• Hiện tại trang web đang trong quá hình chuyển đổi và tái cấu trúc lại chuyên mục nên có thể một vài chức năng chưa hoàn thiện, một số bài viết và chuyên mục sẽ thay đổi. Nếu sự thay đổi này làm bạn phiền lòng, mong bạn thông cảm. Chúng tôi luôn hoan nghênh mọi ý kiến đóng góp để chúng tôi hoàn thiện và phát triển. Cảm ơn

1001 CÂU CHUYỆN CẢM ĐỘNG!!!

Status
Không mở trả lời sau này.
Em bình thản trả lời và cười hồn nhiên như một đứa trẻ... vô số tội. Tôi thở dài rồi nhẩm tính, thôi thì thú thật với em là tôi bằng tuổi em vậy. Dù sao tôi cũng tên là Anh, em có xưng tên với tôi thì vẫn phải gọi tôi là anh.


Em 18 tuổi và em muốn biết tuổi của tôi. Tôi thắc mắc:

- Để làm gì?

- Để xưng hô cho đúng mực chứ làm gì!

- Nếu tôi 17 hoặc ít hơn nữa thì sao?

- Dĩ nhiên là: Chào nhóc!

- Thế nếu tôi 18?

- Thì xưng tên, rất thân mật, đúng không?

- Còn tôi 19 thì sao?

- Con chào chú ạ!

- Ôi trời, vậy em không bao giờ gọi người khác là anh à?

- Có chứ, nếu người ấy được mẹ mình... sinh ra trước mình!

Em bình thản trả lời và cười hồn nhiên như một đứa trẻ... vô số tội. Tôi thở dài rồi nhẩm tính, thôi thì thú thật với em là tôi bằng tuổi em vậy. Dù sao tôi cũng tên là Anh, em có xưng tên với tôi thì vẫn phải gọi tôi là anh. Thế là đạt được nửa mục tiêu rồi! Sự lựa chọn này có lẽ dễ chịu và... dễ tiến triển theo hướng tốt đẹp nhất. Nhưng em chẳng để tôi thỏa mãn quá một giây, em véo von:

- Phạm Anh ơi, đi cà phê với Nhi không?

Tôi đau khổ ngồi khuấy muốn bể li cà phê, tìm cách dụ dỗ:

- Gọi Anh là được rồi, đừng kêu cả họ ra như thế, tốn nước bọt, Nhi sẽ mệt đấy, mà Anh nghe cũng không quen tai!

- Ơ, nhưng Nhi đâu có thấy mệt?

- Thôi mà, năn nỉ đấy!

- Với một điều kiện: Nếu Phạm Anh làm cho Nhi bật cười được!

Tôi than trời, vậy là hết! Dân IT chính hiệu khô khan và cứng như một cái máy tính. Dĩ nhiên tôi có thể dễ dàng mua được nụ cười của em bằng vài cú nhấp chuột, với những mẩu chuyện vui, bài hát, hình ảnh ngộ nghĩnh tràn đầy trên các web. Nhưng ngay tại vị trí này, thứ xa xỉ ấy lấy ở đâu ra? Tôi cũng biết vài ba chuyện tiếu lâm nhưng cho vàng cũng chẳng dám kể cho em nghe, nó chỉ tiêu hóa được với mấy thằng bạn đầu óc sâu bọ của tôi thôi. Vậy là tôi thiểu não gục mặt xuống bàn và giương cờ trắng. Những tưởng mọi sự đã xong, ấy vậy mà em lại... bật cười - vì chính bộ dạng của tôi! Tôi như chết đuối vớ được phao, chộp liền cơ hội:

- Đấy, Nhi cười rồi nhé!

- Ok, hi hi... nhìn Anh, Nhi không nín được cười!

Tôi mặc kệ em cười cợt tôi, miễn em chịu gọi tôi bằng “Anh” là được rồi. Ôi, cái từ đó mới ngọt ngào làm sao! Tất nhiên em gọi tôi là “Anh” đơn thuần chỉ là gọi cái tên của tôi mà thôi. Nhưng tôi nhất định hiểu theo nghĩa khác - cái nghĩa mà chữ “A” không cần phải viết hoa. Mỗi lần em ngọt ngào “Anh ơi, Anh à...”, lòng tôi lại lâng lâng, tâm trí tôi mơ màng tận chín tầng mây. Trong đầu tôi hiện lên hình ảnh xa xôi vời vợi nhưng vô cùng ngọt ngào: Em đeo tạp dề, tay chảo tay đũa còn tôi mặc veste, thắt cravat và xách cặp táp đi làm. Nhưng thường thói đời “Được voi đòi tiên”. Khi em gọi “Anh” thì tôi ngàn lần sung sướng nhưng đến lúc em xưng Nhi, tôi lại như nhai phải hạt sạn trong bữa cơm ngon. Tên em rất hay, rất dễ thương, tôi chẳng có ý kiến. Chỉ tội, tôi muốn gọi em theo cách khác cơ! Thế là tôi lại dụ dỗ:

- Nhi có thích cái tên của mình không?

- Thích chứ! Sao lại hỏi vậy?

- Ừ, nó cũng tàm tạm. Nhưng Nhi có muốn anh đặt cho Nhi một cái tên thân mật để chỉ mình anh gọi thôi không?

- Tên gì?

- “Em”!

- Xì, xấu ỉn! Nhi không thích!

Tôi cố gắng nhẫn nại:

- Để anh thử gọi một lần nhé, chắc cũng không đến nỗi nào đâu!

- Anh muốn gọi thì Anh cứ gọi, nhưng không phải tên Nhi, Nhi sẽ không thưa đâu. Đã không thích thì việc gì phải thử?

Tôi bó tay và cúi đầu thở dài. Thôi có voi thì đành cưỡi voi vậy, mơ chi bay được như tiên để rồi té nhào thê thảm. Tôi tôn trọng quyết định của em và tự hài lòng với những gì em ban tặng. Tôi tự an ủi mình dù sao còn hơn khối đứa khi vẫn được em gọi là “Anh”. Và tôi tiếp tục mơ mộng. Mơ mộng nghĩa là tiếp tục hi vọng. Một sự hi vọng mong manh và không có cơ sở! Mặc kệ...

Tôi tình nguyện làm nô lệ của em bất cứ khi nào em cần. Em bảo “Anh ơi, Nhi đang vui lắm!”, tôi lập tức xuất hiện rồi cùng em la cà các quán ăn, đi shopping, đi cà phê... tôi sẽ hớn hở lắng nghe em tía lia đủ thứ chuyện và nhe răng hùa vào niềm vui của em. Nếu em nói “Anh ơi, Nhi buồn!”, thì mọi người cứ tin đi, dù thì là trời đang nắng chang chang hay mưa gió bão bùng, dù sáng sớm hay tối khuya, tôi cũng sẽ đến ngay cạnh em, cho em mượn bờ vai, làm cái thùng rác cho em trút tâm sự (nhiều khi những tâm sự đó chỉ là: Hôm nay sao trời cứ âm u hoài, buồn chết đi được!) và kiêm luôn cả nhiệm vụ của một chiếc mùi - xoa nếu em có nhu cầu khóc. Thậm chí cả khi em không vui không buồn, tôi vẫn sẵn sàng phục vụ em. Chỉ cần em nói “muốn” thì cho dù là “muốn hái sao trên trời”, tôi cũng sẽ cố hái cho bằng được. Và tôi thấy mình là một nô lệ hạnh phúc! Chỉ có điều hạt sạn vẫn làm bữa ăn ngon của tôi lấn cấn mãi...

Sinh nhật tôi, em là khách mời danh dự và duy nhất. Thức ăn ngon, nến thơm, hoa hồng, bánh kem... tất cả đều tuyệt vời! Sau khi bắt tôi thổi nến và ước nguyện trong lúc em hát bài Happy Birthday, em tặng cho tôi một chiếc hộp màu hồng rất xinh xắn. Tôi run run mở ra và ngẩn mặt tò te: Đó là một cái hộp rỗng! Em mỉm cười:

- Lúc nãy Anh ước nguyện điều gì, bây giờ chiếc hộp sẽ thực hiện điều ấy!

Đầu tôi chợt lóe sáng:

- Chiếc hộp này có linh nghiệm vậy không?

- Anh cứ thử xem sao?

- Được rồi! Điều ước của anh là hôm nay Nhi sẽ... đổi tên thành “Em”!

Em đưa chiếc hộp lên tai, lắng nghe rồi khẽ lắc đầu:

- Chiếc hộp nói: The page cannot be displayed! Anh thử điều khác đi!

Tôi đã quá quen và chán ngấy dòng chữ tiếng Anh đó mỗi khi mở không được trang web cần tìm. Tôi dỗi:

- Đó là ước nguyện duy nhất của anh!

- Tại sao?

Tại sao, làm sao tôi biết là tại sao? Đơn giản chỉ là điều tôi muốn và rất muốn, chẳng lẽ em không hiểu? Thấy tôi không trả lời, em khoanh tay chăm chú nhìn tôi rất nghiêm túc:

- Tại sao con trai lại luôn muốn làm anh nhỉ?

- Anh không biết, có lẽ vì họ mặc nhiên luôn nghĩ mình là phái mạnh...

Em cúi xuống di di những vệt nước trên mặt bàn. Em lẩm bẩm một mình nhưng vẫn đủ tôi nghe thấy:

- Liệu có đủ khả năng không?

Tôi chợt thấy nóng mặt và tức giận thật sự. Em không biết rằng nói như thế nghĩa là em đã xúc phạm đến lòng tự tôn của tôi sao? Chẳng khác nào em nghi ngờ tôi không phải là phái mạnh và không đủ sức bảo vệ em. Em coi thường tôi thế? Những mạch máu dưới cánh tay tôi rần rật chảy và căng phồng lên.Tôi muốn hất tung mọi thứ nhưng tôi không làm được vì em đang ngồi trước mặt. Vậy là tôi im lặng đến tận lúc em ra về. Tôi buông người đổ phịch xuống giường, rã rời, đầu căng như dây đàn. Thôi, em đã không tin tôi thì còn nói năng gì được nữa? Ngày mai tôi sẽ chính thức kết thúc kiếp nô lệ cho em. Không gặp mặt, không điện thoại, không email gì cả...

Sáng nay tôi nhận được tin nhắn lạ lùng của em : “Tạm biệt búp bê thân yêu, tạm biệt gấu Misa nhé, tạm biệt Chuột Nhắt xinh xinh...”. Tôi cuống cuồng lên. Lúc trước thỉnh thoảng em vẫn gọi tôi là Chuột Nhắt. Ôi, chẳng lẽ tôi chưa nói gì mà em đã quyết định giùm tôi rồi sao? Tôi lật đật gọi lại cho em - “Số máy quí khách vừa gọi hiện không liên lạc được”. Tôi luống cuống gọi vào máy bàn nhà em - không ai nhấc máy. Tôi hớt hải phóng xe qua nhà em - một chiếc chìa khóa to uỵch treo lủng lẳng. Tôi thất thểu, lòng nặng trĩu. Hơn một tháng không liên lạc, tôi cố tình quên em nhưng em biết không, tôi nhớ em phát điên!

Buổi tối, đang nằm như cái xác thì điện thoại réo ầm lên. Tôi nhỏm dậy vồ lấy nhưng buồn rầu thay, đó là một số lạ hoắc! “Alô, anh là Phạm Anh phải không?”. Một giọng con gái miền Namngọt ngào rất lạ! “Vâng, nhưng chị là ai?” “Em là một fan của anh nè. Có lẽ anh ngạc nhiên không biết em là ai nhưng em biết anh rất rõ đấy. Em làm bạn anh được không?”. Tôi bối rối thực sự “Ơ, ư...”. Cô gái bật cười “Anh bối rối à? Chắc anh chưa bao giờ được làm quen kiểu này, đúng không? Thôi, để em hát cho anh nghe nhé!” “Lại còn thế nữa cơ đấy?”. Và cái giọng miền Bắc chua lét quen thuộc của em véo von “Tạm biệt búp bê thân yêu...”

- Thôi xong, sụp bẫy rồi! Ai bày cho Nhi cái chiêu quỉ quái này thế?

Em khúc khích:

- Chẳng ai bày cả!

- Thế giọng ai vừa nói đấy?

- Ơ, giọng em đấy, không nhận ra à?

Tôi chợt ngỡ ngàng:

- Á, này, Nhi... em... chịu “đổi tên” rồi à?

- Cũng đang tập!

- Em chịu tin anh rồi à?

- Cũng đang thử! Anh có ý kiến gì à? Nếu phản đối thì em sẽ stop ngay!

- Ơ, không, ý kiến ý cò gì đâu? Anh vui phát điên lên đây này! À, mà sao em hát bài đó?

- Vì em đang ở một nơi khá xa. Một chuyến du lịch với gia đình! Và: I miss you like crazy!

Tit... tit... Em cúp máy lâu rồi mà tôi vẫn đần người ra. Tôi cấu mình thật đau để chắc rằng không mơ. Mà ngàn lần tôi cũng chẳng muốn mình đang mơ chút nào. Ha ha... nó là sự thật đấy! Ôi, cái tuổi 18 của ta, sao mà diệu kì thế!
 
1. Một lần tôi vô tình nhìn thấy hình một cô bé đeo kính cận rất dễ thương trong album hình bạn bè của nhỏ Quỳnh - em họ tôi. Cô bé với đôi mắt to tròn long lanh đẹp mê hồn sau cặp mắt kính khiến cho tim tôi nhảy loạn trong lồng ngực.


Ai nói mắt đẹp khi đeo kính cận sẽ làm cho mắt xấu đi chứ tôi thì ngược lại, tôi thấy đôi mắt đẹp mà đeo kính nữa càng đẹp hơn. Tôi luôn thích ngắm những cô bé đeo kính cận, vì theo tôi, con gái đeo kính trông rất thông minh và đáng yêu.

Tôi phải năn nỉ muốn gãy lưỡi, cộng với lời hứa dẫn nhỏ Quỳnh đi ăn uống đủ thứ nữa nó mới chịu cho tôi tấm hình cô bé. Có được tấm hình cô bé, tôi thích lắm. Mất cả một buổi sáng chọn chọn, lựa lựa như một ông cụ non khó tính tôi mới mua được một cái khung hình vừa ý. Tôi lồng hình cô bé vào khung hình mới mua rồi đặt lên bàn học, nơi tôi sẽ thấy cô bé hàng giờ mỗi ngày. Nhưng con người ở đời vốn có lòng tham không đáy, được voi đòi tiên, được hình còn muốn đòi... trái tim. Mà muốn có được trái tim cô bé thì trước tiên tôi không có cách nào khác ngoài việc dò hỏi thông tin từ nhỏ Quỳnh.

Tôi dẫn nhỏ Quỳnh đi ăn bún bò trước, sau đó dẫn nó đi ăn kem. Đó là hai món đặc biệt khoái khẩu của nhỏ Quỳnh.

Tôi kiên nhẫn đợi nó “tiêu diệt” xong li kem sôcôla thứ nhất, rồi đến khi nó cầm đến li kem thứ hai tôi mới mở lời:

- Cô bé trong hình đó tên gì vậy? Lần trước xin được tấm hình cô bé làm tôi vui quá nên quên mất cả việc hỏi tên.

- Hiền.

Nó trả lời cụt ngủn rồi tiếp tục “quất” tiếp li kem còn đang ăn dang dở. Tôi đinh ninh nó sẽ kể một lèo về cô bé cho tôi nghe sau câu “gợi ý” của tôi thế mà nó chả thèm nói gì thêm, tôi đành tiếp tục lấy “khẩu cung”:

- Hiền học lớp em à?

Nó ngước nhìn tôi cười cười rồi trả lời dài hơn chút:

- Ừ! Em ăn thêm li nữa nha!

Hừm, vấn đề chính tôi muốn nghe thì nó “khai báo” tiết kiệm lời thế, chỉ vỏn vẹn một chữ, còn vấn đề ăn uống của nó thì nó cứ tuôn ào ào tới sáu chữ lận. Tâm hồn ăn uống cỡ đó thảo nào thân hình nó cứ tròn vo. Tôi đã đoán từ trước rằng cô bé học Đ#ại học Y, nhưng khi nghe nhỏ em tôi khẳng định tôi cũng không kiềm được phấn khích trong lòng:

- “Hiền, bác sĩ Hiền, ôi sao mà tên đẹp thế! Dễ thương thế! Hiền dịu thế! #Đáng yêu thế!”

Tôi khoái trí ngoác miệng ra cười sau một tràng cảm thán. Thật ra lúc đó tôi chỉ nghĩ trong đầu thế thôi chứ có cho tiền tôi cũng chẳng dám thốt ra thành lời trước mặt nhỏ em tôi. Nó mà nghe thấy chắc nó sẽ gán cho tôi biệt hiệu “sến” cũng nên. Nhỏ Quỳnh nhìn cái mặt háo hức của tôi liền đế thêm, rõ ràng từng tiếng một:

- Chị ấy chưa có bạn trai.

Nghe được câu này miệng tôi đang sẵn đà ngoác ra đến tận mang tai luôn vì cười quá đỗi sung sướng. Hình như có luồng gió thổi tôi bay lên trời. Tôi bay bay rồi thấy một ngày kia tôi và cô bé nắm tay nhau đi dạo trên bãi biển, cùng ngắm cảnh mặt trời lặn quê tôi lúc hoàng hôn, rồi ngắm cảnh bình minh của buổi sớm, rồi vân vân và vân vân. Tôi mơ thấy đủ thứ mà thứ nào cũng đầy một màu hồng thơ mộng. Lòng tôi dậy lên lòng yêu mến ngập tràn cô em họ “tròn vo” bé bỏng, tôi tỏ ra mình là người hào phóng với chuyện ăn uống của nhỏ:

- Em ăn thêm cho thỏa thích đi.

Chắc nhỏ Quỳnh cảm động trước tấm lòng của tôi nên nó tỏ vẻ muốn kể tiếp về cô bé. Tôi liền căng tai tập trung tinh thần lắng nghe:

- Chị - Hiền - hơn - anh - hai - tuổi.

Một câu sáu chữ tiếp theo của nhỏ Quỳnh tôi nghe đầy đủ và rất rõ không sót chữ nào. Bị bất ngờ, miệng tôi cứ há hốc. #Đó là một thông tin tôi chả bao giờ muốn khai thác, là một gáo nước lạnh tạt vào đầu khiến tôi giật mình tỉnh mơ, chới với, thẫn thờ. Tôi quên mất rằng nhỏ Quỳnh vốn là đứa tai quái, nãy giờ nhìn cái mặt hí hửng của tôi nó thừa biết tôi đang nghĩ gì. Nó lừa cho tôi “vào tròng” ngon ơ, rồi nhẹ nhàng đập tan ảo tưởng nằm mơ giữa ban ngày của tôi. Nhỏ Quỳnh ác quá, nó nghịch ngợm thổi tâm hồn tôi thành một quả bóng xà phòng đầy màu sắc đẹp lấp lánh dưới ánh nắng ấm áp rồi cũng chính nó lạnh lùng đập cho nổ tung không thương tiếc. Nhưng nó đắc chí không được lâu:

- Ôi dào! Các cụ chả dạy rằng “gái hơn hai, trai hơn một” là gì.

Tôi dẫn chứng một câu tục ngữ được đúc kết từ hàng ngàn năm của các cụ để lại. Rõ ràng không thể cãi vào đâu. Khoái chí với suy nghĩ lạc quan đó, tôi lại nhe răng cười tít mắt tiếp tục mơ mộng về một tương lai gần đầy lãng mạn mà khi nãy tôi đang mơ thì bị nhỏ Quỳnh phá đám. Nhìn kiểu cười hạnh phúc đến nhắm tịt cả hai mắt không còn thấy tổ quốc đâu của tôi nhỏ Quỳnh chỉ còn biết nhún vai chào thua.

2. Sau việc đó tôi “phục thù” lại nhỏ Quỳnh bằng cách dẫn nó đi ăn liên tục, ngoài mục đích khai thác thêm thông tin về cô bé, tôi còn muốn trả đũa nó bằng cách ăn uống này, cho nó đã “tròn” càng “tròn” hơn. Tôi tưởng nó không đoán ra được “âm mưu đen tối” đó của tôi, nhưng tôi đã lầm, nó thông minh hơn tôi tưởng, nó âm thầm sắp đặt kế hoạch “xử đẹp” tôi thêm lần nữa. Nó hẹn cho tôi một buổi gặp mặt cô bé, tôi vui muốn phát điên lên vì sắp được gặp cô bé cho thỏa lòng tương tư của tôi bấy lâu nay mà không biết rằng mình đã thành con “cừu non” cho “con yêu quái” (là nhỏ Quỳnh - em họ tôi ấy) “ăn thịt”.

Tôi liếc nhìn lại mình lần nữa trong gương, rồi leo lên con chiến mã thong thả tới chỗ hẹn với cô bé. Buổi hẹn có tôi, cô bé - nhân vật chính và nhỏ em tôi. Tôi đi sớm cả tiếng đồng hồ, mặc dù từ nhà trọ đến chỗ hẹn chỉ mất có mười lăm phút đạp xe. Tôi vừa đạp xe vừa huýt sáo vang lừng vài bản nhạc vui nhộn. Những hạt nắng tinh nghịch nhảy nhót trên lòng đường, từng cơn gió reo rì rào thổi dọc theo hai hàng cây cao to thẳng tắp đang vươn rộng những tán lá xanh mát. Dòng người đan xen qua lại như cùng biểu diễn một điệu múa tập thể với tiết tấu lúc nhanh lúc chậm hòa vào tiếng còi, tiếng xe nghe thật vui tai. (Cái thứ âm thanh chát chúa từ còi xe làm tôi khó chịu mọi ngày thì nay tôi lại nghe thấy vui ?!) Trong mắt tôi hôm nay, dường như mọi thứ đều đang nhảy múa, hát ca. Thế mới biết tình yêu có mãnh lực ghê gớm thế nào.

- Chào cô bé.

Tôi hí hửng nhe cái răng khểnh “chết người” của tôi ra cười duyên. “Chết người” là vì chưa một cô nàng nào có thể đứng vững trước tôi khi nhìn thấy tôi cười. Nhưng lần này khác, cái “duyên” chưa kịp nở, người cần chết chưa kịp chết tôi đã bị nhỏ em, vốn là một nha sĩ tương lai, thực hành ngay tay nghề cực kì điêu luyện “nhổ” luôn “cái răng - khểnh - chết - người” của tôi rất nhanh và dứt khoát:

- Anh ít tuổi hơn chị Hiền mà dám gọi cô bé.

Sau khi “nhẹ nhàng hạ bệ” tôi, nó vô tư ngồi ăn kem ngon lành. Tôi tức quá nhưng không biết làm gì hơn ngoài việc phóng những cái nhìn “căm hờn” về phía nó mà rủa thầm không tiếc lời. Cả buổi hẹn đó cô bé ngồi nhìn tôi cười tủm tỉm làm tôi chỉ muốn chui tọt xuống đất vì xấu hổ. Cái răng của tôi đúng là “chết người”, nhưng hôm nay người “chết” là tôi chứ không phải cô bé.

Sau lần hẹn hò “bể sô” đó, có lẽ phần vì thấy cái mặt tôi như đưa đám, phần thấy ân hận về việc hành nghề Nha quá “tàn bạo”, nhỏ em tôi mách nước rất nhiều cho tôi và tất nhiên, việc gì đến sẽ đến, những buổi hẹn lãng mạn giữa tôi và cô bé tăng đều đều
 
3. Tôi ôm hộp quà vuông vắn được gói cẩn thận bằng lớp giấy kính, phía trên hộp đính thêm một dải nơ nhỏ màu xanh nhìn khá đẹp mắt. Đ#ây là hộp quà tôi sẽ tặng cho cô bé vào ngày mai - ngày sinh nhật của cô bé. Tôi hài lòng mỉm cười khi nghĩ đến đôi mắt tròn xoe ngạc nhiên và thích thú trên khuôn mặt đáng yêu của cô bé khi mở quà.

Đ#ể có được món quà này, tôi phải lùng sục hơn một tuần nay khắp các tiệm sách trong thành phố. Món quà tôi sẽ tặng cô bé là bộ truyện tranh “Bác sĩ quái dị”. Đ#ây là bộ truyện tranh đã làm tôi say mê nhất khi còn học phổ thông, và cho đến giờ tôi đã đọc đi đọc lại rất nhiều lần nhưng mỗi lần đọc lại tôi vẫn thấy thích thú kì lạ. Tôi rất ngưỡng mộ anh chàng Kijuto, có biệt hiệu “bác sĩ quái dị” với vẻ mặt lạnh lùng nhưng chứa trái tim đôn hậu và một sức sống rất mãnh liệt. Đ#ặc biệt Kijuto là một siêu bác sĩ có tay nghề giỏi nhất thế giới. Tôi còn nhớ rõ cảm giác khi lần đầu tiên đọc một tập truyện tranh này, tôi đã nhảy cẫng lên thích thú như một đứa trẻ được quà. Từ đó tôi luôn mơ ước được trở thành một bác sĩ tài giỏi chữa bệnh cứu người, tôi còn muốn chữa bệnh miễn phí cho người nghèo nữa. Tôi đăng kí thi #Đại học Y, nhưng sức tôi có hạn, thi không đậu nên đành ngậm ngùi theo học một trường khác, vì thế tôi luôn nhìn những sinh viên trường Y bằng ánh mắt đầy khâm phục. Bây giờ người yêu tôi là sinh viên trường Y, khỏi nói cũng biết tôi vui cỡ nào. (Từ lúc tôi có tấm hình của cô bé tôi đã tự “phong chức” cho cô bé là người yêu tôi rồi!)

4. Đường Tăng được Tôn Ngộ Không cùng hai sư đệ là Trư Bát Giới và Sa Tăng hộ tống, trải qua nhiều kiếp nạn mới thỉnh được chân kinh. Còn tôi đơn phương độc mã đi “thỉnh trái tim” cô bé, gặp phải nhỏ em tai quái làm điêu đứng, tưởng đã yên chuyện. Nhưng không ngờ tôi còn phải trải qua cửa ải của thằng bạn cùng phòng nữa, rõ ràng con đường “thỉnh chân tim” của tôi cũng có lắm chông gai. Lần này thằng bạn tôi không học gì liên quan đến Nha khoa nên không “nhổ” tôi cái răng nào (tôi chợt nghĩ nhỏ em tôi mà học Ngoại khoa, đụng chạm dao kéo thì hôm đó chắc nó chả thèm “nhổ” cái răng của tôi mà “cắt bỏ” luôn trái tim tôi quá !), nhưng thằng bạn tôi học luật, lí sự là nhất. Sau một hồi xăm xoi hộp quà, nó nhìn tôi “thâm hiểm” rồi phán rất chi là logic:

- Mày đem tặng em truyện “Bác sĩ quái dị” em lại nghĩ ý mày nói “Em là bác sĩ quái dị” cũng nên.

Câu phán nghe lạnh sống lưng. Tôi tím mặt, định phản bác lại nhưng tôi cứ đứng trơ ra, cứng cả họng. Lại thêm một “tiểu yêu” cản đường tôi, nhưng rõ ràng thằng “yêu quái” này nói có lí. Bỗng chốc mặt tôi đang đỏ tím vì giận chuyển sang ngờ nghệch rồi dừng lại ở vẻ khổ sở nhăn nhó khó coi. Thằng “yêu quái” sau khi “ăn thịt” được tôi thì khoái chí lăn đùng ra mà cười lăn lộn. Đường Tăng ngoài anh em Tôn Ngộ Không còn có cả Bồ Tát giúp trị mấy tên yêu quái cứng đầu chứ tôi bây giờ chả có ai giúp cho một tay, đành trơ mắt nhìn thằng “tiểu yêu” này cười lăn cười bò hả hê mà vô phương trị lại nó. Nghĩ mãi chẳng ra cách giải quyết, tôi lại bực mình, ném cho nó một câu:

- Thằng mắc dịch.

5. Các bạn phải ở trong trường hợp của tôi khi đó mới biết tôi đã khó xử thế nào. Sau lời tiên đoán của thằng bạn về thái độ của nàng dành cho bộ truyện tranh, tôi đành ngậm ngùi gác lại món quà độc đáo, gác lại chàng bác sĩ “quái dị” mà tôi hằng yêu mến để đi tìm một món quà khác. Tôi bước vào một cửa hàng bán thú nhồi bông, loay hoay một hồi tôi đành đi ra. Các bạn biết vì sao không? Vì nếu tôi tặng nàng gấu bông hay chó bông hay gì gì đó bông nhỡ nàng nổi hứng nói tôi coi nàng là gấu mẹ vĩ đại, tệ hại hơn là... chó lông xù thì sao?! Thế là tự dưng công việc mua quà tặng sinh nhật của tôi trở nên muôn vàn khó khăn vất vả. Tôi loay hoay mãi cũng không biết nên chọn quà gì vì mỗi khi cầm xem một món gì tôi đều xét đến khả năng xấu có thể xảy ra...

- Mình ơi!

Ôi, nàng gọi tôi đấy! Chúng tôi đã cưa nhau và có một ngày cưới hạnh phúc và...

- Mình ơi!

- Ơi! Ơi! Anh đây nè!

Tôi vẽ ra viễn cảnh này khi đang ôm quà đến tặng nàng đấy. Bạn nghĩ sao nếu thấy tôi lúc này nhỉ, nếu tôi với nàng cưới nhau thì sao ta? Thôi thì, trước mắt, tôi vẫn có quyền mơ tưởngchút chứ nhỉ?
 
Đó là một cái cây không tên. Có thể là nó cũng có tên, chỉ có điều là tôi không biết. Tôi vốn là một kẻ vô tâm với cây cỏ. Mẹ tôi bảo thế. Có lẽ đúng thế thật.


Dù gì thì cái cây ấy vẫn tồn tại. Nó chưa phải là một cây cổ thụ nhưng đã rất cao và thừa sức che mát cả một khúc hẻm. Nó chưa bao giờ trổ hoa hay ra trái, quanh năm suốt tháng chỉ toàn lá là lá - những mớ tóc lá lòa xòa như nhốt tiếng gió vào bên trong. Mỗi lần đi ngang, tôi đều nghe một âm thanh xào xạc, bình yên đến lạ lùng.

Cái cây ấy trồng trước cửa ngôi nhà số 2 - như vậy, hẳn nhiên là thuộc về ngôi nhà đó. Căn nhà rất đẹp. Cửa sắt trắng và con số 2 vàng chóe gắn trên cái chuông cửa. Bọn con nít rất thích phá cái chuông cửa đó. Một phần vì cái chuông rất to, hai ngón tay cái cùng ấn vào có lẽ cũng vừa, một phần vì tiếng chuông kêu rất vang và dài. Cái chuông cửa đều bị nghịch một cách gần như đều đặn, mỗi ngày hai bận. Nhưng đó là lúc cái chuông mới được gắn. Cái gì rồi cũng nhàm, với lại những người chủ nhà chưa bao giờ lộ diện để la mắng tụi nó như những người hàng xóm khác. Nói một cách rõ ràng, như cách nói của mẹ tôi, cái nhà ấy rất “kín”. Bởi thế, tôi mới không hiểu bằng cách nào cái cây ấy lại to lớn và sum suê như vậy. Đừng nói tưới nước hay bón phân, cái cây kia chưa từng nhận một sự quan tâm nào từ những người chủ của mình. Cái cây tự lớn. Mà cây nào mà chả tự lớn được!

Nhiều khi tôi nghĩ, không chừng lớp đất dưới gốc cây có lẽ nhiều chất bổ dưỡng lắm. Nếu không kẹt lớp xi măng dày cui, chắc tôi đã xúc một miếng đất về nhà coi thử. Cái thân trơn láng, những đường vân mịn và nhỏ trông giống như vân tay. Những chiếc lá to bằng bàn tay, xanh mướt như màu của nắng. Một trong số những thứ mà bác tổ trưởng dân phố rất hài lòng là cái cây này ít khi biết rụng lá. Dù nắng dù mưa, cái màu xanh kéo dài lên tận chân mây vẫn còn nguyên đó.

Bọn nhóc bán vé số cực khoái cái cây. Những cái đầu được cắt tém lẹm, nham nhở như chuột cạp cứ đến trưa là túm tụm lại. Chúng cứ tranh nhau cái quyền được dựa lưng vào thân cây - trong khi thân cây chưa đủ một vòng tay của tôi. Chúng dồn dép vào một góc, đứa nằm đứa ngồi, chọc ghẹo nhau cười lên sằng sặc. Có lần bác tổ trưởng tình cờ đi ngang, nghiêm mặt nhìn hai đứa nhóc đang vật lộn say sưa và đương nhiên có hẳn một đám bu lại, vỗ tay phụ họa. Những lần sau, chúng chỉ dám cười nói khe khẽ, vì sợ bác tổ trưởng kêu công an còng cả đám lại (đó là do bác ấy dọa). Giữa trưa nắng, những tiếng khúc khích bay lên lồng lộng theo gió, vướng vào lá cây, ở mãi trong đó. Bác tổ trưởng, có lần - vì cái tính đa nghi sẵn có của một người già kĩ tính - đã nghĩ bọn nhóc đang tính lập bè phái chi đây (con nít mà cũng lập bè phái được?). Nhưng “người già cũng có khi sai”, bác nói với tôi như thế. Bác vừa cười khà khà vừa kể cho tôi nghe bọn nhóc đã giãy nảy lên làm sao, đã năn nỉ ỉ ôi như thế nào. Đoạn thú vị nhất của câu chuyện là chúng đã tổ chức một buổi lễ long trọng: cả đám vây thành vòng tròn quanh cái cây, từng đứa một... liếm ngón trỏ rồi đặt lên thân cây, cùng thề sẽ là bạn của cái cây mãi mãi. Bác lại cười, “vì chúng nói, cái cây chưa bao giờ từ chối chúng cả”. Gió trượt qua chúng tôi, va vào những khóm lá. Xào xạc. Những cành cây nâu sạm vươn ra, chạm vào cánh cửa sắt trắng. Cái cây ấy chưa bao giờ từ chối ai cả. Tôi tự cười một mình, thấy mình cũng mềm lòng như con gái.

Ngôi nhà có cánh cửa sắt trắng bị bán. Mọi chuyện xảy ra rất đột ngột. Một buổi sáng, cả hẻm ngỡ ngàng nhìn một tốp thợ xây đang tháo dỡ căn nhà. Khác hoàn toàn với người hàng xóm cũ (mà tôi chỉ nhớ mặt mỗi cô con gái út), người hàng xóm mới rất vui vẻ và thân thiện. Ông ta đến từng nhà để chào hỏi, và có khi nán lại nói chuyện huyên thuyên như thể đã quen thân lâu lắm rồi. Ai nấy đều kết luận: một con người dễ mến. Ngôi nhà đổi chủ, cái cây cũng đổi chủ theo. Con người dễ mến ấy thường nhìn cái cây rất lâu. Tôi không cho là ông ta thích ngắm nó. Chẳng ai vừa ngắm cây cảnh vừa nhăn mày nhíu trán cả. Đôi khi, tôi tự thấy mình cũng thật tò mò khi cứ nhìn ngó sang chuyện người khác. Tôi biết thế nên thôi, không để ý nữa.

Vài ngày sau, tình cờ - chỉ là tình cờ thôi, tôi phát hiện bóng râm của cái cây bị thu hẹp lại đáng kể. Con hẻm tự nhiên sáng trưng và nóng nóng thế nào. Có vẻ như những người thợ đã tỉa bớt một vài nhánh. Cũng khó trách. Trước giờ cái cây cứ như mọc hoang, cành lá mọc tứ tung, um tùm trông giống một cái đầu ổ quạ, nhiều năm chưa chải. Cắt rồi trông nó lại như đầu húi cui, nhìn thấy cứ trống trống. Mà bọn nhóc cũng không đến nghỉ trưa dưới bóng cây nữa. Thay vào đó là những người thợ. “Tụi nó bị cấm” - bác tổ trưởng thở dài nghe não ruột - “Cả đám khóc um sùm cả lên, cản bằng được không cho ai tỉa cây. Ông thợ cả bực quá nên đuổi chúng đi rồi!”. Tôi không nói gì, trong đầu tưởng tượng ra khung cảnh lúc ấy. Lòng vẫn thấy tỉnh như không.

Gió lăn dài trên mái nhà, hụt hẫng rơi vào trong nắng. Nắng nóng rát cả mặt.

Cái cây bắt đầu rụng lá. Những cái lá vàng sạm, khô quắt khô queo, rơi độp xuống nền xi măng.

Tôi thường thức khuya. Nhà trong hẻm, nên đêm cực kì yên tĩnh. Chỉ có tiếng gió xào xạc, tiếng mèo hoang rượt đuổi nhau trên mái nhà (âm thanh này thường khá ồn và rất... gay cấn), thỉnh thoảng có vài tiếng động cơ chạy rề rề hay tiếng người bán tàu hủ rao lảnh lót. Phòng tôi tắt đèn hết, chỉ chừa một cây đèn bàn nhỏ - để tiết kiệm nhưng chủ yếu là để trông có vẻ... trí thức.

Tối nay cũng vậy, tôi lại thức khuya. Một tiếng “bịch” nhỏ vang lên làm tôi giật mình. Hình như có cả tiếng bước chân, tiếng thì thầm khe khẽ. Tôi vội tắt đèn, chạy lại phía cửa sổ. Mắt tôi nhanh chóng quen dần với bóng tối. Những cái bóng nhỏ loắt choắt đang tụm lại dưới gốc cái cây cao lớn nọ. Bất chợt tôi phì cười. Là bọn nhóc ấy. Chúng đang lén lút làm một cái việc mà bình thường người ta sẽ đợi lúc trời sáng mới làm: chúng lôi từ đâu hai, ba xô nước, tưới nhè nhẹ vào gốc cây. Sau khi tưới xong, tụi nhóc lật úp mấy cái xô lại. Tên cao nhất bước lên cái xô, móc từ trong túi một vật nằng nặng, trông hơi giống một cây kềm, rồi dùng hết sức mình, cố gỡ cái gì đó trên thân cây. Nó ngã nhào ra, may mà có vài đứa đứng sẵn ở phía sau đỡ kịp. Tôi nhớ lúc sáng, có một anh thợ đã đóng một cái đinh khá to lên thân cây để mắc áo. Tôi còn nhớ rõ khuôn mặt thích thú của anh ta như thể vừa phát minh ra cái gì ghê gớm lắm. Lúc ấy tôi chỉ nghĩ, nếu anh ta mà là con của mẹ tôi, hẳn là sẽ bị la một trận vì tội “phá hoại cây xanh”. Còn bây giờ, bọn nhóc có vẻ rất vui. Tên nhóc lúc nãy hí hửng vứt cây đinh vào một góc. Một cái bóng khác lại bước lên cái xô. Tôi không biết nó làm gì - trời cũng hơi tối - chỉ nghe một tiếng nói nho nhỏ, rồi cả đám tự nhiên đứng yên một hồi lâu.

Chúng rút đi rất nhanh. Con hẻm lại vắng vẻ như cũ. Gió lại rì rào. Tôi quay trở vào. Tiếng mèo hoang rên rỉ tỉ tê nghe như tiếng con nít khóc đêm.

Sáng hôm sau, tôi cố tình đi học thật sớm. Hơi gió ướt đẫm sương, lạnh cóng. Tôi đạp xe chầm chậm ngang qua cái cây. Và bạn ơi, bạn biết tôi đã thấy gì không? Một cái băng keo cá nhân còn mới nguyên nằm lạc lõng trên lớp vỏ cây. Tôi không hiểu sao tim tôi bỗng thắt lại và tôi cứ mang con tim đó, phóng xe như bay suốt con đường đến trường...

Nghe đâu, người chủ mới bảo rằng cái cây không được hợp phong thủy cho lắm. Thế là chặt cây đào gốc lên. Con người ta có khi tàn nhẫn thật. Một cái cây như thế, một bóng mát như thế... Người chủ mới tỏ vẻ rất hài lòng nhìn cái cây đang dần biến mất. Ông cũng có hơi cau mày một chút khi thấy những người thợ phải rất vất vả khi đào những cái rễ cứng đã đâm rất sâu vào lòng đất. Một phần rễ đành bỏ lại. Những người thợ cố gắng bù đắp thiếu sót bằng cách lấp lại chỗ gốc cây rất kĩ lưỡng. Mọi việc hoàn hảo đến nỗi, nếu không tính chỗ nền xi măng bị nứt vì rễ cây ở dưới thì cái nơi từng có một cái cây kia trông phẳng lì. Một cái xe ba gác được gọi đến. Những thứ gì thuộc về cái cây sẽ được chở ra bãi rác.

Có một câu chuyện được kể lại rằng:

Khi ra khỏi con hẻm một quãng, người đạp xe ba gác già bị một đám nhóc níu lại. Một đứa thầm thì điều gì đó vào tai ông. Một chút lòng trắc ẩn. Người đàn ông gật đầu. Và con người này, sau đó cứ khăng khăng nhắc cho tôi nhớ là những việc ông sắp kể là chuyện có thật. Từng đứa, từng đứa một giở nón, đặt nhẹ nhàng lên đống cây những chùm hoa dại màu trắng -những bông hoa nhỏ xíu, không tên như chính cái cây ấy, như chính những đứa trẻ ấy. Khóe mắt người đàn ông cay xè. Bọn trẻ đi theo chiếc xe rất lâu, đến khi có một đứa giữ cả đám lại. Người đàn ông nghe một tiếng khóc nấc lên đằng sau. Những vòng xe nặng nề rốt cuộc cũng lẫn vào đám đông.

Gió lần mò bước nhẹ. Không còn nghe tiếng xào xạc nào nữa.
 
Khi lắng nghe bạn nói, hơn bao giờ hết tôi chợt nhận ra rằng tình yêu nơi người bạn đời của mình đã mang đến cho tôi sự giàu có hơn bất cứ thứ vật chất nào mà một người đàn ông có thể đem lại cho tôi.


“Cô bạn thân nói về tiêu chuẩn chọn người yêu của mình: Giàu có. Đối với nhỏ không có tiền sẽ không có hạnh phúc vì chẳng lẽ mỗi lần đi chơi lại uống nước mía, ăn mì gõ mãi. Tóm tại tiền bạc = hạnh phúc.

Lúc đầu tôi cũng cho rằng bạn mình cũng có lý và giận anh vì anh không mua những món quà tôi thích vào dịp lễ. Anh xin lỗi và giải thích vì tháng này tiền ba mẹ gửi vào anh phải mua sách học hết rồi. Mặc dù biết tiền hàng tháng ba mẹ gửi vào cho anh chỉ vừa đủ đến thiếu nhưng tôi vẫn trách anh và nghĩ rằng sẽ hạnh phúc hơn nếu anh là một người giàu có.

Đến khi đọc câu chuyện Người đàn bà giàu nhất thế giới (*), tôi cảm thấy mình thật thiếu sót khi không biết quý những gì đang có. Những gì anh dành cho tôi còn đáng quý hơn những món quà đắt tiền biết bao. Khi học phổ thông, biết tôi yếu môn tự nhiên, anh đã tranh thủ những ngày nghỉ cuối tuần để lên giảng lại cho tôi dù đoạn đường từ chỗ anh đến tôi gần 20 cây số bất kể hôm ấy trời mưa dầm hay nắng gắt. Học trò đói bụng, thầy chạy đi mua sữa hay cái bánh ngọt vì “có thực mới vực được đạo”. Có gì tôi cũng kể cho anh nghe. Từ lâu tôi đã quen với sự có mặt của anh trong cuộc sống...

Tôi biết anh thương nhưng vẫn hay trách. Anh chỉ nhẹ nhàng đáp: “Ngày nào anh cũng nghĩ về em chứ không riêng gì ngày lễ." Anh là vậy. Sau này khi gặp cô bạn thân, nghe tôi kể về anh, bạn tôi bảo rằng: “Hãy giữ lấy những gì mình đang có đi mày ạ. Mình thà đổi chiếc điện thoại đời mới của người ta tặng để có người ta bên cạnh.”

Cám ơn anh, cám ơn câu chuyện, cám ơn cả cô bạn đã giúp tôi hiểu được hạnh phúc đích thực là gì. Dù nhiều tiền đến đâu cũng không thể mua được những buổi tối cuối tuần bên anh thả hồn theo những bản nhạc bất hủ, nhâm nhi li tách trà nóng. Không thể mua được chữ “Tâm” anh cố tập viết thư pháp tặng tôi và càng không thể mua được những gì anh đã dành cho tôi.
 
Những ngày trời ngả vào xuân, lành lạnh. Ở những con phố nhỏ, ánh lửa rừng rực của những người bán bánh xèo miền Trung làm ấm cả một góc đường. Làm ấm rất nhiều hoài niệm.


Ngày xưa, sớm mai của bà tôi bắt đầu bằng bếp lửa. Lửa nhảy múa trong buổi sáng tờ mờ. Nồi cơm sôi ùng ục. Không biết vì củi tre cháy lớn hay để hòa cùng điệu cơm sôi, có những lúc lửa reo phần phật.

Những lúc ấy, tôi lại nghe bà lẩm bẩm một mình: chắc là hôm nay có khách. Chắc bà lại mong cậu về ăn Tết. Những người nói gì bâng quơ một mình bên bếp lửa dễ làm người ta xao lòng. Tôi không nằm quấn mền nướng thêm được nữa. Trở dậy, lò dò đi xuống bếp, bao giờ tôi cũng nắm một nắm muối hột, ném vào lửa nghe những tiếng nổ bép bép, mặc cho bà càu nhàu. Bà khi nào cũng càu nhàu. Tôi hơ bàn tay trên bếp, vừa xuýt xoa áp vào má mình rồi áp vào tay bà. Cái lạnh dịu hẳn lại. Bài học thuộc lòng hồi đó của tôi cũng là một bếp lửa hồng, một tiếng gà, tiếng cơm sôi và cả tiếng nói của “nhành cau im phăng phắc”. Khi có người già, không hiểu sao bếp lúc nào cũng ấm. Xuống bếp bao giờ cũng thấy khi là nồi cơm, khi ấm nước, khi trái bắp nướng, khi trả muối rang, có khi là bánh tráng nướng vàng.

Những khi không lửa, vẫn thấy cục than hồng ủ trong tro nóng. Chỉ cần bỏ vào một dúm dăm bào, hay vài que củi nhỏ, một đứa bé như tôi hồi đó - và như tôi bây giờ cũng có thể làm bùng lên một bếp lửa mới. Dĩ nhiên với bếp điện, bếp ga, lò vui ba hiện đại... việc nhen một bếp lửa đơn giản hơn nhiều. Nhưng việc giữ một ngọn lửa trong nhà, trong tim đã là chuyện khó khăn. Có lẽ thế mà các bếp nhà cũng lạnh hơn. Chỉ nóng lên khi cần. Các căn bếp khang trang hơn, ít lem luốc hơn, nhưng thiếu đi mùi khói bếp thong thả bay lên từ những nóc nhà buổi chiều lam, thiếu những cô bé tên là bé Lọ, thiếu ba ông đầu rau bập bùng nồi bánh tét, soi cả khu vườn đêm ba mươi tết, thiếu những ánh mắt trẻ thơ ngái ngủ mà vẫn đòi ngồi canh. Và thừa ra nhưng đêm ba mươi rất dài, thừa ra những người ngồi bên nhau không biết nói gì vì không còn cả những que củi chụm vào bếp cho đỡ lóng ngóng bàn tay, thừa ra cả những chú mèo không biết bếp ở đâu để cuộn tròn biếng lười nhơ thuở trước...

Cũng may, không cứ phải lớn lên ở một vùng quê heo hút vắng vẻ mới biết quí yêu bếp lửa hồng. Cũng may, vẫn còn có ngày ba mươi ông Táo về trời - để người ta nhớ ra gian bếp nhà mình. Những mẹ chồng coi mắt nàng dâu vẫn cứ nhìn vào bếp. Mẹ chiều ba, chị chiều anh vẫn đều đặn vào bếp nấu ăn ít nhất là hai ngày cuối tuần. Những cô cậu bé con lại loanh quanh và líu lo hỏi han đây là con cá gì, đây là rau gì, trái gì... Những mẩu quảng cáo trên ti vi vẫn còn sự quây quần bên bếp lửa, đủ để thèm một không khí gia đình. Những quán sang trọng vẫn dành một góc cho thực khách gọi món, ngắm người đầu bếp “ra tay” và ăn ngay tại chỗ - bên bếp lửa hừng hực nóng... Và nghĩa là bếp lửa hồn quê vẫn còn theo một kiểu nào đó phù hợp với đời sống thị thành. Và như thế nghĩa là người ta vẫn còn một chỗ để hơ đôi bàn tay mệt mỏi, vẫn còn chỗ để sum vầy, để hoài niệm, và hi vọng...
 
Đã ba lần chọn tên anh trên điện thoại nhưng Thụy Du lại không thể bấm nút gọi. Cầm lên rồi lại để xuống. Chiếc điện thoại giờ đây như một vật giúp đôi bàn tay Du khỏi nhàn rỗi khi cái đầu cứ miên man nhớ về anh.


Du không đủ can đảm bấm nút gọi vì sợ máy sẽ báo bị từ chối cuộc gọi hoặc nghe nhạc chờ đến chán thì thôi. Lúc trước, mỗi lần muốn nghe bài “Anh sẽ đến”, Du phải nhắn tin bảo anh đừng nhấc máy vì hễ thấy số Du là anh vội vàng alô ngay dù lúc ấy đã qua 12h đêm.

Tính đến thời điểm này thì Thụy Du và anh quen nhau đã được 11 tháng. Một buổi tối lãng mạn trong quán cafe nhạc nhè nhẹ. Ánh nến, ánh đèn vàng lung linh huyền ảo đủ để Du nhìn thấy đôi mắt một mí của anh sau cặp kính cận gọng đen, hàm răng trắng đều như bắp. Lũ bạn thường ghẹo: “Đào đâu ra anh chàng Hàn Quốc thế?”. Thụy Du tưởng tượng ra buổi tối kỉ niệm một năm ngày quen nhau của hai đứa, đã tìm được quán cafe đúng như yêu cầu của mình và định giữ bí mật đến phút 89. Đúng hôm ấy mới dẫn anh đi cho bất ngờ.

Ngày hôm ấy cũng đến. Anh mặc chiếc áo sơ mi xanh, đi giày Tây trông rất lịch sự. Có lẽ mode này sẽ bị bọn bạn cùng tuổi chê già nhưng trong mắt Thụy Du, thế là đẹp. Theo Du, kiểu thời trang quần jeans bạc phếch, áo rộng thùng thình chỉ dành cho mấy nhóc choai choai thôi. Còn anh là anh, là sinh viên một trường đại học có tiếng hẳn hoi cơ mà. Anh đến đón Du bằng chiếc Atilla mới cáu, món quà ba má thưởng khi anh đậu đại học.

Buổi tiệc diễn ra đúng như kịch bản của Thụy Du. Anh ngồi im nghe Du thao thao bất tuyệt ôn lại kỉ niệm cả năm qua của hai đứa, bí mật những “chuyện bây giờ mới kể” của Du. Nào là buổi hẹn hò đầu tiên, Thụy Du đã lục tung tủ đồ để tìm bộ cánh đẹp nhất, nào là Du rất giận khi một chiều cuối tuần anh không đến vì mãi lo tìm những bài hát Du thích, chép thành đĩa mà quên cả thời gian. Thỉnh thoảng anh lại đưa tay đẩy cặp kính gọng đen, tỏ vẻ tập trung nghe Thụy Du. Anh vốn là người ít nói nên đều này cũng đương nhiên. Chỉ có thêm phần cuối không có trong bản kế hoạch khi Du thông báo:

- Em thấy là lạ trong người. Đã đi khám và bác sĩ bảo là….

Anh thay đổi sắc mặt, thoáng chút bối rối và trở nên nói nhiều hơn như một nhà hùng biện tài tình. Anh phân tích, đưa ra rất nhiều tình huống, và khuyên bảo nhiều nhiều lắm. Nhưng tóm lại là anh khuyên Thụy Du nên bỏ nó đi vì anh, vì Du và vì tương lai hai đứa. Thụy Du chỉ biết im lặng nghe. Chẳng hiểu từ đâu hai hàng nước mắt lăn nhẹ trên đôi gò má. Anh lau nước mắt và nhỏ nhẹ khuyến mãi thêm một câu: “Nếu em không đồng ý, chắc chúng ta không thể gặp nhau được nữa đâu”. Du ngạc nhiên ngước mắt nhìn anh trân trân. May mà anh kịp chuyển hướng nhìn ra ngoài cửa sổ.

***

Từ bãi giữ xe, lần mò mãi Thụy cũng đến khoa kế hoạch hóa của một bệnh viên phụ sản nổi tiếng. Du có cảm giác như mọi người đều nhìn vào mình và hiểu sự lí do sự có mặt của cô ở đây. Người Du lạnh toát, mồ hôi như tắm khi thấy chị điều dưỡng đẩy băng ca một bạn gái ngang qua. Thế là một đứa bé ra đi khi chưa có ngày sinh nhật cho riêng mình. Chợt Du nghĩ đến đứa bé trong bụng mình. Nó cũng sẽ như người bạn xấu số kia thôi.

Cánh cửa lạnh ngắt mở ra, hơi lạnh phà vào người Thụy Du. Tiếng dụng cụ kim loại lách cách va vào nhau khiến Du nổi da gà, rợn tóc gáy. Du nghĩ: Chỉ ít phút nữa thôi, mình sẽ như cô bạn gái kia, nằm trên băng ca có người đẩy và cả những ánh mắt soi mói của những người xung quanh dù họ cùng cảnh ngộ như mình.

Giá như trước kia Thụy Du cứng rắn hơn một chút, đừng xiêu lòng trước những lời ngọt như mía lùi của anh thì đâu đến nỗi. Tất cả cũng vì sợ mất anh, sợ anh sẽ ra đi và đó là cách duy nhất Du có thể làm để giữ anh lại bên mình dù rất mong manh. Lúc ấy, anh đã trấn an và bảo: “Không sao đâu. Còn có anh mà. Anh sẽ luôn bên cạnh em”. Dù rất sợ nhưng tin lời anh, Du đành nhắm mắt mặc cho số phận với hi vọng anh sẽ cảm động và yêu Du nhiều hơn. Vậy mà cách đây hai hôm, Thụy Du nhắn tin nhờ anh đưa đến bệnh viện nhưng anh không trả lời. Mãi đến tối, anh mới nhắn lại:

- Em đi một mình đi. Anh bận rồi.

Một dòng nước mắt chảy ra nơi khóe mắt Thụy Du khi nghĩ đến anh, nghĩ đến những kỉ niệm xưa và cả đứa bé xấu số sắp ra đi. “Hổ giữ còn không ăn thịt con” chứ huống chi là con người. Du tự trách: mình đúng là người mẹ dã man độc ác và vô nhân đạo.

- Nguyễn Dương Thụy Du số 19.

Tiếng cô y tá cắt ngang dòng suy nghĩ của Thụy Du. “Đã đến lượt mình rồi sao”: Du giật mình. Trước khi vào phòng, Thụy Du lấy điện thoại gọi anh và: “Thuê bao quý khách vừa gọi hiện không liên lạc được. Xin quý khách vui lòng gọi lại sau”. Ừh thì gọi lại sau nhưng ích gì. Thế là đủ hiểu rồi. Từ tối hôm kia, sau khi nhận tin nhắn đến giờ Du đều nghe câu ấy. Nghe đến nỗi thuộc luôn mà. Có khi nào anh để điện thoại hết pin cả ngày đâu. Du quẹt nhẹ dòng nước mắt, lủi thủi bước theo cô y tá. Đã qua rồi. Tất cả chỉ là giấc mơ. Một giấc mơ đẹp bên anh. Còn giờ, trước mắt Thụy Du là cánh cửa phòng tiểu phẫu. Đó là sự thật.

***

“Tình yêu trong lành nhất thế gian, nở cách hoa mềm giữa tuyết lan. Em đang lặng nghe tim mình lên tiếng, ngân nga hoài câu trìu mến….” (Nhạc chuông điện thoại Thụy Du reo lên)

- Alô, bé hả? Em dậy chưa? Cho anh… anh xin lỗi chuyện hôm qua nhé! Chẳng hiểu sao lúc ấy anh không kiềm chế được lại xử sự như thế. Anh hư quá phải không? May mà có em tỉnh táo. Chứ không thì giờ ân hận lắm rồi. Tối qua về, anh cứ trằn trọc mãi, thấy có lỗi với em quá! Anh chợt nhận ra rằng: “Rượu trong mới giữ được lâu”. Tha lỗi cho anh em nhé! Anh hứa sẽ giữ cho tình yêu của mình trong như nước tinh khiết. Em chịu không?

Thụy Du dụi mắt, định thần lại và cố nhớ mọi chuyện. Ôi, thì ra Thụy Du đang nằm mơ, một cơn ác mộng kinh hoàng. Giữa Thụy Du và anh vẫn hổng có gì hết trơn. Vẫn là “tình yêu trong lành nhất thế gian” mà. May quá! Chỉ là mơ
 
Vào quán uống nước, em luôn gọi café đen, anh luôn gọi café sữa. Người ta mang nước ra, luôn luôn nhầm lẫn. Anh café đen. Em café sữa.

Em nhanh tay đổi hai món. Người bồi bàn đứng ngẩn ra, mặt đầy vẻ thắc mắc. Anh cười trừ. Đợi người ta đi, anh trách: “Sao không để người ta đi rồi em hãy đổi? Làm mất mặt anh quá!” Em cười phá lên: “Đằng nào cũng vậy. Đâu có gì mắc cỡ!”.


Em con gái mà lại thích café đen. Anh con trai nhưng rất thích café sữa.


Em bảo café đen nguyên chất, tuy đắng nhưng uống rồi sẽ mang lại dư vị, mà nếu pha thêm sữa thì sẽ chẳng còn cảm giác café nữa. Anh bảo café cho thêm tí sữa sẽ đậm mùi café hơn, lại còn cảm giác ngọt ngào của sữa… Anh và em luôn thế. Khác nhau hoàn toàn.

Anh và em không yêu nhau. Đơn giản chỉ là bạn bè. Mà không, trên bạn bè một chút. Gần giống như tình anh em. Nhưng em không chịu làm em gái anh. Em bảo, em gái có vẻ phụ thuộc vào anh trai, có vẻ yếu đuối, có vẻ… hàng trăm cái “có vẻ” và em không đồng tình. Anh cũng không muốn anh là anh trai của em. Anh trai suốt ngày phải lo cho em gái, bị nhõng nhẽo, vòi vĩnh đủ thứ. Anh không thể kiên nhẫn.

Lâu lâu em hẹn anh ra ngoài đi uống café. Em café đen, anh café sữa. Thỉnh thoảng buồn buồn anh lôi em đi vòng vòng, rốt cuộc cũng đến quán nước. Anh café sữa. Em café đen.

Anh có bạn gái. Bạn gái anh xinh xắn, rất dịu dàng, nữ tính. Đi với anh giống như một con thỏ non yếu ớt. Anh tự hào bảo, cô ấy không “ba gai”, bướng bỉnh như em.


Em có bạn trai. Bạn trai em đẹp trai, ga lăng, luôn chiều chuộng em. Đi với em, anh ấy không bao giờ khiến em tức chết. Em kiêu hãnh khoe, anh ấy thực sự là chỗ dựa vững chắc.

Hai cặp thỉnh thoảng gặp nhau. Em vẫn café đen. Anh luôn café sữa. Bạn trai em nói, anh đổi ly cho em. Em không chịu, café đen là sở thích của em. Bạn gái anh thắc mắc, anh không uống café đen như những người con trai khác. Anh nhún vai, café sữa hợp khẩu vị với anh. Trong lúc nói chuyện, thường thường anh và em vẫn cãi nhau. Bạn trai em luôn là người hòa giải. Bạn gái anh dịu dàng nói anh phải biết nhường nhịn con gái.


Cuối cùng anh là anh. Em vẫn là em.

Anh chia tay bạn gái. Cũng có thời gian chông chênh. Nhưng anh không hối tiếc. Anh và cô căn bản không hợp nhau. Dù cô ra sức chiều chuộng anh, nhưng anh vẫn thấy thiếu thiếu cá tính gì đó. Mà cá tính thiếu ấy mới thật sự hấp dẫn anh.

Em chia tay bạn trai. Có một lúc cảm thấy trống vắng. Nhưng em không hối hận. Em và bạn trai không tìm được tiếng nói chung. Dù anh ấy không khiến em bực mình, ít khi gây sự với em. Nhưng em vẫn thấy thiếu thiếu. Mà “thiếu thiếu” ấy làm em chán nản.

Anh và em không hẹn mà gặp nhau ở quán café cũ. Em gọi café đen. Anh gọi café sữa.

Người bồi đã quen với hai người. Anh ta không để nhầm chỗ nữa. Anh yên lặng. Em cũng không nói. Đợi người bồi đi, anh kéo ly café đen về phía mình, đẩy ly café sữa về phía em. Hôm đó hai người uống thử “khẩu vị” của người kia. Đêm ấy, anh nhắn tin cho em “Café đen hay thật! Anh bắt đầu thấy thích nó!”. Em nhắn tin lại cho anh “Café thêm sữa cũng rất tuyệt vời. Em sẽ uống café sữa…” Sau đó em và anh luôn đi cùng nhau, bất luận ở đâu, em cũng luôn gọi café sữa cho em và không quên gọi café đen cho anh…

Café đen hay café sữa đều là café, phải không? Tình yêu đắng hay tình yêu ngọt đều là tình yêu
 
Ở ngay phía trước mảnh vườn nhỏ nhà tôi là nhà chị Là, ngôi nhà ngói ba gian của xã cấp cho. Nghe mẹ tôi kể thì nhà chị gồm bốn người: bố mẹ và hai anh em chị. Hai người đàn ông đều đã chết trong chiến tranh, để lại hai người đàn bà sống lay lắt trong ngôi nhà nhỏ.

Những ngày lễ tết, ngày 27-7 có rất nhiều cán bộ xã, huyện đến thăm mẹ con chị.

Chị Là càng lớn trông càng xinh. Nghe mấy anh trai làng kháo nhau như vậy. Tôi chẳng biết chị có xinh thật không nhưng tôi thấy chị thật hiền, ít nói và ít giao tiếp với bên ngoài. Mặc dầu vậy tôi cũng không thích chị lắm. Chỉ có điều là mái tóc của chị sao mà nó dài thế, dài hơn cả tóc của bà nội tôi. Cũng không biết từ bao giờ tôi lại sinh ra cái tính hay nhìn trộm tóc chị.

Một hôm, đang học bài chợt tôi ngửi thấy thoang thoảng mùi lá sả, lá chanh lẫn với bồ kết. Chắc là có ai gội đầu, tôi đoán thế và ngước mắt nhìn sang giếng nhà chị Là. Lòng tôi xốn xang, đúng là chị Là đang gội đầu. Chao ôi! Sao mà đẹp đến thế. Đó mới thật là suối tóc. Chị Là múc nước giếng trong ở chậu, xối lên tóc. Đột nhiên chị đứng dậy, thân người chị như bị níu xuống bởi mái tóc dài. Những giọt nước chảy tong tong từ tóc chị Là làm cho những sợi tóc đã thẳng càng thẳng hơn và đen bóng. Tôi ngây người chẳng còn biết quyển sách giở đến trang nào. Chị Là vuốt tóc cho nước chảy hết rồi tẻ sang hai bên, chợt giật mình khi nhận ra tôi.

- Ô, Quân!

Tôi sực tỉnh bối rối:

- Chị!

- Học bài à?

- Vâng! - tôi trả lời rồi cúi xuống trang sách.

Từ đó, cứ mỗi lần biết chị gội đầu, tôi lại vác ghế ra vườn học bài để được chiêm ngưỡng mái tóc kỳ diệu ấy.

Nhưng tôi hãy còn là một thằng con trai vô tư và hiếu kỳ. Tuy rất mê mái tóc chị, nhưng tôi không thích chị lắm. Con người ấy cứ hiền hiền tồi tội làm tôi rất khó chịu, vả lại tôi cũng có hiểu gì về chị đâu. Vì thế tôi tích cực tham gia các trò nghịch ngợm của đám trẻ trong làng.

Nhiều lần thấy chị Là xắn quần lội xuống ao vớt bèo cho heo. Cái ao ngăn cách giữa làng trên và làng dưới được dùng để nuôi cá và cấy rau muống. Mùa hè bèo cám nổi lên dày đặc lẫn vào rau. Chị Là mang rổ nhựa xuống vớt, đầy rổ lại đổ ập vào chiếc giành bên cạnh. Bọn trẻ chúng tôi tiến xuống sát mép bờ, im lặng mỗi đứa cầm mỗi viên gạch. Tôi cầm viên to nhất bất thình lình ném bùm xuống ao nơi chị đang vóc bèo, rồi la lớn: “Có cá, chị Là!”. Nước bắn tung tóe vào mặt, vào áo của chị. Chị ngước lên nhìn chúng tôi, im lặng rồi lại cúi xuống tiếp tục vớt bèo. Bọn tôi đứng trên bờ nhìn xuống khoái trí cười hềnh hệch.

Nếu chị Là quát tháo, chắc bọn tôi sẽ sợ và không dám chọc chị nữa. Đằng này chị lại im lặng. Sự im lặng kéo dài đáng thương càng kích thích chúng tôi tiến đến những trò quái quỉ.

Lần đó là lần cuối cùng tôi chọc chị Là. Và cho đến bây giờ cứ mỗi khi nhớ đến trong tôi lại có cảm giác tội lỗi và ân hận.

Một buổi chiều tháng bảy trời mênh mông nắng. Cánh đồng lúa đang thì con gái xào xạc trong gió chiều. Lũ bạn tôi cùng mấy anh thanh niên thả bò ở một gò đất cao có nhiều cỏ mọc rồi ngồi xúm lại dưới những tán bạch đàn tán dóc. Đang huyên thuyên những chuyện trên trời dưới đất, chợt một anh chuyển đề tài:

- Chị Là có người yêu chưa Quân?




- Anh hỏi làm gì? Em chẳng quan tâm.

- Ơ cái thằng này, mày ở gần nhà, làm mai cho anh nhé!

- Làm mai? Anh có đùa không đấy? Lấy vợ mà lấy chị ta thì thà lấy bức tượng còn hơn - tôi nói bằng giọng giễu cợt rồi ngoảnh mặt đi chỗ khác. Bỗng tôi phát hiện ra chị Là đang khom người mò hến dưới cái mương xăm xắp nước bên đường cách chúng tôi không xa lắm.

- Ơ, hình như chị Là kìa - tôi vừa nói vừa lấy ngón tay trỏ chỉ hướng.

Mấy anh thanh niên ngó nhìn rồi một anh thách thức:

- Anh đố đứa nào làm cho Là khóc đấy?

- Để em.

Tôi nhặt lấy một viên gạch bằng nắm tay rồi nhón chân tiến đến sát chỗ chị. Bàn tay tôi nắm chặt viên gạch giơ cao lên rồi lấy hết sức ném mạnh xuống chỗ phía trước mặt chị. Bất giác chị Là tiến lên một bước. Chết rồi! Viên gạch rơi trúng đầu chị, một dòng máu đỏ rỉ ra. Tôi bối rối hoảng sợ khi thấy chị ngẩng mặt lên rồi lại gục xuống.

Mọi người nháo nhác đưa chị vào bệnh viện. Còn tôi bị một trận đòn chí tử và những lời giáo huấn của bố mẹ. Tôi vào bệnh viện thăm chị Là, thấy chị vẫn chưa tỉnh, tôi ra ngồi ở hành lang. Nghe mấy ông bác sĩ bàn sẽ cắt bỏ mái tóc của chị, tôi giật nảy người và vội chạy đến:

- Không được! Các bác không được cắt tóc của chị Là. Chị ấy bảo với cháu sẽ không bao giờ cắt tóc vì nếu thế thì người yêu của chị sẽ bỏ chị mất…

Trong lúc hoảng hốt tôi nói bừa vậy thôi, ai dè lại làm mủi lòng mấy ông bác sĩ và tôi đã cứu được mái tóc cho chị.

Ngày chị lành bệnh tôi cùng bố mẹ sang tạ lỗi. Khi bố mẹ đã về, tôi còn ngồi nán lại. Chị Là nhìn tôi cười:

- Lúc này trông Quân hiền dữ.

Tôi len lén nhìn chị.

- Chị không giận em ư?

- Có. Nhưng hết rồi. Mà chị bảo này, từ nay Quân đừng nghịch dại như thế nữa, nguy hiểm lắm đấy, em rõ chưa!

Tôi lúng túng, mắt như chực khóc. Lần đầu tiên chị nói chuyện với tôi thân mật, dịu dàng như nói với đứa em trai. Sao chị lại độ lượng đến thế? Nếu là tôi, tôi sẽ la mắng, chửi rủa ầm ĩ lên rồi.

Vài tháng sau chị Là lấy chồng. Chồng của chị là một chú thương binh ở làng dưới. Tôi cứ thắc mắc mãi sao có nhiều người yêu chị thật lòng mà chị không chọn, lại chọn một anh bị cụt chân? Điều đó thực tình tôi không hiểu được. Nhưng tôi cũng chẳng hỏi vì đó là chuyện của người lớn, tôi còn nhỏ quan tâm làm gì.

Buổi tối cuối cùng trước ngày cưới, khi mọi người đã về hết, tôi mới xách chùm bồ kết chạy sang nhà chị. Tôi kéo chị ra một góc:

- Chị Là, em có quà cưới cho chị này!

Tôi giơ chùm bồ kết lên. Bỗng nhiên mắt chị Là nhòa lệ, chị đón lấy rồi kéo tôi vào lòng. Tôi cũng khóc theo
 
Phạm Ngọc Tiến sinh năm 1956 tại Hà Nội, Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện làm việc tại Hãng phim Truyền hình Việt Nam. Đã xuất bản 7 tập truyện ngắn, tiểu thuyết. Viết kịch bản phim: "Chuyện làng Nhô", "Đất và người"...

Dạo này chị hay đứng trước gương. Nhiều đến nỗi, chưa bao giờ chị thuộc kỹ thân thể mình đến vậy. Mỗi lần chị lại phát hiện thêm một điều gì đó.

Thường thì những phát hiện chẳng có gì mới. Tỉ như số nếp nhăn trên vầng trán rộng - chị không thích những đường rãnh cắt chia vầng trán. Nó thật quá. Thật như quãng thời gian tính được khắc vào đời chị. Nhưng chị vẫn đếm kỹ càng. Đếm thật kỹ để tin rằng mình sắp về chiều...

"Mẹ, con đi đây" - Tiếng con trai chị. "Đi đâu?". "Đến sinh nhật bạn con". "Sinh nhật à?" - Chị hỏi thì thầm và buông rơi cái lược.

Mọi lần thấy chị soi gương và trang điểm, thể nào con trai chị dù đang bận mấy cũng kiếm cớ dắt xe đi. Chị phiền lòng vì điều ấy. Nó biết nhà có khách. Và không muốn giáp mặt bạn của chị. Không ít lần nó nói thẳng: "Mẹ này, mấy ông bạn của mẹ ấy mà, chướng mắt lắm. Bao giờ cái trò này mới chấm dứt?".

Biết bao giờ mới chấm dứt. Lời nói của con xát muối vào ruột gan chị. Nhưng chị im lặng. Có những nỗi đau không thể chia sẻ. Nhiều lần vào những lúc thật dễ chịu, chị đã tâm tình với con, cố gợi ở nó một chút cảm thông. Một chút ít thôi để chị có đủ can đảm và tỉnh táo quyết định. Quyết định cái việc bây giờ đã trở thành quá hệ trọng với chị: từ chối hay nhận lời cầu hôn của những người đàn ông tìm đến với chị.

Chị nhặt vội cái lược, quào qua quít mái tóc. Chị liếc mắt về phía con. Nó có vẻ bồn chồn. Mặt nó căng thẳng. Hay nó lại giận chị. Tuần trước khi bạn chị đến, nó chào chiếu lệ rồi lạnh lùng dắt xe đi, thậm chí không xin phép chị - điều chưa từng xảy đến. Thằng Quynh vốn là đứa trẻ khuôn phép. Ngay cả khi chị và chồng ly hôn, dù ở trong trạng thái căng thẳng, nó vẫn xử sự đúng bổn phận của một đứa con có giáo dục. Nó bình đẳng trong tình cảm, không thiên vị cha hay mẹ.

Hôm ấy, chị ngồi đợi con rất lâu. Mãi khuya nó mới về. Nó thoáng ngạc nhiên. Giọng chị dịu dàng: "Quynh, tại sao con lại thế?". "Con không biết. Con chỉ không thích họ". "Các bác ấy có làm tổn hại gì đến con đâu. Họ là người tốt. Mẹ biết!". "Đấy là họ tốt với mẹ. Họ cần phải thế. Còn với con? - Quynh nhìn thẳng vào mắt mẹ. Chị thoáng rùng mình. Chị đã đọc được ý nghĩ của nó. Quynh cũng hiểu, nó vội vã tận dụng cơ hội hiếm hoi ấy "Lòng tốt của họ là vô nghĩa. Cả họ nữa, vô nghĩa trước con! Không! Không ai được phép chia sẻ tình cảm của mẹ với con!".

Chị ứ nghẹn một nỗi đau không ngờ: "Nhưng tại sao con lại tự cho con cái quyền ấy?". "Ồ, mẹ quên rồi sao? Con đã hai hai tuổi. Chỉ ít tháng nữa con ra trường. Tha lỗi cho con. Con đã không làm được gì để bố mẹ khỏi xa nhau. Nhưng bây giờ thì con làm được. Con phải tự bảo vệ. Mẹ là tất cả của con".

Chị cười mà miệng méo xệch. Chị sững sờ nhìn đứa con yêu dấu - niềm an ủi còn lại của chị. Nó đứng ngây trước chị, cao lớn, vụng về trong tư thế cứng rắn giả tạo. Hình hài nó làm chị chạnh nghĩ đến người đàn ông từng là chồng chị. Chị buột miệng: "Cha con vừa tổ chức đám cưới. Tại sao con không dùng quyền ấy...".

Chị bừng tỉnh nhưng không kịp nữa. Chị thoáng thấy nó lúng túng. Hai tay nó ôm lấy đầu. Cái thân hình cao lớn từ từ bệt xuống: Chị quay người cố bình thản bước về phòng. Buông người xuống giường. Vậy là đã rõ, nó sẽ làm tất cả để ngăn cản chị.

Cái lược một lần nữa rơi xuống đất. Chị chẳng buồn nhặt. Chị nhìn thân thể mình. Vẫn thế, tuổi năm mươi, chị vẫn mảnh dẻ không khác mấy thời con gái. Cái nhìn của chị bắt gặp cái nhìn của người trong gương. Vẫn thế. Nỗi trống vắng ùa ngập.

Con trai chị vẫn bồn chồn. Nó đang suy nghĩ gì lung lắm. Chị định hỏi song lại thôi. Có vẻ nó không để ý gì đến chị. Chị ngạc nhiên trước thái độ của con. Nó vốn là đứa điềm tĩnh. Có chuyện gì nhỉ? Chẳng nhẽ nó lại hờn giận chị đến mức thế. Không phải. Chị xua ngay ý nghĩ ấy. Nhưng ngay lập tức cảm giác nghèn nghẹn lại chẹn xuống. Tủi buồn pha lẫn xót xa.

Ban nãy chị nghe không nhầm. Nó sẽ đi sinh nhật bạn nó. Không nhẽ nó lại quên hôm nay cũng là ngày sinh của chị. Đã lâu chị không tổ chức sinh nhật. Nhưng lần này... Có lẽ nào? Lúc nó chào chị dắt xe ra khỏi nhà, chị đã định nhắc nó, nhưng rồi hờn tủi khiến chị nín lặng.

Chị tắt đèn, thắp lên năm ngọn nến. Mỗi ngọn nến tượng trưng một quãng đời mười năm của chị. Phập phồng thứ ánh sáng của nến đỏ khiến chị hoảng sợ. Chị lại vội vã bật đèn. Chị chợt nhớ chưa có hoa. Không phải chị quên. Chị đợi hoa tặng của con trai. Ngẫm nghĩ giây lát, chị với trên giá sách của con chùm hoa uất kim hương bằng nhựa. Những bông hoa đỏ hồng, dài dại. Càng dại khi nó bị phủ một lớp bụi mờ. Không sao. Nó đúng với tình cảnh chị.

Chùm hoa này là quà tặng của chồng chị nhân một chuyến công tác ở Bắc Âu mấy năm về trước. Chị không thích hoa giả. Nó đuồn đuỗn vô hồn. Chị nhìn thật kỹ những bông hoa đã được lau hết bụi. Trông nó như mới. Đúng thôi, cái gì giả mà chẳng mới. Chị phân vân. Những bông uất kim hương này không đến nỗi đáng ghét như chị tưởng. Ít nhất giữa những ngọn nến đỏ lúc này, nó làm dịu đi bầu không khí hiu hắt đang bủa vây chị. Và dù sao, nó, những bông hoa giả, lại gợi cho chị nhớ về một quãng đời thực - quãng đời không thể nói là không hạnh phúc...
 
Mỗi người sống với thế giới riêng của mình. Bản thể mỗi người cộng vào hoàn cảnh làm nên thế giới đó. Thế giới của chị ngọt ngào vô cùng. Chị đẹp. Càng đẹp khi chị không ý thức được điều ấy. Nền nã và mềm mại, chị tiêu biểu cho một khuôn mẫu khá lý tưởng, ngự chiếm vị trí cao nhất trong ước mộng đầu đời của khối chàng trai. Hiển nhiên, từ chị toả ra một lực hút vô hình. Rất tự nhiên chị bị vây bọc bởi sự ngưỡng mộ cả chân thành lẫn cuồng si. Ngày ấy Quỳnh nổi bật rạng rỡ trong đám sinh viên nữ.

Khi chiến tranh phá hoại lan rộng, trường phải đi sơ tán, ở giữa một vùng quê heo hút, Quỳnh càng nổi bật. Không ít những lá thư tỏ tình bay đến với Quỳnh. Thường thì những lá thư lãng mạn ấy không có địa chỉ gửi. Và lời lẽ thì hết sức vui vẻ. Không lạ, thời ấy chuyện trai gái còn hệ trọng và nhuộm khá đậm màu sắc xưa cũ. Quỳnh thản nhiên trước mọi lời tỏ tình, dù rằng lá thư nào cũng khiến chị cảm động. Cũng bởi Quỳnh hồn nhiên một phần. Nhưng chủ yếu Quỳnh đã có nơi có chốn.

Người yêu Quỳnh đã ra trường và đang công tác ở một bệnh viện dân sự. Người đàn ông hơn hai mươi năm chung sống cùng chị. Anh không có gì xuất sắc lắm nhưng rất đàn ông. Đấy là cách đánh giá của chị. Mạnh mẽ, xốc vác, có trách nhiệm với gia đình. Không hiểu sao ngay từ đầu Quang đã gieo vào Quỳnh một niềm tin tuyệt đối.

Suốt những năm tháng chiến tranh gian khổ, nhiều lúc vợ chồng cách biệt, không thiếu những giây phút yếu lòng, tựa hẳn vào niềm tin chị đã đứng vững được. Niềm tin ấy lớn đến nỗi, Quang có một thời gian dài làm chuyên gia ở nước ngoài, chị vẫn không một mảy may nghi ngờ chồng. Và cuối cùng chính niềm tin đã giết chết tình yêu.

Dạo đó thằng Quynh đã lớn. Gia đình chị tương đối ổn định. Chị làm ở một bệnh viện lớn ở thành phố. Quang đi một chuyến công tác ngắn hạn ở Châu Âu. Những chuyến đi này gối nhau liên tục. Chính những bông uất kim hương kia, chị nhận từ tay chồng ở sân bay. Không phải vẻ mặt là lạ của chồng mà chính những bông hoa làm chị thoáng chạnh lòng. Có lẽ đó là linh cảm tuyệt vời của đàn bà.

Thời gian sau đó, tự nhiên chị thấy gượng gạo trong quan hệ vợ chồng. Sự có mặt của chùm hoa luôn tạo cho chị cảm giác bứt rứt, bất an. Chị cũng tinh ý thấy sự chăm sóc của Quang có phần nhỉnh hơn so với trước. Nhưng chị không cắt nghĩa được. Có lẽ tình trạng ấy phải đến hai năm liền. Nó còn kéo dài nữa nếu không có cái lần định mệnh kia. Chị gọi nó là định mệnh bởi mọi thứ xảy đến rất vô tình.

Chị được giao một đề tài chuyên ngành về truyền nhiễm. Một đồng nghiệp trong nhóm, mượn hộ chị tập tài liệu nước ngoài để chị khảo cứu. Đó là tài liệu rất mới, cần thiết cho đề tài. Kẹp trong tập sách ấy có một lá thư của Quang. Hoá ra chủ nhân của tập sách ấy từng công du với chồng chị. Không tin vào mắt mình nhưng Quỳnh vẫn đọc rất kỹ. Đến nỗi, chị thuộc lòng bức thư.

Chị cũng từng nhận được những bức thư như thế của chồng. Tuy đau đớn, chị vẫn giữ được bình tĩnh để yên ấm gia đình. Chị âm thầm chịu đựng. Chị sẽ không nói ra chuyện này nếu như có một lần nhân lý do gì đấy Quang đừng lôi ra bó uất kim hương. À, đấy là dịp Quang được đề bạt viện phó. Nhìn chồng tỉ mẩn bày biện, chị thấy lòng mình cuộn bão. Thấy chị chăm chú nhìn, Quang vui vẻ: "Em thấy không? Những bông hoa mới đẹp làm sao!".

Quả thật, những bông uất kim hương rất đẹp. Nó còn đẹp hơn cả hoa thật. Chị không thể chịu đựng được nữa vẻ đẹp ma quái của nó. Chị từ tốn đặt lá thư lên chùm hoa. Quang cầm tờ giấy lên, mặt tái đi, lạnh ngắt: "Chuyện cũ rồi. Anh có lỗi".

Lời thú nhận như nhát búa đập vào đức tin đã đóng cứng thành bêtông của Quỳnh. Chị gạt mạnh bó hoa văng xuống nền nhà.

* * *

Quỳnh giữ lại bó uất kim hương chỉ vì con trai chị thích. Lần đấy chị đã có ý nghĩ tha thứ. Tha thứ cho sự phản bội của chồng. Nhưng chị đã không tha thứ nổi cho mình. Bởi đức tin đã quá vững chắc. Quỳnh luôn nghĩ tốt lành về thế giới của mình.

Ngày trước cùng lớp Y của Quỳnh có chàng trai tên là Hải. Lúc ấy, Quỳnh đã yêu Quang. Chị biết Hải là một trong số những người si mê chị. Kết thúc khoá học, Hải đột ngột biến mất. Lúc biết tin Hải nhập ngũ thì chị nhận được lá thư chỉ vẻn vẹn có ba dòng: "Chào Quỳnh nhé. Không thể đến chia tay được. Chắc Quỳnh hiểu. Chúc hạnh phúc! Hải".

Quỳnh mỉm cười sung sướng cất lá thư vào cuốn sổ sinh viên. Rất lâu sau, Hải tìm đến nhà Quỳnh ở một bệnh viện sơ tán. Đang chiến tranh ác liệt, Hải từ chiến trường ra nhận một lớp bác sĩ mới, bổ sung cho mặt trận. Lúc này Quỳnh đã cưới Quang. Quỳnh đã lặng đi rất lâu khi thấy Hải xuất hiện. Hải đã lặn lội tìm Quỳnh chỉ để được gặp mười lăm phút rồi lại đi. Quỳnh cố giữ mà không được.

Chị biết Hải không quên nổi chị. Hải tất tả đi. Bóng Hải khoác balô liêu xiêu trong ngõ hẹp. Những mái rạ thấp thoáng. Mùi khói bếp ấm áp, nồng nàn. Đêm chiến tranh không cầm được lòng mình, chị thảng thốt:

- Hải, Hải. Đợi Quỳnh với.

Hải sững lại. Chị lật bật chạy đến. Bàn tay chị lọt vào bàn tay rắn chắc của Hải. Độ một phút, chị khe khẽ rút tay ra. Chị xúc động:

- Chỉ thế này được thôi, Hải ạ. Hãy tha lỗi cho Quỳnh.

Chị thấy Hải quay mặt. Giọng Hải ngạt đi:

- Kìa, Quỳnh nói gì thế. Quỳnh về đi. Vĩnh biệt!

Hải đi rồi, Quỳnh đã ấp bàn tay mình lên môi. Ngọt ngào. Ôi cái thế giới của chị mới đáng yêu làm sao.

Có lẽ chính vì thế, khi lòng tin của chị bị đổ vỡ, chị chỉ tự trách mình. Từ cõi thẳm lòng mình chị hiểu rằng lầm lỡ kia của Quang chỉ là phút ngã lòng khi xa xứ. Nhưng không thể khác được. Vẫn biết hạnh phúc sẽ vuột khỏi nhưng làm sao chị có thể tiếp tục cuộc sống chung với Quang được nữa. Vết rạn dù nhỏ vẫn là cái hố sâu ngăn cách, chị không thể vượt qua nổi.

Quang chấp nhận ly hôn. Một thời gian sau khi Quang xách vali đi, chị cũng đổi nhà đến một khu khác, chị không muốn mình bị kỷ niệm giam hãm.
 
Lúc quyết định ly hôn chị không một chút bận lòng về cuộc sống sau này của mình. Cũng không cả một mảy may ân hận. Có gì đáng phải ân hận cơ chứ, chị vẫn được sống cuộc sống của mình. Chị đã nhầm. Khi thằng Quynh lớn, nó bắt đầu đắm vào thế giới riêng của nó. Không phải là bỏ mặc nhưng ít khi nó chịu đi đâu cùng chị. Ngay lúc ở nhà cũng vậy, nó cũng ít gợi mở để tâm sự cùng chị. Còn có nhiều niềm riêng tư đợi nó.

Nhà mới và những buổi tối một mình, đến cả xem tivi chị cũng sợ. Trống vắng vô cùng. Cái gì trong ngôi nhà cũng lạ lẫm với chị. Tình trạng ấy kéo dài. Chị biết đó là nỗi trống vắng cô đơn. Dần dà manh nha trong chị ý nghĩ giải thoát. Tại sao lại không được? Chị phải đâu đã già. Vả lại Quang cũng đã lấy vợ và thằng Quynh đã lớn. Nhưng điều này mới là quyết định. Những người đàn ông. Họ sẽ như thế nào khi bước vào thế giới của chị?

Đầu tiên lại là Hải. Không biết bằng cách nào Hải hiểu được tình cảnh chị. Suốt từ ngày chia tay chị chưa gặp lại Hải. Sau bảy nhăm, anh đã lấy vợ ở trong Nam. Hải đường đột đến. Chị sững người. Thời gian đã đi qua người đàn ông này quá nhanh. Chính sự già nua, mỏi mệt của người bạn cũ đã khiến chị có thói quen đứng trước gương để nhìn lại mình.

Gặp Hải, chị quá đỗi cảm động. Chị chưa quên được mối tình xưa của Hải. Nhưng chị đã từ chối. Hải đang có một gia đình. Dù rằng họ không mấy hạnh phúc. Sự túng quẫn khiến Hải tìm cách chạy trốn. Quỳnh buồn lắm. Chị tiễn bạn ra ga tàu. Hai cuộc tiễn đưa cách mấy chục năm đã khác biệt hoàn toàn. Thay cho cái bắt tay, Quỳnh giúi vào tay Hải gói tiền.

- Cầm lấy đi Hải. Quỳnh có. Cầm lấy để chèo chống. Gia đình, cái đó cần hơn tất cả.

Chị nói thật lòng. Bằng chính nỗi mất mát của mình. Người đàn ông mặt bệch ra. Vì xúc động mà cũng vì tủi hổ:

- Cảm ơn Quỳnh. Quỳnh bao giờ cũng tốt. Vĩnh biệt.

Hải cũng chào thật lòng. Chắc chẳng bao giờ gặp lại nhau nữa.

Tiếp tục những người đàn ông khác. Một hoạ sĩ độc thân. Một giám đốc chết vợ. Một nhà văn tiếng tăm, khánh kiệt cả công danh lẫn tài sản vì ham muốn gấp rút đổi đời. Còn nữa... Người này đi, người khác đến. Tất cả tạo thành một thế giới êm ái bao bọc Quỳnh. Ai với chị cũng đều tốt đẹp và chân thành. Chưa có việc gì lại khiến chị lựa chọn khó khăn đến thế. Thực tình, chị không mấy khắt khe nhưng lực cản từ con trai đã làm họ phải nản lòng.

Còn lại ông hoạ sĩ độc thân. Dù đã bị thằng Quynh mấy lần mặn nhạt, ông vẫn thường lui đến. Độc thân đến tuổi này, hẳn ông phải là người kỳ quái. Có vẻ như ông chẳng cần gì và bất chấp mọi thứ. Ông lụi cụi mang cả giá đến để vẽ chân dung Quỳnh. Ông bảo:

- Đừng giận Quỳnh ạ. Tôi đã tìm cả đời. Ở Quỳnh tôi tìm thấy...

Quỳnh hiểu ông nói gì. Giá không có thằng Quynh chắc chị đã nhận lời.

* * *

Chị thắp nến rồi lại thổi nến. Chị đợi. Có tiếng gõ cửa. Mừng quá, chị ào ra. Không phải Quynh. Chị thấy mái đầu lốm đốm bạc của ông hoạ sĩ. Chị vội nuốt đi tiếng thở dài. Sao chị vô tâm không nghĩ đến điều này nhỉ. Mái đầu bạc. Chị đã già mất rồi. Sự thật đến cùng lúc với nỗi chán nản. Chị ngập ngừng. Mái đầu bạc cũng ngập ngừng:

- Tôi đã định không quay lại. Vẫn biết Quỳnh dứt khoát. Nhưng ngày sinh của Quỳnh, tôi muốn...

Chị nhận bó hoa. Những bông hồng trắng muốt, kỳ lạ lại làm mắt chị mờ đi.

Đã khuya lắm. Chị thật sự thất vọng. Thế là con trai không về. Nó đã quên ngày sinh của mẹ. Đúng vào lúc ông hoạ sĩ xin phép thì thằng Quynh xuất hiện. Nó ào vào như một luồng gió cuống quýt. Nó ôm choàng lấy chị. Nó vội vã cầm những bông uất kim hương đặt về chỗ cũ trên giá sách. Nó cắm bó hồng trắng của nó lẫn vào với những bông hồng của ông hoạ sĩ. Chị hoàn toàn bất ngờ. Thoảng khắp phòng hương hồng ngào ngạt. Đến lúc này chị mới nhìn thấy cô bạn gái của nó. Cử chỉ rất người lớn, thằng Quynh kéo cô gái đến trước mặt chị:

- Chúng con chúc mừng mẹ.

Rồi nó quay sang ông hoạ sĩ:

- Kìa bác. Bác đừng về. Hôm nay sinh nhật mẹ cháu.

Có một làn gió tươi thổi vào cõi hồn chị. Lòng chị mở ra mênh mang như cánh đồng bát ngát. Chị run run tắt đèn và thắp lên năm ngọn nến.

Mỗi ngọn nến là một quãng đời chị.

Lung linh nến đỏ và hồng trắng ngọt ngào...
 
Trên báo chiều hôm nay đọc thấy mẩu tin vụn: “Con chó giữ nhà tròn nhiệm vụ, suýt chết vì bị hơn trăm cái lông nhím cắm vào, phải phẫu thuật mấy tiếng đồng hồ, may mắn qua khỏi, đang hồi phục, tĩnh dưỡng…” kèm theo tấm hình con chó, chẳng thấy mặt mũi ở đâu, vì bị lông nhím ghim vào, lởm chởm nom như trái chôm chôm.

Thì ra, ở một trang trại gần bìa rừng, một con nhím không hiểu đi kiếm ăn vì sao lạc vào sân sau nhà nọ, bị chó tấn công, nó cố chạy để thoát, mà con chó quyết không tha. Nhím cố gắng chạy đến được một bụi cây dày ken thì ép xuôi lông, chui lọt vào, vậy mà con chó cố len vào theo cho bằng được. Chó ngoạm được đuôi, rồi chân sau của nhím, ngoạm đến đâu thì lông lại ghim thêm đến đó, chó nhịn đau không bỏ, những cái lông nhím cứng, cái thì gãy lìa, cái thì ghim sâu vào hàm dưới, bốn năm cái chọc bên mép tai, mấy chiếc đâm xuyên qua mũi, sát tận mí mắt, vậy mà may không bị mù.

Nhím ta thường chỉ nhờ bộ lông, xù ra thành như trái cầu gai cứng tua tủa, mà tự vệ thụ động (chờ con kia chán, bỏ đi) chẳng có cách nào khác, mà nếu khi quyết định bỏ chạy, thì cũng không chạy được nhanh, không thể cắn lại, cũng không hề có khả năng “bắn” lông ra như người ta bắn tên (phải chi bắn được như thế!).

Thường thường khi nhím xù lông cứng ra, nhiều con thú khác đã bỏ qua, đi tìm mồi khác dễ tấn công hơn. Ai dè đâu hôm nay, kỳ phùng địch thủ, con chó nhất định chịu đau để bắt cho được nhím, cho nên nhím ta bị không biết bao nhiêu là vết răng chó cắn, đau đớn tận cùng, mớ lông cứng thì gãy hết, kẹt ở đầu, mõm con chó.

Thấy thương cho con chó và cả con nhím. Phần con chó, tuy đau đớn, nhưng đã được săn sóc tận tình và chắc rồi sẽ được chủ cưng chiều hết mực. Tôi tự hỏi ông Trời sao cắc cớ tạo chi ra con nhím chậm chạp và lại bắt nó phải hy sinh nhiều đến thế. Như con mực hay con chồn hôi có phải tiện hơn không, chỉ mất một chút nước đen, hay hơi thối, chắc cơ thể bào chế lại mau chóng, cũng thoát được thân.
 
Người bán sách trên bãi biển Nha Trang

Phạm Tín An Ninh




Tôi trở về thăm quê hương sau hơn mười lăm năm, kể từ ngày vượt biển ra đi. Tôi quyết định điều này qua bao nhiêu đêm ưu tư trằn trọc. Tôi chẳng còn ai thân quen bên ấy để về thăm. Mẹ tôi mất hồi tôi mới lên năm. Cha tôi chết cuối năm 1977 trong trại tù cải tạo Đá Bàn, khi tôi đang ở một trại tù khác tận núi rừng Việt Bắc và mãi năm năm sau tôi mới nhận được tin buồn. Đứa em gái mà tôi thương quí nhất, mang hình ảnh của người mẹ mà tôi chỉ còn mơ hồ trong ký ức, cũng đã kết liễu cuộc đời ở cái tuổi tưởng chừng lúc nào cũng có cả một bầu trời xanh bao la trước mặt. Còn bạn bè tôi, thằng chết, đứa ra đi, gởi thân khắp bốn phương trời. Biết là lần trở về này, rồi cũng chẳng khác gì cái ngày cách đây mười sáu năm, từ một trại tù miền Bắc trở về, tôi bơ vơ lạc lõng trên chính nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Tôi cũng không có ý định về đây để tìm lại những kỷ niệm ngày xưa. Những “hang động tuổi thơ”chắc cũng đã biến mất trước bao nhiêu giông tố năm nào bất ngờ ụp xuống. Bây giờ chỉ còn sót lại chút ít trong lòng những người tha phương lưu lạc. Bản thân tôi có quá nhiều đớn đau và mất mát ngay trên chính cái thành phố một thời xinh đẹp này. Tôi sợ phải nhìn lại cái quá khứ hãi hùng và tang thương đó. Tôi về chỉ để làm một điều, mà nếu không làm được, lòng tôi sẽ ray rứt khôn nguôi. Có lẽ đến khi chết tôi vẫn không làm sao nhắm mắt.
Tôi về để tìm lại phần mộ của cha và em tôi, cải táng đem về an táng bên cạnh phần mộ của mẹ tôi trong nghĩa trang gia tộc ở quê tôi ngoài Vạn Giã. Điều ước mơ của cha tôi, mỗi lần ông kể cho tôi nghe về mẹ tôi và chuyện tình khá lãng mạn nhưng cũng nhiều cay đắng của ông bà. Cha tôi được chôn cất sơ sài trên núi Đá Bàn, bên ngoài một trại tù cải tạo lúc xưa. Còn em gái tôi, được gia đình một cô bạn thân chôn cất tại một nghĩa trang ngoài Đồng Đế. Khó khăn và may mắn lắm tôi mới tìm được tin tức về mộ phần của cha và em tôi sau hơn hai mươi năm. Nhờ một người bạn cùng tù với cha tôi, chính tay ông đã đào huyệt cho cha tôi; và gia đình cô bạn thân của em gái tôi, vượt biên từ năm 1978, hiện định cư tận bên Hòa Lan, cung cấp chi tiết và vẽ cả bản đồ hướng dẫn cho tôi.
Ngồi trên máy bay, tôi lo lắng đủ điều. Mộ em tôi nằm trong một nghĩa trang, dù chưa được xây, nhưng có tấm bia đúc bằng xi-măng nên có lẽ dễ tìm; nhưng phần mộ của cha tôi, nằm trong núi và cái trại cải tạo ngày xưa bây giờ đã biến thành một khu kinh tế mới. Gần ba mươi năm rồi, có biết bao sự đổi thay.
Cuối cùng thì tâm nguyện của tôi cũng hoàn thành được một nửa. Trái ngược với những lo lắng ban đầu, tôi dễ dàng tìm ra phần mộ của cha tôi. Mặc dù bối cảnh chung quanh thay đổi, nhưng bà con ở vùng kinh tế mới này đa số là dân thành phố bị cưỡng bách “tự nguyện” lên đây, một số ngày xưa là lính và công chức. Biết đây là mộ của những người tù cải tạo, nên họ thương mà rào lại và giữ gìn. Những dịp cuối năm họ đều thắp hương, tảo mộ và kẻ lại tên trên những tấm bia bằng gỗ, dù đã rong rêu qua bao nhiêu mùa mưa nắng. Riêng phần mộ của em tôi, mò mẫm suốt cả hai tuần tôi vẫn tìm không ra. Cả khu nghĩa trang bây giờ thay đổi. Người chết nhiều quá. Nhiều ngôi mộ mới xây, nhưng cũng có một số đã được cải táng, dời đi nơi khác. Nhà cửa cất san sát bên nghĩa địa. Người sống bây giờ ở chung với người chết. Tôi bắt chước người xưa khấn vái, xin hồn thiêng em tôi về chỉ cho tôi ngôi mộ của em nằm. Nhưng lời vái của tôi vẫn không thiêng.
Tôi thuê người cải táng phần mộ của cha tôi. Đi từng nhà trong khu kinh tế mới cám ơn lòng tốt của mọi người. Đưa hài cốt của cha tôi về an táng bên cạnh mẹ tôi, trong nghĩa trang gia tộc, thuê thợ xây lại tất cả những ngôi mộ đã bao nhiêu năm không có ai chăm sóc.
Còn một ngày nữa là hết hạn visa. Tôi muốn đi một vòng, tìm lại chút gì của Nha-Trang xưa. Mùa hè Nha-Trang bây giờ dường như nóng bức hơn ngày xưa. Tôi thuê một chiếc xích lô chạy dọc theo con đường Duy-Tân cũ. Vừa để cho mát, vừa muốn tìm lại những lùm cây dương ngày trước, thuở chúng tôi và bạn bè hẹn hò sau những lúc tan trường. Một số lùm dương vẫn còn đó, nhưng trơ trọi, điêu tàn. Tôi bảo anh phu xe cho tôi xuống trường Võ-Tánh. Anh phu xe còn trẻ, thắng xe lại, ngạc nhiên. Tôi hiểu, nên tôi bảo tôi sẽ chỉ đường, anh cứ theo tôi. Ngôi trường cũ, nơi tôi có biết bao kỷ niệm của ba năm theo học, bây giờ không những cái tên trường, mà tất cả đều trở thành xa lạ. Những hàng cây phía trước không còn. Ngôi trường đứng chơ vơ, chẳng còn sót lại chút gì thơ mộng, gây trong tôi một cảm xúc bẽ bàng hơn là thương tiếc. Bất giác tôi nhớ đến em tôi. Đứa em gái xinh đẹp dễ thương, đã cho tôi cái ấm áp của cả một gia đình, trong những ngày chúng tôi lớn lên không có mẹ. Em học bên trường Nữ Trung Học, nhưng thường đến đây chờ tôi để hai anh em cùng ra biển. Em tôi thích tắm biển, nhưng ngại đến đó một mình nên thường rũ tôi đi theo hộ tống. Tôi tha hồ làm tình làm tội mấy anh chàng muốn đến làm quen, tán tỉnh em tôi. Tôi đi bộ dọc theo bãi biển, tìm đến khu có nhiều cây dừa trước trường Bá-Ninh lúc trước, nơi ngày xưa em tôi thường ngồi ở đó.
Tôi đưa mắt nhìn một vòng từ xa. Nơi bậc xi măng tiếp giáp bãi cát, một người tàn tật đang khó nhọc dùng cánh tay duy nhất còn lại giữ thăng bằng trườn xuống. Trông anh ta giống như một con cóc. Len lỏi trong đám người đi tắm, anh hướng về phía tôi ngồi. Lưng anh mang túi vải chứa đầy sách, và kéo lê trên cát một cái túi vải nữa, cũng toàn là sách. Anh lê lết từng quãng, từng quãng ngắn. Bất ngờ anh ta ngước lên. Thấy tôi gật đầu chào, anh ta nhìn tôi cười rạng rỡ, để lộ hàm răng trắng. Khuôn mặt tuấn tú, râu quai hàm, vầng trán cao với mấy sợi tóc vắt ngang rất nghệ sĩ. Anh dùng bàn tay duy nhất lôi một cuốn sách trong túi vải đang nằm trên mặt cát và từ từ mở ra. Tôi liếc qua. Cuốn sách có cái tựa viết bằng tiếng Anh, nói về chuyện chuyến tàu Titanic. Tôi nhớ đến cuốn phim cùng tên, mới quảng cáo rầm rộ trên truyền hình Nauy mà tôi chưa kịp đi xem. Bỗng tôi tròn mắt ngạc nhiên khi nghe anh mở lời chào và giới thiệu cuốn sách bằng tiếng Anh mà anh phát âm rất lưu loát, không thua kém gì những người Việt đã sinh sống lâu năm ở nước ngoài. Anh lầm tưởng tôi là người Nhật hay Đại Hàn gì đó. Tôi thán phục anh vô cùng và bảo với anh tôi là người Việt, định cư ở Nauy, nên trình độ tiếng Anh của tôi chỉ vừa đủ nói dăm ba câu xã giao, chứ làm gì có thể thưởng thức được văn chương. Tôi cám ơn anh và móc ví ra định biếu anh một chút tiền, nhưng anh vội đưa tay ngăn lại
- Cám ơn anh, nhưng xin anh để dành tiền cho những người còn nghèo khổ hơn tôi.
Anh nhỏ nhẹ bằng một giọng thân thiện và lễ độ.
Câu nói và thái độ của anh làm tôi rất đỗi ngạc nhiên. Vì từ khi trình giấy thông hành vào nước, trước những người mang lon, đội mão đại diện cho cả môt quốc gia mà cũng không có được phong thái thanh tao như anh; và chẳng lẽ ở trong cái thành phố ”mũi nhọn du lịch” này lại còn nhiều người khốn khổ hơn anh ?
Tôi đành mua một cuốn sách để anh vui lòng nhận tiền, nhưng rồi thấy anh cứ loay hoay moi hết túi nọ đến túi kia, để tìm đủ tiền thối lại cho tôi.
Tôi muốn hỏi thăm anh vài câu, nhưng anh đã nhoẻn miệng cười và gật đầu chào tôi rồi vội vàng lết sang mấy người khách nước ngoài đang nằm phơi nắng trên hàng ghế phía trước.
Từ hôm ấy, hình ảnh người tàn tật bán sách trên bãi biển Nha-Trang cứ lẩn quẩn trong đầu và theo tôi về tới Nauy; để rồi nếu có ai đó lỡ lời nói điều gì không mấy tốt về những người nghèo khổ ở Việt Nam, tôi có cảm tưởng như đang xúc phạm đến anh, người bán sách khả kính mà tôi bất ngờ được gặp.

Năm sau, tôi lấy một tháng hè về lại Việt Nam. Lần này tôi mua vé và nhờ cha cô bạn của em tôi, từ Hòa Lan, cùng về với tôi. Ông là người đã giúp chôn cất em tôi ngày trước. Tôi không ngờ là mình phải về lại Việt Nam lần thứ hai. Một điều mà trước đây tôi không hề nghĩ tới.. Nhưng tôi phải làm tròn bổn phận của người anh với cô em gái, mà nếu trước kia tôi lo lắng cho nó chu đáo hơn, biết đâu bây giờ nó còn sống để cho tôi khỏi cảnh côi cút một mình.
Sau một chuyến bay dài, tôi mệt đừ người. Tôi trở về từ vùng Bắc Âu lạnh lẽo, bây giờ lại gặp cái nắng oi nồng của vùng nhiệt đới. Sau khi thuê khách sạn xong, tôi chạy ngay ra biển tắm. Nằm dài trên bãi cát, tôi bỗng nhớ tới người bán sách năm xưa. Tôi thả bộ theo bờ biển về hướng mấy cái lều có bóng dáng nhiều người ngoại quốc đang từ khách sạn kéo ra, bỗng mắt tôi sáng lên khi nhìn thấy người tàn tật đang lê lết theo sau. Cũng hai cái túi vải đựng sách. Đúng là anh tàn tật bán sách năm trước chứ còn ai. Tôi mừng thầm như sắp sửa được gặp lại con người mà bấy lâu nay tôi thường nghĩ tới với lòng mến mộ. Tôi suy nghĩ làm cách nào để anh ta vui lòng nhận sự giúp đỡ của mình. Nhưng người tàn tật lúc nào cũng bám sát vào những người nước ngoài. Tôi để ý thấy người ta cũng không mua sách và chỉ cho anh tiền. Tôi ngạc nhiên khi thấy anh ta cười, hớn hở nhận tiền rất điệu nghệ, không nghe anh nói cái câu thật tử tế mà một năm trước anh đã lễ phép nói với tôi “Cám ơn anh, nhưng xin anh để dành cho những người còn nghèo khổ hơn tôi”. Một cái gì đó thật đẹp vừa bị sụp đổ trong lòng. Tôi cảm thấy người nóng hừng hực. Không biết là sức nóng giữa ban trưa hay vì máu nóng bốc lên đầu. Tôi cắm đầu chạy lao vào những đợt sóng cuồng nộ đang từ ngoài khơi đổ vào bờ.
 
Nước biển trong xanh, sóng biển như những cánh tay ôm tôi vào lòng vuốt ve, dỗ dành. Mặt nước mênh mông, trãi rộng đến những dãy núi mờ xanh tận cuối chân trời. Tôi nghe văng vẳng trong không gian như có ai đang dạo đàn bản Nha Trang Ngày Về. Thiên nhiên phần nào giúp tâm hồn con người rộng mở và dễ cảm thông hơn.
Sau một hồi quần với sóng biển, tôi cũng tạm quên người tàn tật bán sách đã làm tôi hụt hẫng. Nhưng khi vừa bước lên bờ cát thì tôi lại trông thấy anh ta đang o bế mấy người nước ngoài và đưa tay xin cả thức ăn thừa. Tôi nghi ngờ, có thể là người tàn tật này không phải là người tàn tật năm xưa. Tôi đến gần hỏi thăm. Nhưng chưa hỏi hết câu hắn đã “Đ.m. cái khứa đói rã họng ra mà còn làm cao ấy hả. Chết mẹ nó rồi..”
Chỉ nghe cái giọng lỗ mãng của hắn, tôi đủ biết chắc hắn ta không phải là anh – người tàn tật bán sách mà năm trước tôi đã gặp -. Tôi theo người bán sách này với ý định hỏi thăm thêm về anh cho ra lẽ, nhưng thấy hắn ta chẳng mấy tha thiết. Hắn di chuyển chậm, nhưng mắt hắn lại quan sát thật nhanh về những đám người đang xuống bãi ở quãng xa. Và khi đi ngang qua chỗ ngồi của người đàn bà bán cua luột, hắn hất hàm bảo: ” Đó, vợ khứa đó ! ”
Tôi liền chụp ngay cơ hội, hy vọng tìm ra manh mối. Nhưng khi tôi lân la lại gần, thấy chị bán cua luột này có vẻ nghiêm trang khác với những người bán hàng rong bình thường, tôi không biết phải bắt đầu làm sao. Tôi mua hết con cua này tới con cua khác mà chẳng ăn con nào. Và cứ mỗi lần chị định quảy gánh đi chỗ khác, tôi gọi giật lại mua thêm một con nữa để giữ chân chị. Vừa lúc chị nhận ra người khách mua cua này cũng có gì khác thường, tôi buột miệng : “Chị là vợ của người tàn tật bán sách trên bãi biển này mấy năm trước ?”. Chị ngớ người ra, im lặng nhìn tôi. Có lẽ thấy tôi là một người xa lạ sao lại tò mò vào một chuyện riêng tư. Tôi kể cho chị nghe cái cảm tình đặc biệt mà tôi đã dành cho anh ấy. Tôi muốn tìm cách giúp anh một phần nào nỗi thống khổ tật nguyền. Tôi tha thiết muốn biết về anh. Dường như những lời chân thật của tôi làm cho chị xúc động. Chị nhìn tôi, đôi mắt thật buồn :
- Em không phải là vợ của anh ấy. Tụi em cùng cảnh khổ nên đùm bọc lấy nhau mà sống. Một số người đùa, gán ghép tụi em rồi quen gọi thế thôi, anh ạ. Anh ấy đã chết cách nay hơn tám tháng. Em đã lo chôn cất anh ấy.
Lòng tôi thắt lại, một phần vì cảm thương anh trong cảnh khốn cùng, một phần ân hận là giá năm trước mình tìm cách giúp đỡ anh, biết đâu đã cứu được anh. Tôi có ý muốn nhờ chị đưa tôi ra mộ để thắp cho anh nén hương. Chị ngại ngùng nhưng cuối cùng gật đầu hẹn bốn giờ chiều chờ tôi trước khách sạn tôi ở.
Tôi thuê chiếc taxi, và xin phép cùng ngồi với chị ở băng ghế sau để dễ dàng trò chuyện. Trên đường ra nghĩa trang, chị say sưa tâm tình cùng tôi, như từ lâu lắm chị không có dịp nói ra những điều bao năm dấu kín trong lòng. Chị tên Trang. Cha chị trước kia là một trung sĩ địa phương quân, bị thương năm 1968, trong trận tết Mậu Thân, nên được giải ngũ. Mẹ chị mất từ khi chị còn bé lắm. Cha chị không chịu tục huyền mà ở vậy nuôi đứa con độc nhất của mình. Nhờ số tiền trợ cấp ban đầu, ông mua được một căn nhà tôn trong khu dành cho thương phế binh, nằm phía sau ga xe lửa. Ông xin được cái chân bán vé cho hãng xe đò Phi Long ở bến xe Xóm Mới. Lương ba cọc ba đồng cộng với tiền hưu bỗng hàng tháng, ông dành dụm cố lo lắng cho cô con gái học hành. Năm 1974, xong lớp 12, chị thi đậu vào trường sư phạm. Sau ngày Nha-Trang “giải phóng”, chị bị loại ra bởi lý lịch “ngụy quân” của cha. Lúc này, gia đình trở nên bi đát. Cha chị, tất nhiên, không còn được lãnh tiền hưu bỗng ngày trước, chị không tìm ra bất cứ việc gì làm. Cuối cùng cha chị đành phải bán một nửa căn nhà vốn đã chật chội để mua một chiếc xích lô làm phương tiện sinh nhai. Còn chị thì đi bán hàng rong từ dạo ấy.
- Đến bây giờ ông cụ vẫn còn đạp xích lô ? Tôi tò mò hỏi.
- Ông mất lâu rồi anh ạ. Tội nghiệp, ông thương anh Bá lắm, xem anh ấy như con.
Tôi ngạc nhiên :
- Anh Bá nào ?
- Người tàn tật bán sách đó.
Đến bây giờ tôi mới biết tên của anh.
Chị cho biết anh Bá ngày xưa là trung úy phi công. Máy bay của anh bị bắn rơi vào những ngày Sài gòn nguy khốn, khi yểm trợ cho mặt trận Long Khánh của Sư Đoàn Tướng Đảo.
Anh được anh em bộ binh tiếp cứu, nhưng anh bị thương rất nặng, phải đưa về tổng y viện Cộng Hòa. Sau cuộc giải phẫu khá dài, anh tỉnh lại. Nhưng khi biết được mình bị mất hai chân và một cánh tay, anh ngất xỉu và hôn mê suốt cả một tuần. Ngay sau khi Sài gòn vừa “giải phóng”, anh bị đuổi ra khỏi Tổng Y Viện Cộng Hòa khi vết thương chưa lành. Gần hai tháng sau cha em gặp anh ấy trên bến xe Xóm Mới. Biết được phần nào hoàn cảnh thương tâm, cha em lấy xích lô chở anh về nhà chăm sóc vết thương và anh sống với cha con em từ dạo ấy.
- Anh ấy không có thân nhân. Tôi hỏi
- Anh có một cô em gái ở đây, nhưng mà chết lâu rồi. Ban đầu không nghe anh nói điều này. Mãi sau này thấy trên đầu giường của anh có thờ tấm ảnh của một cô con gái và có nhiều đêm rất khuya anh ngồi bất động trước tấm ảnh, cha em hỏi mấy lần, anh mới bảo đó là cô em gái duy nhất của anh.
- Anh không còn bạn bè ?
- Nghe nói anh đang học một khóa phi hành ở đâu bên Mỹ, rồi nhờ có trình độ anh ngữ khá, anh được lưu lại Mỹ làm sĩ quan liên lạc không quân. Nghe tin miền Nam nguy khốn, anh tình nguyện xin về chiến đấu. Vừa về nước, anh ra chiến trường ngay và bị nạn khi đang bay phi vụ thứ hai. Có lẽ vì vậy mà không nghe anh nhắc tới bạn bè.

Xe dừng lại, tôi bước xuống trả tiền và bảo anh tài xế chờ tôi hoặc có thể quay lại sau 30 phút. Tôi bước vào nghĩa trang khi lòng còn vương vấn một câu chuyện buồn. Tiếng chuông nhà thờ từ đâu vọng lại càng làm cho lòng tôi chùn xuống. Đi quanh co một lúc, chị Trang bảo tôi dừng lại và chỉ cho tôi ngôi mộ của anh Bá, nằm bên cạnh ngôi mộ của cô em gái. Cả hai ngôi mộ được xây bằng đá đơn giản, trên tấm bia có cả tấm ảnh
. Tôi ngạc nhiên khi thấy trên mộ bia anh Bá có hình một thập tự giá, vì đây là nghĩa trang Phật giáo. Tôi đến trước mộ anh, thắp ba nén hương thầm khấn vái cho anh được sống an bình trong một thế giới chẳng còn thù hận, và nói lên lòng cảm mến của một người đồng đội cũ. Tôi nhìn kỹ tấm ảnh của anh trên mộ bia, tấm ảnh chụp lúc anh còn là sinh viên sĩ quan không quân, phong độ, hào hùng. Trông khuôn mặt quen quen. Có lẽ do bộ quân phục làm tôi nhớ tới khuôn mặt của những bạn bè ngày trước.
Tôi bước sang mộ cô em gái, thắp ba nén hương cho một người không hề quen biết. Tôi tò mò bước lên xem tấm ảnh trên mộ bia. Bỗng đầu óc tôi choáng váng, mắt tôi mờ đi như chẳng còn trông thấy những gì trước mặt. Trời ơi, có điều gì lầm lẫn hay không ? Người trong tấm ảnh chính là An Bình, cô em gái yêu dấu của tôi.
Tôi cố gắng lấy lại bình tĩnh, mở đôi mắt thật to để nhìn kỷ lại tấm ảnh. Không thể lầm lẫn được. Chính tấm ảnh của em tôi mà tôi vẫn treo trên bàn thờ cùng với ảnh của cha và mẹ của tôi. Tôi vẫn thường đứng hằng giờ trước những tấm ảnh này mỗi khi thấy mình quá đỗi cô đơn trên xứ lạ quê người. Làm sao tôi có thể nhầm lẫn được. Bỗng dưng tôi khóc sụt sùi.
Trang nhìn tôi ngạc nhiên :
- Anh có quen biết em gái anh Bá ?
Tôi im lặng không trả lời, bảo chị cùng đi với tôi. Chiếc taxi vẫn còn đợi tôi tự nãy giờ. Tôi móc bóp tìm địa chỉ của cha cô bạn thân của em tôi, đã từ Hòa Lan về đây trước tôi hai ngày, và chúng tôi hẹn gặp nhau ngày mai. Bác trọ ở nhà một người em trong khu cầu Xóm Bóng. Tôi đưa địa chỉ cho anh tài xế. Chỉ hơn năm phút sau là anh ta đã tìm được. May mắn là bác có ở nhà. Tôi xin lỗi bác là đã đến tìm bác sớm hơn ngày hẹn. Báo cho bác là tôi đã bất ngờ tìm được mộ của em tôi. Xin bác cùng đi với tôi ra nghĩa trang để xác nhận lại vị trí ngôi mộ của em tôi mà ngày trước bác đã có lòng chôn cất hộ.
Trở lại nghĩa trang, tôi đề nghị bác dẫn đường, như muốn để xác minh chắc chắn là bác biết rõ ngôi mộ ấy. Bác mò mẫm gần 30 phút mới tìm được ngôi mộ của em tôi. Bác ngạc nhiên là ngày ấy bác chỉ kịp dựng một tấm bia, chứ không có xây mộ đá như bây giờ, và trên bia cũng chỉ có tên chứ không có hình ảnh của em tôi.
Tự nãy giờ Trang vẫn còn ngạc nhiên, không biết rõ việc gì. Tại sao cô gái này là em gái duy nhất của anh Bá mà cùng là em gái của tôi ? Tôi xin lỗi vì xúc động quá, tôi sẽ kể cho Trang nghe trên đường về nhà.
Tôi đưa cha cô bạn của em tôi về lại nhà trọ, cám ơn bác và hẹn gặp lại bác vài hôm sau. Trên đường về, tôi kể lại cho Trang nghe về hoàn cảnh của gia đình tôi. Tôi đi lính xa nhà, mỗi năm chỉ về phép một đôi lần.
An Bình, đứa em gái duy nhất của tôi ở Nha-Trang với cha tôi. Ông là một thầy giáo, ngày xưa dạy ở trường Pháp-Việt lúc tôi mới lên ba. Sau ngày về hưu ông được bà con mời làm chủ tịch hội đồng xã. Ông bị bắt vào trại cải tạo Đá Bàn sau ngày Nha-Trang ”giải phóng”, rồi vì tuổi già sức yếu, không chịu nổi sự tra tấn, ông đã chết gần một năm sau đó. Em gái tôi nối nghiệp cha, sau khi tốt nghiệp ở trường sư phạm Qui Nhơn, vì hoàn cảnh gia đình, được về dạy ở Nha trang. Có lần tôi về phép, em kể cho tôi nghe về mối tình của em với một chàng sinh viên sĩ quan không quân. Em có đưa cả tấm ảnh cho tôi xem và hẹn sẽ giới thiệu với tôi khi chàng ta ở Mỹ trở về. Em lo lắng vì anh là người Bắc di cư, công giáo, không hiểu có khó khăn gì cho cuộc hôn nhân. Tôi bảo nó yên tâm, ba tôi theo Tây học, nên ông quan niệm về tôn giáo rộng rãi lắm.
 
Sau một hồi quần với sóng biển, tôi cũng tạm quên người tàn tật bán sách đã làm tôi hụt hẫng. Nhưng khi vừa bước lên bờ cát thì tôi lại trông thấy anh ta đang o bế mấy người nước ngoài và đưa tay xin cả thức ăn thừa. Tôi nghi ngờ, có thể là người tàn tật này không phải là người tàn tật năm xưa. Tôi đến gần hỏi thăm. Nhưng chưa hỏi hết câu hắn đã “Đ.m. cái khứa đói rã họng ra mà còn làm cao ấy hả. Chết mẹ nó rồi..”
Chỉ nghe cái giọng lỗ mãng của hắn, tôi đủ biết chắc hắn ta không phải là anh – người tàn tật bán sách mà năm trước tôi đã gặp -. Tôi theo người bán sách này với ý định hỏi thăm thêm về anh cho ra lẽ, nhưng thấy hắn ta chẳng mấy tha thiết. Hắn di chuyển chậm, nhưng mắt hắn lại quan sát thật nhanh về những đám người đang xuống bãi ở quãng xa. Và khi đi ngang qua chỗ ngồi của người đàn bà bán cua luột, hắn hất hàm bảo: ” Đó, vợ khứa đó ! ”
Tôi liền chụp ngay cơ hội, hy vọng tìm ra manh mối. Nhưng khi tôi lân la lại gần, thấy chị bán cua luột này có vẻ nghiêm trang khác với những người bán hàng rong bình thường, tôi không biết phải bắt đầu làm sao. Tôi mua hết con cua này tới con cua khác mà chẳng ăn con nào. Và cứ mỗi lần chị định quảy gánh đi chỗ khác, tôi gọi giật lại mua thêm một con nữa để giữ chân chị. Vừa lúc chị nhận ra người khách mua cua này cũng có gì khác thường, tôi buột miệng : “Chị là vợ của người tàn tật bán sách trên bãi biển này mấy năm trước ?”. Chị ngớ người ra, im lặng nhìn tôi. Có lẽ thấy tôi là một người xa lạ sao lại tò mò vào một chuyện riêng tư. Tôi kể cho chị nghe cái cảm tình đặc biệt mà tôi đã dành cho anh ấy. Tôi muốn tìm cách giúp anh một phần nào nỗi thống khổ tật nguyền. Tôi tha thiết muốn biết về anh. Dường như những lời chân thật của tôi làm cho chị xúc động. Chị nhìn tôi, đôi mắt thật buồn :
- Em không phải là vợ của anh ấy. Tụi em cùng cảnh khổ nên đùm bọc lấy nhau mà sống. Một số người đùa, gán ghép tụi em rồi quen gọi thế thôi, anh ạ. Anh ấy đã chết cách nay hơn tám tháng. Em đã lo chôn cất anh ấy.
Lòng tôi thắt lại, một phần vì cảm thương anh trong cảnh khốn cùng, một phần ân hận là giá năm trước mình tìm cách giúp đỡ anh, biết đâu đã cứu được anh. Tôi có ý muốn nhờ chị đưa tôi ra mộ để thắp cho anh nén hương. Chị ngại ngùng nhưng cuối cùng gật đầu hẹn bốn giờ chiều chờ tôi trước khách sạn tôi ở.
Tôi thuê chiếc taxi, và xin phép cùng ngồi với chị ở băng ghế sau để dễ dàng trò chuyện. Trên đường ra nghĩa trang, chị say sưa tâm tình cùng tôi, như từ lâu lắm chị không có dịp nói ra những điều bao năm dấu kín trong lòng. Chị tên Trang. Cha chị trước kia là một trung sĩ địa phương quân, bị thương năm 1968, trong trận tết Mậu Thân, nên được giải ngũ. Mẹ chị mất từ khi chị còn bé lắm. Cha chị không chịu tục huyền mà ở vậy nuôi đứa con độc nhất của mình. Nhờ số tiền trợ cấp ban đầu, ông mua được một căn nhà tôn trong khu dành cho thương phế binh, nằm phía sau ga xe lửa. Ông xin được cái chân bán vé cho hãng xe đò Phi Long ở bến xe Xóm Mới. Lương ba cọc ba đồng cộng với tiền hưu bỗng hàng tháng, ông dành dụm cố lo lắng cho cô con gái học hành. Năm 1974, xong lớp 12, chị thi đậu vào trường sư phạm. Sau ngày Nha-Trang “giải phóng”, chị bị loại ra bởi lý lịch “ngụy quân” của cha. Lúc này, gia đình trở nên bi đát. Cha chị, tất nhiên, không còn được lãnh tiền hưu bỗng ngày trước, chị không tìm ra bất cứ việc gì làm. Cuối cùng cha chị đành phải bán một nửa căn nhà vốn đã chật chội để mua một chiếc xích lô làm phương tiện sinh nhai. Còn chị thì đi bán hàng rong từ dạo ấy.
- Đến bây giờ ông cụ vẫn còn đạp xích lô ? Tôi tò mò hỏi.
- Ông mất lâu rồi anh ạ. Tội nghiệp, ông thương anh Bá lắm, xem anh ấy như con.
Tôi ngạc nhiên :
- Anh Bá nào ?
- Người tàn tật bán sách đó.
Đến bây giờ tôi mới biết tên của anh.
Chị cho biết anh Bá ngày xưa là trung úy phi công. Máy bay của anh bị bắn rơi vào những ngày Sài gòn nguy khốn, khi yểm trợ cho mặt trận Long Khánh của Sư Đoàn Tướng Đảo.
Anh được anh em bộ binh tiếp cứu, nhưng anh bị thương rất nặng, phải đưa về tổng y viện Cộng Hòa. Sau cuộc giải phẫu khá dài, anh tỉnh lại. Nhưng khi biết được mình bị mất hai chân và một cánh tay, anh ngất xỉu và hôn mê suốt cả một tuần. Ngay sau khi Sài gòn vừa “giải phóng”, anh bị đuổi ra khỏi Tổng Y Viện Cộng Hòa khi vết thương chưa lành. Gần hai tháng sau cha em gặp anh ấy trên bến xe Xóm Mới. Biết được phần nào hoàn cảnh thương tâm, cha em lấy xích lô chở anh về nhà chăm sóc vết thương và anh sống với cha con em từ dạo ấy.
- Anh ấy không có thân nhân. Tôi hỏi
- Anh có một cô em gái ở đây, nhưng mà chết lâu rồi. Ban đầu không nghe anh nói điều này. Mãi sau này thấy trên đầu giường của anh có thờ tấm ảnh của một cô con gái và có nhiều đêm rất khuya anh ngồi bất động trước tấm ảnh, cha em hỏi mấy lần, anh mới bảo đó là cô em gái duy nhất của anh.
- Anh không còn bạn bè ?
- Nghe nói anh đang học một khóa phi hành ở đâu bên Mỹ, rồi nhờ có trình độ anh ngữ khá, anh được lưu lại Mỹ làm sĩ quan liên lạc không quân. Nghe tin miền Nam nguy khốn, anh tình nguyện xin về chiến đấu. Vừa về nước, anh ra chiến trường ngay và bị nạn khi đang bay phi vụ thứ hai. Có lẽ vì vậy mà không nghe anh nhắc tới bạn bè.

Xe dừng lại, tôi bước xuống trả tiền và bảo anh tài xế chờ tôi hoặc có thể quay lại sau 30 phút. Tôi bước vào nghĩa trang khi lòng còn vương vấn một câu chuyện buồn. Tiếng chuông nhà thờ từ đâu vọng lại càng làm cho lòng tôi chùn xuống. Đi quanh co một lúc, chị Trang bảo tôi dừng lại và chỉ cho tôi ngôi mộ của anh Bá, nằm bên cạnh ngôi mộ của cô em gái. Cả hai ngôi mộ được xây bằng đá đơn giản, trên tấm bia có cả tấm ảnh
. Tôi ngạc nhiên khi thấy trên mộ bia anh Bá có hình một thập tự giá, vì đây là nghĩa trang Phật giáo. Tôi đến trước mộ anh, thắp ba nén hương thầm khấn vái cho anh được sống an bình trong một thế giới chẳng còn thù hận, và nói lên lòng cảm mến của một người đồng đội cũ. Tôi nhìn kỹ tấm ảnh của anh trên mộ bia, tấm ảnh chụp lúc anh còn là sinh viên sĩ quan không quân, phong độ, hào hùng. Trông khuôn mặt quen quen. Có lẽ do bộ quân phục làm tôi nhớ tới khuôn mặt của những bạn bè ngày trước.
Tôi bước sang mộ cô em gái, thắp ba nén hương cho một người không hề quen biết. Tôi tò mò bước lên xem tấm ảnh trên mộ bia. Bỗng đầu óc tôi choáng váng, mắt tôi mờ đi như chẳng còn trông thấy những gì trước mặt. Trời ơi, có điều gì lầm lẫn hay không ? Người trong tấm ảnh chính là An Bình, cô em gái yêu dấu của tôi.
Tôi cố gắng lấy lại bình tĩnh, mở đôi mắt thật to để nhìn kỷ lại tấm ảnh. Không thể lầm lẫn được. Chính tấm ảnh của em tôi mà tôi vẫn treo trên bàn thờ cùng với ảnh của cha và mẹ của tôi. Tôi vẫn thường đứng hằng giờ trước những tấm ảnh này mỗi khi thấy mình quá đỗi cô đơn trên xứ lạ quê người. Làm sao tôi có thể nhầm lẫn được. Bỗng dưng tôi khóc sụt sùi.
Trang nhìn tôi ngạc nhiên :
- Anh có quen biết em gái anh Bá ?
Tôi im lặng không trả lời, bảo chị cùng đi với tôi. Chiếc taxi vẫn còn đợi tôi tự nãy giờ. Tôi móc bóp tìm địa chỉ của cha cô bạn thân của em tôi, đã từ Hòa Lan về đây trước tôi hai ngày, và chúng tôi hẹn gặp nhau ngày mai. Bác trọ ở nhà một người em trong khu cầu Xóm Bóng. Tôi đưa địa chỉ cho anh tài xế. Chỉ hơn năm phút sau là anh ta đã tìm được. May mắn là bác có ở nhà. Tôi xin lỗi bác là đã đến tìm bác sớm hơn ngày hẹn. Báo cho bác là tôi đã bất ngờ tìm được mộ của em tôi. Xin bác cùng đi với tôi ra nghĩa trang để xác nhận lại vị trí ngôi mộ của em tôi mà ngày trước bác đã có lòng chôn cất hộ.
Trở lại nghĩa trang, tôi đề nghị bác dẫn đường, như muốn để xác minh chắc chắn là bác biết rõ ngôi mộ ấy. Bác mò mẫm gần 30 phút mới tìm được ngôi mộ của em tôi. Bác ngạc nhiên là ngày ấy bác chỉ kịp dựng một tấm bia, chứ không có xây mộ đá như bây giờ, và trên bia cũng chỉ có tên chứ không có hình ảnh của em tôi.
Tự nãy giờ Trang vẫn còn ngạc nhiên, không biết rõ việc gì. Tại sao cô gái này là em gái duy nhất của anh Bá mà cùng là em gái của tôi ? Tôi xin lỗi vì xúc động quá, tôi sẽ kể cho Trang nghe trên đường về nhà.
Tôi đưa cha cô bạn của em tôi về lại nhà trọ, cám ơn bác và hẹn gặp lại bác vài hôm sau. Trên đường về, tôi kể lại cho Trang nghe về hoàn cảnh của gia đình tôi. Tôi đi lính xa nhà, mỗi năm chỉ về phép một đôi lần.
An Bình, đứa em gái duy nhất của tôi ở Nha-Trang với cha tôi. Ông là một thầy giáo, ngày xưa dạy ở trường Pháp-Việt lúc tôi mới lên ba. Sau ngày về hưu ông được bà con mời làm chủ tịch hội đồng xã. Ông bị bắt vào trại cải tạo Đá Bàn sau ngày Nha-Trang ”giải phóng”, rồi vì tuổi già sức yếu, không chịu nổi sự tra tấn, ông đã chết gần một năm sau đó. Em gái tôi nối nghiệp cha, sau khi tốt nghiệp ở trường sư phạm Qui Nhơn, vì hoàn cảnh gia đình, được về dạy ở Nha trang. Có lần tôi về phép, em kể cho tôi nghe về mối tình của em với một chàng sinh viên sĩ quan không quân. Em có đưa cả tấm ảnh cho tôi xem và hẹn sẽ giới thiệu với tôi khi chàng ta ở Mỹ trở về. Em lo lắng vì anh là người Bắc di cư, công giáo, không hiểu có khó khăn gì cho cuộc hôn nhân. Tôi bảo nó yên tâm, ba tôi theo Tây học, nên ông quan niệm về tôn giáo rộng rãi lắm.
Sau khi cha tôi vào trại cải tạo, căn nhà của chúng tôi bị chính quyền mới tịch thu để làm hợp tác xã mua bán. Em tôi không được tiếp tục dạy học nữa nên ra Xóm Bóng ở chung với cô bạn học nối khố tự ngày xưa, chắt chiu số tiền còn dành dụm được để thăm nuôi cha tôi. Ngay sau ngày Sài-gòn mất, em có vào tìm thăm tôi và người yêu của cô. Hơn hai tuần đi thăm hỏi khắp nơi, em tôi về nằm khóc cả mấy ngày liền, nói với tôi là người yêu của nó đã chết mất xác ở chiến trường Long-Khánh. Tôi an ủi em tôi, bảo nó về Nha-Trang cố gắng thay tôi lo lắng cho cha, chờ ngày cha và tôi trở về sum họp. Tôi vào tù hơn sáu tháng, hai lần được phép gởi thư về nhà, vẫn không thấy em gái hồi âm. Cho mãi trước khi được chuyển ra Bắc, tôi mới nhận được thư của cô bạn thân của nó, báo tin là nó không kiếm được việc gì làm, túng quẫn, buồn chán, nên đã uống nguyên một ống thuốc ngủ. Gia đình cô chở vào bệnh viện, nhưng không cứu được, vì không tìm ra thuốc giải.
Chị Trang suy nghĩ miên man và như chợt nhớ ra được điều gì. Chị bảo khi còn sống, anh Bá không đi làm vào ngày chủ nhật. Anh đi lễ nhà thờ rồi ra mộ suốt cả ngày. Chính anh đã dành dùm tiền bạc thuê người xây lại ngôi mộ và mua phần đất dành cho mình. Khi chôn cất anh xong, chị tìm thấy một tập nhật ký dấu kỹ dưới đầu giường. Chị vẫn còn để trên bàn thờ, chờ ngày giáp năm thì đốt luôn. Chị bảo tôi cùng về nhà với chị, để chị trao lại cuốn nhật ký, kỷ vật duy nhất của một người cùng sống chung trong cảnh khốn cùng với cha con chị trong gần ba mươi năm, và bây giờ mới biết đó là người yêu của cô em gái thương quí của tôi.
Chị bảo taxi dừng lại trước một ngõ tắt phía sau ga xe lửa. Tôi trả tiền, theo chị băng qua hai con đường sắt, đi quanh co theo mấy con hẻm thì đến nhà. Tôi xin phép thắp hương trước bàn thờ của ba chị và Bá, trên một cái kệ nhỏ bằng gổ treo trên vách. Tôi khẩn khoản xin chị nhận một số tiền để chăm sóc ngôi mộ của ông cụ, em gái tôi và Bá, một ít làm vốn buôn bán để đỡ vất vả hơn xưa. Tôi xin nhận Trang là cô em kết nghĩa và từ nay Trang là người thân quen duy nhất của tôi còn lại ở Nha-Trang. Chia tay, tôi đi bộ về khách sạn, cầm theo cuốn nhật ký trên tay, mà cứ tưởng như mình vừa nhận một món quà quí giá của người thân gởi về từ một cõi nào đó thật xa xăm.

Ngày 2/5
Vết thương còn đau đớn và máu còn thấm đỏ qua mấy lớp băng, vậy mà mình bị người ta đuổi ra khỏi Tổng Y Viện Cộng Hòa, trong hoàn cảnh tứ cố vô thân. May mắn nhờ một ân nhân nghèo nhưng lại giàu lòng bác ái, đùm bọc, nuôi nấng và chăm sóc vết thương.
Nhiều lần, trong vực sâu tuyệt vọng, mình không muốn sống thêm một ngày nào nữa, nhưng lòng mình lúc nào cũng hướng về chúa Kitô, và xin phó thác tất cả ở nơi Ngài.
…….
Ngày 20.6
Cuối cùng, thì mình quyết định trở về Nha-trang, bởi lẽ mình không còn có một chỗ nào khác để trở về. Mình về đây để tìm lại những kỷ niệm đẹp đẽ nhất của đời mình, của những ngày mình còn có An-Bình. Từ ngày gặp An-Bình, mình nghĩ là mình đã thuộc về Nha-Trang, miền thùy dương rạt rào thơ mộng này. Đau đớn thay, hôm nay mình chẳng phải là mình ngày trước, mà chỉ là một kẻ tật nguyền thê thảm. Mình sẽ không bao giờ gặp lại An-Bình, mà chỉ mong về đây để được sống với hình ảnh của nàng
Ngày 08/7
Ngày hôm nay có lẽ là ngày đau đớn nhất trong đời mình. Đau đớn hơn cả cái ngày mình tỉnh dậy trong quân y viện và biết mình trở thành một người tàn phế. Mình lê lết khắp nơi hỏi thăm tin tức An-Bình, được biết là em đã quyên sinh. An-Bình ơi, xin em hãy tha thứ cho anh. Trong vận cùng của một đất nước mà anh chỉ là một thằng lính hèn mọn nhỏ nhoi, làm sao có thể giữ được bầu trời Nha-Trang này cho em, và cho những kỷ niệm của chúng mình..

Một hồi chuông nhà thờ làm tôi giật mình. Ngẩng đầu lên mới biết mình đang đừng trước nhà thờ đá. Tôi thẩn thờ bước lên những bậc “tam cấp”, đến trước tượng Đức Mẹ. Tôi là người ngoại đạo, không biết phải cầu nguyện như thế nào. Tôi chấp hai tay trước ngực, kính cẩn xin Thiên Chúa Từ Bi và Đức Mẹ Maria cứu vớt linh hồn của hai người hoạn nạn và xin cho họ được cùng phục sinh với Chúa để tình yêu của họ mãi mãi vĩnh hằng trong một thế giới bình an, không còn có hận thù.
Tôi không còn ý định dời ngôi mộ em tôi về bên cạnh cha mẹ tôi. Tôi về quê, quỳ trước mộ cha mẹ tôi để xin phép được xây lại hai ngôi mộ của em tôi và Bá chung trong một vòng thành. Không ai có quyền chia rẽ họ thêm một lần nữa, dù bây giờ chỉ còn là một thế giới vô hình.
Cũng như lần trước, ngày cuối cùng, tôi thuê xích lô đi một vòng dọc theo con đường Duy Tân cũ. Con đường đẹp nhất của Nha-Trang. Những cơ sở công quyền, những dinh thự của cán bộ bây giờ đựơc dựng lên nguy nga đồ sộ. Nhìn lá cờ màu đỏ trên mấy nóc nhà, bỗng dưng tôi lạnh toát cả người. Chẳng lẽ những thay đổi “to lớn”ấy mà phải xây trên máu xương, trên những đớn đau, chia lìa thảm khốc của bao nhiêu thế hệ đã từng một thời góp sức tạo nên cái thành phố hiền hòa thơ mộng này. Bỗng chốc, tôi không còn nhìn thấy thành phố Nha-Trang đâu nữa. Trước mắt tôi bây giờ chỉ còn là một bãi tha ma, dài ra, vô tận. Tôi nghe trong gió văng vẳng tiếng đàn dạo bài Nha-Trang, mà ngày xưa đài phát thanh Nha-Trang dùng làm nhạc hiệu mở đầu. Tôi nhớ tới cái chết thảm khốc của nhạc sĩ Minh-Kỳ, tác giả bản nhạc quen thuộc một thời này, ông cũng đã bị giết vào tháng 8/75, khi cùng bị nhốt chung với tôi trong trại tù cải tạo An Dưỡng, Biên Hòa.
 
Ba sinh hương lửa


Năm nay bà nội tôi lên 120 tuổi.
Bà răng đen, vấn tóc, quanh năm áo trắng quần đen. Bà là nhà thầu độc quyền cung cấp bữa cơm, quần áo và những vật dụng trong và ngoài vòng tưởng tượng cho toàn thể gia đình.
Nắp ấm nước, yên xe đạp, áo trấn thủ, áo gối chăn màn, màn cửa, áo cánh, và cả áo… đầm! Bà đo đo cắt cắt, tháo ra tháo vào đến bao giờ vừa ý mới thôi. Khỏi phải nói, tôi là người phụ việc đắc lực nhất, xâu kim, xỏ chỉ, ngâm vải… và tháo ra khi bà may hỏng. Bà dạy luôn, lược, đột, vá, mạng, đan giỏ, ''đan võng… Chỉ có hai món bà không thể trổ tài khéo tay làm lấy cho thiên hạ thất kinh. Sau khi chị tôi khóc mếu vì áo dài bà may bó chặt thân hình con gái xinh xắn, khiến chị giống như... cuốn chả giò, bà mới cho phép “Mẹ con nhà mày đến tiệm Thu Hương Ngã Bảy mà may”. Còn món thêu, bà gửi tôi đến lớp bà Cát Tường, một người Hà Nội sang trọng, nề nếp, tinh tế... với ước mong vô vọng là tôi sẽ thêu áo gối, khăn bàn, khăn mùi soa cho cả nhà.

Bà tôi không thuộc loại bà thông bà phán hay “em là gái bên song cửa”. Bà nhìn quanh quất, song cửa hớ hênh, bà rút ngay ra “chèn cái hàng rào”. Kéo là bè, xi măng là bạn. Đinh là họ, búa là hàng. Kìm là con, cưa là cháu. Muốn củi phơi mau khô, mua ngay 4 xe ba bánh gạch đỏ lát sân. Chum hứng nước vại muối dưa sứt miệng, trộn xi măng vá. Muốn ăn riêu cua hóa phép nặn ngay một cối xi măng, cua giai cua gái be bét ngay lập tức không kịp làm thơ than thở phận cua cáy nghèo hèn. Bà đóng bàn, ghế đẩu, ghế con, sửa trạn bát, làm giàn thoa thiên lý, leo lên mái thay vài miếng ngói… "Không làm chó nó làm cho mình". Các ông thợ mộc, thợ nề trong vòng hai ki lô mét lé xệch cả mắt. Các chị tôi rất sợ hãi, chỉ e nhằm đầu thu hay cuối một mùa đông, bà trét xi măng vào bất cứ món đồ nào để bừa bãi làm bà ngứa mắt, bất kể là tập thơ hay khăn mùi soa thêu tặng người tình cưỡi xe đạp Peugeot lạng qua lạng lại lúc trăng tàn trên hè phố.

Chợ ở bên kia đường. Bà luôn chạy ầm ầm băng ngang, không bao giờ thèm nhìn xe qua lại. Lịch trình đi chợ của bà, chỉ đại thi sĩ mới làm nổi bài vè:

Sáu giờ rau tươi
Tám giờ cá thịt
Mười giờ cam quít
Không tươi cũng rẻ
Chẳng sợ mua lầm
Đứa nào lầm bầm
Bà cho ăn cám

(Hình: http://chimviet.free.fr/dangnet/
anh01/hannguoi/hnng003.htm)
Bà chỉ huy hành quân suốt từ sáng đến tối. Tôi lúc nào cũng ở sát bên bà, vo gạo chẻ rau muống nhổ lông lợn chẻ củi cuốc đất trồng rau răm húng quế tía tô... Bà là người lạc quan, có thể anh dũng tái bản một món ăn trong vòng một tháng, nếu có lời khen ngợi, thường là lỡ lời! Bà dậy tôi lấy hoa nhài ướp trà, nấu súp đuôi bò, nấu canh hoa thiên lý, làm ô mai, gói bánh chưng, quậy bánh bèo, viên bánh trôi bánh chay... Vừa làm vừa nếm vừa phụ vừa la vang dội cả sơn hà, chó mèo thằn lằn rất kinh hãi...

Bà không biết chữ. Chỉ với vài cái tăm, bà tính nhanh hơn máy. Bà nhớ vanh vách ai hốt hội rồi, ai chưa hốt. Tháng này nên bỏ hội bao nhiêu… Bà còn nhớ rành rành ngày tháng nào cho mẹ tôi mượn bao nhiêu lạng vàng mua nhà. Đứa cháu nào nợ tiền mắt trước mắt sau muốn quịt cũng không cãi đuợc. Thủ lãnh luật sư đoàn chắc cũng chỉ giỏi đến thế, đa phần còn kém vài phân mới vẹn được tám chỉ.

Thú vui của bà, xem phim và nghe đọc sách. Bà là khán giả trung thành của phim Ấn Độ, rạp Thanh Vân, đường Lê Văn Duyệt, Chí Hòa. Đất rắn nở hoa tình, Sữa rừng thay sữa mẹ, Công chúa cá phò mã cùi, Hoàng hậu Thủy cung… Trước khi đi xem, bà sửa soạn cơm nắm, rang thịt, làm ruốc… cứ như tiễn Kinh Kha chết đói. Năm bẩy cái miệng phản đối, nhưng vào đến rạp ăn nhanh hơn cào cào châu chấu, còn hỏi "có nữa không bà". Mỗi tối, tôi đọc cho bà nghe 5 trang được nửa cái bánh giò, 10 trang được nguyên một cái. Thỉnh thoảng bà gắt om lên, làm như tôi là tác giả "tại sao lão Lưu Bị hơi một tị là khóc mếu, lão Tào Tháo thế mà hay, không gian thế thì làm sao lấy thiên hạ, thế ông Tôn Tẫn trốn đâu?" Chỉ có Ngọn cỏ gió đùa, Vì đâu nên nỗi của ông Hồ Biểu Chánh là bà lặng im, thút tha thút thít. Bà hiếm khi khóc mếu. Chỉ hai lần bà hạt châu lã chã. Tháng mười năm 1955 khi thủ tướng Ngô Đình Diệm đốt hình nộm hoàng đế Bảo Đại, và tháng mười một năm 1963 khi tổng thống Ngô Đình Diệm bị thảm sát. Dù không biết chữ, bà là người tử tế nên vẫn mang trong đầu ý niệm tôn quân hoặc cảm thấy phút mở đầu cho một thảm kịch mang tầm cỡ quốc gia.
 
Bà yêu mẹ tôi hơn ba tôi, đó là điều hiếm thấy nơi người Bắc. Ấy thế, những cháu và chắt đích tôn mới chính là thượng khách của hoàng cung, bà yêu quí một cách đặc biệt, luôn luôn dành bánh trái cho những nhân vật bà cho là nối dõi tông đuờng, dù bà vốn ít lời, hiếm khi nhắc đến tông đường ở đâu, ai còn ai mất.

Gia đình tôi không có nhiều cỗ bàn. Một năm chỉ có hai ngày, giỗ ông nội và cúng Giao thừa. Ngày giỗ ông nội trùng với ngày giỗ ông Khuất Nguyên, mồng năm tháng năm ta. Không chắc bà có biết ông Khuất Nguyên là ông nào. Chỉ nghe ba tôi kể ông ấy mò mẫm ra bờ sông xem trăng, lăn tòm xuống, ba tôi đỡ không kịp, đến khổ. Bà làm rượu nếp từ mấy ngày trước. Vo gạo, rửa lá chuối là tôi, nhưng lúc rắc men, bà đuổi cổ ra ngoài. Vài lần rượu nếp kém ngon, bà chắc lưỡi tại tôi nặng vía. Bà mua bánh tro bánh mật, buổi trưa cúng chay ông Khuất Nguyên, sau cúng cái mồm, bà thực tế bảo thế. Bà dậy tôi vót đũa tre nhỏ xíu ăn rượu nếp. Vuốt chỉ hơi to, bà bắt vuốt đi vuốt lại bao giờ rõ xinh, rõ trơn. "Rượu nếp ai mà ăn với đũa to như con đỉa? Khéo không ông Khuất Nguyên ông ấy giận, ông ấy là bạn của ông nội nên mới mất cùng ngày đấy."

Buổi chiều cúng ông nội tôi, cúng mặn. Ông mất khi bà mới 37 tuổi. Như những bà góa cùng thời, bà không tơ hào thêm ông lão nào cho nặng bụng. Bà ở vậy, hết nuôi con rồi theo con dâu nuôi cháu. Ngày giỗ cả nhà tất bật như một bầy kiến. Ngâm măng miến, ngâm gạo đậu xanh từ hôm trước. Rửa trái cây, làm gà, thái bắp cải su hào, lau chùi bàn thờ, dọn dẹp nhà cửa…

Những ngày cuối năm bận rộn gấp bội, vì phải chợ búa cho năm ngày. Các món khô mua từ một tháng trước cho rẻ, đèn hương măng miến mộc nhĩ kim chi táo tầu hạt sen nhãn nhục đường phèn thạch trắng. Còn nửa tháng, bà mua cam quít, vùi vào thùng cát giữ được lâu. Còn một tuần, bà mua một đôi gà, mang về nuôi thêm cho béo nung béo núc. Ngày 29 Tết, hai bà cháu đi chợ, mua nhiều đến nỗi phải đi xích lô về. Bà ì ạch kéo kìn kìn lá chuối dây lạt bắp cải su hào súp lơ củ cải cà rốt, rau thơm hành ngò gừng nghệ hành tỏi, khoai lang khoai tây cải xanh dưa chuột cà chua dưa hấu, cá thu cá quả chân giò, bò bắp, nước mắm đường. Muối phải đầy hai lọ kẻo nhạt nhẽo cả năm.

Ngày 28, bà gói bánh chưng. Nồi bánh chưng để ngoài sân, suốt đêm canh củi buồn ngủ tít mắt. Năm nào bà cũng gói cho tôi vài cái bánh bé tí tẹo. Chiều 30, Giao thừa, gia đình các anh chị và các cháu, càng ngày càng gia tăng dân số, kéo nhau về đông đủ. Sáng mồng một, bà xuất hành, mặc áo dài mình khô hoa ướt vấn khăn nhung đen quần sa tanh bóng chân dận hài cong, đi một vòng hàng xóm rồi về xông nhà lấy. Suốt những ngày Tết, bàn thờ hương thắp ngào ngạt. Pháo hồng ròn rã, mừng tuổi ríu rít, đánh tam cúc đến khuya, cắn hạt dưa tí tách, người lớn hoà nhã, trẻ con không sợ cốc đầu tha hồ ăn uống chạy nhảy ồn ào không được chí choé không được gọi nhau là con khỉ con tườu.

Anh rể tôi đi đạo, những năm đầu làm rể môi cứ là mím chặt nhất định không ăn đồ cúng. Không ăn thì thôi, càng tốt. Mãi đến khi đẻ đứa con thứ năm, anh mới rón rén nhập cuộc cỗ bàn, không thấy đấm ngực bình bịch nữa, mà đã ăn thì không kém thuồng luồng ba ba. Anh rể tôi không hề biết là cùng khoảng thời gian ấy, từ 1962 đến 1965, đức Giáo Hoàng Paul VI ban hành Vaticano II cho phép (!?) tín đồ Việt Nam cúng giỗ tổ tiên theo phong tục của mình. Nhưng trời thì cao đất thì thấp, vua ở xa quan nha thì gần, cho nên dù Giáo Hoàng không phải vua thường, mà là le Roi des Rois, vua của các vì vua, phép vua Vatican vẫn thua lệ làng xứ Việt. Bảo hoàng hơn vua là thế. Người mình lại còn thêm cái tật rất thích vun xới giấc mơ của người khác. Cha không rao giảng (hoặc không thành thật rao giảng), giáo dân đâu dám tự tiện. U Tam, người làm nhà tôi, không ăn là không ăn. Mấy ngày Tết, thương u mời mỏi miệng, u chỉ thì thào làm dấu thánh giá, một tay xua như xua ruồi, một tay túm chặt "áo Đức Mẹ", may bằng vải bằng hai ngón tay lúc nào u cũng đeo trong người không bao giờ giặt. Chị dâu tôi cũng đi đạo, trong gia đình chị hình như còn có cả linh mục, chị ăn giỗ ăn chạp chí cha chí chát. Tôi yêu cái hồn nhiên của chị quá, đi trước cả Vaticano II.

Nếu có dư luận phàn nàn "người chết có biết ăn đâu mà cúng", thì quả là chỉ nghĩ đi mà không nghĩ lại, hoặc mượn cái gương của ngưòi khác mà soi mắt của mình. Dân tôi không giầu, nghèo là đằng khác, nhất là miền Bắc. Có người cả đời chưa được ăn cơm trắng, lúc nào cũng phải độn ngô khoai. Quanh năm không phải lúc nào cũng được ăn gà ăn miến, ăn quít ăn cam. Phải đợi đến ngày giỗ, hóa kiếp một con gà ngả ra đến năm bảy món. Không biết người lớn thế nào, trẻ con như tôi, đi qua đi lại, liếc lên liếc xuống mong hương mau tàn còn… hạ cỗ.

Càng ngày, tôi càng nhận ra, cúng giỗ không phải để người đã khuất hưỏng, nhưng là dịp con cháu sum vầy. Một gia đình có phúc hay không, không phải giỗ to hay nhỏ, con vinh cháu hiển, nhưng là do con cháu yêu thương đùm bọc nhau trong ý thức rằng ông bà mình chính là cái cầu nối những thế hệ với nhau, những thế hệ chung những mất mát và những khổ đau, trăm năm này qua ngàn năm khác. Không tư tưởng nào thành bất tử nếu không có ai làm nó sống lại. Linh hồn tổ tiên có cần gì cúng giỗ? Người cần là những người còn sống. Thức ăn chỉ là phương tiện. Sì sụp trước bàn thờ là thì thầm với ông bà, nhớ lại thuở ánh đèn leo lắt hoang sơ nhưng cố chắp lại thành ngọn hải đăng.

Càng lớn, tôi không mong hương tàn nhanh. Mỗi lần đi ngang bàn thờ, tôi liếc lên ảnh ông nội. Hôm ấy hình như ông linh động hơn. Nếu ông cất tiếng: "A, hôm nay chúng mày nhớ đến ông đấy à!", tôi cũng không ngạc nhiên. Mỗi lần thắp thêm nén hương, tôi lại nghĩ đến ông bà tôi, cả hai bên nội ngoại. Các cụ tên gì, bây giờ các cụ ở đâu, đã đầu thai kiếp khác chưa? Linh hồn có về đây với con cháu? Sinh thời các cụ làm gì? Làm ruộng hay chài lưới, đào giếng hay làm guốc. Cụ tôi cao như cây tre, tròn như hột mít? Các cụ có thích uống rượu, có biết chơi cờ. Có cụ nào được nửa chữ, có lè nhè câu thơ Thi Xã con thuyền Nghệ An. Các cụ nằm xuống ra sao, ho lao hay bêu đầu chốn pháp trường vì chống Pháp? Các cụ bà, hồi bé có bị đòn không? Ngày tư ngày tết mặc áo tứ thân thắt lưng hoa đào hay hoa thiên lý? Lấy chồng có biết mắt ngang tai dọc hay rốn lồi quả quít? Có hẹn hò nhau ra bờ ao nghẹn ngào thề thốt chờ nhau kiếp này kiếp nữa?... Cũng lạ, không bao giờ tôi hỏi bà những điều trên. Quả là tiếc, bà đã nằm xuống rồi.
 
Năm bà tôi 85 tuổi, thằng chắt nội gần 2 tuổi bà rất yêu, bị bệnh mất. Mẹ cháu đi đạo, nên tiễn cháu có nhiều màn linh đinh đầy kịch tính. Cháu đuợc quàn trong nhà thờ, bình an và ấm áp, hoa phủ đầy, đèn nến lung linh không tắt, cha mặc áo thêu đăng ten rẩy nước phép tá lả, các bà mẹ công giáo đi theo ê a cầu nguyện cho cháu lên thiên đàng. Cháu có muốn lạc xuống địa ngục cũng khó, vì đi chưa vững. Tuy không bao giờ nghe bà nội tôi làm ruộng, nhưng bà vẫn có máu nông dân. Mà theo sách địa lý của ông bà Tăng Xuân An, lúc đó "90% dân Việt Nam làm nghề nông". Máu nông dân xui khiến người ta giữ dịt những gì đã có, và cào cấu cầu khẩn cho được những gì chưa có. Oan cho nông-dân-bà-nội, bà đâu độc quyền cào cấu chủ nghĩa? Bà chỉ là người cơ hội chủ nghĩa không kém cô nàng Scarlett O’Hara trong Gone With the Wind của Margaret Mitchell. Vì thế dù bà đã qui y tam bảo, pháp danh Diệu Đế, bà tuyên bố muốn «đi đạo để có đất chôn» như thằng bé cháu. Các bà trong hội Bà mẹ Công giáo như cởi tấm lòng, đến thăm bà tôi mỗi ngày dạy bà đọc kinh. Trí nhớ bà lúc ấy đã kém, lại thích bếp núc hơn nên dạy bà khó hơn lạc đà chui qua lỗ kim. Các bà mẹ Công giáo hết sức kiên nhẫn khi bà vừa học vừa quát nạt dưới bếp: "Kính mừng Maria đầy ơn phúc Đức Chúa Trời, vặn nhỏ lửa khéo không khê cơm, ở cùng bà, bà có phúc lạ hơn mọi người nữ, đậy lồng bàn lại không thôi con mèo ăn vụng cá con ranh con dạo này hư quá, và Giê-su con lòng bà gồm phước lạ a á á. Thánh Maria Đức Mẹ, khoai khét khèn khẹt sao không lấy ra, Amen, chúng mày đi đâu cả..."

Một hôm, các bà mẹ rụt rè tuyên bố bà nội tôi đã thuộc lầu kinh đủ làm vui lòng Thượng đế trên trời lẫn loài người dưới thế, các bà xin rút lui trong vòng trật tự, chỉ cần tôi đọc thêm cho bà nghe về ông thánh Gioan Tẩy Giả, ông thánh Phao Lồ, ông vua Ê Dzò Dzè [1] … là bà có thể chịu phép rửa tội.

Chúa gọi bà rất nhanh về hưởng nhan thánh chúa. Bà cảm từ sáng đến chiều rồi đi, nhẹ nhàng tươi tốt. Lúc ấy có một mình tôi ở nhà. Bà nắm tay tôi hỏi đi hỏi lại: "Mẹ mày đâu rồi, đi sao lâu thế, sắp về chưa". Nửa tiếng sau mẹ về, hơi bà còn ấm. Linh mục nhà thờ Trương Minh Giảng đến tận nhà ban đủ các phép Bí Tích. May bà không biết, nếu không quyết hỏi cho ra phép gì vào với phép gì rồi cất vào túi áo trong cài hai ba kim băng cho khỏi rơi rớt. Đám ma bà tôi vui như hội. Có đất, có hoa kết phủ kín bà, có con cháu chắt chít đông như một bộ lạc da đỏ.

Tôi vẫn thắc mắc không biết bà tôi nói tiếng gì với ông thánh Phêrô, người giữ chìa khóa cửa thiên đàng? Tiếng Việt hay tiếng La-tinh, tiếng Hebrew hay tiếng Tây Ban Nha? Nếu ông còn đi tìm thông dịch viên hữu thệ, liệu bà có đứng ngoài cổng thiên đàng rút ngay song cửa múa vèo vèo, hay tìm búa đóng đinh tịt lại không cho ai vào hết. Nếu bà rình lúc thánh Phêrô say ngủ, (thánh cũng phải ngủ chứ) lọt được vào, liệu bà có gặp ông nội tôi ở đó? Không chắc. Bà ở thiên đàng có rào có dậu, có cửa có nẻo, có phép có tắc, còn ông tôi bay tứ tung khắp tám từng trời. Giải Ngân hà mênh mông, ông bà tôi như hai vì sao ngược chiều nhau, có bao giờ gặp gỡ? Dẫu đã hết duyên, chẳng hay còn có nợ? Ôi mối tình già vẫn nặng, mà liệu thấy nhau có đặng?

Các bà mẹ Công giáo khuyên: "Ông bà và các cô các cậu trở lại đạo để còn cầu nguyện cho cụ". Không gia đình nào dân chủ và cởi mở như gia đình tôi. Ai muốn đi đâu thì đi, không ai ép, không ai phản đối ai, mà cũng không thắc mắc mình có đi lạc hồi nào khiến phải "trở lại". Gia đình tôi đi đạo, có lượng chứ kém về phẩm. Giả dụ có ai hỏi tại sao tòa thánh từ Trung Đông chuyển sang La Mã, Amen có nghĩa gì, sẽ không có câu trả lời, không bị năm lườm sáu nguýt là may. Xét ra chỉ có mỗi mẹ tôi là có ý thức, vì từ bé, mẹ tôi yêu hình ảnh các bà sơ nhân từ làm việc phước thiện. Ba tôi chỉ thích nếm rượu nho bánh thánh và ăn bánh Noël "một mình một cái". Hôm làm lễ rửa tội, ba tôi lượn lên lượn xuống rước lễ mấy lần, nếm rượu nho và bánh thánh đến nỗi cha xứ thầm thì bảo: "Này, thôi đi chứ!". Ba tôi cũng thì thầm: "Rượu tạm được còn bánh xốp xồm xộp". Còn tôi vì yêu bà và thích hát thánh ca "Bà là ai bông huệ giữa chùm gai như hồn thiêng mầu nhiệm như đền vua vinh hiển như thành thánh Salem. Bà là ai như hào quang Thiên chúa như mùa xuân không úa như vì sao mai rạng như chính cửa thiên đàng…"

Cho đến một hôm, tôi ngộ ra rằng ai cũng có mẹ để yêu, không cần phải làm phiền mẹ Maria rồi cầu khấn lung tung khiến khuôn mặt dịu hiền của mẹ từ ngàn năm nay có bao giờ bớt thương khó sầu bi? Tôi cũng vẫn yêu nhạc nhà thờ dù biết rằng thật ra đó là lòng yêu tiếng Việt, vì nghe thánh ca bằng tiếng Ý, lòng tôi chẳng mảy may rung động. Chị Ba tôi vì muốn lấy chồng phải theo đạo. Tóm lại, toàn cơ hội chủ nghĩa kiểu Scalett, rất kém "ơn kêu gọi". Còn các cháu nhỏ thì không kể, vì sinh ra đã được rửa tội. Phe từ chối, có chị Tư không thích vì "đi đạo hết thì lấy ai làm giỗ ông bà". Em trai út, thích đọc sách triết lý, nên bảo Chúa ở khắp mọi nơi, Phật ở trong tâm, không cần qua trung gian ai cả.

Bà mất cách ông chỉ vài ngày, nên mẹ và chị tôi vẫn cúng giỗ ông bà cùng một ngày mồng năm tháng năm ta. Sau 75, giỗ chỉ sơ sài. Khi cả nhà "đoàn tụ" ở Hoa Kỳ thì hoàn toàn không còn những ngày đoàn tụ trong hương khói nữa. Chị Tư còn ở Việt Nam và có qua đây cũng thuộc thành phần... dân tộc thiểu số.

Hương tàn khói nhạt và tình gia đình cũng nhạt phai. Thỉnh thoảng mẹ tôi soạn hộp ảnh gia đình, tôi thoáng thấy hình ông nội trong ấy. Có lẽ ảnh ông bà lạc hậu không hợp với nồi niêu soong chảo bóng loáng dưới bếp, nói chi đến phòng khách ngời sáng ánh đèn đồ đạc made in nơi này nơi nọ. Cái bàn thờ made in Vietnam thoắt lạc lõng, để bên cạnh giàn karaoke bóng loáng trông rất quê mùa, coi sao tiện. Ngày năm tháng năm, mẹ tôi đi nhà thờ xin lễ cho linh hồn Maria yên nghỉ trong tay Chúa. Ô, thế còn ông nội yên nghỉ ở đâu?

Trong nhà chỉ có tôi nằm mơ thấy bà luôn. Bà chẻ củi, nhặt rau muống, giã cua đồng, leo lên mái nhà, giăng dây thép… in hệt như khi còn sống. Lạ một điều, từ khi tôi định cư ở Mỹ, tôi không gặp bà trong giấc mơ nữa. Ngăn sông cách biển hay bà đã đầu thai? Hay tại toàn thể gia đình đã "đi đạo", không còn hương khói cúng giỗ như dạo còn ở bên nhà? Các chắt gọi bà bằng cụ nội cụ ngoại không còn nhớ tên bà, không bao giờ biết là chính bà đã đi xích lô đến tận nhà bảo sanh, áp má nhăn nheo vào khuôn mặt đẫm mùi sữa, trịnh trọng đón từng đứa về nhà. Ôi giời, chỉ một bà cụ, nhớ làm chi !

Thế nên những ngày Tết, tôi lại bồi hồi, biêng biếc tiếc những ngày gia đình đoàn tụ trong mầu hương khói. Nhớ lắm thì lặng lẽ lấy cuốn Quê nhà của ông Phan Lạc Tiếp ra mà đọc, mượn cái tình quê của ông mà ủ cái tình của mình.

Có lẽ ông bà tôi không cô đơn, vì thi sĩ Viên Linh làm thơ thế này chắc cũng do thấm thía nguồn cơn:

"Các con ở tám phương trời.
Nhớ cha như nhớ một người ngoài hiên"

Ôi, những người cô đơn, sao đông làm vậy!

Mỗi lần nghe ai lớn tiếng chuyện "về nguồn", tôi cứ ngơ ngác như con chim nhỏ lạc đàn không thể nào vượt được sông mê bến đục! Về đâu? Nguồn nào? Made in…?

Ba sinh đã không cần, mong chi hương lửa?
 
Chuyện Giáng Sinh

Giữ lời hứa với Chúa Hài Ðồng.

Giáng sinh là nguồn cảm hứng không bao giờ múc cạn. Trong lịch sử nhân loại từ 2,000 năm qua đã có vô số câu chuyện kể về ngày Giáng Sinh. Tựu trung hầu hết những câu chuyện Giáng Sinh đều xoay quanh những đề tài về lòng quãng đại, sự san sẻ, bởi vì ý nghĩa của lễ Giáng Sinh chính là sự trao tặng. Do đó, chuyện Giáng Sinh cũng thường là chuyện tử tế. Trong bầu khí Giáng Sinh, xin được kể hầu quí vị câu chuyện sau đây từ một linh mục người Mỹ ghi lại:

Vị linh mục giúp xứ đi một vòng kiểm tra xung quanh nhà thờ trước khi giáo dân đến tham dự Thánh Lễ nữa đêm. Ghế bàn đã được sắp xếp thứ tự sạch sẽ, các cuốn sách hát lễ đã được thu dọn. Chỉ còn vài phút nữa là bắt đầu Thánh Lễ ban sáng. Sau khi đảo qua một vòng nhà thờ, vị linh mục trở lại phòng thánh để chuẩn bị Thánh Lễ, đi ngang qua máng cỏ, ngài dừng lại để chào thăm Chúa Hài Ðồng, quang cảnh Giáng Sinh được diễn lại một cách vô cùng sống động trước mắt ngài. Ánh sao hướng dẫn các mục đồng đến hang đá Bêlem, các mục đồng đang quỳ thờ lạy, các súc vật cũng trong tư thế trang nghiêm, giữa hang đá là Thánh Giuse và Mẹ Maria đang cung kính cúi nhìn xuống máng cỏ. Bỗng vị Linh Mục chau mày và nhìn sát vào hang đá, ngài không thể cầm được tiếng than như vang dội khắp giáo đường. Máng cỏ hoàn toàn trống trơn. Hài nhi Giêsu đã biến mất. Trong cơn hốt hoảng vị Linh Mục lục soát khắp mọi nơi nhưng vẫn không tìm thấy Hài Nhi Giêsu. Ngài kêu gọi tất cả những ai có mặt trong giáo xứ đến nhưng không một vị nào có thể đưa ra một lời giải thích. Các ngài bàn bạc tranh luận với nhau hồi lâu rồi cuối cùng đành lắc đầu. Sự thật trước mắt là Hài Nhi Giêsu đã biến mất.

Trong thánh lễ rạng đông hôm ấy, vị linh mục đã báo cáo cho cộng đoàn về sự cố với một giọng vừa mạnh vừa run vì xúc động. Ngài nói đến tính cách nghiêm trang của hành động. Ngài coi việc đánh cắp tượng Chúa Hài Ðồng là một hành động phạm thánh. Từ trên tòa giảng, đôi mắt giận dữ của ngài đảo qua từng khuôn mặt trong cộng đoàn rồi dỏng dạc tuyên bố: "Hài Nhi Giêsu phải được mang trả lại nội trong hôm nay". Trong các thánh lễ liên tiếp, vị linh mục cũng lập lại mệnh lệnh ấy, nhưng vô hiệu, máng cỏ vẫn trống trơn. Chiều ngày Giáng Sinh, buồn bã vì sự việc xảy ra, ngài thẩn thờ đi qua các ngã đường của giáo xứ, đầu óc miên man nghỉ đến hành động phạm thánh.

Ngày Giáng Sinh vẫn thường là ngày vắng lặng. Thỉnh thoảng mới thấy có một bóng người qua lại, vậy mà lạ thay, trong một ngỏ hẽm, có một bé trai khoảng 4, 5 tuổi đang ung dung bách bộ. Ðằng sau cậu là một toa xe lửa nho nhỏ xinh xắn mới toanh. Ðây hẳn phải là một món quà Giáng Sinh mà ông già Noel đã tặng cho cậu bé. Vị linh mục tự suy nghĩ và cảm thấy vui lên với niềm vui của cậu bé. Ngài biết rõ cậu là con của một gia đình nghèo, cha cậu hẳn phải hy sinh rất nhiều để cậu có được một món đồ chơi xứng đáng trong ngày lễ Giáng Sinh. Niềm vui của trẻ thơ thường đánh động tâm lòng già cỗi ích kỷ của người lớn, trong phút chốc, vị linh mục như quên hẳn mọi phiền muộn trong lòng. Ngài tiến tới để chúc mừng Giáng Sinh và chung vui với cậu. Nhưng vừa đến gần, ngài bỗng chau mày, cũng cái chau mày như sáng hôm nay khi khám phá ra máng cỏ trống trơn. Cái toa xe lửa không trống trơn mà lại có một hành khách, hành khách ấy không ai khác hơn là Hài Nhi Giêsu đã bị đánh cắp từ máng cỏ trong nhà thờ. Hài nhi Giêsu nằm trong toa xe lửa, mình được quấn khăn hẳn hoi, cậu bé không để lộ bất cứ một sự bối rối nào khi vị linh mục nhìn vào trong toa xe lửa của cậu. Niềm vui nhỏ vừa loé lên nơi vị linh mục giờ đây nhường chỗ cho một cơn giận bất ngờ. Ngài chất vấn cậu bé và giải thích cho cậu về hành động ăn cắp của cậu. Vị linh mục nghĩ ít nhất một cậu bé 4, 5 tuổi cũng đã biết được rằng ăn cắp là một tội và nhất là ăn cắp đồ thánh nặng nề hơn. Nhưng mặc cho vị linh mục hùng hồn dẫn giải, đôi mắt bồ câu ngây thơ của cậu bé vẫn không để lộ một mảy may sám hối nào. Chờ cho vị linh mục trút hết cơn giận và chấm dứt bài học luân lý, cậu bé bình tỉnh thưa:

- Nhưng thưa cha, con không hề ăn cắp Chúa Hài Ðồng, sự việc xảy ra như thế này: Con đã cầu xin Ngài cho con được một món quà Gaíng Sinh mà con hằng ao ước đó là có được một toa xe lửa màu đỏ. Con đã hứa với Ngài rằng nếu con có được một toa xe lửa như thế thì Ngài sẽ là hành khách đầu tiên. Ngài đã nhậm lời con, cho nên con giữ lời hứa với Ngài.

*

* *

Quí vị và các bạn thân mến,

Trẻ thơ trên khắp thế giới vẫn tiếp tục tin có ông già Noel. Trẻ thơ trên khắp thế giới vẫn tiếp tục tin ở lòng quảng đại và sự tử tế của người lớn. Người Mỹ luôn giải thích cho con cái mình về ông già Noel như sau:

Ngày xửa ngày xưa có một người đi rảo khắp thế giới để trao quà cho trẻ em. Con có thể tìm thấy người đó với nhiều tên gọi khác nhau tùy theo mỗi nước nhưng những gì người đó cất giữ trong trái tim thì vẫn giống nhau trong mọi ngôn ngữ. Người đó là tình yêu vô điều kiện và là ước muốn chia sẻ bàng những món quà xuất phát từ trái tim. Khi lớn khôn con sẽ biết rằng: Ông già Noel chẳng phải là lão già râu tóc bạc phơ đến từ những ống khói lò sưởi. Cuộc sống và tâm hồn ông già Noel cũng sống mãi trong con tim của mỗi người chúng ta và trong tâm hồn của tất cả những ai còn tin ở tình yêu vì được trao ban cho người khác. Tinh thần đích thực của ông già Noel là những gì con có thể cho hơn là những gì con nhận lãnh. Con sẽ hiểu được rằng. Ông già Noel sẽ sống mãi trong tâm lòng của mỗi người.

Lời giải thích trên đây của người Mỹ về ông già Noel hẳn gợi lại cho chúng ta trong lời mở đầu của đạo diễn Trần Văn Thủy trong các câu chuyện của ông như sau:

Từ rất xa xưa, cha bác có dạy rằng: Tử tế có trong mỗi người, mỗi nhà, mỗi dòng họ, mỗi dân tộc, hãy bền đổ đánh thức nó, đặt nó trên bàn thờ tổ tiên hay trên lễ đài quốc gia. Bởi thiếu nó, một cộng đồng dù có những nổ lực tột bậc và chí hướng cao xa đến mấy thì cũng chỉ là những điều vớ vẩn.

Hãy hướng trẻ thơ và cả người lớn vào việc học làm người tử tế trước khi mong muốn và chăn dắt họ thành những người có quyền hành giỏi giang hay siêu
 
Status
Không mở trả lời sau này.
Back
Top