• Hiện tại trang web đang trong quá hình chuyển đổi và tái cấu trúc lại chuyên mục nên có thể một vài chức năng chưa hoàn thiện, một số bài viết và chuyên mục sẽ thay đổi. Nếu sự thay đổi này làm bạn phiền lòng, mong bạn thông cảm. Chúng tôi luôn hoan nghênh mọi ý kiến đóng góp để chúng tôi hoàn thiện và phát triển. Cảm ơn

NHỮNG CÂU CHUYỆN VỀ MA QUỶ!!!

Những chuyện huyền bí có thật 1

Tác giả: Nguyên Hà

Truyện 1
Tình oan nghiệp báo


Người Việt ở ngoại quốc nói chung, ở Hoa Kỳ nói riêng, sau hơn mấy mươi năm lưu lạc đã trở thành một biểu tượng sâu sắc và gương mẫu khiến cho đa số người dị chủng dành cho sự thán phục xen lẫn cảm tình và quan tâm, đến nỗi họ xem những tập quán cố hữu của tiền nhân chúng ta để lại được lưu truyền tại đất này đúng như những tấm gương trong sáng, họ cần tìm hiểu và học hỏi về những đặc tính thông minh đạo hạnh, cầu tiến, cần cù nhẫn nại từ từng cá nhân, gia đình cho đến cộng đồng xã hội.

Tuy vậy, thỉnh thoảng hoặc đôi khi trong cuộc diện sinh hoạt thường hằng của người Việt tỵ nạn, vẫn thường xảy ra những tệ đoan xã hội thật đáng tiếc khiến báo chí hay các cơ quan truyền thông phải đề cập tới bằng những lời lẽ hằn học hoặc công kích phê bình thiếu vô tư dành cho cộng đồng người Việt, mà thực ra, khó có cộng đồng nào có thể tránh khỏi giữa một quốc gia tạp chủng và lại tự do đến độ gần như mù quáng này. Nhưng nếu tỉ mỉ đem so sánh bằng sự công tâm qua mật độ dân số giữa các nước đang cùng sinh sống trên vùng đất này, người ta sẽ nhận ra rằng, những dữ kiện xấu do thiểu số thanh thiếu niên Việt Nam gây ra bởi sự nông cạn nhất htời vẫn chỉ là một tỷ lệ nhỏ. Tuy nhiên, cho dù nhỏ đến thế nào đi nữa, thì thường khi phải chứng kiến một sự kiện không tốt đột ngột xảy ra ở bất cứ nơi đâu, vào bất cứ lúc nào, nếu thấy có tính cách xúc phạm đến thanh danh của dân tộc, thì có thể nói, hầu như mọi người Việt Nam ở đây đều sẵn sàng can thiệp hoặc trợ giúp tức thời những người gặp nạn với một tinh thần hăng hái hoặc bằng những giải pháp hoàn toàn thích hợp và đầy ắp tình người.

Trường hợp của người thanh niên tên Đức bị một vong hồn thiếu nữ nhập xác, biến anh thành một người dở khùng dở dại, bỏ phế đời sống tươm tất cùng công ăn việc làm ổn định, đêm ngày đi lang thang nơi đầu đường xó chợ, chuyên tìm kiếm bươi móc, ăn uống các loại uế tạp cặn bã dư thừa hư thúi ở các thùng chứa rác rưởi là một thí dụ điển hình về tinh thần đạo hạnh và tình nghĩa nhân ái thâm sâu của các đồng bào ruột thịt.

Là một thanh niên chăm chỉ, có học vấn lại hiền lành khỏe mạnh, nhân dáng chững chạc dễ coi. Nhưng câu chuyện của người thanh niên một thân một mình tên Đức này vượt biên chung trên một chiếc thuyền nhỏ bé mỏng manh cùng với mấy chục người khác thuộc đủ mọi thành phần nam nữ tuổi tác rồi đã phải nếm trải qua những phút giây cực kỳ kinh hoàng man rợ, diễn ra bởi bọn cướp biển không còn một chút tính người. Chúng hung hăng lục soát chiếc thuyền không chừa một ly tấc, để vơ vét tiền bạc nữ trang của tất cả những người đi trên tàu. Dã man và đau lòng nhất là thủ đoạn lang thú hoang dâm của chúng dành cho những thuyền nhân đàn bà con gái. Chúng thay phiên nhau hành hạ thân xác những cô gái trẻ tuổi có chút ít nhan sắc đến nỗi, trong số những phụ nữ kém may mắn này có một thiếu nữ tuổi ngoài hai mươi với khuôn mặt đẹp như trăng rằm, khiến cho Đức không thể giữ cho lòng không rung động và thầm yêu cô ngay từ phút đầu tiên khi anh vừa chạm mặt trên con thuyền định mệnh. Sau này, Đức được biết tên cô gái vượt biên mang dáng dấp quý phái và sắc đẹp tuyệt trần đó là Trâm, con gái của một nhân vật dân sự nổi tiếng thuộc chế độ cộng hòa.

Mười sáu năm về trước, chiếc thuyền nhỏ bé có sự hiện diện của Đức và cô gái đẹp tên Trâm đã thoát được mạng lưới canh gác nghiêm ngặt của công an ven biển, ra được đến hải phận quốc tế sau ba ngày rời khỏi "bãi đáp" từ một eo biển hoang vắng thuộc thị xã Vũng Tàu. Lúc bấy giờ, thời tiết đang vào giữa tháng tư trời êm sóng lặng mà bỗng nhiên biển cả hậm hực chuyển mình. Từng đám mây nặng nề đột nhiên phủ kín bầu trời không còn vương một tia nắng nhẹ. Mặt biển và không gian mênh mông thoáng chốc chìm đắm trong một thế giới tăm tối mịt mù. Những cơn sóng dữ bắt đầu chuyển động rung chuyển cuồng nộ, thét gào và xô đẩy con thuyền xấu số, có lúc nằm lơ lửng chênh vênh trên đầu ngọn sóng, có lúc bị vùi dập chìm sâu giữa hai vách tường nước đen ngòm. Gió phũ phàng thổi tới từng chập lắc lư, tạt từng đợt nước mưa xối xả lạnh căm lên thân xác những con người vượt chết đi tìm tự do.

Cơn giông bã thịnh nộ đến xế trưa mới chịu nhẹ dần. Biển bắt đầu dịu lại, hiện ra dưới bầu trời loang loáng ánh tà dương, cũng là lúc động cơ ba ngựa của con thuyền nhỏ không còn có thể hoạt động thêm được nữa vì số lượng dầu chứa trong gần hai chục chiếc bình bằng nylon đã bị sóng đánh văng ra trên mặt biển từ lúc nào. Những "can" đựng nước ngọt dự trữ cũng cùng chung một số phận. Con thuyền nhỏ bé bấy giờ chỉ còn có cách để cho thả trôi lênh đênh trên triền sóng, không biết số phận rồi sẽ ra sao. Thời gian kéo dài đến gần giữa khuya thì đột nhiên, trong đêm đen mênh mông u tối, gió rít lạnh người, bỗng hiện ra những ánh neon dập dềnh khi mờ khi tỏ bồng bềnh ẩn hiện theo từng đợt sóng nhẹ lắc lư.

Thoáng chốc những ánh đèn đó từ từ tiến lại thật gần, thật gần cho đến khi mọi người trên chiếc thuyền tỵ nạn khốn khổ nghe thật rõ những âm thanh man rợ của những tên quỷ dữ đội lốt người đang đắc chí nhảy múa reo hò. Mọi người nhận ra được, đó chính là chiếc tàu sắc dềnh dàng to lớn của bọn thảo khấu đại dương (cướp biển). Chúng chiếu ngọn đèn sáng rực xuống chiếc thuyền tỵ nạn, nơi đang lố nhố những con người thất thế tội tình, tự biết rằng đã sa vào tay của bọn quỉ dữ. Họ vừa la vừa khóc kêu gào thảm thiết, vừa đọc kinh vừa niệm Phật và xúm nhau cúi lạy bọn thảo khấu như tế sao. Nhưng chúng dửng dưng chẳng chút quan tâm, đâu cần lưu ý tới những hành động vô tích sự này. Chiếc tàu sắt ngụy trang dưới dạng tàu săn lưới từ từ cập sát vào main chiếc thuyền nhỏ mong manh.

Chúng đứng lố nhố quan sát chiếc thuyền tỵ nạn kỹ càng rồi quăng xuống một chiếc thang dây và bi bô bằng một thứ ngôn ngữ lạ lẫm không ai trên thuyền có thể hiểu được. Chúng ra hiệu bằng tay cho biết, tất cả phải rời bỏ chiếc thuyền để leo lean con tàu của chúng cho đến khi thực sự không còn lại một người nào, chúng mới hạ lệnh cho mọi người tự động chia thành hai nhóm, một nhóm đàn ông bị đẩy tới đứng ngồi riêng biệt ở một góc sàn tàu, nhóm còn lại gồm trẻ em, đàn bà con gái bị xô lùa tới một bên, với từng tràng âm thanh dọa nạt quát tháo đinh tai nhức óc nghe đến rợn người.

Bất thình lình một người đàn ông tỵ nạn dáng người trông khá vạm vỡ chợt nhìn thấy hành động quá tục tằn bỉ ỏi của một tên hải tặc diễn ra với một phụ nữ, có lẽ chính là vợ của ông ta, nên ngay tức thời, ông ta liều lĩnh xấn tới, lao mình vào tên hải tặc, bèn bị ngay tên này dùng chiếc búa đẽo hắn đang cầm sẵn trên tay bổ ngay một phát lên chính giữa đỉnh đầu giống như hắn bổ một trái dừa, khiến cho người đàn ông gục xuống chết tốt không kịp một lời kêu la trăn trối, chiếc đầu của ông ta bị chẻ làm đôi, máu và óc phun ra tung tóe khắp nơi trông đến rợn người.

Thảm cảnh đó diễn ra chưa đầy một phút cũng đủ khiến cho tất cả mọi người bỗng nhiên biến thành những xác thân co rúm tê liệt, không ai còn giữ được chút khả năng chống đối, ngoài những tia mắt cực độ bàng hoàng cùng những tiếng la hét thất thanh hỗ độn. Chúng bắt đầu bộc lộ trắng trợn thú tánh của lũ người súc sanh tội lỗi, ngang nhiên biểu diễn những hình ảnh hành hạ thân xác của những thiếu nữ, đàn bà. Lẽ tự nhiên, người con gái đẹp tên Trâm mà Đức đã thầm đem lòng yêu thương ước vọng từ mấy ngày qua cũng không thoát khỏi bọn hải tặc dã man khát tình. Nhất là cô lại là một người nhan sắc có sức thu hút mãnh liệt nhất trong số những nữ thuyền nhân này, cho nên cô thật khó tránh khỏi gánh chịu một hậu quả thê thảm hơn tất cả mọi người.

Phần Trâm, ngay từ phút giây thứ nhất khi cô nhận biết đã lọt vào tay của lũ cướp biển man rợ, đến khi bị tên hải tặc biểu lộ nhiều quyền uy nhất, dáng chừng hắn là kẻ chỉ huy, tiến đến lôi phắt cô ra một chỗ trống trên sàn tàu để bắt đầu dở trò tồi bại, cô đã tự biết mình sẽ bị tên lang sói mọi rợ này sẽ dập dùi thân xác của mình. Cô bàng hoàng kinh sợ, miệng khấn nguyện liên hồi, trong khi đôi cánh tay yếu đuối cố sức vùng vẫy chống cự nhưng không đưa đến một kết quả nào, đôi mắt của cô hướng về phía đám đàn ông tỵ nạn, giờ như một đám người vô dụng như van nài một sự ra tay cứu vớt, nhất là nơi đám người đó, có một chàng thanh niêng mà cô cũng rất có cảm tình. Trong giây phút tuyệt vọng tận cùng không còn có thể trông cậy vào phép lạ nào có thể cứu độ cho cô thoát khỏi nhục hình trước tên hải tặc, cùng với giác quan bén nhạy của một người con gái, một mặt cô thành tâm khấn nguyện, sám hối và tụng niệm các bài kinh cứu khổ cứu nạn, khẩn cầu đức Quan Thế Âm Bồ Tát nhủ lòng từ bi hỉ xả ra tay cứu vớt, một mặt cô đã nhận thức được cảm tình của người thanh niên đi chung thuyền mà cô mường tượng được rằng người thanh niên này đã dành cho cô những tình cảm rất chân thành sâu đậm giữa hai người khác phái. Cô hướng tầm mắt van nài về phía người thanh niên tên Đức, lúc bấy giờ cũng chỉ biết lặng yên thúc thủ, ngồi co ro khúm núm như một con chuột nhắt trước đám mèo rừng đầy nanh vuốt, anh ta trố mắt ra nhìn mà không dám chứng tỏ thái độ phản kháng nào dù thật nhỏ nhoi khiêm tốn. Còn về những ý nghĩ ăn năn sám hối, cầu trời khẩn Phật của Trâm, tuyệt nhiên chỉ như những lời kinh tan vào thinh không vô vọng.

Cuối cùng, việc đen tối phải đến đã đến, cô bị tên hải tặc vật ra hành hạ một cách tàn bạo không chút gượng nhẹ xót thương. Sau khi thỏa mãn thú tính chán chê, một tên khác tiếp tục lao vào, rồi lại một tên khác nữa cũng hăm hở dày vò thân xác của cô lúc bấy giờ đã trở nên quá đỗi bầm dập và đau đớn cho đến khi, cô không còn sức chịu đựng thêm những cực hình nhục thể, thì linh hồn cô đành lìa khỏi xác, trút hơi thở cuối cùng trong màn đem đen hoang lạnh, văng vẳng bao nhiêu tiếng người gào thét khóc than.

Trước khi vĩnh viễn lìa trần, Trâm - tên người con gái vắn số - không quên để lại một tia nhìn tuy yếu ớt song tràn đầy oán hận về phía người thanh niên tên Đức khiến cho anh ta luôn luôn bị ám ảnh triền miên mãi cho đến suốt những năm tháng sau này.

Sau khi hả hê cướp bóc, giết chóc dã man và hãm hại những người tỵ nạn xa cơ vô tội, bọn cướp biển xua đuổi những người còn sống sót sau cơn kinh hoàng trở lại con thuyền nhỏ của họ và ném theo cho vài "can" dầu cùng một ít lương khô vặt vãnh, chúng quay mũi tàu phóng đi mất hút trong lòng biển đêm đầy gió lộng.

Ít ngày sau, chiếc thuyền nhỏ bé như chiếc lá lênh đênh của đám người vượt chết ra đi tìm tự do may mắn trôi dạt đến được một dàn khoan dầu, họ được tiếp cứu và được đưa tới một trạm tiếp nhận thuộc phía bắc quần đảo Mã Lai. Khoảng một năm sau, đám người này được phân tán nhận cho đi định cư tại các quốc gia đệ tam. Riêng người thanh niên tên Đức được một cơ sở thiện nguyện Hoa Kỳ nhận cho anh vào Mỹ.
 
Những chuyện huyền bí có thật 2


Bước chân lưu lạc của Đức nổi trôi theo dòng đời. Anh sớm ý thức được thân phận đơn lẻ của mình nơi xứ lạ quê người, tứ cố vô thân, không một ai là bà con ruột thịt. Đức vùi đầu vào việc trau dồi anh ngữ cho đến khi chấm dứt thời hạn thụ hưởng trợ cấp xã hội thì anh cũng vừa vặn học xong nghề điện tử, kiếm được công ăn việc làm với đồng lương khiêm tốn, thăng tiến dần theo năm tháng. Nhờ vậy, Đức đã sớm ổn định được cuộc sống cá nhân, lại có dư điều kiện để viện trợ kinh tế đều đặn cho gia đình còn ở lại quê nhà.

Những tưởng cuộc đời thường nhật của một thanh niên tỵ nạn mẫu mực như Đức được vậy kể cũng đã tạm yên nếu thỉnh thoảng anh không bị nỗi ám ảnh kinh hoàng về tấn bi kịch hải tặc diễn ra trên biển đông năm nào với đôi mắt lạc thần van lơn của người con gái tên Trâm cùng cái chết thảm thiết đau lòng, khiến anh không thể nào nguôi ngoai quên lãng. Luôn luôn Đức cảm thấy vô cùng khiếp sợ bối rối cộng thêm niềm tiếc hận mỗi khi mường tượng lại từng chi tiết trong thảm kịch này. Nhất là ánh mắt đáng thương đầy tuyệt vọng van nài của cô gái đẹp đẽ năm xưa, dường như có một ma lực huyền bí nào đó vẫn cố tình đeo đuổi, ám ảnh và trách cứ trong tâm tư hằng ngày.

Đã bao điêm từ khi được rời đảo định cư tại xứ này, Đức chập chờn thao thức hoặc choàng tỉnh giấc sau những cơn ác mộng nặng nề với hình ảnh bi thương quằn quại của người con gái khốn khổ trong đôi tay hoang dại của bầy cướp biển hung bạo cùng với ánh mắt kinh hoàng lạc thần của Trâm đến nỗi, anh có cảm tưởng nàng đang lẩn khuất đâu đây, và chừng như nàng vẫn bám sát theo anh đêm ngày và thường xuất hiện trong anh với những giấc mơ đầy kinh dị, không thể nào tẩy xóa và có thể quên đi trong đời, cho đến một ngày, giống như một người thua cuộc, Đức không còn đủ nghị lực để duy trì sự bình yên sáng suốt trong tâm não. Anh cảm nhận như thấy có niềm hối hận vô bờ, tâm tu anh mỗi ngày một thêm hoang mang ray rứt và ý thức rõ ràng anh thật đáng tội ươn hèn trước khổ nạn của những đồng bào ruột thịt và của người con gái tên Trâm. Nhưng giờ đây, anh không biết phải làm gì để xua tan nỗi niềm ăn năn tiếc hận của một người thanh niên không chu toàn nghĩa khí đàn ông trước thảm cảnh bi thương.

Đức hay ngao ngán thở dài, anh lắc đầu xua đuổi những ý nghĩ đen tối quấy nhiễu tâm thức của anh và thường đổ vấy cho số phận đã an bài, rồi âm thầm cầu nguyện cho oan hồn người con gái đẹp mà anh vẫn còn thầm yêu trộm nhớ đã bị uổng tử năm xưa để nàng được sớm siêu thăng tịnh độ trong cõi ta bà.

Nhưng sau cùng, tự nhiên Đức trở nên một người không còn lý trí. Mọi sinh hoạt của anh trở nên xáo trộn bê trễ rồi anh tự ý bỏ ngang công việc đang làm, đi lang thang như người hàng khất, miệng lảm nhảm những lời lẽ vô nghĩa không đâu. Tia mắt của anh dại đi như kẻ mất hồn. Khốn thay! Anh lại không có lấy một người thân thiết để mà nhắc nhở hoặc chạy thày chạy thuốc cho anh, săn sóc giúp đỡ anh có được những bữa cơn độ nhật qua ngày. Tình trạng đó diễ tiễn mỗi ngày một thêm trầm trọng, Đức đói khát triền miên rồi dần dần mất hết trí khôn. Thân thể của anh sa sút não nề, không còn giữ được chút phong độ khi xưa, sắc khí anh trở nên xanh xao ốm yếu lạ thường. Quần áo tóc tai anh bờm sờm rách rưới tả tơi và hôi hám đến lợm người, không ai chịu nổi mùi xú uế thoát ra từ áo quần thân thể của anh. Đức thường lom khom lầm lũi bước những bước chân chuệnh choạng yếu ớt lê lết đến những ngõ ngách vắng người và tìm đến nơi có những thùng chứa rác để bươi móc tìm tòi miếng ăn. Gặp được bất cứ cái gì có thể nhai được trong miệng là anh vơ lấy ăn nghiến ngấu không còn biết phân biệt được sạnh dơ hay thúi rữa ghê hồn.

Nhiều người cảm thấy rất bất nhẫn khi tình cờ chứng kiến một kẻ đồng hương dở ngây dở dại, lem luốc dơ bẩn, đáng thương như Đức lê la lam lũ ở lề đường khiến họ động mối từ tâm, cố gắng bịt mũi nín thở tiến lại bên anh để ủy lạo, cho tiền hoặc cho phẩm vật thức ăn và ân cần hỏi han tương trợ. Nhưng đối với Đức, anh đâu còn lý trí sáng suốt để phân biệt phải quấy ra sao, tâm thức anh dường như đang chịu sự chi phối nặng nề của một kẻ vô hình nào đó chứ không còn thật tính người, anh cũng chẳng còn có thể nhận biết được điều gì, chẳng còn nghe và hiểu được những lời chuyện trò mọi người thăm hỏi. Ngày lại ngày, anh vẫn lầm lũi chân thấp chân cao bước tới những chỗ có rác rến để tìm ăn uống những phế vật hôi hám dư thừa.

May sao có người đồng hương nhận ra được tình trạng đáng thương và khác lạ nơi anh. Ông ta vội vã đưa Đức đến một ngôi đền, nơi đang có các vị pháp sư cao minh hành đạo, các vị này trong bao nhiêu năm tạm dung tên đất Mỹ, từng khiển dụng âm lực cao cường để làm việc phước đức hoặc thực hành các bí pháp chân truyền nhằm hòa giải những xung đột, bất mãn, nợ nần oan khiên giữa hai miền âm dương cách biệt và chế ngự các tà ma hung hăng ác nghiệt để cứu nhân độ thế.

Đến ngôi đền, mặc cho người đồng hương xô đẩy trì kéo, oan hồn cô Trâm trong Đức khăng khăng không chịu bước vào, cho đến khi nhiều người hợp sức lại khiêng anh vào nội thất tôn nghiêm trước bàn thờ khói hương nghi ngút thì bỗng nhiên, Đức tỉnh táo được phần nào. Tuy vậy, anh trừng mắt láo liên nhìn ngó quanh quẩn, thái độ đầy cao ngạo ngang bướng. Họ cố đẩy anh đến trước bàn thờ, thay vì cung kính nghiêm trang đảnh lễ; trái lại, bằng một thái độ cố tình ngang nhiên trịch thượng, Đức ngã vật ra giữa nền nhà, tay chân quơ cào lại đả, miệng lảm nhảm la lối huyên thuyên.

Thốt nhiên, các vị đạo gia thuộc đủ mọi cấp độ hành đạo ở ngôi đền này, thần nhãn cao thâm, đạt tới mức công năng chuyên cần tu tập, nhận biết ngay Đức mắc phải tình trạng nan giải do một vong hồn nào đó đang hoành hành, lưu trú. Vị pháp sư chủ trì ban rải tâm từ bi đưa mắt hướng nhìn về nơi Đức đang ngạo nghễ nằm với thái độ bất mãn đầy gây hấn.

Không cần tìm hiểu sâu xa, thoạt trông thấy dáng điệu và khí sắc bất thường của người thanh niên, ông đã thừa kinh nghiệm để thấu suốt anh ta đang mắc phải căn bệnh tà, ông dụng thần lực bắt ấn, chuyển đạt sức mạnh vô hình nhằm trói thúc tứ chi của hồn ma trong thân xác của Đức, mục đích chỉ để chế ngự thái độ hung hăng, khiến cho anh phải nằm co quắt rên la và như không thể tiếp tục chịu đựng thêm sự đau đớn càng lúc càng xiết lại như một cực hình, Đức vật vã gào lên như đang chịu một hình phạt kinh hồn, anh van xin cởi trói. Lúc bấy giờ vị pháp sư chủ trì mới ôn tồn nói chuyện với anh:

- Thì ra... "cô" cũng biết đau đớn như mọi người! Tại sao đứng trước bàn thờ tôn nghiêm mà "cô" không chịu cúi đầu đảnh lễ? Vì sao "cô" tỏ ra quá hỗn hào? "Cô" có biết đó là hành động vô phép và rất thất lễ đối với các đấng bề trên đã khiến cô phải chịu sự trừng phạt? Sự trói buộc và nỗi đau đớn nãy giờ thật ra chưa phải là hình phạt duy nhất, thiêng liêng mới chỉ tạm chế ngự thái độ hung hăng vô lễ để giúp cho "cô" lấy lại tâm trí tỉnh táo yên bình...

Lúc đó, những tín hữu thường đến ngôi đền này để đọc kinh lễ Phật, hiện diện khá đông đảo, nghe vị pháp sư soi rõ tường tận và nói đúng chân tướng hồn ma đang trú ngụ trong thân xác và đang khống chế tinh thần của người thanh niên tên Đức, họ cảm thấy thất kinh hồn vía, vội đứng nhích ra xa quan sát.

Ngừng nói trong giây lát như có ý dành thời gian để cho "cô" ma nữ lấy lại bình tĩnh cố hữu, vị pháp sư mới ôn tồn đưa ra một đề nghị:

- Bây giờ nếu "cô chịu hứa lễ Phật và nghiêm trang nói chuyện, ta sẽ thỉnh ý chư thần xin mở trói cho cô, để cô được thoải mái tự do như lúc thường! Cô bằng lòng chứ?

Vong linh người con gái tên Trâm chiếm ngụ trong thân xác của Đức bấy giờ mới chịu nhìn nhận chân tướng và khuất phục trước oai lực vô biên của thiêng liêng qua trung gian huyền bí của vị pháp sư. Chân tay của cô ta vừa thoát khỏi những dây nhợ trói buộc đớn đau, quấn quít vô hình. Cô đã nhận được huyền lực, lấy lại tự do cho thân thể. Cô đứng dậy nghiêm trang lễ Phật, thái độ tỏ ra từ tốn khoan hòa. Đợi cho hồn ma nữ thi hành xong mọi nghi thức, vị pháp sư bắt đầu hỏi chuyện:

- "Cô" cho ta biết, vì lẽ gì cô không chịu lễ Phật, còn tỏ ra thái độ hung hăng quá khích? Hồn ma nữ (ngụ trong xác thân của Đức) ngước đôi mắt đáng thương chứa đựng giận hờn nhìn pháp sư. Cô nghiện ngào cho biết:

- Ông không hiểu tại sao tôi tỏ ra như vậy cũng đúng! Tôi vốn là một Phật tử thuần thành biết lễ trên kính dưới chứ đâu phải hạn vô thần ngỗ nghịch như bây giờ, nhưng từ lâu lắm rồi, kể từ sau khi tôi bị hải tặc hãm hại, mặc dù đã chí thiết khấn xin cứu độ mà vẫn bị làm ngơ, trong tâm tư tôi tuyệt nhiên không còn chỗ cho thần linh ngự trị, tiêu tán tất cả mọi niềm tin. Ông biết được tại sao rồi chứ?

Nhìn thái độ còn chất chứa bao nhiêu thống trách dỗi hờn sâu kín tiềm ẩn trong lòng ma nữ, vị pháp sư chậm rãi nói một cách hiền hòa:

- Đó! Nếu cô không chịu bày tỏ thì không ai có dư thời giờ để có thể biết cô đã phải trải qua những hoàn cảnh rủ ro như thế nào. Hôm nay, chắc chắn nhờ có duyên cơ phước đức, cô đã đến được nơi đây, xem như những tâm sự uẩn khúc của cô sẽ được mọi người chia xẻ và hóa giải hoàn toàn. Trong cương vị của kẻ làm việc đạo, nếu muốn, chúng tôi có thể dễ dàng tìm hiểu được ngọn nguồn câu chuyện cùng những tai nạn hạn họa đã xảy ra trong quá trình bức tử của cô.

Nhưng trước khi chúng tôi thỉnh nguyện ơn trên từ bi cứu độ cho cô trở về với sự bình an nguyên thủy, chúng tôi muốn chính cô nói ra lý do tại sao không giữ lấy đức tin tối cần thiết và sự sùng kính của con người dương thế lẫn những hồn oan đối với các đấng hiển linh?

Giọng nói của pháp sư hàm xúc âm điệu dịu ngọt như an ủi dỗ dành, đã tác động xâu xa trong tâm hồn ma nữ, "cô" bắt đầu kể lại nguồn cơn mất hẳn đức tin, đôi khi cô tinh nghịch biến hóa hiền tượng Phật Bà Thánh Nữ, hiện ra để treu ghẹo đánh đập phá phách người thanh niên, để cho anh ta cũng nóng giận, mất hẳn đức tin, đâm ra ngang ngược vô lễ với các vị thánh thần. Cô tự chối bỏ đức tin, đồng thời đem thái độ ngang nhiên vô phép ra hành xử trước dung nhan Thượng Đế. Cô kể bằng giọng nức nở nghẹn ngào:
 
Những chuyện huyền bí có thật 3


-... Lúc bấy giờ chỉ còn hoàn toàn trông cậy và đức Quan Thế Âm Bồ Tát và niệm bài kinh cứu khổ cứu nạn như thời thơ ấu mẹ tôi thường dạy tôi nên làm như vậy mỗi khi đối diện với những nguy nan, cũng như trước ngày vượt biên, nhiều người thân nhắc nhở cho tôi biết quyền năng linh hiển thường hay ra tay cứu vớt những người vượt biển gặp khổ nạn của Phật Bà và chí thành tụng niệm khi giáp mặt với những nan nguy sẽ được tai qua nạn khỏi.

Tôi giữ nhân đức tin và tha thiết kêu xin với lòng thành tâm khấn nguyện cho tai họa xảy đến cho tôi lúc ở trên tàu sớm chấm dứt để khỏi phải chịu thêm những đau đớn khổ hình trước sức dày vò điên loạn của những tên hải tặc man ri đầy thú tính. Nhưng Phật Trời yên lặng làm ngơ không ra tay cứu vớt để cho tôi, sau đó tôi phải chết thảm, linh hồn tôi bị sa vào thế giới hoang vu đói khổ trăm bề, không trông đợi được bất cứ sự lợi ích nào và mãi kéo dài kiếp đọa đày của loài hồn lang thang đói lạnh. Thử hỏi, tôi còn điều gì để tin tưởng được nữa? Như ông đã biết đó! Trong lúc quá đau đớn kinh hoàng, cầu xin thiêng liêng, thiêng liêng không đoái tưởng linh ứng, tôi quay lại cầu cứu với cả "thằng này".

Cô ta hằn hộc đưa tay chỉ vào ngực của người thanh niên đang bị hồn cô chiếm ngự hoành hành, hậm hực nói tiếp:

- Phải! Chính "thằng này". Tôi biết nó yêu tôi tha thiết. Bù lại, tôi cũng có cảm tình với nó từ khi mới chạm mặt nhau lần đầu. Có lúc tôi đã mơ mộng sẽ có một lần nào đó sau khi đến được bến bờ tự do, tôi sẽ ngỏ cho "nó" biết rằng tôi sẵn sàng đón nhận tình yêu, nếu "nó" dám mở lời tỏ tình.

Lúc gặp nạn ở trên tàu, sau những khẩn cầu tha thiết, đọc những bài kinh vô vọng, tôi nhìn về phía "nó" gào thét lên để mong đợi nó có chút động tâm, hay là can đảm đứng lên cứu tôi ra khỏi những tên hải tặc điên cuồng rồi nếu chẳng may có chết, hai đứa cũng được chết chung cho trọn chữ tình. Ngờ đâu nó còn hèn hạ hơn tất cả những kẻ hèn hạ nhất! Nó co rúm người lại, thu mình ngồi khúm núm dương mắt ra nhìn. Thử hỏi, có ai hiểu được cực hình và niềm tuyệt vọng của tôi đang trông chờ nơi "nó". "Nó" vẫn lặng thinh cho đến khi tôi lim đi và khốn khổ trút linh hồn ra khỏi xác thân cực kỳ đau đớn trong lúc thằng hải tặc vẫn chưa muốn buông tha.

Vì thế, sau khi trút linh hồn, tôi có ngay quyết định nhất định phải trừng trị "thằng này" và những đứa đã khiến cho đời tôi trở nên bẽ bàng tan nát. Thật ra, sau khi tôi chết thảm, tôi cũng đã trả thù được hai trong ba thằng hải tặc đã thay phiên nhau cưỡng bức tôi đến chết. Một đứa tôi đã "khiến" nó chế thảm khốc vì đụng xe, một đứa làm ăn khánh kiệt thua lỗ đến phải thắt cổ tự vận, còn lại một thằng cũng sắp sửa đền tội. Riêng "thằng này" - cô ta chỉ vào Đức - tôi cũng sẽ hành hạ nó cho đến ngày thân tàn ma dại chứ lẽ đâu lại để cho nó được an nhiên vui sống, lấy vợ đẹp đẻ con ngoan, hưởng thụ một đời hạnh phúc chẳng chút công bằng, trong khi tôi vẫn phải kéo lê bước phiêu bạt của một hồn mà oan trái vất vưởng đói rách lam lũ khắp nơi trong cõi vô hình...

Vị pháp sư và những người hiện diện chung quanh tỏ ra rất cảm thương cho số phận không may của hồn ma nữ tên Trâm đang rành mạch kể ra hết tâm sự u uẩn của mình. Đợi cho nỗi ngậm ngùi trong lòng cô gái đầy tội nghiệp lắng xuống, vị pháp sư nhìn cô thương xót, và bày tỏ những cảm nghĩ của ông vừa thoáng hiện trong đầu:

- Cô trả thù và hành hạ người ta như vậy đã quá đủ rồi! Thôi, cô hãy tha cho người ta, nên đem ân báo oán để hồi hướng công đức cho chính mệnh nghiệp của mình.

Ngừng lại trong giây lát như để cho vong hồn ma nữ có đủ thời giờ nhận rõ phải quấy, thực hư. Vị pháp sư nhân ái tiếp lời:

- Ta cần cho cô biết rõ thêm về những điều siêu linh huyền nhiệm để giúp cho cô dễ dàng xóa tan đi những ý định oán thù còn chất đầy một lòng sân hận! Ta chắc cô chưa biết được những tên hải tặc đó là ai? Tại sao chúng trút hết những thảm thương cho cô đến nỗi cô phải chết một cách quá ư là tội nghiệp oan khiên!

Thật ra, chúng là những tiền thân đã bị chính cô từ kiếp trước vốn là một phú hộ giàu có, thường hay ỷ thế hiếp cô, dùng quyền lực bạc tiền mua chuộc và hưởng thụ xác thân trinh tiết những người con gái trẻ tuổi con nhà nghèo rồi nhẫn tâm bỏ rơi để họ phải gánh chịu một đời lầm thanh khốn khổ, có người còn bị chết oan uổng vì đã dám cả gan cưỡng chống lại những dục vọng đen tối của tay phú hộ kiếp xưa.

Nay theo định luật quả báo luân hồi, chúng được cho tái sinh làm lại kiếp người để đòi các món nợ cũ theo ý chỉ của đấng toàn năng, chúng được phép thi hành nghiệp nhân quả, đợi chờ cơ hội để bắt cô phải đền trả nghiệp ác đã gây ra lúc sinh thời. Chúng ra tay tàn nhẫn hãm hại cô trên biển đông chẳng qua là những tiền nghiệp vướng mắc nợ nần mà cô đã tạo ra từ kiếp trước.

Và trong lúc thập tử nhất sinh đó, cô cũng đã khẩn khoản van xin ơn cứu độ của bề trên, nhưng vì hạnh nghiệp của cô xấu xa phải trả, đấng toàn năng đã làm ngơ cho đám quỷ dữ hoành hành, ra tay hãm hại để đòi cô trả nợ cũ thì lẽ đương nhiên, sự van xin khẩn thiết của cô không được thiêng liêng đoái nhậm là đúng lắm rồi, còn kêu ca thống trách vào đâu cho được.

Thật ra, đối với qui luật thuộc thế giới vô hình rất minh bạch và vô cùng chặt chẽ, chứ không mơ hồ hoặc giốn như con người thường quan niệm sai lạc về những vong hồn thuộc thế giới siêu linh được tự do hiện ra quấy phá. Nếu không có đấng toàn năng cho phép phù trợ thì không thể có bất kỳ hồn ma ngạ quỷ nào có thể khuấy động được con người, nhất là những người đạo cao đức trọng và sự bình yên trên dương thế. Cô không nên nhân cớ đó mà tạo thêm vô vàn những khổ nghiệp chập chùng, e mãi mãi chìm đắm trong vòng quay của bánh xe luân hồi quả báo. Chỉ nên đem ân đền oán thì nghiệp lực mới mong được giải trừ an nhiên, cứu rỗi.

Giờ đây, nếu cô muốn, ta có thể giúp cô soi tìm lại căn nghiệp xa xưa để cho cô thấu rõ được mọi điều, không còn có sự bán tín bán nghi. Và khi cô đã hiểu tường tận sự huyền nhiệm siêu linh trong tiến trình nhân quả, cô sẽ không còn lý do mang nặng lòng thù hận, đồng thời, chúng tôi sẽ cấp phát cho cô một phiếu công đức (công đức có được nhờ vào kết quả của các công việc hành thiện, tu tập của một hoặc nhiều người trong một nhóm đạo gia) và sẽ cầu xin ơn cao cả giúp cho cô có thể chọn lựa một trong hai con đường, hoặc là được nương náu tu tập trong chùa để tái tạo nghiệp tốt, hoặc là cô sẽ được tái sanh nhận lại kiếp người qua hình thức đầu thai...

Lắng nghe vị pháp sư ôn tồn giải thích, hồn ma người con gái tỏ ra hiền dịu tin tấn hơn nhiều. Tia nhìn của cô bắt đầu nhuộm vẻ từ ái, cử chỉ của cô biến đổi trở thành lễ độ khiêm cung. Cô ngồi đó, lặng yên như đang đắm hồn trong nỗi chiêm nghiệm thâm sâu về những lời nói nhân ái của vị pháp sư chân chất giải bày.

Sau cùng, cô ngước lên nhìn vị pháp sư thay đổi cách xưng hô:

- Con không dám ao ước chọn lựa nghiệp tu. Xin cho con được sớm trở lại đầu thai kiếp người để cho con có cơ hội tìm lại đời sống an vui trên dương gian hạnh phúc như bao nhiêu người khác!

Vị pháp sư hoan hỉ gật đầu:

- Mặc dù nghiệp lực của cô còn trùng điệp chất chồng, oan oan tương báo, rất khó mà đạt được sở nguyện tái sanh. Nhưng với lòng từ bi vô lượng của bề trên, nếu cô thành tâm ăn năn sám hối và hứa sẽ không bao giờ tái phạm những điều chẳng lành, chúng tôi sẽ cấp tặng cho cô một phiếu công đức- giống như việc góp vốn đầu tư - để cho sở nguyện của cô sớm được viên thành. Nếu cô bằng lòng với những điều như vậy và mau mau thoát ra khỏi thân xác của người thanh niên tội nghiệp này để cho anh ta trở lại đời sống bình an vô sự, thì mọi việc sẽ được nghiêm chỉnh tiến hành. Cô nghĩ sao?

Vong linh cô gái tên Trâm sung sướng gật đầu. Cô cúi đầu tiếp nhận phiếu công đức. Sau đó không lâu, cô trả lại trạng thái bình thường cho người thanh niên tên Đức. Tất cả mọi người chứng kiến đều cảm thấy nhẹ nhõm hân hoan vì biết rằng, kể từ giây phút này, hồn oan cô gái đã không nhập xác để tiếp tục hành hạ người thanh niên tên Đức, khiến cho thân xác anh ta héo mòn, khiến anh ta hàng ngày phải tìm kiếm ăn uống những đồ dư thừa phế thải ở các thùng rác. Nhất là, đối với vong linh cô gái, từ nay sẽ được đền bù và chờ ngày tái sanh đầu thai kiếp khác.

Về phần Đức, người thanh niên bị ma nhập, ngay khi đó bỗng tỉnh táo hoàn toàn. Anh có thái độ ngẩn ngơ như vừa trải qua một giấc chiêm bao đầy mộng dữ với vóc dáng, thân thể gầy còm hôi hám đến lợm người.

Chờ cho Đức thật sự hoàn hồn, những người có mặt ở ngôi đền đem cho anh thức ăn, hoa quả và nước uống. Đức ăn ngấu nghiến ngon lành và ra chiều muốn lạy Phật để tạ lễ. Mọi người như đoán biết Đức muốn gì, một người lên tiếng:

- Anh nên tự ý sắm sửa hoa quả nhang đèn cho việc cử hành lễ tạ để biểu lộ tấm lòng thành kính tri ân. Thật ra, chúng tôi có thể giúp anh có thêm tiền bạc để thực hiện lễ tạ Ơn tươm tất, nhưng điều đó không thực sự tối cần. Điều cần thiết chính là tấm lòng thành khẩn do chính anh tỏ bày. Vậy anh hãy thực hành ngay đi.

Vốn bị mất việc làm đã lâu, lại sống lang thang đầu đừng xó chợ, ăn uống dơ bẩn khác thường, tuy thỉnh thoảng vẫn có người động tâm cho tiền bố thí. Đức lục hết túi quần áo, gom góp khắp nơi cũng chỉ vỏn vẹn có mười đồng bạc. Anh định tâm dùng hết chẳng ngại ngùng gì, nhưng sau khi mua sắm đầy đủ nào hoa quả nào nhang đèn cũng chỉ tốn vỏn vẹn chín đồng bạc. Không biết do động cơ nào thúc đẩy, Đức đem một đô la còn lại để mua một tấm vé số, cạo ra anh lại trúng được đúng $ 10.00, xem như anh đã chẳng mất đồng nào cho việc mua hoa quả nhang đèn tạ lễ vốn chỉ thuần túy mang ý nghĩa của sự bày tỏ chân tâm.

Vài tháng trời sau đó, nhờ lòng tốt bụng của những người đồng hương, có người đưa hẳn anh về nhà, giúp cho anh hàng ngày có miếng ăn chỗ ở tươm tất, Đức dần dần bình phục, sức khỏe cùng sắc diện của anh ngày thêm hồng hào mạnh mẽ. Nhưng để giải quyết đời sống hàng ngày trước khi xin được việc làm mới, anh làm đơn xin hưởng tiền trợ cấp tàn phế về bệnh thần kinh...

Thời gian sau này, anh đã tìm lại được đầy đủ phong độ năm xưa, lại còn may mắn kiếm được công ăn việc làm với tiền lương vừa khấm khá vừa nhàn hạ, rồi tự mình ổn định được cuộc sống với miếng ăn chỗ ở riêng tư sung túc, xem ra rất khá giả bình thường. Rồi nhờ có diện mạo nhân dáng dễ coi, lại thêm phong cách chân chất thật thà. Chẳng bao lâu, một cô gái trẻ tuổi xinh đẹp mặn mà có đôi mắt long lanh to tròn với dung nhan nhân hậu, làm việc cùng sở với anh, đem lòng yêu thương Đức, anh đón nhận tình yêu bằng tất cả chân tình của trái tim ngập tràn rung động và cuồng nhiệt ở một thanh niên tươi trẻ yêu đời. Một năm sau, Đức cùng người con gái yêu anh cử hành hôn lễ trong bối cảnh vui vẻ với rất đông bạn bè quen biết cùng với tất cả những ân nhân cả đạo cả đời, những người đã từng có một tấm lòng đầy bao dung thân ái, đạo hạnh vị tha, đã từng quan tâm săn sóc, giúp đỡ anh trở lại ánh sáng hạnh phúc của một đời sống đầy ắp niềm tin với sắc hồng.
 
Nhà Đòn

Tác giả: Tam Tang

Sau khi tốt nghiệp tại trường võ bị Thủ Đức, tôi được thuyên chuyển về một đơn vị tác chiến thuộc Sư Đoàn 21 BB. Thấm thoát thế mà cũng đã gần được một năm rồi! Đời lính chiến rày đây mai đó, không dừng chân ở một nơi nào quá hai tuần lễ ! Nhiều hôm nằm trong lều Poncho nghe tiếng mưa rơi rả rích mà nhớ lại thời còn là học sinh trung học! Những kỷ niệm êm đềm như vẫn như còn hiển hiện trước mắt tôi! Những buổi trốn học giờ Việt văn đi đánh bi da, những lúc rút người lại nấp sau lưng người ngồi trước vì sợ thày gọi lên bảng làm bài tập! Những hôm nghịch ngợm lấy quả mắt mèo thoa trên mặt ghế của các cô bé trong lớp rồi cùng nhau ôm bụng cười khi thấy các nàng đỏ mặt che dấu sự ngứa ngáy tàn bạo kia! Những mối tình một chiều vụng dại, thic'h đấy mà chẳng dám thổ lộ cùng ai! Còn nhiều lắm những kỷ niệm của thời yêu dấu đó ! Nay đã là lính chiến, cuộc sống thật bấp bênh . Sống hôm nay đó biết đâu ngày mai xác mình đã được gói trọn trong chiếc poncho rồi!


Tiểu đoàn tôi được lệnh tái chiếm một xã thuộc quận Vĩnh Châu tỉnh Bạc Liêu . Xã này bị VC chiếm tuần qua! Khi chúng tôi đến gần địa điểm trời đã về chiều. Tiểu đoàn trưởng ra lệnh đóng quân qua đêm . Đại đội của tôi nhận nhiệm vụ trấn giữ bờ bên phải của con kinh chạy dẫn đến xã! Trung đội tôi được lệnh đi nằm tiền đồn cách

đó chừng 500 mét tại một nghĩa địa nằm cạnh ngã ba của con kinh va ` một cái rạch nhỏ ! Đây làmột nghĩa trang khá lớn, là nơi chôn cất dân trong xã ! Khi tôi dẫn trung đội tới vị trí thì trời đã nhá nhem tối và cơn mưa dầm nhỏ hột bắt đầu rơi . Thời điểm này rất thuận tiện cho việc di chuyển quân hay tìm chổ đóng quân vì địch khó phát giác ra vị trí của ta !





Nghĩa trang này rộng cở một mẫu tây, chung quanh không có hàng rào, nhưng có bốn cái cọc to, cao cở tầm người được cắm ở bốn góc làm ranh giới ! Bên trong có chừng năm sáu chục cái mộ mằm rải rác không theo hàng lối nào cả ! Đa số là mộ đất với các tấm bia cắm ở cuối chân! Cũng có chừng năm sáu mộ được xây bằng xi măng với màu trắng nhờ nhờ của vôi! Chắc đó là mộ của các kẻ khá giả trong xã này ! Sừng sửng giữa cái nghĩa trang là một cái "nhà đòn" mái lợp ngói. Ba vách được xây bằng gạch đỏ nhưng không tô . Phía trước mặt tiền được để trống với một hàng hiên nhỏ phía trước . Nền nhà bằng xi măng nên trông sạch sẽ so với môi trường chung quanh!


Tôi chỉ định vị trí đóng quân cho các tiểu đội, chỉ chổ cho họ gài "trái sáng" và mìn "Claymore" ! Trong lúc các người lính hì hục đào hố cá nhân và giăng lều, người trung đội phó của tôi rủ rê :

_ Mình về nhà đòn ngủ đi ông thày !


Nhìn cảnh sình lầy ướt át chung quanh, tôi nghe cũng bùi tai ! Tôi cùng ban chỉ huy trung đội rút về cái nhà đòn ngủ qua đêm ! Một cái bàn thờ nhỏ với một lư hương to cở cái nón sắt được dựng sát vách sau . Trên sàn nhà có hai bộ đòn dùng để khiêng quan tài người chết ! Một cái chỉ có hai đòn dài và hai thanh ngắn đóng giữ ở gần hai đầu. Bộ còn lại trông đẹp đẽ hơn, được sơn màu đen trắng đỏ, giữ bởi hai thanh ngang và có lọng vuông với vải đen thêu hình phía trên trông như một cái kiệu ! Cái này có lẽ để cho các nhà giàu mướn thôi! Ngoài trời vẫn mưa rả rích, chỉ nghe tiếng côn trùng kêu e e nghe buồn đến thối ruột! Chúng tôi cả thảy là 5 đứa: Tôi, người trung sỹ nhất trung đội phó, anh lính truyền tin và hai người "tà lọt" . Tôi nói người tà lọt của tôi giăng mùng cho tôi ngoài hành lang ngay trước mặt tiền . Làm xong việc cho tôi, anh ta cùng mấy người khác giăng mùng của họ ngay trong nhà đòn . Vì trong nhà chật , họ phải giăng mùng ngay trên hai bộ đòn để ngủ ! Lính mà! Ma sợ lính chứ lính sợ gì ma! Chúng tôi thường bảo nhau như vậy ! Tuy nhiều lần ngủ ở các gò mả ngoài ruộng trong các cuộc hành quân rồi, nhưng đây là lần đầu tiên tôi ngủ trong một nhà đòn !


Mọi người chun vào mùng để tránh bọn muỗi đói đang bay vo ve như sáo thổi chung quanh ! Tôi có thói quen là khi vào mùng phải làm dấu đọc vài kinh trước khi ngủ. Tôi chưa hề gặp ma, nhưng tin có thế giới bên kia ! Vì là lần đầu ngủ trong nhà đòn nên tôi cũng hơi hơi rợn một tí ! Trước khi nhắm mắt tôi lầm bầm như để tự trấn an mình: "Tôi không phá phách gì ai ! Chỉ xin ngủ nhờ một đêm thôi!" Sau đó tôi thiếp đi trong giấc ngủ. Tiếng kêu của con cú ngay trên nóc nhà làm tôi giật mình tỉnh giấc! Chung quanh nhà vẫn tối đen như mực, tôi coi đồng hồ tay thì mới có ba giờ sáng thôi! Tiếng con cú đập cánh bay đi làm tôi giật nẩy mình! Tôi tự cười mình sao mà nhát gan đến thế ! Tôi chun ra khỏi mùng ra phía sau nhà để đi tiểu. Tiểu xong tôi quay lưng để trở về thì giật nẩy cả người lên! Trong bóng đêm tôi thấy bốn cái bóng đen ngồi tựa lưng vào vách ở phía sau cái nhà đòn . Tôi nhẩy bắn ra thủ thế và lần tay tìm khẩu colt45 vì tưởng là bọn đặc công VC đột nhập vào! Lúc này mắt tôi đã quen với bóng tối nên nhận ra đó là mấy tên bộ ha.

của mình đang ngồi tựa lưng vào vách ngủ say như chết ! Tôi lay họ dậy và hỏi sao lại bò ra đây mà ngủ vậy ! Cả bốn dụi mắt kinh hoảng lắm:

_ Tụi tui ngủ trong nhà mà !! Sao ai khiêng tui. tui ra đây cà !




Không ai nói với ai một lời nhưng trong thâm tâm chúng tôi đều nghĩ đến một điều _ "Còn ai vô đây nữa!" Mùng của tôi giang chấn ngang mặt tiền của nhà đòn. Ai bước ra ngoài cũng phải bước qua mùng, hay chun qua các giây căng! Trời tối đen như mực, tất nhiên họ phải đụng vào mùng tôi hoặc gây ra tiếng động và tôi phải biết vì tôi rất tỉnh ngủ (một thói quen có từ nghiệp lính !)



Không ai dám ngủ lại cả ! Bọn chúng tôi chun vào ngồi túm tụm trong mùng của tôi trước hiên nhà, thì thào nói chuyện chờ sáng! Từ đó về sau người trung đội phó của tôi không bao giờ mở miệng rủ tụi tôi ghé vào ngủ trong các nhà đòn nữa!



Note: Ở nước Mỹ này chúng ta thấy có nhiều Funeral homes trong thành phố, nếu bạn nào muốn thử sự gan dạ của mình, hãy trốn vào ngủ trong đó một đêm xem sao ! Hãy tắt hết đèn rồi leo lên bàn để quan tài nằm trên đó một đêm để lấy kinh nghiệm đi!

Còn bạn nào gan hơn nữa thì hãy chun vào các nghĩa địa, trốn vào nhà đòn, lên bàn để áo quan ở đó mà ngủ qua đêm, hay chun vào lò thiêu nằm thưởng thức cảnh lửa khè chung quanh và mùi thịt cháy bốc lên mũi của mình !

Chúc bạn may mắn trở về toàn vẹn !

Chú thích:

Viết theo lời kể của một người lính VNCH
 
Người Con Gái Tỉnh Bắc 1

Tác giả: Phạm Cao Cũng


Vũ đến trọ học ở hàng cơm bà cụ Đỗ đã ba tháng rồi. Nhà chật chội, mái lợp tôn, nên mùa hè rất nóng nực. Nhưng Vũ không muốn tìm chỗ trọ khác, bởi bà cụ Đỗ tính giá rẻ, phần vì mọi việc trong nhà, cụ làm lấy, ít phải thuê mượn, phần vì chính gian nhà ấy, cụ cũng không phải mất tiền thuê.

Bà cụ Đỗ hồi cư rất sớm, thấy gian nhà bị chiến tranh tàn phá, chỉ còn trơ lại hai bức tường và một gian gác xép đằng sau, nên dựng mái tạm trú. Mãi, chủ nhà chưa thấy về, nên cụ yên chí ở, tưởng chừng như đất của mình.

Gian gác xép ấy bỏ không. Có lẽ vì thấy có nhiều chiếc rầm gỗ bị cháy xém, sắp rơi, trần lại nhiều chỗ nứt lở, nên chẳng ai dại gì hứng lấy tai nạn. Mùa hè đến, cùng với những kỳ thị Vũ cần phải học nhiều lắm, nhưng không được như ý. Nhà chật chội quá. Khách ăn hàng lại thường đông, ăn uống bi bô rầm rĩ.

Hơn nữa, mái tôn càng làm nắng hè gay gắt. Bởi vậy, Vũ đã nghĩ nhiều đến gian gác xép bỏ hoang ấy. Một chiều chủ nhật, Vũ mượn được thang, dựng trèo lên xem. Gác tuy bỏ hoang nhưng không đến nỗi bẩn quá. Sàn vẫn còn nguyên vẹn, chỉ có nhiều bụi cát, cùng một ít vôi vữa long trên trần xuống.

Tường cũng còn khá sạch. Riêng các cánh cửa đều đã mất hết. Gió bên ngoài lùa vào mát rượi. Vũ suy tính nếu mình quét dọn qua loa, mỗi buổi tối, trèo lên gác xép này, thắp nến mà học rồi giải (trải) chiếu ngủ thì tốt quá. Vừa yên tĩnh, vừa mát mẻ.

Cẩn thận Vũ hỏi qua bà cụ thì được ưng thuận ngay, bà chỉ dặn thêm rằng:

- Nhưng cậu phải coi chừng, nhà cửa ọp ẹp lắm, khéo mà ?oan giả.

Ngay buổi chiều, Vũ hì hục quét dọn. Gió lùa vào mát rợi. Gian gác bỏ hoang đã được Vũ đặt cho cái tên văn vẻ: ?Nghênh Phong Các. Mấy chồng sách, vừa để học, vừa để gối đầu, một ngọn nến, một manh chiếu, đó là tất cả đồ đạc trần thiết trong căn gái ?đón gió? này.

Tối đến, Vũ sung sướng trèo lên gác của mình. Lại rút luôn thang lên theo, vì e ngại mấy ông Tổng, Xã rượu say rồi lên phá quấy.

Thật là tĩnh-mịch. Tiếng huyên áo trong hàng cơm vẳng xa hẳn; bên ngọn lửa nến lập lòe Vũ yên chí học.

Nhưng chưa ôn bài được mấy lần, Vũ đã thiu thiu ngủ gục. Cho đến lúc tiếng chuông đồng hồ nhà thờ dóng dả, Vũ mới choàng mở mắt. Trời bạch nhật, có lẽ đã sáu giờ sáng. Cây nến cháy đến gốc còn lưu lại vũng nến đọng. Cuốn sách đêm trước vẫn còn mở ở trang học dở.

Vũ bực mình quá, vì thường rất tỉnh táo, có khuya, mệt thì đi ngủ, chứ không bao giờ ngủ gục như vậy.

Vũ cho đó là vì gác mát mẻ quá lại yên tĩnh nên dễ làm cho người ta chợp mắt.

Đêm hôm sau, Vũ đề phòng cẩn thận. Ăn cơm xong, Vũ uống một cốc cà phê thật đặc. Lại mang lên theo một bao thuốc lá nữa. Gió lùa mát rợi. Tiếng cười nói văng vẳng xa...

Dưới ánh nến, chập chờn theo gió, Vũ ngồi chăm chú học, nhưng không hơn gì đêm trước chốc lát đã thiu thiu buồn ngủ. Sực nhớ, Vũ với tay cầm lấy bao thuốc lá. Nhưng lại nghĩ: Hãy cố dùng nghị lực chống chọi đã, cùng lắm hãy nhờ đến thuốc lá, dùng ngay e sẽ thành thói quen. Và Vũ không bóc bao thuốc vội, để bao lên chồng sách.

Nhưng chỉ một lát sau, Vũ đã ngủ gục, cho tới khi tỉnh dậy thì đã thấy cây nến hao quá nửa. Vũ giận mình vô cùng.

Vũ nhất định lấy thuốc lá để chống lại cơn buồn ngủ lạ lùng. Nhưng bao thuốc lúc nãy để trên chồng sách đã không thấy nữa. Có lẽ khi ngả lưng xuống, tôi đã quơ tay làm rơi bao thuốc chăng. Vũ bèn nhìn quanh và quả nhiên thấy bao thuốc lá ở ngay sau lưng mình. Nhưng lạ thay bao thuốc lá đã bị bốc ra tự bao giờ. Một điếu thuốc lại kéo lùi ra khỏi bao chút ít như sẵn sàng mời Vũ hút.

Vũ dụi con mắt, kinh ngạc! Chàng cố nhớ lại, và đinh ninh quả quyết lúc trước chàng chưa hề bóc bao thuốc mà chỉ để bao nguyên lên trên chồng sách. Vừa suy nghĩ Vũ vừa rút điếu thuốc ra ngậm lên môi. Ngay phía sau Vũ, bỗng một que diêm xòe lên. Một bàn tay nhỏ nhắn, mềm mại, đưa que lửa mời Vũ châm thuốc.

Vũ hoảng hốt nhìn lại. Và thấy đó là một nữ lang rất đẹp, tuổi khoảng 16, 17, có vẻ như một nữ học sinh.

Vũ liếc mắt nhìn cái thang tre, thấy vẫn còn để nằm yên chỗ chân tường.

Nữ lang mỉm cười và nhắc:

- Anh châm thuốc.

Tiếng nói nhẹ nhàng như gió thụ Vũ ngập ngừng mãi mới thốt ra lời:

- Cô, cô đến đây ? Đêm khuya...

Nữ lang ngắt lời:

- Nhà em ở gần đây. Nhân nhìn qua cửa sổ, thấy cây nến bị anh quờ tay đổ nghiêng, nên vào dựng lại. Vừa toan quay về, thì anh chợt tỉnh...

Vũ nhìn lại, quả nhiên thấy trên mặt chiếu, có vết sáp nến loang. Nếu vậy, không có nữ lang, lửa nến có thể bén dần qua chống sách! Nhưng Vũ vẫn tò mò muốn biết:

- Xin cảm ơn cộ Nhưng cô là...

Nữ lang mỉm cười:

- Em tên là Ngọc Bách, nhà ở cạnh đây... Nhân đêm khuya, trằn trọc không ngủ được, thấy gian gác này trước bỏ không, nay có ánh lửa và bóng người, nên tò mò nhìn vào... anh tha lỗi cho em nhé!

Vũ hỏi tiếp:

- Nhưng cô làm cách nào mà vào đây được?

Nàng mỉm cười:

- Anh không nên hỏi nhiều. Em là phận gái, lại chưa hề quen anh bao giờ, nên đột ngột đến đây, thực quá ư trơ trẽn... Chính vì vậy mà em không muốn nói rõ, anh biết nhiều để làm chị Ngừng một lát, nàng lại tiếp:

- Chúng ta quả là tình cờ gặp gỡ, thời gian họp mặt chưa thể biết dài ngắn ra sao. Vậy tốt hơn hết là chúng a cứ vui khi chùng nhau gần gũi.

Vừa nói xong, nàng đến ngồi xuống chiếu, sát bên cạnh Vũ. Vốn tính người đứng đắn, Vũ nghiêm sắc mặt nói:

- Trai gái gặp gỡ đêm khuya, là một sự chẳng haỵ Hơn nữa, cô và tôi lại chưa hề quen biết bao giờ. Vã lại, tôi đang cần yên tĩnh để học vì kỳ thi đã tới nơi... Nếu cô có lòng mến, xin để trưa mai, tôi có thì giờ rỗi rãi, tôi sẽ tiếng chuyện với cô.

Nữ lang làm ra bộ hờn dỗi. Nàng đứng dậy, liếc nhìn chồng sách trên chiếu cười nhạt:

- Có lẽ anh tưởng chỉ có anh là học thôi ư? Và anh tưởng những ?hình học không gian? những ?phân tích hóa học? kia của anh là ghê gớm lắm rồi sao? Có lẽ vì thế nên anh mới dám đem so sánh giữa Học với Tình!

Vũ sốt ruột:

- Cô muốn tranh luận gì, xin cũng hãy để đến trưa mai!

Nữ lang không nói gì hơn nữa, quay ngoắt đi. Vũ xiết nỗi ngạc nhiên, khi thấy nàng không xuống lối cầu thang, mà lại vượt qua cửa sổ.

Gió đêm khuya càng thêm lạnh lẽo. Vũ bất chợt thấy rùng mình nhưng được cái không buồn ngủ nữa. Đêm ấy chàng học được kỹ càng cho đến ba giờ sáng mới dọn dẹp đi ngủ.

Hôm sau, lúc đi học về, ngồi ăn cơm, Vũ lại lựa lời hỏi bà cụ Đỗ. Nhưng bà cụ cho biết hai bên hàng xóm không hề có một thiếu nữ nào. Và cả quanh đây không có cô con gái nào tên là Ngọc Bách giống như hình dáng của lời Vũ tả. Vũ ngạc nhiên nhưng chưa nói rõ sự thực ý muốn đợi xem trưa nay, người con gái kỳ dị ấy có đến gặp mình như lời đã yêu cầu không. Nhưng không thấy đến.

Buổi tới hôm ấy, Vũ lại lên căn gác của mình ngồi học. Chàng lại thấy thiu thiu buồn ngủ, khi gió mát lùa vào. Tuy vậy, chàng đã biết trước việc xảy ra, nên ung dung lấy thuốc lá châm hút. Rồi ngồi đợi.

Quả nhiên, chốc lát thấy Ngọc Bách đến. Lần này, Vũ thấy rõ ràng nàng do lối cửa sổ mà bước vào, nhẹ nhàng như một cái bóng.

Ra chiều thân mật, Ngọc Bách ngồi ngay xuống cạnh Vũ. Rồi lã lơi trách:

- Em hôm nay lại hơi muộn, anh có giận không?

Vũ lặng thinh không nói, chỉ lấy sách vở ra học. Nàng lại nhìn chăm chăm vào mặt Vũ rồi tiếp:

- Có lẽ không giận nhưng ý chừng cũng mong đợi lắm thì phải?

Vũ thẳng lời cự:

- Hôm qua tôi đã nói với cô rằng tôi bận học thi không tiện tiếp chuyện. Tôi đã hẹn buổi trưa, muốn nói năng gì, sao cô không lại?

Ngọc Bách ra vẻ phụng phịu:

- Anh tưởng con gái muốn gặp đàn ông một cách tự nhiên lúc nào cũng được hay sao? Anh không sợ người ta trông thấy dị nghị ư? Về phần em thì không ngại, nhưng lo cho anh bị người chế riễu.

Vũ lắc đầu:

- Tôi không sợ. Việc làm đàng hoàng, chẳng sợ ai cười hết, mặc cho có người ngờ vực, nhưng lòng mình thẳng thắn thì dư luận sai lạc ấy tôi cũng chẳng quan tâm. Tôi ngại là ngại sự đêm hôm khuya khoắt cô lại đây, nguyên một sự gặp gỡ ấy cũng đã là bất chính rồi. Vậy mong từ sau, cô đừng đến đây nữa, muốn hỏi gì xin đợi ban ngày.
 
Người Con Gái Tỉnh Bắc 2


Ngọc Bách rưng rưng ngồi khóc. Một lát sau mới nói:

- Em biết khi người con gái tự tìm đến gặp người con trai, bao giờ cũng bị khinh rẻ. Nhưng em dám đường đột, chẳng qua là tưởng anh khoáng đạt, không chấp nê những nhỏ nhặt thường tình. Không ngờ anh cũng chẳng hơn gì người khác...

Vừa nói nàng vừa gục xuống gối Vũ mà khóc nức nở.

Nhưng Vũ gạt ra, nghiêm giọng bảo:

- Những lời tôi nói đã đầy đủ. Cô nên hiểu biết và đừng quấy rầy thêm nữa!

Rồi quay sang phía khác mà ngồi học lớn tiếng làm như không có ai ở cạnh mình.

Ngọc Bích vùng đứng dậy. Nàng biến sắc, nói:

- Số anh sắp chết đến nơi, ta thương tình đến cứu. Lại không biết thân, còn làm ra bộ kiêu kỳ, vậy hãy coi chừng.

Nói rồi, bước ra cửa sổ biến mất.

Vũ vừa ngạc nhiên vừa bâng khuâng. Chàng không hiểu người con gái ấy là ai, ma quái chăng, người thực chăng? Trước lời dọa nạt kia chàng không sợ. Những cảnh chinh chiến đã làm cho Vũ tin tưởng ở số mệnh. Sống, chết, chẳng phải là những thứ có thể tìm, hoặc tránh được dễ dàng...

Vũ vừa toan gác bỏ những ý nghĩ vẩn vơ ấy để chuyên tâm ngồi học, thì chợt cơn gió mạnh từ đâu ào ào tới làm cho ngọn nến tắt phụt. Vũ định sờ lấy bao diêm châm, nhưng không thấy. Gió như lạnh hơn lúc trước, làm cho Vũ chợ rùng mình. Ngoài trời không đến nỗi tối lắm. Những lùm cây rung động như những bóng đen hình dáng to lớn lạ kỳ...

Giữa khung cửa sổ, Vũ bỗng thấy hiện ra một bộ xương người trắng xóa, dập dờn đi lại.

Vũ biết lời dọa nạt của người con gái kỳ dị đã thực hiện. Đã suy nghĩ từ trước, nên Vũ không lấy làm kinh hoảng. Bộ xương ấy bước vào, tiến đến trước mặt Vũ. Cái đầu nhe bộ răng trắng nhởn nhơ cười một cách rùng rợn.

Vũ ráng bình tĩnh, vẫn cứ ngồi yên giả bộ học.

Thoáng cái, bộ xương đã biến đâu mất. Vũ cười thầm:

- Mi dọa ai thì được, chớ dọa ta sao nổi?

Chưa dứt lời, một thanh xương tay bỗng từ trên treần nhà rơi xuống, ngay trước mặt Vũ. Tiếp đó, là thanh xương mỗi chốc thêm nhiều, đến mấy chiếc xương sườn... Thấy đống xương mỗi chốc thêm nhiều, lù lù trước mặt... sẵn lọ mực trên bàn Vũ cầm luôn ném vào bộ xương. Mực đổ tung tóe, bộ xương vụt biến mất.

Vũ tưởng vậy là yên. Không ngờ Ngọc Bách lại hiện ra đứng cạnh chàng, nghiêm giọng trách:

- Anh thực là tệ! Lại là người đã hấp thụ văn minh Tây Âu, sao không biết quý người phái yếu?

Vũ thẳng lời, cự lại:

- Người ta chỉ có thể lịch sự đối với người lịch sự! Quấy rầy làm mất tự do của kẻ khác, đó có phải là cách cư xư của hạng người có giáo dục hay không?

Nữ lang không nói lại được, tần ngần đứng lặng người, chốc lát mới thở dài. Vũ thấy sắc mặt nàng vô cùng buồn thảm, cũng động lòng, hỏi:

- Cô là ai, xin nói thật: Nếu còn giấu diếm ta không bao giờ muốn nói chuyện.

Ngọc Bách hỏi lại:

- Nói thiệt liệu anh có khỏi sợ hay không?

Vũ cười:

- Hỏi thế là thừa, nếu là kẻ nhút nhác thì ngay từ đêm trước tôi đã không dám lên căn gác này ngồi mà học nữa.

Nữ lang gật đầu:

- Chính đó là một điều mà em lấy làm kính phục. Em không phải là người, chính là ma.

Vũ thản nhiên:

- Tôi cũng đã đoán biết ngay.

Rồi Vũ lại nói:

- Thường thường tôi nghe thấy nói đến oan hồn, song chưa tin là thực; hồn ma còn ẩn hiện lẩn quất nơi đây, ý hẳn cũng có điều oan khuất chứ chẳng không?

Ngọc Bách rơm rướm nước mắt, thưa:

- Sự đời man mác những nỗi oan khiêng nhiều không kể xiết, nhất là trong thời chiến tranh ly loạn này, chẳng phải là trường hợp riêng em. Có điều kẻ chết đi, dù sao cũng mong nắm xương tàn được vùi sâu, chôn chặt, thế mà em thì bộc lộ, gián nhấm, chuột gậm, thê thảm vô cùng...

Vũ thấy nàng từ nãy giờ vẫn đứng trước mặt mình, chớ không dám suồng sã như trước, nên dịu dàng bảo:

- Dù sao nữa cũng xin mời cô ngồi xuống đây. Theo luân lý Khổng Mạnh, trai gái ?bất tương thân?, nhưng thiển nghĩ: đã là âm dương cách biệt, thì hai thế giới khác nhau, chúng ta là ngay thẳng nói chuyện, tất cũng không ai chê trách vào đâu được!

Nữ lang bùi ngùi nói:

- Nghe lời anh, em chợ nhớ đến ba em ngày xưa, tuy là người Tây học, mà vẫn giữ được nền nếp Đông Phương, quả thực cũng là hiếm có vậy. Càng nhớ lại trong mấy hôm nay, có biết bao nhiêu cử chỉ hành động suồng sã, thẹn chết đi một lần nữa được.

Vũ gật gù, tán thưởng:

- Nghe lời, thấy rõ ràng là người có học thức. Mong rằng đừng giấu diếm, xin cô kể rành mạch câu chuyện từ đầu.

Ngọc Bách lau nước mắt thưa:

- Nguyên những lời vàng ngọc ấy cũng đủ an ủi em được ngàn phần. Em tên thật là Ngọc Bách, họ Nguyễn, vốn quên ở tỉnh Bắc, con của một ông Tham tá, đã từ trần từ lúc em mới lên 15 tuổi...

Mỉm cười chua chát, Ngọc Bách lại tiếp:

- Năm nay em 18 tuổi! Nói như vậy, nghĩa là: khi chết thì em mới 18 tuổi, nhưng nếu tính theo người sống, qua mấy năm tao loạn thì hiện nay em đã ngoài 20... già mất rồi.

Vũ nghĩa thầm trong bụng:

- Khi đã là đàn bà, dù chết đi rồi, cũng vẫn còn lo lắng đến sắc đẹp tàn phai.

Nữ lang lại kể tiếp:

- Trong gia đình, tuy em là lớn nhất, nhưng vì em theo lời trối trăn của cha em dặn lại, nhất định cho em đi học đến nơi đến chốn. Bởi vậy, sua khi đỗ bằng cơ-thủy ở tỉnh Bắc, em được mẹ em cho về học bậc Trung học tại Hà Nội. Cẩn thận mẹ em cho em ăn trọ tại nhà bà Phán Tâm ở ngay liền vách nhà này.

Nhừng lại giây phút, Ngọc Bách lại kể:

- Nếu không có chiến tranh thì không đâu đến nỗi... Khi được lệnh tản cư, bà Phán cùng những trẻ nhỏ đều về quê cả, chỉ còn lại một người con trai lớn, đi làm công sở và em cùng một người vú già ở lại. Bỗng đô thành khói lửa mù trời, căn nhà bên cạnh này (tức là nhà em ở) bị sụp đổ. Người u già, cũng như con trai bà Phán, đều bị chết vùi trong đống gạch ngói. Riêng có em là may mắn núp dưới chân cầu thang được thoát chết. Nghe tiếng bom đạn rầm ran, em sợ hãi vô cùng, bò lần sang hàng xóm, tức là căn nhà này, lúc đó bỏ không, vì người trong nhà đều đã tản cư từ trước. Sợ hãi, em tìm được chiếc thang, treo ẩn lên trên trần căn gác này, vì em cho đó là chỗ ẩn náu kín đáo nhất.

Thân gái trong thời binh lửa, may ra nhờ đó mà được an toàn chăng. Thường lệ, mỗi khi tìm kiếm thức ăn, nước uốn đầy đủ rồi thì em lại trèo lên trần nhà, và rút thang lên theo. Em có ngờ đâu, chính gian nhà này cũng bị sụp đổ, chiếc thang em vừa trèo lên bị rơi xuống. Thế là bỗng dưng bị giam gọn trên trần gác, với một số lượng thức ăn đủ chừng ba ngày. Em chỉ còn một hy vọng có thấy bóng người nào thì kêu cứu, không những trong lúc khói lửa tơi bời, ai cũng lo lẩn trốn nên em ngồi yên trên trần đã bốn ngày liền mà cũng không hề thấy có một bóng người nào... Vừa đói và khát, em đành phải chịu cực hình, giống hệt như người bị lạc lõng giữa nơi xa mạc. Cho đến khi sức một yếu dần em thở hơi cuối cùng, thiệt oan một đời xuân xanh đầy hứa hẹn.

Vũ nói tiếp:

- Rồi sao nữa, xin cô cứ kể tiếp cho nghe!

Ngọc Bách thở dài:

- Rồi ngày tháng trôi quạ Cảnh đô thành dần dần trở lại đông đúc, vui vẻ hơn xưa. Riêng có tấm oan hồn của em vẫn bị ngậm ngùi, đáng thương hại nhất là một nắm xương tàn rụi vẫn bị bộc lộ trên trần nhà này, làm mồi cho gián, chuột.

Vũ ngắt lời:

- Nhưng tại sao thấy tôi lên học trên đây, cô lại hiện hình bỡn cợt? Hồn oan đau tủi, há lại còn ưa thích những chuyện cợt đùa...

Ngọc Bách rơm rớm nước mắt:

- Anh quở trách như vậy, em xin nhận lỗi, nhưng chỉ vì em ngu muội, lóng nghe thấy bọn yêu quái thường bàn nhau rằng nếu chúng tìm được người thế mạng thì sẽ được đầu thai thành kiếp khác! Thoạt đầu thấy anh lên học trên căn gác trống này, em dùng tà khí làm cho tinh thần anh bị hôn quyện, rồi sau đó, định hiện nguyên hình người con gái đẹp, để nhờ nhan sắc mà quyến rũ anh... nhưng anh không hề vì sắc đẹp mà động tâm. Em lại định tác quái để cho anh sợ hãi... nhưng kết cục cũng bị thất bại... Em thực đã đắc tội với anh nhiều lắm.

Vũ ngắt lời hỏi:

- Bây giờ cô muốn gì?

Ngọc Bách gạt nước mắt, thưa:

- Em chỉ mong anh vì thương người bạc phận, ra tay tế độ, chôn cất cho yên đẹp nắm xương tàn của em mà thôi. Như vậy, em không còn phải oán hận gì nữa...

Vũ nhận lời, Ngọc Bách sụp lại tạ Ơn, nhưng Vũ giục nàng hãy ra đi, vì âm dương cách biệt, lần lửa lâu lai, cũng e hại cho cả đôi bên.

Ngay sáng hôm sau, Vũ hỏi thăm những người ở gần đấy, họ đều nhận rằng có thực, tại nhà bà Phán Tâm khi xưa có cô con gái tỉnh Bắc trọ học, nhưng hình như đã thiệt mạng trong những ngày khói lửa đô thành... Vũ lại tìm thang trèo lên trên trần nhà lục lạo khắp nơi, quả nhiên có một đống xương người, nhện chăng, bụi phủ, riêng lạ một điều là có mấy khúc xương rõ ràng có vấy mực. Sau khi tìm được xương cốt của cô gái Vũ bèn nhờ người chôn cất, cho đúng lời hẹn với hồn ai!
 
Ngôi Mộ Mới Đắp 1

Tác giả: Nguyễn Ngọc Ngạn


Tối hôm ấy , trời mưa không lớn lắm nhưng rả rít lê thê , kéo theo cơn gió thổi se sắt từng hồi. Con đường đất chạy giữa nghĩa trang bình thường vốn đã có ít ai qua lại huống chi giờ này đã quá nữa khuya , lại gặp dêm giông bão nên càng vắng vẻ tiêu điều. Lẫn trong tiếng mưa rơi , tiếng gió thổi , chỉ có tiếng ếch nhái ểnh ương từng chập kêu vang. Không gian bao trùm một màu ảm đạm thê lương.

Trên khúc đường lầy lội ấy , hai bóng đen sánh vai cắm đầu dạo bước , đó là Nghiêm và Đào. Cả hai đều mặc quần áo màu đậm , đầu đội nón vải tay cầm xẻng cáng sắt và vai đeo túi vải nâu. Riêng Đào còn thủ thêm cái đèn pin và cứ lâu lâu lại bật lên soi xuống mặt đường loang loáng nước , vài lần như thế khiến nghiêm cầu nhầu chửi rồi dằn cái đèn bấm trong tay Đào nhét vô túi vải đeo bên sườn.

Nghiêm cẩn thận như thế là phải , vẫn biết giờ này đã quá khuya , hai bên lối đi chỉ thấy san sát những ngôi mộ mới , cũ , đủ kiểu , đủ cỡ nằm phơi mình dưới trời mưa. Nhưng biết đâu chẳng có ai đó nằm trú ẩn theo khuôn viên nghĩa địa còn thức và bắt gặp hai gã vào đây giữa lúc khuya khoắc này.

Thậm chí Đào muốn dừng lại tìm một chỗ khuất gió châm điếu thuốc nhưng Nghiêm cũng không cho. Vào ban đêm là yếu điểm sinh tử , Nghiêm đã dặn dò Đào thật kỹ chiều nay trước khi hai gã bày con gà luộc lên bàn thờ cúng tổ , thắp nhang khấn vái rồi lặng lẽ xuất hành vào giờ tý.

Nghiêm ở Cam pu chia về mới được hơn hai năm. Cam Pu Chia hiện nay có thể nói là một nước Việt nam nhỏ , hay đúng hơn là một thuộc địa của VN , với số người Việt sang định cư đã lên đến cả triệu kể từ cuộc xâm lăng 20 năm trước. Người Việt sang đây phát triển đủ mọi ngành nghề , hợp pháp cũng như bất hợp pháp. Nghiêm là một trong số lưu dân đó, chỉ khác một điều là Nghiêm ở Cam Pu chia tới 3 năm , nhưng không phải là làm ăn. Gã sang để học nghề nhà giáo của một ông ngành miên về buà ngãi và thuật thôi miên.

Xứ chuà tháp vốn nổi tiếng là tỷ phú với bao nhiêu là thầy buà , thầy pháp xuất quỷ nhập thần. Sư phụ Thạch Sen của Nghiêm là một trong những vị đó cư ngụ tại thủ đô Nam Vang mà dân gian truyền tụng là một pháp sư cao tay ấn và bậc nhất. Nhận Nghiêm làm đệ tử tử trong nhà trọ 3 năm.

Nghiêm thành đạt , trở về quê quán ở miền Tây , giáp quốc lộ 4 , ngay trong huyện Châu Thành , nữa tỉnh nữa quê. chờ dịp hành nghề ứng dụng những điều mà gã đã được truyền dạy.

Một trong những bí quyết tuyệt chiêu trong thế giới huyền bí của thầy Thạch Sen là lấy bàn tay của một người chết vì sét đánh , dùng làm buà hộ mạng đi ăn trộm. Thực tế chẳng biết đã có ai áp dụng chưa nhưng thầy Thạch Sen quả quyết rằng hành nghề đạo chích mà có được một bàn tay người chết vì sét đánh , ban đêm lọt vào nhà người ta thì dù gia chủ còn đang thức , cũng hoàn toàn bị trấn áp , nằm bất động không nhúc nhích gì được.

Nghiêm chờ đã lâu, sống vất vưởng gần 2 năm không có lợi tức , mọi chi tiêu dều trong vào Huệ , cô vợ không chính thức mà Nghiêm mới dụ dỗ được sau khi hồi hương. Tuy vậy Nghiêm vẫn tin rằng mình sẽ có ngày giàu , bởi vốn liếng buà ngãi thầy Thạch Sen truyền cho Nghiêm thừa sức giúp gã tạo dựng cơ nghiệp.

Trong tương lai khi có tiền , Nghiêm sẽ bỏ ngay cô vợ nhà quê đó , gã sẽ trở lại nam Vang tạ ơn thầy rồi lên Sài Gòn mua hộ khẩu lập nghiệp vĩnh cửu. Trong khi chờ đợi thì cứ tạm ngửa tay xin tiền vậy để sống qua ngày.

Đợi mãi cho đến cách đây mấy hôm , Nghiêm mới nghe được bản tin xôn xao trong xóm là bà Năm Tước , một nông dân cùng xã của Nghiêm khi làm ruộng gặp trời mưa , núp vào dưới cây cổ thụ giữa cánh đồng , rồi bất ngờ bị sét đánh cháy đen người , chết ngay tại chổ.

Bà Năm Phước là một bóng mờ trong xã Vĩnh Thạnh , cho nên cái chết của bà không ảnh hưởng đến ai. Sở dĩ người ta bàn tán ầm ỉ chỉ vì có mấy ai bị chết vì sét đánh. Dân làng coi đó như là một cái điềm gì ghê gơm lắm. Xã Vĩnh Thạnh chưa từng xảy ra biến cố này bao giờ bởi nó rùn rợn quá. Riêng Nghiêm thì mừng rỡ vô cùng , đã vốn có quen biết với bà Năm Tước , hay nói đúng hơn là quen với chồng bà. khi gã lên đường sang Cam Pu Chia thì chồng bà , ông Năm có việc đi Cần Thơ không may bị xe đò cán chết, từ đó gia đình bà Năm Tước sa sút thấy rõ , chỉ còn trông cậy vào ít ruộng và vườn cây sau nhà.

Bất ngờ nghe tin bà bị sét đánh chết , Nghiêm lập tứcc hạy đi tìm đàn em là Đào để bố trí kế hoạch. Đào cũng biết gia đình bà Năm Tước tuy không thân lắm. Đào có món nghề tinh xảo là mở được tất cả các loại khóa , nhưng không may bị bắt quả tang lúc đang ăn cắp xe honda người ta gởi trước rạp hát ngoài thị xã.Đào ở tù hơn 1 năm , vừa ra chưa biết làm ăn gì thì được nghiêm đến tìm. Thế là cả hai rủ nhau đi dự đám tang của bà Năm tước , nhưng không ra mặt công khai bởi không thân thiết với gia đình người quá cố.

Khi đoàn người ra tới nghĩa địa, đặt quan tài ccạnh cái huyệt đã đào sẳn thì Nghiêm và Đào lảng vảng xa xa để quan sát để định vị trí. Đào thì núp sau 1 ngôi mộ lớn xây bằng đá cẩm thach , có mộ bia cao , chăm chú theo dõi ; Nghiêm cẩn thận hơn , tìm một ngôi mộ ngay chỗ đám ma , thắp mấy cây nhang làm bộ khấn vái y như gã ra viếng mộ cho ngày giỗ của một người thân.

Chờ người ta chôn bà Năm Tước xong và giải tán hết , hai gã mới bàn nhau công tác và hẹn nhau đêm hôm sau thực hiện. Nghiêm phải ra tay ngay trước khi xác bà Tước tan rữa , và nhất là trước khi con cháu mang vật liệu xi măng , gạch , cát ra xây mộ.

May cho Nghiêm là đêm nay trời mưa phùn dai dẳng , nghĩa địa vắng tanh , càng thuận lợi cho công việc của Nghiêm.

Ngôi mộ mới đắp của bà Tước nằm sâu trong góc nghĩa trang , nước mưa làm trôi dạt hẳn một mảng đất khá lớn. Mộ đắp không cao vì người nhà đang chuẩn bị xây gạch. Nghiêm cắm cái xẻng xuống chân , tháo túi vải đặt sang ngôi mộ bên cạnh , rồi giục đàn em bắt tay ngay vào công việc. Hai cái xẻng thi nhau đào xới , hất đất sang hai bên. Hai gã cắm đầu làm , không ai nói lời nào.

Mưa dường như vừa nặng hạt hơn và gió cũng rít lên giận dữ , đất biến thành bùn , dính chặt vào lưỡi xẻng nhưng may là mộ đất thấp nên chỉ khoảng 15 phút sau , Nghiêm đã ngừng tay reo lên nho nhỏ :

− Này , đụng nắp hòm rồi.

Đào đang khom người xúc đất bên kia nghe Nghiêm nói cũng đứng thẳng người thở phào nhìn đàn anh. Bổng nghe loáng thoáng trong tiếng mưa rơi có tiếng xe gắn máy từ ngoài cổng nghĩa trang chạy vào , cả hai mở to mắt nhìn nhau rất nhanh rồi cùng hướng nhanh về phía hương lộ. Tiếng xe mỗi lúc mỗi gần hơn , Nghiêm cuống quýt làm hiệu bảo đàn em leo khỏi miệng hố , khom người chạy lại núp sau ngôi mộ xây gần đó , cả 2 nín thở chờ đợi.

Quả nhiên chiếc honda chạy ngang, người ngồi trên xe mặc áo mưa , đội nón , phủ kín không trông thấy mặt. Xe qua rồi , Đào thở phào đứng dậy nhưng Nghiêm kéo ghì lại Đào ngồi xuống ngay rồi đặt tay lên miệng bảo gã im lặng tại chổ vì nghĩa trang chỉ có 1 lối vào mà không có lối ra bên kia. Chiếc xe honda chạy vào thì lát nữa sẽ theo lối cũ mà ra , nghĩa là sẽ đi ngang chỗ 2 gã 1 lần nữa.

Đào lau hai bàn tay nhăn nheo vào ngực áo rồi toan lấy thuốc nhưng Nghiêm lắc đầu nhìn gã ra lệnh cất đi dù rằng chính Nghiêm cũng đang rất thèm thuốc. Quả nhiên chỉ 5 phút sau chiếc honda chạy ra và mất hút , bấy giờ Nghiêm mới đứng dậy , mặt nghênh nghênh tự đắc cho phép đàn em hút thuốc trước khi nhảy xuống hố và đào đất tiếp.

Hai đứa hồi hộp cào lớp đất phủ trên quan tài rồi Nghiêm quăng cái xẻng lên đống đất mới đào , nhoài người với lấy cái đèn pin để soicho rõ nắp hòm bằng gỗ tạp. Đào cũng ngừng tay , leo lên ngồi núp sau ngôi mộ châm thuốc hút , rít được vài hơi , gã nghiêng tay che điếu thuốc và chuyền xuống cho Nghiêm đang đứng dưới hố sâu bên cạnh quan tài rồi Đào mở túi vải lôi ra cái xà beng khác và cái bứa loại bửa củi vừa nặng vừa sắc. Nghiêm quăng điếu thuốc và giục :

− Lẹ lên, xuống đây mày.

Đào cầm dụng cụ nhảy xuống bên cạnh Nghiêm , thọc xà beng vào nắp hòm cạy mạnh. Vài cái đinh bật lên kêu răng rắc , Nghiêm vội quay đi , nhăn mặt hỏi :

− Tao dặn mày mang hai chai dầu cù là , mày có mang theo không ?

Đào cũng vừa buông xà beng quay mặt đi để tránh làn hơi nồng nặc từ nơi kẻ hở của quan tài vừa mở ra rồi gã thọc tay vô túi quần , lôi ra lọ dầu nhỏ và đưa cho Nghiêm , Nghiêm vội vàng mở nắp , dốc cả nữa chai ra lòng bàn tay và thoa lên mũi để đánh bớt mùi hôi của xác chết đã hơn 1 tuần , tiện tay, Nghiêm thoa luôn vào mặt Đào và giục :

− Lẹ lên , 2 giờ sáng rồi.

Rồi trong khi Đào khom người cạy cái nắp quan tài thì Nghiêm lăm lăm cầm sẳn cái búa đứng bên cạnh. Tiếng những cây đinh bật khỏi nắp quan tài nghe rõ mồn một mặc dù mưa vẫn còn nặng hạt. Trong khoảnh khắc , nắp quan tài tung ra. Nghiêm bật đèn pin soi cho rõ , xác bà Năm Tước nằm cứng đờ đã bắt đầu trương lên. Một tia chớp chói lào trên bầu trời soi rõ cái xác chết gầy gò đen đủi khiến Đào giật mình kinh hãi vì có cảm tưởng như bà Năm vừa mở mắt nhìn gã , rồi tiếp theo một loạt sấm vang dậy , cả Nghiêm cũng cảm thấy rờn rợn , không dám nhìn xác chết nữa. Gã tự trấn tỉnh , ngước mắt lên trời và càng giục đàn em làm việc cho mau. Nghiêm đỡ cái xà beng trong tay Đào rồi lạnh lùng ra lệnh :

− Làm đi , làm liền đi.

Đào cầm búa quay sang hỏi :

− Ơ..chặt 1 tay hay chặt cả hai vậy anh ?

Nghiêm đở nắp quan tài và nói :

− 1 cái đủ rồi , lẹ lên.

Đào nhìn đàn tay hỏi lại :

− Sao không lấy luôn 2 bàn tay cho chắc ăn anh ? Mất cái này còn cái kia.

Nghiêm lại gạt đi :

− Thôi , 1 cái thôi. 1 cái đủ rồi , chặt lẹ lên. Nhớ nha , nhớ là tay phải nha , đàn ông tay trái , đàn bà tay phải.

Đào khom người cuối xuống , nước mưa trên vành nón chảy thành dòng xuống sát mặt thấm ướt. Đào lôi cánh tay phải cứng đơ của xác chết , kê bàn tay lên mặt hòm rồi giơ búa bổ xuống.

Cái búa sắc và nặng chình chịch , thế mà chém tới 4 nhát bàn tay bà Năm mới đứt lià , văng sang bên cạnh. Nghiêm đẩy cánh tay cụt của bà Năm lại rồi đậy nắp quan tài lại. Đào lượm bàn tay có 5 ngón trơ khều dính hết bùn đất , bỏ vào bao nylon rồi lòm còm leo lên khỏi miệng hố.

Gã đặt bao nylon trên cái mộ xây bên cạnh rồi hỏi đàn anh :

− Anh Hai , có phải lấp đất lại không anh Hai ?

Nghiêm cũng vừa leo lên, hắt hơi mấy cái vì hơi lạnh thấm vào cơ thể. Gã châm điếu thuốc hít một hơi rồi bảo :

− Kệ mẹ nó mày ơi , khỏi lấp lại. Lấy cái búa với cái xà beng về được rồi.

Đào dè dặt đề nghị :

− Anh Hai à , lấp sơ sơ lại cho người ta khỏi thấy nhen anh Hai ?

Nghiêm tư lự một chút rồi làm theo lời đàn em. Cánh tay mỏi nhừ vì đất bùn bám rít vào lưỡi xẻng nhưng 2 gã không dám nghỉ. Trong nháy mắt , 2 gã đã đắp lại ngôi mộ , thu dọn đồ nghề , đưa mắt nhìn quanh nghĩa địa rồi cắm đầu bước lại con đường cũ ra khỏi khuôn viên đất thánh.

Mưa vẩn rơi nặng hạt, gió vẫn thổi rì rào bên tai và sấm chớp lập loè như giận dữ. Cả 2 ướt đẩm như chuột lột nhưng sự háo hức làm dâng trong lòng họ niềm vui lớn khi nghĩ đến tương lai có được bàn tay sét đánh đem về ướp muối, tẩm rượu phơi khô , nghề ăn trộm sẽ mở ra một lối thoát thênh thang cho 2 gã.

Ngay từ ngày mai, Nghiêm sẽ theo dõi và lập danh sách những nhà giàu trong xã , trong quận , rồi tiến dần ra thị xã. Chắc chắn chỉ một vài vố là giàu to.

Nghiêm rẽ vào nhà mình hay đúng ra là nhà Huệ , một căn nhà gỗ do người chị ruột của Huệ để lại. Thuở ấy người chị lớn của Huệ gọi là Trang , lấy chồng có nghề đi biển trong đoàn tàu đánh cá quốc doanh. Huệ ở chung nhà, có hộ khẩu chính thức. Một hôm Trang xuống ghe của chồng ra khơi rồi đi luôn sang Thái Lan và cuối cùng định cư ở Mỹ. Huệ thừa hưởng căn nhà của chị , lại được chị lâu lâu gởi tiền về nên sống rất thoải mái. Quanh năm chỉ có tiếp mấy gã công an , cán bộ lại chơi , có khi ngủ qua đêm.

Bước sang thập niên 90 , khi nhà nước đổi mới , Huệ tuổi cũng bắt đầu lớn , phải bắt tay làm ăn lo tương lai. Cô xin vốn bên Mỹ , ra chợ huyện buôn bán nhưng không có tay làm ăn nên cứ mất dần. ông bà già viết thư sang cho cô con gái bên Mỹ dặn không được gởi tiền cho Huệ nữa vì nghi Huệ cho trai. Từ đó mỗi khi cần, Huệ đều về ngửa tay xin tiền cha mẹ ở ngoài thị xã.

Cách đây hơn 1 năm , tình cờ Huệ gặp Nghiêm trên chuyến xe đò đi Cần Thơ. Lúc xe đậu trên phà , Ngiêm có dịp tán tỉnh , kể chuyện Nam Vang khá hấp dẩn , làm Huệ rất thích cái óc phiêu liêu mạo hiểm của Nghiêm. Từ đó 2 người quen nhau, và Huệ cho Nghiêm dọn vào chung sống dù không có hộ khẩu chính thức. Lúc này chính quyền địa phương đã nới lỏng , ai ai cũng lo kiếm tiền thủ thân , nhờ vậy nhân dân cũng tương đối dễ thở.

Nghiêm và Đào về đến nhà đã khoảng 3 giờ sáng , cả hai cùng khoan khoái thở phào vì vừa hoàn thành công tác một cách êm xuôi , vượt qua cái bước đầu khó khăn nhất là moi được bàn tay sét đánh đem về làm của riêng , chỉ còn chờ ngày gặt hái kết quả. Tương lai rực sáng sắp mở ra , nghiêm sẽ không còn ngửa tay xin tiền Huệ và Đào sẽ không còn khổ sở đi ăn cắp vặt nữa. Có bàn tay sét đánh , hai gã có thể ngang nhiên vào nhà người ta dọn cả cơ nghiệp mà không ai làm gì được.

Để tránh rủi ro công an hoặc lối xóm phát hiện , Nghiêm mở cửa sau , rón rén cùng Đào xách đồ tắm rữa sạch sẽ vào khoảng 3 giờ sáng. Huệ vẫn ngủ say ở nhà trên , không hề biết chồng về. Phía sau nhà Nghiêm là con kinh thủy lợi nước đục lờ.

10 năm trước Ngiêm từng góp bàn tay đào con kinh này cùng với dân trong xã. ông Năm Tước lớn tuổi nên được bố trí làm trưởng toán thủy lợi của xã Vĩnh Thạnh. ông làm ít nói nhiều , ngày ngày bà Năm mang thức ăn nóng ra cho chồng và lâu lâu Nghiêm cũng được ăn ké món thịt gà bằm nhỏ kho xã ớt.

Nhìn dòng nước , Nghiêm thoáng rùn mình vì hình ảnh gầy gò của bà Năm nằm trong quan tài chợt hiện về thật rõ ràng trong đầu Nghiêm. nhà Đào cũng ở gần đây, cũng hướng ra con kinh đào. Dọc ngang có những cụm lục bình trôi lờ lững.
 
Ngôi Mộ Mới Đắp 2


Hai gã đứng trên chiếc cầu gỗ bắc bằng mảnh ngang dài từ sân sau chìa ra mặt kinh khoảng gần 2 thước. Cả hai dùng cái thùng bằng mủ khom người múc nước xối. Tắm xong , Nghiêm thảy ho đàn em bộ quần áo cũ của mình rồi bảo :

− Nè , thay đồ đi rồi mang cái ấy ra đây.

Đào đang lau người , ngơ ngác hỏi :

− Lấy gì anh Hai ?

Nghiêm gắt nhẹ :

− Còn cái gì nữa , mang ra cho tao rữa rồi ngâm rượu.

Đào hiểu ra, chạy vào bếp mở cái túi vải ướt đẩm , lôi ra cái bao nylon đựng bàn tay bà Năm Tước. Gã hỏi Nghiêm :

− Anh Hai , vậy chừng nào mình xài được ?

Nghiêm cầm bàn tay cụt ngủng vủa bà năm giơ ra dưới ngọn đèn tròn sau bếp , lật qua lật lại và gật gù đáp :

− 49 ngày, kể từ ngày hôm nay.

Nói đến câu ấy , Nghiêm chợt nhớ đến sư phụ Thạch Sen bên nam Vang đã từng một lần biểu diển cho Nghiêm thấy sự linh nghiệm của bàn tay sét đánh sau khi yểm bùa. Nghiêm nhớ hôm ấy ba bốn đệ tử chân truyền của Thầy , ngồi trong căn phòng khép kín. Thầy Thạch Sen đọc thần chú rồi giơ bàn tay sét đánh ra trước mặt. Lập tức cả bọn trở thành những kẻ chết đứng , tuy trí óc vẫn hoàn toàn tỉnh táo , nhưng chân tay cứng đờ, không cử động được và mồm miệng há ra nhưng không nói được lời nào. Cái bàn tay khô đét ấy là một vật bất ly thân của Thầy Thạch Sen , không bao giờ Thầy cho bất cứ đệ tử nào mượn để hành nghề. Lúc nhìn Thầy biểu diển , Nghiêm đã nghĩ ngay trong đầu rằng có được bàn tay sét đánh thì làm giàu dễ dàng quá. Không ngờ hôm nay giấc mộng của nghiêm vừa trở thành sự thật. Đào đứng bên Nghiêm sốt ruột than :

− Trời ơi , 49 ngày mới xài được. Lâu dữ vậy anh Hai ?

Nghiêm hãnh diện giảng :

− Phải rồi , phải vô buà chứ mậy, xài ẩu đâu có được . Trước 49 ngày bùa không linh nghiệm đâu. Sư phụ tao nói rồi có người xài buà không cẩn thận nghen , bị bùa quật chết luôn đó.

im lặng 1 chút , Đào lại hỏi :

− Chắc không anh , anh Hai ? Anh có xài thử chưa ?

Nghiêm ngồi trên bờ kinh, nhúng bàn tay xuống bờ kinh chà xiết cho hết đất cát và trả lời :

− Chắc sao không chắc mậy. Sư phụ đã nói rồi , chính mắt tao nhìn thấy. Tao nói mày nghe nha , nhiệm vụ của mày là chỉ mở ổ khóa thôi. Khi lọt được vào nhà của người ta, tao giơ bàn tay sét đánh ra là mọi người trong nhà cho dù thức hay ngủ cũng đều chết cứng luôn á. Mình muốn làm gì thì làm , mày dọn nguyên nhà người ta , người ta cũng không làm được gì mày đâu , chỉ nằm đó mà nhìn thôi.

Đào hăm hở đề nghị :

− Anh Hai , mình vô nhà thằng cha Sanh nha anh Hai , thằng chả là bí thư huyện mới nghỉ hưu năm rồi. Trời anh Hai ơi, chả giàu lắm. Em nghe tụi nó nói vàng của thằng chả có cả rương luôn đó. Em nhắm rồi , nhà thằng chả vô dễ ợt à. Leo nhánh cây xoài vô ban công , cửa trên lầu lúc nào cũng dể mở hết á.

Nghiêm hài lòng nói :

− Ừ , mày tính trước đi , nhắm cái vụ nào là cái vụ nó đích đáng nha.

Rửa bàn tay người chết xong, hai đứa vô nhà , Nghiêm chỉ cái giường tre kê sát vách nhà bếp , trên đó ngổn ngang chai lọ và bát đĩa , bảo đàn em :

− Mày nhậu sơ sơ rồi nằm đó ngủ đi nha. Lát sáng bả dậy, tao lấy tiền rồi mình ra chợ ăn hủ tiếu. Ngủ đi !

Rồi Nghiêm lấy cái nồi cũ, đặt bàn tay bà Năm vào đó rồi đổ đầy muối lên y như người ta muối cá để đem phơi cho cá khỏi hư thối. Gã đậy cái nồi , đặt trên cái tủ đựng thức ăn. Gã rửa tay một lần nữa bằng xà bông rồi tắt đèn bếp và rón rén lên nhà.

Gã lấy tấm chăn bằng vải mủ đem xuống cho Đào đắp tạm vì nhà khá nhiều muỗi rồi gã quay lên nhà với vợ. Trong ánh sáng mờ mờ , Huệ nằm nghiêng quay mặt vào vách , đắp tấm chăn mỏng ngang bụng. Gã đứng nhìn một lúc rồi lại quay xuống bếp , gã thấy không nên để cái nồi đựng bàn tay sét đánh trên tủ gạc măng giê vì hớ hênh quá , sáng mai Huệ thức sớm , rủi cần tới cái nồi , mở ra gặp bàn tay người chết thì lôi thôi to. Gã lại bật đèn, nhìn quanh một lúc rồi quyết định bưng cái nồi xuống.

Đào ngóc đầu dậy, nhăn mặt càu nhàu vì chói mắt nhưng Nghiêm lờ đi. Trước khi giấu sau dống củi, Nghiêm mở nắp và nhìn bàn tay sét đánh một lần nữa cho chắc ăn rồi gã bới đống củi , đặt cái nồi vô sát vách và xếp những thanh củi chồng lên trên.

49 ngày phơi khô và yểm bùa là khoảng thời gian khá dài , không biết rồi gã sẽ giấu bằng cách nào để Huệ không phát giác ra trò kinh dị này.

Nghiêm tắt đèn lên nhà , nhẹ nhẹ vén mùng chui vô với Huệ , chiếc giường cũ reo lên răng rắc làm Huệ giật mình mở mắt , lật người nằm ngửa rồi ngẩng đầu lên nhìn Nghiêm và hỏi :

− Ủa , đi đâu giờ này mới về vậy ? Mấy giờ rồi ?

Nghiêm choàng cánh tay ôm lấy Huệ và đáp :

− Anh đi nhậu với mấy thằng bạn, tụi nó không cho anh về.

Huệ nhắc lại câu hỏi :

− Mấy giờ rồi ?

Nghiêm vừa ngáp vừa nói :

− Chừng 3 giờ sáng , ngủ đi em.

Huệ nhắm mắt toan ngủ tiếp , nhưng sực nghĩ ra 1 điều lạ , cô mở mắt , xoay hẳn về phía Nghiêm và hỏi :

− Ủa , anh nói anh đi nhậu mà sao không thấy mùi rượu gì hết vậy ?

Nghiêm ú ớ đáp :

− ...Thì hôm nay tại anh nhức đầu , uống có chút đỉnh à.

Huệ cằn nhằn :

− Uống có chút đỉnh mà lâu dữ , anh đó nha , không lo làm ăn gì hết trơn á. Tối ngày lo nhậu nhậu nhậu không à. Em hết tiền xài rồi đó , không còn đồng bạc nào hết. Từ ngày anh dọn vô ở với em nè, ba má em từ cái mặt em rồi , đâu có dám về nhà xin tiền nữa đâu. Nè , cái sợi dây má cho cũng bán luôn rồi , bây giờ anh tính làm sao anh tính đi.

Nghiêm gật gù nói bằng giọng tự tin :

− Em yên chí đi , mình sắp giàu to rồi. Tháng tới anh đi làm, bảo đảm với em tiền vô như nước , xài hoài, xài thả cửa .

Huệ ngờ vực hỏi lại :

− Trời đất , làm gì mà giàu , ăn trộm chắc ? Thời buổi này làm ăn khó thấy mồ. Nè , anh à hay là...mình qua Miên đi. ở bển anh quen nhiều lắm phải hôn ?

Vừa nói , Huệ vừa lòm khòm đi xuống nhà đi tiểu. Nghiêm mệt mỏi , nằm xích vô, nhắm cặp mắt cay xè , cố ngủ một giấc.

Bổng gả giật mình ngồi bật dậy vì tiếng hét quá lớn của Huệ dưới bếp. Hóa ra Nghiêm đã sơ ý quên nói cho Huệ biết là có Đào nằm ngủ dưới cái giường tre để đồ gia dụng , cho nên khi Huệ vừa bật đèn, nhìn thấy một người đàn ông nằm co quắp dưới bếp , cô kinh hoàng thét lên rồi bỏ chạy lên nhà. Nghiêm đỡ vai vợ và bảo :

− Em , thằng Đào nó đi nhậu với anh , nó say quá cho nên anh đưa nó về đây ngủ đỡ.

Huệ đưa tay lên ngực thở hồng hộc và trách :

− Trời ơi...vậy mà không nói trước gì hết , làm em hết hồn vậy đó. Tưởng là gặp ma chứ !

Đào nghe tiếng la cũng giật mình ngóc đầu dậy , nhe răng cười với Huệ rồi lại nằm xuống ngủ tiếp. Huệ đi tiểu xong trở lên chui vào mùng nằm bên Nghiêm. Cả hai không nói gì nữa vì cùng mệt mỏi giữa đêm về sáng , chỉ trong khoảnh khắc đã thiếp đi trong giấc ngủ êm đềm.

Chiều hôm sau Nghiêm một mình mò ra nghĩa địa nhìn ngôi mộ bà Năm Tước , Nghiêm đứng xa xa khuất sau cái mộ xây khá lớn chăm chú quan sát. Gã thấy hai người con trai của bà Tước đang xúc đất đấp lại. Cũng may là họ tin rằng đâm qua trời mưa lớn làm đất trôi đi, chứ không hề mảy may hình dung ra chuyện đào mả , chặt tay của Nghiêm và Đào và vì vậy họ không khai báo với công an mà chỉ hùn nhau mua xi măng , gạch cát khuân ra xây cho bà Tước ngôi mộ khá tươm tất có gắn bức hình trắng đen của bà trên mộ bia.

Thời gian trôi rất chậm , Nghiêm và Đào đếm từng ngày để bắt tay hành nghề ăn trộm. Tiền bạc càng ngày càng cạn , không còn chổ nào có thể vay mượn được nên hai gã càng nóng lòng trông vào sự linh nghiệm của bàn tay sét đánh. Chiếc honda của Nghiêm đã bán từ năm ngoái , chiếc cúp của Đào cũng bay từ ngày gã còn ở tù. Gia đình cần tiền cần tiền tiếp tế , tình hình tài chánh coi như kiệt quệ nếu như không có niềm hy vọng vào bàn tay bà Năm Tước.

Nhiều hôm lang thang ngoài thị xã , Đào đã toan yếu lòng ăn cắp một chiếc xe gắn máy để bán đi tiêu tạm. Mở khóa xe đối với gã quá dễ , huống chi gã có sẳn một đường dây tiêu thụ hàng ăn cắp. Nhưng gã nhớ lại những ngày tù vừa qua rồi lại thêm lời căn dặn của Nghiêm là phải rán nhịn thêm một ít lâu nữa , Đào đành thắt lưng buộc bụng chờ ngày chính thức ra quân cùng Nghiêm mang theo bàn tay sét đánh. Đào tin rằng cái bửu bối hiếm hoi ấy sẽ đem lại sự phồn vinh cho hai gã đúng như lời Thầy Thạch Sen đã tỉ mỉ truyền dạy cho Nghiêm.

Bảy tuần lễ, mỗi tuần một lần , Nghiêm lấy cái bàn tay sét đánh đen đủi của bà Năm ra yểm bùa vào giờ Tý , thắp nhang khấn vái rồi lại dấu trong cái hộp sắt , dấu ở một chổ kín đáo dưới bếp. Huệ thì hoàn toàn không biết những việc Nghiêm làm , không biết chồng mình là một kẻ vừa mê tín , vừa ác độc , dám chặt tay người chết mang về để trong nhà Huệ.

Đến ngày thứ 49 , ngày trọng đại cuối cùng. Đào đạp xe qua nhà Nghiêm theo lời dặn trước của đàn anh. Lúc ấy trời đã nhá nhem tối , Nghiêm kiếm cớ đuổi vợ đi để hai đứa bày bàn thờ thắp nhang cúng tổ , đặt bàn tay sé đánh đã phơi khô đét lên khấn vái.

Trời cuối năm trời không trăng sao , gió hiu hiu lạnh từ con kinh thổi vào. Hai đứa đang lâm râm cầu khẩn thì ba cây nhang trên bàn thờ bổng cháy vụt lên như một bó đuốc , rồi tron glàn khói tỏa mù nghịt bốc lên , Đào thấy khuôn mặt bà Năm Tước mờ mờ hiện ra , Đào kinh hãi dụi mắt nhìn lại thì bà đã biến mất và ngọn lửa mới lúc nãy bùng lên cũng tắt luôn , chỉ còn lại ba que nhang tỏa khói nhoè nhoẹt. Đào hoảng hốt quay sang hỏi đàn anh :
 
Ngôi Mộ Mới Đắp 3


− Anh Hai , sao kỳ vậy anh , sao tự nhiên lửa cháy lớn quá vậy ?

Nghiêm trấn an :

− Trời đất ơi , như vậy coi như là Tổ đã chứng nhận lời cầu xin của mình rồi , điềm tốt chứ có gì đâu mà sợ.

Đào tin vào kinh nghiệm buà ngãi của đàn anh nên cũng yên lặng. Rồi hai đứa ngồi dưới bếp ngã nghiêng , hạ con gà xuống làm mồi , uống cạn một chai rượu trắng trước khi chia tay hẹn tối mai xuất hành chuyến thứ nhất đến nhà Nguyễn Văn Sanh , cán bộ hồi hưu giàu có tiếng trong huyện. Nghiêm dặn đàn em :

− Ê , nè tối mai nha , mày ở nhà chờ tao. Đừng có nhậu nghen mậy , xỉn là hư hết chuyện đó. Khoảng chừng 11 giờ tao qua là đi liền đó nha. Ê...ê..Nhớ mang cái túi mà bửa trước mày cầm ra nghĩa địa đó với cây đèn pin nghe hôn ?

Đào gật đầu rồi thơi thới đạp xe ra về.

Tối hôm sau nhằm ngày thứ bảy , để đở sốt ruột chờ trời tối. Đào thả bộ ra quán hủ tiếu ở chợ huyện , đây là một tiệm ăn thuộc loại sạch sẽ nhất tong chợ huyện mà Đào là khách thường trực. Đã cả mấy tháng nay Đào không ghé vì gã còn nợ chủ nhân khá nhiều tiền. Hôm nay gã thấy lòng tự tin hẳn lên , bởi chỉ sau chuyến hàng đêm nay , sáng mai gã có thể ôm mớ tiền ra trả cho quán để lấy lại sự kính nể của chủ tiệm và mấy cô chạy bàn.

Nhìn thấy Đào bước vào, chủ quán đứng sau quầy thất vọng lắm vì chẳng biết bửa nay gã có trả đợc chút nào hay không. Nhưng vốn biết Đào là tay du đãng từng vào tù ra khám cho nên họ ngại không dám đuổi. Đào nghênh ngang kêu một tô hủ tiếu Nam Vang đặc biệt nhiều đồ biển và ly cà phê sữa đá cho nhiều sữa.

Chủ quán nhìn gã bằng bộ mặt lạnh như tiền để tỏ thái độ , nhưng Đào lờ đi. Giờ ăn tối đông khách , cả tiệm giờ chỉ còn một bàn trống , Đào ngồi sâu sát vách tường phía trong , dưới những ngọn đèn vàng úa có những con muỗi bay lượn xung quanh , lâu lâu rớt xuống sàn.

Đào phì phèo điếu thuốc , đăm chiêu nhìn ra cửa nghĩ đến chuyến ra quân trọng đại đêm nay , Lão Sanh có đến mấy trăm lượng vàng cất trong cái rương gỗ trên lầu , người ta đồn nhau như vậy , đêm nay Đào và Nghiêm sẽ ra tay khuân hết.

Ngoài cửa dăm ba người ăn mày ngồi tú tụm trước hiên chìa tay xin mỗi lần khách bước vào. Họ ngồi đó thì được , nhưng hễ xông vô tiệm thì chủ nhân đuổi ra ngay để khách ăn uống thoải mái. Cô hầu bàn mang hủ tiếu và cà phê ra đặt trước mặt Đào , Đào ngậm lệch điếu thuốc một bên mép , lấy thià khuấy mạnh ly cà phê rồi nhấp một ngụp nhỏ. Gã hài lòng thở phào khoan khoái rồi cầm muỗng đũa bắt đầu thưởng thức tô hủ tiếu. Đào ăn được chừng nữa tô, ngồm ngoàm nhai một cách sung sướng thì một bà ăn mày từ ngoài cửa lừ đừ tiến vào , đứng ngay trước mặt Đào nỉ non xin tiền :

− Xin cậu Ba làm phước bố thí , tôi già nua tật nguyền còn có một tay.

Người đàn bà gầy gò , khẳng khiu , áo quần dính bết bùn đất , chià cả hai bàn tay xương xẩu ra trước mặt Đào , bàn tay trái còn nguyên , bàn tay phải thì cụt , mất hẳn từ cổ tay mà vết thương hình như chưa lành. Đào bực bội nhìn lại quầy , toan bảo chủ tiệm lại đuổi vì tiệm này vốn nổi tiếng là không để ăn mày quấy rầy thực khách , nhưng chủ tiệm vừa vào bếp. Người đàn bà tiếp tục ỉ ôi nhắc lại :

− Tôi già nua tật nguyền, còn có một tay ; cậu Ba làm phước bố thí.

Đào ngẩng lên nhìn , rồi chỉ trong nháy mắt đã khựng lại , mồm há ra, mắt lạc thần , buông rơi đôi đũa xuống đất và gập người ói mửa luôn ra bàn. Bánh phở cùng với thịt heo thoăn thoắt tuôn ra , văng vải cả vào tô hủ tiếu lẫn ly cà phê sửa đá trước mặt bởi vì người ăn mày đang đứng trước mặt Đào chính là bà Năm Tước mà 49 ngày trước Đào đã cạy nắp quan tài chặt đứt bàn tay phải.

Dưới ánh đèn nhợt nhạt từ góc trần chiếu xiên xuống , khuôn mặt bà xanh xao và lạnh lẽo đến rợn người , khuôn mặt ấy chẳng khác gì 49 ngày trước Đào đã nhìn thấy trong ánh chớp chói loangoài nghĩa địa khi Đào quật mồ chặt đứt bàn tay phải của bà.

Đào tiếp tục ói mửa làm chủ quán cũng như mọi thức khách đều quay nhìn và nhăn mặt khó chịu , người đàn bà hành khất vừa quay lưng thừng thửng bước ra ngoài một cách chậm chạp.

Chủ quán chạy lại hỏi thăm Đào vì tưởng Đào trúng gió, nhưng Đào vẫn tiếp tục ói mửa rồi đứng dậy lom khom lê bước ra đường thất thểu về , quên cả chiếc xe đạp dựng trước cửa tiệm. Chủ quán trong tiệm bước ra tận lề đường đứng trông theo, ngơ ngác không hiểu vì sao bửa nay Đào lại hiền lành như vậy , bình thường gã hay nạt nộ mấy cô chạy bàn ra oai mà cô nào cũng phải vuốt ve gã bởi biết gã là tên du đảng có máu liều lĩnh. Dù sau đi nữa thì chủ quán cũng tha , không ghi sổ tính tiền nợ của Đào bửa nay.

Đào đi nhanh lại nhà Nghiêm , mặt tái xanh không còn hột máu , mồm nói lảm nhảm như bị ma nhập. Gã nhớ lại tối hôm qua khi gã và Nghiêm đặt bàn tay sét đánh lên bàn thờ đốt nhang cúng vái 49 ngày thì 3 cây nhang đã bất thần vụt lửa cháy lơn và khuôn mặt bà Năm đã hiện ra mờ mờ trong làn khói dày đặc. Đào hoang mang nghi ngại ngay từ phút ấy , nhưng Nghiêm lại bảo rằng đó là dấu hiệu bàn tay đã được nhập buà và Tổ đã nhận lời xin của Nghiêm , Đào tin đàn anh của mình nói thật. Nhưng hóa ra hôm nay mới biết là vong hồn bà Năm hiện ra trong làn khói xanh để cảnh cáo Đào. Với bất cứ giá nào , Đào phải ngăn cản Nghiêm chấm dứt trò chơi này , nếu Nghiêm không nghe thì Đào phải tự rút lui để tránh những hậu quả hải hùng chắc chắn sẽ xảy đến.

Tới nhà Nghiêm , Đào sồng sộc từ ngoài cửa đi thẳng vào sân sau , không chào hỏi gì cả. Vợ chồng Nghiêm đang ăn cơm dưới bếp trố mắt nhìn Đào bất ngờ xuất hiện , Đào mếu máo bảo đàn anh :

− Anh Hai ơi anh Hai , em mới vừa gặp..bả

Nghiêm ngơ ngác hỏi lại :

− Gì ? Bà nào ? Mày gặp ai ?

Đào nhướng cặp mắt lờ đờ nhìn ra sau nhà rồi lại nhìn lên nhà trên lo âu nhấn mạnh :

− Trời , bà Năm chứ bà nào. Bả hiện về rồi anh ơi.

Huệ đặt bát cơm , ngạc nhiên nhìn Đào rồi chen vào :

− Bà Năm nào ? Đi đâu mà hiện về ?

Rồi sực nhớ ra , Huệ nói luôn :

− Ờ ợ...cái bà Năm Tước hả , phải không chú ? Bà Năm Tước mới bị sét đánh phải không ? Tự nhiên bả hiện về với chú hả ? Trời đất , chú mắc mớ gì mà bả hiện về với chú chứ ?

Nghiêm nhìn Đào gắt nhẹ :

− Thôi đi , nói bậy nói bạ không à

Đào run run kéo cánh tay Nghiêm và trì triết nói :

− Anh Hai ơi anh Hai , em thấy anh nên đem đi chôn đi anh Hai ơi , mang ra nghĩa địa chôn lại đi anh Hai , trả lại cho bả đi anh. Nó không xài được đâu anh. Em sợ lắm rổi anh Hai ơi.

Trước cặp mắt ngơ ngác của Huệ , Nghiêm vội đứng dậy lôi Đào lên nhà và mắng :

− Cái gì, cái gì vậy , bộ mày xỉn rồi hả ? Nói gì đâu không à , có bà xã của tao , mày làm ơn đừng có nói bậy nói bạ nghe chưa ?

Hai đứa ra hẳn ngoài sân trước , Nghiêm nổi nóng nhắc lại :

− Tao thấy bửa nay mày khùng rối đó Đào. Trước mặt vợ tao nói gì kỳ cục vậy ? Nó nghi bây giờ đó.

Đào lắc đầu mếu máo nói :

− Anh Hai ơi , bàn tay của bả.... anh để đâu rồi anh Hai ?... Anh Hai....đem chôn lại đi anh Hai...anh Hai ơi em xin anh mà...cái vụ này em sợ quá à , không được đâu anh Hai !

Nghiêm lại cắt ngang :

− Cái gì vậy ? Mày nói cái gì vậy ? Tao không hiểu .

Đào vừa thở vừa kể :

− Anh biết hôn , em đang ngồi ăn hủ tiếu ở ngoài chợ , tiệm Thanh Xuân anh biết mà. Mới tức thì hồi nãy đó , bà ấy bước vô đứng ngay trước mặt của em xin tiền , em tưởng là con mẹ ăn xin , em định đuổi bả đi nhưng mà em nhìn kỷ lại là bả anh ơi ! Trời đất ơi em sợ quá , bả đưa luôn cho em coi cánh tay cụt của bả nữa anh Hai , em thấy sợ quá ói tùm lum tùm la ra ngoài bàn rồi em chạy gấp về đây cho anh biết nè. Anh Hai nghe em nói nè , em với anh đem bàn tay chôn lại cho bả đi anh, trả lại cho bả mà , em năn nỉ anh đó.

Nghiêm nói ngay :

− Mộ của bả người ta xây rồi , làm sao đào xuống được nữa ?

Đào khổ sở nói tiếp:

− Thì mình chôn gần đó cũng được mà , miễn mình có lòng trả lại cho người ta là được rồi , nếu không thì bả vật chết mình đó .

Nghiêm vẫn giậm chân lắc đầu :

− Chậc ! Tao nghe mày nói không lọt tay chút nào hết à ! Mày nói mày đang ăn hủ tiếu , bả hiện về ? Tiệm đó lúc nào cũng đông người , ma nào hiện về chỗ đông người ? Thôi dẹp đi mày !

Đào tha thiết nhắc lại :

− Em nói thiệt mà anh , nếu anh hổng tin hả , anh làm mình anh đi chư em không làm đâu , em không dám xía vô đâu.

Dứt lời Đào bỏ đi quên cả chào từ giã , Nghiêm bực bội nhìn theo rồi quay vào với vợ.

Nghiêm không nhục chí vì biết chắc thế nào Đào cũng quay lại vì Đào bây giờ còn đói hơn Nghiêm không còn đồng bạc dính túi. Có điều là Nghiêm không thể đi hành nghề một mình được bởi Nghiêm không có tài mở khóa , nhưng Nghiêm có bàn tay sét đánh làm buà hộ mạng , hễ vào được nhà nào là kể như xong.

Đào từ giã đàn anh xong, bước thất thểu như người mất hồn , đi được một quảng sực nhớ là mình còn quên chiếc xe đạp ngoài tiệm hủ tiếu nhưng gã không dám trở lại vì sợ hồn ma bà Năm vẫn còn lảng vảng trước cửa nhập vô một người hành khất nào đó để chờ đợi. Gã về nhà , đi thẳng xuống bếp rồi quay lên. Cha mẹ hỏi cũng không trả lời , chỉ lảm nhảm nói một mình. Chuyện ăn trộm giờ này đối với Đào không còn vương vấn chút gì trong đầu nữa , thậm chí gã hoàn toàn bị ám ảnh bởi bà Năm với cái ngoại hình gầy gò và xanh mét như con ma đói từ thế giới bên kia hiện về đòi ăn.

Đào ngồi thừ trên bực thềm ngoài hiên, nhìn ra khoảng không gian đen thẩm trước mặt , dãy nhà hàng xóm bên kia đường khuất sau những vườn cây dầy đặc lập loè ánh lửa như nhưng bóng ma trơi cố tình trêu ghẹo Đào trong một đêm tối trời. Gã cứ ngồi như thế rất lâu cho đến khi bà mẹ ra tận nơi kéo tay gã bảo vào ngồi , gã mới uể oải đứng dậy để nguyên quần áo lên giường nằm.

Nhưng nằm nhắm mắt được một lúc , Đào bổng nghe trong tai vang lên những tiếng gõ thật rõ , cứ 4 tiếng 1 lần rồi lại ngừng , rồi lại vang lên , lần nào cũng 4 tiếng. Những tiếng gõ ấy lúc đầu còn nhỏ. Từ từ mỗi lúc một lớn hơn , mạnh hơn và gã giật mình choàng bật dậy vì gã chợt nhận ra đó là tiếng búa gã đã bổ 4 nhát xuống cổ tay bà Năm Tước ngoài nghĩa địa.

Mồ hôi vãi ra như tắm , Đào ngồi lên, lò mò bước xuống tìm nước uống vì cổ họng đang khát khô , gã thấy không khí trong nhà ngột ngạt làm gã sắp nghẹt thở , cần phải ra ngoài. Bà mẹ cài then cửa trước , Đào không muốn mẹ biết mình còn thức nên gã ra ngồi ngoài sân sau dưới ngọn đèn 40qu , nhìn xuống con kinh thủy lợi mênh mông trước mặt. Gã thở hổn hển , lấy thuốc ra hút.

Những chiếc ghe thưa thớt di chuyển về đêm của những gia đình chài lưới ngủ luôn trên sông nước hoặc thuyền bè chuyên chở hàng hóa lướt ngang qua nhà Đào với ánh đèn mờ ảo không soi rõ mặt người. Đào hút gần tàn điếu thuốc , toan quay vào nhà ngủ thì bổng thấy từ xa có chiếc thuyền nhỏ bổng lướt nhẹ tới rồi tấp vô bờ nhà Đào và giọng con gái cất lên gọi :

− Anh Ba cho em hỏi thăm chút xíu được hôn ? Đường ra chợ huyện đi hướng nào vậy anh Ba ? Em chở hàng trái cây ra ngoài chợ huyện bán mà đi hoài hổng thấy tới à !

Đào đang ngồi trên cái băng két bằng mấy thân cây trâm bầu bên khóm chuối , ngẩng lên ngạc nhiên đăm đăm nhìn , giọng nói lạ lắm , chắc không phải một người quen trong chòm xóm mà chỉ là một cô gái đi bán hàng bị lạc đường. Từ trong khoang thuyền , cô gái cầm cây đèn bảo khá lớn đi ra hẳn ngoài mũi thuyền đứng chờ Đào. Đào lấy làm lạ lắm , dân vùng bốn đi ghe mà lạc đường là một chuyện thật hiếm hoi. Gã đứng dậy tiến lại gần vì không muốn nói lớn , sợ trong nhà nghe thấy , miệng gã vẩn ngậm điếu thuốc và nheo mắt vì khói.

Cô gái đứng trên thuyền có cái dáng thanh thanh thật đẹp , nên tuy chưa nhìn rõ mặt mà Đào đã thấy lòng rộn rã , khi Đào tới sát mũi ghe, cô gái nhắc lại :

− Dạ em bị lạc đường từ trưa tới giờ đói quá à , trên ghe thì không có cái gì ăn hết trơn đó..ơ..anh Ba..anh Ba có mì gói hay là cái gì đó , cho em xin một gói được không anh Ba ?

Đào hăm hở đáp :

− Có chứ , cô chờ một chút nha , tôi vô nhà lấy cho. À mà nè , cô ăn khoai mì không , má tôi mới nấu đó , nấu hồi chiều ngon lắm. Thôi cô lên đây cô ngồi chờ chút xíu nha , tôi vô tôi lấy cho.

Cô gái gật đầu đưa tay ra để lấy thăng bằng bước lên bờ vì chiếc thuyền con tròng trành làm cô sợ té xuống nước. Đào vội đưa tay ra cho cô gái nắm lấy. Lạ thay, khi tay Đào vừa chạm vào tay cô gái thì một làn gió cực mạnh thổi từ làn nước lên sà vào người Đào làm gã run lên bần bật , đồng thời ngọn đèn trên tay cô gái bổng sáng rực hẳn lên như đèn măng song, soi rõ toàn thân và khuôn mặt cô , Đào ngước lên nhìn và kêu thét một tiếng lớn rồi lảo đảo buông tay cô gái , lao đầu té xuống nước bởi vì gã vừa nhận ra người con gái tước mặt gã mà gã nắm tay không phải là một thiếu nữ với tiếng nói trong trẻo mà chính là bà Năm Tước vừa đưa cái cánh tay cụt ra cho gã nắm. Đào ú ớ vùng vẫy dưới nước , chiếc thuyền con lui dần ra xa , lướt nhẹ trên mặt kinh và mất hút.

Trong lúc đó ở nhà Nghiêm , Huệ vừa rửa chén , vừa tò mò cật vấn chồng , cô vốn không ưa Đào, nên dù Đào là bạn của chồng , cô vẫn gọi bằng thằng , cô hỏi :

− Hồi chiều thằng Đào nó nói với anh là đem ra nghĩa địa chôn, là chôn cái gì vậy ? Bộ anh với nó mới đi giết người phải không ?

Nghiêm cười lớn để vợ khỏi nghi , gã nói :

− Hà hà , em nói gì vậy ? giết ai ? Làm gì có chuyện đó !

Huệ đứng thẳng dậy lau tay vào chiếc áo cũ và nhắc lại :
 
Ngôi Mộ Mới Đắp 4


− Vậy chứ em nghe nó nói là anh Hai ơi mang ra nghĩa địa chôn đi , chông cái gì ? Nói thiệt đi nghe , anh với nó vừa mới giết người phải không ?

Nghiêm vẫn cố giữ nụ cười rồi ấp úng bảo :

− Cái thằng cà chớn thiệt , say nói tầm bậy tầm bạ không à. Còn em nữa , tự nhiên nghe nó nói làm cái gì ? Anh giết người hả ? Giết người sao giờ này còn ngồi ở đây ? Công an tới bắt hồi nào giờ rồi.

Huệ lại ngồi xuống rửa chén bát tiếp , từ hồi quen Nghiêm , Huệ vốn nể phục Nghiêm vì trí óc cô bị lôi cuốn bởi những chuyện huyền bí bên xứ chuà tháp , cảm phục đến nổi hai năm nay chung sống , Nghiêm chỉ nói nhiều mà chưa làm gì cả , không mang về được đồng bạc nào mà Huệ vẫn nhẩn nại phục vụ. Chuyện giết người thì Huệ chưa từng nghe Nghiêm nhắc tới , nhưng Nghiêm có kể cho nghe một lần bên Nam Vang , Nghiêm đã thư một người đàn bà khiến bụng bà ấy cứ lớn dần , lớn dần , không ăn uống gì được. 49 ngày sau thì chết , bác sĩ giải phẩu tử thi , mổ bụng lấy ra một đống mảnh chai trong đó , làm chấn động cả giới y khoa bên Cam Pu Chia vì không ai giải thích được.

Từ khi nghe chuyện ấy , Huệ chẳng những phục Nghiêm mà trong cái phục ấy lâu lâu cô củng cảm thấy sợ gã nữa. có điều là huệ không ưa Đào bởi Đào có thành tích ăn cắp , cả huyện Châu Thành ai cũng biết. Huệ không muốn Nghiêm kết nạp Đào làm đệ tử vì sẽ làm mất uy tín của Nghiêm. Bởi vậy dù Huệ thấy Nghiêm nói có lý , nhưng cô vẫn chưa buông tha, cô bảo :

− Em không có biết à, nhưng coi bộ nó lo dữ lắm , nhìn cái mặt là em biết liền à. Chắc chắn phải cóc huyện gì mà anh không có nói cho em nghe. Mà em nói anh nhiều lần rồi nghe, thằng Đào nó mới ra tù thôi đó , anh đi với nó làm chi vậy ? Có ngày vô tù chung với nó , em nói thiệt đó.

Nghiêm không biết trả lời vợ ra sao , gã không bực Huệ mà tức thằng đàn em nhát gan , tự nhiên phun ra câu chuyện bàn tay sét đánh trước mặt vợ gã. Gã thơ thẩn ra sân trước đứng hút thuốc một lát khá lâu vẫn không thấy Đào trở lại như gã đã đoán , gã lại vô nhà, len lén nhìn Huệ vừa rửa chén xong, đang úp hết vào rỗ. Gã ra sau nhà đi sang tìm Đào , từ nhà Nghiêm sang nhà Đào có thể đi lối sau , men theo bờ kinh chỉ vài trăm thước là tới. Đi vòng phía trước thì quảng đường dài gấp đôi , nhưng ít khi Nghiêm dùng lối sau bởi phải đi nhờ ngang sân nhiều nhà khác , có những gia đình tụ tập ngồi ăn cơm ở sân sau trên bờ kinh cho mát nên Nghiêm rất ngại đi qua nhà họ. Tối nay bất đắc dĩ Nghiêm mới phải đi lối sau , nhưng cũng may là trời đã khuya , không gặp ai ngoài sân.

Tới nhà Đào, cửa sau đã đóng kín , Nghiêm huýt gió làm hiệu hai ba lần vẫn không thấy Đào ra như thông lệ.

− Thằng chết nhát này đã ngủ mất rồi - Nghiêm lẩm bẩm chửi đổng rồi ra về. Nghĩ thầm trong bụng là sẽ kiếm một thằng đệ tử khác làm bạn đồng hành ăn trộm. thế giới đạo chích trong huyện Châu Thành không xa lạ gì với Nghiêm. Gã chỉ vẩy tay một cái , thiếu gì đứa đi theo , nhất là giờ này Nghiêm đã nắm trong tay một báu vật hiếm hoi trong đời là bàn tay sét đánh.

Nghiêm về tới nhà thì Huệ vừa tắm xong, thay đồ bộ để chuẩn bị đi ngủ , thấy vợ đang buông mùng , Nghiêm lấy khăn ra sau nhà tắm , gã thở dài nghĩ đến thằng đàn em cà chớn làm gã đành phải hủy bỏ chuyến đi đêm nay , bởi gã cần người mở khóa đưa gã vào nhà người ta.

Nghiêm ra bờ kinh, cởi quần áo ngoài rồi nhảy xuống nước tắm một cái cho đỡ bực bội. Nghiêm đang khoắn nước ngụp lặn thì ngẩng lên thấy Đào hấp tấp đi tới. Nghiêm mừng rỡ , tưởng Đào đổi ý , quyết định đêm nay ra quân hành nghề ăn trộm , nhưng Nghiêm chợt nhíu mày ngạc nhiên vì nhìn kỹ lại thì thấy Đào ướt đẩm từ đầu tới chân , Nghiêm vội leo lên vuốt mặt rồi hỏi :

− Ủa ? Mày té ở đâu mà ướt hết trơn , hết trọi vậy ? sao không đi thay đồ đi ?

Đào không nói , mệt mỏi ngồi xuống khúc cây trên bờ kinh. Ngọn đèn tròn từ vách bếp chiếu ra , soi mờ khuôn mặt tái mét của Đào , Nghiêm tiến lại gần và nhắc lại :

− Gì vậy ? Sao chưa về thay đồ nữa ? Ê , thôi khỏi ! Lấy đồ của tao kià , thay đi.

Đào mếu máo kể :

− Anh Hai ơi , em không biết tính sao giờ nữa anh Hai , không được rồi anh Hai ơi ! em lại mới gặp bả nữa , em sợ quá anh Hai !

Nghiêm bực bội gắt :

− Bà nào nữa ? gặp ở đâu ? Hồi nào ? thấy mày sản rồi đó.

Đào mệt mỏi đáp :

Thôi anh Hai , thiệt mà anh Hai , bà Năm đó chớ bà nào ! Em nói hoài mà anh Hai hổng chịu tin em. Bả về ngay sau nhà của em kià , bả đi ghe anh ơi , tấp vô nhà của em, em sợ quá, em té xuống kinh, tưởng chết luôn rồi đó , bởi vậy em mới chạy qua đây báo cho anh biết nè ! Anh tính lại đi anh Hai , em thấy mình nên ra nghĩa địa, đem bàn tay ra chôn lại đi anh Hai.

Nghiêm chửi thề một câu rồi chán nản nói :

− Thôi được rồi , mày về đi ! Mày không muốn làm ăn với tao nữa hả ? Thôi ngày mai tao kiếm thằng khác. nè , nhưng mày nhớ nhe , mày nhớ là không được nói cho ai biết nha, mày mà nói ra hả , tao thư cho mày chết đó !

Đà còn cố gắng năn nỉ Nghiêm bỏ cuộc , nhưng Nghiêm nạt lại và đuổi đi. Đào đứng dậy lủi thủi theo bờ kinh về nhà mình. Nghiêm đứng trông theo luôn miệng chửi thề , gã thay cái quần đùi ướt , mặc lại bộ quần áo cũ , đẩy cửa bước vô nhà.

Về phần Đào , về tới nhà mới thấy lạnh. Bộ quần áo ướt dính sát vào người lại thêm sương đêm bắt đầu tỏa xuống làm Đào rùn mình hắt hơi mấy cái liền. Cánh cửa sau khép hờ , trong nhà tối om , Đào đưa tay đẩy nhè nhẹ đồng thời ngoái cổ nhìn ra con kinh , rợn người nhớ lại hình ảnh cô gái trên con đò biến thành bà Năm Tước nắm tay gã lúc nãy. Vào bếp , quơ tay lên vách bật đèn rồi lấy bộ quần áo khô còn máng trên dây phơi mặc vào.

Cả nhà đã yên giấc , Đào rón rén lên nhà , nhẹ nhàng chui vào mùng. Nằm một lúc không ngủ được, Đào thấy bụng cồn cào mới sực nhớ ra từ chiều chưa ăn gì. Có nửa tô hủ tiếu vào bụng thì đã nôn mửa ra hết tại quán Thanh Xuân khi hồn ma bà Năm Tước xuất hiện. Đào ngồi dậy nhẹ nhàng chui ra và xuống bếp tìm cơm nguội hoặc mì gói.

Nấu mì thì phải nhóm lửa , Đào ngần ngại quá. Nhìn thoáng trên bàn ăn thấy còn tô canh cải còn úp trong lồng bàn. Đào bưng soong cơm nguội còn đặt trên lò , mang lên bàn và kéo ghế ngồi. Nhà Đào đông người , nên ngày ngày nấu cơm bằng cái lò gang khá lớn. Đào mở nắp nồi , gã kêu rú lên và bật ra phía sau , nằm ngửa trên đống củi , cái nắp văng sang một bên , bởi vì nồi cơm tuy chỉ mới vơi đi một nữa nhưng trên lớp cơm gạo trắng đầu muà thơm ngát ấy , Đào thấy bàn tay sét đánh của bà Năm Tước nằm gọn bên trong.

Đào lòm còm ngội dậy và lao lên nhà, chui vào mùng đắp mền kín mít từ đầu đến chân . Đời gã từng mấy phen vào tù ra khám , nhưng chưa bao giờ gã cảm thấy kinh sợ và hối hận như hôm nay. Hai ba lần sang thuyết phục Nghiêm đem bàn tay trả lại cho bà Năm nhưng Nghiêm nhất định không nghe và thậm chí không tin cả vào những lời Đào kể. Đào ngẩm nghỉ mãi và tự hỏi là tại sao gần 2 tháng nay hồn bà Năm không hiện về mà đợi mãi đến hôm nay khi hai đứa sắp ra tay hành nghề thì bà mới xuất hiện. Phải chăng là vì Nghiêm yểm buà không đúng cách như sư phụ đã chỉ dạy nên hồn bà Năm mới oán hận mà trở về dương gian ?

Trái tim Đào là trái tim sắt đá , không biết sợ ai thế mà hôm nay đã đành cầu khẩn hồn bà Năm tha tội cho gã.

ở nhà Nghiêm , Huệ đã chui vào mùng nằm nghe cải lương , Nghiêm ngồi ngoài hút thuốc một lúc cho tóc khô hẳn rồi mới tắt đèn chui vô nằm bên Huệ , Huệ vói tay tắt radio rồi bảo :

− Anh lại đi qua kiếm thằng Đào rổi phải không ? Em nói rồi mà, anh cứ đi với nó hoài , có ngày chung vô tù ở chung với nó đó. Anh mà vô tù , em không có thèm thăm nuôi đâu nghe. Em về lại với ba má em đó.

Nghiêm cười gường :

− Sức mấy mà anh vô tù , em đừng có lo

Huệ lớn giọng hơn :

− Không có lo sao được , em không còn đồng bạc nữa , mấy bữa nay không có tiền đi chợ , nợ tùm lum tà la hết trơn à. Anh không bao giờ lo làm ăn hết trơn hết trọi.

Nghiêm choàng cánh tay qua ôm lấy vai Huệ và trấn an :

− Anh nói em nghe nè , mình sắp giàu rồi em ơi. Nội tuần tới , em thiếu bao nhiêu nợ , anh trả hết cho.

Cùng với câu nói ấy , gã ôm ghì lấy Huệ và rúc đầu vào ngực vợ , nhưng Huệ phì cười rồi đẩy gã ra và nói :

− Thằng cha này , nhột thấy mồ.

Trong bóng tối mờ mờ , Nghiêm thấy khuôn mặt không son phấn của cô vợ trẻ và đẹp hẳn lên. Để vợ khỏi trở lại đề tài cũ cằn nhằn mình về tiền bạc. Nghiêm đẩy vợ nằm ngửa ra và leo lên nhưng Huệ lại đẩy gã nằm xuống bên cạnh và nghiêm trang nói :

− Anh phải hứa nghen , tuần tới là phải có tiền cho em đó nghen.

Nghiêm không trả lời , gã vòng tay ra phía sau mò mẫm dưới mặt giường vì gã thấy cồm cộm dưới lưng , rõ ràng vừa nằm đè phải cái gì giống như ổ bánh mì hay cái bánh tét vôi , nhưng chắc là cái bóp của Huệ , gã đoán thế và khua tay cầm lên đưa ra trước mặt coi. Nhưng chưa kịp đưa ra trước mặt , gã đã kêu thét lên vì gã vừa nhận ra đó là cái bàn tay sét đánh trơ xương , co quắp và đen đủi của bà Năm. Nghiêm lặng người giật thót , tim như thắt lại và kinh hãi , gã đã cất kỹ trong cái hộp sắt giấu dưới bếp , tại sao giờ này nó lại nằm đây ?

Như một phản xạ tự nhiên khi người ta cầm phải vật gì gớm ghiếc , Nghiêm quăng mạnh cái bàn tay sét đánh xuống đất, nhưng cái mùng trắng đã chèn căng dưới chiếu cản lại làm cái bàn tay sét đánh ấy rơi ngay vào chân Nghiêm , Nghiêm co rúm người , hai chân đạp lia lịa. Cũng cái bàn tay ấy lâu nay Nghiêm ngắm nghía vì nó sẽ là bạn đồng hành của gã , nhưng đêm nay gã thấy ghê sợ đến chừng muốn tắt thở bởi nó tự động từ dưới bếp mò lên đây nằm chung với Nghiêm.

Dĩ nhiên là Huệ không hề biết là chồng mình đang giấu cái vật quái lạ ấy trong nhà , và càng lạ là mặc dù Nghiêm nãy giờ dãy dụa và la hét như vậy mà Huệ vẫn bình thản nằm im như không trông thấy , không nghe thấy gì cả.

Nghiêm đạp tung cái mùng ra khỏi lớp chiếu tung dưới chân và hất mạnh bàn tay sét đánh xuống đất , bấy giờ Huệ mới ngạc nhiên hỏi :

− Cái gì , cái gì vậy ? cái gì mà anh đạp dữ vậy ? Bửa nay sao anh kỳ quá vậy ?

Nghiêm co rúm người , ngồi thu mình ở đầu giường thở hổn hển và ấp úng bảo :

− Mở đèn...mở đèn...mở đèn lên !

Huệ không hiểu gì , từ từ vén mùng chui ra và vói tay bật nút đèn trên vách, căn phòng rực sáng , Nghiêm mở to mắt , len lén bước xuống và tiến lại phía đuôi giường - chổ gã vừa hất cái bàn tay sét đánh xuống. Gã nhìn khắp lượt , tìm tòi thật kỹ nhưng lạ quá không tìm thấy cái bàn tay đâu cả. Huệ ngồi ở mép giường , nhìn nét mặt tái xanh của chồng kinh ngạc hỏi :

− Anh kiếm cái gì vậy ? Bộ anh nằm mơ hả ?

Nghiêm không đáp , cứ trố mắt cắm đầu nhìn mọi góc cạnh của căn phòng nhỏ. Gã có ngủ đâu mà mơ ? Gã thốt nhớ lại lời Đào nói và lần đầu tiên gã linh cảm thấy có điềm gì bất thường đã xảy đến với Đào. Hèn gì chiều nay mấy lần Đào giục gã đem bàn tay ra nghĩa địa chôn lại cho bà Năm. Huệ giục hai ba lần nữa Nghiêm mới trở vào , chui vào mùng và mệt mỏi nằm xuống , mồ hôi vả ra như tắm. Huệ nhắc lại câu hỏi :

− Anh kiếm cái gì vậy ? Sao không nói em kiếm dùm cho.

Nghiêm không đáp , mắt mở trừng trừng nhìn lên nóc mùng , Huệ tắt đèn và chui vào với Nghiêm. Lần đầu tiên , từ ngày quen Nghiêm , đêm nay Huệ thấy chồng mình sợ hãi đến rụng rời , khác hẳn cái thái độ vênh vênh háo thắng thường ngày của Nghiêm. Huệ cầm cái quạt phe phẩy quạt mồ hôi cho Nghiêm , mặc dù đêm nay trời không nóng , gió từ con kinh sau nhà vẫn thổi vào từng cơn nhè nhẹ.

Nghiêm quay nghiêng ngưới, nhắm mắt ôm ghì lấy vợ , bàn tay vẫn con run rẫy. Huệ buông cái quạt và cũng ôm chặt lấy Nghiêm vì đoán gã vừa nằm mơ thấy cái gì kinh hãi , cần chia sẽ cảm xúc với vợ , Huệ nói :

− Ngủ đi anh, thôi ráng ngủ đi , em xoa lưng cho anh ngủ nghen

Nghiêm nhắm mắt im lặng , bàn tay gã đặt trên vai Huệ hớn hở xoa dần xuống cánh tay nàng. Bổng gã hét lên và hoảng hốt tung màn chạy ra là vì khi gã đưa tay xuống chạm vào cổ tay Huệ thì gã nhận ra là cánh tay Huệ đã cụt hẳn , mất nguyên một bàn tay. Gã cuống quýt bật đèn rồi đứng thở. Căn phòng lại rực sáng , Huệ lồm cồm chui ra theo và nhíu mày hỏi :

− Trời ơi bửa nay anh làm sao vậy ? la hoài à , kỳ cục quá !

Nghiêm mặt cắt không còn hột máu đăm đăm nhìn cả hai cánh tay vợ và ngơ ngác thấy vẫn còn nguyên vẹn. Rõ ràng trong bóng tối , gã vừa nắm phải cánh tay cụt của Huệ y như cánh tay bà Năm mà Đào đã dùng búa chặt đứt từ cổ tay , Đào bắt đầu thấy bực bội, kéo tay Nghiêm thở ra và nói :

− Thôi vô ngủ đi, đừng tắt đèn nữa , để đèn sáng đêm luôn cũng được.

Nghiêm thở hồng hộc , theo vợ lại giường và leo lên. Gã mệt mỏi nằm xuống và tự nhủ ngày mai phải đem bàn tay sét đánh cùng Đào ra chôn ngoài nghĩa địa.

Như vậy là những câu thần chú và cách thức yểm buà của gã không hiệu nghiệm , gã yếu ớt bảo Huệ :

− Em ơi , anh sợ quá em ơi !

Huệ tội nghiệp quàng cánh tay ôm lấy gã , hai người nằm ngiêng , mặt dối mặt cho đỡ chói mắt vì ngọn đèn trên trần rọi xuống , Huệ nhắc lại :

− Thôi ngủ đi, có em đây mà sợ gì , ngủ đi.

Nghiêm thở mạnh , nhắm mắt lại , hôn lên trán vợ. Giờ này gã mới thấy cần có huệ bên cạnh. Đêm nay không có huệ , chắc chắn gã đã chết giấc vì hãi hùng. Bên ngoài gió bổng thổi mạnh lên vù vù , len qua khe cửa sau nhà , rồi trong chốc lát , tiếng mưa rơi nặng hạt chen lẫn những hồi sấm vang dậy và những hồi chớp sáng rực ngoài cửa sổ , Nghiêm khẻ rùn mình vì lạnh , gã hỏi Huệ :

− Em ơi , có cần đóng cửa sổ lại không em ? Anh sợ mưa tạt vô nhà đó.

Huệ đáp :

− Để cho mát mà , mưa kiểu này không có lâu đâu.

Cùng với câu nói ấy , Huệ âu yếm xoa lên vai Nghiêm rồi nhẹ nhàng đẩy gã nằm ngửa ra và leo lên nằm trên người gã. Chỉ có cách này mới xoa dịu cho gã nổi lo sợ ám ảnh trong đầu. Huệ cuối xuống hôn Nghiêm, Nghiêm cảm động quàng hai tay ôm lấy cổ vợ. Bổng gã ú ớ đẩy Huệ ra , vì khi hai người đang say đắm hôn nhau thì bất ngờ mấy cái răng của Huệ rụng ra, rớt trong mồm Nghiêm. Nghiêm choàng mở mắt , kinh hãi phun mấy cái răng ra khỏi mồm. Huệ vẫn nằm trên người gã , chỉ ngóc đầu dậy. Dưới ánh đèn sáng rực , Nghiêm trố mắt nhìn rồi kêu thét lên , gã khiếp đảm và bất tỉnh nhân sự bởi người nằm trên bụng gã , vừa nồng nàn hôn gã không phải là Huệ mà là cái xác cứng đờ nám đen của bà Năm Tước.
 
Ma đói

Tác giả: Tam Tang


Note: Viết theo lời kể của một sỹ quan chiến tranh chính trị(CTCT) thuộc sư đoàn 23BB, đồn trú tại thị xã BMT tỉnh Đắc Lắc . Bài này cũng được gợi hứng do lời reply của Tha Hương về bọn ma đói về quấy phá một trại cải tạo tại Bầu Lâm, Xuân lộc!

Tam Tang


Tôi tốt nghiệp trường Sỹ Quan CTCT Đà Lạt vào đầu mùa Thu 73 với cấp bậc Thiếu Úy! Được cử về đại đội 23 CTCT thuộc sư đoàn 23 BB. Trang trại của đại đội nằm sau lưng Tiểu Khu Đắc Lắc và kế bên một nghĩa trang Quân Đội! Bên kia đường, đối diện với nghĩa trang là một xóm nhà dân thuộc khu Trần Hưng Đạo! Trại tôi gồm có 3 dãy nhà dài dùng làm văn phòng và kho chứa các tài liệu! Chúng tạo hình chữ U với đáy dựa về hướng nghĩa trang! Ở dãy nhà này có một gian được ngăn làm hai buồng cho các sỹ quan độc thân ở hoặc sỹ quan trực ngủ qua đêm! Cuối dãy là một nhà bếp nhỏ dùng để phục vụ cho các sỹ quan và hạ sỹ quan độc thân của đại đội!

Tôi là sỹ quan độc thân duy nhất trong đơn vị nên chiếm một căn phòng cho mình. Cơm nước đã có nhà bếp lo; quần áo thì cuối tuần đưa ra tiệm giặt ủi thế là xong! Cuối tuần tôi hay lang thang ra phố uống cà fê, rồi ghé vào rạp Thăng Long xem chiếu bóng! Thành phố Ban Mê Thuột (BMT) nhỏ lắm, đi vòng vòng chừng nửa tiếng là lại về chổ khởi hành rồi! Có năm rạp hát cả thảy, nhưng tôi thích xem ở rạp Thăng Long vì ở đó chiếu phim của Mỹ hay Pháp, còn các rạp khác chỉ toàn phim kiếm hiệp Hồng Kông mà tôi chúa ghét! Thỉnh thoảng có ngày nghỉ, tôi thường đến ngồi dầm tại quán cà fê "Mây Hồng" bên hông trường trung học Tổng Hợp BMT để ngắm các tà áo dài xanh của các cô nữ sinh sau giờ tan trường!

Tuy BMT và Pleiku cách xa nhau hơn trăm cây số, nhưng hai thành phố gần giống như nhau, cũng bé như nhau, có sương mù, có gió lành lạnh! Tôi thấy bài hát của Phạm Duy về em gái Pleiku má đỏ môi hồng cũng có thể áp dụng cho cái xứ "Buồn Muôn Thủa" này!

Mấy ngày đầu mới về đơn vị, tôi phải lo các thủ tục giấy tờ, lo dọn dẹp chổ ăn chổ ngủ, rồi lại phải nhậu mấy chầu với các sỹ quan đàn anh trong đơn vị ! Tôi mệt nhoài người nên đêm về ngủ như chết! Tuần sau mọi việc đã đâu vào đấy rồi thì những sự việc lạ bắt đầu xảy ra, gây cho tôi sự chú ý! Vào nửa đêm 30, trời tối đen! Gió thổi thì thào mang theo cái lạnh cao nguyên xuyên qua các kẻ hở của vách ván vào tận trong phòng! Tôi co rúm người trong chiếc chăn nhà binh! Bổng tai tôi nghe tiếng reo hò, tiếng đánh nhau hòa lẫn cùng với tiếng gió phía sau dãy nhà! Tôi tự nghĩ sao ai lại đánh chửi nhau vào giờ này kìa! Tôi hiếu kỳ mở cửa bước ra xem! Ngoài trời vắng lặng, chỉ có tiếng côn trùng rả rích và ánh sáng của mấy con đom đóm lập lòe đó đây! Tôi bước tới vọng gác trước cổng hỏi người lính canh:

_ Anh có nghe thấy gì không?

_ Không! Không có gì xảy ra cả !

Tôi trở về phòng tự trấn an, có lẽ mình tưởng tượng ra mà thôi! Rồi như các chàng thanh niên trẻ khác tôi lăn ra ngủ say cho tới tiếng kẻng báo thức nổi lên với lăn xuống giường chuẩn bị cho một ngày làm việc mới! Đêm sau, tiếng con cú mèo (có nơi gọi là chim heo) kêu éc éc trong nghĩa trang sau nhà làm tôi thức giấc! Và tôi lại nghe tiếng hò hét, tiếng chửi nhau, rồi tiếng đánh nhau vang dội sau nhà ! Tôi lần xuống giường, ghé mắt vào kẻ hở trên vách nhìn về hướng nghĩa địa, chẳng có ai cả ! Tiếng động cũng im bặt ! Chỉ có một con cú mèo đậu trên đỉnh của cái tháp "Tổ Quốc Ghi Ơn", và mấy con đom đóm bay vờn vờn trên các ngọn cỏ bông lau mọc ven rào của nghĩa trang!

Tôi không nghĩ là mình nghe lầm hay tưởng tượng ra! Lần này là lần thứ hai tôi nghe mà! Tôi đợi một lát nhưng chẳng có gì xảy ra nữa!

Trở về giường tôi trằn trọc nghĩ về điều này và tự nhủ là nhất định phải tìm hiểu sự việc này!

Sáng hôm sau tôi hỏi một sỹ quan trong đại đội về việc này, anh ta hơi biến sắc nhưng cố đổi giọng nói:

_ Làm gì có chuyện đó!

Xong anh ta quay qua chuyện khác! Điều đó chỉ làm cho tôi thêm nghi ngờ mà thôi! Tôi hỏi một vài người lính họ cũng ởm ờ và lảng qua chuyện khác!

Hình như mọi người cố tránh nói về sự kiện này! Không thỏa mãn với bạn đồng ngũ, tôi quyết mang chuyện này đi hỏi những người dân quanh đây!

Cuối tuần đó khi mang quần áo bỏ giặt ủi, tôi bắt chuyện với bà chủ tiệm. Bà ta chừng khoảng 40, người Quảng nên giọng nói hơi khó nghe, nhưng tôi hiểu hết các điều bà nói! Khi nghe tôi hỏi về sự việc tôi trải qua hai đêm liền, bà ta trầm giọng trả lời:

_ Ông mới vềnên không biết thôi, chứ ở đây ai cũng rành về mấy con ma ở chổ trại ông ở hết trơn! Mấy ông lính cũng biết rành hết chứ! Có lẽ mấy ổng không muốn ông hoang mang hay sợ nên họ giấu ông đó!!

_ Xin thím kể cho tôi nghe đi! Tôi không sợ đâu!

_ Được rồi nếu ông không sợ thì tui kể đầu đuôi cho ông nghe!

"Chuyện này bắt nguồn từ năm 68 lận! Đêm 30 Tết năm đó VC đánh vào thị xã BMT, chúng tổng tấn công vào

hầu hết các căn cứ quân sự và hành chánh trong thị xã! Từ phi trường Phụng Dực đến bộ chỉ huy trung đoàn 45 tại cây số 5, cả đến bộ chỉ huy sư đoàn 23, luôn cả tiểu khu Đắc Lắc lẫn Tòa Hành Chánh tỉnh, và cả kho đạn Mai Hắc Đế nữa! Tuy hầu hết lính đã đi phép Tết, những người còn lại vẫn chiến đấu rất dũng cảm! Họ đẩy lùi mọi cuộc xung phong của VC vào các căn cứ của họ! Vài tuần sau khi tàn cuộc chiến, bọn VC để lại mấy ngàn xác chết quanh vòng rào các căn cứ quân sự! Xác chết sình thúi rất ghê tởm! Lính công binh phải dùng xe ủi để đào các hố lớn làm mồ chôn tập thể cho các xác chết này! Tui biết vài chổ như một ở Trung Tâm Tình Thương, một ở trại Mai Hắc Đế, và một chổ ở cạnh bên nghĩa trang quân đội! Tui không biết mấy ông lớn nghĩ sao mà lại cho cất trại lính ngay trên cái mồ tập thể đó! Tui nói cái trại của ông đó, ông Thiếu Úy à!

Từ khi có ngôi mộ tập thể đó dân chúng sống dọc theo nghĩa địa bắt đầu bị quấy phá! Lúc đầu thì họ chưa biết gì hết! Thỉnh thoảng đêm đến có vài người ăn mặc rách rưới gỏ cửa xin cơm ăn, nhưng riết rồi người ta nghi ngờ vì toàn là người lạ mặt nói đặc tiếng Bắc không thôi! Họ nghi là ma nên không mở cửa cho ăn nữa! Nhưng rồi bọn ma đói đó làm tới! Không cho thì chúng quậy! Nhà nào còn cơm nước thừa qua đêm đều bị quậy thiu vữa hết! Bà con sợ mấy con ma này nên kẻ thì xin bùa về treo trước cửa, người thì lấy nước phép về rẩy khắp nhà trước khi đi ngủ! Bọn ma càng ngày càng lộng hành! Chúng kéo nhau nhát những người đi chơi khuya về! Riết rồi chẳng ai dám đi ngang nghĩa địa vào ban đêm nữa! Bà con mời thày cúng về nhờ mấy người lính chôn trong nghĩa trang quân đội gíup họ xua đi bọn ma đói kia! Từ đó bà con không còn bị phá nữa, nhưng những người nhẹ vía sống gần đó vẫn thường nghe tiếng la hét đánh nhau vào những đêm tối trời! Có lẽ hồn của các anh lính chận đánh bọn ma đói mò đi kiếm ăn! Một vài người trong trại ông cũng nghe tiếng la ó đó mà! Đó là lý do mà không có ai chịu ở trong trại của ông hết, họ sợ nên mướn nhà riêng để ở hết trơn!"

Tôi về trại đem chuyện này nói lại với anh nhà bếp, anh ta ngập ngừng một chút rồi nói:

_ Chuyện này có thiệt đó Thiếu Úy ạ ! Ông mới về nên chúng tôi không dám nói sợ Ông hoang mang!

Ngay cuối tuần đó tôi đi mướn một căn nhà nhỏ ở sau Ty Ngân Khố thuộc khu Trần Hưng Đạo, nhà cũng gần trại của tôi! Từ đó tôi chỉ ở lại trại

vào những đêm trực mà thôi! Tuy thế âm thanh của những tiếng reo hò đó vẫn ám ảnh tôi cho đến ngày nay!!!!
 
Ma Trong Khách Sạn

Tác giả: Thay Boi Mu


Duyên làm việc cho một công ty Thailand ở Saigon. Trong một dịp đi công tác ở Rạch Giá, cô vào đặt phòng nghỉ ở khách sạn Ngọc Hường ngay trên đường vào Thị xã Rạch Giá. Các cô tiếp tân tỏ vẻ ngần ngại một cách kỳ lạ:

- Tụi em chỉ còn một phòng duy nhất là phòng số 301 nhưng... lớn quá lại có tới hai phòng, một mình chị ngủ e trống trải quá!

Vì trời cũng đã tối và cảm thấy phòng lớn hay nhỏ cũng không quan trọng nên cô quyết định lấy phòng số 301. Trong khi làm thủ tục cho mướn phòng các cô tiếp tân nhìn nhau mỉm cười, trong ánh mắt như trao đổi điều gì khó hiểu.

- Tụi em ngủ ở hành lang cùng lầu, gần cầu thang. Nếu có chuyện gì chị cứ kêu tụi em nhe!

Nói xong cô tiếp tân đưa chìa khóa cho Duyên với ánh mắt ái ngại. Sau khi tắm rửa, Duyên lên giường bắt đầu đọc sách để dỗ giấc ngủ vốn khó khăn khi cô phải ngủ phòng lạ mỗi lần đi công tác xạ Vừa đọc được mấy hàng thì bên ngoài trời bổng nổi gió đập ầm ầm vào cánh cửa sổ. Vào mùa này trời đâu có khi nào mưa bao giờ. Duyên mở cửa sổ nhìn ra xem có phải trời sắp mưa thực sự không. Lạ thật, trời trong, trăng sáng soi rõ những ngọn dừa đứng yên bất động. Duyên đóng cửa sổ, lên giường nằm đọc sách tiếp. Lạ thay, nàng lại nghe tiếng gió rít bên ngoài và tiếng cửa sổ như bị gió đập mạnh mặc dù đã đóng kín. Nàng thấy hơi lạ nhưng lại tập trung đọc sách. Nhưng rồi Duyên không tài nào tiếp tục tự che giấu cảm giác rùng rợn khi từng luồng ớn lạnh cứ chạy dài từ gáy dọc theo cột xương sống xuống dưới lưng. Tiếng động kinh dị vẫn gầm rú như gào thét đáng kinh sợ. Duyên bật tung dậy chạy ra khỏi phòng về phía cầu thang. Các cô nhân viên cũng vừa trải chiếu giăng mùng chuẩn bị ngủ. Thấy Duyên, họ không có vẻ gì ngạc nhiên mà còn như biết trước người khách nhỏ nhắn xa lạ này sẽ cần sự giúp đỡ. Duyên nói khẩn khoản:

- Mấy em ơi, phòng 301 chị thấy có cái gì đó không ổn. Có thể em nào vô ngủ chung với chị đêm nay được không? Chị sợ lắm!

Các cô nhìn nhau không nói lời nào, cũng không ai hỏi Duyên chuyện gì xày ra. Cuối cùng một cô tình nguyện vô ngủ với Duyên. Phòng có hai giường. Cô nhân viên tên là Mai vừa giăng mùng lên là trùm mền kín bít nằm im thin thít. Duyên không đọc sách nữa. Cô nằm im lắng nghe xem có tiếng gió đập cửa nữa hay không. Quả nhiên như sự mong đợi, bốn bề đều im lặng. Duyên cảm thấy nhẹ nhõm. Nàng không còn nghĩ vớ vẩn nữa mà bắt đầu nhớ nhà, nghĩ tới đứa con không biết giờ đã ngủ ngon chưa. Bất thình lình, nàng một bàn tay nào đó nắm lấy hai chân Duyên kéo mạnh một cái về phía cuối giường. Nàng giựt mình, rồi mau chóng trườn trở lại vị trí cũ. Cô còn chưa kịp hoàn hồn, chưa kịp giải thích chuyện gì xảy ra thì lại bị kéo mạnh một cái nữa về cuối giường. Lần này nàng tốc người dậy, phóng qua giường của Mai, chui vô mền trùm kín bít. Duyên vừa nằm yên bên giường Mai thì nghe tiếng ngáy rất to phát ra từ đâu đó. Thoạt đầu, cô nghĩ có lẽ ai đó ngáy từ phòng kế bên. Nhưng sau khi lắng nghe thật kỹ thì rõ ràng tiếng ngáy phát ra từ ngay chính chiếc giường mà cô nằm trước đó chưa đầy một phút. Duyên gọi Mai dậy thì tiếng ngáy dứt ngaỵ Cô vội vàng thay quần áo và thu dọn đồ rời khỏi nơi đó ngay lập tức, khi trời còn chưa sáng.

Chú thích:

Đó là chuyện có thật 100% TBM được nghe chính Duyên, em gái mình, kể lại trong dịp về VN vừa rồi. Nếu bạn nào về VN có dịp ngủ lại Rạch Giá hãy nhớ chọn phòng số 301 xem thử có gì xảy ra không nhe!
 
Ma Trên Đất Mỹ

Tác giả: Nam Huỳnh


Người viết : Tác giả Nam Huỳnh (PHT). Cựu SQ QLVNCH, sang Mỹ trong diện H.O:12, từng làm việc ở tiểu bang IDAHO, hiện cư trú tại GARDEN GROVE.

*

Tác giả Nam Huỳnh, cư trú tại Garden Grove, lần này góp một bài Viết Về Nước Mỹ đặc biệt về gặp ma ở Mỹ. Ông viết "Đây là những chuyện hoàn toàn thật, nên xin được phép không nêu rõ địa danh và vị trí, để không phạm pháp quy và không làm phiền cho gia chủ. Tại Mỹ về chuyện Ma thì có phim "The Ghost" căn nhà Ma ở Los Angeles... ngay ngã tư Hazard & Euclid trước năm 1994 vẫn còn căn nhà Ma, nhưng nay đã bị phá bỏ." Mong sẽ có thêm những bài viết mới của Nam Huỳnh và các quí vị khác.



oOo

Năm 1994 là năm mà nền kinh tế Orange County bị bế tắc trầm trọng, nạn thất nghiệp gia tăng... đó là nguyên nhân đã khiến cho hàng loạt người đã rời bỏ nơi đây để tìm sinh kế nơi các tiểu bang khác. Trong dòng người ra đi tìm sự sống có ba anh em tôi!

Chúng tôi lái xe đến Fort Smith thuộc miền Bắc tiểu bang Arkansas vào đúng nửa đêm... sau 3 ngày đêm vượt hơn 2000 miles. Tất cả chúng tôi đều quá mệt mỏi, nên đã quyết định đậu xe trong khuôn viên của một "Gas Station" để ngủ, chờ sáng...

Sáng hôm sau, chúng tôi đi tìm thuê Apartment ở khu downtown của thành phố. Đang dọ hỏi đường đi, chúng tôi lại gặp một nhóm gồm 4 người, cũng từ Orange County ra đi như chúng tôi, họ gồm có đôi vợ chồng trẻ, và hai thanh niên, bạn của đôi vợ chồng này...

Cùng chung cảnh ngộ, nên dễ cảm thông nhau, và đồng kết bạn và cùng thuê nhà ở chung.

Chúng tôi thuê được 1 phòng của Fourplex có 1 bath 1 bedroom. Trong bathroom để cho 3 thanh niên, ngủ ở living room thì có cặp vợ chồng trẻ, tôi và cô em gái tôi. Chúng tôi cùng apply xin việc tại công ty OK Food.

Ca 1 (shift 1) 5 người trong đó có tôi.

Ca 2 (shift 2) chỉ có một mình Hùng (do Hùng xin vì hắn ta không thức sớm nổi).

Hằng ngày từ 3:00Am, chúng tôi phải thức dậy lo chuẩn bị đi làm (Theo xe ủi tuyết, đến Parking của hãng ngủ tiếp trên xe, chờ đến 5:30 am vào ca). Riêng Hùng, hắn ta ngu đến 2:00 Pm mới vào ca

2. Phần cô em gái tôi, vì dị ứng với thời tiết mùa Đông nên bi cảm cúm luôn nên phải ở nhà lo cơm nước cho mọi người.

Ba ngày nơi căn nhà trọ trôi qua thật yên lành. Sáng ngày thứ tư, khoảng 8:30 am Duyên (em gái tôi) đang chuẩn bị lo thức ăn nơi nhà bếp, cô giật mình vì nghe tiếng la ú ớ của Hùng trong phòng ngủ..

Cô chạy đến đập cửa phòng gọi Hùng khoảng 10 phút sau mới có tiếng trả lời và Hùng mở vội cửa chạy ra, nhớn nhát và có vẻ hồi hộp chạy thẳng ra living room ngồi xuống nền thảm, nói với Duyên rằng:

-Anh ta bị "Ma" đánh, đuổi anh ta...

Duyên cũng có phần lo lắng, nhưng cô cố trấn tĩnh và khuyên Hùng ráng bình tĩnh để mà họp tất cả anh em lại để hội ý cùng quyết đinh. Hùng quyết định, ngay hôm nay Hùng nghỉ việc, ở nhà chờ 5 anh em chúng tôi đi làm về để bàn bạc.

Mọi người tắm rưa? xong là vào ngồi tại living room để nghe Hùng kể:

-Từ đêm đầu tiên vào nhà này, liên tiếp cho đến hôm nay là ngày thứ tư, mỗi đêm Hùng đều mơ thấy một người đàn ông Việt Nam, mặt tròn, đầu hói, luôn luôn với nét mặt nhăn nhó,

cau có đến nói với Hùng rằng: đây là phòng của ông ta và ông ta yêu cầu Hùng phải rời khỏi nơi đây!

-Chuyện trong mơ, theo Hùng nghĩ: đó chỉ là dị mộng... nhưng đêm nào cũng xảy ra như thế, cho đến sáng nay là lần thứ tư, Hùng thấy ông "ma" này nổi giận, mắng chửi Hùng và xô anh ta té từ trên giường xuống sàn nhà...

Hùng la ú ớ, khi nghe tiếng đập cửa của Duyên, Hùng mới tỉnh giấc và thấy mình đang nằm dưới sàn nhà cách xa giường ngủ khoảng 1 yard! Và khắp thân thể đều bị ê ẩm! Nhưng cố bò lại mở cửa chạy ra ngoài... !

Câu chuyện của Hùng vừa kểà xong, thì tiếp đến Lê và Thư, hai thanh niên cùng phòng với Hùng cũng nói. Đêm nào hai em cũng nghe có tiếng động như có người đi. Có tiếng nước chảy trong bathroom, có tiếng soong, nồi, chén, dĩa va chạm nhau ở nhà bếp...

Còn Lê nói:

-Có đêm thức giấc đi tiểu, thì dường như có bàn tay nào đó sờ vào lưng Lê, còn Thư thì kể:

-Lúc đang tắm thì nghe có tiếng gõ cửa và có tiếng người hối Thư tắm nhanh cho anh ta vào tắm... Lật đật tắm lẹ để nhường phòng tắm... nhưng khi xong trở ra, Thư hỏi mọi người thì ai cũng tắm rồi cả.

Thư và Lê còn cho biết, có lúc nằm còn xem Tivi nhưng họ cảm thấy có ai đó khiêng cái giường họ lên... khi họ ngồi dậy thì cái giường rớt xuống nền nhà nghe thành tiếng "cụp". Mọi sự việc đã xảy ra trong suốt 4 ngày qua... tất cả 3 thanh niên đều nghĩ "Không phải là ảo tưởng mà là sự thật"nên họ đều sơ...

Do đó đêm nay tất cả đều ra nằm ngủ chung ngoài living room. Một đêm an toàn ngủ tại living room đã làm mọi người an tâm trở lại.

Đến đêm thứ bảy, weekend đầu tiên, chúng tôi quây quần bên nhau tại living room người xem tivi, người đọc báo, hai cô gái thì trò chuyện về cuộc sống hôm naỵ Chờ xem bản tin 9:00 Pm của đài ABC băng tầng số 4 xong, thì mới tắt neon đi ngủ...

Bỗng tất cả chúng tôi đều giật mình khi nghe tiếng xã nước trong bath room, như có người đang tắm.

Mọi người, nhất là 2 cô gái rất sợ hãi...

Tôi quyết định lấy cây đèn Pin bảo Hùng và Thư theo tôi, còn Lê ở lại living room với 2 cô gái..bath room hoàn toàn khô ráo.

Không còn nghe tiếng nước chảy. Đêm đó, hầu như mọi người đều mất ngủ, chỉ riêng tôi còn ngủ được một chút ít. Cứ mỗi lần có ai cần đi tiểu, thì lại đánh thức tôi dậy để đưa dẫn giùm... khiến tôi cũng chỉ ngủ được rất ít..!

Sáng chủ nhật, tôi quyết định cùng nhau đi chợ mua ít thực phẩm, về nấu mấy món ăn cúng người khuất mặt!

Tôi khấn người khuất mặt nhận phần cúng này, chúng tôi dâng cúng với lòng chân thành, cầu xin người tha thứ và độ trì cho chúng tôi: những người tỵ nạn đầy khó khăn nơi xứ lạ và vì cuộc sống, vì việc làm nên phải tha phương cầu thực và lưu lạc như thế này. Cầu mong "người" thông cảm cho hoàn cảnh và đừng làm cho chúng tôi sợ nữa, tôi cũng khấn hứa rằng: đi tìm thuê nhà khác với sự phò trợ của "người".

Cúng xong, chúng tôi dọn ra ăn thật vui vẻ, bỗng cô em gái tôi nói với mọi người:

- Ông ta bảo rằng: ông là người Việt Nam di tản sang Mỹ hồi 30 tháng 4 năm 75, ông cũng là công nhân của hãng thực phẩm này, ông làm shift 1, vợ con ông làm shift 2. Khi ông đi làm về nhà, thì vợ con ông đã đi làm, ông tắm rửa xong, ông bị chóng mặt quá, ông cố lết vào phòng thì té cạnh giường chết vì đứt mạch máu não..đến ngày hôm sau vợ con ông mới phát giác...

Nghe xong câu chuyện, ai cũng bùi ngùi cho ông, gia đình ông và ngay cả thân phận chúng tôi (có điều xin ghi chú: Cô Duyên, được hồng ân Thiên Chúa cho nên Duyên nghe được tiếng người chết nói).

Ngay chiều hôm đó, Hùng xuống phố Downtown chơi, gặp một người Việt Nam cùng làm chung hãng chỉ cho chúng tôi thuê được một townhome cách căn nhà "Ma" khoảng nửa miles.

Trưa thứ hai từ hãng ra về chúng tôi dọn nhà ngaỵ Chúng tôi báo cho bà chủ nhà về việc chúng tôi "moved" chưa hề có ý định xin lại bớt tiền nhà, thế nhưng bà chủ đã sẵn sàng bớt lại cho chúng tôi 20 ngày, và chỉ yêu cầu chúng tôi đừng bao giờ tiết lộ về tin tức "căn nhà ma" của bà...

Chúng tôi làm việc cho OK Food được 6 tháng, thì hãng bắt đầu suy xụp, vì ảnh hưởng chung của nền kinh tế Mỹ. Mỗi tuần chỉ làm có 3 ngày, do đó cuộc sống chúng tôi lại bị khó khăn, nên chúng tôi bắt buộc phải rời thành phố đầy băng tuyết này để đi tìm sinh kế nơi khác.

Cuối năm 1995, chúng tôi được người bạn ở San Francisco gọi lên và giới thiệu cho 3 anh em chúng tôi làm quản gia một "Tòa lâu đài" và quản lý nhà hàng. Được bà chủ nhà (Tòa lâu đài và nhà hàng) đã vui vẻ, lịch thiệp ân cần đón tiếp chúng tôi với lòng tha thiết, bà cũng ưu ái trả lương rất là vừa phải, bao ăn, ở tại tòa lâu đài.

Sau khi mời chúng tôi ăn lunch tại nhà hàng, bà đích thân đưa chúng tôi về tòa lâu đài lúc 1:00 PM để chúng tôi nghỉ ngơi ít hôm, trước khi bắt tay vào việc.

"Tòa lâu đài" sừng sững trên một ngọn đồi, nhìn xuống trước mặt là một hồ nước khá to, chung quanh "lâu đài" là một dãy Apartment khá sang trọng, bên trong bức tường bao quanh tòa lâu đài là những "vườn hoa muôn sắc" thật là rực rỡ thanh tao..!

Tòa lâu đài có diện tích khá rộng, trên 25,000 sqft nằm trong một khu vườn rộng trên 60,000 sqft và được xếp hạng là Tòa lâu đài thứ 12 trên đất Mỹ. Tòa nhà có 3 tầng, khá rộng mà hệ thống đèn quá cũ kỹ nên không đủ ánh sáng, do đó các phòng hơi tối và lạnh lẽo... !

Đêm đầu tiên 3 anh em chúng tôi ngủ tại living room nhỏ bên trái, lúc 9:00 Pm tôi và cậu em trai còn xem tin tức trên tivi, cô em thì nằm trên sofa... Đột nhiên có một làn gió mạnh,... thổi ngang làm cho tất cả chúng tôi đều rùng mình ớn lạnh... mặc dù quanh chúng

tôi chẳng có một cửa sổ nào mở cả, tôi vội đứng lên đi xem tất cả các cửa sổ, nhưng tất cả đều đóng kín! Khoảng 15 phút sau, chúng tôi lại nghe nhiều tiếng động phát ra từ trong các

phòng ngủ ở tầng trệt và trên lầu, có tiếng đóng và mở cửa..rồi liên tục hướng nhà bếp có tiếng cọt kẹt, tiếng nồi, niêu, xoong, chảo va chạm nhau... tiếng chân người chạy trên tầng 2... !

Tôi cũng giật mình chới với, nhưng cố trấn tĩnh lại để không làm hai đứa em sợ. Tôi bảo: có lẽ bên ngoài gió to nên gây ồn như vậy thôi, ..tivi vẫn để cho mọi người xem, cho đến lúc ca?

ba chúng tôi đều ngủ quên luôn..

Đến khoảng nữa đêm, cô em gái giật mình thức giấc ngồi bật dậy, gọi tôi và cậu em..cô nói:

-Em sợ quá anh ạ, em vừa mơ thấy một ông Mỹ già, cao và ốm, đầu bạc trắng, đến đuổi anh em mình ra khỏi nơi đây ngay tức khắc! ông hỏi tại sao dám vào nhà ông ta ngủ?

Tôi dịu dàng trấn tĩnh cô em:

-Chỉ là giấc mộng thôi em à! Chẳng có gì mà phải lo sợ. Nói xong tôi lại âm thầm cầu nguyện Chúa và Đức Mẹ độ trì, đồng thời tôi cũng khấn xin "ông chủ Mỹ" cho chúng tôi được tạm trú chờ thuê apartment xong chúng tôi sẽ move ra.

Chúng tôi muốn kéo dài thời gian lưu ngụ với hy vọng là "Hồn ma chủ nhà" sẽ thông cảm, nhưng chúng tôi chỉ ngủ yên được đêm thứ hai, qua đêm thứ ba thì tình trạng xảy ra y như đêm hôm đầu tiên...

Sự việc xảy ra đã làm chúng tôi bắt đầu "lo sợ" nên đến sáng ngày thứ tư, tôi phải báo với bà chủ lâu đài:

-Chúng tôi từ chối việc làm mà bà có nhã ý giúp đỡ, vì chúng tôi không thể ở "Tòa lâu đài" này được lâu hơn vì có "Ma".

Bà gật đầu, suy nghĩ một lúc, bà bão:

-"Tôi đề nghị anh đem tượng Chúa về thờ, phần bà thì có thờ Phật trên lầu rồi. Bà còn bảo chúng tôi ráng cầu nguyện thì sẽ yên thôi".

Thật ra, anh em chúng tôi đã làm tất cả những gì bà đã nghĩ, nhưng vô hiệu! Tôi chỉ còn một hy vọng cuối cùng, sáng hôm sau, tôi đến tiệm Mc Donald mua một phần hamburger đem về cúng, tôi vừa khấn cúng xong, thì cô em la to lên:

-No, I don't care, go out go out

Tiếp theo là hệ thống alarm trong nhà rú lên ầm ỉ, tôi cố trấn tĩnh nhưng tay run cầm cập, gọi cậu em theo tôi, đến tắt alarm nơi cửa chính, còn cô em thì bỏ chạy ra sân trước mặt mày tái mét!

Tắt alarm xong, tôi và cậu em trai bật đèn tất cả để tìm xem có ai lọt vào nhà không? Dù giữa ban ngày nhưng lòng tôi cũng cảm thấy hồi hộp khi bước lên lầu 1, 2 rồi tầng thứ

ba... nhưng chẳng có gì!

Cho tới giai đoạn này, tôi mới bắt đầu cảm thấy lo sơ... nên quyết định lại quay về Orange County mà không báo với bà chủ tốt bụng, sau đó tôi gởi trả chìa khóa "Lâu đài" qua đường bưu điện, với lời cám ơn bà, và xin thứ lỗi vì đã phụ lòng bà! Trở lại vùng đất gọi là "thủ đô tỵ nạn" để sống thì rất là tốt, nhưng chỉ có việc làm là quá khó khăn thôi.

Sáng chủ nhật chúng tôi đi lễ sớm lúc 6 giờ sáng, chúng tôi chỉ cầu xin Chúa- Đức Mẹ cho anh em chúng tôi có việc làm.

Lễ xong, ra bãi đậu xe, em gái tôi gặp nhiều người quen trong đó có cô bạn thân từ hồi còn ở Việt Nam, đôi bên tâm sự và cô bạn cho biết ở Riverside có một linh mục chết bởi tai nạn

nhưng rất thiêng liêng, vì ông hay đẩy xe... có người gọi là "ma đẩy xe". Tin đồn nhiều, nên nhiều người đã thực hành theo tin này và cho biết kết quả là có thật...

Vì tính hiếu kỳ, và sẵn có niềm tin, nên anh em tôi cùng vợ chồng một bạn thân, quyết định đến nơi "linh mục hiển linh" để cầu nguyện và thực hiện theo tin đồn, ngay vào trưa chu?

nhật tháng 7 năm 1996, chúng tôi hoàn toàn toại nguyện với ý định của mình. Chúng tôi xuống xe cùng cầu nguyện và cám ơn "Vị linh mục Việt Nam thiêng liêng" đã làm phép lạ tại nơi đây, mà ngài đã vĩnh viễn nằm xuống để về nước Chúa, nhưng vẫn hướng dẫn mọi người củng cố niềm tin qua việc đẩy xe của Ngài...

Ai cần đến với Ngài, xin đi free way 91 East quẹo sang freeway 60 East chạy khoảng 4 miles ra Exit Nason, quẹo trái lên cầu, xuống dốc cầu quẹo chữ U trở lại đậu dưới dốc cầu khoảng 100m tắt máy xe, trả số về (N) mọi người ngồi yên và tập trung cầu nguyện, trong vòng từ 10 phút đến 30 phút, xe sẽ được đẩy... di chuyển từ từ...



"Ma" là những mẩu chuyện huyền thoại, ít ai tin. Nhưng đối với cá nhân tôi và 2 đứa em là những "chứng nhân" thực sự và cũng đã từng là "nạn nhân" bị "Ma" đuổi, ngay trên đất Mỹ này. Xin ghi lại nơi đây để mọi người suy gẫm.
 
Ma Thần Vòng

Tác giả: Tam Tang


Nha Trang có nhiều thắng cảnh và cũng là nơi đi nghỉ mát của rất nhiều người VN, Những bãi biễn với cát trắng phau chạy dài hàng mấy cây số thu hút biết bao người! Đi về hướng Bắc của thành phố ta thấy nào Tháp Bà, Hòn Chồng, Bãi Dương và nhiều thắng cảnh khác! Dãy Hòn Ngang (ngay tại Đồng Đế nơi có đèo Rù Rì) tạo thành hình dáng của một cô gái nằm soãi tóc chờ đợi người yêu đã ăn sâu vào đầu người dân Nha Trang với câu thơ của một anh chàng lính nào đó ở Đồng Đế:

"Anh đứng ngàn năm thao diễn nghi?

Em nằm soãi tóc đợi chờ anh !! "

Tôi được sinh ra ở một nơi cách Thành phố Nha Trang vài chục cây số về phía Bắc _ Vạn Giả, Vạn Ninh! Đó là nơi mà tôi đã sống suốt thời niên thiếu của mình! Tôi có một chú ruột (chú Nam) và một bác dượng (chồng của chị của ba tôi) sống ở Nha Trang. Vào các dịp Tết, ba mẹ tôi cho chúng tôi về đó chơi để chúc tết bà con và ngắm cảnh phố phường trong ngày Tết!

Hè năm 1970 tôi đậu Tú Tài 2 và thi đậu vào Đại Học Duyên Hải tại Nha Trang! Tôi rất mừng vì sẽ được học về cái mà tôi hằng yêu thích _ Hải dương học!_ Gần đến ngày nhập học, ba tôi đem tôi gửi ở nhà bác dượng tôi để cho tiện việc học hành! Ở đó thì tôi chỉ cần đạp xe đạp mất 15 phút là đến trường Đại Học thôi . Nhà dượng tôi nằm gần ngã ba của một đường nhỏ và đường lớn Phước Hải dẫn xuống chợ Phước Hải . Ba mẹ tôi nói là bác ấy mua căn nhà này với giá rẻ rề, chỉ bằng nửa trị giá thật sự của nó mà thôi !



Nhà có ba từng, ở từng trệt thì phía trước bác mở tiệm may, phía sau làm phòng khách. Từng lầu một có 3 phòng ngủ, một cho hai vợ chồng bác, còn hai cái kia thì cho một cô con gái và hai cậu con trai. Tầng hai thì chỉ có hai phòng, một cái phía trước được khóa kín, còn cái phía sau để trống. Tôi được bác cho ở căn phòng trống này. Bác dượng bắt tôi hứa là không được động chạm gì cái phòng phía trước cả! Tôi nghĩ là bác ấy cất giấu các móm quí báu trong phòng này chắc! Tôi hứa ngay và rất vui mừng vì mình được tự do một mình một phòng trên một từng lầu riêng biệt nữa !

Tuần đầu ở đó tôi phải dọn dẹp chổ ở, đi lên trường nghe hướng dẫn về qui chế và các sinh hoạt trong trường, lại phải đi thăm các phòng thí nghiệm và hải dương viện Nha Trang nên tôi mệt nhoài cả người! Tối đến là lên giường ngủ say như chết! Sau đó mọi việc đã vào nếp nang, tôi đã quen với nếp sống mới này. Ngày đi học, chiều về cơm nước xong nói vài câu chuyện với hai bác rồi lên phòng học bài vở ! Chúa Nhật sau khi đi lễ về, tôi cùng mấy anh chị con bác đi xi nê hay dạo vòng vòng bờ biển! Mọi việc diễn ra êm đẹp cho đến một đêm thứ Bảy, đang nằm trên giường đọc truyện tiểu thuyết của Quỳnh Dao, tôi nghe như có tiếng nói thì thào từ phòng bên vọng sang! Tôi nghĩ chắc bác tôi lên phòng đó kiếm gì! Nhưng 15 phút sau tiếng thì thào vẫn vọng ra, tôi tò mò hé cửa nhìn xem có ai bên đó không! Cửa phòng vẫn khóa, tiếng nói vụt im! Tôi làm lạ lắm nhưng trở vào phòng đọc sách tiếp và thiếp đi lúc nào không biết nữa! Sáng hôm sau khi đi dự lễ ở nhà thờ Phước Hải về (bác dượng tôi không có đạo nên chỉ có cô tôi và các anh chị cùng với tôi đi lễ thôi!) tôi gặp riêng bác cô tôi và nói:

_ Đêm qua cháu nghe có ai nói chuyện thì thào ở phòng kế bên, nhưng cháu ra coi thì không có ai cả!!

_ Chắc là cháu ngủ mơ đó thôi chứ gia đình bác ở đây mấy năm nay có gì đâu! Thôi đi ăn sáng đi va nhớ đừng nghịch ngợm gì đến cái phòng bác trai dặn đó nghe chưa !

Tuy không hài lòng lắm về câu trả lời của cô tôi, tôi vẫn vâng dạ và đi ăn sáng rồi đi chơi! Các đêm sau trong tuần chẳng xảy ra việc gì cả và tuổi trẻ dễ quên nên tôi cũng quên sự việc này! Nhưng đến đêm thứ Bảy, tôi đang nằm đọc truyện thì lại nghe tiếng xì xào bên phòng vọng qua! Tôi là thằng nổi tiếng nghịch ngợm ở nhà cho nên rất bạo! Tôi lắng nghe và khi chắc chắn là mình không nghe lầm! Tôi nhè nhẹ bò ra cửa lần sang cửa phòng bên, ghé mắt vào lổ khóa nhìn vào phòng! Trong phòng tối đen chẳng thấy gì cả ! Ngay cả tiếng thì thào lúc trước cũng im re !! Tôi về phòng và với tính lì lợm của mình tôi tự hứa là sẻ tìm ra sự thật ở căn phòng đó! Hôm sau tôi đem chuyện nói với bác trai, nhưng tôi chỉ nói quanh là cháu nghe tiếng động ở phòng bên! Chắc có ai đột nhập vào nhà muốn trộm đồ hay sao đó ! Bác tôi nạt ngang:

_ Mấy con chuột nhắt đó chứ ai mà vô nhà! Nó chạy rầm rầm và cắn nhau chí choé suốt đêm! Cháu chưa quen nên khó ngủ thôi, từ từ rồi quen đi thôi! Mà nè cháu phải nhớ lời bác dặn không được phá phách gì cái phòng kế bên nghe chưa!

_ Dạ cháu nhớ ạ ! _ Tôi trả lời nhưng trong lòng nghi ngờ là có gì bí ẩn mà các bác muốn dấu tôi đây!!!

Tôi đợi cơ hội để tìm hiểu sự bí mật trong căn phòng kia! Khổ một nỗi là căn phòng luôn khóa kín và cái chùm chìa khóa thì bác trai luôn giữ trong người! Nhưng rồi cơ hội đã đến với tôi! Một hôm Chúa Nhật hai bác đi dự đám cưới đến khuya mới về, họ lục đục một hồi rồi đi ngủ ! Đến nửa đêm tôi xuống tầng dưới để đi tiểu, bật đèn lên tôi thấy chùm chìa khóa nằm trên bàn gần bộ sa lông! Cơ hội tốt cho tôi rồi, đi tiểu xong tôi vơ ngay chùm chìa khóa rồi nhẹ nhàng lên lại lầu hai ! Tuy mang tiếng là gan cùng mình, tôi cũng hơi run run khi đút chìa khóa vào mở cửa cái phòng! Tôi bước vào trong! Phòng trống không! Chỉ có một cái bàn thờ nhỏ với hình phóng to của một cô gái trẻ đẹp, một bát hương với đầy các chân nhang cắm trong đó! Trên tường có gắn một bóng đèn kiểu cọ, và một công tắc ở gần cửa ra vào! Trên trần có treo một quạt máy cũng còn mới, ngoài ra không có gì nữa! Tôi đứng quan sát một lúc rồi trở ra khóa phòng lại và đem chìa khóa trả về chổ cũ!! Tuy không tìm được những gì muốn thấy! Tôi cũng tạm thoa? mãn với chính mình! Tôi là thằng gan lì chẳng sợ gì! Và có khi bác tôi nói đúng cũng nên, tiếng động có thể do bọn chuột gây ra cũng nên !

Nhưng luận cứ đó chỉ đứng vững có một ngày! Đêm sau tiếng thì thào lại nổi lên! Tôi lắng tai coi có đúng là tiếng chuột không! Không, rỏ ràng là tiếng người mà! Tôi đi ra đến cửa thì tiếng nói lại im bặt! Chắc là ai muốn phá mình đây! Tôi tự nói với mình như vậy để tránh khỏi dùng đến từ MA !! Không sao, tôi chưa từng sợ ma mà! Nó có làm gì được tôi đâu chứ! Tôi vẫn đợi một cơ hội khác để tìm ra sự thật!

Một sáng Chúa Nhật, khi đi lễ về tôi thấy chùm chìa khóa để ở trên tủ may ở nhà ngoài, chắc bác trai khi sửa soạn tiệm để quên ở đó ! Trong khi mọi người ăn sáng, tôi ra trước tuột lấy cái chìa khoá phòng rồi chạy ra tiệm làm chìa khoá gần nhà nói làm gấp cho một cái! Chỉ mười phút sau tôi đã có trong tay một cái chìa mới! Tôi trở về nhà và may thay mọi người vẫn bận bịu dưới bếp! Tôi gắn trả chiếc chìa khóa cũ vào chùm! Xong tôi thảnh thơi lên phòng mình dấu cái chìa khóa trong cái áo gối! Tôi nghĩ là mình sẽ sớm khám phá ra được điều mà mình muốn biết! Tôi dự định là phải đợi đúng vào lúc mà tiếng thì thào trổi lên thì hành động!

Đêm đó khoảng 11:30 khuya, tôi nghe tiếng thì thào nổi lên! Nhẹ nhàng tôi bước tới cửa phòng, đút chìa khoá vào xoay nhẹ và đẩy nhẹ cánh cửa! Tay bỏ cái chìa khoá vào túi quần và bước vào! KKhông thấy ai cả! Trên bàn thờ có ba cây nhang đang cháy dở gần hết, chắc bác trai đốt hồi chiều! Tôi bước lại gần bàn thờ để nhìn rỏ hơn cái hình trên đó!

Đang nhìn thì tôi cảm thấy có vật gì chạm vào phía sau cổ ! Với phản ứng tự nhiên tôi dùng tay hất nó ra và quay lại nhìn ! Trong bóng tối lờ mờ tôi thấy một sợi dây thừng, một đầu cột dính vào cái quạt, còn đầu kia là cái thòng lọng đang đu đưa hướng về phía tôi! Tôi nhớ rỏ là lúc bước vào tôi đâu thấy nó đâu! Thấy nó vươn về phía mình tôi lấy tay hất ra và nhanh chân phóng ra cửa! Nhưng cái thòng lọng nhanh hơn là tôi tưởng! Nó quàng vào cổ tôi từ phía sau và siết lại! Cái dây tự động rút dần lên và kéo tôi hổng khỏi sàn nhà gần nửa thước! Tôi bị nghẹt thở phải cố dùng hai tay để gở sợi dây nơi cổ ra! Vô ích nó xiết rất chặt tôi không tài nào gở ra được! Tôi nghẹt thở quá rồi! Mắt tôi bắt đầu trơn trắng lên va `tôi phải há to miệng để cố hít thở ! Trong giây phút này tôi nghĩ là sẽ bỏ mạng với cái dây này rồi! Tay tôi yếu dần và tuột dần khỏi sợi dây nơi cổ! Đột nhiên tay tôi chạm vào sợi dây "thẻ bài" có cái thánh giá bằng ngà mà tôi luôn đeo trên cổ! Ba tôi đã mua cái thánh giá này cho tôi lúc tôi chịu phép Thêm Sức, nó đã được chính Đức Giám Mục làm phép hôm đó! Tôi nhớ lại lời mẹ tôi thường nói khi nào gặp ma quỷ thì cầm thánh giá và đọc kinh "Tin Kính" thì sẽ thoát được sự hiểm nghèo! Với sức lực cuối, tôi thò tay vào ngực nắm cây thánh giá ra và dí vào sợi dây, trong đầu đọc thầm mấy câu kinh! Thật là không ngờ! Cái sợi dây tuột khỏi cổ tôi, rút lên cái quạt rồi biến mất . Tôi rớt xuống sàn đánh bịch! Tôi lồm cồm đứng dậy và chạy một mạch xuống lầu không nghĩ gì đến việc đóng cửa phòng lại!



Bác trai nghe tiếng động và thấy đèn sáng dưới nhà bèn xuống coi! Thấy tôi ngồi hoảng hốt co ro ở góc sa lông liền hỏi:

_ Bộ có ai té hả ? Bác nghe cái rầm mà ? Khuya rồi sao cháu còn chưa đi ngủ ?

_ Cháu đi tiểu bị vấp ngã ! Cháu ngồi đây một chút rồi sẽ lên ngủ !! _ Tôi nói đối bác!

Bác trở về phòng, còn tôi vẫn ngồi co ro ở phòng khách nào dám trở lên trên đó! Rồi tôi thiếp đi lúc nào không biết! Khi bác trai dậy mở cửa tiệm thấy tôi nằm co ro trên ghế bèn lay dậy!

_ Bộ cháu ngủ ở đây suốt đêm à ?!?

Tôi chưa kịp trả lời thì mặt bác tôi chợt biến sắc! Bác lượm cái chià khoá nằm trên sàn _ Nó đã rớt xuống đó khi tôi ngủ quên! _ Bác gằn giọng:

_ Cái chià khoá của phòng trên đó phải không ?!?!

_ Dạ!! _ Tôi cúi đầu lí nhí trả lời.

Bác tôi chạy trở lên lầu! Tôi vội vàng rửa sơ mặt mày rồi quơ lấy sách dông đi học! Tôi sợ chạm mặt bác vì sự thất hứa của mình!

Đến chiều vừa về tới nhà tôi đã thấy cái va ly của tôi được để sẳn trước cửa tiệm, và cô tôi đang đứng chờ sẳn ở đó! Thấy tôi cô nói:

_ Cháu đoán biết được gì rồi chứ ! Cháu không thể ở đây được đâu, Cô dẫn cháu sang nhà chú Nam ở thôi!

Thế là tôi dọn sang nhà chú Nam ở đường Trần Qúi Cáp. Chú tôi là sỹ quan huấn luyện viên trong trường Sỹ Quan Hải Quân Nha Trang. Gia đình chú cũng chỉ đủ ăn đủ mặc thôi! Nhà chú là một căn nhà gác gỗ, vợ chồng chú ở phòng dưới còn tôi và hai đứa con trai nhỏ của chú chiếm tầng gác. Tầng này tuồng luông từ trước ra sau! Nhưng không sao ! Miễn có chổ ở là tốt rồi! Nhất là tôi không phải chạm trán với "Con Ma Thần Vòng" là êm rồi! Chiều hôm sau cô tôi lại thăm, hai cô cháu ngồi nói chuyện một lúc rồi cô tôi hỏi:

_ Đêm trước cháu vào phòng trên đó phải không?

_ Dạ ! _ tôi trả lời rồi kể cho cô biết việc tôi suýt chết vì sợi thòng lọng trong phòng đó!

_ Các bác đã dặn cháu rồi mà sao cháu chẳng chịu nghe lời ! Bác trai vì sự an toàn của gia đình đành phải đuổi cháu đi thôi! Để cô kể cho cháu nghe đầu đuôi câu chuyện thì cháu sẽ rỏ lý do!!

"Năm năm trước gia đình cô từ Saigòn chuyển về đây để làm ăn, trước đó thì bác trai đã có nhờ người quen dò hỏi mua giùm nhà ở nơi thuận tiện để có thể mở tiệm may được! Họ nói có một căn nhà đang đề bán với giá rất rẻ! Bác trai vì nôn nóng nên cũng không tìm hiểu gì cho kỹ cho nên nhờ họ mua giùm! Sau đó gia đình bác dọn về ở ! Chỉ một tuần sau là cả nhà đã nghe tiếng thì thầm nói chuyện ở trên lầu hai rồi! Bác trai bèn đi hỏi dò hàng xóm mới biết ra sự thật! Căn nhà bị ma ám cả bốn năm rồi! Cô gái đầu lòng của người chủ nhà đầu tiên đã treo cổ tự vận trong căn phòng trên lầu vì ba mẹ cô ấy nhất định không bằng lòng cho cô ta lấy một anh bạn học nghèo! Và từ đó hồn cô ta chiếm cứ căn phòng đó và phá rối người trong nhà! Gia đình cô ta phải bán nhà đi chổ khác ở ! Căn nhà này đã đổi chủ mấy lần rồi! Ai ở được một thời gian cũng phải bán tháo để đi thôi! Hai bác rất sợ nhưng bao nhiêu vốn liếng đã bỏ hết vào tiền nhà rồi, có muốn đi cũng không có chổ mà ở! Đành phải liều ở lại chứ biết làm sao đây! Nhưng mà hàng đêm nó cứ rì rầm và gây ra những tiếng động dị thường trên đó! Bác trai không có đạo, nên ông ấy đi thỉnh thày cúng về để tế hồn cho nó ! Ông thày pháp và bác trai cúng bái rì rầm trên đó cả buổi mới xong! Khi thày pháp đã về bác trai mới cho mọi người biết là bác đã hứa với hồn của cô gái là sẽ dành riêng căn phòng đó cho cô ta và sẽ cúng bái nhang đèn cho cô ấy, chỉ xin cô ấy đừng phá gia đình! Từ đó cô ta không phá gì nữa! Không biết bác trai kiếm đâu ra cái hình của cô ta và đem phóng to ra rồi để trên bàn thờ trên ấy ! Chỉ có mình bác trai là ngày ngày lên nhang đèn trên đó chứ trong gia đình chẳng một ai dám bước lên lầu hai cả ! Vì cháu là con cháu trong nhà nên hai bác cho cháu ở phòng kế bên, nghĩ là chắc cô ta cũng để yên cho cháu! Nào ngờ vì tính tò mò mà cháu gây ra đại sự! Hôm qua bác trai phải lên trên đó xin lỗi và hứa là đuổi cháu đi để cô ấy vừa lòng!! Cháu cũng đừng trách bác trai nhé!"

Từ đó về sau mỗi khi có dịp tới thăm gia đình cô tôi, tôi chỉ dám lảng vảng ở nhà dưới mà thôi và không bao giờ dám ngủ lại đêm cả ! Cho đến bây giờ mỗi khi hồi tưởng về cái đêm hôm đó tôi vẫn cảm thấy rờn rợn cả người !!

Chú thích:

Viết theo lời kể của một người quen hiện sống tại MA, USA
 
Ma Không Đầu 1

Tác Giả: TCHYA

Tôi dụi mắt ngắm kỹ một lần chót nữa. Quả nhiên, cũng như cảnh tượng vừa hiện ra lúc tôi mới đến, tất cả sự vật chung quanh mình tôi cứ tựa hồ như chứa đầy một vẻ bí mật thiêng liêng rùng rợn, một vẻ bí mật mà hình như rõ rệt tôi đợc mục kích càng làm cho dữ dội nặng nề.

Hiện trạng đương phô bày trên mái đồi kia, trớc mắt tôi không xa mấy, dưới ánh nắng vàng đỏ của buổi chiều tà, hiện trạng đó có quả thực là một hiện trạng hay không, hay chỉ là một hình ảnh mơ hồ mà đôi mắt quáng của tôi lầm tưởng là một bức tranh kỳ quặc tôi phân vân không biết tự đáp thế nào. Ngắm đi ngắm lại, rồi lại dụi mắt, dụi mắt xong lại nhìn, tôi hết sức nghiền ngẫm cho chắc chắn, cho kỳ mối ngờ vực của tôi thành hẳn ra ngờ vực, hoặc biến thành một tín ngưỡng sâu xa. Nhưng... có lẽ nó hóa ra tín ngưỡng mất.

Vì, chỉ cách tôi bảy tám cột đèn, nghĩa là non hai trăm thước, giữa ban ngày, sự lạ lùng hiện ra cho tôi trông thấy vẫn không hề biến đi, mà cũng không thay đổi. Sự ấy thực là một kỳ quan độc nhất vô nhị, một sự tối vô lý mà mình phải tin là thật, nhưng cũng có khi ngờ là giả dối, mơ hồ. Cứ lấy con mắt hết sức chú ý nhìn, thì sự đó vẫn không trốn tránh tính tò mò hiếu sự của ta; song, hễ khi nào ta dùng đến một vật gì để đi gần lại trường hoạt động của nó, thì nó biến vụt ngay nh làn khói bị gió lùa. Hoặc ta tìm cách đi lại gần chân đồi, còn độ hai ba cột đèn sẽ tới nơi, trông lên không thấy gì nữa cả; hoặc ta đem lên mắt một cặp ống nhòm để phóng đại trưởng quan sát, phong cảnh càng to ra bao nhiêu thì hình như ta muốn thấy mờ đi bấy nhiêu, có khi hóa thành trong vắt như kính, nghĩa là không có hình sắc nữa.

Bằng cứ chịu khó đứng xa mà ngắm nhìn thì dẫu ngắm chán mắt, sự kỳ quặc kia cũng vẫn hiện ra cho mình trông thấy, hiện ra một cách nửa rõ rệt, nửa mơ hồ lạ lùng khó tả quá! Nhưng không phải ngày nào, giờ nào, bất cứ lúc nào, ta cũng có hạnh phúc được nhìn nó. Nó chỉ thoát khỏi cõi âm trở về cõi dương một năm có vài kỳ, mỗi lần sự biến thiên của khí hậu gợi cho nó nỗi nhớ tiếc một thời oanh liệt thủa xưa.

Sự biến thiên đó họa hoằn mới xảy ra; ấy là một điều tối không may cho những khách tò mò hiếu sự. Như tôi chả hạn. tôi đã phải dằn lòng gắng sức đợi đến ngót tháng trời mới đợc trông thấy hình bóng tôi muốn thấy; nào phải đâu là sự dễ dàng.

Cảnh tượng dị kỳ tôi đã được mục kích, nó là hai con ma, hai cái oan hồn uất ức của hai kẻ chịu tử hình, lâu ngày không tiêu đi được tụ lại thành bóng, hấp thụ mãi khí thiêng liêng của trời đất, nên mỗi khi bị hoàn cảnh xúc động đến là hiện được lên ngay, hiện lên để diễn lại một tấn trò mà xưa kia, hai oan hồn đó thường diễn những giờ cao hứng.

Phàm giả người ta, trong buổi sinh thời, có một thú gì mình yêu nhất, mê nhất, một thú gì làm then chốt cho tất cả bao nhiêu tính hình dục vọng của mình, một thú gì mình đã biết hưởng và đã đặt trên tất cả những khoái lạc của cuộc đời , thì nhiều lúc, sau khi đã lìa bỏ cõi tục rồi, vẫn còn nhớ tiếc đến thú ấy luôn luôn chỉ ngong ngóng chờ có dịp hưởng lại là chộp lấy ngay, không bỏ sót.

Cũng bởi cớ đó nên một khi thi nhân đã chết, hồn thi nhân còn muốn ngâm thơ, một khi nhạc công đã chết, hồn nhạc công còn muốn gảy đàn. Câu thơ của Đường Vương Bột văng vẳng trên dòng sông Lạc, liệu đàn cua Sư Quyên véo von trên mặt sông Bộc chẳng phải là những chứng cớ rõ ràng cho thuyết ấy hay sao?

Mà nhất là khi kẻ bị thác lại là người mệnh bạc, vì nghiệp chướng mà chết oan, chết yểu, bất đắc kỳ tử hay bị nhục hình, thì một điểm linh hồn bay phiêu diêu trong gầm non nước không tài nào siêu linh tịnh độ được, cứ mập mò khi tan khi tụ, bơ vơ trôi dạt, không đâu là bến là bờ. Điểm linh hồn đó vẫn còn nhớ rõ rệt cuộc sinh hoạt mình vừa trải, vẫn còn đầy dục vọng và tình cảm, nhưng chỉ vì không có xác vật chất nên khó lòng diễn được dục vọng và tình cảm đó mà thôi. Nhiều linh hồn còn muốn sống thêm nữa trên cõi thế, bởi chưa dứt hẳn trần duyên, còn muốn vẫy vùng nữa, ganh đua nữa cùng người đời cùng tranh đấu cho tới cùng. Có linh hồn thì một khi thác đã tỉnh ngộ ra, bay lên một gầm thiêng liêng cao sạch để ngao du, tịnh dưỡng. Những linh hồn đó không mấy khi trở lại nữa, một đi, đi chẳng trở về. Còn như các linh hồn bi nghiệt duyên dục vọng buộc chặt với cuộc sinh hoạt của loài người. thì chúng thường thường bay vẩn vơ quanh quẩn bên mình ta, trông ta một cách ham muốn thèm thuồng, chỉ đợi có dịp tốt là trở về sống chung lại với ta, dẫu rằng trong một phút.

Mỗi khi có đàn tràng cúng tế, là chúng lần mò cùng đến, để rồi chóp lộc cúng cơm, mỗi khi có kẻ ngồi đồng, hay có kẻ thần hồn bị suy nhược là chúng ám vào người để được cử động quay cuồng cho đắc ý. Lại những lúc có cuộc thi hội, thi hương, thì chúng tụ họp cả ở cửa trường, để đợi gọi đến thì ùa vào mà báo ân báo oán.

Nói ra không hết được; ta chỉ biết bởi cớ có nhiều âm hồn còn muốn sống nữa, nên có khi xảy ra những chuyện kỳ dị mà, nếu mắt ta không đợc quan sát thì ta vội cho là hoang đường. Song le , nêu ta chịu khó bỏ hết cả các thành kiến, nếu ta chịu lưu tâm suy xét đôi chút đến nhẽ huyền vi của máy âm dương, ta sẽ nhận thấy rõ là không có sự gì hoang đường cả. Trên đời chỉ hoàn toàn có sự thực mà thôi, cái gì có thể xảy ra được đều là thực cả.

Chỉ có một điều, là không phải ma nào, oan hồn nào cũng hiện lên được cả. Ma muốn hiện hình tất phi đủ tư cách, phải ở trong những trường hợp không bị ngăn trở mới biến hóa được. Tỷ như vàng muốn biến hóa ra nước tất phi nấu lên ngoài ngàn độ, sự biến từ thể nọ sang thể kia có phải bất cứ trường hợp nào cũng xảy ra đâu?

Cho nên, ma có thể hiện hình được, trước hết cốt phi thiêng, mà muốn thiêng, thì theo như sự chúng ta cùng biết, phải có một vài điều kiện. Một là chết đúng giờ. Hai là chết trẻ, mà chết một cách thê tham dữ dội. Ba là chết oan. Bốn là được chôn ở chỗ đất có mạch. Năm là phải hấp thu được khí thiêng của trời đất.

Phi mấy điều kiện ấy, thì chỉ là một mảnh hồn yếu ớt, phất phưởng, khi tán khi tụ, bay là là vô định trong gầm vô định mà thôi. Mà có được cả mấy điều kiện vừa kể, cũng phải tùy từng buổi, từng chỗ, từng thời, mới hiện lên được. Ngày xưa, lúc văn minh Âu Mỹ chưa tràn sang bên cõi Á Đông, lúc máy móc chưa rầm rộ chạy dưới gầm trời Trung Hoa và Nam Việt, thì các chốn thị thành không đông đúc lắm, các đường sá không mở mang nhiều, những chốn hoang vu lạnh lẽo nhiều hơn những chốn phồn thịnh, mà sự tối tăm cũng lâu hơn sự sáng sủa vì đêm không có đèn điện rọi đường; bới thế nên trong một hoàn cảnh lặng lẽ đìu hiu khí âm tràn ngập cả non sông mà phủ trên cuộc sinh hoạt của loài ngời, khiến dương khí không có thể hưng thịnh lên được.

Nhưng, sau một cuộc suy vong, khí dương lại dần dần hăng hái, nó từ cõi Âu Tây tràn sang Đông Á, khiến cho các sự vật thay đổi cả. Máy móc ngày nào cũng rầm rộ, xe pháo ngày nào cũng xôn xao, đêm thì đèn sáng như ban ngày, ngày thì ầm ầm như chợ, lúc nào cũng có kèn có trống, có âm nhạc hùng hồn; mà người thì, bị hoàn cảnh run rủi, cũng ưa múa may quay cuồng hoạt động cạnh tranh, hơn là nhàn cư mà tĩnh dưỡng.

Cuộc sống ồn ào đã đánh tan âm khí, ma thiêng phi bạt đi xa. Những linh hồn, dù mạnh mẽ đến đâu, cũng khó lòng hiện lên được vì khí dương mạnh quá. Có lẽ các ma thiêng đều chạy cả về những chốn đồng rừng xa vắng, ở lẩn lút trên đồi, trên ải, không còn hy vọng gì phảng phất ở những đô thành.

Chả bù với thời thái bình êm ái thủa xưa: đâu đâu âm khí cũng đều vượng cả, muốn rong chơi chỗ nào cũng được, không bị một mãnh lực gì ngăn cản, đánh tan đi. Thủa đó, người âm phủ với người dương gian nào có xa nhau mấy: ông Bồ đã vì sự người với ma hay chung chạ mà viết nên pho truyện Liêu Trai. Đến thời này, Liêu Trai đã hóa ra một cuốn truyện hoang đường vô lý! Cho hay ma cũng có thời!

Tôi có lẽ còn được nhiều hạnh phúc hơn Bồ tiên sinh là tôi đã được thấy ma hiện hình giữa ban ngày, trong thời đại bây giờ, lại ở một nơi không cách xa đô thành phồn nhiệt mấy. Đó thực là một sự lạ; và, cũng vì sự lạ đó, tôi mới chép nên câu chuyện này, khiến các bạn cùng được như tôi, thưởng thức một chuyện thần linh, gọi là những lúc thanh nhàn, quên được cuộc vật lộn quay cuồng mà ngày ngày ta phải dấn thân vào để kiếm cách mưu y mưu thực.

Thì đây, câu chuyện thần linh.

Hôm đó, cách đây chừng khoảng hai năm, tôi về vùng Nam Định xuống ga Gôi, vào thăm một ngời bạn cũ. Lâu ngày mới gặp được nhau, bạn tôi mừng lắm, vội vàng sai vợ con đi giết gà mổ vịt, lại cho người vợ ra chợ đón mua những món quà ngon. tôi được thấy bạn cũng mừng, hai anh em ngồi uống trà đàm đạo mãi cho tói chiều, không biết mệt.

Lúc ấy, vào khoảng bốn giờ. Trời tháng qui hạ, nồng nực lắm, tuy sắp sang thu mà cũng vẫn còn oi. Tôi đến lúc một giờ chiều, ngồi hàn huyên với bạn đã ba giờ có lẻ. Lúc tôi đến, trời nắng chang chang như lửa đốt, nhưng khi vào nhà bạn được hơn một tiếng đồng hồ thì trời bỗng đâu sa sầm mặt lại; mây đen bốn bề rầm rộ kéo đến, rồi sấm chớp nối tiếp nhau xé toạc quãng không gian bằng những tiếng nổ ầm ầm và những luồng quang tuyến sáng xanh chói lọi. Sau cuộc thị uy thị hùng ấy, mưa ở lưng chừng tới xuống trần ai như thác chảy, nhưng chỉ trong quãng nửa giờ lại tạnh ráo ngay. Mây đen, tụ lại ít lâu, cũng theo chiều gió tan đi hết cả. Trời lúc nãy bi vẩn ám , bây giờ quang đãng như không; vài tiếng sấm cuối mùa thỉnh thoảng nổi dậy, nhưng chậm rãi uể oi, không có vẻ hùng tráng như khi mưa chưa rỏ giọt.

Mặt trời , khỏi bị che kín sau bức màn mây tối, lai vui vẻ tia ra những luồng ánh sánh đỏ rực và gay gắt; hình như sau mỗi trận mưa rào, thì ánh nắng càng nồng càng đượm; để cỏ cây mau chóng được khô ráo nhẹ nhàng. Mưa xuống nắng lên là một sự rất thường trong thời tiết. nhưng sự đó không xảy ra trong các mùa êm dịu như xuân thu, và trong vụ mấy tháng mùa đông rét mướt. Nó chỉ thường xảy ra giữa mùa hạ, là một mùa hay có giông tố thất thường.

Mỗi một lần mưa xuống nắng lên, thì khí đất lại ngùn ngụt bốc cao khỏi đầu ngọn cỏ, hơi thở của Tạo vật lại nặng nề bực bội, mà khí hậu thì lại hóa ra độc địa vô cùng.

Những buổi trái trời trái đất ấy, ngoài sự làm cho khí hậu hóa nên ám chướng, có lẽ còn có một mãnh lực gì u ẩn, huyền bí, xúc động cả các âm hồn. Người ta phòng nghiệm ra rằng, sau một cơn bão, khí trời ở chỗ thôn quê có mùi khen khét, khiến nhiều kẻ tưởng lầm là sét đốt cháy một vùng nào. Sự thật chỉ là, dưới sức mạnh âm ỉ của các luồng điện nhấp nhoáng trong không gian, dưỡng khí tụ đặc lại mà gây nên mùi khét. Sự tụ đặc ấy vô hình, ta chỉ nhận thấy như hưởng của nó mà thôi ; nếu không có nhà bác học thí nghiệm xét ra, có lẽ ta cũng cho là hoang đường.

Hoang đường là tất cả mọi sự mà loài người chưa tìm ra cội rễ căn nguyên vậy.

Sự tôi sắp nói ra đây, vì chưa dò xét được nguyên cớ, nên cũng phải tạm liệt vào loại hoang đường. Ấy là sự thay đổi trong cõi huyền bí do sức của luồng điện trong không khí tạo nên. Âm hồn làm bằng chất gì, ta không được rõ; ta chỉ biết nó vô hình ảnh, nó nhẹ nhàng phảng phất, đằm như hơi sương, thoảng như làn gió, nó tan đi hay tụ lại theo những luật riêng óc mình không xét đoán được Nó cũng ví như những khói, những luồng điện trong vũ trụ vậy

Những nhà phù thủy cao tay, những kẻ thôi miên thiện nghệ phần nhiều đều luyện được một thứ mãnh lực tiềm tàng có thể sai khiến âm hồn tan tụ, tỷ nhà nhà kỹ sư biết cách phát điện đi hay gom điện lại. Nếu ta cho âm khí là một thứ điện, thì ta sẽ nhận rằng mỗi khi mưa dầm gió bấc, mỗi khi trời đất nặng nề, mỗi khi có mưa xuống nắng lên, thứ điện đó thường hay tụ lại thành khối. Nó tựa như chịu ảnh hưởng mật thiết của các luồng điện trong không khí, mỗi khi có sấm sét thì bị rung chuyển, xúc động; rồi, khi sấm sét đã nguôi nó cũng đông lại, cũng đặc lại như dưỡng khí, để hiện ra thành bóng.
 
Ma Không Đầu 2


Vì tình cờ run rủi, tôi đã được mục kích sự âm hồn hiển hiện, sau một trận mưa sau một ngày gay gắt nắng. Hôm đó, ngồi đàm luận cùng bạn, tôi đương vui vẻ, kể lể mọi nỗi hàn huyên tâm sự, thì bỗng thấy bạn tôi như chợt nghĩ đến sự gì, vùng đứng dậy, vừa kéo tay tôi, vừa nói:

-Bác hây theo tôi, sẽ cho bác xem một sự lạ lắm!

Tôi ngạc nhiên, hỏi bạn:

Trời đang mưa xuống nắng lên thế này, khí đất bốc lên ngùn ngụt như kia, bác muốn chúng ta đi đâu?

- Bác cứ theo tôi, rồi tự khắc rõ! Bác sẽ không phải hối hận xông pha mưa nắng đâu. Mau lên, kẻo bỏ mất dịp này thì uổng quá!

Nói đoạn, bạn kéo tay tôi rõ mạnh. tôi không cưỡng cũng không dùng dằng, vội đứng dậy cùng đì. Hai chúng tôi ra khỏi nhà, lần theo bờ ruộng đi một quãng khá xa, gần tới một cái đồi. Đến một nơi cổ am, có bóng cây cao rườm rà phủ kín một vùng đất rộng, bạn tôi ra hiệu bảo tôi ngừng bước. Tôi theo đúng lời bạn, đứng tựa lưng vào gốc cây, nhưng chưa hiểu bạn tôi định tâm cho xem một cảnh vật thế nào.

Anh ta đứng trước mặt tôi độ vài bước, ngoảnh đầu nhìn bốn phía, rồi ngước mắt trông ra phía chân đồi như tìm kiếm sự gì. Một chốc, hình như anh ta đã thấy sự muốn cho tôi được mục kích, anh lùi lại, bá vai tôi, một tay trỏ ra phía sườn đồi xanh biếc:

- Này, anh cứ thẳng tầm mắt trông theo ngón tay tôi chỉ, có phải ở ven đồi , chỗ có nương khoai mà ta nhìn xa chỉ thấy màu đất vàng đỏ hiện rõ giữa một màu xanh thẫm, chính chỗ ấy, có hai người đang diễu võ dương oai, vật nhau chán thì cùng múa một bài quyền...

Trong lúc bạn nói, tôi chăm chú thu hết nhỡn lực cố phóng luồng nhỡn tuyến ra mé đồi để ghi lấy cảnh vật mà anh đương tả một cách hùng dũng. Nhưng khốn nạn cho tôi? Hai mắt đã hết sức nhận xét cho rõ rệt, mà vẫn chưa thấy tí gi! Ngàn trùng mây lam lợt lợt, ruộng lúa xanh rờn, đồi cây thẫm biếc; chả có một dấu hiệu gì tỏ cho tôi là có người đương nhảy múa cả. Bạn tôi thì cứ níu chặt lấy vai tôi, bắt đầu tôi phải gần sát đầu anh, hình như muốn truyền sang cho tôi nhỡn lực của anh vậy.

- Chết nỗi? Anh chưa thấy gì ư? Kia kìa, anh cứ chú ý nhìn vào nương khoai đo đỏ kia, chúng nó đương vờn nhau hay lắm. Anh đã thấy chưa?

Bấy giờ hình như mắt tôi mới đỡ quáng đỡ mờ, tôi thình lình thấy một vệt trắng xám, hung hung ở sườn đồi, mé dới nghiêng về bên tả. Liền lúc ấy, tôi cũng hình như trông thấy hai cái bóng sẫm, tựa hồ hình dáng người nhưng rất lạ. Buột mồm, tôi kêu lên rông:

-Quái! Làm sao nó không đầu!

Tôi vừa dứt tiếng, một đống cát bụi, ở đâu cạnh chỗ chúng tôi đứng, bỗng vụt bốc lên. Tôi nhắm mắt lại. Bụi cát và lá khô phả vào mặt tôi rõ mạnh, tôi cảm thấy một luồng gió dữ dội đương quấn lấy thân tôi, hút tôi, làm cho tôi nghẹn ngào khó thở. Mũ tôi tự nhiên bi cuốn lôi lên. tôi níu chặt lấy bạn.

Một khắc như thế, không thấy bụi phả vào mặt nữa, tôi mở mắt ra, thì bị một cảnh tượng làm cho giật mình kinh sợ. Một luồng gió lốc, nhanh như chớp, cuốn chiếc mũ trắng của tôi lôi đi rõ xa, ở lưng chừng trời. Cơn gió lốc ấy như tiến lại mé chân đồi vùn vụt Khi đến chỗ nương khoai, chiếc mũ tôi - lúc đó trông chỉ là một điểm trắng cỏn con, bỗng rơi xuống đất tỏ rằng cn gió đã tan rồi.

Cố nhìn, thì chẳng thấy bóng dáng của hai anh chàng múa võ nữa. tôi lấy làm lạ, chưa kịp hỏi bạn, anh đã cười bảo tôi:

-Thực là anh làm uổng mất một tấn tuồng đặc biệt! Vì anh mà cuộc phô diễn này bị bỏ dở; nếu không ta đã được một phen khoái trá vô cùng!

- Cớ sao anh lại bảo vì tôi...

- Anh mới đến nên không biết. Sự mà tôi muốn anh được mục kích là một sự lạ lắm: ma diễn võ giữa ban ngày. Ở chân đồi kia, có hai oan hồn của hai nhà thiện xạ, vì phạm phép nước nên bị chém đầu. Hễ cứ có mưa xuống nắng lên, thì hai oan hồn đó lại hiện về, cùng nhau thí võ. Muốn xem họ nhảy múa, phải đứng rõ xa mới thấy, lại gần quan sát thì biến mất. Mà lại phải kiêng, không nên nói đến sự mất đầu. Nếu lở mồm, ắt xảy ra cái cảnh tượng như hai anh em mình vừa thấy đó. Thôi, bây giờ ta hãy đi lại nương khoai nhặt lấy mũ về, rồi đợi đến dịp khác sẽ thưởng ngoạn cuộc múa võ kia, tưởng không lấy gì làm muộn...

Bạn tôi dìu tôi cùng đi lại mé chân đồi. Nhưng can đảm của tôi ít ỏi quá, tôi đành mất mũ, không dám đi xa nữa chỉ cầu xin bạn dẫn về nhà mà thôi. Bạn cười tôi là hèn nhát, song cũng chiều lòng; anh đem tôi về nhà và sai một tên gia đinh ra chân đồi lượm mũ về cho tôi.

Tôi ở nhà bạn non bể, ba tuần nóng ruột muốn thỏa chí tò mò hiếu sự của mình ngay, nưhng ngặt nỗi không gặp ngày nào có mưa xuống nắng lên cả. Tôi đã xếp sẵn những khí cụ để sự quan sát được dễ dàng; lại luôn luôn mình tự dặn mình đừng bao giờ nói đến hai tiếng "không đầu" khiến cho hỏng việc một lần nữa.

Thấm thoát vài hôm sau, tính đốt tay thì ra tôi quấy quả bạn tôi đã trọn hai mươi hai ngày. Hôm đó, may quá, vào khoảng chín mười giờ sáng trời đương nắng chang chang bỗng có cơn mưa. Tôi mừng quá. Mưa vừa ngớt hột, tôi thủ ngay cái máy ảnh và ống dòm, rủ bạn đi lại chỗ có cái miễu thần và cây cổ thụ mà chúng tôi đã đến một lần hôm trước.

Tới nơi không cần bạn phải chỉ bảo, tôi tự đứng lên mé trên nhìn phương hướng, rồi quay trông đầu về vệt hung đỏ ở sườn đồi. Quả nhiên bạn tôi nói có ngoa đâu, Tôi nhận thấy hai cái bóng đương vờn nhau nhảy nhót.

Mới đầu tiên, trông không được rõ lắm; nhưng dần dần mắt tôi trông càng quen càng sáng suốt ra. Cảnh vật tôi được mục kích thật là kỳ dị , từ bé đến giờ tôi mới thấy một sự thú vị như thế này.

Đó chỉ là hai cái bóng, nhưng quái dị làm sao! Hai cái bóng giống hệt như hai người, có tay chân, biết cử động, song chỉ không có đầu! Hai cái bóng ma cụt trốc! Đứng mé xa trông lại, tuy hình ảnh mình được thấy không lấy gì làm đích xác nhưng cũng rõ rệt vô cùng. Mới trông thì chỉ thấy lờ mờ hai vệt xám, hiện rõ trên màu hung đỏ của nương khoai; để ý nhìn lâu tý nữa, thì rỏ ràng là hai thân thể đàn ông, đương đấm đá nhau hùng dũng lắm.

Hai cái bóng ấy màu xám thẫm, xanh biếc, như màu khói đặc tụ lại. Không thấy rõ quần áo mặc ra làm sao, chỉ hình như cùng mặc áo chẽn mà quần thì xắn đến tận đùi. Đó là một thứ y phục tôi tưởng tượng ra, vì tôi trông na ná như thế: sự thực thì chỉ có hai cái bóng chập chờn như hai hình ảnh nhấp nháy trên màn chớp bóng. Ngắm kỹ quái trạng hiện ra đó, ta có thể vừa trông vừa đoán, nhận ra rằng hai bóng ma kia là hai thân thể vạm vỡ cờng tráng mà cũng lanh lẹn phi thường. Chúng nó tuy không đầu, song đánh nhau chả kém gì người có mắt, lại có phần giỏi giang, sắc sảo hơn những người có mắt nhiều.

Chúng diễn những đường võ cực kỳ bí hiểm, trông ngoạn mục và lý thú vô cùng. Cũng đấm, cũng đá, cũng né, cũng xông, cũng quay đi lộn lại, cũng cúi xuống ngửng lên, thực chẳng khác gì hai võ sĩ còn sống cùng nhau thi quyền trong một kỳ đả lôi đài hay cử võ vậy. Võ vẽ đôi ba miếng côn quyền học lỏm, tôi nhận rằng bản lĩnh của hai oan hồn kia siêu quần, xuất chúng, ít người thời này sánh kíp. Có lẽ hai con ma đó thuộc về thế hệ trước, một thế hệ còn trọng những môn đao kiếm, một thế hệ chỉ suy tài nghệ trong các đường quyền hiểm hóc, chớ không ỷ vào súng đạn để thủ thân. Thế hệ ấy ngày nay đã mất, đã biến trong cuộc di vãng xa lắc xa lơ; vết tích của nó, có chăng còn là hai bóng ma này, lạc loài vào một thời đại mới, mà vẫn còn mê muội trong cái chí hướng ngang tàng của thủa bình sinh?

Hai bóng ma kia cứ rạp rờn quay lợn mãi. Chúng nó xử nhau những miếng võ tuyệt kỹ th các miếng Song long quá hải, Mãnh hổ tầm sào, Thái Sơn áp đính, Hạng Võ phi truy v.v... nhưng tựa hồ chúng không có ý làm hại nhau, chỉ thi nhau trổ hết tài nghệ cho thỏa thích, cho bõ nhớ nhung cái thời oanh liệt chúng đã từng sống, mà không được sống tới cùng.

Đứng ngắm nhìn sự phô diễn tự nhiên kia, cũng thực là một khoái lạc ý vi. Trong buổi văn minh ngày nay, dễ đâu đã có dịp xem hai ngời sử võ?

Giả dĩ có xem xiếc hay xem tuồng Tàu, thì chi toàn một màu là múa may cho qua loa câu chuyện, mấy khi đã gặp hai tay thiện nghệ hết sức trổ tài quyền cước cho mà coi? Bời thế khi gặp trường hợp mà tình cờ tôi được trải qua, tôi ngắm nhìn mãi không hề mỏi mắt.

Ngắm chán. tôi lại giơ ống dòm lên quan sát cho rõ rệt: nhưng, thực là kỳ quặc mỗi khi tôi để mắt vào ống nhòm, thì chỉ còn được thấy nương khoai hiện ra, tuyệt nhiên không nhận được bóng dáng của hai nhà vo sĩ "cụt đầu" nữa! tôi thí nghiệm đến mười mấy lượt; lượt nào cũng vậy; cứ bỏ ống kính ra thì tha hồ mà trông mà ngắm, hể đem ống kính lên mắt, hình ảnh kia lại biến lúc nào rồi...

Kế ấy không xong tôi dùng kế khác. Tôi trao ống nhòm cho bạn, chỉ đeo có một chiếc máy ảnh, một mình đi sát lại chân đồi. Cách xa độ bốn cột đèn tôi còn trông rõ bóng hai con ma đương đấm đá. Đi thêm lên độ chục bước nữa hai bóng ma ấy cứ mờ dần đi rồi, sau cùng, khi tôi chỉ còn cách đồi độ chừng mươi bước, trông lên chỉ thấy không khí một màu trong vắt, ruộng khoai một màu vàng đỏ, hình như không hề xảy ra sự gì cả.

Cho rằng mắt tôi bị các âm hồn làm cho mờ quáng đi, tôi đem máy ảnh ra cứ chụp lấy năm sáu bức, mong rằng may ra con mắt kính sẽ hơn tôi, ghi dợc cảnh thần bí mà mắt người không ghi nổi. Về nhà, rửa ảnh, tôi vẫn bị thất vọng như thường; trên kính không có dấu vết gì của hai người võ sĩ cả!

Sự bí mật thực là hoàn toàn bí mật. Tôi vừa ngạc nhiên kinh dị, vừa tức tối khó chịu. Khó chịu cũng đành vậy, chớ biết làm thế nào! Mình còn ở cõi dương gian, lại muốn vén tấm màn huyền vi của Tạo hóa để nhìn rõ sang cõi âm, thì làm sao cho được. Hai oan hồn kia chỉ có thể hiện lên cho loài người thấy chúng một cách lờ mờ mà thôi; muốn thấy rõ nữa, thì ít ra cũng phải là con ma phù thủy đặc biệt thế nào mới được chứ!

Tôi có hỏi bạn về sự tích hai nhà võ sĩ bạc mệnh chịu bất đắc kỳ tử; bạn tôi chỉ biết lờ mờ rằng hai người đó đã chết năm chục năm nay, lúc anh chưa đẻ, mà, theo như lời các cụ già kể lại, là hai tên cướp bị sa vào lưới pháp luật và bị hành hình ngay ở chỗ chân đồi. Bạn tôi biết có thế thôi, câu chuyện của anh càng làm tăng tính tò mò hiếu sự của tôi, càng gợi lòng tôi muốn đi sâu vào bí mật của Thời Gian để giải cho ra vấn đề tôi suy nghĩ. Tôi muốn biết thủa bình sinh, hai vong hồn kia làm gì, mà tại sao cùng chịu chết thảm thương uất ức. Uất ức, bởi lẽ họ hiện lên múa võ như thế; chớ nếu họ làm nên tội rồi bị giết, thì còn oan khổ nỗi gì mà đến nỗi, ngoài năm mươi năm, khối hận vẫn chưa tiêu? Thực là một sự lạ.

Tôi nhất định phải dò xét sự lạ ấy cho tới gốc ngọn, dù phi tốn công khó nhọc cũng cam lòng! Trong lúc hăng hái, tôi tự nhận lấy một nhiệm vụ bí hiểm như thế; nhưng rồi dần dần, tôi phải tin rằng tôi, một kẻ cuồng ngông, chỉ nói khoác hão huyền và ước muốn những điều vô lý. Làm gì có đủ vật liệu mà đi ngược Thời Gian để đem ra ánh sáng một câu chuyện trong hàng nghìn chuyện có lẽ còn ly kỳ hơn, đã xảy ra hồi nước Đại Pháp vừa dựng cờ bảo hộ trên đất Việt Nam này?

Tuy nghĩ thế thì nghĩ, nhưng lòng tôi cũng muốn biết vì sao lại có hai oan hồn cụt đầu, cứ mưa xuống nắng lên, là hiện lên diễn võ. Trước còn là một ý muốn, rồi sau dần thành một dục vọng, sau nữa thành hẳn một định ý cứ bám chặt lấy hồn tôi. Tôi như kẻ đứng trong cảnh ngộ một nhà toán học chưa tìm ra kết quả một bài tính khó nhưng thú vị. Cả ngày, cả đêm, tôi chỉ mải mê về chuyện ma không đầu của tôi; rồi tôi lục các sách trong nhà Bác Cổ để họa may có tìm đợc một vết tích gì về hai nhà võ sĩ bạc mệnh kia không. Trong sách tôi thấy nói rất nhiều chuyện về hồi ấu trĩ của cuộc bảo hộ, xong chả có pho nào đả động đến hai nhà thiện xạ chịu tử hình ở mạn núi Gôi...

Sau khi tôi ở nhà bạn ra về, cách đến hai năm, tôi vẫn còn nhớ cảnh vật tôi trông thấy tựa như nó mới vừa xảy ra ngày hôm qua vậy. Tôi rất bực mình vì đã cố tận tâm gắng sức, mà không tài nào biết thêm tí gì về quái trạng ấy cả. Những chuyện mà các người ở quanh vùng Gôi kể cho tôi nghe đều là những vật liệu lờ mờ, không chuyện nào giống chuyện nào, vì mỗi người lại thêm bớt mỗi vẻ theo ý riêng mình.

Sau cùng, biết rằng tôi vô lực, tôi đành gắng quên dục vọng của tôi đi. Quên! Quên làm sao được? Càng ở những chỗ phồn hoa đô thị, lòng tôi lại càng như quằn quại khó chịu; tôi càng tự trách mình sao không cố gắng thêm chút nữa, dò xét thêm chút nữa; biết đâu trong một pho sách ở viện bảo tàng, hoặc trong ký ức của một ông già đã sống thời loạn lạc, lại không có một vết tích, một dấu hiệu, chỉ cho tôi biết đường lần mò để đi sâu vào câu chuyện huyền bí của hai nhà võ sĩ không đầu, hiện lên mỗi lần mưa tạnh nắng lên?

Ấy, cũng bởi tin rằng có người biết được sự tôi cần biết, nên tôi bỏ hẳn nhà một dạo, đi ngao du khắp đây đó, mong rằng sự tình cờ sẽ cho tôi được thỏa lòng. Không ngờ khi đến Đồng Giao, tôi đã không biết được tí gì về câu chuyện của tôi, lại nghe thêm được một câu chuyện ly kỳ hơn, khiến cho tính tò mò của tôi càng sôi nổi thêm lên nữa.
 
Lời nguyền 1

Tác giả: Tam Tang

Note:


Viết dựa theo ý một phim kinh dị Mỹ mà tôi đã xem! Tên các nhân vật và địa danh trong truyện hoặc là do tôi tưởng tượng ra hoặc để cho câu chuyện có vẻ thực sự xảy ra ở nơi đó!

Tôi cố ý dùng nhân vật và tỉnh thành ở VN để tạo một khung cảnh thân thuộc cho bạn đọc Việt Nam ! Nếu có sự trùng hợp nào hay sơ xuất xin các bạn bỏ qua!


Tam Tang

Lan là luật sư cho một văn phòng luật sư có tăm tiếng tại Saigon. Tuấn, chồng nàng, là kỹ sư điện cho nhà máy Saigòn Thuỷ Cục tại Thủ Đức. Hai người vừa mới cưới nhau được gần một năm thôi! Gia đình hai bên đều giàu có nên đám cưới đã được tổ chức rất lớn tại nhà hàng Đồng Khánh, khách dự đến hơn 400 người. Ai cũng phải khen họ thật là xứng đôi vừa lứa! Bên chồng đã mua sẳn một biệt thự Ở vùng ngoại ô Saigòn, gần cầu Tân Cảng. Sau hai tuần trăng mật tại Đà Lạt vợ chồng Tuấn Lan dọn về đó ở . Lan rất thích cái biệt thự này, nó nằm cạnh bờ sông Saigon, chung quanh là tường xây bao quanh một khu vườn cây ăn trái đủ loại! Không khí trong lành và nhất là khung cảnh yên tỉnh cộng với cảnh vật hữu tình rất hợp với tính của Lan! Chổ ở cũng tiện cho cả hai vì không quá xa chổ làm của cả hai vợ chồng!

Tuấn thích các đồ cổ nên tìm mua những đồ chạm trổ xưa để trang trí trong nhà dù phải trả giá cao đi nữa! Trong số đồ vật mua được có một chiếc gương cổ gắn trên giá được chạm trổ rất cầu kỳ! Lan cũng thích cái gương này, nàng đặt nó trong phòng ngủ và hàng ngày ngắm mình trong gương! Cuộc sống tưởng cứ thế êm đềm trôi đi, nhưng vào một đêm mà Tuấn phải trực đêm tại sở Lan ngủ một mình ở nhà ! Đêm đó Lan mơ thấy một thiếu phụ trẻ đẹp hiện đến nói chuyện với nàng, cuối cùng thiếu phụ đó nói bà ta chính là mẹ ruột của nàng, còn cha mẹ nàng chỉ là cha mẹ nuôi mà thôi!

Nếu không tin thì có thể đi hỏi cha mẹ nàng cho ra lẽ, xong thiếu phụ biến mất!

Hôm sau Lan thức dậy và nhớ lại giấc mơ nhưng nàng chỉ cho đó là giấc mơ nên không để ý gì cho lắm! Nhưng liền mấy đêm sau Lan đều mơ thấy người thiếu phụ đó hiện ra trong giấc mơ và quả quyết nàng là con của bà ta! Lan đâm ra thắc mắc, không biết đó là sự thực hay chỉ là bị ám ảnh chuyện gì rồi mơ thôi! Nàng lờ đi, nhưng rồi đêm nào nàng cũng thấy thiếu phụ đó, lúc thì chân thành, lúc thì khoc' nức nở khi nghe nàng từ chối không nhận bà ta là mẹ!! Cuối cùng vào một Chúa Nhật, Lan về nhà cha mẹ chơi, lúc ở trong bếp một mình với mẹ nàng hỏi:

_ Mẹ à, có phải con chỉ là con nuôi của ba mẹ không ?!

Mẹ nàng hơi biến sắc mặt nhưng cố trấn tỉnh:

_ Ai nói chuyện tầm bậy đó cho con vậy! Ba con mà nghe là chết với ông ấy đó nghe chưa !

Rồi mẹ nàng nói lảng qua chuyện khác! Lan không hài lòng lắm nhưng sợ làm phật lòng mẹ nên không dám hỏi thêm! Nhưng rồi nàng vẫn tiếp tục mơ gặp người thiếu phụ kia! Lan quyết định gặp riêng Vú Ba, người đã chăm sóc nàng từ lúc sơ sinh cho đến ngày lấy chồng! Lan xem Vú Ba như một người mẹ thứ hai, và Vú cũng yêu thương nàng như là con đẻ ! Vú là người thật thà chất phát, chẳng bao giờ nói dối hay làm phật lòng một ai! Gặp Vú Lan hỏi chận đầu:

_ Vú đừng dấu con nghe! Con biết con là con nuôi của ba mẹ con! Xin Vú nói cho con sự thật đi!

Vú Ba mặt tái xanh lấp bấp:

_ Trời ơi làm sao cô biết được, đời nào ông bà nói cho cô biết điều đó! Ai nói cho cô vậy ?

_ Có người cho con biết, con chỉ cần Vú xác nhận và cho con biết thêm các điều Vú biết!

_ Cô biết rồi thì Vú cũng không giấu gì con! Nhưng Vú cũng chẳng biết gì nhiều đâu.

_ Thì điều gì Vú biết thì cứ kể cho con nghe, biết đâu nhờ đó mà con tìm ra nguồn gốc của mình cũng nên!

_ Con biết đó ba mẹ con chỉ có mình con là con một mà thôi! Thật ra thì bác sĩ cho biết là ông bà không thể có con được! Vú chỉ biết là một ngày vào mùa Thu 23 năm trước, ông nói là có chuyện phải đi xa vài ngày! Khi trở về ông ẳm theo một bé gái nói là xin được của một người đàn bàở Cần Thơ, bà ta vì nghèo quá không thể nuôi đàn con quá đông nên đành lòng để con mình cho người khác nuôi! Đứa bé đó là con đó! Vú chỉ biết vậy thôi và Vú đảm nhận việc nuôi dưỡng con từ đó! Vú cũng không dám hỏi thêm gì từ ông bà nên không biết thêm gì nữa !
Lan biết có hỏi ba mẹ nàng thì ông bà cũng không nói đâu, nhưng màng đã có được một chi tiết mà nàng cần! Đó là nơi ba nàng xin đứa con . Là một luật sư Lan có thể dùng tài năng và phương tiện sẳn có của mình để truy ra nguồn cỗi của mình! Lan lấy một tuần nghỉ phép và nói với chồng là nàng phải đi lo một công việc cho một thân chủ tại Cần Thơ ! Khi đến nơi nàng vào Tòa Án xin người Lục Sự lục xem tài liệu coi những ai đã cho con vào những tháng mùa Thu 23 năm trước! May mắn nàng có được danh sách của những đứa trẻ được cho cùng tên của người cho và người nhận . Sau khi kỷ lưỡng xét duyệt và so sánh tên tuổi trong danh sách đó, nàng biết được tên của người mẹ ruột nàng là Trần Thị Liễu . Tiến hành xa hơn Lan yêu cầu ông Lục Sự xem lại hồ sơ của người đàn bà tên Liễu này! Một sự thật bất ngờ mang đến là người này là một tử tội, vì mang thai nên được dời ngày xử tử đến sau khi sinh con! Đứa con được sinh ra trong khám đường và mang đi cho, sau đó bà ta bị xử bắn vì tội giết chồng!

Trở lại Saigon với tâm trạng đau khổ vì sự thật nàng đã tìm ra! Lan chán nản không muốn tìm kiếm thêm về thân thế của mình nữa! Đêm đó người thiếu phụ lại hiện ra trong giấc mơ và lần này bà ta kể cho nàng đầy đủ chi tiết về bà và vì sao bà phải bị xử bắn:

_ " Bà ngoại con là con của một điền chủ giàu ở Phong Điền, Cần Thợ Quận Phong Điền chỉ cách Cần Thơ chưa tới 20 cây số. Cứ theo con sông Cần Thơ thì từ Cần Thơ rồi tới Cái Răng xong đến Ba Láng vượt qua Vàm Sáng là tới Phong Điền! Vùng này nổi tiếng là vựa lúa gạo vì thế đã có câu ca dao truyền khẩu từ lâu đời:

" Cái Răng Ba Láng Vàm Sáng Phong Điền.

Anh thương em thì cho bạc cho tiền!

Đừng cho lúa gạo, xóm giềng cười chê!"

Bà có một sắc đẹp mặm mà với làn da trắng nỏn của cô gái miệt vườn! Vì là con nhà giàu nên bà ngoại con được cha mẹ cho lên tỉnh thành ăn học! Trong một buổi dạ vũ mừng Tết, bà con gặp một công tử hào hoa phong nhã . Chàng là con cưng của quan Tham Tá ở tòa bố Tỉnh! Mới gặp nhau là họ đã bị tiếng sét ái tình đánh trúng! Sau đó họ hẹn hò với nhau rồi cuối cùng nhà trai đến xin cưới hỏi! Hai vợ chồng sống trong gia đình cha mẹ chồng. Trong hai năm đầu tình nghĩa họ rất mặn nồng nhưng đến năm thứ ba thì ông ngoại con theo bè bạn chơi bời nhậu nhẹt và bắt đầu lơ là với vợ ! Bà con lúc đầu còn nói bóng gió nhỏ nhẹ để khuyên chồng nhưng đâu cũng vào đấy! Sau bà khóc lóc năn nỉ xin chồng hãy xa lánh bọn bạn bè xấu nhưng cũng không xong còn bị chồng chửi rủa đánh đập nữa! Qúa lắm bà con quay ra cầu cứu cha mẹ chồng! Chẳng những không được binh vực mà còn bị cha chồng la cho là: _ Chồng mày nó là đàn ông, phải để cho nó giao dịch với người đời chứ ! Còn nó có lăng nhăng với đứa nào thì đã có sao đâu! Trai năm thê bảy thiếp là thường tình mà!

Bà con rất yêu thương chồng nên đành cắn răng chịu đựng! Mà thời đó có gì đi nữa thì cũng phải chịu thôi! Đàn bà mà bỏ nhà đi thì không ai chứa, cũng chẳng biết làm gì ăn, và làm nhục cha mẹ của mình! Cứ thế mà bà con cố sống cho qua ngày! Nhưng rồi bà có thai mẹ ! Gần ba tháng bà mới biết đúng là mình có thai! Đêm đó bà đợi chồng về để báo tin vui, đến nửa đêm ông ngoại con mò về nhà, hơi thở nặc nồng mùi rượu! Bà lấy khăn ướt lau người và mặt mày cho ông, thay quần áo và dìu ông vào giường! Lúc sau bà thủ thỉ với ông là bà có thai rồi! Đã không vui thì chớ ông còn cằn nhằn bà là ông chưa muốn có con, nó chỉ làm bận thêm thôi! Qúa thất vọng bà chỉ biết ôm mặt khóc thầm trong đêm tối!

Từ hôm đó ông càng đi chơi khuya nhiều hơn, về nhà thì gắt gỏng mắng nhiếc và có khi còn đánh bà nếu bà có lên tiếng cải lại! Ông bây giờ công khai đi chơi với đào cả ngay ban ngày ban mặt mà còn ra vẻ ta đây là đào hoa nữa! Bà nhiều lúc muốn tự tử chết đi cho xong cái kiếp bạc phận của mình nhưng lại thương đứa con trong bụng không có tội gì! Cha mẹ chồng và các em chồng đều về phe ông con, họ nói móc nói xói đủ điều! Cho đến một đêm kia sau khi đi nhậu nhẹt chơi bời về, ông con chửi và đánh bà một trận và còn nói là sẽ bỏ bà để lấy vợ khác! Sau đó ông lăn ra giường ngủ như chết! Bà nằm thao thức khóc ấm ức, suy nghĩ về số phận hẩm hiu của mình, tình yêu của mình dành cho chồng, và tương lai đen tối khi bị chồng bỏ ! Cuối cùng bà quyết định chết và trước khi chết bà sẽ giết luôn cả ông! Bà nghĩ là chắc sang thế giới bên kia thì có lẽ hai vợ chồng sẽ có hạnh phúc hơn!

Bà nhè nhẹ ra phòng khách, nơi đó có treo một cây kiếm ngắn cổ xưa trên tường! Cha chồng nàng nói thanh kiếm này là báu vật từ triều đại nhà Lê nên ông ta rất quí và treo trong phòng khách làm cảnh! Bà mang thanh kiếm vào phòng, rút kiếm ra khỏi vỏ, ánh thép xanh rợn người! Hai tay dơ cao nó lên bà đâm phập xuống ngay tim của ông! Thấy máu phọt mạnh ra bà xây xẩm té xỉu! Khi tỉnh dậy bà không còn đủ cam đảm để tự kết liễu đời mình! Ở đây cũng không xong, bà cầm theo thanh kiếm tang vật, lấy ít vật dụng cần thiết và lẻn ra sau nhà đẩy chiếc tam bản ra lạch và kiếm đường chèo về nhà cha mẹ mình. Khi ra đến sông lớn bà quăng thanh kiếm xuống sông và cắm cúi chèo như kẻ mất hồn! Hơn một ngày sau bà mới về dến nhà, vừa bước vào nhà thì đã có mấy ông cò trên tỉnh đợi sẳn, họ bắt còng bà và giải lên tỉnh để xử về tội giết chồng!

Tại toà bà nhận hết tội mà họ gán cho! Toà xử rất nhanh và bà lãnh án tử hình mặc dù họ không tìm được "thanh kiếm " hung khí! Nhưng bà đang có thai mẹ nên tòa cho đình án tử đến sau khi ba con sinh nở ! Rồi thì cũng tới ngày đó, bà con sinh mẹ trong nhà lao, họ mang mẹ về trao lại cho ông bà cố của con! Chỉ hôm sau họ mang bà con ra pháp trường xử bắn! Trước khi bắn họ hỏi bà con có điều gì trăn trối lại không! Bà con dỏng dạc thét to vào đám đông đếm coi xử bắn trong đó có cả họ hàng nhà chồng:

_Tui chết đi cũng nguyện thành ma về trả thù bọn đàn ông bội bạc! Con cháu tui cũng sẽ làm như vậy! Đó là lời nguyền của tui trước khi chết! Hãy nhớ lấy! _ Rồi họ bắn chết bà con!

Mẹ được ông bà ngoại của mẹ nuôi lớn lên, không ai hở môi cho mẹ biết gì về quá khứ của mình! Ông bà chỉ nói là cha mẹ của mẹ bị chết trong một tai nạn sau khi sanh ra mẹ mà thôi! Mẹ lớn lên và trở thành một cô gái có nhan sắc nổi tiếng ở vùng Phong Điền, chắc ông bà nhớ hậu quả khi xưa nên không cho mẹ lên tỉnh học! Mẹ chỉ học hết trung học đệ nhất cấp là phải ở nhà phụ việc cơm nước với bà ngoại rồi! Nhưng rồi tiếng đồn về mẹ bay xa, con trai của các điền chủ khác cũng tìm dến để dọ hỏi! Mẹ cũng phải lòng một anh chàng đẹp trai con của một điền chủ ở quận Cái Răng! Tuy không ở gần nhau nhưng anh rất thường lặn lội xuống Phong Điền để gặp mẹ ! Rồi thì việc cưới hỏi cũng đến! Mẹ về ở bên nhà chồng ở gần cầu Cái Răng !

Năm sau một trận dịch cúm tràn lan khắp các tỉnh và giết chết cả mấy chục ngàn người! Không may là trong đó có cả gia đình ông bà ngoại của mẹ! Mẹ trở thành kẻ không thân nhân! Người thân của mẹ bây giờ chỉ là những người bên gia đình chồng! Mẹ cũng làm quen được với một vài người bạn gái mới ở gần nhà . Họ với mẹ chơi thân với nhau và coi nhau như chị em trong nhà vậy ! Thật ra mẹ chỉ quanh quẩn ở nhà giúp bà nội con hoặc lại chơi với các bạn gái hàng xóm thôi chứ không đi đâu xa cả ! Ba con ngày thì đi đến chiều tối mới về ! Ba con nói phải đi lo công chuyện cho ông con, mẹ luôn tin tưởng ở ba con nên cũng chẳng hỏi han gì nhiều !

Cuối năm đó mẹ có bầu con! Ba con và mẹ rất vui mừng! Ông bà nội con lo mua mọi thứ đồ bổ cho mẹ để sau này con sanh ra được mạnh khoẻ ! Ba mẹ sắm sửa các vật dụng và quần áo cho con để chờ ngày con chào đời! Cuộc sống thật hạnh phúc! Nhưng một đêm kia mẹ mơ thấy một thiếu phụ trẻ đẹp hiện về trong giấc mơ, bà ta cho mẹ biết là mẹ là con của bà ta! Sau đó bà hiện về hàng đêm để trò chuyện với mẹ ! Cho đến một đêm bà bảo mẹ là ba con không trung thành với mẹ đâu! Bọn đàn ông luôn luôn phản bội! Bọn sở khanh đó đáng chết! Bà bảo mẹ phải giết ba con vì trước sau gì thì ba con cũng bỏ mẹ thôi! Mẹ chống đối lại và xác nhận là ba con rất trung thành va yêu thương mẹ! Nhưng bà ấy bảo cứ chờ xem rồi kể lại chuyện bất hạnh của đời bà và lời nguyền bà đã nói trước khi chết! Bây giờ là thời gian để bà thực thi lời nguyền ấy! Mẹ rất kinh hoàng nhưng mãnh lực ma quái của bà con làm mẹ mềm nhủn cả ý chí của mình! Thấm thoát mẹ đã có bầu được 5 tháng, bụng mẹ càng ngày càng lớn! Đi lại cũng khó khăn hơn, ông lang khuyên ba mẹ không nên làm chuyện vợ chồng với nhau nữa để giữ an toàn cho con! Từ ấy ba con thỉnh thoảng lại vắng nhà cả đêm ! Mẹ vẫn mơ thấy bà con hiện về thúc giục mẹ thi hành lời nguyền: Giết ba con! Nhiều lúc mẹ bị quyền lực huyền bí của bà con sai khiến và hứa sẽ giết ba con nếu có dịp! Một đêm kia bà con bảo mẹ mở ngăn kéo của cái tủ gỗ gỏ trong phòng! Mẹ thấy cây kiếm ngắn cổ xưa nằm đó từ bao giờ! Bà con nói ngày xưa với chính thanh kiếm này bà đã giết chết kẻ phản bội!
 
Lời nguyền 2


Một buổi sáng kia khi thu dọn quần áo của ba con để đi giặt, mẹ thấy có vết son trên áo và mùi nước hoa vẫn còn phảng phất trên đó! Mẹ mang đến hỏi ba con thì ông ấy chối quanh và còn nạt át giọng mẹ nữa ! Mẹ trở về phòng và khóc một mình! Chẳng lẽ bà con nói đúng sao !?! Chẳng lẽ bọn đàn ông toàn là một lũ phản bội sao !! Mẹ thiếp đi và bà con lại hiện về an ủi mẹ rồi với giọng đanh chắc bà bảo là đã tới giờ hành động! Nó đã phản bội con từ lâu rồi chỉ tại con quá ngây thơ mới tin vào sự trung thành của nó mà thôi! Hôm sau mẹ lại chơi nhà chị bạn, chuyện vản một hồi mẹ hỏi:

_ Chị là hàng xóm với gia đình chồng em, em với chị coi nhau như chị em ruột! Em xin chị cho em biết chị có biết gì về cuộc sống của chồng em không !?

_ Sao em lại hỏi thế !? Có gì xảy ra trong cuộc sống vợ chồng của tụi em à ?!

_ Chồng em thỉnh thoảng đi suốt đêm, và hôm qua em còn thấy dấu son và mùi nước hoa trên áo nữa ! Nếu chị biết gì thì làm ơn nói cho em biết với ! Em là kẻ lạ từ xa đến và chỉ biết nhà chồng và mấy chị em gần đây thôi !Nếu chị biết gì thì làm ơn cho em biết , em đội ơn chị!

_ Chị coi em như em ruột mình nên chị cũng không dấu gì em! Chồng em nổi tiếng là một công tử ăn chơi vùng này! Đó cũng là lý do mà cậu ấy phải đi lấy vợ xa! Con gái các nhà giàu có ở đây đều biết tiếng cậu ấy nên đâu ai chịu gả cho cậu ta đâu !! Hàng ngày cậu ấy tụm bè tụm đảng với mấy tên công tử khác, ăn chơi bài bạc và phá làng phá xóm! Ở đây ai cũng biết danh! Chỉ tội nghiệp em quá ngây thơ nên chẳng biết gì !!

Mẹ cám ơn chị bạn rồi về ! Thế ra là ba con luôn làm mặt giả dối với mẹ mà thôi! Đi ăn chơi mà nói là đi lo công việc, đêm ngủ với gái về nói là phải đi lên tỉnh lo giấy tờ!! Mẹ chỉ biết khóc cho phận mình, sao nó oan trái giống hoàn cảnh của bà ngoại con quá!

Một chiều mưa gió kia ba con về nhà mùi rượu nồng nặc, áo quần xốc xếch. Mẹ đở ba con vào phòng rồi trắch:

_ Sao anh nhậu nhẹt gì mà say quá độ như vậy !? Say mà dầm mưa có bữa trúng gió chết dọc đường không ai hay đó!

_ Á a ! Cô cầu cho tui chết chứ gì ! Cô tưởng cô hay lắm à ! Cô chỉ là con bé mồ côi thôi! Tui thách cô đó! Chịu được thì ở không được thì đi đi! Không ai chứa cô đâu! Mẹ cô ấy à! Cũng là một con giết chồng thôi! Tui mà biết trước chuyện này thì đời nào tui cưới cô ! Mẹ nào con nấy mà! Dang ra cho tui đi ngủ ! Tui không cần đứa nào giúp hết!

Ba con chửi mẹ một hồi nữa rồi nằm lăn ra ngủ như chết! Mẹ cởi thay quần áo ướt cho ông ấy, thấy trong túi có gì cồm cộm mẹ lấy ra xem! Đó là tấm hình của một cô gái trẻ ăn mặc hở hang như gái nhẩy, phía sau có đề dòng chữ " Tặng anh yêu!" và ký tên nguệch ngoặc phía dưới! Mẹ buông rơi tấm hình xuống đất! Ôm mặt khóc! Đúng rồi chẳng sai vào đâu được nữa! Ba con phản bội mẹ từ lâu mà mẹ có biết gì đâu! Đột nhiên mẹ nghe tiếng bà con ngay cạnh bên:

_ Mẹ đã nói mà con không tin! Bây giờ con sáng mắt ra chưa !? Hãy giết chết tên phản bội kia đi!

Mẹ như bị thôi miên, từ từ đi đến bên tủ kéo ngăn lấy cây kiếm cầm trên tay! Trong đầu mẹ nghe toàn những câu chửi rủa đay nghiến của ba con! Xen lẫn vào đó là tiếng thúc giục của bà con! Mẹ như kẻ không hồn bước lại gần ba con, rút thanh kiếm khỏi vỏ, rồi cắm phập xuống tim của kẻ bạc tình! Như một kẻ mộng du, mẹ đút thanh kiếm vào vỏ , mở cửa sau bước ra hông nhà! Mưa vẫn còn rơi xối xả, mẹ đẩy chiếc tam bản và chèo về phía quận! Mẹ không còn ai là thân nhân trên đời này cả! Mẹ chỉ theo sự hướng dẫn vô hình nào đó mà chèo ghe về quận! Trong tiềm thức mẹ có ai nói là hãy vất thanh kiếm xuống sông và mẹ làm theo lời bảo như một cái máy! Ghé ghe vào cuộc cảnh sát quận, chỉ có một viên cảnh sát ngồi gác và hút thuốc trong văn phòng! Thấy mẹ Ông ta hỏi khuya khoắt thế này mà có việc gì đến báo cảnh sát vậy! Mẹ trả lời với giọng khô cứng:

_ Tui đâm chết chồng tui rồi! Tui đến đây để nộp mạng!

Ông cảnh sát bán tín bán nghi không biết làm gì! Ngay lúc đó có mấy chiếc ghe cặp vào bến, mấy người hồng hộc chạy vào la lớn:

_ Thày cò ơi! Có án mạng ở nhà ông hội đồng Bảy! Con ổng bị người ta đâm chết trong nhà! Ông mau cho người tới làm an-kết!

Ông cảnh sát quay lại phía mẹ nói:

_ Cô đưa tay cho tui còng mau lên!

Rồi ông ta nhốt mẹ vào phòng giam và đánh thức mấy người khác dậy để đi theo mấy người báo tin làm an-kết!

Hôm sau họ giải mẹ lên nhà khám tỉnh Cần Thơ đợi ngày xử ! Cũng như bà con, mẹ nhận hết lỗi và bị nhận án tử hình! Mẹ cũng được hoản ngày bắn cho tới khi sinh con! Khi sinh con ra họ mang con đi nói là làm giấy tờ và tìm người để cho ! Và rồi mẹ bị họ mang ra pháp trường bắn và mẹ cũng mang theo lời nguyền là sẽ trả thù bọn đàn ông khốn nạn trên đời này! Và con chính là kẻ thi hành lời nguyền ấy!

Lan thấy cảm thương cho số phận của hai người, nhưng nàng không muốn vì sự hận thù của họ mà nàng phải giết chồng mình! Hơn thế nữa, Tuấn rất hiền lành! Nàng biết rỏ tính chồng vì hai người quen và tìm hiểu nhau suốt mấy năm còn ở Đại Học! Hai người thật sự yêu nhau và tự ý kết hôn với nhau, đâu có bị ép buộc, hay gả cho một người xa lạ như mẹ và bà nàng xưa kia đâu! Nàng biết Tuấn rất rỏ, một người đàn ông có trách nhiệm, yêu thương vợ và không hề dính líu đến tứ đổ tường như một số đông người có chức vị khác! Và một điểm nữa là Lan cũng yêu Tuấn tha thiết. Nàng không thể nào ra tay giết người mình yêu dấu được!

Dầu nàng có biện bạch cách mấy đi nữa thì mẹ nàng vẫn hiện về thúc đẩy nàng làm điều đó! Về vào ban đêm không xong mẹ nàng về luôn

nhà nàng đóng đô trong cái gương cổ trong phòng ngủ ! Mỗi khi nàng soi gương thì hình bóng mẹ nàng lại hiện ra nhắc nhở cái sứ mạng nàng phải thi hành! Nói nhẹ không xong, mẹ nàng lên tiếng đe dọa! Một sáng kia Lan thức dậy để sửa soạn bữa sáng cho vợ chồng trước khi đi làm, Tuấn cũng đã thức nhưng vẫn còn nằm rán trong giường, mắt nhắm nhưng tai vẫn nghe mọi sự chung quanh! Lan đến soi gương và Mẹ nàng hiện ra trong đó, vẫn như trước bà trách móc nàng sao không thi hành lệnh của bà! Lan bực dọc nói:

_ Tại sao mẹ lại bắt con giết người con yêu dấu! Anh ấy có tội tình gì mà phải chết vì sự thù hận của người xưa chứ !?

_ Đó là lời nguyền và con là người kế tự để làm việc đó! Không ai làm thay con được! Chính tay con phải dùng thanh kiếm để đâm chết người chồng của con để làm tròn lời nguyền, và con của con sau này cũng sè làm tròn lời nguyền này sau khi con bị xử chết! Đó là luật đã do bà ngoại con đã đặt ra ! Con cháu phải biết tuân theo mà thôi!

_ Không ! Con không làm những điều vô lý đó đâu!

Một làn ánh sáng với luồng gió mạnh phát ra từ chiếc gương thổi bắn Lan vào vách! Nàng đau đớn la lên và bất tỉnh! Tuấn nằm nghe hết mọi chuyện, khi thấy Lan bị hất văng vào tường chàng vùng dậy bế nàng lên giường! Nhìn vào gương chàng quát:

_ Bà hãy đi đi! Hãy để cho chúng tôi yên! Tại sao bà lại nhẫn tâm phá hạnh phúc của con bà!

Bóng trong gương bổng biến thành một con tinh dữ dằn với đôi mắt rực lửa:

_ Tao phải giết bọn đàn ông phản bội chúng mày! Mày cũng không thoát khỏi lời nguyền của chúng tao đâu!

Tuấn với tay lấy chiếc guốc của vợ ném vào chiếc gương, nhưng chiếc guốc bật trở lại vào thái dương chàng. Tuấn cũng lăn ra bất tỉnh! Lúc tỉnh dậy thì Lan đã ngồi sẳn bên chàng ! Trời đã trưa rồi! Hai vợ chồng sợ lắm! Tuấn gọi điện thoại tới sở của hai người xin nghỉ một ngày! Xong chàng chở Lan đi ra chợ Thủ Đức ăn trưa! Trong lúc ăn Lan nói với chồng :

_ Anh kêu người tới mang cái gương đó đi nghe anh! Bà ấy ám ảnh em mấy tháng nay rồi đó!

Trên đường về, Tuấn ghé kêu người bán đồ cũ lại nhà để cho ông ta cái gương cổ đó! Họ về đến nhà, ông bán đồ cổ vào phòng khiêng cái gương đi! Một bóng hình dữ tợn hiện ra trong gương cười the thé và một trận cuồng phong cùng với ánh sáng tuôn ra từ cái gương thổi bay ông ta ra ngoài cửa sổ! Ông ta rớt xuống đất va đầu vào cục đá to chết ngay lập tức! Giọng cười vẫn vang vọng xen lẫn tiếng gầm:

_ Chỉ khi nào hoàn tất lời nguyền tao mới rời khỏi đây! Lan, con phải thi hành việc đó rồi thay thế mẹ truyền lời nguyền này cho con con! Chỉ lúc đó mẹ mới đi đầu thai được thôi!

Tuấn kêu cảnh sát báo về tai nạn xảy ra! Chàng dấu không nói gì về con Tinh cả ! Mà có nói thì cũng chẳng ai tin cho! Cảnh sát cho đây là tai nạn nên vợ chồng Lan không gặp rắc rối gì! Hôm sau khi đi làm, Tuấn xin nghỉ buổi chiều và đến "Lăng Ông" ở Gia Định, nơi đây có một thày coi tướng số kiêm thày pháp nổi tiếng để nhờ xem quẻ về con Tinh trong nhà! Sau khi bấm độn và làm những thứ phù phép linh tinh, ông thày phán:

_ Con Tinh này rất dữ! Hiện nay không có ai đủ tài để diệt được nó đâu! Nó chỉ đi đầu thai nếu có ai thay thế nó mà thôi!

_ Thế thì tụi tôi đành chịu chết hay sao ?!

_ Đúng ra thì còn một cách duy nhất! Phải kiếm ra cho được thanh kiếm của nó, và chính người con gái của nó dùng thanh kiếm này đâm vào ngực nó thì mới có thể tiêu diệt được nó mà thôi!

Nói tới đây ông thày pháp mhư bị ai đập vào đầu lăn ra đất bất tỉnh! Các đệ tử của ông phải làm mọi cách mới vực ông tỉnh dậy được! Ông ta nói:

_ Thí chủ về đi! Tôi không giúp gì được cho ông đâu! Nó tính giết luôn cả tôi đó thí chủ thấy chưa !!

Tuấn ra về cũng không nói gì cho Lan biết về việc này! Chàng sợ làm nàng hoang mang thêm! Nhưng điều làm chàng suy nghĩ nhiều nhất là con Tinh đã biết chàng tìm cách diệt nó! Chàng sợ nó sẽ ra tay sớm tìm cách giết chàng! Nửa đêm đó như có linh tính báo thức, Tuấn mở mắt ra thì thấy Lan đang đứng ở bên giường, hai tay nắm chặt thanh gươm ngắn trong tư thế sắp đâm xuống ngực chàng! Ánh mắt Lan như ngây dại mất hồn! Tuấn vội la lớn:

_ Lan, tỉnh lại em! Đừng làm theo lời con Tinh đó!

_ Tao phải giết bọn đàn ông phản bội trên đời này! _ Lan trả lời với giọng xa lạ như vọng về từ thế giới bên kia!

_ Em hãy tỉnh lại đi! Nhìn kỹ anh nè! Em biết mà anh yêu em nhất trên đời này mà! Không gì có thể làm anh xa em được! Em biết là anh luôn trung thành với em mà! Tỉnh dậy đi Lan! Hãy xét lại xem, có khi nào anh ruồng rẩy em hay đối xử lạnh nhạt với em không! Tỉnh lại đi em, đừng để con Tinh cái kia làm tan đi hạnh phúc của chúng mình! Còn đứa con vô tội của chúng ta nữa, đừng để nó lại phải đeo theo lời nguyền khốn kiếp ấy theo nó vào cuộc đời này!

Cái bóng con tinh trong gương cũng gào lên :

_ Hãy giết bọn đàn ông phản bội đi con! Chúng nó không đáng được sống! Bây giờ là lúc con hoàn thành lời nguyền của chúng ta! Hãy mau xuống tay đi!

_ Đừng nghe lời nó em! Lan hãy mau tỉnh thức lại đi! Vợ chồng ta đang hạnh phúc, chúng ta sắp có đứa con đầu lòng! Đừng để bọn ma quái yêu tinh kia phá đi hạnh phúc của chúng ta!

Mặt Lan trở nên tỉnh táo hơn, nàng như vừa thoát ra khỏi một cơn mộng du! Nàng nghe tiếng Tuấn kêu gào! Có lẽ lời kêu gào thống thiết đã thắng được ma lực đang thống trị trong nàng! Nhìn mình tay đang dơ cao thanh kiếm chực đâm chồng, Lan hoảng hốt hạ lơi thanh kiếm xuống, miệng la lớn:

_ Trời ơi! Chuyện gì xảy ra hả anh! Sao cây kiếm này lại trong tay em! Tí nữa là em đã giết chết anh rồi!

_ Hãy giết chết nó đi còn chần chờ gì nữa con! Giết nó mau đi cho lời nguyền được trọn vẹn! _ Con Tinh gào gọi Lan.

_ Em hày bình tâm lại! con Tinh kia muốn cắt đứt cuộc sống êm đềm của chúng ta! Nó dùng ma lực để khiến em làm chuyện điên rồ! Hãy nghĩ đến tương lai của chúng ta, đến con của chúng ta!

_ Em phải làm gì bây giờ đây! Trời ơi! _ Lan nói như khóc!

_ Hãy phóng thanh kiếm đó vào ngực con Tinh kia để phá vỡ lời nguyền của nó mau đi em! _ Tuấn vội trả lời vợ !

_ Đừng nghe lời bọn đàn ông khốn nạn con ơi! Con hãy giết nó ngay đi! Đừng nghe lời nó xúi xiểm mà giết mẹ con nghe chưa ! _ Con Tinh phản lại tức thì!

_ Hãy mau phóng thanh gươm đi em! Chỉ có một mình em là có thể phá được lời nguyền này mà thôi! Em nghe rỏ chưa ?! Chỉ có mình em thôi! _ Tuấn gào to như muốn để át đi mọi ma lực còn sót lại trong Lan!

Thình lình Lan vươn tay lên và phóng nhanh thanh kiếm vào cái bóng con Tinh trong gương! Cái gương bể tan ra thành từng mảnh vụn cùng theo đó là một tiếng rú rợn người! Con Tinh và thanh gươm tiêu biến mất theo một làn khói mờ! Vợ chông Lan ôm lấy nhau khóc! Mừng mừng tủi tủi! Tai nạn đã qua đi rồi! Hai người ngồi tâm sự Ôn lại các vui buồn trong đời cho đến sáng! Tuấn dọn dẹp nhà cửa, chàng mang cái khung gương ném xuống sông như để xoá đi cái ám ảnh đã qua! Từ đó về sau vợ chồng Lan sống hạnh phúc không còn bị khuấy phá gì nữa ! Lời nguyền đã bị phá!

Cuối năm đó Lan sinh được một bé gái giống nàng như đúc! Nàng tạ Ơn trời đất vì con nàng không phải chịu cảnh sinh trong tù và đeo theo lời nguyền như mẹ và bà ngoại nàng! Hai năm sau một bé trai lại ra đời và họ sống êm đềm trong hạnh phúc tới già!

Chú thích:

Có bạn nào ở Cần Thơ không ? Bố tôi trước kia là lính VNCH, ông hay di chuyển theo đơn vị nên tôi cũng biết được một số tỉnh ở miền Tây (Cần Thơ, Bạc Liêu, Vĩnh Long... ) Tôi có ở Cần Thơ một thời gian, bây giờ thấy nhớ Bến Ninh Kiều ghê! Nhớ các hàng ăn bán về đêm dọc theo bến và ánh đèn từ nhà hàng nổi ở đó !!
 
Back
Top