh chuẩn bị đi làm đi , em phải đi ngủ một giấc đây , mất ngủ một đêm mệt quá. Định vào ngủ chung với cháu Mỹ Linh nhưng mà lại sợ làm mất giấc ngủ của nó , em đành phải nằm ở ngoài hành lang ấy.
Hiếu trầm ngâm không nói gì nữa , Vân nhìn anh tha thiết hỏi :
− Ừm..em..em gọi phone về VN được không anh ?
Hiếu bưng tách cà phê chưa kịp uống ngạc nhiên đáp :
− Được chứ , nhưng mà mày gọi cho ai ?
− Gọi cho gia đình ông Thọ ấy mà , ông ấy ở với một ông anh ruột , em bảo là người ta làm lễ cầu siêu , tại vì ông Thọ không vợ , không con cho nên không có ai cúng kiến cả.
Hiếu uống một ngụm cà phê rồi gật đầu bảo :
− Ừ tùy mày vậy , lát nữa tao đi làm thì mày gọi.
Vân hài lòng đứng dậy , anh em thương nhau nhưng vớ phải bà chị dâu khó chịu , thành ra bất cứ việc gì muốn làm , Vân vẫn cứ phải đắn đo. Nàng bước vào phòng tắm , bao nhiêu nỗi kinh sợ đêm qua , giờ này khi trời sáng đã giảm hẳn. nàng đánh răng rửa mặt, rồi cởi quần áo vào bồn tắm xối nước nóng cho đỡ mệt mõi , rồi nàng vào buồng khép cửa lại lên giường ngủ. Ngoài nhà vợ chồng Hiếu và con gái lục đục một lúc rồi khóa cửa đi ra trả lại sự vắng lặng một mình cho Vân ở nhà. Nàng cần phải ngủ một giấc dài, đêm nay mới có thể thức trắng làm việc ở tiệm cà phê.
Vân ngủ được mấy tiếng đồng hồ thì choàng tỉnh dậy giữa căn nhà vắng vẻ , ngẩm nghỉ mấy giây mới nhớ lại trọn vẹn câu chuyện đêm qua vào lúc thấy ông Thọ mặt sáp ngồi trên xe bus cho đến những âm thanh hổn độn ở sau nhà : tiếng chó sủa , tiếng cào vào tường , tiếng xe bus chạy. Tất cả uà trở về rất nhanh trong trí nhớ của nàng. Tuy nhiên , nhìn qua màn cửa sổ , nàng thấy trời đã rực nắng nên cái cảm giác run sợ không còn đè nặng như đêm qua , nhìn đồng hồ trên bàn thấy cũng quá trưa , Vân choàng dậy, định ra rửa mặt rồi nấu cơm , chui ra khỏi tấm chăn dày, Vân thấy rùn mình vì lạnh , nàng mặc vội cái áo khoác rồi lại kéo rộng tấm màn cửa sổ cho căn phòng thêm ánh sáng.
 
Bãi Đất Hoang Sau Nhà 4


Màn vừa kéo ra, nàng hãi hùng kêu lên , và bước lùi lại mấy bước. Trên bãi đất mênh mông trước mặt , cách nhà nàng khoảng 50 thước , trơ trọi một cây thông khá cao giờ này lá đã rụng gần hết. Một người đàn ông đứng dựa gốc cây miệng ngậm điếu thuốc khói bay nhè nhẹ, đăm đăm nhìn vào cửa sổ buồng ngủ của Vân. Mặc dù khoảng cách khá xa, Vân cũng vẫn nhận ra ngay đó là ông Thọ với cái dáng quen thuộc không thể lầm lẫn được . Vừa thấy Vân , nghĩa là khi Vân vừa kéo màn cửa , ông liền quay lừng lửng bỏ đi về phía bià rừng và mất hút trong đó .
Vân để bàn tay lên ngực để trấn tỉnh , nàng không dám kéo màn lại nữa. Nàng chạy ra nhà ngoài kiểm soát lại xem cửa chính đã đóng kín và gài then trong chưa , đồng thời nhà có bao nhiêu cửa sổ ,Vân kéo màn mở tung ra hết , nàng nghĩ hồn ma luôn luôn sợ ánh sáng , cho nên chiều nay khi Hiếu đi làm về, nàng sẽ đòi Hiếu thay cái bóng đèn thật sáng phía sân sau ngay trên cửa sổ của nàng , rồi từ đây khi ngủ , nàng sẽ không kéo màn lại nữa. Nàng đứng ở bàn ăn đờ đẩn suy nghĩ , tim vẩn còn đập thình thịch , căn nhà vắng lặng lạ thường , không một tiếng động nhỏ làm nàng cảm thấy rờn rợn như sống một mình giữa lâu đài hoang.
Nàng vào phòng khách, bật ti vi lên cho đỡ trống trãi rồi qua phòng tắm rửa mặt. Nhìn đồng hồ thấy mới khoảng 1 giờ trưa nàng lưỡng lự toan gọi điện thoại về Vn, nhưng lại đổi ý hoãn đến chiều , chờ Hiếu về để Hiếu cùng nghe rõ câu chuyện. Một mặt Vân sẽ bảo người nhà cầu siêu cho ông Thọ, một mặt nàng sẽ yêu cầu bảo họ gởi qua cho nàng một bức hình của ông để mang lên chùa. Phải chấm dứt tình trạng này, chứ nếu kéo dài , thì nàng không thể làm ăn gì được . Đôi mắt vẫn còn cay, Vân đứng trước bồn rửa mặt , cuối xuống vặn nước nàng nhắm mắt lại vộc thật nhiều nước đắp lên mặt cho tỉnh. Đang lau mặt thì nàng ngạc nhiên khựng lại vì chợt ngửi thấy mùi thuốc lá thoang thoảng trong phòng , nàng nhíu mày đứng yên , hít hít mấy cái và càng thấy rõ mùi thuốc lá bao phủ nặng nề hơn. Hiếu đi làm mới về bất ngờ chăng ? Chắc là không ! Bởi dù Hiếu có về thì Hiếu cũng đâu có hút thuốc , anh bỏ thuốc đã lâu. Mấy cái gạt tàn chỉ còn giữ lại trong tủ làm kỷ niệm. Nhà này không có ai hút thuốc , sao lại có mùi khói bay trong nhà ? Vân máng cái khăn lên và cất tiếng hỏi lớn :
− Anh về đấy hả anh Hiếu ?
Cùng với câu hỏi ấy , Vân bước sang phòng khách , nàng kinh hãi đến rợn người vì ở bàn salon , trên chiếc gạt tàn bằng thủy tinh , có điếu thuốc đang cháy giở , khói bốc thành sợi bay lên cao. Vân đứng chết cứng tại chỗ , trố mắt nhìn , bên cạnh cái gạt tàn còn có gói thuốc Mai mà đã hơn một năm nay Vân mới nhìn lại. Tim đập thình thịch , Vân đưa mắt nhìn quanh , ngó xuống bếp và ngước lên lầu , nàng biết hồn ma ông Thọ đang có mặt trong căn nhà với một điếu thuốc nội hóa mà xưa kia ông vẫn hút khi lái xe bus .
Dường như có tiếng bước chân trên lầu , nàng im lặng láng nghe thì không thấy gì nữa. Căn nhà chìm trong im lặng mênh mông , không một tiếng động nào. Đứng một lúc , lấy lại phần nào bình tĩnh , Vân tiến lại góc nhà , chỗ máng điện thoại để gọi vào sở báo tin cho Hiếu biết. Nàng dự định điện thoại cho Hiếu xong thì nàng sẽ ra phố đông người hoặc vào một shopping center nào đó đi thơ thẩn ,chứ không dám ở nhà một mình , 5 giờ chiều cả nhà về thì Vân mới về.
Vân đứng bên cạnh cái phone màu đen máng trên vách mở cuốn sổ tìm số của Hiếu , nhưng còn đang lật từng trang thì điện thoại bổng reo vang làm nàng giật nẩy người , đánh rơi cuốn sổ điện thoại xuống chân. Nàng trấn tỉnh ngay, đặt bàn tay lên ngực và thở phào vì đoán là Hiếu gọi về. Ban ngày cả nhà đi làm hết, đâu có ai gọi vào giờ này ? Chắc chắn chỉ có Hiếu hoặc con bé Mỹ Linh mà thôi. Nàng nhấc ống nghe , áp vào tay vừa nói " Hello " thì từ phía đầu giây bên kia vang lên một giọng nói rất mơ hồ lẫn trong tiếng gió thổi như vọng từ cõi xa xăm nào về....
− Chào cô Vân , tôi là Thọ đây , Thọ xe bus đây !
Vân thét lên, buông rơi chiếc điện thoại xuống bàn và bỏ chạy ra sân nhà , nàng xuống hẳn lề đường , mặt tái mét , đưa mắt nhìn ra trước sân và hai bên nhà hàng xóm. Con chó nhà bên cạnh vẫn nằm lừ đừ trước cửa dưới ánh nắng khô lạnh. Sực nhớ ra mình đang mặc đồ ngủ , hơi giá thấm nhanh qua lớp vải nội hóa. Vân lại trở vào, rón rén mở cửa , mắt mở trừng trừng , nhìn tứ phía căn nhà nàng cư ngụ đã 3 tháng hôm nay biến thành một cõi âm hồn lạnh lẽo mà nàng cảm nhận được trong không gian. Nàng muốn gọi phone cho Hiếu , nhưng cứ đứng nhìn cái điện thoại mà kinh hãi , chỉ sợ đến gần thì hồn ma ông Thọ lại từ thế giới bên kia kêu về.
Nàng mon men đi vào phòng , dáo giác ngó quanh , rồi thay bộ quần jean áo thun, rồi nàng qua buồn tắm lấy cái Jacket dày vẫn máng trong đó. Nhưng lạ quá , cái áo khoác ấy chỉ máng lên một cái đinh nhỏ sau cánh cửa mà nàng giật mãi không ra , như có bàn tay ai giữ lại. Vân dùng hết sức , kéo thật mạnh cái đinh sút luôn , làm nàng ngã té. Vân lồm cồm đứng dậy cầm cái jacket chạy luôn ra sân.
Buổi chiều vợ chồng Hiếu về tới nhà đã thấy Vân đứng chờ ngoài sân. Trời muà đông âm u gần như đã 7 - 8 giờ tối. Nhìn nét mặt xanh xám và cặp mắt lạc thần của em , Hiếu ưu tư hỏi :
− Sao giờ này không ngủ , ra đứng đây làm gì cho lạnh ?
Chờ vợ Hiếu vào nhà trước , Vân mới níu cánh tay anh và vắn tắt kể :
− Anh Hiếu ơi , hồn ma ông Thọ đan gở trong nhà mình từ sáng tới giờ đó. Em đang ở trong buồng tắm thì ngửi thấy mùi thuốc lá. Em chạy ra không thây ai mà lại thấy điếu thuốc cháy dỡ trên tàn , bên cạnh điếu thuốc Mai. Ghê nhất là lúc em tính gọi phone vào sở cho anh thì em nghe tiếng ở trong phone , nhất ra thì chính là tiếng của ông ấy. Giọng ông ấy nghe...nghe ghê lắm , nghe kỳ lắm..em sợ quá..em sợ lắm anh ơi..em..em ở nhà một mình chắc em chết mất...
Giọng Vân cực kỳ thảm nảo khiến Hiếu đứng yên tại chỗ , đăm đăm nhìn xuống chân ngẫm nghĩ không biết giải quyết bằng cách nào để giúp em. Những điều Vân vừa kể như ông Thọ hiện về hút thuốc , và nhất là điện thoại cho Vân thì Hiếu chưa tin hẳn. Tin làm sao được ? Y như trong phim ảnh , hay là em gái mình bị loạn trí thật rồi ? Cũng không phải , dấu chân người và những dấu vết cào trên vách tường sau nhà Hiếu rõ ràng là điều có thật mà sáng nay chính anh đã tận mắt chứng kiến.
Muốn kiểm lại cho chắc , Hiếu không vào nhà vội , anh kéo Vân vòng ra hông nhà và ra phía sau . Dấu chân người đứng sát cửa sổ và những vết cào chằng chịt trên tường vẫn còn nguyên vẹn. Vân bảo :
− Anh..anh thay cho em cái đèn thật sáng ngoài này được không ? Ma bao giờ cũng sợ sáng cả.
Hiếu vừa bước vòng về phía trước vừa nói :
− Tạm thời mày sợ thì nằm chung với con Mỹ Linh. Nhưng mà mày có ngủ ở nhà đâu mà mày sợ ? Mày làm ban đêm mà ! Lát nữa tao đi với mày ra đón xe bus.
Giờ này thì Vân không phải chỉ sợ ông Thọ ngồi trên xe bus , mà chỗ nào hình như cũng có ông theo bước chân nàng. Hai người vừa tới cửa trước thì vợ Hiếu cũng vừa từ phía trong nhà bước ra , mặt hầm hầm nhìn Vân mắng lớn :
− Cô ở nhà làm gì mà phòng tắm bừa bãi như thế này ? Thủy tinh vỡ đầy trong ấy mà không quét dọn gì cả , rủi ai đạp vào thì sao ? Rồi bao nhiêu chai lọ lăn lông lốc ở trong buồng tắm ấy , cô để yên được à ? Muốn vào đây thì phải gọn ghẽ chứ.
Vân cuối đầu nén tiếng thở dài , Hiếu không biết giải thích thế nào với vợ để bênh em gái , bèn dịu dàng bảo Vân :
− Vào quét đi, quét rồi lấy máy hút bụi hút lại cho thật kỹ đi. Vân vô buồng tắm rồi , vợ Hiếu đứng ở bếp chống nạnh nhìn quanh rồi chán nản nói :
− Um...ở nhà cả ngày mà bếp núc lạnh tanh như thế này. Không nấu được hộ nồi cơm. Chán thật !
Hiếu nghe vợ cằn nhằn em gái một cách oan ức , nhưng anh không biết nói sao , anh không muốn vợ biết rằng chính anh cũng đã bắt đầu tin những điều Vân kể , anh tò mò đứng ở trước cửa buồng tắm nhìn vào , Vân đang khom người quét những mãnh thủy tinh , vội đứng dậy và thì thầm kể :
− Em thấy tình hình ghê rợn lắm rồi , em..em chịu không nổi , anh phải làm cách nào giúp em. Trưa nay , em ngủ có khoảng ba tiếng đồng hồ. ban ngày nên em cũng đỡ sợ , ngủ dậy em vén màn cửa sổ thì không ngờ em lại thấy ông ấy. Đêm qua thì ông ấy đứng sát cửa sổ , trưa nay thì ông ấy đứng xa xa dưới gốc cây, chỗ cái bãi đất trống kia kià..Anh có biết cây đó là..là cái cây gì không ? Đó đó cái cây đó đó , anh qua buồng em mà coi.
Rồi thấy em, ông ấy bỏ vào rừng. trời đất ơi , em mệt quá vì thiếu ngủ, mới vào buồng tắm vộc nước đắp vào mặt, ai ngờ mở mắt ra thì ngửi thấy mùi thuốc lá , chạy ra phòng khách thì thấy điếu thuốc đang cháy dỡ. Em chưa đứng tim mà chết là may đấy. Vào phòng tắm để lấy cái áo jacket thì có người giữ lại không cho em lấy. lôi mãi thì cái đinh nó tuột ra làm em ngã lăn vào buồng tắm suýt gãy xương sống.
..mà..mà lạ quá..cái ly thủy tinh này múc nước xúc miệng thường ngày nó nằm cạnh cái bàn rửa mặt, sao hôm nay nó nằm cạnh cái bồn tắm ? rớt xuống vỡ tung ra , em..em chả hiểu ra làm sao hết.
Rùng rợn nhất là lúc em nghe tiếng ông ấy trong điện thoại. Từ nay....từ nay chắc em không dám nhấc điện thoại nữa đâu.
Hiếu chỉ nghe em kể cũng thấy rùn mình , lạnh buốt xương sống , mặc dù toàn những chuyện lạ lùng đầy tính hoang đường , anh bảo Vân quét dọn. Một mình vào buồng ngủ của Vân, đứng nhìn qua cửa sổ. trời đã tối xẩm , ngoài khu đất hoang, cảnh tượng thê lương như bải tha ma không một bóng người , không một chút ánh sáng vì nhà Hiếu ở dãy cuối cùng. Hiếu kéo màn cửa sổ lại , rồi trở qua buồng tắm và hỏi Vân :
− Ông Thọ lúc còn sống theo đạo gì ?
Vân vừa quét vừa đáp :
− Dạ..hình như đạo Phật hiếu bảo :
− ở Toronto có nhiều chuà VN lắm , hay là mày nhờ chuà làm lễ cầu siêu cho ông ấy.
Vân hăm hở đồng ý ngay :
− Vâng , em cũng định như vậy. Thứ bảy này nhờ anh đưa em đến chuà , chuà nào cũng được. Nhưng mà trước mắt phải giải quyết ngay chứ..để thế này đâu có được. Từ đây đến thứ bảy còn lâu quá .
Hiếu nhìn em gái tội nghiệp nói :
− Giải quyết cách nào bây giờ ? Chính tao cũng không biết. À , mà mày gọi điện thoại về Vn chưa ? Bảo người nhà ông ấy gửi gấp gấp hình ông ấy sang đây để mày mang lên chuà.
Vân mệt mỏi đáp :
− Trời ơi, em chưa gọi , bao nhiêu chuyện dồn dập xảy ra , em chẳng còn tâm trí nào để nhớ là điện thoại về Vn , thôi hay là để sáng mai vậy.
Vân vừa dứt lời thì con bé Mỹ Linh cũng vừa về tới đẩy cửa bước vào , cất tiếng chào bố mẹ rồi đi thẳng lên lầu vào buồng riêng. Nó thay quần áo xong , xuống nhà chuẩn bị ăn cơm, thấy mẹ đứng nấu bếp , nó vô tình hỏi :
− Ủa , cô Vân ở nhà không nấu hay sao mẹ ?
Vợ Hiếu được dịp than :
− Chả biết làm gì cả ngày ở nhà mà bừa bải như bải rác , không dọn dẹp , cũng chả nấu nướng.
Những câu nhiếc móc ấy Vân đều nghe rõ cả vì vợ Hiếu cố ý nói lớn , nhưng nàng lờ đi vì đã có lời dặn của Hiếu , nàng dọn xong buồng tắm , treo tấm màn nylon lên thì nghe tiếng Hiếu gọi ra ăn cơm. Ít có gia đình nào chị dâu em chồng hoà thuận với nhau , nhất là trong hoàn cảnh của vợ Hiếu và Vân hôm nay. Hai chị em ngồi đối diện nhau không ai nói lời nào. Con bé Mỹ Linh vốn tính hồn nhiên , tươi cười hỏi Vân :
− Tối nay cô có đi làm không ? Coi chừng cô lại gặp ma trên xe bus đó nha !
Vân chưa kịp đáp thì Hiếu lên tiếng :
− Ừm...lát nữa ba sẽ đi với cô Vân ra trạm xe , chờ cô lên xe xong thì ba mới về.
Lập tức vợ Hiếu đặt bát và gắt lên :
− Ơ hay ! Tại sao phải như thế ? Không lẽ đêm nào cũng đưa từ nhà ra bến xe à ? Thế thì ở nhà cho rồi , đi làm làm cái gì ? Đi làm mà phiền người khác thì nghĩ phức cho rồi .
Hiếu gắng nhẫn nhục phân trần :
− Anh đi với cô ấy tối nay thôi, để xem ông lái xe bus là ai mà con Vân nó sợ ?
Mỹ Linh chen vào :
− Ba cho con đi theo luôn đi , để xem ông ấy có phải là ma không nhá ?
Vợ Hiếu quát lên :
− Thôi thôi , vẽ chuyện , không có đi dâu hết á , ăn xong lên phòng học bài đi.
Hiếu bực mình chịu không nổi , lạnh lùng bảo vợ :
− Em cũng nên đi với anh , và con nữa. Đi ra xem ông tài xế xe bus là ai ? Người hay là ma ?
Vợ Hiếu quẳng đôi đũa xuống bàn mà gắt :
− Cái gì ? Hóa ra là anh cũng tin là ông Thọ chết ở Vn , rồi bây giờ sang đây lái xe bus à ? Đúng là mê ngủ ! Ma nào mà đi xa vậy ? Anh em giống hệt nhau, tin vớ tin vẩn chuyện dị đoan.
Hiếu cải :
− Không gặp thì làm sao mà biết được ? Lát nữa anh ra xem sao ?
Con bé Mỹ Linh nhìn bố dè dặt nhắc lại :
− Um...con đi được không ba ?
Hiếu gật đầu :
− Ừ , con đi với ba xem cô Vân nói thật hay là chỉ tưởng tượng ?
Vợ Hiếu bực mình bỏ dỡ bửa cơm , đứng dậy bước vào buồng tắm , rồi lên lầu. Con bé Mỹ Linh đưa mắt nhìn theo mẹ một lúc rồi quay lại Hiếu , nó tò mò hỏi :
− À.... Bộ ma cũng lái được xe hả ba ?
Hiếu gật đầu giải thích :
− Ma là hồn người chết con ạ. Tuy xác chết , nhưng hồn không chết. Có nhiều điều người sống làm không được , nhưng hồn ma nó làm được. Huống chi là lái xe thì quá dễ.
 
Bãi Đất Hoang Sau Nhà 5


Cơm nước xong, hai cô cháu xuống dọn dẹp để Vân chuẩn bị đi làm. Nàng hồi hộp lắm. Nhưng có hai cha con Hiếu đi theo , nàng cũng đỡ sợ. Nàng tự đặt ra trong đầu hai trường hợp sẽ xảy ra : Nếu lát nữa ông Thọ lái xe thật thì nàng có leo lên xe hay không ? Mà nếu tài xế không phải là ông Thọ , hai cha con trở về không , thì cả nhà sẽ khổ với sự đay nghiến của vợ Hiếu. Lúc đó nàng sẽ ăn nói làm sao với bà chị dâu khó tính ?
Trong lúc Vân rửa chén , thì Hiếu lên lầu nói chuyện với vợ , vợ Hiếu bây giờ đâm ra bực chồng hơn cả bực Vân , bởi lẽ Hiếu tỏ ra tin chuyện ma vô lý của em gái , Hiếu biết thế , nên phải tìm cách vuốt , anh giả vờ nói theo ý của vợ :
− Em à , anh thấy là cả em cũng nên đi với anh ra trạm xe bus , biết đâu con Vân nó lấy cớ là sợ ma , nó ở nhà không chịu đi làm đúng như em nói ? Mình ra tận nơi chứng kiến , nó sẽ hết đường chối cãi em thấy không ? Chính vì vậy anh mới quyết định ra trạm xe với nó chỉ một lần thôi , từ mai nó không bịa đặt chuyện được nữa. Em đi với anh đi, em đi với anh để xem nó ăn nói ra làm sao ?
Vợ Hiếu thấy chồng có lý , chị ngẫm nghĩ một chút rồi nói :
− Đi thì đi , thời buổi này mà nói chuyện gặp ma , nghe chán thật.
Hiếu vuốt theo :
− Chả hiểu con bé nó bị khủng hoảng cái gì mà sinh ra lẩn thẩn như vậy ?
Anh quay bước xuống nhà , mà lòng nặng trĩu. Nổi lo âu dùm cho em gái , anh mong mỏi là mọi chuyện êm xui. Vân từ nay đi làm đều đặn để vợ anh cảm thấy thoải mái hơn.
Đúng 8 giờ rưỡi , bốn người nai nịch quần áo muà đông , bước ra khỏi nhà để lên đường đi gặp...ma. Vợ Hiếu mặc jacket dày lặng lẽ theo chồng , không nói lời nào. Vợ Hiếu khóa cửa , rồi cả nhà cắm đầu cùng rảo bước. Hiếu định lái xe, nhưng vợ Hiếu và con bé Mỹ Linh đều đòi đi bộ vì quảng đường không xa lắm. Vợ Hiếu lúc này hơi lên cân , nên thấy có dịp đi bộ để tập thể dục , đòi đi ngay. Trời rét căm căm , mà gióo lại rít từng cơn qua cánh đồng trống , như hắt hơi lạnh vào bốn người. Hiếu và vợ đi trước rầm rì nói chuyện. Hai cô cháu lặng lẽ đi sau.
Vân kiểm điểm lại bao nhiêu nổi kinh sợ xảy đến dồn dập trong ngày hôm nay. Nàng thầm nguyện trong đầu :
− Ông Thọ ơi , lúc sống ông là người thân của tôi , ông sống khôn thác thiên , xin đừng hiện về làm tôi sợ. Tôi hứa sẽ đặt bài vị ông trong chuà mà.
15 phút sau thì ra tới con lộ chính , trạm xe không có ai. Cả bốn người đứng khuất hẳn vào trong nhà lồng kiếng chờ đợi . Vân hồi hộp lắm , để đỡ sốt ruột , nàng hỏi Hiếu :
− Bộ..bộ anh không nhớ mặt ông Thọ hay sao ?
Hiếu lắc đầu nói :
− Không ! Cứ như mày kể thì hồi trước muốn đi lính ít khi về nhà. Sau 75 thì ông ấy về nhà , tao vượt biên rồi còn đâu. Gặp thì chắc là cũng nhớ , nhưng bây giờ thì tao không có hình dung được mặt mũi ổng ra làm sao.
Vợ Hiếu ngồi trên ghế băng , không nói gì , mặc dù chị vẩn nhớ mặt ông Thọ. Hiếu chưa nói xong dứt câu, thì Mỹ Linh đứng bên cạnh lên tiếng :
− Ơ...Xe tới kià ba !
Cả Hiếu và Vân cùng hồi hộp quay về hướng xe bus đang từ từ chạy đến. Vợ Hiếu còn hồi hộp hơn bởi chị mong cái giây phút này để cười vào mặt cô em chồng. Bốn người đứng thành một hàng, không ai nói một lời nào. Dưới ánh đèn đường chiếu qua làn hơi sương ảo ảo. Chiếc xe màu xám hiện ra như bóng dáng một con quái vật khổng lồ đang ám ảnh tâm trí của Vân. Nàng nín thở đăm đăm nhìn và thầm nhắc lại câu nói lúc nãy :
− Ông Thọ ơi ! ông sống khôn thác thiên , xin đừng hiện về làm tôi sợ.
Hình như xe trống , không có khách. Tới gần trạm , xe giảm tốc độ, và tấp vô lề và dừng hẳn lại. Vợ chồng Hiếu , Vân và Mỹ Linh , cả bốn người cùng căng thẳng , trố mắt chờ đợi. Rồi cánh cửa xe bus mở toang , người tài xế quay đầu nhìn ra bằng ánh mắt dửng dưng. Vân cứ đứng yên như pho tượng tại chỗ , khiến Hiếu phải đẩy lưng nàng, giục nàng bước lên. ông tài xế chỉ là một người đàn ông Canada bình thường , mặc đồng phục , tay cầm sẳn tờ giấy jo- en -phơ để trao cho khách theo thói quen. Hiếu mừng lắm , anh thở phào như trút được gánh nặng ngàn cân , nhưng phải làm bộ mắng Vân để làm vợ vui lòng :
− Mày thấy chưa , chỉ trông gà hóa cuốc . Thôi , đi làm đi ! Sáng mai về gặp lại .
Con bé Mỹ Linh hỏi nhỏ Hiếu :
− Ông này đó hả ba ? Cô Vân nói ông này là ma đó hả ba ?
Vợ Hiếu cười khẩy bảo con :
− Hứ , ông này mà cô mày bảo ma, thì mỗi ngày tao gặp đến cả trăm con ma , ma đầy đường.
Hiếu nhún vai , bảo vợ :
− Nhưng mà mình có ra tận nơi thì con Vân nhà mình nó mới hết đường chối cãi. Thôi , thế là yên chí , đi về ngủ.
Vân bước lên, tìm chỗ ngồi tuốt phía sau , nàng vừa vui mừng , vừa hồi hộp. Mắt cứ dán chặt vào lưng ông tài xế , nàng tin vào lời thầm khẩn của nàng với hồn ma ông Thọ đã khuất. ông không hiện về làm nàng kinh sợ nữa. Hy vọng từ nay , Vân thoát nạn. Dầu sao , nàng cũng sẽ làm lễ cầu siêu cho ông và đặt hình ôn gtrên chùa thường xuyên. Hành khách trên xe thưa thớt chưa tới 10 người , Vân quan sát từng khuôn mặt đàn ông , nàng an tâm thở phào nhẹ nhõm.
Dưới lề đường , chờ cho xe đóng cửa và lăn bánh , vợ chồng Hiếu mới an tâm trở về , vợ Hiếu bắt đầu lên mặt trách chồng :
− Đã nói là nó làm bộ mà anh đâu có tin , anh bây giờ chỉ tin em gái anh thôi , còn em nói cái gì anh chả tin .
Hiếu biết là Vân không tưởng tượng bởi bao nhiêu việc đã xảy ra trong nhà anh từ tối hôm qua đến giờ , nhưng anh không muốn vợ biết , nên đành phải xuống nước :
− Anh đã nói rồi , mình ra đây là để nhìn tận mắt cho nó hết cãi.
Vợ Hiếu vẫn chưa buông tha :
− Em có tiếc cái công ra đây đâu. Nhưng tức là nó nói cái gì anh cũng nghe , chuyện vô lý đến thế , anh không mắng vào mặt nó , mà lại có vẻ siêu lòng nghe theo nó.
Hiếu không nói nữa , lặng lẽ đi bên vợ con , vì anh biết có phân trần thì vợ anh cũng không tin , bởi vốn đã có thành kiến với Vân . Con bé Mỹ Linh góp ý :
− Um... Con chắc là cô Vân bị ám ảnh vì ở nhà coi tivi nhiều quá !
Vợ Hiếu bắt ngay nhận xét ấy để nhắc lại :
− Chứ còn gì nữa ! Tao đã nói rồi mà. Chỉ có mình ba mày tin là có ma chứ chuyện vô lý như thế , đứa con nít nó cũng chả nghe nữa.
Về đến nhà vợ Hiếu bước lên mở cửa , mặt vẫn còn hầm hầm. Hiếu và con gái đứng dưới sân. Con bé nó đòi Hiếu thứ bảy này chở ra Toronto dự tiệc sinh nhật con bạn.
Hiếu gật đầu bảo :
− Ừ cũng được , đằng nào ba cũng đưa cô Vân lên chùa.
Vợ Hiếu đẩy rộng cánh cửa bước vào , thò tay bật đèn, và treo xâu chìa khóa lên cái móc trên vách. Bỗng chị nhíu mày bực bội vì nghe trong phòng tắm có tiếng nước chảy , và đèn còn để sáng. Phòng tắm dưới nhà thì chỉ có mình Vân xài , như vậy trước khi đi , Vân đã quên tắt đèn và tắt nước. Chị uất ức đi nhanh vào và nghiến răng nghĩ đến sự bất cẩn của Vân để tốn tiền điện , tiền nước một cách phí phạm , nhiều lần chị đã nhắc mà bửa nay Vân vẫn quên.
Đứng trước cửa buồng tắm , chị lại càng bực hơn vì Vân chỉ quên tắt vòi nước nóng ở bồn rửa mặt , nước đã xả ra cả nữa tiếng đồng hồ nên hơi nước bốc lên mờ mịt che kín khắp phòng , chị vói tay lấy cái khăn tắm khua đi khua lại trước mắt mới thấy đường mà bước vào. Chị mò mẩm vặn chặt vòi nước nóng , rồi đưa khăn lau sạch lớp hơi nước phủ dày đặc tấm gương soi trước mặt. Chị thở phào , và ngẩng lên nhìn trong gương. Bổng chị thét lớn , buông cái khăn và ngã bật ngữa ra phía sau , té lăn vào buồng tắm là bởi vì khi nhìn vào trong gương , chị không thấy mặt mình mà chỉ thấy khuôn mặt sáp bóng loáng trắng bệch của ông Thọ.


Nguyễn Ngọc Ngạn
 
Bà Tám Bán Xôi


Chuyện này có thật.. và nó dả xảy ra với tôị...Cách dây lâu, lâu lắm, lâu lắm rồi... nếu tôi nhớ không lầm.. củng gần 18 năm.. thời gian thấm thoát như thoi dưa vậỵ. nhắm mắt một cái tôi dả trưởng thành và mở mắt một caí tôi dả trở thành một chàng trai tuấn tú rồị..thiệt là thời gian qua lẹ quá......quê tôi ở tại Bà Quẹọ. và nhà tôi thì nằm ngây con dường tránh của ngỉa trang.. lúc dó vì quá nghèo, nhà tôi chỉ dược làm bằng nhửng thân cây tre rồi lấy lá dừa dắp lên thôị. có chổ ngủ tôi nghỉ củng hạnh phúc lắm rồị. chuyện xảy ra vào khoảng tôi about 2 years old maybẻ... không hình như là một tuổi tám tháng thì phải.. umm không hình như 2 tuổị. ừ cở dó dó tôi củng hông nhớ nửạ..
lúc dó khoảng 1 giờ sáng, tất cả mọi người dang say sưa trong giấc ngủ, mơ mơ màng màng tôi bổng nhiên có cảm giác là lạ, tôi giậc mình dậy , toát mồ hôi... thì ra tui thấy mắc dáị. tôi liền vén mùng chui rạ. vì dể cho mọi người trong nhà yên giấc.. nên tôi chỉ di nhè nhẹ , nhè nhẹ ra sau nhà....dằng sau nhà là nhưng cây dừa trụi lá.. tại ba tôi sang bằng hết dể làm nhà.. thành ra nhửng cây dừa vòng vòng nhà tôi diều trụi lá hết.. và sau nhửng cây dừa là một con kinh nhỏ, dưới ánh trăng lờ mờ, tôi có thể nhìn thấy nhửng caí mồ nằm sừng sửng, cái này nối caí kiạ...với tiếng kêu của cắc kè, ểnh ương, và nhửng tiếng của thú lạ, thỉnh thoảng một cơn gió lạnh lướt qua làm tôi lạnh cả ngườị.. dang dái phê phê, bổng nhiên tôi nghe tiếng ai kêu tôi" này Mario " tôi giậc mình quay lại, vì tối qua tôi không biết aị. sau khi cố mở mắt thì tôi mới nhận ra dó là bà Tám bán xôi ở dâù hẻm ,.... bà dả dứng sau lưng tôi tự bao giờ, tóc bà trắng phợ. xù xù lên, hình như là bà chưa chảy dầụ. mặt thì hơi xanh xanh vì, chắc tại bà chưa make up.. tại tối quá tôi củng không nhìn rỏ lắm... bà hỏi tôị. "Mario, sau giờ này chưa ngủ nủa mà còn dứng dây làm bậy ??" tôi liền cười bảo: thiệt không dây bà Tám? Con dang dái mà, con có làm gì dâu mà bậỷ. bà Tám liền nói: thiệt saỏ, bà Tám thấy con dứng dó dọc dọc thằng nhỏ bà tưởng con làm bậy... tôi liền nói: ồ thì ra là vậy.. tôi hỏi lại bà: sao bà Tám chưa ngủ mà lang thang làm gì vậỷ bà nói: Bà ngủ không dược mới di vòng vòng chơi thôị.. lời qua tiếng lại với bà xong, bà Tám bảo, thôi bà phải di rồị. cháu vào ngủ dị.. tôi liền dạ chào bà, xong rồi quay lưng bước vô, dang tính di vô nhà... tôi chợt nhớ chuyện gì tính quay lại hỏi bà,.. nhưng tôi chợt bàng hoàng dứng chết chân..... dưới bóng cây dừa bà laỏ dang lơ lẩng cách mặt dất khoảng 2 feet... và bà dang hướng về nghỉa dịa.. maí tóc trắng phơ dang bay trong gió.... bà còn quay caí dầu lại nhìn tôi nói " buh bye Mario hehehe" thiệt là ghê wá.... bà không cần phải quay lưng lại, mà quay caí dâù dược à?? còn cười nửa.?? giọng cười bà làm tôi rùng mình.... trong giây phút bàng hoàng này tôi chợt nhớ ra rằng bà Tám dả chết cách dây ba ngày rồi..... lấy can dảm cuối cùng còn lại, tôi ráng nhất giò chạy thẳng vô nhà, nhưng không may cho tôị. vì trời wá tôí thành ra không tháy rỏ.. tôi dụng cột nhà làm cái nhà xập xuống... tôi dang lai hoai dựng cái nhà lên lại.. thì có tiếng bên dưới nhửng lá dừa hỏi vọng lên.. " dứa nào làm sập nhà dó bây "? thì ra là tiếng má tôị.. tôi liền nói lại " con dây má ơi" con là aỉ má tôi hỏi.. con là Mario nè... thế là dêm dó cả nhà tôi phải thức dậy hết.. thức dậy dể dựng lại mái nhà tranh... mải tới nay, mổi lần di tiểu, tôi thường có cảm gíac bà Tám dứng sau lưng tôị. mặc dù hiện giờ tôi dang ở trong cảnh sang giàu tại Campuchiạ. nhưng caí dêm hôm dó cứ còn mải trong dâù tôị. như nó mới xảy ra ngày hôm qua vậy...
 
Ba Chàng Sinh Viên Trong Căn Nhà Ma


Thưa các bạn vụ án ma quái: "TÔI BỊ TAI HỌẠ.." coi như đã kết thúc.

Vì anh Minh Nguyễn ra đi qúa đột ngột, chúng tôi đã không làm gì kịp để cứu ảnh. Thành thật chi a buồn (Nếu các bạn có lời an ủi thì xin gởi về cho cô Mỵ Lan)

Nhưng không vì vậy mà chúng tôi nản chí. chúng tôi vẫn tiếp tục điều tra thêm những vụ án khác.


Diều-tra-viên "000000" tui vừa mới điều tra xong một vụ án ma quái nữạ Vụ án này có tên là " BA CHÀNG SINH VIÊN TRONG NGÔI NHÀ MA".

Hiện giờ tôi đang chuẩn bị bản tường trình cho vụ án mới nàỵ Các bạn có yêu cầu một "format" đặc biệt nào cho bản tường trình này thi xin đề nghị Tôi phải trình bày bảng tường trình như thế nàọ Hình ảnh, tang chứng... chúng ta có nên đưa ra cho bạn đọc cùng xem hay là không? v.v

Mong các bạn góp ý

Ghost story 1
Truyện này viết theo lời kể của một vị sỹ quan thuộc sư đoàn 21 BB, Quân Lực VNCH. Sự việc này xảy ra tại xã Phú Hữu, quận Phong Thuận , tỉnh Cần Thơ vào một đêm cuối mùa Thu năm 1974.
Tôi xin ghi chú một vài danh từ được dùng trong bài viết, vì có thể một số bạn không hiểu nghĩa của các từ này.
_ Ông thày: lính và hạ sỹ quan dùng danh từ này để gọi cấp chỉ huy của họ (thường là hàng Sỹ Quan).
_ Ngọn : nơi phát xuất con sông.
_ Vàm: nơi con sông đổ vào con sông khác lớn hơn, hay chổ con sông đổ ra biển.
_ Lều poncho : lều căng bằng áo mưa của lính (gọi theo tiếng Mỹ)
_Ta lọt: người lính được cắt đặt để lo việc cơm nước và chổ ngủ cho cấp chỉ huy của anh ta.
_ Quán cóc: Quán nhỏ bên đường hay cạnh các bờ sông , thường bán cà fê hay đồ nhậu.
_Cát Tê : là một loại bài mà con lớn hơn thì thắng con nhỏ hơn nếu trong cùng một nước bài ( thí dụ con già Bích thì ăn con bồi Bích ).
_ Đi tiền đồn: đi kích ở một vị trí trong vùng địch , thường là do một tiểu đội hay một trung đội đảm trách. Thường được coi là nhiệm vụ nguy hiểm.




Lúc đó tôi là một sỹ quan trẻ, giữ chức vụ đại đội phó cho một đại đội tác chiến của sư đoàn 21 bộ binh! Vào một ngày cuối mùa Thu năm 1974, tiểu đoàn tôi được lệnh tấn công vào một vị trí cố thủ của một tiểu đoàn địch trong "ngọn" Rạch Muỗi ! Sau một ngày ác chiến kịch liệt, chúng tôi vẫn chưa chiếm được mục tiêu! Đơn vị chúng tôi được lệnh rút ra ngoài "vàm" để nghỉ qua đêm, đồng thời tảI thương và đợi nhận thêm tiếp tế để sửa soạn cho cuộc tấn côngmới vào ngày hôm sau.
Trực thăng xuống tải thương nhưng không còn chổ nên xác của một binh sỹ tử trận đành phải bỏ lại để chờ được di chuyển bằng tàu tiếp tế vào ngày mai! Thế là ngoài việc canh gác bên ngoài, chúng tôi phải cắt thêm người trông chừng cái xác chết được đặt trên bộ ván ngựa trong căn nhà lá bỏ hoang gần đó!
Dưới ngọn đèn dầu mù mờ trên chiếc bàn vuông giữa nhà, bốn chúng tôi ngồi đánh bài Cát Tê để giết thì giờ! Tôi ngồi quay lưng lại bộ ván ngựa còn ba người kia ở vị thế có thể nhìn thấy cái tử thi !
Đến quá nửa đêm, người ngồi đối diện tôi bổng đứng dậy nói buồn đi cầu rồi bước ra không thấy trở lại. Chừng mười lăm phút sau, người bên trái tôi cũng đứng lên nói là đi tiểu rồi mất tăm luôn
! Năm phút sau, người bên phải tôi cũng rời bàn nói là ra ngoài hit' thở chút không khí trong mát ngoài trời và cũng chẳng thấy tăm hơi đâu !
Tôi ngồi chờ bọn họ trở lại, nhưng mắt tôi díu lại vì buồn ngủ ! Tôi đứng dậy mở cửa bước ra ngoài, rồi tiện tay kéo đóng cánh cửa lại.
Ngay lúc đó tôi nghe một tiếng "BỊCH" phía trong nhà ! Hơi ngạc nhiên vì tôi là người cuối cùng ra khỏi nhà , nhưng tôi nghĩ có lẽ chiếc ba lô treo trên vách rớt xuống đất nên cứ một mạch đến cái "lều poncho" mà người "tà lọt" đã căng sẵn cho tôi. Quá buồn ngủ tôi làm một giấc tới sáng, tôi chỉ tỉnh dậy khi tiếng ồn ào của các người lính khiêng đồ tiếp tế lên từ tàu.
Tôi đợi khi tất cả đồ tiếp liệu được khuân lên hết rồi mới gọi mấy anh lính theo tôi lên chiếc nhà lá để khiêng cái xác xuống tàu. Tôi đẩy cửa vào nhưng có vật gì cản phía trong ! Một anh lính phụ tôi đẩy mạnh cánh cửa. Tôi nhảy bật ra ngoài vì cái vật cản cái cánh cửa lại chính là cái xác chết mà chúng tôi đã đặt trên bộ ván !! Lấy lại bình tỉnh tôi la lớn:

_ (DM) Thằng nào chơi trò này ! Tao mà biết tao đá cho lọi giò luôn ! (DM) tới người chết mà tụi mày chẳng tha nữa hả !!!

Không một ai lên tiếng! Cuoíi cùng rồi thì cái xác cũng được mang xuống tàu chở về bệnh viện tỉnh Cần Thơ để chờ thân nhân đến lãnh về mai táng !!
Suốt mấy tháng trời tôi vẫn để tâm theo dõi xem tên nào chơi trò nghịch ngợm đó, nhưng không sao tìm ra manh mối ! Cho đến một ngày kia, tình cờ tôi và ba người canh xác bữa đó ngồi nhậu cùng nhau trong một "quán cóc" bên đường. Sau vài xị tôi mới nhắc lại sự việc xảy ra đêm hôm đó. Lúc này người bỏ đi đầu tiên mới rụt rè lên tiếng:
_ Tui nói thiệt với "ông thày" chứ bữa đó tui sợ muốn té đái ra quần luôn vậy đó !!
_ Sao vậy ?! Tôi hỏi với giọng nhạc nhiên!
_ Không biết bữa đó tui có bị hoa mắt hông! Chứ thiệt tình thì tui thấy cái xác chết dơ tay lên để tay xuống mấy lần ở trên bộ ngựa! Tui sợ quá phải nói dóc là đi cầu để trốn ra ngoài! Tui sợ bị cười là nhát nên không dám nói cho ai biết về chuyện này hết !!

Đến đây người bỏ ra thứ nhì đằng hắng rồi lên tiếng:
_ Tui cũng thấy y chang như vậy đó ! Lúc đầu tui nghĩ là do buồn ngủ quá nên mờ mắt. Tui thấy nó dơ tay lên bỏ tay xuống tới mấy lần lận ! Trong bụng tui niệm Phật liên hồi ! Nhưng vẫn còn run , tui phải viện cớ để chuồn ra ngoài rồi không dám trở vô nữa ! Thiệt ra tui đâu có dám ngủ đâu! Chỉ sợ nó bò ra chổ tui thì chắc chết luôn quá !
Lúc này người thứ ba cũng phụ họa:
_ Tui thề với Trời Phật là bữa đó tui cũng thấy rỏ ràng là nó ngồi lên rồi nằm xuống hai lần ! Tui sợ muốn đứng tim luôn! Nhưng mang tiếng là lính mà chạy ra kêu là bị ma nhát thì thiên hạ cười chết! Tui đành lủi lẹ ra ngoài luôn! Sở dĩ tui không nói cho "ông thày" biết là vì tui nghĩ ông có đạo (Thiên Chúa) nên nó không nhát ông. Nó chỉ nhát tụi tui thôi! Lúc đó tui nghĩ là nó chỉ nhát một mình tui thôi, ai dè nó nhát luôn cả hai người này nữa !! Bây giờ nghĩ lại tui vẫn thấy nổi da gà !!
Tởn tới già luôn! Tui không bao giờ dám lãnh cái việc coi xác chết nữa đâu! Lần sau ông có đày tui đi "tiền đồn" một tháng thì cũng đành chịu thôi ! Xin "ông thày" tha cho cái việc đó đi !
Qua lời họ tôi suy ra cái tiếng động mà tôi nghe đêm hôm đó không phải là do cái ba lô rớt xuống mà là do cái xác chết ngã xuống (khi đuổi theo tôi) vì va vào cái cánh cửa do tôi vô tình kéo đóng lại khi bước ra ! Tôi cũng rởn tóc gáy khi nghĩ việc gì đã xảy ra nếu như tôi không đóng cái cửa lại!! Có lẽ cái tử thi đó đã chụp được tôi từ phía sau lưng rồi !! Thật là hú hồn !!!


(Chuyện này của Tam Tang. Tui lấy cho các bạn đọc dỡ buồn. Nếu được xin các bạn phân tích hoặc giải thích hiện tượng này)

Hello,
Phần cuối cùng làm tui hơi rợn tóc gáy một chút. Theo tui nghĩ thì có lẽ mấy người thức đêm canh buồn ngủ bị hoa mắt, hoặc họ ở trong trạng thái nửa tỉnh nửa mê, họ nghĩ là tử thi cử động cho nên nó... cử động thiệt.

Còn phần tử thi tại sao lại đi theo người cuối cùng thì tui nghĩ chắc lúc đó có con mèo nhảy qua xác chết truyền điện vào xác chết làm xác chết đứng dậỵ Tình cờ lúc đó người cuối cùng đứng dậy đi ra ngoài, xác chết bị hút theo cử động của người nàỵ Cũng may người này tiện tay kéo cửa lại, không sẽ bị xác chết đi theo cho tới khi nó hết điện trong ngườị

Có người đã bị chết vì người chết đứng dậy đi nàỵ Mèo nhảy qua, người chết bật đứng dậy, người canh xác chết sợ quá bỏ chạỵ Điện trong người sống hút theo người chết làm người chết... rượt theọ Chạy một hồi người sống vấp té, người chết chạy tới vướng vào rồi té đè lên ngườị Người sống kinh khủng quá, đứng tim... thành người chết luôn.

Nhân đọc chuyện ma quái, tui xin góp ý một chuyện... có thiệt qua lời kể lại của người anh:

Bạn của anh tui đi buôn lậu bằng xe lửa từ Sàigòn ra miền Trung, tạm gọi anh T.. Xe lửa ở VN chật chội, rất hầm, cho nên có một số người leo lên mui nằm dài ra ngủ.

Lúc đang ngủ anh T. tự nhiên nghe tiếng gọi í ới "Tới rồi, tới rồi!". Ảnh bật ngồi dậy và va vào vách đá của đường hầm - xe lửa sửa soạn đi vào đường hầm. Bị va vào đầu, anh T. văng té xuống đất ngất xỉụ

Người gác nơi cổng xe lửa đi kiểm tra nghe được tiếng rên rỉ của anh T.. Ông ta tới chỗ anh T. nằm, anh kể lại sự kiện và hỏi xin miếng nước. Người gác đi về nhà lấy nước uống, khi trở lại chỗ anh T. thì anh đã chết rồi!

Người ta báo tin về gia đình. Khi anh của anh T. lên nhận xác để đem chôn, người gác cổng xe lửa kể lại rằng khúc này rất nhiều người bị chết vì... nghe tiếng gọi tới rồi đúng ngay lúc xe lửa bắt đầu đi vào đường hầm.

Các bạn có nghĩ rằng người đã chết rồi muốn đi đầu thai, nên đánh thức người sống đang ngủ dậy để chết thế mạng không? Hm, số anh T. đáng lẽ chưa chết nếu VN kỹ thuật tân tiến chẳng hạn như có điện thoại gọi xe cấp cứu như 911 bên Mỹ vậỵ Nếu vậy thì... chẳng có chuyện kể hôm nay, phải không?
 
Ông vác thùng 1
Tác giả: Tam Tang

Đơn Dương là một quận lỵ thuộc tỉnh Tuyên Đức . Nó chỉ cách Thành Phố Đà Lạt khoảng vài chục cây số về phía Bắc ! Người ta thường chỉ biết đến tên Đà Lạt mà quên luôn cái tên của cái tỉnh cưu mang nó, cho nên không lạ gì ít ai biết đến cái tên tỉnh Tuyên Đức hay tên các quận lỵ chung quanh TP Đà Lạt!

Đơn Dương cũng nằm trong trường hợp này! Mặc dù Đơn Dương cũng có các địa danh nổi tiếng như Hồ và Đập Đa Nhim mà ít người VN nào không biết đến! Thật tình mà nói thì Đơn Dương là một nơi hơi đèo heo, hoang vắng! Người lập nghiệp ở đây thường là các làng định cư từ Bắc di cư vào năm 54, cũng có những buôn làng của người dân tộc sống rải rác trong vùng! Dân ở đây sống bằng nghề trồng cây công nghiệp như trà, cafe, hay trồng rau như các dân vùng khác ở tỉnh lỵ cao nguyên này!


Cuộc sống ở đây rất bình lặng! Mọi người sáng sáng ra rẫy tưới rau, làm cỏ... Một số đàn ông chuyên chở rau lên tỉnh bỏ mối cho bọn con buôn để họ chở đi các tỉnh khác! Đời sống sung túc và êm đềm này cứ thế trôi qua! Cảnh sát ở đây không phải điên đầu vì các tội phạm như các vùng dân cư đông đúc khác! Sáng nghe tiếng chuông nhà thờ đổ là lúc người người thức giấc sửa soạn cho một ngày mới . Chiều về khi tiếng chuông Chùa chậm chậm gỏ nhịp là lúc mọi người dọn dẹp để trở về mái ấm gia đình! Ở cái quận bé nhỏ này hầu như mọi người đều biết nhau! Chuyện nhỏ chuyện to ai ai cũng biết hết! Cái phố chính của nó nằm trên con lộ lớn độc nhất của quận . Dẫy phố này là khu buôn bán chính, cái chợ nhà lồng nằm chéo trước văn phòng quận trưởng là nơi gặp gỡ hàng ngày của người dân vùng này. Và mọi chuyện xảy ra trong quận đều được thông truyền qua miệng của các bà từ các buổi họp chợ hàng ngày tại đây!


Một ngày cuối Thu năm 1968, người trong phố bổng nhôn nhao vì một người đàn ông lạ ! Họ thì thầm to mhỏ, tò mò theo bước ông ta! Bọn con nit' kéo nhau cả bầy cách sau lưng ông chừng vài chục bước mỗi khi thấy dáng ông này! Họ tò mò cũng đúng thôi! Người đàn ông lạ mặt này có lẽ từ vùng xa đến đây lập nghiệp, vì không ai ở đây từng biết ông ta cả ! Ông ấy chừng độ 50, dáng vóc cao lớn khỏe mạnh, tóc luôn cắt ngắn gọn gàng và đã điểm màu muối tiêu! Gương mặt trông rất hiền hậu, tuy thế ít ai nghe ông ta nói hay cười . Chỉ khi ông ta mua hay bán gì thì mới nghe được tiếng của ông thôi! Giọng ông rất ấm cúng, lễ phép, và từ tốn! Tất cả các đức tính, mà người ta mong có ở một người đàn ông, đều thể hiện ở ông ta!


Thế thì điều gì đã làm người ta xì xào bàn tán về ông! Đó là cái thùng gỗ ông luôn vác theo trên vai trên vai trái! Cái thùng gỗ như loại thùng đựng rượu thời Pháp (bên Mỹ ta gọi là barrel!) Cái thùng gọn nhỏ và có vẻ tao nhả! Có lẽ nó được làm bằng loại gỗ tốt và nhẹ! Đi đâu ông cũng vác theo không bao giờ bỏ rời xuống đất cả ! Một tay luôn giữ lấy vành thùng như sợ nó vuột rơi xuống ! Người thì cho là ông ta cất giấu tiền, vàng trong đó! Người cho là giấy tờ hồ sơ quan trọng v.v. và v.v. Nhưng không ai biết được là cái gì trong cái thùng đó cả ! Càng không biết thì càng làm cho người ta tò mò tìm tòi ! Có một điều họ biết được là ông ta mua một căn nhà khá khang trang ở cách thị trấn chừng năm cây số! Chung quanh có chừng một mẫu cafe, và một nửa sào đất gần ven suối mà ông ta dùng để trồng trọt hoa màu . Cứ cuối tuần ông chở rau ra chợ bỏ mối, mua các vật dụng và thức ăn rồi về! Thỉnh thoảng người ta cũng thấy ông ghé vào quán ngồi nhâm nhi vài ly rượu thuốc trước khi ra về!




Riết rồi người ta cũng bớt để ý tới người đàn ông này! Vì không biết cả tên ông ta, nên họ đặt cho ông cái bí danh là "ông vác thùng!" Bọn con nít cũng không kéo đuôi theo ông nhiều như trước nữa ! Cuộc sống lại bình thản trôi đi như cũ cho đến một hôm người ta ngạc nhiên khi thấy "ông vác thùng" mặt mày đỏ ké như say rượu, gương mặt hiền hậu biến đâu mất thay vào đó là vẻ đanh ác, và cặp mắt đỏ ngầu như muốn nuốt tươi kẻ đối diện ! Ông ta đi khệnh khạng trên con lộ chính, miệng lẩm bẩm chửi rủa bọn con nít kéo bầy sau lưng! Lâu lâu ông đứng lại quát tháo bọn nhỏ và còn quay lại rượt bắt chúng! Bọn con nít cuống quít quay ngược lại chạy, miệng la hét bải hoải! Thế mà khi ông ta quay lưng tiếp tục đi thì chúng lại lò mò kéo theo phía sau! Nhưng tuần sau người ta lại thấy ông ta hiền lành như cũ! Thỉnh thoảng lại thấy ông ta lên cơn đổi tánh! Bọn con nít tuy nhỏ nhưng tinh ý lắm! Chúng để ý rồi kháo nhau là chúng biết khi nào ông ta đổi tính! Người lớn hỏi chúng cười láu lỉnh rồi nói "Dễ thôi! Hôm nào ông ta vác cái thùng trên vai phải là hôm đó ông ta lên cơn!" Bọn người lớn không tin lắm nhưng cũng để ý xem chừng coi có đúng như lời bọn trẻ không!


Thứ Bảy tuần đó "ông vác thùng" lại đang la lối rượt đuổi bọn con nít, người ta chạy ra xem và đúng như lời bọn trẻ! Ông ấy đang vác cái thùng trên vai phải! Bọn con nít thế mà hay! Nhưng có một điều là tuy ông ta có lên cơn đi nữa nhưng hình như ông vẫn có cái gì kềm chế nên không gây gỗ, hoặc gây thương tích cho ai cả ! Ông có rượt bọn nhỏ đó, nhưng cũng là lỗi ở chúng phần lớn vì chúng kéo theo sau ông và nhiều đứa buông lời chọc ghẹo ông mà!


Có một điều lạ là dù đi ra phố hay làm ở rẫy người ta đều thấy ông ta vác theo cái thùng cây đó! Người ta đoán chắc phải có vật gì quí báu lắm đến nỗi ông ta phải vác kè kè bên mình! Có người để ý dòm ngó vào nhà ông, nhưng chẳng khám phá ra điều gì! Vì nhà lúc nào cũng đóng kín cửa, còn cửa sổ thì bằng kính có màn che bên trong! Mỗi khi thấy ông ra ngoài cái thùng đã ở trên vai rồi ! Ông ta sống một mình trong căn nhà đó, nên có muốn tìm hiểu cũng không ai biết tìm ra người mà tra! Sự tò mò rồi cũng phôi pha đi! Họ chỉ biết là "ông vác thùng" có một điều gì bí mật mà họ không thể khám phá ra được!



Thấm thoát hai năm đã trôi qua! Cuộc sống vẫn êm đềm trên vùng cao nguyên mờ sương này! Cả hai tuần nay không ai thấy "ông vác thùng" ra chợ , người ta xì xào hỏi thăm nhau. Nhưng không ai biết gì hơn! Mấy người làm rẫy gần nhà ông ta cũng lắc đầu nói không thấy ông ra tưới rau, bắt sâu cả tuần rồi! Mấy hôm sau họ báo cho ông trưởng cuộc cảnh sát ở quận và yêu cầu ông ta cho nhân viên tới xem coi có việc gì bất trắc đã xẩy cho "ông vác thùng" chăng ! Có người bạo miệng nói có lẽ bọn cướp nào đó nghe đồn về ông đã lẻn vào nhà giết ông ta để cướp cái thùng báu vật !



Khi hai nhân viên cảnh sát đến nhà gỏ cửa thì chẳng có tiếng trả lời! Họ gọi về văn phòng quận báo cáo và xin lệnh . Ông cuộc trưởng nghi là có sự cố xảy ra bên trong nên ra lệnh cho họ phá cửa vào ! Họ tông cửa vào và thấy ông ta nằm mê man trên giường. Cái thùng gỗ vẫn nằm sát bên tai trái! Họ lay ông dậy, nhưng ông ta vẫn như nửa tỉnh nửa mơ, họ lấy khăn ướt lau cho mặt cho ông! Mặt ông nóng hừng hực! Ông ta đang lên cơn sốt nặng! Da cổ rướm máu ở mấy lổ chân lông! Ông ta bị sốt xuất huyết rồi! Bệnh này không trị kịp thời thì toi mạng như chơi! Họ gọi về xin xe cứu thương chở bệnh nhân ra bệnh viện tỉnh vì ở quận không có đủ phương tiện và thuốc chữa bệnh này!



Khi xe đến y tá vào kè ông ta ra, ông ngồi dậy nhưng vẫn vác theo cái thùng cây! Họ nói gì đi nữa ông ta vẫn khăng khăng không chịu buông tay ra khỏi cái thùng! Đành chiều theo ông vậy! Họ chở "ông vác thùng" ra bệnh viện tỉnh để điều trị! Mấy ông cảnh sát sau khi nêm phong cái nhà đó quay về quận nói cho mấy người hiếu kỳ biết về tình trạng của ông ta và thêm vào "Tôi nghĩ ông ta không qua khỏi con trăng này quá! Cái bệnh này giết chết bao nhiêu người rồi ! Ông ta bị nặng quá rồi mà không ai hay để mang đi nhà thương sớm! Bây giờ tôi nghĩ là quá trể rồi!" Anh cảnh sát thứ hai chêm thêm "Mà cái người gì kỳ cục ghê ! Chết tới nơi rồi mà vẫn nằng nặc khiêng theo cái thùng! Chết rồi biết còn mang theo được của cải xuống dưới đó không mà còn tiếc của ! Thiệt là hết nói mà!"




Hôm sau tin từ bệnh viện tỉnh báo về là "ông vác thùng" đã chết vì bệnh đã phát quá nặng ở thời kỳ cuối cùng rồi! Không thể cứu được! Và kèm theo đó là một tin khủng khiếp làm bàng hoàng tất cả mọi người trong cái quận Đơn Dương nhỏ bé này! "Ông vác thùng" có "HAI CÁI ĐẦU!" Cái bên trái ông ta che đậy nó bằng cái thùng cây! Cái tin này làm mọi người bàng hoàng bàn tán xôn xao! Một việc chưa từng xảy ra tại miền heo hút này! Ông cuộc trưởng cảnh sát cùng vài nhân viên và y tá lên tỉnh nhận xác ông ta về để khâm liệm và chôn cất vì "ông vác thùng" độc thân độc mã ở cái xứ này và không ai biết thân nhân của ông ở đâu cả ! Người ta tụ tập lại trước nhà xác của bệnh viện quận để xem! Tin dữ đồn xa! Người từ dưới Đà Lạt lên, kẻ ở Lâm Đồng đến, ngay cả một số dân Saigon cũng có mặt để nhìn xem người dị tướng hai đầu, dù bây giờ ông ta chỉ là cái thây ma chết cứng thôi! Người đi nườn nượt hơn cả hội chợ Tết ! Tuy thế cảnh sát không cho ai vào bên trong cả chỉ có nhừng người có trách nhiệm được phép vào làm công việc tẩm liệm mà thôi!



Rồi chuyện cũng được xì xầm ra ngoài! Mấy người liệm xác nói là "ông vác thùng" đúng là có hai đầu thật! Cái bên phải trông hiền lành phúc hậu, còn cái bên trái trông có vẻ hơi hung ác! Tuy ông có hai đầu nhưng chỉ có một thân mình, với hai chân hai tay chứ không phải như các trường hợp hai người sinh dính vào nhau như ta thường thấy! Cảnh sát đến nhà ông để làm biên bản kiểm kê tài sản và niêm phong nhà của ông! Lỡ có thân nhân ông đến thì sẽ giao cho họ! Trong khi kiểm kê, một cảnh sát viên thấy cuốn nhật ký trong ngăn kéo bàn viết! Anh ta mang về trao cho ông cuộc trưởng, và có mấy đoạn trong cuốn nhật ký nói về thân phận của "ông vác thùng!"
 
Ông vác thùng 2

****** Sau đây là mấy đoạn do chính "ông vác thùng" viết trong nhật ký ******


"Kiếp trước chắc tôi làm nhiều việc ác nên khi sinh ra trong kiếp này tôi đã phải gánh chịu lấy tội tình! Mà hình phạt Phật Trời giáng xuống cho tôi là một hình phạt quá nặng nề _ Tôi một quái nhân hai đầu!!_ Bố mẹ tôi xấu hổ vì tôi nên giấu kín tôi trong nhà suốt thời thơ ấu! Cha mẹ tôi là người giàu có và danh giá ở quận Vĩnh Châu, tỉnh Bạc Liêu cho nên việc bảo vệ danh tiếng cho gia đình là trọng! Sự việc tôi có hai đầu chỉ có người trong đình là rỏ thôi, cũng có một người lạ biết: đó là bà mụ đở đẻ cho mẹ tôi tại nhà! Nhưng bố mẹ tôi đã cho bà ta một số tiền rất lớn để bịt miệng bà này!



Mẹ tôi tự dạy tôi đọc, viết, và toán pháp ở nhà nên tôi không biết trường học là gì cả! Tôi cũng không có tuổi thơ như những trẻ bình thường khác! Trong lúc bọn trẻ chạy chơi la hét xôn xao ngoài đường thì tôi thui thủi một mình trong nhà kín! Không có bạn bè tôi chỉ còn cách là tự nói chuyện với tôi cho đỡ cô độc! Tôi có hai cái đầu mà! Tôi tuy một mà hai, tuy hai mà một!

...

Trong chúng ta luôn có hai con người một hiền và một dữ luôn đánh vật với nhau! Và đa số chúng ta, con người hiền mà chúng ta gọi là lương tâm thường thắng, còn con người ác mà ta gọi là tà tâm hay mặt trái thường thua! Nên trên đời này ta thấy người lương thiện nhiều hơn kẻ bất nhân! Dù hiền hay ác đi nữa thì ở người bình thường ta vẫn có thể che dấu đi cái thực chất của mình! Cho nên mới có lắm kẻ bị người khác lừa lọc qua cái bộ dạng bên ngoài của họ!


Còn tôi cái thiện cái ác nó thể hiện rỏ ràng ở mỗi cái đầu của tôi! Cái bên phải thì toàn thiện, cái bên trái thể hiện cái tà tâm của tôi! Có những lúc ta thường tự nhủ hay bị lương tâm cắn rứt! Đó là lúc cái thiện và cái ác dằn vặt lẫn nhau, thường thì người khác không thấy được điều gì ta nghĩ trong đầu! Tôi cũng vậy, nhưng khác mọi người là thay vì suy nghĩ việc mình làm trong một đầu thì hai cái đầu tôi luôn cãi vả tranh biện cho sự suy nghĩ của mình! Tôi như một mà hai vậy! Giống như hai anh em song sinh, tuy có nhiều điểm giống nhau, có nhiều linh cảm cho nhau, và có thể hiểu phần nào sự suy nghĩ của nhau. Nhưng họ vẫn là hai cá nhân riêng biệt! Hai cái đầu tôi cũng giống như vậy! Cái thiện không biết hết cái xấu đang nghĩ gì và ngược lại!



Tôi biết bố mẹ tôi rất đau khổ vì "chúng tôi!" Đau khổ cho chính họ và cho chính tôi nữa! Họ cũng biết rỏ là tâm tính tôi thể hiện rỏ rệt qua hai cái đầu của tôi, và mừng vì cái thiện của tôi thường thắng thế và khuất phục được cái ác! Bố mẹ tôi không giám sinh thêm một đứa con nào nữa! Thế nên tôi là con độc nhất trong nhà! Gia đình tôi là chủ một vườn nhản cả 20 mẫu tây! Của ăn của để từ đời cha ông để lại làm cho gia đình tôi càng ngày càng giàu có hơn!

...

Đến khi tôi được 15 tuổi, tôi chán ngấy cái cảnh tù túng trong nhà, tôi đòi ra ngoài chơi! Bố mẹ tôi nhất định không bằng lòng! Riết rồi tôi phải hăm là sẽ trốn ra ngoài nếu có dịp! Bố mẹ tôi chẳng còn cách nào hơn phải cho phép tôi ra ngoài chơi nhưng với một điều kiện: Phải đội một cái thùng lên cái đầu thừa và không được gây điều gì khuấy động ở ngoài đường! Tôi đồng ý và hai đầu tôi thảo luận, cuối cùng để khỏi vi phạm điều đã hứa với bố mẹ cái đầu ác đồng ý là nó sẽ đội cái thùng đó mỗi khi tôi ra ngoài chơi! Và cái đầu thiện của tôi sẽ kể những gì nó thấy cho cái đầu ác khi tôi về nhà!


Ngày đầu tiên ra ngoài, tôi chỉ đi loanh quanh gần nhà thôi, tay trái tôi luôn giữ cái vành thùng cứ sợ nó rơi xuống đất để lộ ra cái đầu thừa của mình! Tuy là con của một chủ đồn điền nổi tiếng trong vùng nhưng mọi người trong vùng này chẳng hề biết tôi! Từ bé đến giờ tôi chỉ trốn rúc trong nhà mà! Người lớn xì xào chỉ chỏ khi lần đầu thấy tôi! Còn bọn trẻ không biết từ đâu ra kéo cả dọc sau lưng tôi ra điều lạ lùng lắm! Mà cũng chẳng trách họ được, vùng này ai ai cũng biết mặt nhau, còn tôi là kẻ lạ mặt và lại luôn vác theo trên vai cái thùng cây thì hỏi ai mà chẳng tò mò! Sau lần đi chơi đầu tiên đó tôi xấu hổ và ở trong nhà cả tháng không giám ra nữa!


Nhưng rồi sự quyến rũ bên ngoài quá mạnh, tôi lại đi chơi nhiều lần! Riết rồi quen đi, tôi không để ý đến lời chọc ghẹo của bọn trẻ và bỏ qua những ánh mắt cùng lời xì xào của bọn người lớn trong vùng! Điều này không phải là dễ, vì tuy không thấy được nhưng cái đầu ác của tôi vẫn nghe được những câu không hay về tôi! Nó giận dữ lắm ! Nhưng nhớ lời hứa với bố mẹ mà nó phải lặng câm như hến! Mồi khi đi chơi về nhà, hai cái đầu tôi lại tranh cãi nhau kịch liệt! Đầu thiện rồi cũng khuyên được cái ác là muốn có được cái mình muốn thì phải hy sinh thôi! Nhưng nhiều luc' nó vẫn phản kháng, la toáng lên ở ngoài đường! Tôi phải thò tay phải vào thùng mà bịt miệng nó lại để khỏi bị lộ ra chân tướng của mình! Người ngoài tưởng tôi thò tay vào xem của báu của tôi vẫn còn bên trong hay không!

...

Cuộc đời tôi cứ lặng lẽ trôi đi! Tôi không hề quen biết một người phụ nữ nào ngoại trừ mẹ tôi! Có ai mà giám làm bạn với một tên quái nhân hai đầu như tôi chứ! Tôi đau khổ chấp nhận sự đơn độc của mình! Nhiều lần tôi cầu được chết đi, hay có ý định tự tử cho xong cái đời khổ đau của mình! Nhưng tôi không thể nào thực hiện được điều mà tôi toan tính! Thôi thì cứ sống cho qua kiếp này! Hy vọng tôi đã chịu phạt đủ cho tôi tôi kiếp trước và mong kiếp sau tôi không chịu cảnh này! Nhưng cái Tết Mậu Thân oan nghiệt đã thay đổi cả những dự định của tôi! Năm đó tôi vừa tròn 50! Bố mẹ tôi về tỉnh Bạc Liêu ngày 30 Tết, dự định là Mồng Một đi chúc tết các vị quan lại trong Dinh Tỉnh Trưởng ở đường Công Lý, sau sẽ đến nhà bà con, bạn bè vui xuân và sẽ trở về lại nhà ngày Mồng Hai! Đêm Mồng Một CS pháo kích và tổng tấn công vào tỉnh lỵ! Khói lửa máu xương đổ tràn khắp nơi! Cả hai tuần sau tôi mới biết tin bố mẹ tôi đã chết vì đạn pháo kích của CS! Tôi khóc suốt cả tuần và lo lắng cho cuộc sống trong tương lai của mình ! Xưa nay tôi chỉ sống dựa vào bố mẹ, nay họ không còn tôi sẽ ra sao đây! Tôi suy đi tính lại trong mấy ngày rồi đi đến một quyết định cho cuộc đời mình!

...



Sau khi chôn cất bố mẹ xong! Tôi nhờ người bán hết nhà cửa, vườn đất, rồi tặng hầu hết số tiền bán được cho các hội từ thiện! Tôi giữ lại một số đủ cho tôi lập nghiệp ở một vùng xa lạ nào đó! Tôi đã chọn Đơn Dương làm chổ trú thân cho quảng đời còn lại của mình! Và mùa Thu năm 1968 tôi đã tới đây mua một căn nhà có một mẫu cafe và mảnh đất nhỏ để trồng hoa màu! Tôi học cách trồng tiả và tập cuốc xới làm vườn! Tuy tôi vẫn gặp sự tò mò của người trong quận và sự chọc ghẹo của bọn con nít! Tôi vẫn giữ thái độ từ tốn của mình và rồi họ để tôi yên!


Nhưng cái đầu ác của tôi nổi dậy! Nó nói là bị đàn áp quá lâu rồi! Tôi không công bình với nó! Nó không hề hưởng thụ những điều mắt thấy tai nghe như cái đầu kia! Có lẽ tôi cũng bắt đầu già rồi, không còn mạnh mẽ như xưa nên cái đầu thiện của tôi không đủ sức thuyết phục cái ác của mình! Nên nhiều hôm nó phải nhượng bộ để đội cái thùng thay cho đầu ác khi ra phố ! Và hậu quả là nó đi uống rượu, say sưa, la hét chửi bới bọn trẻ kéo theo sau lưng! Cái thiện của tôi phải thì thầm bên tai nó để nó kềm chế cái tính hung hăng của mình! Và cũng may, nó vẫn còn biết nghe lời và kềm chế được việc làm của nó!

...


Tôi cứ tưởng là cứ thế đời tôi sẽ kéo tới tuổi già! Sau khi tôi chết mọi người có biết thì tôi không cần phải sợ nữa! Người đã chết rồi thì còn biết gì nữa đâu mà sợ chứ! Nhưng ở đời mọi sự đâu luôn diễn ra như ý mình muốn! Tuần rồi tôi bị sốt nặng! Đầu tôi buốt nhức và cơn sốt có lẽ lên hơn 40 độ C ! Tôi tìm trong tủ thuốc mấy viên thuốc cảm uống với hy vọng là cơn sốt sẽ qua đi và một hai bữa tôi sẽ khoẻ lại! Rồi sự việc sẽ lại êm đềm như những ngày qua! Nhưng tôi lầm, cơn sốt kéo dài cả tuần rồi mà không thấy thuyên giảm gì cả! Tôi không giám đi khám bác sĩ vì sợ bị khám phá sự bí mật của mình! Tôi chống chọi với cơn sốt bằng những viên thuốc cảm mà tôi mua ở tiệp tạp hóa ngoài phố! Bệnh càng ngày càng nặng thêm! Tôi nằm liệt giường không màng đến ăn uống nữa! Trên da tôi nổi lên các hột máu đỏ bầm! Những đốm đỏ lấm tấm trên cổ trên mình tôi như những đốm sởi mà hồi còn bé tôi đã từng trải qua! Nhưng đây là những dấu hiệu chết người chứ không như cái bệnh sởi loàng xoàng khi xưa! Tôi bị bệnh sốt xuất huyết thật rồi! Cái bệnh này hiện nay vẫn chưa có thuốc chữa mà! Tôi vẫn cố ghi lại những gì xảy đến cho tôi dù rằng sức tôi mỗi ngày mỗi kiệt! Thôi thì trước sau gì cũng phải chết ! Chết đối với tôi là một sự giải thoát nên tôi không hề sợ nó! Trước khi vào cơn hôn mê, tôi cố lấy cái thùng gỗ trùm lên đầu ác của mình! tôi không biết tại sao tôi lại làm vậy! Có lẽ do thói quen mỗi khi tôi sửa soạn ra đi mà ra chăng! Mà đây cũng là lúc tôi sửa soạn cho cuộc ra đi vĩnh viễn và sau cùng của mình mà! Tôi thiếp đi trong cơn sốt mơ màng... "

Chú thích:

Truyện này tôi viết theo ý của một câu chuyện tôi nghe kể đã lâu ! Hình tượng tôi lấy ra là người có hai đầu, còn các chi tiết, như địa điểm, các nhân vật và tình tiết trong câu chuyện là do tôi thêm thắt cho có đầu có đuôi!
 
Ân Toà Giải Tội


Lời Tòa Soạn: Trong lãnh vực huyền bí, có nhiều sự kiện vượt lên trên những gì là tự nhiên, không thể cắt nghĩa được... Dân Chúa Úc Châu nhận được những bài viết của Ân Giang sưu tầm. Dân Chúa Úc Châu xin đăng như bài viết sưu tầm, những sự kiện lạ huyền nhiệm này không phải là tín lý, cũng không phải là giáo lý... mặc dầu trong câu chuyện hay sự kiện có thể hàm chứa một tín điều... Câu chuyện được trích dịch từ cuốn “Passé et Future Enigmatiques” của tác giả Camille Creusot do nhà xuất bản Dervy Livres, Paris, 1972)

Giám mục Tân-Giáo C.W. Leabeater, cũng là một trong những nhân vật trọng yếu của Thông-Thiên-Học, kể lại câu truyện hiện về của linh hồn một linh-mục, mà vị giám mục bạn ông từng chứng kiến. Truyện tóm lược như sau:

Có một vị giám mục, bạn của giám-mục C.W. Leabeater, nhận lời mời dự bữa ăn tối tại nhà người quen ở vùng quê. Vị giám mục này tới hơi sớm nên chủ nhà mời ngồi chơi.Vào tới phòng khách, ngài chỉ thấy có mỗi một vị linh mục, mà ngài chưa hề gặp bao giờ, đã ngồi sẵn đó rồi. Vị linh mục đương cắm cúi dọc một cuốn sách lớn, thấy vị giám mục khách vào, liền ngửng mặt lên phác một cử chỉ chào hỏi rất niềm nở, lịch thiệp và kính trọng, vắn tắt trong im lặng, rồi lại lập tức cúi xuống tiếp tục đọc. Ít phút sau, thực khách tới đông đủ, mọi người được mời vào bàn. Ngồi sát cạnh bà chủ nhà, vị giám mục khẽ hỏi:

- Thưa bà, sao lúc nãy ở phòng khách, bà lại không giới thiệu tôi với vị linh mục ngồi đó vậy?.

Rồi đảo mắt nhìn khắp một lượt để tìm xem linh mục kia ngồi ở ghế nào, vị giám mục không khỏi ngạc nhiên vì không hề thấy bóng chiếc áo dài đen đó trong bàn tiệc... Vẻ mặt bà chủ nhà còn lạ lùng hơn nữa, khi nghe ngài giám mục ngồi cạnh hỏi đến ông linh mục trong phòng khách nhà bà.... Bà gượng gạo, mặt tái xám, khẽ hỏi lại như đánh trống lảng:

- Dạ..., bẩm Ðức Cha, thì ra ngài quả có giắng thấy vị linh mục đó sao?

- Ðúng thế, vị giám mục thực khách đáp, nhưng tôi thành thật xin lỗi; tôi e đã vô tình đề cập tới một truyện làm bà không được hài lòng chăng...!?

Bà chủ nhà vội vã thưa, vẫn với một giọng thì thầm vừa đủ hai người nghe mà thôi:

- Ðâu có, đâu có,.... bẩm Ðức Cha! Người hiểu lầm con mất rồi! Con đâu có gì dám dấu Ngài?! Sở dĩ con kinh ngạc là vì vị linh mục ấy đã dám hiện ra cả với Ðức Giám mục. Từ trước tới nay, ngay những người trong gia đình con cũng không một ai giắng thấy ông ta, ngoại trừ nhà con và con mà thôi. Vị linh mục mà Ðức Cha gặp trong phòng khách lúc nãy, không phải là thực khách con mời tối nay, nhưng là một hồn ma xuất hiện đấy ạ!.

- Một linh hồn hiện về ư?!!!, Vị giám mục kinh ngạc hỏi lại.

- Bẩm vâng ạ! Bà chủ nhà trình lại. Ðây quả là một sự “hiện về” của một linh hồn, mà tính cách siêu nhiên rõ ràng không thể nào còn hoài nghi. Vị linh mục ấy đã hiện về có tới trên chục lần với nhà con và với riêng con, trong những lúc chúng con hoàn toàn tỉnh táo và tuyệt đối không có gì gọi là gian dối mờ ám cả. Vì Ðức Giám mục nhận đã thấy điều này, xin ngài vui lòng ban cho chúng con một đặc ân... Xưa nay con vốn nghĩ phải tìm ra một người có can đảm, dám đối thoại với hồn ma đó, may ra mới hy vọng chấm dứt được sự hiện về của linh hồn này...

Vị giám mục liền nhận lời đề nghị của bà chủ nhà... Ông lập tức quay lại phòng khách, vẫn thấy vị linh mục còn ngồi y nguyên tại chỗ... Sau khi dừng lại và giữ im lặng giây lát, vị giám mục cất tiếng chậm rãi và long trọng hỏi lớn:

-Nhân thánh danh Chúa, ta hỏi ông là ai và ông muốn sự gì?...

Vị linh mục nghe hỏi, liền gập sách lại, đứng lên và bước khỏi ghế ngồi, tiến đến đứng đối diện với vị giám mục. Với một chút dè dặt, rồi bằng một giọng trầm trầm nhưng rất rõ ràng và có mức độ, ông nói:

-Tôi chưa hề bao giờ dám ước nguyện được như thế này.... Tôi xin nói để ngài biết tôi là ai mà tôi muốn sự gì... Như ngài nhìn thấy đấy, tôi là một linh mục Công-Giáo. Tám mươi năm về trước, nguyên ngôi nhà này là của tôi. Tôi vốn là một tay kị mã lành nghề và say mê thú săn bắn khi nào có dịp. Một bữa kia, khi tôi sắp lên đường đến một nơi hẹn săn trong vùng kế cận thì bỗng có một vị phu nhân, ý hẳn thuộc dòng quí phái nào đó, tìm tới xin xưng tội. Những gì bà ta xưng ra, lẽ dĩ nhiên ấn toà giải tội không cho phép tôi được trình ngài ở đây, chỉ biết rằng những điều đó lại xúc phạm nặng nề một gia đình quí phái nhất trong những dòng họ quí phái của nước Anh. Ðiều này làm cho tôi không thể nào làm ngơ, mà không ghi lại trên giấy tờ những gì vị phu nhân kia đã xưng với tôi trong tòa. Ghi lại tội người tín hữu xưng trong tòa là một điều rất mực cấm kị của Giáo-Hội Công-Giáo...Sau khi vị phu nhân đã bày tỏ hết tội mình, và sau lời khuyên răn, tôi đã ban phép lành cáo giải và ra việc đền tội tương xứng. Rời toà giải tội, tôi ngồi vào bàn viết, ghi vội lại chi tiết những gì tôi đã nghe trong tòa, rồi thận trọng cất tài liệu này vào một nơi an toàn, phòng mọi bất trắc nếu chẳng may xảy ra cho tôi trong chuyến đi săn này, dù tôi có thế nào chăng nữa, tài liệu kia vẫn y nguyên an toàn tại nơi cất giấu đó. Ðiều dự phòng của tôi biến thành sự thực. Ngay bữa đó, tôi bị té ngựa và chết tại chỗ. Từ trước đến nay chưa hề một ai có can đảm dám trực diện đối thoại với một linh hồn hiện về như ngài hôm nay. Bẩm Ðức Giám-mục, ngài có muốn cứu linh hồn tôi chăng...? Tôi xin chỉ cho ngài nơi tôi đã cất tập tài liệu tôi từng ghi tội vị phu nhân đã xưng xưa, để xin ngài tự tay thực hiện một cử chỉ hết sức thánh thiện, là hủy ngay nó đi mà không hề đọc một chữ nào trong đó cả. Vị giám mục khẳng khái mau mắn long trọng hứa:

-Tôi xin nguyện làm theo đúng lời yêu cầu của Cha!.

-Thế thì được lắm. Xin Ðức Giám-mục theo tôi.

Rồi linh mục đó dẫn vị giám mục xuống hầm nhà, nơi có những vòm cong đỡ lấy trần hầm.... Tới một địa điểm trong hầm, linh mục vịn tay vào tường, nói với vị giám mục:

-Chính chỗ này đây..., trình Ðức Cha. Xin ngài nhớ cho chỗ cất dấu này và....cũng xin ngài giữ lời đã hứa....

Quay lại phòng ăn, vị giám mục thuật lại cho thực khách có mặt tất cả những gì ông có thể kể, ngoại trừ những bí mật ông có bổn phận phải giữ kín theo mình. Tất cả thực khách đều theo vị giám mục, bước từng bậc tam cấp, lần mò tới nơi linh mục xưa kia đã cất tài liệu. Người ta moi những viên gạch xây trên tường, một lỗ hổng xuất hiện. Vị giám mục tiến lên, thò tay vào bên trong lỗ hổng tăm tối, rút ra một cuốn sổ cũ kỹ phủ đầy bụi bặm và mốc meo. Sau khi rở qua vài trang, vị giám mục lật tới một trang có kẹp một mảnh giấy đã vàng khè, trên có những dòng chữ viết nguệch ngoạc, vội vã. Lập tức, vị giám mục trịnh trọng đem cả cuốn sổ và tờ tài liệu quan trọng kia sang một phòng khác bên trên hầm, cẩn thận vứt hết vào lò sưởi mà những thanh củi đương thi nhau nổ tanh tách, tỏa ra những làn lửa ấm áp cho cả gian phòng. Lời hứa nghiêm trọng đã được thi hành. Và từ đấy, vợ chồng người chủ nhà không còn thấy linh hồn vị linh mục kia ngồi nơi phòng khách nhà mình bao giờ nữa...
 
Ánh Lửa Ma

Tác Giả: Nguyễn Đình Khánh

Ma quỉ đã có từ đời thượng cổ, và ở bất cứ nơi nào trên thế giới, những câu chuyện ma thường được kể vào những buổi tối mà thính giả luôn luôn là một lũ trẻ con ngồi trên giường với những đôi chân nhỏ bé rút lên vì sợ. Mà sợ cái gì?

Sợ giữa lúc đang say sưa nghe chuyện, lỡ một bàn tay lạnh buốt nào đó từ trong gầm giường thò ra nắm chân lôi xuống thì lôi thôi... Ở Âu châu, đã có một thời, người xứ Wales tin tưởng mãnh liệt vào "ánh lửa ma" và đã có rất nhiều câu chuyện về loại lửa này được kể đi kể lại.

Ánh lửa ma có hình dạng một ngọn lửa nhỏ xuất hiện trên đường đi của đám tang. Những người có đủ can đảm tới gần ánh lửa ma sẽ có thể thấy mặt người sắp chết. Lửa xanh báo hiệu cái chết của trẻ con và lửa vàng dành cho người lớn.

oOo

Một ngày vào đầu thế kỷ trước, trong một ngôi làng nhỏ ở miền Bắc xứ Wales, có hai cậu bé bà con gần tên là Tom Llewellyn và Evan Pugh ở hai trang trại cận kề và là đôi bạn thiết.

Khi Tom 18 và Evan 16, hai người phải chia tay khi gia đình Evan dọn tới một ngôi làng khác cách ngôi làng cũ khoảng 10 cây số. Đã từ bao năm qua, đôi trẻ vẫn luôn chơi đùa bên nhau, nên bây giờ khi phải chia tay, cả hai cảm thấy như bị mất mát một cái gì rất quan trọng, họ cảm thấy rất nhớ nhau dù cả hai bà mẹ đều hết lời khuyên giải.

Một thời gian sau, hai cậu đã tìm ra một giải pháp: Cứ mỗi cuối tuần, hai cậu lại thay phiên tới thăm nhau.

Một ngày cuối tuần vào cuối mùa thu, đến lượt Evan tới thăm Tom. Sau một ngày chơi đùa thỏa thích trong hai ngày trời mát dịu, giữa vẻ đẹp hiền hòa của miền quê, trong cái nắng trong vắt như pha lê, cuối cùng đôi bạn cũng phải chia taỵ Theo tục lệ xứ Wales, chủ nhà thường tiễn khách một đoạn đường và Tom lấy một cái khăn quàng thật dầy quấn quanh cổ, đưa tiễn Evan trên con đường làng, vừa đi cả hai vừa thảo luận cho chương trình tuần sau, khi đến lượt Tom tới thăm Evan.

Đi được một đoạn thì trời nhá nhem. Evan nói với bạn:

- Cậu đã tiễn tôi hơn ba cây số rồi. Thôi cậu về đi.

Tom đáp:

- Ờ, tới chỗ nhà thờ thì tụi mình chia tay.

Trên đường tới nhà thờ, cả hai đi ngang một nghĩa trang lạnh lẽo, bao quanh bằng những hàng cây gầy guộc. Đột nhiên không hiểu tại sao, Evan bỗng rùng mình run lẩy bẩy. Thấy thế Tom bảo bạn:

- Nếu lạnh, cậu lấy cái khăn choàng này của tôi đi. Evan lắc đầu:

- Không, tôi không lạnh, nhưng hôm nay tự nhiên sao tôi cảm thấy sợ hãi lạ lùng. Có thể vì nghĩa trang này! Nhưng tụi mình đã đi ngang đây nhiều lần mà chưa bao giờ tôi có cảm giác hãi hùng này.

Tom liếc nhìn bạn với vẻ tinh nghịch:

- Ờ, có lẽ vì mấy cành cây khẳng khiu này trông giống những cánh tay ma đang vươn ra tính chụp lấy cậu đó.

Nói rồi, Tom quơ quơ hai tay trên đầu bạn, miệng giả bộ rên la như tiếng ma kêu qui? khóc. Evan bật cười đưa tay chụp lấy tay Tom, nhưng Tom đã lanh lẹ rụt lại rồi phóng mình chạy về phía hàng cây bao quanh nghĩa địa. Trong bóng tối mịt mù, bóng Tom khi ẩn khi hiện, Evan chi?
nhắm hướng và nghe tiếng chân bạn mà chạy theo. Khi vừa chạy tới thảm cỏ mịn màng bên ngoài hàng cây, chợt Evan bị một bàn tay lạnh buốt chụp lấy và nghe thấy một giọng nói thì thầm bên tai:

- Evan! Đứng thật yên. Coi kìa!

Phía bên kia nghĩa trang lạnh lẽo chập chờn một ánh lửa mạ Khi hai cậu bé chăm chú nhìn, ánh lửa như bùng lên. Evan nuốt nước miếng một cách khó khăn, thì thầm hỏi bạn:

- Cái gì đó Tom?

Giọng nói của Tom đầy khích động:

- Ánh lửa ma! Nó chỉ xuất hiện để báo tin cho người sắp chết.

Tóc gáy Evan đột nhiên dựng đứng. Cậu ráng thều thào hỏi bạn:

- Ai đang cầm ngọn lửa đó.

- Không ai hết. Nhưng ngọn lửa có hình khuôn mặt người sắp chết.

Ánh lửa chập chờn vẫn chậm chạp di chuyển giữa những ngôi mộ im lìm. Evan lập cập nói với Tom:

- Đi đi, lẹ đi Tom! Nó đang tiến về phía tụi mình.

Tom nắm chặt tay bạn:

- Không, cứ ở đây đi. Nó không làm gì được tụi mình vì nó chỉ di chuyển trên đường đi của người chết.

Yên lặng một chút, Tom nói tiếp:

- Tôi muốn biết người sắp chết là ai. Cậu có muốn đi với tôi không? Evan cảm thấy hết sức hãi hùng, toàn thân run lẩy bẩy. Cậu chỉ muốn chạy về nhà thật lẹ tìm một nơi ấm cúng giữa những người thân nên cậu ú ớ:
- Không... không... Tôi không đi đâu.

Tom hoàn toàn không có vẻ gì là sợ sệt:

- Cậu đừng sợ. Coi kìa, nó đâu có tiến tới phía tụi mình. Đây là lần đầu tiên tôi thấy nó dù vẫn nghe lão già Price thường xuyên nhắc nhở. Đi! Nếu mình tới trước cửa nhà thờ trước khi ánh lửa tiến vào bên trong, mình có thể thấy được khuôn mặt của người sắp chết. Cậu có đi với tôi không?

Evan không nói nổi nữa mà chỉ rên rỉ:

- Không... không... Tôi không muốn biết ai sắp chết... Tôi không muốn thấy ngọn lửa mạ.. Tôi không muốn thấy gì hết...

Tom nhún vai:

- Được rồi! Nếu cậu cứ run rẩy như con gái thế này thì tôi đi một mình.
Evan nắm tay bạn:

- Tom, đừng đi. Tôi sợ quá! Tụi mình rời khỏi nơi này ngay đi.

Tom có vẻ náo nức:

- Đừng sợ! Tôi không thể bỏ qua dịp may hiếm có này. Tôi không tin lão Price và lần này tôi sẽ có thể chứng minh được là lão ta nói láo. Tôi hỏi cậu lần chót, cậu có đi với tôi không?

Evan vẫn run lẩy bẩy:

- Không! Đó chỉ là loài ma quái mà tụi mình nên tránh xạ Không, tôi không đi và cậu cũng đừng đi.

Tom cả quyết:

- Nếu không muốn đi, cậu lên chờ tôi trên đường. Coi xong mặt xác chết tôi chạy lên với cậu ngay.

Dứt lời, Tom chạy thẳng về phía nhà thờ đứng chờ ngọn lửa ma trong khi Evan lập cập chạy ngược lại, nhẩy qua mấy bụi cây ven dường rồi ngồi run rẩy trên thảm cỏ chờ bạn mà tim đập liên hồi.

Trong nghĩa trang, Tom vừa chạy vừa theo dõi ánh lửa ma vẫn đang từ từ di chuyển giữa những tấm mộ bia lạnh lẽo. Cậu không hề sợ hãi mà chỉ cảm thấy tò mò. Khi tới gần cửa nhà thờ, cậu ngạc nhiên khi thấy hai cánh cửa mở rộng. Tom tự hỏi không biết có nên bước vào hay không, nhưng rồi cậu quyết định đứng núp sau một thân cây nhỏ bên ngoài chờ đợi, vì tuy không nhát gan, cậu cũng hơi mê tín. Biết rằng Thánh David chỉ dùng ngọn lửa để báo hiệu một cách thân thiện, giúp những ai sắp về với Chúa biết trước để dọn mình chứ Thánh David không bao giờ làm hại ai, và cũng nghĩ rằng một ánh lửa cỏn con không thể làm hại được mình, nhưng những câu chuyện truyền kỳ về ngọn lửa ma luôn luôn là những câu chuyện kinh hoàng khiến Tom cảm thấy ở bên ngoài dầu sao cũng vẫn an toàn hơn. Nếu bước vào trong, lỡ hai cánh cửa đột nhiên đóng sập lại rồi đèn nến bên trong đột nhiên tắt ngóm và ánh lửa chợt biến thành một cái gì khủng khiếp thì quả là hết thuốc chữa.

Đang suy nghĩ miên man, Tom thấy ánh lửa ma đã tới thật gần. Nó lập lòe vượt qua tấm mộ bia cuối cùng và chậm chạp tiến về phía cửa giáo đường. Tom nín thở đợi chờ và đột nhiên cậu cảm thấy toàn thân lạnh ngắt...

Ánh lửa vẫn chập chờn tiến tới... Tom nhìn trừng trừng như bị thôi miên. Khi ánh lửa tới gần hơn nữa, Tom nhận thấy thoạt tiên nó chỉ là một đốm xanh lập lòe, rồi đột nhiên biến thành khuôn mặt trắng bệch của một xác chết, khuôn mặt mà Tom biết nhưng không thể gọi tên.

Tới sát bên Tom, khuôn mặt của xác chết chợt mở bừng đôi mắt đỏ ngầu, nhìn cậu bằng một ánh mắt ma quái, hai khóe miệng đầy nhớt rãi nhếch lên thành một nụ cười khủng khiếp...

Tom la lên một tiếng hãi hùng làm vang động cả nghĩa địa im lìm như muốn đánh thức tất cả những hồn ma đang nằm yên dưới đáy mộ. Rồi cậu phóng chạy giữa những mộ bia như bị ma đuổi, té lên té xuống nhiều lần để cố tránh thật xa khuôn mặt của xác chết và nụ cười ma quái.

Khi nghe tiếng bạn la, Evan đã đứng bật dậy lo lắng đợi chờ. Khi Tom xốc xếch chạy tới như kẻ mất hồn, Evan vội vàng hỏi bạn:

- Cái gì thế? Cậu thấy cái gì thế? Có điều gì ghê gớm đã xẩy ra phải không? Mặt tái ngắt không còn hột máu, Tom thở hổn hển:

- Không... Không có gì hết... Có điều... lão già Price chỉ là một thằng điên! Evan nắm tay bạn, mặt đầy vẻ lo âu:

- Không có gì hết? Thật không? Tại sao cậu lại la hét thất thanh như vậy?

- La hét? Tôi có la hồi nào đâu! Mà có hay không... tôi cũng... không biết nữa! Evan vẫn thắc mắc:

- Cậu nhìn thấy cái gì? Cậu thấy khuôn mặt người chết qua ánh lửa ma phải không?

Tom run lẩy bẩy:

- Không... tôi không thấy gì hết... Thôi, cậu về đi, về ngay đi kẻo trễ quá rồi.

Evan hỏi tiếp:

- Cậu thấy khuôn mặt của ai? Có quen biết với tụi mình không? Tom vẫn run lẩy bẩy, cố gắng trả lời bạn một cách khó khăn:

- Không... không có gì hết... không có ai hết... trễ quá rồi... cậu về đi.

Evan nhìn bạn lo lắng:

- Ừ, trễ thật rồi, nhưng cậu có sao không? Tôi lo quá!

Tom cố trấn an bạn:

- Không, tôi không sao đâu. Thôi cậu về đi, tuần tới tụi mình gặp lại.

Evan nói một cách miễn cưỡng:

- Thôi được! Tôi về. Tuần tới tụi mình gặp lại.

Rồi Tom và Evan chia taỵ Trong khi Evan rảo bước về ngôi làng của cậu thì Tom vẫn chưa hết vẻ kinh hoàng, vừa đi vừa run lẩy bẩy.

Khi cậu về tới nhà, mẹ cậu nhìn con hỏi bằng một giọng đầy kinh ngạc:

- Tom, con có sao không? Sao mặt con xanh mướt như vậy?

Tom như chợt tỉnh, nói với mẹ:

- Dạ không, con không sao hết. Có lẽ tại trời hơi lạnh và con hơi mệt.

Đêm hôm đó, Tom thao thức mãi. Khuôn mặt ma quái mà cậu nhìn thấy buổi chiều lúc nào cũng như đang trừng trừng nhìn cậu trong đêm tối. Cậu cố xua đuổi khuôn mặt của xác chết và nụ cười ma quái, nhưng khi chỉ vừa chợp mắt, cậu thấy mình đang đi trong nghĩa địa và khuôn mặt trắng bệch của xác chết lại xuất hiện qua ánh lửa, nhìn cậu nhếch mép cười khiến cậu la lên một tiếng hãi hùng, mở bừng mắt, mồ hôi toát ra như tắm.

Mấy ngày sau đó, mọi việc diễn ra một cách bình thường. Tom đã có vẻ phục hồi sau cơn xúc động, tuy những gì cậu nhìn thấy trong nghĩa trang hoang vắng không thể nào rời khỏi đầu óc cậu. Nhiều khi trong lúc đang làm việc, Tom ngưng lại, nhìn trừng trừng về phía trước thật lâu cho tới khi cha cậu thúc cậu, cậu mới như chợt tỉnh tiếp tục làm việc.

Tới sáng thứ sáu Tom cảm thấy vô cùng mệt mỏi, chân tay cậu như rã rời. Thường thường mỗi chiều thứ sáu sau khi làm việc, Tom và Evan lại gặp nhau. Tuần này, đáng lẽ Tom chạy sang nhà Evan, nhưng tới buổi chiều, cậu bị ngất xỉu cả thẩy ba lần. Lần cuối, sau khi té xỉu trong phòng khách, Tom không còn đứng dậy được nữa. Mẹ cậu rờ trán cậu:

- Con nóng quá! Cái thời tiết quái gởn ày làm cho con tôi bị cảm lạnh rồi. Thôi, con về phòng nằm nghỉ đi.

Tom gắng gượng phản đối:

- Tuần này con phải đi thăm Evan.

Mẹ cậu lắc đầu:

- Con yếu quá đi làm sao được. Thôi, con cứ nghỉ ngơi cho khỏe đi cái đã. Tuần này con không đi thăm nó được rồi.

Tom im lặng vì biết mình không đi nổi. Cha cậu phải bồng cậu vào giường. Nằm trên giường, đôi mắt Tom mở trừng trừng như muốn nhìn xuyên qua cái trần nhà trắng xóa. Nhiều lần cậu muốn nói với mẹ về những gì cậu nhìn thấy trong nghĩa địa vào tuần trước nhưng lại thôi. Mẹ cậu đem vào cho cậu một tô cháo nóng hổi nhưng cậu không thể nào nuốt nổi. Cuối cùng, cậu thều thào nói với mẹ:

- Mẹ Ơi! Con muốn gặp Evan. Mẹ làm ơn gọi nó đến đây cho con.

Mẹ cậu lắc đầu:

- Không được đâu con. Con không được khỏe, gọi nó tới làm gì. Thôi, con chịu khó nghỉ ngơi tĩnh dưỡng vài ngày cho khỏe đi đã, rồi cuối tuần tới Evan sẽ tới gặp con chứ có lâu la gì.

Tom cố năn nỉ mẹ bằng một giọng nói đứt quãng:

- Mẹ làm ơn... gọi nó tới... tới đây cho con... Con phải gặp nó... ngay tối naỵ.. Con không thể... chờ... lâu... hơn... nữa...

Mẹ Tom cương quyết:

- Con mệt quá rồi. Con cần phải nghỉ ngơi. Con đang bệnh, nếu Evan tới đây nó cũng chẳng làm gì được cho con. Thôi con cứ nghỉ cho khỏe đi đã, sáng mai mẹ sẽ nhờ người nhắn lại với nó, chắc chắn nó sẽ thông cảm. Mẹ nghĩ rằng ngày mai nó sẽ có thể tới thăm con.

Nước mắt dâng ngập đôi mi, Tom muốn gặp Evan ngay nhưng cậu không thể cãi mẹ, vì dù có muốn cãi, cậu cũng không thể nói nên lời. Cuối cùng, cậu gắng gượng thều thào:

- Mẹ... mẹ.. làm ơn...

Rồi Tom lại ngất xỉu. Mẹ cậu vội gọi chồng lấy nước lạnh lau mặt cho cậu. Đứng nhìn khuôn mặt trắng bệch và đôi mắt sâu hoắm của con, bà Llewellyn cảm thấy thương xót vô cùng. Bà nghĩ thầm, biết đâu khi gặp Evan con bà lại chả khá hơn. Bà bèn nói với Tom:

- Thôi được. Để mẹ nhờ ba sang đón Evan. Bây giờ, con phải ráng ngủ một chút nghe không.

Cha của Tom vội lấy xe ngựa sang đón Evan. Đang nóng ruột không biết tại sao trời đã tối mà Tom chưa tới, vừa thấy chiếc xe ngựa thoáng hiện bên ngoài trang trại, Evan vội vã phóng ra. Khi được cha của Tom cho hay tự sự, Evan bèn xin phép cha mẹ, lấy vài món đồ cần thiết bỏ vào cái túi nhỏ, nhảy lên xe ngựa.

Từ giã cha mẹ Evan, cha Tom đánh xe chạy về nhà thật lẹ. Chỉ độ trên dưới nửa tiếng đồng hồ, xe ngựa đã về tới nơi. Evan nhảy xuống, chạy thẳng vào phòng ngủ của bạn. Vào tới nơi, Evan vô cùng kinh ngạc vì người nằm trên giường trông không giống người bạn thân của cậu chút nào. Thân thể Tom co rúm lại như chỉ còn một nửa. Con người đầy sinh lực của Tom dược thay thế bằng một thể xác ốm yếu tong teo. Khuôn mặt tươi vui hồng hào của Tom bị thay thế bởi một khuôn mặt hốc hác, tái mét của một người lạ mặt. Evan bước tới bên giường cầm tay bạn. Cậu cố nén lòng nhưng nước mắt vẫn trào ra. Đôi mắt Tom nhắm nghiền dù mí mắt có hơi lay động. Evan bóp chặt tay bạn và bắt đầu khóc rấm rứt. Đột nhiên Tom mở mắt nhìn Evan chăm chăm. Evan hỏi:

- Tom, cậu có nhận ra tôi không? Evan
đây.

Đôi mắt Tom vẫn nhìn Evan trừng trừng. Một lát sau, Evan thấy đôi môi bạn mấp máy nhưng không thành tiếng. Evan quì xuống, ghé tai sát vào miệng bạn. Trong sự yên lặng nặng nề của căn phòng nhỏ, Evan nghe bạn thều thào: - Evan... cậu... ánh lửa... nghĩa trang...

Chỉ nói được mấy tiếng, Tom ngưng lại thở một cách mệt nhọc. Evan siết chặt tay người bệnh như muốn truyền thêm sinh lực. Cậu nói nho nhỏ:

- Tom, nếu cậu mệt thì cứ nghỉ đi. Tôi ở lại đây với cậu trong dịp cuối tuần này mà. Cậu nhắm mắt lại ngủ cho khỏe đi.

Tom vẫn nhìn bạn bằng đôi mắt vô hồn:

- Không... tôi phải nói... Evan... hãy hứa... giữ... bí mật... đừng nói... với... ai...

Nói tới đây, đôi mắt Tom như lạc thần khiến Evan hoảng hốt lắc mạnh tay bạn:

- Tom, Tom, cậu có sao không?

Tom lắc đầu thật nhẹ, cố thều thào:

- Evan... cậu hỏi tôi... thấy gì... tôi thấy... mặt... người chết...

Nói tới đây, đầu Tom hơi nghiêng sang một bên khiến Evan vội buông tay bạn, rồi dùng cả hai tay đặt đầu Tom lại trên gối cho ngay ngắn. Tom tiếp tục thều thào:

- Lúc đó... tôi không... nhận rạ.. nhưng đó là... khuôn mặt... của... tôi... Dứt lời, đầu Tom ngoẻo sang một bên. Giọng nói Tom tắt lịm. Hơi thở yếu ớt của Tom cũng tắt theo.

Evan bàng hoàng đứng dậy nhìn thẳng vào Tom. Trước mắt cậu là xác chết của một người trông hoàn toàn xa lạ, người đã nhìn thấy khuôn mặt chết chóc của chính mình qua ánh lửa ma.
 
Án Mạng Đêm Cuối Năm


Tác Giả: Agatha Christie

Luật sư Mayher chăm chú quan sát chàng trai ngồi trước mặt ông, con người bị buộc tội giết người có dự mưu.
- Voler, tôi thiết nghĩ, anh nên thành thật khai báo, tôi mới có thể bào chữa cho anh được.
- Biết nói thế nào nhỉ. Tôi không thể bị buộc một tội mà tôi không hề làm. Tôi vô tội, tôi vô tội. Ông phải hiểu điều đó.
- Vâng. Tôi đang cố gắng lo cho anh được tự dọ Nhưng mọi bằng cớ đều chống lại anh. Không phải cứ la lên là mình sẽ vô tội.
- Tôi xin thề trước Thượng đế là tôi bị nghi oan. Tôi đã rơi vào một cái lưới không thể thoát ra được.
- Anh đừng thề mà hãy nói rõ cho tôi nghe, anh quen bà Fren trong trường hợp nào?
- Hôm đó, bà Fren suýt bị xe buýt tông, nên hoảng hồn đánh rơi đồ đạc tung toé ra đường. Tôi có mặt ở đó nên đã nhặt giùm cho bà ấy. Sau đó, tôi gặp lại bà trong một bữa tiệc tại nhà người bạn. Bà nhận ra tôi, nói chuyện với tôi rất thân mật, và khi ra về, bà yêu cầu tôi ghé thăm bà. Bạn tôi nói bà là một cô gái già rất giàu có, sống một mình với chị người làm và tám con mèo.
- Anh đang túng thiếu, lại làm quen với một bà già giàu sụ và cố tình kéo dài sự liên hệ thân mật. Nếu chúng ta chứng tỏ rằng anh không hề biết bà Fren giàu và anh chỉ đến thăm vì xã giao...
Mặt Voler tái đi:
- Havey, bạn tôi đã nói vụ bà Fren giàu trước mặt tôi và rất nhiều người, một vài người còn chế giễu tôi là chuột sa hũ nếp nữa chứ.
- Như vậy thì tôi phải giải thích sao khi một người trẻ tuổi đẹp trai như anh lại mất thì giờ cho một bà đã luống tuổi có tính khí khác thường.
- Thú thật với ông, sau lần viếng thăm đầu tiên, bà đã khẩn khoản mời tôi đến nữa. Bà than rằng bà cô đơn quá, nên xem tôi như con. Bà tử tế, nuông chiều tôi, do đó, tôi thực sự cảm mến bà như một người mẹ.
- Đến lúc nào thì bà ấy yêu cầu anh trông nom sổ sách cho bà?
- Sau bốn, năm lần viếng thăm. Bà ấy tính toán kém trong việc hùn hạp làm ăn.
- Vậy mà chị hầu phòng Jannette quả quyết rằng bà chủ của chị rất thạo việc. Đấy cũng là ý kiến của các ngân hàng có tài khoản của bà ấy.
- Họ nói sao ấy chứ trước mặt tôi, bà ấy tỏ ra rất vụng về.
Luật sư Mayher nhìn Voler. Ông tin vào sự vô tội của chàng thanh niên. Voler đã nói thật. Tâm lý các cô gái già là thường giả bộ ngây thơ để nhận ở những người đàn ông sự giúp đỡ. Và Voler đã đáp ứng được điều đó. Tằng hắng, ông hỏi:
- Có bao giờ anh lợi dụng lòng tin của Fren để kiếm lợi riêng cho anh không? Tôi sẽ có hai cách để bào chữa. Nếu trung thực, anh sẽ không cần nhúng tay vào máu để kiếm được món tiền mà anh có thể kiếm được một cách lương thiện. Bằng ngược lại, anh có những thủ đoạn mà bên công tố biết và sẽ đưa ra. Khi đó, tôi sẽ bảo rằng anh chẳng dài gì mà giết con gà đẻ trứng vàng ấy cả.
- Cảm ơn lòng tốt của ông. Tôi lúc nào cũng ngay thẳng khi làm việc với bà ấy. Nếu người ta cho rằng, tôi lợi dụng vật chất nơi bà ấy, thì cái chết của bà chỉ thiệt hại cho tôi thôi.
Luật sư Mayher nhìn thẳng vào mắt Voler:
- Anh có biết là bà Fren đã lập di chúc để một phần lớn tài sản cho anh không?
Voler nhỏm dậy như bị điện giật"
- Ông nói sao? Bà ấy để của cho tôi à? Vô lý.
Giọng luật sư vẫn điềm tĩnh:
- Anh không biết việc này thật à?
- Ồ, tôi hoàn toàn không biết gì cả.
- Vậy mà cô Jannette lại quả quyết là anh biết cơ đấy. Chính bà Fren đã tiết lộ với cô ta về chuyện này.
- Jannette ghét tôi nên bịa đặt đấy. Ông phải tin lời tôi.
- Anh đã đến nhà bà Fren vài buổi tối, chỉ có mình bà, và sáng hôm sau bà bị giết ở phòng khách. Quả thật tối hôm đó, lúc 9 giờ rưỡi, Jannette có ghé nhà bằng cửa sau để lấy một vài món lặt vặt ở phòng riêng rồi đi ngaỵ Cô ấy khai là có nghe thấy tiếng nói chuyện giữa bà chủ và một người đàn ông từ phòng khách.
Voler đứng phắt dậy:
- Vậy là tôi thoát nạn rồi. Vào lúc chín rưỡi, tôi đã về tới nhà. Vợ tôi có thể chứng minh cho tôi. Cảm ơn Thượng đế xui khiến Jannette ghé về đúng lúc.
Nét mặt luật sư vẫn không bớt đăm chiêu:
- Vậy theo ý anh, ai đã giết bà Fren?
- Một tên cướp. Y đã dùng thanh sắt đập vào đầu bà Fren. Một cánh cửa sổ bị phá vỡ, một số đồ vật bị lấy đi. Nếu không có sự nghi ngờ vô lý của Jannette và ác cảm của cô ta đối với tôi...
- Sự việc không đơn giản như vậy đâu. Anh nói anh về nhà lúc chín rưỡi, vậy mà Jannette lại nghe tiếng đàn ông nói chuyện với bà chủ trong phòng khách. Không lý bà ấy đi nói chuyện bình thường với một tên cướp?
- Dù sao đi nữa, người đó cũng không phải là tôi. Tôi đã có mặt tại nhà lúc chín rưỡi. Xin ông hãy đến gặp Romen, vợ tôi sẽ xác nhận lời khai của tôi.
- Bà Fren biết anh có vợ không?
- Dĩ nhiên là có.
- Jannette đã khai là chưa bao giờ anh đem vợ đến thăm bà Fren, cho nên bà ấy tưởng anh độc thân và có ý định sẽ lập gia đình với anh.
- Vô lý, bà ta quá già.
- Chuyện đó không thành vấn đề.
Voler đỏ mặt:
- Đó chỉ là sự tưởng tượng của Jannettẹ Tôi van ông, hãy đến gặp vợ tôi.
Romen, vợ Voler là một phụ nữ cao lớn, tiều tụy. Bà tiếp luật sư Mayher với vẻ hững hờ. Trông bà bình tĩnh đến lạnh lùng, điều này đã làm cho luật sư e ngại. Dù muốn dù không, ông cũng phải trình bày mọi việc cho người đàn bà ấy nghe. Im lặng một lát, Romen cất giọng đanh thép:
- Voler muốn tôi xác nhận là tối hôm đó, hắn trở về nhà lúc 9 giờ 20 phút chứ gì. Đừng hòng. Tôi không bao giờ đồng lõa với kẻ sát nhân đâu. Ông hãy nghe cho rõ đây, tôi xác nhận là Voler đã biết Fren có để lại gia tài cho hắn nên hắn đã giết mụ già để sớm được vinh thân. Tối hôm đó hắn trở về lúc 10 giờ hai mươi, trên áo đầy máu. Hắn thú nhận tất cả với tôi. Tôi sẽ là nhân chứng buộc tội hắn.
- Chị không thể làm chứng chống lại chồng.
- Hắn không phải là chồng tôi mà là một người đàn ông tồi tệ. Tôi căm thù hắn. Tôi muốn trông thấy hắn bị treo cổ.
- Tôi sẽ đến gặp chị sau khi liên hệ với Voler.
Romen bĩu môi:
- Ông tin là hắn vô tội ư? Thật đáng thương!
Trước ngày tòa xử, luật sư Mayher nhận được một lá thư, nét chữ nguệch ngoạc: "Nếu ông muốn vạch mặt mụ đàn bà đã hại chồng mình như thế nào, mời ông mang theo 2.000 đô la, đến địa chỉ X... vào lúc 19 giờ, hỏi bà Motion".
Khó khăn lắm, luật sư Mayher mới tìm thấy địa chỉ căn nhà. Đó là một túp lều ổ chuột nằm trong một con hẻm lầy lội, dơ dáy. Một mụ già lưng còng đợi ông sau cánh cửa:
- Chào anh chàng luật sự Vào đây, vào đây.
Ngọn đèn trên trần tỏa ánh sáng lờ mờ. Luật sư Mayher giật mình khi thấy gương mặt mụ già đầy những vết sần sùi đỏ hỏn. Mụ cất tiếng the thé:
- Axit đấy, anh bạn trẻ ạ. Tôi sẽ trả thù, trả thù.
- Thôi đi, bà hãy vào vấn đề nhanh lên.
Bàn tay gầy đét với những ngón cáu bẩn đưa ra:
- Thế tiền đâu? Phải đủ hai ngàn đấy nhé.
- Nếu bà biết điều gì đó, bà có bổn phận ra tòa làm chứng.
- Không. Tôi chả biết quái gì cả, nhưng tôi có thể cho anh một vài thứ rất haỵ Anh có thích đọc một lá thư của mụ Romen không? Rất cần thiết cho anh đấy. Đưa tiền đây.
- Tôi chỉ có một ngàn thôi. Nếu bà không chịu tôi xin kiếu.
- Quỷ tha ma bắt anh đi. Nào, bốc xỉa ngay.
Mụ già rút dưới tấm nệm rách ra một xấp bì thư, ném trước mặt Mayher:
- Chắc chắn anh sẽ khoái lá thư trên cùng.
Tất cả đều là những bức thư tình, do Romen viết gửi cho một người tên Mac. Lá thư cuối cùng viết đúng ngày Voler bị bắt: "Mac yêu quý, Voler vừa bị bắt vì tình nghi giết người. Em biết, Voler là một tên hiền như bụt, không hại đến một con ruồi. Nhưng em sẽ khai trước tòa là hắn trở về nhà với máu me đầy mình và đã thú nhận tội lỗi với em. Hắn sẽ bị treo cổ và chúng ta sẽ có nhau... ".
Mụ già nói thêm:
- Mac là chồng tôi. Ngày xưa, vì con bé Romen mà anh ta đã tạt axit vào mặt tôi. Tôi thù nó và đã theo dõi, rình rập nó trong bao nhiêu năm trời. Bây giờ nó sẽ bị trừng phạt vì tội khai man để đẩy chồng vào tù. Anh cứ tin đi. Hãy đến rạp chiếu bóng Eden đưa tấm hình Romen ra, người ta sẽ cho anh biết sự thật.
Không bỏ phí thời gian, luật sư Mayher đến ngay rạp chiếu bóng và ông đã đạt được ý muốn. Chẳng qua, trước khi lấy Voler, Romen từng là diễn viên kịch, nên nhiều người biết mặt. Họ xác nhận, đêm hôm xảy ra án mạng, Romen vào rạp coi xuất chót, vào lúc 10 giờ 20.
Ngày họp tòa. Romen khai rằng buổi tối hôm xảy ra án mạng, Voler ra khỏi nhà mang theo một thanh sắt. Hắn trở về lúc 10 giờ 20 và thú nhận với chị là đã giết bà Fren, hắn còn dọa sẽ giết chị nếu chị nói sự thật.
Lập tức, lá thư tội lỗi được đưa ra. Các chuyên viên về chữ viết đã xác nhận chữ trong thư đúng là của Romen. Người đàn bà điêu ngoa đã phải gục đầu thú nhận. Quả thật, Voler đã trở về nhà lúc 9 giờ 20 như lời anh đã khai.
Voler được trắng án.
Nhưng sự việc không ngừng ở đây, bởi lương tâm luật sư Mayher cảm thấy không yên. Lòng dạ Ông bồn chồn khi nhớ lại những cử chỉ của Romen trước vành móng ngựa. Lưng chị hơi còng, bàn tay phải luôn xòe ra, một thói quen kỳ la... hình như ông đã thấy một người cũng có cái tật như thế. Ai? Luật sư giật nẩy mình. Đúng rồi, Romen đã từng là kịch sĩ... mụ già mặt thẹo!
Ông tìm đến nơi Romen đang trả giá ba tháng tù vì tội khai man. Đầu óc ông quay cuồng với bao câu hỏi. Tại sao? Tại sao?
Người đàn bà trở lại vẻ lạnh lùng cố hữu:
- Tại sao tôi lại chơi cái trò ấy à? Tôi phải cứu chồng tôi chứ. Một lời khai của người vợ thương chồng đâu có thuyết phục được ai. Nếu những lời nói của tôi không tự ý mình, mà do những tác động bên ngoài bắt buộc thì ai cũng phải tin. Tôi bị phạt tù vì khai man hại chồng, nhưng chồng tôi sẽ được cảm tình của tòa và mọi việc sẽ thuận theo chiều hướng tốt đẹp.
- Còn tập thử Còn anh chàng Mac?
- Nếu chỉ viết một lá thư thì có vẻ giả tạo quá. Còn anh chàng Mac ư? Làm gì có, đó chỉ là một cái tên ma.
Luật sư Mayher hậm hực:
- Lẽ ra chị không nên làm thế. Chúng ta có thể chứng minh sự vô tội của Voler bằng một cách hợp pháp hơn.
Romen nhếch mép:
- Thế ông vẫn tin Voler vô tội ư?
- Dĩ nhiên. Chị đã rõ là tôi tin như vậy.
- Tôi thì chả rõ gì cả. Tôi biết chắc là chồng tôi đã giết bà Fren. Để làm gì ư? Vì chúng tôi quá nghèo, ngài luật sư ạ.
 
Ác Báo Ghê Hồn 1


Vợ, họ Doãn, độc dữ khác thường, chồng hơi làm điều chi trái ý, là vác gậy đập liền. Ông cụ thân sinh Dương, ngoài 60 tuổi và góa vợ đã lâu, họ Doãn coi cha chồng như tôi tớ. Dương cùng em là Vạn-Chung thường lén đem cơm bánh cho ông cụ ăn mà không dám cho vợ hay. Tội nghiệp ông cụ lọm khọm rách rưới quá, anh em không cho khách khứa thấy mặt, sợ bị chê cười

Vạn-Thạch 40 tuổi chưa có con trai, cưới vợ bé là Vương thị, mà tối ngày không dám nói năng với nhau nửa lời

Hai anh em lên quận đợi thi hạch, thấy một thiếu niên ăn mặc nhã nhặn, bắt chuyện để làm vừa lòng, hỏi thăm tánh danh, thiếu niên tự giới thiệu là Giới-Phủ họ Mã. Từ đó kết giao càng ngày càng thân mật, thăm hương thề quyết làm anh em, rồi từ biệt.

Chừng nửa năm sau, Mã bổng dắt đồng bộc đến nhà Dương, vừa gặp lúc Dương lão ngồi ngoài cổng phơi nắng bắt rận; Mã tưởng đứa ở liền nói tên họ, nhờ vô thưa với chủ nhân.

Có người bảo cho Mã biết đó là cụ thân sinh ra hai anh em Dương, khiến Mã kinh ngạc. Anh em để đầu trần ra đón. Mã vô nhà khách, Mã xin ra mắt cụ ông, Vạn-Thạch nói trớ là cụ se mình, rồi nắm tay mời ngồi hết chuyện nọ qua chuyện kia, chẳng dè gần tối. Vạn-Thạch thường nói để dọn cơm ra ăn, nhưng lâu lắm, vẫn chưa thấy cơm bưng rạ Anh em thay phiên nhau chạy ra chạy vô, mấy lần, mới có thằng ở gầy nhom xách hồ rượu ra, uống giây lát đã hết nhẵn.

Ngồi đợi giây lâu, Vạn-Thạch chay đi thúc hối kêu gọi, đổ cả mồ hôi trán, lại thấy thằng gầy còm bưng cơm ra, cơm gạo lức và đồ ăn rất xoàng, chả có món gì ngon lành.

Ăn xong, Vạn-Thạch vội vã đi, Vạn-Chung thì ôm chăn gối ra nằm ngủ với khách. Mã ngỏ lời phiền trách:

- Hôm trước tôi nghĩ anh em nhà ông cao nghĩa nên cùng đính ước anh em. Nay được trông thấy cụ già nhà ta thật tình chẳng được phụng dưỡng no ấm, khiến người đi đường thấy thế cũng xấu hổ giùm.

Vạn-Chung nhỏ lệ và nói:

- Tình riêng chất chứa trong tâm, thật khó nói ra lời. Nhà tôi không may, gặp người chị dâu ác độc mà anh tôi thì hèn nhát yếu đuối, bị vợ dày vò hết sức. Tôi với anh, nếu không phải có cái tình ăn thề kết nghĩa với nhau, thì sự xấu trong gia đình tôi như thế quyết nhiên không thể nói thiệt.

Mã nghe chuyện sửng sốt than thở giây lâu rồi nói:

- Ban đầu ta định sáng sớm mai thì đi, nhưng nay nghe được chuyện lạ này, chả lẽ không mục kích một lần xem sao. Vậy có gian nhà nào bỏ không, xin cho tôi ở tạm, mặc kệ tôi tự nấu ăn lấy

Vạn-Chung làm y theo lời, dọn riêng một căn nhà cho thầy trò Mã ở. Ðêm khuya lấy trộm lúa gạo rau cỏ, đem tới tiếp tế cho Mã, hồi hộp chỉ lo chị dâu hay được thì khốn. Mã hiểu ý, hết sức chối từ, lại mời Dương lão đến ăn ngủ với mình, rồi tự ra ngoài chợ mua các thứ vải lụa về may quần áo cho cụ mặc, vứt hết đồ cũ rách rưới. Cha con anh em thấy Mã xử tử tế quá, đều cảm động tới khóc.

Vạn-Chung có thằng con trai tên là Hỷ-nhi, mới bảy tuổi, đêm nào cũng quấn quýt nằm ngủ với ông nội. Mã vuốt ve nó và nói:

- Thằng bé này phước thọ hơn cha nó nhiều, duy có lúc trẻ phải vất vả thôi

Doãn thị thấy ông cụ được no ấm thì nổi giận, kiếm chuyện mắng chưởi, bảo Mã khi không can dự vào việc nhà người ta. Ban đầu, những lời chì tiếng bấc còn ở trong chốn buồng riêng, dần dà bay tới gần chỗ Mã ở; anh em họ Dương hỗ thẹn toát mồ hôi, nhưng không sao bịt được miệng mụ đừng nói. Mã làm lơ, như tuồng chẳng hay biết chuyện chi

Người vợ bé Vương thị có mang được năm tháng, mụ mới hay lột áo nàng ra đánh đập thảm hại xong rồi gọi Vạn-Thạch đến, bắt quỳ xuống mặc quần áo đàn bà, lại vác gậy rượt đánh chồng chạy ra tới ngoài đường cái

Giữa lúc ấy Mã ở ngoài đường, cho nên Vạn-Thạch xấu hổ không dám thò mặt ra, nhưng bị mụi đuổi tới sau lưng, đành phải chạy tuốt ra ngoài mà trốn. Mụ theo ra, khoanh tay dậm cẳng, chửi rủa vang trời, hai bên xóm giềng đổ ra xem đầy đường chật ngõ. Mã trỏ vào mặt mụ và thét:

- Bước đi ! Bước đi !

Mụ lập tức day mình trở vô, dường như bị ma quỷ rượt đuổi, đến nỗi tuột cả giày vớ, vải quấn cẳng rơi ra lòng thòng trên lộ, chạy cẳng trơn mà về, sắc mặt xám ngắt như gà mới cắt tiết, một lúc lâu mới hoàn hồn.

Con hầu đem giày vớ khác cho mụ mang xong, đấm ngực khóc rống, gia nhân đều sợ, chả ai dám hỏi han an ủi gì cả

Trong khi đó, Mã lôi Vạn-Thạch về căn nhà mình ở riêng, cởi y phục đàn bà ra cho, thế mà Vạn-Thạch cự nự không chịu, chỉ sợ khăn yếm tuột ra; Mã phải lấy sức mạnh mới cởi ra được. Chàng đứng ngồi run rẩy không yên, vì sợ mụ bắt lỗi sao chưa được cho phép, đã vội cởi ra. Mãi sau dò biết vợ đã nín khóc rồi, bấy giờ mới dám mò về, len lén đi tới trước mặt, mụ không nói một tiếng gì, vội vã đứng dậy, đi vô buồng nằm ngủ

Bấy giờ chàng mới định thần yên tâm, nói riêng với em, cho Mã là người lạ. Nội nhà cũng lấy thế làm kỳ, tụ họp xầm xì với nhau, hơi lọt đến tai mụ, làm mụ càng thêm tức giận, đánh đập nô tì khắp lượt. Lại kêu đến người vợ bé, nhưng nàng bị đánh đêm hôm trước còn đau nặng quá, chổi dậy không đặng. Mụ cho là giả đò, đến tận giường nằm mà đánh nàng tới băng huyết trụy thai mới thôi !
Ðứng trước những việc tàn nhẫn như thế, Vạn-Thạch vừa thừa lúc vắng người, than khóc với Mã

Mã kiếm lời an ủi, rồi gọi tiểu đồng dọn cơm tử tế cho chàng ăn, mãi đến canh hai còn cầm giữ không cho chàng về

Mụ ở buồng riêng, giận chồng không về, đã toan di kêu rao, mắng chửi cả chồng lẫn Mã cho đã nư giận, bỗng nghe có tiếng gõ cửa, liền bảo con thị nữ chạy ra mở, không dè cửa mở toanh, một người khổng lồ dữ dội bước vào, bóng che khắp nhà, mặt mày như quỷ. Kế mấy người nữa theo chân vô, tay đều cầm dao búa ghê sợ. Mụ hoảng hồn mất vía, toan la lên, người khổng lồ đâm dao ngay cổ họng và nói :

- Hễ la thì giết chết lập tức.

Mụ năn nỉ đem vàng lụa ra chuộc mạng, nhưng người khổng lồ gạt đi:

- Tao là sứ giả âm ty, không thèm tiền bạc của mày, chỉ cốt lấy trái tim của con đàn bà ác độc mà thôi

Nghe nói, mụ càng sợ hãi, lạy lục giập trán dưới đất. Người khổng lồ rút dao găm, vạch trước ngực mụ và kể ra từng tội lỗi:

- Như tội này có đáng giết không ?

Nói ra như mỗi tội vạch một khía. Phàm những việc làm độc ác của mụ thuở nay đều vạch gần hết, vết dao khía vào da thịt, có tới mấy chục. Sau cùng lại hạch tội nửa

- Người vợ bé của chồng sinh ra thằng con trai, cũng là nòi giống nhà mi, sao mi nỡ đánh tới trụy thai, việc này không thể tha thứ được.

Nói đoạn, sai mấy người tùy tùng nắm chặt lấy tay mụ, để mổ bụng con đàn bà ác độc xem ruột gan ra sao. Mụ cúi đầu van lạy, thề xin ăn năn chừa lỗi. Chợt nghe cửa giữa mở đóng, và có tiếng nói thinh không:

- Dương Vạn Thạch đã tới kia. Con ác phụ đã nói chừa lỗi, vậy hãy để cái mạng nó đó

Mấy người liền bỏ đi tản lạc.

Giây phút chàng vô, thấy vợ cởi trần bị trói, trước ngực có vết dao ngang dọc, không thể đếm hết. Chàng cởi trói và hỏi nguyên do, lấy làm kinh hãi, nhưng trong bụng hơi nghi là do Mã làm ra. Hôm sau thuật chuyện cho Mã nghe, Mã cũng tỏ vẻ sợ hãi

Từ đó mụ bớt làm sai, luôn mấy tháng không dám thốt ra nửa lời hung dữ. Mã nghe rất mừng bảo Vạn-Thạch:

- Giờ tôi nói thiệt với anh, phải kín miệng nhé! Hôm nọ tôi thi thố cái thuật cỏn con để làm cho chị biết sợ mà sửa lại tánh nết. Nay anh chị được hoà thuận rồi, tôi tạm xin từ giã

Mã nói xong, thầy trò ra đi

Ðêm nào như đêm nấy, mụ cố giữ Vạn-Thạch ngủ chung, hết sức vui vẻ chiều chuộng. Thuở giờ chàng chưa từng được biết thú vị ấy, nay mới được hưởng, đến nỗi đứng ngồi đều thấy bồn chồn. Một đêm, mụ chợt nhớ lại người khổng lồ mà còn run sợ; chàng muốn nịnh vợ hơi ló mòi giả mạo cho vợ yên tâm. Bất đồ mụ bắt được thóp ấy, liền vùng chổi dậy, o bế gạn hỏi, chàng tự biết đã nói lỡ lời, không giấu được nửa, bèn nói thật đầu đuôi. Mụ nổi giận lôi đình, mắng chửi rầm rĩ. Bây giờ tới phiên chàng sợ hãi run người tái mặt, quỳ xuống bên giường mà chịu trận

Mụ không thèm ngó tới. Chàng van lơn tha thiết mãi đến canh ba, mụ mới thèm nói:

- Giờ muốn được tao xá tội cho, thì phải lấy dao vạch ngực may y như con số tao đã phải chịu, có vậy cái hận này mới tiêu được cho

Tức thời mụ đứng phắt lên, chạy vô bếp lấy con dao phay ra. Chàng sợ quá chạy trốn, mụ rượt theo, làm vang động cả nhà, đến nổi chó sủa gà kêu, gia nhơn cùng thức dậy một lượt.

Vạn-Chung thấy thế, động lòng thương anh, bất giác nổi dóa, lượm cục đá ném vào chị dâu, trúng giữa đầu mụ ngã xuống chết tốt. Vạn-chung nói:

- Ta chết cha anh được sống là ta hả lòng.

Nói rồi nhảy tuốt xuống giếng, người ta vớt lên thì đã ngụp nước tắt thở rồi

Giây lát mụ hồi tĩnh, nghe tin Vạn-chung đã chết, cơn giận cũng nguôi
 
Ác Báo Ghê Hồn 2


Sau khi chôn cất xong, vợ góa của Vạn-chung thương xót đứa con, thề ở vậy thờ chồng., nhứt định không cải giá. Mụ thấy em dâu như thế, chẳng an ủi khuyến khích thì chớ, lại còn mắng nhiếc hàng ngày không cho ăn cơm, bắt ép nàng đi lấy chồng cho khuất mắt.

Nàng đi rồi, để lại đứa con mồ côi, sớm tối bị bác gái đánh đập khổ sở. Mỗi bửa gia nhơn ăn no nê rồi, mụ mới thí cho nó cơm dư canh cặn. Trải nửa năm thằng bé gầy nhom chỉ còn da bọc lấy xương, thở chẳng ra hơi

Một hôm thình lình Mã đến. Vạn-thạch căn dặn người nhà chớ nói cho mụ hay

Mã trông thấy ông cụ lại rách rưới lam lũ như hồi nào, trong lòng sửng sốt tức tối, lại nghe chuyện Vạn-chung chết oan mà thương, đấm chân đấm ngực gào thét rất bi thảm

Thằng bé thấy Mã đến, chạy lại quấn quýt vồn vã, kệu gọi Mã thúc luôn miệng. Thoạt tiên Mã không biết là thằng bé nào, chừng nhìn kỹ mới nhận ra, kinh ngạc và nói:

- Trời đất ơi! tại sao cháu tiều tụy đến nỗi này

Ông cụ tỉ tê, thuật rõ sự tình. Mã phát phẫn, bảo Vạn-thạch:

- Lúc trước tôi vẫn nghĩ anh chẳng phải loài người, nay quả đúng như thế. Anh em hai người chỉ có một đứa bé này nối dõi tông đường, thế mà đành tâm giết nó chết đi lần hồi như vầy đây, là nghĩa thế nào ?

Vạn-thạch chẳng nói được câu gì, chỉ ngồi cúi đầu cụp tai mà khóc rấm rức

Chàng ngồi tiếp Mã một lát, thì mụ đã hay tin có Mã đến rồi. Tuy mụ chẳng dám thò mặt ra đuổi khách, nhưng gọi réo chồng phải vô, bạt tai chàng tối tăm mặt mày, bắt phải tuyệt Mã đi. Chàng nuốt lệ trở ra, những dấu vết tát tai còn in đỏ trên mặt. Mã giận quá nói:

- Anh không làm oai với chị được, nhưng lại chẳng tống cổ đi được ư ? Mụ đánh cha giết em như thế mà anh còn nhịn. Ðâu phải là giống người nữa chớ ?

Chàng nghe, thở dài, có vẻ động lòng. Mã lại khích thêm:

- Nếu tống cổ mụ không chịu đi, thì anh phải lấy sức mạnh đuổi đi cho bằng được. Dù phải giết phức cũng đừng thèm sợ. Tôi có đôi ba bạn thiết đều giữ chức lớn ở kinh đô, tất họ sẽ hợp lực cứu anh, nhất định vô sự

Chàng gật đầu, hung hăn chạy vào trong nhà vừa đụng đầu mụ, mụ thét hỏi định làm gì mà sắc mặt hầm hừ thế. Chàng luống cuống và thất sắc chống tay xuống đất nói:

- Chú Mã xúi tôi đuổi mình đi

Mụ nổi dóa, ngảnh lại tìm dao hay gậy để đánh chồng. Vạn-thạch sợ, vội vàng chạy ra với Mã. Mã phỉ nhổ nói:

- Anh thật là người hư hỏng, không dạy bảo được nửa rồi

Nói đoạn, mở tráp lấy ra gói thuốc bột đem hòa với nước, trao cho Vạn-thạch uống

- Thuốc này là thuốc trượng phu tái tạo đây. Trước kia sở dĩ tôi chưa muốn dùng, vì cớ nó có thể hại người. Nay cực chẳng đã, phải cho anh dùng thử xem sao

Chàng uống thuốc ấy vô giây lát, nghe phẫn khí nổi lên phừng phừng, như có lửa bốc cháy trong ruột gan, ma không sao nhịn được nữa. Tức tốc chạy vào buồng vợ, gầm hét như sấm. Mụ chưa kịp hỏi gì, chàng đã co giò đá phốc một cái, mụ ngã bắn xa mấy thước. Rồi hai tay hai cục đá làm như quả đấm, cứ thụi mãi vào mụ huỳnh huỵch, không biết là bao nhiêu mà đếm. Mụ bị đấm đá sây sát cả thân thể, nhưng miệng còn mắng chửi lia lịa. Chàng liền rút dao mang bên cạnh sườn ra, mụ vừa chửi vừa nói:

- Bộ mày rút dao ra, dám giết tao chết đấy chăng ?

Vạn-thạch chẳng nói chẳng rằng, hươi con dao chém vào bắp đùi mụ, đứt phăng một miếng thịt lớn bằng bàn tay rơi xuống mặt đất

Chàng toan chém nửa, mụ khóc xin tha tội. Nhưng chàng không nghe, lại chém một dao. Người nhà thấy chàng nổi cơn hung dữ thái quá, vội vàng xúm lại, cố sức lôi ra bên ngoài. Mã chạy tới đón rước, cầm tay an ủi chàng còn cơn giận chưa hết, chỉ lâm le chạy vô tìm vợ để chém nủa, Mã cố ngăn lại mới thôi

Một chốc, hơi thuốc tan dần, chàng ngẩn cả người, như giấc chiêm bao mới tỉnh. Mã căn dặn ân cần:

- Anh chớ có ngã lòng yếu vía đấy nhé ! Cái đạo làm chồng được phấn chấn lên, quan hệ ở chuyến này đó. Tẩu tẩu khiến anh sợ hãi quá lố như thế, chẳng phải là chuyện đầu hôm sớm mai gì, sự thật do mỗi ngày một tí, dần dà mà có đã lâu lắm rồi. Chẳng khác chi hôm qua anh chết mà ngày nay sống lại, vậy từ đây nên ráng tẩy cũ thay mới, nếu lại chịu lùi bước phen nữa thì hỏng to

Rồi tức thời bảo Van-thạch vô trong nhà dò xem. Mụ thấy chàng trở vô, chân tay run rẩy, tim nhảy thùm thụp, kêu gọi thị nữ đỡ mình, toan quỳ xuống lạy lục. Chàng ngăn lại mới thôi. Trở ra thuật chuyện cho Mã hay. Hai cha con thấy gia đình thay đổi như vậy, đều lấy làm vui mừng. Mã muốn đi, cha con cùng năn nỉ lưu lại, nhưng Mã cố từ:

- Vừa rồi tôi có việc phải đi Ðông hải, cho nên tiện đường ghé thăm. Giờ tôi phải đi, để bận trở về lại cùng hội hợp

Liền hôm đó Mã lên đường. Hơn một tháng, mụ mới bình phục, thờ phượng ông chồng hết sức tử tế, hẳn hoi. Nhưng dần dà thấy chồng chẳng có tài nghệ gì đáng sợ, thế rồi lần hồi đâm ra dễ ngươi, lờn mặt, kế đến chế diễu, rồi tới mắng chửi. Không bao lâu, thói cũ lại hiện xuất nguyên hình. Ông cụ không chịu thấu, dang đêm bỏ nhà trốn đi Hà nam, nhập tịch đạo sĩ. Vạn-thạch biết vậy, nhưng chẳng dám đi tìm cha về

Cách trên một năm, Mã đến, trông thấy tình cảnh mà chán, trách móc Vạn-thạch tận từ, rồi gọi Hỷ nhi ra, ẵm ngồi trên mình lừa, gia roi đi thẳng.

Từ đó, người làng đều khinh Vạn-thạch, chẳng ai thèm chơi với. Chàng lên tỉnh thi khảo khóa, văn bài dở quá nên bị đánh rớt và bôi tên trong sổ sĩ tử tỉnh nhà

Bốn năm năm sau, nhà chàng phát cháy, tất cả của cải nhà cửa đều hóa ra tro bụi, lại cháy lan cả hàng xóm. Người làng chung đơn lên quận thưa kiện, chàn gbị xử phạt tiền rất nặng. Gia sản còn sót lại chút nào, dần dà tiêu sạch, tới nước không có túp lều mà ở. Mấy làng quanh miền bảo nhau không cho Vạn-thạch ở đậu, không cho thuê nhà. Anh em Doãn thị (bên vợ) cũng giận những việc thất đức mụ làm bấy lâu, cho nên cự tuyệt không chứa cũng không giúp đỡ gì hết.

Vạn-thạch bí lối cùng đường đem bán nàng hầu cho một nhà giàu sang, rồi dắt vợ xuống ghe đi Hà nam. Ðến lúc tiền ăn đường sạch trơn, mụ không chịu theo nữa, một hai kiếm chuyện để tự do đi lấy chồng khác.

Vừa gặp dịp một người làm nghề mổ heo mới góa vợ, bỏ ra ba trăm quan tiền mua mụ đem đi. Chàng bơ vơ một thân, ăn xin khắp xóm này làng kia lần mò đến xin trước cửa một nhà quan, bị tên gác cửa thét mắng đuổi đi, không cho vô trong. Giây lát một vị quan trẻ từ trong đi ra, chàng phục dưới đất mà khóc. Quan nhìn đi nhìn lại, hỏi qua tên họ, rồi sững sốt nói:

- Cơ khổ ! Bác tôi đây mà ! Sao bác nghèo nàn đến thế

Vạn-thạch nhìn kỹ, biết là Hỷ nhi, bất giác khóc rống, theo cháu vô trong nhà, thấy nguy nga bóng lộn. Giây lát, ông cụ vịn vai một tiểu đồng tử trong bước ra, cha con đối nhau bi thương tấm tức. Chàng kể rõ tình cảnh điêu đứng cho thân phụ nghe

Nguyên khi Mã ẵm Hỷ nhi ra đi, đưa thẳng tới đâỵ Mấy hôm sau lại đi tìm ông cụ đến, cho hai ông cháu ở chung với nhau, rồi rước thầy về dạy Hỷ nhi học. Thằng nhỏ thông minh, mười lăm tuổi đậu hạch, năm sau thi Hương đậu cử nhơn. Mã cưới vợ cho xong xuôi, muốn từ giã đi; ông cháu cùng khóc lóc cầm giữ ở lại. Mã nói:

- Tôi không phải người ta đâu. Thật là chồn tiên, các bạn đồng đạo chờ tôi đã lâu, phải để tôi đi mới đặng.

Bấy giờ cậu cử Hỷ nhi kể chuyện ấy cho bác nghe, lòng còn cảm động chan chứa. Nhơn dịp nghĩ lại hồi xưa Vương thị (vợ bé của bác Vạn-thạch), cùng chịu đối đãi bạo ngược như mình, động lòng thương hại, bèn cho xe ngựa và người đem tiền bạc theo để chuộc Vương thị về

Vương thị về hơn một năm, sinh đứa con trai, nhân đó nhắc nàng lên ngôi vợ cả

Còn Doãn thị đi theo người chồng mổ heo được chừng nửa năm, lại giở thói ngang tàng như xưạ Thằng chồng nổi giận, sẵn dao mổ heo, xẻo phăng của mụ một miếng thịt đùi, lại lấy dây trói mụ lại, treo rút lên xà nhà, xong rồi gánh thịt heo ra đi

Mu đau quá kêu la rầm rĩ, lối xóm mới hay. Người ta đến cởi trói và cắt dây, mụ la đang vang dậy làng xóm. Từ đó, hễ thấy mặt anh chàng mổ heo đến thì sợ hãi đến sởn tóc gáy và lạnh buốt xương sống. Chỗ đùi tuy lành, nhưng mà què một cẳng, phải đi khập khễnh, nhưng vẫn sớm hôm phục dịch vất vả, chớ hề dám than van, trễ nãi. Mỗi khi chàng mổ heo say sưa về nhà, là mỗi lần đánh chưởi mụ thậm tệ. Tới đây mụ mới hiểu ra thuở trước mình ác độc với thiên hạ ra sao, giờ mình phải chịu cũng thế

Một hôm Dương phu nhân (vợ Hỷ nhi) cùng bác gái Vương thị đi lễ chùa, các cô các bà nông dân ở quanh đó xúm lại chào mừng. Doãn thị cũng ở trong đám đó, nhưng thập thò không bước tới gần. Vương thị hỏi mụ ấy là ai ? Gia nhơn thưa là vợ người bán thịt heo, họ Trương; đồng thời thét bảo mụ phải đến gần cúi đầu làm lễ. Vương thị cười và nói:

- Con mẹ này đi theo thằng mổ heo, chắc không thiếu thịt ăn, sao mà ốm gầy đến thế ?

Doãn tức và thẹn, về nhà muốn thắt cổ chết phức. Nhưng giây yếu quá không chết. Anh chàng ghét thêm. Hơn năm sau chàng mổ heo qua đời, mụ đi đường gặp Vạn-thạch, đứng nhìn xa xa, nước mắt tuôn như mưa. Vạn-thạch ngại mặt tôi tớ đi bên cạnh, không hỏi gì đến mụ, về nhà bàn với cháu, tính cho mụ trở lại. Cháu nhất định không nghe

Mụ bị người làng xóm khinh bỉ quá, hết chỗ nương tựa, theo lũ ăn mày kiếm ăn. Thỉnh thoảng, Vạn-thạch còn hẹn hò gặp mụ trong một ngôi chùa, Hỷ nhi cho thế là nhục, ngầm sai bọn ăn mày bêu xấu, bấy giờ chàng mới chịu tuyệt.

Chuyện này về sau ra sao, ta không nghe nói.
 
Ai Hát Giữa Rừng Khuya


Tác Giả: Tchya

Tôi dụi mắt ngắm kỹ một lần chót nữa. Quả nhiên, cũng như cảnh tượng vừa hiện ra lúc tôi mới đến, tất cả sự vật chung quanh mình tôi cứ tựa hồ chứa đầy một vẻ bí mật thiêng liêng rùng rợn, một vẻ bí mật mà hình ảnh rõ rệt tôi được mục kích càng làm cho dữ dội, nặng nề.
Hiện trạng đương phô bày trên mái đồi kia, trước mắt tôi không xa mấy, dưới ánh nắng vàng đỏ của buổi chiều tà, hiện tượng đó có quả thực là một hiện tượng hay không, hay chỉ là một hình ảnh mơ hồ mà đôi mắt quáng của tôi lầm tưởng là một bức tranh kỳ quặc? Tôi phân vân không biết tự đáp thế nào. Ngắm đi ngắm lại, nhìn rồi lại dụi mắt, dụi mắt xong lại nhìn, tôi hết sức kinh nghiệm để chắc chắn, cho kỳ mối ngờ vực của tôi thành hẳn ra ngờ vực, hoặc biến thành một tín ngưỡng sâu xa. Nhưng... có lẽ nó hóa ra tín ngưỡng mất.
Vì, chỉ cách tôi bảy tám cột đèn, nghĩa là non hai trăm thước, giữa ban ngày, sự lạ lùng hiện ra cho tôi trông thấy vẫn không hề biến đi, mà cũng không thay đổi. Sự ấy thực là một kỳ quan độc nhất vô nhị, một sự tối vô lý mà mình phải tin là thật, nhưng cũng có nghi ngờ là giả dối, mơ hồ. Cứ lấy con mắt hết sức chú ý nhìn, thì sự đó vẫn không trốn tránh tính tò mò hiếu sự của ta; song, hễ khi nào ta dùng đến một vật gì để đi gần lại trường hoạt động của nó, thì nó biến vụt ngay như làn khói bị gió lùa. Hoặc ta tìm cách đi gần chân đồi, còn độ hai ba cột đèn sẽ tới nơi, trông lên thì không thấy gì nữa cả; hoặc ta đưa lên mắt một cặ ống nhòm để phóng đại trường qua sát, phong cảnh càng to ra bao nhiêu thì hình ảnh ta muốn thấy lại mờ đi bấy nhiêu, có khi hóa thành trong như vắt như kính, nghĩa là không có hình sắc nữa.
Bằng cứ chịu khó đứng xa xa mà ngắm nhìn, thì dẫu ngắm chán mắt, sự kỳ quặc kia cũng vẫn hiện ra cho mình trông thấy, hiện ra một cách nửa rõ rệt, nửa mơ hồ, lạ lùng khó tả quá! Nhưng không phải ngày nào, giờ nào, bất cứ lúc nào, ta cũng có hạnh phúc được nhìn nó. Nó chỉ thoát khỏi cõi âm trở về cõi dương một năm có vài kỳ, mỗi lần sự biến thiêng của khí hậu gợi cho nó nỗi nhớ tiếc thời oanh liệt thuở xưa.
Sự biến thiên đó họa hoằn mới xảy ra; ấy là một điều tối không may cho những khách tò mò hiếu sự. Như tôi chẳng hạn. Tôi đã phải dằng lòng gắn sức đợi đến ngót tháng trời được trông thấy hình bóng tôi muốn thấy; nào phải đâu là sự dễ dàng.
Cảnh tượng dị kỳ tôi đã được chứng kiến, nó là hai con ma, hai cái oan hồn uất ức của hai kẻ chịu tử hình, lâu ngày không tiêu đi được nên tụ lại thành bóng, hấp thụ mãi khí thiêng liêng của trời đất, nên mỗi khi bị hoàn cảnh xúc động đến là hiện được lên ngay, hiện lên để diễn lại một tấn trò mà xưa kia, hai oan hồn đó thường diễn những giờ cao hứng.
Phàm giả người ta, trong buổi bình sinh, có một thú gì mình yêu nhất, mê nhất, một thú gì làm then chốt cho tất cả bao nhiêu tính tình dục vọng của mình, một thú gì mình đã biết hưởng và đã đặt trên tất cả những khoái lạc của cuộc đời, thì nhiều lúc, sau khi đã lìa bỏ cõi tục rồi, vẫn còn nhớ tiếc đến thú ấy luôn luôn, chỉ ngong ngóng chờ có dịp hưởng lại là chộp lấy ngay, không bỏ sót.
Cũng bởi cớ đó nên một khi thi nhân đã chết, hồn thi nhân còn muốn ngâm thơ; một khi nhạc công đã chết, hồn nhạc công còn muốn gảy đàn. Câu thơ Ðường của Vương Bột văng vẳng trên dòng sông Lạc, điệu đàn của Sư Quyên véo von trên mặt sông Bộc đó chẳng phải là những chứng cớ rõ ràng cho thuyết ấy hay sao?
Mà nhất là khi kẻ bị thác lại là người mệnh bạc, vì nghiệp chướng mà chết oan, chết yểu, bất đắc kỳ tử hay bị nhục hình, thì một điểm linh hồn bay phiêu diêu trong gầm non nước không tài nàosiêu linh tịnh độ được, cứ mập mờ khi tan khi tụ, bơ vơ trôi dạt, không đâu là bờ bến. Ðiểm linh hồn đó vẫn còn nhớ rõ rệt cuộc sinh hoạt mình trải, vẫn còn đầy dục vọng và tình cảm, nhưng chỉ vì không có xác vật chất nên khó lòng diễn được dục vọng và tình cảm đó mà thôi. Nhiều khi linh hồn còn muốn sống thêm nữa trên cõi thế, bởi chưa dứt hẳn trần duyên, còn muốn vẫy vùng nữa, ganh đua nữa cùng với người đời cùng tranh đấu cho tới cùng. Có linh hồn khi thác bỗng tỉnh ngộ ra, bay lên một cõi thiêng liêng cao sạch để ngao du, tĩnh dưỡng.... Còn như các linh hồn bị nghiệp duyên dục vọng buộc chặt với cuộc sinh hoạt củ loài người, thì chúng thường hay bay vơ vẩn quanh quẩn bên mình ta, trông ta một cách ham muốn thèm thuồng, chỉ đợi có dịp là tất là trở về sống chung với ta, dẫu rằng trong một phút.
Ðó là những chúng sinh.
Mỗi khi có đàn tràng cúng tế, là chúng lần mò cùng đến, để rồi cướp lộc cướp cơm, mỗi khi có kẻ ngồi đồng, hay có kẻ thần hồn bị suy nhược là chúng ám vào người để được cử động quay cuồng cho đắc ý. Lại những cuộc thi hội, thi hương, thì chúng tụ lại họp cả ở cửa trường, để đợi gọi đến thì ùa vào mà báo ân báo oán.
Nói ra không hết được; ta chỉ biết bởi cớ có nhiều âm hồn còn muốn sống nữa, nên khi có xảy ra những chuyện kỳ dị mà, nếu mắt ta chịu khó bỏ hết các thành kiến, nếu ta chịu lưu tâm suy xét đôi chút đến nhẽ huyền vi của máy âm dương, ta sẽ nhận thấy rõ là không có sự gì hoang đường cả. Trên đời chỉ hoàng toàn có sự thực mà thôi, cái gì có thể xảy ra được đều là sự thực cả. Chỉ có một điều là không phải ma nào, oan hồn nào cũng hiện lên được cả. Ma muốn hiện hình tất phải đủ tư cách, phải ở trong những trường hợp không bị ngăn trở mới biến hóa được. Thí dụ như vàng muốn biến thành nước tất pphải nấu lên ngoài ngàn độ, sự biến từ thể nọ sang thể kia không phải bất cứ trường hợp nào cũng xảy ra được.
Cho nên, ma có thể hiện hình được, trước hết cốt phải thiêng, mà muốn thiêng, thì thao như chúng ta biết, phải có một vài điều kiện. Một là chết đúng giờ, hai là chết trẻ, ba là chết một cách thê thảm, bốn là chết oan, năm là được chôn ở đất có mạch hay là hấp thụ được khí thiêng của trời đất.
Phi mấy điều kiện ấy, thì chỉ là một mảnh hồn yếu ớt, phất phưởng, khi tán khi tụ, bay là là vô định trong gầm vô định mà thôi. Mà có được cả mấy điều kiện vừa kể, cũng phải tùy từng tuổi, từng chỗ, từng thời mới hiện lên được...
Cuộc sống ồn ào đã đánh tan âm khí, ma thiêng phải bạt đi xa. Những linh hồn, dù mạnh mẽ đến đâu, cũng khó có lòng hiện lên được, vì khí dương mạnh quá. Có lẽ các ma thiêng đều chạy cả về những chốn đồng rừng xa vắng, ở lẫn lút trên đồi, trên ải, không còn hy vọng gì phảng phất ở những đô thành.
Chả bù với thời thái bình êm ái thuở xưa: đâu đâu âm khí cũng đều vượng cả, muốn rong chơi chỗ nào cũng được, không bị một mãnh lực gì ngăn cản, đánh tan đi. Thuở đó, người âm phủ với người dương gian nào có xa nhau mấy: ông Bồ đã vì sự người với ma hay chung chạ mà viết nên pho truyện Liêu Trai. Ðến thời nay, Liêu Trai đã hóa ra một cuốn truyện hoang đường vô lý! Cho hay ma cũng có thời.
Tôi có lẽ còn được nhiều hạnh phúc hơn Bồ tiên sinh là tôi đã được thấy tận mắt ma hiện hình giữa ban ngày, trong thời đại bây giờ, lại ở một nơi không cách xa đô thành phồn nhiệt mấy. Ðó thực là một sự lạ; và, cũng vì sự lạ đó, tôi mới chép nên câu chuyện này...
 
Back
Top