• Hiện tại trang web đang trong quá hình chuyển đổi và tái cấu trúc lại chuyên mục nên có thể một vài chức năng chưa hoàn thiện, một số bài viết và chuyên mục sẽ thay đổi. Nếu sự thay đổi này làm bạn phiền lòng, mong bạn thông cảm. Chúng tôi luôn hoan nghênh mọi ý kiến đóng góp để chúng tôi hoàn thiện và phát triển. Cảm ơn

1001 CÂU CHUYỆN CẢM ĐỘNG!!!

Status
Không mở trả lời sau này.
Hôm sau lão Hạc sang nhà tôi. Vừa thấy tôi, lão báo ngay :

- Cậu Vàng đi đời rồi, ông giáo ạ!

- Cụ bán rồi?

- Bán rồi! Họ vừa bắt xong.

Lão cố làm ra vẻ vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước, tôi muốn ôm choàng lấy lão mà oà lên khóc. Bây giờ thì tôi không xót năm quyển sách của tôi quá như trước nữa. Tôi chỉ ái ngại cho lão Hạc.

Tôi hỏi cho có chuyện :

- Thế nó cho bắt à?

Mặt lão đột nhiên co dúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc...

- Khốn nạn... Ông giáo ơi! Nó có biết gì đâu! Nó thấy tôi gọi thì chạy ngay về, vẫy đuôi mừng. Tôi cho nó ăn cơm. Nó đang ăn thì thằng Mục nấp trong nhà, ngay đằng sau nó, tóm lấy hai cẳng sau nó dốc ngược nó lên. Cứ thế là thằng Mục với thằng Xiên, hai thằng chúng nó chỉ loay hoay một lúc đã trói chặt cả bốn chân nó lại. Bấy giờ cu cậu mới biết là cu cậu chết! Này! Ông giáo ạ! Cái giống nó cũng khôn! Nó cứ làm in như nó trách tôi ; nó kêu ư ử, nhìn tôi như muốn bảo tôi rằng : “A! Lão già tệ lắm! Tôi ăn ở với lão như thế mà lão xử với tôi như thế này?”. Thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó, nó không ngờ tôi nỡ tâm lừa nó!

Tôi an ủi lão :

- Cụ cứ tưởng thế đấy chứ nó chả biết đâu! Vả lại ai nuôi chó mà chả bán hay giết thịt? Ta giết nó chính là hoá kiếp cho nó đấy, hoá kiếp để cho nó làm kiếp khác.

Lão chua chát bảo :

- Ông giáo nói phải! Kiếp cho chó là kiếp khổ thì ta hoá kiếp cho nó để nó làm kiếp người, may ra có sung sướng hơn một chút... kiếp người như kiếp tôi chẳng hạn...

Tôi bùi ngùi nhìn lão, bảo :

- Kiếp ai cũng thế thôi, cụ ạ! Cụ tưởng tôi sung sướng hơn chăng?

- Thế thì không biết nếu kiếp người cũng khổ nốt thì ta nên làm kiếp gì cho thật sướng

Lão cười và ho sòng sọc. Tôi nắm lấy cái vai gầy của lão, ôn tồn bảo :

- Chẳng kiếp gì sung sướng thật, nhưng có cái này là sung sướng : bây giờ cụ ngồi xuống phản này chơi, tôi đi luộc mấy củ khoai lang, nấu một ấm nước chè tươi thật đặc ; ông con mình ăn khoai, uống nước chè, rồi hút thuốc lào... Thế là sướng.

- Vâng! Ông giáo dạy phải! Ðối với chúng mình thì thế là sung sướng.

Lão nói xong lại cười đưa đà. Tiếng cười gượng nhưng nghe đã hiền hậu lại.

Tôi vui vẻ bảo :

- Thế là được, chứ gì? Vậy cụ ngồi xuống đây, tôi đi luộc khoai, nấu nước.

- Nói đùa thế, chứ ông giáo cho để khi khác?...

- Việc gì còn phải chờ khi khác?... Không bao giờ nên hoãn sự sung sướng lại. Cụ cứ ngồi xuống đây! Tôi làm nhanh lắm...

- Ðã biết, nhưng tôi còn muốn nhờ ông một việc...

Mặt lão nghiêm trang lại...

- Việc gì thế, cụ?

- Ông giáo để tôi nói... Nó hơi dài dòng một tí.

- Vâng, cụ nói.

- Nó thế này, ông giáo ạ!

Và lão kể. Lão kể nhỏ nhẹ và dài dòng thật. Nhưng đại khái có thể rút vào hai việc. Việc thứ nhất : Lão thì già, con đi vắng, vả lại nó cũng còn dại lắm, nếu không có người trông nom cho thì khó mà giữ được vườn đất để làm ăn ở làng này. Tôi là người nhiều chữ nghĩa, nhiều lý luận người ta kiêng nể, vậy lão muốn nhờ tôi cho lão gửi ba sào vườn của thằng con lão, lão viết văn tự nhượng cho tôi để không ai còn tơ tưởng dòm nhó đến ; khi nào con lão về thì nó sẽ nhận vườn làm, nhưng văn tự cứ để tên tôi cũng được, để thế để tôi trông coi cho nó... Việc thứ hai : Lão già yếu lắm rồi, không biết sống chết lúc nào : con không có nhà, lỡ chết không biết ai đứng ra lo cho được ; để phiền cho hàng xóm thì chết không nhắm mắt : lão còn được hăm nhăm đồng bạc với năm đồng vừa bán chó là ba mươi đồng bạc, muốn gửi tôi để lỡ có chết thì tôi đem ra, nói với hàng xóm giúp, gọi là của lão có tí chút, còn bao nhiêu đành nhờ hàng xóm cả...

Tôi bật cười bảo lão :

- Sao cụ lo xa quá thế? Cụ còn khoẻ lắm, chưa chết đâu mà sợ! Cụ cứ để tiền ấy mà ăn, lúc chết hãy hay! Tội gì bây giờ nhịn đói mà tiền để lại?

- Không, ông giáo ạ! Ăn mãi hết đi thì đến lúc chết lấy gì mà lo liệu?

- Ðã đành rằng là thế, nhưng tôi bòn vườn của nó bao nhiêu, tiêu hết cả. Nó vợ con chưa có. Ngộ nó không lấy gì lo được, lại bán vườn thì sao?...

Tôi cắn rơm, cắn cỏ tôi lạy ông giáo! Ông giáo có nghĩ cái tình tôi già nua tuổi tác mà thương thì ông giáo cứ cho tôi gửi.

Thấy lão nằn nì mãi, tôi đành nhận vậy. Lúc lão ra về, tôi còn hỏi :

- Có đồng nào, cụ nhặt nhạnh đưa cho tôi cả thì cụ lấy gì mà ăn?

Lão cười nhạt bảo :

- Ðược ạ! Tôi đã liệu đâu vào đấy... Thế nào rồi cũng xong.

Luôn mấy hôm, tôi thấy lão Hạc chỉ ăn khoai. Rồi thì khoai cũng hết. Bắt đầu từ đấy, lão chế tạo được món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì ăn rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy, hay bữa trai, bữa ốc. Tôi nói chuyện lão với vợ tôi. Thị gạt phắt đi :

- Cho lão chết! Ai bảo lão có tiền mà chịu khổ! Lão làm lão khổ chứ ai làm lão khổ! Nhà mình sung sướng gì mà giúp lão? Chính con mình cũng
 
Chao ôi! Ðối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ối... toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn ; không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương ; không bao giờ ta thương... Vợ tôi không ác, nhưng thị khổ quá rồi. Một người đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến một cái gì khác đâu? Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ gì đến ai được nữa. Cái bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau ích kỷ che lấp mất. Tôi biết vây, nên tôi chỉ buồn chứ không nỡ giận.

Tôi giấu giếm vợ tôi, thỉnh thoảng giúp ngấm ngầm lão Hạc. Nhưng hình như lão cũng biết vợ tôi không ưng giúp lão. Lão cứ chối tất cả những cái gì tôi cho lão. Lão từ chối một cách gần như là hách dịch. Và lão cứ xa tôi dần dần...

Lão không hiểu tôi, tôi nghĩ vậy, và tôi càng buồn lắm. Những người nghèo nhiều tự ái vẫn thường như thế. Họ dư tủi thân nên rất hay chạnh lòng. Ta khó mà ở cho vừa ý họ... Một hôm, tôi phàn nàn về việc ấy với binh Tư.

Binh Tư là một người láng giềng khác của tôi : Hắn làm nghề ăn trộm nên vốn không ưa lão Hạc bởi vì lão lương thiện quá. Hắn bĩu môi và bảo :

- Lão làm bộ đấy! Thật ra thì lão chỉ tâm ngẩm thế, nhưng cũng ra phết chứ chả vừa đâu. Lão vừa xin tôi một ít bả chó...

Tôi trố to đôi mắt, ngạc nhiên. Hắn thì thầm :

- Lão bảo có con chó nhà nào cứ đến vườn nhà lão... Lão định cho nó xơi một bữa. Nếu trúng, lão với tôi uống rượu.

Hỡi ơi lão Hạc! Thì ra đến lúc cùng lão cũng có thể làm liều như ai hết... Một người như thế ấy!... Một người đã khóc vì trót lừa một con chó!... Một người nhịn ăn để tiền lại làm ma, bởi không muốn liên luỵ đến hàng xóm, láng giềng.. Con người đáng kính ấy bây giờ cũng theo gót binh Tư để có ăn ư? Cuộc đời quả thật cứ một ngày một thêm đáng buồn...


ooOoo

Không! Cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn, hay vẫn đáng buồn nhưng lại đáng buồn theo một nghĩa khác. Tôi ở nhà binh Tư về được một lúc lâu thì thấy những tiếng nhốn nháo ở bên nhà lão Hạc. Tôi mải mốt chạy sang. Mấy người hàng xóm đến trước tôi đang xôn xao ở trong nhà. Tôi xồng xộc chạy vào.

Lão Hạc đang vật vã ở trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái, giật nẩy lên. Hai người đàn ông lực lưỡng phải ngồi đè lên người lão. Lão vật vã đến hai giờ đồng hồ rồi mới chết. Cái chết thật là dữ dội. Chẳng ai hiểu lão chết vì bệnh gì mà đau đớn và bất thình lình như vậy. Chỉ có tôi với Binh Tư hiểu. Nhưng nói ra làm gì nữa! Lão Hạc ơi! Lão hãy yên lòng mà nhắm mắt! Lão đừng lo gì cho cái vườn của lão. Tôi sẽ cố giữ gìn cho lão. Ðến khi con trai lão về, tôi sẽ trao lại cho hắn và bảo hắn : “Ðây là cái vườn mà ông cụ thân sinh ra anh đã cố để lại cho anh trọn vẹn : cụ thà chết chứ không chịu bán đi một sào...”
 
Ðó là chuyện ba câu hỏi khó của một nhà vua, do nhà văn hào Leo Tolstoy kể lại.

Nhà vua ấy, Tolstoy không biết tên. Một hôm đức Vua nghĩ rằng, giá mà vua trả lời được ba câu hỏi ấy thì vua sẽ không bao giờ bị thất bại trong bất cứ công việc nào. Ba câu hỏi ấy là:
1. Làm sao để biết được thời gian nào là thời gian thuận lợi nhất cho mỗi công việc?

2. Làm sao để biết được nhân vật nào là nhân vật quan trọng nhất mà ta phải chú trọng?

3. Làm sao để biết được công việc nào là công việc cần thiết nhất mà ta phải thực hiện?

Nghĩ thế, vua liền ban chiếu ra khắp trong bàn dân thiên hạ, hứa rằng sẽ ban thưởng trọng hậu cho kẻ nào trả lời được những câu hỏi đó.

Các bậc hiền nhân đọc chiếu liền tìm tới kinh đô. Nhưng mỗi người lại dâng lên vua một câu trả lời khác nhau.

Về câu hỏi thứ nhất, có người trả lời rằng muốn biết thời gian nào là thời gian thuận lợi nhất cho mỗi công việc thì phải làm thời biểu cho đàng hoàng, có ngày giờ năm tháng và phải thi hành cho thật đúng thời biểu ấy. Như vậy mới mong công việc làm đúng lúc. Kẻ khác thì lại nói không thể nào dự tính được trước những việc gì phải làm và thời gian để làm những việc ấy; rằng ta không nên ham vui mà nên chú ý đến mọi sự khi chúng xẩy tới để có thể làm bất cứ gì xét ra cần thiết.

Có kẻ lại nói rằng, dù vua có chú ý đến tình hình mấy đi nữa thì một mình vua cũng không đủ sáng suốt để định đoạt thời gian của mọi việc làm một cách sáng suốt, do đó nhà vua phải thành lập một Hội Ðồng Nhân Sĩ và hành động theo lời khuyến cáo của họ.

Lại có kẻ nói rằng, có những công việc cần phải lấy quyết định tức khắc không thể nào có thì giờ để tham khảo xem đã đến lúc phải làm hay chưa đến lúc phải làm. Mà muốn lấy quyết định cho đúng thì phải biết trước những gì sẽ xẩy ra, do đó, nhà vua cần phải cần đến những nhà cố vấn tiên tri và bốc phệ.

Về câu hỏi thứ hai, cũng có nhiều câu trả lời không giống nhau. Có người nói những nhân vật mà vua cần chú ý nhất là những ông đại thần và những người trong triều đình. Có người nói là mấy ông Giám Mục, Thượng Tọa là quan hệ hơn hết. Có người nói là mấy ông tướng lãnh trong quân đội là quan hệ hơn hết.

Về câu hỏi thứ ba, các nhà thức giả cũng trả lời khác nhau. Có người nói khoa học là quan trọng nhất. Có người nói tôn giáo là quan trọng nhất. Có người lại nói: chỉnh trang quân đội là quan trọng nhất.

Vì các câu trả lời khác nhau cho nên nhà vua không thể đồng ý với vị hiền nhân nào cả, và chẳng ban thưởng cho ai hết.

Sau nhiều đêm suy nghĩ vua quyết định đi chất vấn một ông đạo tu trên núi, ông đạo này nổi tiếng là có giác ngộ. Vua muốn tìm lên trên núi để gặp ông đạo và hỏi ba câu hỏi kia.

Vị đạo sĩ này chưa bao giờ chịu xuống núi và nơi ông ta ở chỉ có những người dân nghèo; chẳng bao giờ ông chịu tiếp người quyền quý. Vì vậy mà nhà vua cải trang làm thường dân. Khi đi đến chân núi, vua dặn vệ sĩ đứng chờ ở dưới, và một mình vua, trong y phục một thường dân, vua trèo lên am của ông đạo.

Nhà vua gặp ông đạo đang cuốc đất trước am. Khi trông thấy người lạ, ông đạo gật đầu chào rồi tiếp tục cuốc đất. Ông đạo cuốc đất một cách nặng nhọc bởi ông đã già yếu; mỗi khi cuốc lên được một tảng đất hoặc lật ngược được tảng đất ra thì ông lại thở hào hển.

Nhà vua tới gần ông đạo và nói: "Tôi tới đây để xin ông đạo trả lời giúp cho tôi ba câu hỏi. Làm thế nào để biết đúng thì giờ hành động, đừng để cho cơ hội qua rồi sau phải hối tiếc? Ai là những người quan trọng nhất mà ta phải chú ý tới nhiều hơn cả? Và công việc nào quan trọng nhất cần thực hiện trước tiên?"

Ông đạo lắng nghe nhà vua nhưng không trả lời. Ông chỉ vỗ vai nhà vua và cúi xuống tiếp tục cuốc đất.

Nhà vua nói: "Ông đạo mệt lắm rồi, thôi đưa cuốc cho tôi, tôi cuốc một lát". Vị đạo sĩ cám ơn và trao cuốc cho Vua rồi ngồi xuống đất nghỉ mệt. Cuốc xong được hai vồng đất thì nhà vua ngừng tay và lập lại câu hỏi. Ông đạo vẫn không trả lời, chỉ đứng dậy và đưa tay ra đòi cuốc, miệng nói: "Bây giờ bác phải nghỉ, đến phiên tôi cuốc". Nhưng nhà vua thay vì trao cuốc lại cúi xuống tiếp tục cuốc đất.

Một giờ rồi hai giờ đồng hồ đi qua. Rồi mặt trời bắt đầu khuất sau đỉnh núi. Nhà vua ngừng tay, buông cuốc, và nói với ông đạo:

"Tôi tới để xin ông đạo trả lời cho mấy câu hỏi. Nếu ông đạo không thể trả lời cho tôi câu nào hết thì xin cho biết để tôi còn về nhà".

Ông đạo nghe tiếng chân người chạy đâu đây bèn nói với nhà vua: "Bác thử xem có ai chạy lên kìa". Nhà vua ngó ra thì thấy một người có râu dài đang chạy lúp xúp sau mấy bụi cây, hai tay ôm bụng. Máu chảy ướt đầm cả hai tay. Ông ta cố chạy tới chỗ nhà vua và ngất xỉu giữa đất, nằm im bất động miệng rên ri rỉ.

Vua và ông đạo cởi áo người đó ra thì thấy có một vết đâm sâu nơi bụng. Vua rửa chỗ bị thương thật sạch và xé áo của mình ra băng bó vết thương, nhưng máu thấm ướt cả áo. Vua giặt áo và đem băng lại vết thương. Cứ như thế cho đến khi máu ngừng chảy.

Lúc bấy giờ người bị thương mới tỉnh dậy và đòi uống nước. Vua chạy đi múc nước suối cho ông ta uống. Khi đó mặt trời đã bắt đầu khuất và bắt đầu lạnh. Nhờ sự tiếp tay của ông đạo, nhà vua khiêng người bị nạn vào trong am và đặt nằm trên giường ông đạo. Ông ta nhắm mắt nằm yên. Nhà vua cũng mệt quá vì leo núi và cuốc đất cho nên ngồi dựa vào cánh cửa và ngủ thiếp đi. Vua ngủ ngon cho đến nỗi khi Vua thức dậy thì trời đã sáng và phải một lúc sau Vua mới nhớ ra được mình đang ở đâu và đang làm gì. Vua nhìn về phía giường thì thấy người bị thương cũng đang nhìn mình chòng chọc, hai mắt sáng trưng.

Người đó thấy vua tỉnh giấc rồi và đang nhìn mình thì nói, giọng rất yếu ớt:

"Xin bệ hạ tha tội cho thần".

"Ông có làm gì nên tội đâu mà phải tha ?"

"Bệ hạ không biết hạ thần, nhưng hạ thần biết bệ hạ. Hạ thần là người thù của bệ hạ, hạ thần đã thề sẽ giết bệ hạ cho bằng được bởi vì khi xưa, trong chinh chiến bệ hạ đã giết mất người anh của hạ thần và còn tịch thu gia sản của hạ thần nữa".

"Hạ thần biết rằng bệ hạ sẽ lên núi này một mình để gặp ông đạo sĩ, nên đã mai phục quyết tâm giết bệ hạ trên con đường về. Nhưng cho đến tối mà bệ hạ vẫn chưa trở xuống, nên hạ thần đã rời chỗ mai phục mà đi lên núi tìm bệ hạ để hành thích. Thay vì gặp bệ hạ, hạ thần lại gặp bốn vệ sĩ. Bọn nầy nhận mặt được hạ thần cho nên đã xông lại đâm hạ thần. Hạ thần trốn được chạy lên đây, nhưng nếu không có bệ hạ cứu thì chắc chắn hạ thần đã chết vì máu ra nhiều quá. Hạ thần quyết tâm hành thích bệ hạ mà bệ hạ lại cứu sống được hạ thần. Hạ thần hối hận quá. Bây giờ đây nếu hạ thần mà sống được thì hạ thần nguyện sẽ làm tôi mọi cho bệ hạ suốt đời, và hạ thần cũng sẽ bắt các con của hạ thần làm như vậy. Xin bệ hạ tha tội cho hạ thần".

Thấy mình hòa giải được với kẻ thù một cách dễ dàng nhà vua rất vui mừng. Vua không những tha tội cho người kia mà còn hứa sẽ trả lại gia sản cho ông ta, và gửi ngự y cùng quân hầu tới săn sóc cho ông ta lành bệnh.

Sau khi cho vệ sĩ khiêng người bị thương về nhà, vua trở lên tìm ông đạo để chào. Trước khi ra về vua còn lặp lại lần cuối ba câu hỏi của vua. Ông đạo đang quỳ gối xuống đất gieo những hạt đậu trên những luống đất đã cuốc sẵn hôm qua.

Vị đạo sĩ đứng dậy nhìn vua: "Nhưng ba câu hỏi của vua đã được trả lời rồi mà".

Vua hỏi: "Trả lời bao giờ đâu nào?"

"Hôm qua nếu Vua không thương hại bần đạo già yếu mà ra tay cuốc dùm mấy luống đất này thì khi ra về nhà vua đã bị kẻ kia mai phục hành thích mất rồi, và nhà Vua sẽ tiếc rằng đã không ở lại cùng ta. Vì vậy thời gian quan trọng nhất là thời gian Vua đang cuốc đất; nhân vật quan trọng nhất lúc đó là bần đạo đây, và công việc quan trọng nhất là công việc giúp bần đạo. Rồi sau đó khi người bị thương nọ chạy lên, thời gian quan trọng nhất là thời gian vua chăm sóc cho ông ta, bởi vì nếu vua không băng vết thương cho thì ông ta sẽ chết và vua không có dịp hòa giải với ổng; cũng vì thế mà ông ta là nhân vật quan trọng nhất, và công việc vua làm để băng bó vết thương là quan trọng nhất. Xin vua hãy nhớ kỹ điều này: "Chỉ có một thời gian quan trọng mà thôi, đó là thời gian hiện tại, là giờ phút hiện tại. Giờ phút hiện tại quan trọng bởi vì đó là thời gian duy nhất trong đó ta có thể làm chủ được ta. Và nhân vật quan trọng nhất là kẻ đang cụ thể sống với ta, đang đứng trước mặt ta, bởi vì ai biết được là mình sẽ đương đầu làm việc với những kẻ nào trong tương lai. Công việc quan trọng nhất là công việc làm cho người đang cụ thể sống bên ta, đang đứng trước mặt ta được hạnh phúc, bởi vì đó là ý nghĩa chính của đời sống
 
Luồn qua khỏi cụm tràm xơ xác vì bom đạn, đoàn khách chúng tôi dừng lại trên một bờ trâm bầu rậm lá. Sau kẽ hở của những thân cây trâm bầu nhú gai sắc, cánh đồng ngập nước lấp loáng như một tấm gương lớn. Anh giao liên nhấc cái nón sắt Mỹ trên đầu xuống nói:

- Tới chỗ đổi trực rồi, mình nghỉ đợi bên kia qua, mấy anh lo bẻ lá ngụy trang đi. Cánh đồng mấy anh sắp qua đây rộng tới ba bốn cây số, mà trống lắm!

Nói rồi anh vặt một nhánh trâm bầu trước mặt, giơ tay chỉ:

- Đó, mênh mông vậy đó!

Tôi để nguyên ba lô ngồi bệt xuống, dòm ra đồng. Hồi mùa khô năm ngoái tôi có đi qua đây. Vậy mà bây giờ cách đồng ngó coi khác quá. Ông trời đổ mưa chưa đầy một tháng mà nước đã ngập mênh mông như biển. Tôi đặt balô đứng lên đưa mắt trầm ngâm nhìn quãng đồng lát nữa đây mình sẽ phải vượt qua. Giữa trời trưa không hé một tia nắng, đồng nước nhấp nhô những làn sóng nhỏ, mải miết như trẩy về một bến bờ xa xăm nào. Trên cánh đồng nước đìu hiu đó không có gì ngoài những chòm gáo thưa với những khóm điên điển trổ đầy những bông vàng rực giống như sắc lông chim hoàng yến. Bên trên, bầu trời âm âm một màu tro. Đấy chính là bầu trời Tháp Mười tháng Bảy, trông như thấp hẳn xuống và trĩu nặng những nước. Tôi vừa bẻ vội mấy nhánh trâm bầu để ngụy trang vừa nói với anh giao liên:

- Nè, sao không cho tụi tôi đi đêm, có phải tiện hơn không hở ông bạn trẻ?

Anh giao liên bảo:

- Ôi, bây giờ ban đêm thì có khác chi ban ngày. Ban đêm tụi "cá nhái" đi soi còn dữ nữa đa anh!

Tôi lo lắng ngó nhìn đoàn người chúng tôi. Mười ba người. Súng ngắn thời nhiều mà súng dài thời ít, đâu chỉ có hai cây cạcbin của hai anh chiến sĩ cận vệ trẻ. Ngồi xuống bên cạnh một anh cán bộ đeo khẩu "Braonin Canađa" loại bắn mười lăm phát, tôi nói:

- Anh à, mình đi công tác đeo súng ngắn có gọn, nhưng tác dụng đánh trả kém lắm!

Anh gật đầu:

- ờ, tôi cũng tính kỳ này về đơn vị tôi cũng sẽ rán kiếm một cây cạcbin, hễ đi đường đụng biệt kích là mình có thể té xuống quật lại liền. Hay là gặp trực thăng, mình "chiếu" lên, nó cũng phải kiêng!

Anh giao liên đang ngồi vấn điếu thuốc, chợt nói chen:

- Trời đất, người ta kiếm súng ngắn không ra mà mấy anh chê. Mấy anh không nghe phụ nữ họ hát à?

- Hát sao?

- Súng dài súng lớn em cũng chớ có màng.

Dây dù "côn nớp" mới chính là chàng em yêu!

Anh giao liên đọc luôn câu đó rồi nhoẻn cười một cách rất là hóm. Anh xin tôi lửa đốt thuốc và bật đứng lên, ngó qua ven đồng phía bên kia. Anh nói:

- Bữa nay tới phiên chị Ba trưởng trạm đi chuyển qua, bộ mắc còn lo dỗ con hay sao mà tới trễ quá!

Tôi ngẩng lên:

- ủa, lần trước tôi có qua trạm đó thấy trưởng trạm là anh gì đó mà?

- ờ, anh Ba. Nhưng ảnh đã hy sinh. Cũng trên cánh đồng này, hồi tháng nắng. Bữa đó ảnh bắn cây bá đỏ, tả xông hữu đột với mấy con trực thăng cá nhái, giải thoát cho đoàn khách. ảnh là chồng của chị Ba. ảnh chết rồi, chị Ba mới lên thay. Hoàn cảnh gia đình chị có hơi bê bối, có một đứa con còn nhỏ... Tụi tôi vẫn gọi chị là chị Ba Tương Lai.

Anh cán bộ mang khẩu "Braonin" bảo:

- Chị đó có cái tên nghe hay quá. Thời buổi cách mạng này, anh chị em mình ai cũng đặt tên tốt.

Anh giao liên vội thanh minh:

- Không, cái tên đó không phải do chị Ba tự đặt cho mình đâu. Mấy anh cán bộ, bộ đội qua đường đặt đó chớ. Chẳng là cái trạm của chị hấp dẫn, không "hẻo" như trạm của tụi tôi. ở đó thường có nhiều chất tươi, lươn cá dễ kiếm, nhiều khi có cả dừa xiêm, chuối chín, còn trà thuốc kể như dự trữ thừa sức. Cho nên mấy anh khách thường qua lại đây kêu chỉ là chị Ba Tương Lai, nghĩa là tới trạm của chị thì có tương lai lắm. Tôi nói thiệt, chiều nay mấy anh tới đó rồi biết, đám nữ giao liên em út của chị Ba cũng đông, chớ không phải đều là dân đực rựa như bên trạm tụi tôi đâu!

Dứt câu, anh giao liên lại nhoẻn cười cái nữa, nụ cười này cũng không kém phần ranh mãnh. Những điều mà anh giao liên vừa nói dĩ nhiên là khiến cho cả đoàn khách chúng tôi phấn chấn hẳn lên. Nhưng riêng tôi, cái khiến tôi lưu ý suốt tự nãy giờ chính là chuyện về cái chết của người chồng và sự thay thế của người vợ. Tôi định gợi hỏi thêm, nhưng anh giao liên đã buông chuyện, rướn người đặt ngón tay cái và ngón trỏ vòng quanh mắt ngó qua ven đồng bên kia. Lần này, anh hớn hở reo lên:

- Mấy anh ơi, tôi bỏ ống dòm ngó thấy chị Ba qua rồi. Đó, đó, mấy anh thấy chưa?

Tôi nhỏm dậy, nhìn theo hướng tay của anh giao liên. Quả là thấy có dạng người mặc quần áo đen nhô ra khỏi ven vườn thật. Lát sau, đã thấy nước tóc trắng dưới chân họ. Rõ ràng là họ đã bắt đầu băng đồng. Hình như có hai người. Họ băng ngay về hướng chúng tôi. Lúc ấy chợt có mưa. Mưa rơi nhẹ nhàng, lâm râm khắp mặt đồng nước. Tháng Bảy bao giờ mà chẳng thế. Bầu trời âm âm sũng nước của Tháp Mười rất sẵn sàng mưa. Khi ta nghe hơi gió trở lạnh là sắp mưa đấy thôi. Những cơn mưa nhỏ, những trận mưa to. Trong mưa, cánh cò vẫn bay lả chập chờn từ mặt ruộng nước này tới mặt ruộng nước khác. Và những con le le, bói cá vẫn te rẹt ngoi lặn. Đâu đây nghe vẳng tới tiếng kêu ré của những con trích sống nơi lùm bụi nửa ngập nửa nổi. Cảnh Tháp Mười mưa là cái cảnh quê hương dầm tắm sau suốt sáu tháng ròng chang chang nắng lửa, là cái cảnh lặn lội kiếm ăn miệt mài của con chim ruộng, con cá đồng. Đối với tôi thì cảnh Tháp Mười mưa dễ khơi dậy bao kỷ niệm thấm lòng về những năm tháng gian lao, về những nỗi đắng cay căm uất, về cái thời chúng ta chỉ có trái tim sôi sục mà trong tay chưa có sắt.
 
Mưa vẫn rơi nhẹ nhàng trên đồng nước. Hai bóng người bên kia mỗi lúc một gần lại. Nếu anh giao liên không nói trước, bây giờ tôi cũng có thể nhận ra họ là phụ nữ. Cả hai đều vén quần lên tới vế, do đó mà tôi biết được nước đồng chỉ lên quá gối một chút. Chốc sau, cơn mưa ngơi ngớt dần, và cánh đồng lại trở nên quang tạnh. Người phụ nữ đi đầu có vẻ cao lớn, còn người đi sau thì thấp bé hơn. Anh giao liên nói:

- Người đi đầu là chị Ba đó.

Dần dà hai người đã hiện rõ trước mặt. Vậy là tôi đã hình dung không đúng cho lắm. Cái chị Ba Tương Lai này cao lớn chớ không nhỏ nhắn như tôi tưởng. Chị ta coi vạm vỡ, tướng đi xốc xáo, và có một cái búi tóc rất to. Còn cách bờ trâm bầu chỗ chúng tôi ngồi nghỉ chừng vài công đất, chị ta đã nói vọng vào nghe oang oang:

- ừ, tới rồi đó hả, mấy ông nhỏ?

Anh giao liên đáp:

- Tới lâu rồi, bộ còn lo dỗ con sao mà tới trễ vậy chị Ba?

- Trễ gì?

Chị Ba Tương Lai bác luôn. Chị hỏi anh giao liên:

- Giấy tờ của mấy ảnh đâu?

Anh giao liên liền giơ cái nón sắt, rút ra một cuộn giấy đi đường đưa cho chị Ba. Chị Ba coi giấy tờ. Đang coi, bỗng chị ngước lên:

- Mấy anh chú ý nghe, tôi xướng danh tánh hễ tôi kêu tên ai, người đó hô "có" giùm!

Thế rồi chị bắt đầu xướng tên chúng tôi, giọng ồ ồ như giọng đàn ông. Anh khách nào đáp "có" thì chị liếc nhìn anh ấy như để nhận mặt. Xong xuôi, chị cuộn mớ giấy nhét vào túi áo, đi lịch phịch từ đằng đầu cho chí đằng đuôi đoàn khách, dòm ngó coi từng nhánh lá ngụy trang. Anh nào ngụy trang kỹ thì chị không nói chi, còn anh nào ngụy trang sơ sài thì chị không chịu:

- Đồng chí làm ơn bẻ ít nhánh trâm bầu giắt thêm cho tôi nhờ coi!

Hoặc chị bác bỏ:

- Ngụy trang như vậy đâu có được!

Bỗng nhiên giọng chị trở nên khe khắt, mà lại có vẻ hơi hách dịch nữa. Tôi cảm thấy thú vị, bởi vì lâu nay tôi thường thấy những cô giao liên năn nỉ thuyết phục khách nhiều hơn, còn ở chị trưởng trạm này chị tỏ rõ chị có cái uy quyền của chị. Nhất là có những anh bạn cùng đi với tôi còn lần chần chưa chịu cải sửa, nên chị ta nói nếu chừng nào tình trạng ngụy trang còn lôi thôi thì chị chưa thể dẫn đi được. ấy, chị dõng dạc nói như thế. Nói rồi còn cười nữa chớ. Nhưng chị chỉ cười mỉm, rồi liền lập nghiêm lại ngay.

Chuyện ngụy trang tất nhiên rồi cũng đâu vào đấy cả. Chúng tôi khoác ba lô lên vai chuẩn bị lên đường. Chị Ba tay cầm trái lựa đạn da láng lận trở vô lưng. Chị nhắc nhở chúng tôi khi đi qua đồng phải cố vượt cho nhanh, càng nhanh càng tốt. Hễ có máy bay cũng cứ bình tĩnh đợi lịnh chị, chớ dứt khoát không được mạnh ai nấy làm theo ý mình. Chị bảo cô nữ giao liên:

- Em dắt mấy anh đi trước, cho giãn cự ly ra chừng hai tầm đất, để chị đi sau.

Đoàn khách chúng tôi lần lượt theo cô giao liên lội xuống đồng nước. Tôi là người đi áp chót, tức là sau tôi chỉ còn có chị Ba. Nước đồng sâu quá gối một chút. Đây là cái tháng vất vả nhất cho những ai ngược xuôi qua Đồng Tháp. Thà như đi sớm hơn một tháng thì còn khô, hay là đi muộn hơn một tháng thì lúc đó sẽ được đi xuồng. Chớ bây giờ cỏ Tháp Mười bị mưa còn chưa đủ chết. Biển cỏ dầm mình trong làn nước nửa chua nửa ngọt bởi phèn xì lên và mưa trút xuống. Nước trên đồng nhờ có chất phèn nên trong veo, có thể ngó thấy rõ từng đàn cá chạy, từ con cá rô đen mun tới con cá sặc anh ánh sắc tím. Trên mặt đồng nổi lềnh bềnh nhiều ốc bưu ốc lát, con ốc nào cũng đóng rêu xanh rờn. Ban nãy cánh đồng còn tĩnh lặng, bây giờ tiếng chân chúng tôi lội bì bõm khua động ỏm cả lên. Mưa đã ngớt hẳn. Tôi đi ngang qua những bụi bông súng nở bông to như hoa quỳ, và những cọng bông súng màu vàng rêu lả lay dưới làn nước bị khuấy động làm cho tôi cứ như ngửi thấy mùi mắm kho từ ven xóm ở bên kia phất tới. Đồng bằng tháng nước thiệt không có gì thân thuộc bằng cái mùi mắm kho, khi mà trên đồng đã rất sẵn bông súng. Ven xóm ngan ngát khói lam phía trước mặt chúng tôi mới thiệt là ấm cúng, thiệt là hứa hẹn làm sao. Tôi háo hức muốn tới đó cho sớm sủa, vì ở đó chắc chắn sẽ có đủ những thứ mà khi ở rừng tôi hằng khao khát: này là tiếng hỏi thăm trìu mến của các mẹ già, này là tiếng đánh vần của các em vang vang từ một ngôi trường, rồi thì mùi rơm mục, mùi hương của những bông cau... Xóm làng giải phóng của chúng ta quả là cái đích chan chứa hy vọng của mỗi chặng đường. Khi chân tôi đã thấy mỏi, thì chính làn khói lam trong xóm kia lại như vẫy gọi tôi đi nhanh tới. Thỉnh thoảng tôi dòm ngoái lại phía sau, nhìn bờ cây trâm bầu chỗ xuất phát ban nãy để ước lượng coi mình đã đi bao xa. Rặng trâm bầu ấy cứ lùi dần, mờ dần. Có lẽ chúng tôi đã đi được nửa cánh đồng, hoặc quá nửa một chút. Tuy vậy, chúng tôi cũng chưa được yên tâm. Khi chúng tôi còn lội sồn sộn giữa đồng nước quang trống thế này thì mọi sự bất trắc vẫn còn có thể xảy đến. Tôi còn lạ gì những cuộc đổ quân chớp nhoáng, hỗn hào của tụi trực thăng, và tôi cũng chẳng lạ gì những chiếc L.19 chúa hay bắn rốc két. Đi giữa đồng nước này, tôi có cảm tưởng giống như đang qua sông Tiền sông Hậu. Nói chung đây là cái cảm tưởng thấp thỏm ở những chỗ căng nhất của những lộ trình.

Chị Ba Tương Lai vẫn đi phía sau, cách tôi chừng một công đất. Tôi biết rõ là chị có thừa sức vượt qua tôi, vì chị là dân đồng nước. Đó là tiếng chân chị bỏ xuống nước nghe tom tõm gọn hơ chứ không khua ầm lên như chúng tôi đâu. Tôi nghĩ chị đã đi rốn chậm lại, bởi tôi không tài nào đi nhanh hơn được nữa. Nhưng giá như tôi có nhường chị lên trước, chắc chắn chị cũng sẽ không lên đâu. Dẫu sao, đó cũng là chỗ đi của chị. Những người công tác đường dây bao giờ cũng đi đúng chỗ của họ. Và hầu hết các chỗ ấy đều là chỗ hiểm nguy.

Ven vườn không còn bao xa nữa. Phía trước, cô giao liên dẫn đầu đi rất nhanh. Bỗng nhiên tôi nghe có tiếng gì ù ù. Ban đầu tôi ngỡ là gió lộng. Nhưng ở đằng sau, chị Ba đã la lớn:

- Có hơi "cá nhái" nhen, chuyến đàng trước vượt mau lên!

Tôi lặp lại:

- Có hơi trực thăng đó, đi mau lên anh em!

Cả đoàn người tức khắc hối hả ra sức vượt nhanh. Lát sau, tiếng trực thăng HU.1B vọng tới rất rõ. Tôi nhìn thấy cô giao liên phía trước đã bắt đầu chạy. Rồi cả đoàn chúng tôi đều chạy theo. Tiếng chị Ba vang lên:

- Nó đi về hướng mình đó. Anh em cố rán chạy mau chút nữa đi!

Tôi chạy, và áo quần đều bị ướt hết. Lúc nào mệt quá, tôi dừng lại thở. Bây giờ tiếng trực thăng đã vỗ nghe phành phạch. Vừa may lúc ấy tốp anh em đi đầu đã vô tới mí vườn. Cô giao liên lẫn vào trước. Rồi những anh khách kế đó cũng nhập vào vườn như cô. Tôi mới đứng lại thở được một hơi, liền lập tức chạy tới nữa. Một chiếc trực thăng cá nhái xuất hiện trên vòm trời. Nó lù lù lủi tới, in hình một đốm đen tròn quay trước mặt. Nhìn thấy nó tròn như vậy, tôi càng thêm lo, vì như vậy chính là nó đi ngay về hướng chúng tôi rồi. Tôi chỉ kịp trông thấy chiếc trực thăng cá nhái đó, và bây giờ tôi chỉ biết dồn sức chạy sao cho thiệt nhanh vào mí vườn. Chợt lại thoáng nghe tiếng chị Ba:

- Nó sà xuống nhen. Coi chừng nó bắn!

Chị Ba vừa la lên xong thì một tràng đại liên đã nổ chát chúa. Loạt đại liên từ trên chiếc "cá nhái" bắn kéo dài tới cả phút. Đạn rơi lỏm chỏm ngay trước mặt tôi. Chiếc trực thăng bắn từ mí vườn bắn ra. Đoàn chúng tôi đã lọt vào vườn được một nửa. Chỉ còn lại trên đồng nước sáu người, bốn anh ở trước tôi, và chị Ba ở sau lưng tôi. Chợt một trong bốn anh phía trước đứng lại. Đó là anh cận vệ trẻ. Anh chĩa khẩu cạc bin nhằm trực thăng mà nổ "đoàng... đoàng". ánh lửa nháng lên phía dưới bụng chiếc trực thăng. Cả hai phát đạn của anh bảo vệ đều bắn trúng. Chiếc trực thăng vọt lên cao hơn. Nhưng nó vẫn bay phành phạch, phành phạch. Cái dạ bọc thép của nó đã chịu được hai phát đạn. Nó bay trờ tới, tiếp tục nã đại liên xuống. Tôi chạy rấn trong cơn mưa đạn. Chạy mấy bước thì đã thoát khỏi tầm đạn của chiếc trực thăng bắn xuống. Năm người chúng tôi đều lần lượt vào được mí vườn, nhảy thót lên bờ mương và chạy dọc theo những gốc dừa lùn. Bấy giờ tôi ngoái nhìn ra sau để coi chị Ba vô tới chưa, thì không thấy chị đâu cả. Tôi ngó quá ra đồng nước, bàng hoàng thấy chị còn ở ngoài, mà chiếc trực thăng thì đang sà xuống ngáng ngay đường chạy của chị. Chiếc chong chóng gỗ ép trên thân máy bay quay chậm lại, bạch bạch. Không nghe chúng nổ súng nữa. Và bóng chị Ba từ từ bị cái lườn to tướng của chiếc trực thăng đang hạ đó che khuất. Máy bay gần như đã đỗ hẳn, nhưng động cơ của nó vẫn gầm vang. Mặt nước cuộn sóng, rập vã vào nhau. Tôi hiểu ngay rằng bọn giặc trên máy bay rắp tâm tính bắt sống chị Ba. Tôi la lên cho mấy anh trước biết. Anh em quay trở lại. Anh nào cũng kêu:

- Trời ơi, chắc tụi nó bắt được chị Ba quá!

Đứng lại ven vườn, chúng tôi nhìn thấy tận mắt bọn Mỹ từ trên máy bay xổ xuống. Anh cận vệ bắn cạcbin chĩa thẳng súng ra đồng:

- Để tôi "giã" nó mấy phát, may ra nó hoảng nó hay lên.

- ừ, bắn đi!

Ba phát "cạcbin" nổ "đoàng đoàng đoàng". Chiếc trực thăng vẫn lì lợm gầm thét. Chốc sau bọn Mỹ túm được chị Ba. Chúng hấp tấp lôi chị đẩy đến cửa hông máy bay. Mấy thằng đứng trên với tay kéo chị Ba lên. Anh cận vệ trẻ lại nổ súng. Anh đứng xổng lưng mà bắn. Bọn Mỹ còn ở dưới rối rít chen nhau nhảy lên. Khẩu đại liên của chúng bắt đầu day họng khạc đạn về phía chúng tôi. Các gốc dừa lùn trên bờ mương bị đạn đại liên cày sướt. Chúng tôi nhảy xuống mương. Đứng dưới mương tôi nghe đạn bay viu víu, và khi tôi chồm lên ghé mắt nhìn ra đồng thì chiếc trực thăng đã từ từ bốc mình lên. Tôi gào:

- Bắn, bắn nó!

Anh cận vệ đã bắn hết một băng đạn, nhưng chiếc trực thăng vẫn không hề hấn gì, nó vẫn cứ ầm ã bay. Tôi thất vọng quá, hai bàn tay cấu nát cả bụi cỏ bờ mương, bất lực nhìn chiếc trực thăng lên cao dần. Tôi nhủ: thôi thế là hết! Chị Ba coi như đã bị chúng bắt đi rồi. Tai tôi tự nhiên váng ù lên, và tiếng chong chóng trực thăng bành bạch quay nhanh kia như đập túi bụi vào giữa tim tôi. Lòng tôi mỗi lúc càng bị vò xé hơn lên vì suốt nãy giờ tôi nhìn thấy cái ý định chị Ba dùng thân chị làm mồi dụ địch bộc lộ rất rõ. Tôi thẫn thờ nhìn chiếc trực thăng quái quỷ đang bay, khi mà đồng nước bên dưới hãy còn cuồn cuộn, dào sóng. Bỗng có anh kêu:

- Cái gì rớt, cái gì rớt xuống kia kìa!

Nghe tiếng kêu, tôi trố mắt nhìn và thấy có một vật gì như một bóng người vừa thoát ra bên hông chiếc trực thăng, rơi xuống. Tôi thét:

- Trời ơi, in như chị Ba nhảy xuống, mấy anh ơi!

Khi tôi vừa thét lên như thế thì phía chiếc trực thăng đang bay bỗng nổ ầm một tiếng, cả chiếc trực thăng vụt chao nghiêng đi. Kế đó chiếc trực thăng bốc khói cuồn cuộn, rồi lửa bùng dậy đỏ rực. Còn cái bóng đen trên không trung giờ cũng vừa rơi tòm xuống đồng nước. Tôi thấy cái bóng đó nhổm ngay dậy, chạy thẳng vào bờ vườn chúng tôi đang núp.

- Đúng là chị Ba rồi!

Tất cả mấy anh em chúng tôi không ai bảo ai đều vọt lên khỏi mương, chạy ngược ra. Chị Ba bươn bươn, vấp ngã, rồi lại bươn tới. Gần đến chúng tôi, chị dừng lại một chút, rồi vừa đi cà nhắc vừa vuốt nước chảy ròng trên mặt. Chị hổn hển hỏi:

- Mấy anh có... có sao không?

- Không. Còn chị?

- Cũng không... chỉ có cái chân nghe hơi đau chút. Lúc nhảy xuống gần tới tôi co dúm chân lại, vậy mà... mà vẫn bị quệt đất... Bộ... bộ mấy anh tưởng tôi bị... bị nó lượt rồi hả?

- Nghỉ một chút đi, chị Ba.

Chị Ba ngừng nói, thở dồn. Lát sau chị tiếp:

- Nó lôi tôi lên, nó đâu dè tôi lận trái lựu đạn ở lưng quần. Máy bay vừa bay lên, tôi lấy lựu đạn ra rút chốt tống vô đám Mỹ trên máy bay rồi nhảy đại ra cửa...

- Trời đất!...

Anh cận vệ trẻ la lớn và nhảy tới trước mặt chị Ba, khom lưng xuống:

- Chân chị đau, vậy lên lưng tôi cõng chị đi!

- Thôi thôi... ai làm kỳ cục vậy mà.

Trong lúc anh bạn trẻ đòi để được cõng chị Ba, tôi ngẩng nhìn chiếc trực thăng. Nó đang cố gượng bay. Thân hình con "cá nhái" Mỹ khốn kiếp đó đang bốc lửa dữ dội, chao qua chao lại. Lết tới được một quãng ngắn nữa, nó nổ thêm mấy tiếng "phùm phùm" rồi lật ngửa bụng rơi xuống mặt đồng nước bấy giờ cũng vẫn lồng bóng cái bầu trời âm âm một màu tro. Mấy anh em chúng tôi sướng quá, đồng thanh kêu "rớt rồi, rớt rồi!" và nhảy tung tóe cả nước lên đầu lên cổ. Riêng có mỗi chị Ba là vẫn đứng yên. Người đàn bà trưởng trạm to lớn đó chống nạnh đôi tay nơi mạn sượn, đăm đăm ngó mãi về phía cái đống đen lù lù ngút khói của chiếc trực thăng vừa rơi. Tôi chợt nghĩ chỗ đó có thể là chỗ anh Ba chồng chị đã ngã xuống hồi tháng nắng. Rất có thể như vậy. Vì anh giao liên chẳng đã nói cho chúng tôi biết là anh Ba đã hy sinh tại quãng đồng này đó sao. Cả mấy anh em chúng tôi đều im lặng. Chắc ai cũng thoáng có ý nghĩ như tôi.

Bỗng chị Ba bảo:

- Thôi mình đi, mấy anh! Đi về đặng còn báo tin cho mấy ông du kích ra phanh thây nó. Nó cháy dữ quá, chẳng biết súng ống có còn được cây nào không?
 
Trước ngày sinh con độ mươi ngày, chị quay lại vùng núi tìm cha đứa bé, người mà đáng lý phải ngồi đầu giường trong ngày chị sinh và đặt cho đứa trẻ một cái tên yêu thương nào đó. Nhưng rốt cuộc không thấy anh đâu, thậm chí sự hiện diện của đứa trẻ anh cũng không biết.

Anh đang ở với vợ và con riêng, làm sao hình dung được ở đây - một nơi xa thế này - mầm sống của anh đang hình thành, phát triển, đang làm cho đời sống của chị ngày một tồi tệ thêm.

Ban đầu chị định tự mình nuôi con. Chị sẽ giáo dục nó thành người tốt, nghĩa là xóa mọi dấu vết về anh. Và nếu mai sau bỗng dưng cha con gặp lại, con chị sẽ không bao giờ nhận ra ruột thịt của mình, không thấy gì hết, tẩy sạch trong tận cùng ý nghĩ. Đó là cái gan điên của chị.

Nhưng bây giờ đã khác rồi. Thời gian trôi qua, cái thai lớn dần, lòng căm giận của chị cứ nguội đi. Chị không thấy điên tiết như trước, thỉnh thoảng còn nhớ một vài cử chỉ của anh, một vài chăm chút trên tóc, trên vai chị. Chị nhớ đến những giờ khắc hạnh phúc. Tuy chỉ là thoáng qua trong tâm trí thôi, nhưng bấy nhiêu đã là tha thứ lắm rồi. Phải chăng đứa trẻ càng lớn thì chị lại càng tha thứ. Tha thứ dần hồi cho đến gần ngày sinh bỗng chị không còn cầm lòng được nữa, quyết định phải báo tin cho anh biết giữa anh và chị đã có một đứa con, và điều quan trọng khác nữa là anh có muốn đứng tên trong giấy khai sinh của đứa trẻ hay không. Chị sợ vào ngày sinh người ta sẽ hỏi rằng cha nó tên gì và tỏ vẻ tế nhị khi biết rằng đứa trẻ sẽ mang họ mẹ. Chẳng có gì đâu, chị biết người ta sẽ nói như vậy, thiếu gì những đứa trẻ trên đời này lớn lên thành đạt mà chẳng cần phải có một thằng cha khốn kiếp nào.

Theo lộ trình trong trí nhớ, chị sẽ lên xe đò dọc theo quốc lộ một đến địa phận tỉnh K thì xuống xe. Từ đó đi bộ vào rừng mất ngày rưỡi đường. Với cái thai lớn như chị, có thể sẽ chậm hơn. Nhưng nếu may mắn gặp xe bò cho đi nhờ chị sẽ đến nơi vào lúc nửa đêm. Và sáng hôm sau đã có thể quay trở ra đường quốc lộ. Rồi cũng như lúc đi, chị đón xe quay về nhà. Ở một góc vườn xa xăm, chị mắc lên cái võng nhỏ chờ ngày sinh nở.

Đó là một lộ trình hoàn hảo. Nhưng khi bắt đầu leo lên xe chị chợt nhận ra, nó không hoàn toàn như vậy. Cái thai hành hạ chị quá cỡ. Đứa trẻ như đạp thốc vào chị, đạp giận dỗi. Chị nằm bẹp suốt quãng đường dài, nôn tất tần tật những thứ ăn đêm qua lẫn sáng hôm nay. Người đàn ông ngồi kề bên đành phải nhường cho chị cái ghế của mình. Chị chỉ lờ mờ nhìn thấy anh qua nước mắt, nước mũi, qua những cơn choáng váng không thể hình dung được. Anh có gương mặt thật giống cha - của - con - chị. Ngày xưa chị gặp anh cũng trên một chuyến xe như thế này, nhưng dài hơn, một quãng đường Nam Bắc.

Xế chiều, không khí mát mẻ dễ chịu làm chị tỉnh hẳn. Người đàn ông đã xuống xe lúc nào rồi. Chị chưa kịp nhìn rõ mặt, cũng chưa kịp cám ơn anh. Bên phần ghế ngồi của anh có một trái cam. Anh để quên, hay anh để lại cho chị? Chị lăn nhẹ trái cam trên lòng bàn tay mình, vẻ mềm mại của nó như thể một cánh tay người khác.

Đường quốc lộ tại chỗ chị xuống xe quá sức vắng vẻ. Hụt hẫng làm sao. Lúc đi chị đã biết sẽ đối diện với một quãng đường như thế, nhưng rõ ràng vào lúc này, cái cảm giác vắng vẻ của nó cứ nao cả lòng. Cái thai thật tĩnh lặng, không thấy nó đạp, hơi đau đau. Có lẽ chị đã đi quãng đường quá dài so với sức chịu đựng của đứa bé. Có lẽ nó cũng như chị, đang quay cuồng vì quãng đường.

Rời khỏi quốc lộ, chị băng vào con đường nhỏ, đất đỏ, mù bụi. Cái khăn quàng cổ lâu lâu lại bay thốc. Đêm nay chị sẽ ngủ ngoài rừng nếu không gặp mái nhà nào. Chị đã chuẩn bị sẵn khăn choàng cổ, áo ấm và cái chăn dày. Nó sẽ giữ ấm cơ thể chị nguyên một đêm.

Đây là một vùng núi trơ trọi vì nắng và gió. Cây vẫn mọc nhưng không hề đem đến cảm giác xanh tươi nào. Người dân ở đây sống dọc theo triền núi, rải rác như ai đó rải lên những nếp nhà một cách tùy tiện. Họ sống dựa vào đất, gỗ và con buôn. Ai trồng trọt thì trồng, ai đốn rừng thì đốn, và những con buôn vận chuyển hàng hóa đi xa, và những thứ vật dụng kim chỉ gạo muối... quay trở lại. Anh là một trong những con người đó.

Vào lúc 5 giờ chiều, chị gặp căn nhà đầu tiên. Chủ nhà là Lệ, khoảng tuổi chị nhưng già dặn, lam lũ, trơ gầy. Vừa thấy chị, Lệ đã thốt lên:

- Cái bụng chị nhìn gớm quá!

- Tôi muốn tìm một người tên Hoàng.

- Sáng mai, chồng tôi sẽ cho chị đi nhờ vào rẫy.

Người chồng nói:

- Lâu rồi không thấy anh ta. Lúc trước hay đi ngang qua đây. Anh ta là cái gì của chị?

-Không là gì hết! - Chị thấy cổ mình khô khốc.

- Tôi biết vì sao chị đi tìm rồi! - Người vợ nói.

Đêm ở nhờ dài hun hút và lạnh lẽo. Nằm mãi vẫn không ngủ được. Chị dự định sáng hôm sau, lúc ra đi sẽ tặng Lệ cái khăn choàng. Vợ chồng Lệ có ba con, nhếch nhác và bẩn thỉu. Hầu như họ không còn thời gian để chăm sóc chúng. Khi chị đến là lúc họ từ trong rẫy trở về. Những đứa trẻ đang vàng mắt chờ ăn. Ăn xong chúng lăn ra ngủ, không tắm rửa. Chị nghiêng người cuộn mình trong tấm chăn mang theo nhìn ngọn lửa cháy cho đến gần sáng, nghĩ về nhiều thứ, về sự giống nhau cũng như sự khác nhau của con người. Người ta cần điều gì cho cuộc đời mình? Có lẽ con người không bao giờ có thể hiểu được cái cuối cùng mà mình cần là gì? Trong đó có chị. Chị đi vì đứa con, vì chính bản thân chị, hay chị đi chỉ vì muốn anh nhìn nhận, dù chỉ một chút thôi, như một thứ ve vuốt xoa dịu cuối cùng?

Tờ mờ sáng, trời lạnh và ẩm, chị và chồng Lệ đã lên đường. Chị ngủ thiếp trên xe. Tỉnh dậy đã đến trước cửa nhà Hoàng. Một bãi hoang quạnh quẽ, cỏ lúp xúp tận thềm nhà. Anh ở đây sao?

Chuyện gì sẽ xảy ra khi một người đàn bà mang thai như chị đến gặp chồng một người đàn bà khác? Chị sẽ nói gì? Chị vạch mặt trái xấu xa bỉ ổi của anh cho người vợ biết, chị kể tội, giống như quan tòa, chị tuyên án? Hay chị sẽ đóng vai một người vô tình lạc rừng đến đây gõ cửa và xin trú tạm? Hay chị làm gì khác? Nếu xét cho cùng thì anh ta chẳng lừa chị điều gì. Khi đến với chị, anh kể về vợ mình, về đứa con, về cuộc sống ở đây. Có lẽ chị yêu anh vì những điều tự cho là chân thật đó.

Chồng Lệ nói:

- Thôi tôi phải đi đây, trời sáng mất rồi. Nếu không ai đưa về thì chị cứ đi thẳng con đường này khoảng nửa ngày đường, gặp một cái ngã ba. Chị cứ đốt một đống lửa thật lớn báo hiệu, tôi sẽ đến đón chị.

- Cám ơn anh - Chị nói mà thấy giọng mình nghèn nghẹn, như muốn khóc.
 
Chị cũng nên lo về sớm. Cái thai chị lớn quá coi chừng không kịp.

Một người đàn bà đứng trong góc nhà nhìn ra. Chị chột dạ. Chờ chồng Lệ đi khuất, chị đi đến chỗ người đàn bà. Đây là lúc chị cần phải nói một điều gì.

- Tôi muốn gặp anh Hoàng - Tự dưng phản xạ trong chị bật ra.

Người đàn bà nhìn chị đầy vẻ e ngại.

- Chị từ nơi xa lắm đến đây phải không?

- Ừ. Tôi hơi mệt vì đường dài quá.

Một đứa trẻ từ trong nhà chạy ra, núp vào áo mẹ nó. Người đàn bà từ tốn ẩy nó ra.

- Chào cô đi con - Rồi nói thêm, nó là con riêng của anh Hoàng.

- Nó không phải là con chị à?

- Không. Một hôm người ta mang nó tới đây. Mẹ nó đã chết rồi.

- Người ta có nói gì về mẹ đứa trẻ ấy không?

- Không.

- Anh Hoàng có nói về người đàn bà ấy không?

- Không. Có lẽ cô ta ở đâu đó dọc đường. Nó có cái mũi thật giống anh Hoàng, nhưng con mắt thì chắc chắn là của mẹ nó. Chị nhìn xem, lông mi thật dài và cong. Hẳn cô ta phải đẹp lắm.

Chị ngước nhìn căn nhà tồi tàn. Mẩu sân nhỏ đầy cỏ. Có lẽ đã lâu rồi, người đàn ông ở đây không hề chăm sóc chúng. Anh có yêu nơi này không? Anh có yêu người đàn bà tàn tạ kia? Anh có nói thật với cô ta như đã từng nói thật với chị? Có lẽ là không bao giờ.

- Tôi tìm anh Hoàng để mua một ít gỗ quý - Tự dưng chị buột miệng. Chị nhớ ngày xưa có lần anh kể cho chị nghe về công việc của mình. Anh chuyên tìm gỗ quý cho bọn thương lái. Những chuyến đi của anh cũng là một phần công việc đó. Một trong những chuyến đi đã đem anh đến với chị.

Người đàn bà vẫn không hết vẻ e dè. Đưa chị vào nhà xong bỏ đi đâu đó một lúc khá lâu. Lúc về mang theo cái võng nhỏ. Người đàn bà lặng lẽ cột nó vào góc nhà.

- Chị cần phải nằm võng nghỉ ngơi. Tôi đã nhờ người tìm nhắn anh Hoàng về rồi. Chắc độ trưa mai ảnh sẽ về tới.

- Không cần phải gấp đâu - Chị nói.

Tự dưng chị hoảng sợ khi nghĩ rằng sẽ gặp Hoàng tại đây, trong ngôi nhà của anh, trước mặt người đàn bà gầy gò kia. Rồi chị sẽ phải nói trước với anh rằng chị đến đây để mua gỗ quý. Rồi anh cũng sẽ phải giả vờ như một kẻ không mấy thân thuộc. Anh nói với chị mọi thứ trừ cái điều mà cả anh và chị đều muốn nói. Cả hai sẽ giả vờ cho đến lúc không thể giả vờ được nữa.

Nhưng cái điều chị muốn nói với anh là gì? Càng gần đến giây phút gặp gỡ chị càng không tìm cho nó dù chỉ là một lý do.

Cái võng thật êm ái. Vừa nằm xuống là chị đã muốn ngủ một giấc dài. Chị không còn muốn nhấc mình lên nữa, như thể chị và nó sẽ dính liền với nhau mãi mãi. Đứa trẻ con Hoàng ngồi thu lu trong góc nhà như một con chó con nhìn chị, u tối. Đúng như lời người đàn bà, đôi mắt nó quá đẹp. Hẳn là mẹ nó phải đẹp lắm. Ngoài đôi mắt, cô ta còn sở hữu điều gì khác? Khi đến với người đàn bà đó, anh có cảm giác giống như khi đến với chị không? Nếu chị là vợ của Hoàng, liệu chị có đủ trầm tĩnh để nuôi đứa trẻ đó không? Chị có bối rối khi nhận ra một vẻ đẹp khác mà chị không có?

- Đã ba năm nay anh Hoàng không về đây nữa ngoại trừ hôm nào chở gỗ đi ngang - Người đàn bà nói. Ảnh có một cái chòi ngô trên rẫy.

- Thế chị sống ở đây có một mình à?

- Tôi sống với con bé. Thỉnh thoảng tôi sẽ tự lên thăm.

- Chị không có con sao?

- Không.

- Đó có phải là lý do mà anh ấy không về đây nữa?

- Tôi không biết. Cũng may trời cho tôi con bé. Nếu nó là con tôi, nó sẽ không bao giờ có được đôi mắt đẹp như vậy.

Lại thêm một đêm mất ngủ trong căn nhà của người đàn bà xa lạ. Cái bụng của chị lại bắt đầu đau. Chị thoa dầu bên phải, nó chuyển sang đau bên trái. Có lúc chị thấy dường như mình sắp tắt thở. Người đàn bà trở dậy nấu cho chị một bát cháo trắng, gạo cưng cứng, lờ lợ. Chị nuốt khan vào người.

Bên ánh lửa gió lùa, căn nhà vật vã rít lên từng hồi dài như kẻ sắp ngất. Hai người đàn bà ngồi với nhau. Chị cứ miên man tự hỏi điều gì khiến một người đàn bà hao gầy thế kia sống hết phần đời còn lại của mình giữa một nơi hoang vắng như thế này mà không có người đàn ông của họ bên cạnh? Hay người đàn bà ấy cũng như chị, sẵn sàng đi mấy ngày đường chỉ vì một người đàn ông thoáng qua để rồi chợt nghĩ mình đã sống mà không vì một mục đích gì rõ ràng. Thế mà cứ sống, cứ đi và cắt nghĩa nó từng ngày từng giờ cho đến khi hao mòn...

Buổi sáng hôm sau, cái bụng vẫn không hết đau, chị quyết định lên đường. Chị sợ mình phải nằm lại ở cái nơi mà chị không muốn. Còn một điều khác lớn hơn nữa, chị sợ gặp Hoàng. Một đêm không ngủ đã cho chị ý nghĩ đó, không nên gặp anh ta nữa dù là lần cuối. Trước khi đi, chị tặng người đàn bà chiếc khăn của mình, nó sẽ là một vật đẹp đẽ nhất trong căn nhà u tối này. Nó cũng sẽ là một thứ ngầm báo cho Hoàng biết rằng chị đã tìm đến đây.

Người đàn bà tiễn chị ra cửa, ái ngại nói:

- Tôi biết chị đến đây không phải để mua gỗ quý! Nhưng chị cũng không cần phải giải thích nữa. Tôi quen rồi.

Theo hướng chồng Lệ chỉ, chị đi suốt một ngày đường, dọ dẫm, mù lòa và mất phương hướng. Cái bụng nặng nề như muốn vỡ tung ra. Khoảng chín giờ sáng, một dòng nước âm ấm chảy dài giữa hai chân, nhẹ nhàng như thể nó chưa từng thuộc về cơ thể của chị. Cái thai quá im lìm. Thậm chí đã hai ngày nay, dường như chị không còn cảm nhận về nó. Mối liên hệ giữa chị và nó đã bị đứt lìa. Chị không thể hàn gắn mối quan hệ đó. Chị cố đi tiếp.

Đi đến xế trưa thì dòng nước ngừng hẳn. Một cơn đau đâu đó đột ngột run lên. Ngã ba đường đã ở trước mắt chị, không xa lắm. Chị gom những chiếc lá khô và nằm xuống. Trong cái cơn tỉnh táo sau cùng chị nhận ra mình không hề có lấy một que diêm đủ để thắp lên ngọn lửa gọi chồng Lệ tới.

Cuối ngày, những người làm rừng đi ngang phát hiện ra chị. Người ta mang chị đi. Nửa đêm, đứa con giữa chị và Hoàng ra đời. Mặc nhiên cho cái điều chị vẫn thường suy nghĩ đã không bao giờ xảy ra, không ai hỏi bố đứa trẻ là ai cả. Người ta cũng không hỏi tại sao một người đàn bà bụng mang dạ chửa lại đi hàng mấy ngày đường để đến một khu rừng cọc cằn sỏi đá, để rồi sinh con ở đó trong cái đêm giá lạnh như thế này.

Người ta chỉ hỏi chị mỗi một câu: chị có muốn chôn đứa trẻ ở đây không? Chị lắc đầu. Như nhìn thấy một góc vườn xa xăm, một cái võng treo ngang, trời ạ, chẳng có gì để có thể ru ở đó.
 
Liệt nức tiếng là xinh nhứt làng Nghi Hồng. Ðôi khi quán sớm, chợ chiều, cái sắc đẹp tươi tắn, cái vẻ duyên mặn mà của nàng đã làm xiêu lòng bao khách đi đường.

Nhà nàng rất nghèo. Cha mất sớm, nàng phải lo làm ăn để phụng dưỡng mẹ già, nên đã hai mươi tuổi mà không tưởng gì tới đường chồng con. Mẹ nàng nghĩ đến việc ấy vẫn áy náy không an tâm; bà mẹ phần nghĩ đến con, phần nghĩ đến mình nên hai đường chưa dứt. Người trong làng thì không ai xứng mà xa xôi thì không tiện. Năm qua tháng lại mẹ con vẫn sum vầy vui vẻ.

***

Tổng bên kia, cách làng Liệt một con sông, có một ông chánh tổng tuổi còn trẻ, người rất hào hoa, dân làng Nghi Hồng vẫn thường sang vay mượn. Ông chánh vốn có mươi mẫu ruộng bên Nghi Hồng, sợ đi lại không năng nên có nhờ người làng làm mối cho một người vợ lẽ để trông nom ruộng nương thay. Họ mời ông sang xem mặt Liệt, thấy nàng có chút nhan sắc thanh tao bằng lòng ngaỵ

Liệt nghĩ mình nhà nghèo, cũng có kiếm được tấm chồng danh giá, thấy ông chánh là người tử tế, còn trẻ tuổi, tuy phận lẽ mọn nhưng được ở gần mẹ già lại có sẵn ruộng nương của ông chánh cày cấy làm ăn, nên ngỏ ý nhận lờị

Có cheo cưới hẳn hòi, song chỉ riêng bên làng Nghi Hồng, còn bên vợ cả thì không ai biết. - Ông chánh thỉnh thoảng lại sang dâm bữa nửa tháng, lấy cớ sang thăm ruộng, thu tiền. Hai vợ chồng rất là tương đắc.

Người bên Nghi Hồng sang vay thóc gạo, vợ cả ông chánh thường bắt nọn:

- Các ông xem bên Nghi Hồng có người nào nom được và chịu khó thời các ông làm mối cho một người để trông nom ruộng nương bên ấỵ

Mọi người đều thưa:

- Dạ thưa bà, nghĩ thế rất phải nhưng con gái làng chúng cháu thời toàn xấu như ma, đen như bồ hóng, chả có người nào tươm tất trông được cả. Nếu có thì chúng cháu xin hết lòng.

Người vợ cả thấy nói vậy, nên không nghi ngờ gì nữa. Liệt cũng được yên thân, mà tình chồng vợ ngày đêm khắng khít.

Bỗng một hôm nhà ông chánh bị cướp vào đốt sạch cả. Khi cướp tẩu thoát, ngọn lửa còn rực trời, người nhà không thấy bóng ông chánh, bà chánh và người con dâu, lấy làm lạ đổ xô đi tìm cũng biệt tăm. Người nói bị cướp bắt đi, người đoán chết trong đống lửạ

Hai hôm sau, người ta thấy xác người vợ và người con nổi trên sông, còn ông chánh, ông chánh cũng không còn sống vì có người tìm thấy cái áo của ông vướng vào bờ sậỵ

Có người sang báo tin cho Liệt biết, nàng cứ thờ ơ như không. Mẹ nàng bảo dẫu sao cũng là vợ chồng, nên sang bên ấy chịu tang mới phảị

Nàng thưa:

- Sự cưới xin chỉ riêng bên này biết mà thôi. Con sang lễ, nhận làm vợ để chịu tang người nhà bên ấy ai biết con là ai, ngộ lỡ họ đuổi ra, có phải là nhục không? Xin mẹ cứ để con không sang là hơn.

Người trong làng trước khen Liệt thế nào bây giờ lại chê như thế. Ai ai cũng nói:

- Cái con ấy thế mà bạc, ăn ở với người ta gần một năm trời, bây giờ cứ thờ ơ, lạnh nhạt như không. Con người vô tình quá.

Liệt nghe thấy lời mai mỉa cứ thản nhiên nét mặt lại tươi lên bội phần, cười đùa luôn.

Ði đâu nàng ăn mặc cho thật gọn gàng đẹp đẽ, cái khăn vuông thắt thế nào cho thật xinh, săn sóc làm dáng để tô điểm cái vẻ đẹp sẵn có. Bà mẹ cũng không hiểu vì sao con mình lại vô tình đến thế.

***

Mấy tháng sau, Liệt bỏ nghề dệt vải, làm nghề chăn tằm, ngày ngày đi hái lá dâu các làng quanh đấy - trước còn mua dâu bên này sông, dần dần qua đò sang bên làng ông chánh. Lân la mỗi nhà mua một ít, hễ gặp bà cụ nào ngồi rỗi thì nàng đến vẩn vơ chuyện hãọ

- Cụ này, năm ngoái chúng cháu đến nhà ông chánh mua dâu thấy nhà ngói cây mít san sát, mà bây giờ cháu đến thì không biết sao trông tiều tụy thế?

- Ấy, năm ngoái nhà ông ta bị cướp đốt phá, nó lại giết cả hai vợ chồng với đứa con.

- Khốn nạn! Ông ta vẫn là người tử tế, ai ai cũng có bụng mến.

Liệt lại đến mua dâu làng khác, gặp mấy người lại kề cà mở túi trầu nói những chuyện đâu đâu, rồi mới đá động đến:

- Gớm nhà ông chánh bây giờ cướp phá tan tành không còn gì. Tôi đến đấy mua dâu nghe họ nói đám cướp ấy to lắm. Các quan cho người về dò xét cũng không ra, chuyện ấy lại lỉm đi. Thương hại ông chánh người tử tế mà bị cướp nó giết.

- Cướp gì đấy, lại người trong tổng nó thù nó giết chớ gì - cướp với kiếc gì...

- Ấy chết bà nói khẽ chứ... mình dám đâu chắc, ngộ lỡ thì oan giạ

Bà kia lại càng nỏ mồm:

- Ở đây ai chẳng biết, còn phải giấu giếm gì... Chỉ có lão Bá Mịch làng Ngang. Hai nhà ấy họ vẫn thù hằn nhau đã lâu, nó cho mấy đứa đầy tớ giả vờ làm cướp giết phăng đi... ai biết đó là đâụ

- Sao bảo có mật thám về xét.

- Mật thám về mà làm gì. Biết, nhưng tang chứng không có.

Bây giờ Liệt chỉ còn tìm cách gần lão Bá Mịch.

Nàng lại ngày ngày cắp rổ đi mua dâu, gặp ai cũng than thở:

- Ðộ này túng quá, nghe nói có cu. Bá bên này, muốn sang vay mượn ít đồng mà không biết có ai quen đưa đến.

Họ mách có nhà bà Hậu là thân với ông Bá lắm. Hôm sau Liệt đến mua dâu nhà bà Hậu đáng độ hai, ba xu thì trả tăng lên bốn năm xu. Ngày nào cũng đến, dần dần không mặc cả, cứ hái xong là trả tiền về. Có khi lần khân ở lại nói chuyện, thấy việc gì thì làm.

- Cái sân này rác quá, bà đưa chổi cháu quét đỡ.

- Cối thóc này xay dở, bà đưa cháu xay một lúc thì xong chứ gì.

Liệt làm gì cũng nhanh nhẹn thoăn thoắt, bà Hậu thấy vậy đem lòng mến có khi sẵn cơm thì giữ lại ăn cơm, lâu lâu thân như người nhà. Hỏi đến cha mẹ nàng thì nàng nói cha mẹ đã mất lâu, ở với chú thím tận dưới làng Ðoàị

Một hôm về buổi chiều, bà Hậu thấy Liệt đến, mang cái khăn gói to, lấy làm lạ, hỏi thì nàng khóc như mưa, vật mình than thở:

- Chú thím tôi định ép tôi lấy một đứa rất hèn hạ, chỉ đáng xách dép cho tôi mà thôi. Cưỡng quá, tôi phải bỏ nhà đi, không mặt mũi nào mà lấy thằng ấy được. Bây giờ tôi đi đâu không biết, nhưng thế nào cũng phải đi. Tôi thấy có bà là chỗ tử tế nên đến đây chào bà để đi, mà đi phen này thời không biết có về nữa không.

Nói xong lại khóc, lại nói, thật là thảm thiết.

Bà Hậu mọi lần thấy nàng vui vẻ, nay thấy nàng như vậy động lòng thương, nhất định giữ lại không cho đi đâu. Liệt khăng khăng nhất định đòi đi, bà Hậu phải giấu kín khăn gói mới giữ được nàng ở đâỵ

Ở đấy được hơn một tháng, thấy bà Hậu nói chuyện sang vay thóc bên cu. Bá nàng xin đi theo gánh thóc.

Trước khi đi, nàng vào trong buồng trang điểm giấu bà Hậụ

Lúc ra ngõ thấy bên giậu có bông hoa hồng mới nở, Liệt bỗng nảy ra một ý hay, liền hái trộm bông hoa, trở về buồng, vò nát mấy cánh hoa, rồi xoa lên má: đôi má hồng như tăng cái sắc của nàng lên nhiều lắm.

Ông bá đương nằm ở sập thấy bà Hậu vào vội ngồi dậy. Ông vội ngồi dậy không phải vì bà Hậu nhưng chính vì thấy bóng Liệt thấp thoáng theo sau. Ông bá mới trông thấy đã mê mệt. Còn Liệt bước vào khúm núm, e lệ ngồi ở tràng kỷ, lát lát lại đưa mắt nhìn trộm ông Bá, nửa như ngây thơ, nửa như lơi lả.

Ông Bá góa vợ đã lâu, ý muốn tìm người vợ kế, nên hôm sau mời bà Hậu lên chơi, hỏi xem Liệt là ai, người ở đâu, và nhờ bà Hậu lo giùm cho, sẽ tặng riêng rất nhiều tiền.

Bà Hậu thường đêm khuya, tỉ tê nói chuyện khuyên lơn Liệt:

- Chẳng lẽ cô cứ ở vậy sao? Lấy người trai tơ thường nhà nghèo khó cả, vả lại lấy phải những đứa vũ phu, lỡ xẩy việc gì nó thượng cẳng chân, hạ cẳng tay thì khổ. Giá đi lấy lẽ những người danh giá giàu có mà con, thời tôi tưởng cũng là sung sướng lắm chứ.

Liệt đáp:

- Bà cứ nói chuyện không đâu, những người ấy thời ai lấy đến những hạng như chúng cháụ

Bà Hậu biết nàng thuận, liền đem việc ông Bá nói lại. Liệt trước còn khăng khăng cự tuyệt, tìm cớ chê bai, sau thấy bà Hậu nói mãi, cũng làm bộ xiêu dần

***

Thế là Liệt vài tháng sau đã nghiễm nhiên là vợ ông Bá. Nhưng từ hôm cưới trở đi, hễ ông Bá vào buồng thì nàng ôm bụng kêu trời kêu đất:

- Ông ra ngay, không thời nó đâm chết tôi bây giờ, tôi đau lắm... kìa có ba đứa nó theo sau ông, hai người đàn ông và một người đàn bà, nó đương cầm dao sắp đâm tôi đấy, mau lên không thời chết cả bây giờ.

Một hôm Liệt đón ngõ gọi một người thầy bói vào xem, có cả ông Bá ngồi đó.

Ông thầy bói gieo quẻ, nói:

- Nhà này như có oan hồn lẩn quất, phải lập đàn giải thoát không thì tai họa (hôm trước Liệt đã có cho tiền và dặn phải nói như thế).

Lúc thầy bói đi rồi, Liệt gọi ông Bá lại, rươm rướm nước mắt, nói:

- Ông muốn cho tôi sinh nở với ông, thời phải lập đàn giải thoát cho oan hồn ấy. Việc là việc hệ trọng, ông không nên coi thường. Nếu không thế thì cho tôi về thôi, chứ vợ chồng với nhau thế này thì cả hai đều cực cả. Bây giờ làm chay cho oan hồn đi nơi khác thì mới mong vợ chồng ăn ở với nhau được.

Liệt nói xong, lấy tay ôm mặt khóc nức nở.

Ông Bá nói:

- Oan hồn nào, chỉ cái thằng Chánh ơ? Cốc chứ gì, ừ làm chay thì làm chaỵ

Liền cho người đi thỉnh các sư ở vùng ấy đến, lập đàn chay giải oan, tiếng chiêng, tiếng trống rộn rịp ba bốn ngày trời. Người trong làng rủ nhau đến xem như hộị

Bỗng một hôm, Liệt đương ngồi đối diện ông Bá, giật mình như vừa nghĩ ra việc gì hệ trọng rồi nói với ông Bá:

- Tôi quên mất, bây giờ mới nghĩ rạ Ừ thì lập đàn, nhưng cúng ai, cúng ai mới được chứ?

Chuông trống long tong cả ngày thế này thì còn có nghĩa lý gì nữạ

Rồi nàng ghé vào tai ông Bá nói:

- Việc không nên hở cho ai biết. Vậy ông phải làm tờ sớ viết tên tuổi những oan hồn ấỵ

- Nhưng đừng cho người ngoài biết mới được.

- Chính vậy, ông viết xong, ông đưa tôi để tôi đem lên cho vào hòm sớ, rồi chính tay tôi đốt, việc này không thể để các nhà sư được, lỡ lộ thì lôi thôị

Tối hôm ấy, ông Bá lấy giấy viết tên tuổi cẩn thận gập lại đưa cho vợ. Liệt đã gấp sẵn một tờ giấy như thế, lúc lên đàn, gặp khi bối rối, nàng bỏ tờ giấy có chữ ông Bá vào trong yếm, đem tờ giấy trắng ra đốt.

Sáng hôm sau, ông Bá không thấy Liệt đâu, cho người vào buồng xem thì buồng không, đi hỏi khắp các nhà quen cũng không ai gặp Liệt cả.

Trong lúc đó, trên con đường đá, Liệt nhẹ bước, cắm đầu đi thật nhanh.

Ở nhà, ông Bá đợi mãi... đến trưa không thấy nàng về ăn cơm... Ðến chiều... lính trên phủ về có giấy bắt ông Bá giải đi. Các sư lục tục giải tán. Xôi, nến, chuối, vàng, oản, lổng chổng khắp mặt đất. Tin ông Bá bị bắt, vợ ông Bá trốn, đồn rầm khắp nơị

Lão Bá lên đến phủ, quan hỏi còn một mực chối, đương gân cổ cãi, thì ở buồng bên cạnh, Liệt lững thững bước ra. Lão Bá giương mắt nhìn tưởng mình chiêm bao, định há miệng nói, thì ông phủ giơ ra trước mặt một tờ giấy trên có mấy dòng chữ. Lão Bá thấy rõ chữ mình mới viết đêm qua, không thể cãi vào đâu nữa, kêu lên:

- Trời ơi! nói giết tôi rồi!

Mấy hôm sau, lính giải lão Bá về chỉ chỗ chôn ông Chánh. Liệt gần hai năm nay nuốt lệ, gượng vui, bấy giờ trông thấy xương chồng không sao cầm được nước mắt, than khóc rất là thảm thiết.

Những người đi xem và người làng xưa kia vẫn chê nàng bạc bẽo, vô tình, thấy thế ai cũng cảm động.
 
Tấm ảnh khỏa thân lúc bình minh



Cô gái ấy đến khách sạn rất khuya. Khi ấy cả con phố chỉ còn những ánh đèn vàng chiếu rọi, thỉnh thoảng có tiếng chó sủa râm ran, thỉnh thoảng có một chiếc xe phóng nhanh trong đêm về nhà.


* * *


Với Lê, những đêm thầm lặng như thế là lúc anh thả hồn vào những suy nghĩ của mình. Mảnh đất rộng này ngày xưa chỉ là một bãi đất hoang, ba anh đã mua nó để bắt đầu cuộc sống ở thành phố này, nay đã trở thành một khách sạn. Lê thiết kế một dãy nhà phía sau làm chỗ nghỉ, còn không gian phía trước là sân vườn, có một góc rộng làm quầy bán cà phê, còn lại là nơi để trưng bày những tấm ảnh nghệ thuật mà anh đã chụp được trong bao nhiêu năm đi cuối đất cùng trời. Anh thức rất khuya, vì thế anh vẫn thường ra góc quán cà phê mà ngồi, đôi khi mở máy vi tính để viết một điều gì đó, đôi khi lại đem những tấm ảnh của mình đã chụp được mà chiêm nghiệm.

Anh rất thích chụp ảnh con người. Bởi dường như mỗi nét mặt người đều cho anh thấy rõ ràng số phận của họ. Anh chụp ảnh chẳng phải để tham gia cuộc thi này, cuộc thi nọ, mà giống như một nỗi đam mê cần được giải tỏa, một nhu cầu cần được ngắm nhìn. Anh chộp những phút giây mà họ đang thể hiện sự căm giận, nỗi buồn hay hân hoan tột cùng. Rất ít người biết được anh ghi khoảnh khắc riêng tư của họ vào ống kính. Những phận người anh đã ghi lại trong những phút giây bắt gặp đó giờ này ở đâu và làm gì, anh không thể nào biết được. Có khi anh cũng chẳng biết họ tên gì, ở đâu? Nhưng họ đã ở lại cùng anh với gương mặt rạng ngời hạnh phúc hay trong lúc đang bước chân xuống tận cùng tuyệt vọng. Anh vẫn nghĩ cho đến một lúc nào đó, anh lại lên đường đi tìm những nhân vật của mình. Những mặt người ấy là ám ảnh khôn nguôi đối với anh.

Anh nhớ những kỷ niệm với mỗi bức ảnh khắc ghi. Một chiều mưa tầm tã khi đang phóng xe trên con lộ trơn trợt bùn lầy, những ổ gà lởm chởm thì anh gặp một người phụ nữ đang vừa chạy vừa khóc dưới mưa. Anh đã bất kể mưa, vội vàng đưa máy ảnh lên ghi lại khoảnh khoắc đớn đau của người đàn bà. Anh không biết rằng anh vừa ghi lại khoảnh khoắc cuối cùng của một đời người. Vì sau đó ít phút, người đàn bà với gương mặt tuyệt vọng đã lao mình vào một chiếc xe tải đang phóng nhanh tới để tự sát. Đó là một trong những bức ảnh truyền ma lực vào anh khi anh đụng tới. Đôi mắt người đàn bà ấy như ánh lên ngọn lửa của căm hờn, một chân vượt ra nền đất như đang tung cao lên, cao lên vượt phận người.

Đó chỉ là một câu chuyện của những câu chuyện trong ảnh của anh. Khi cầm một bức ảnh, dường như anh rọi suốt trong đó dấu ấn của đời. Người tội phạm đang bước chân ra khỏi chiếc xe đến phiên tòa xử án, người nông dân đang uống từng ngụm nước giữa buổi trưa đầy nắng, là cô gái bé bỏng đang ngắm nhìn biển mênh mông trước mặt mình. Thượng đế thật kỳ diệu khi tạo ra con người - cả bao nhiêu năm trôi qua, chưa có ai giống ai, dẫu là anh chị em sinh đôi.

Phòng tranh nhỏ của anh ở góc quán cà phê như có điều gì đó thu hút anh. Những ngọn đèn vàng vừa đủ cho không gian quán trở nên đằm thắm, những âm thanh của nhạc hòa tấu vang vừa đủ cho lòng mềm theo từng nốt nhạc. Nếu người khác uống cà phê sẽ bị thức trắng đêm, thì với Lê, cà phê giống như một thứ nước giải khát thông thường của anh.

Lê thường tự pha cà phê một mình, anh pha cho mình một ly cà phê khá đậm, bỏ tí đường và vài hạt muối bé tí - cách uống cà phê của anh như một thói quen, khiến cho cô chủ quán bán cà phê sáng anh thường ghé qua để uống cũng phải mang theo một lọ muối để “pha cà phê cho anh Lê”.

Khách đến khách sạn thường vào rạng sáng. Có thể khi đó họ vừa có một cuộc hành trình mệt mỏi trên một con tàu. Với họ là tìm một căn phòng có nệm êm, có máy lạnh, có phòng tắm với vòi tắm nước nóng. Nhận phòng xong là họ sẽ trốn biệt trong đó với giấc ngủ dài bù lại sự mệt mỏi sau một cuộc hành trình xa. Không có người khách nào đến khách sạn vào lúc nửa đêm. Nhưng cuộc sống luôn có ngọai lệ, chính ngọai lệ đó làm thay đổi số phận của một con người. Như anh nhớ có một bộ phim làm anh xúc động. Đó là phim Người tình. Phim kể về cuộc gặp tình cờ của một cô gái Pháp mới 15 tuổi rưỡi thích đội chiếc mũ đàn ông, tình cờ trên chuyến phà về quê ở Sa Đéc cô đã gặp một người đàn ông Trung Hoa. Họ đến với nhau như khao khát tình dục, nhưng tình yêu đã thấm đẫm trong lòng họ mà không hay. Cô gái bỏ Việt Nam về Pháp, còn người đàn ông đã lấy vợ. Khi hai người đầu đã bạc, cô gái đã trở thành nhà văn, người đàn ông đã già tìm qua Pháp chỉ để gọi điện thoại - anh rất yêu em. Và cô gái – em cũng rất yêu anh.

Cô gái xuất hiện lúc nửa đêm, khi anh đang mở máy vi tính, đắm chìm trong những gương mặt mình đã ghi lại, cùng với nhạc đang trôi trong mênh mông, chẳng liên quan gì tới câu chuyện tình và cô gái Pháp kia. Nhưng sự xuất hiện của cô gái lúc nửa đêm đã khiến anh bật dậy, giống như định mệnh đã đưa đẩy cô gái tới đây.

Đó là một nét đẹp hoàn chỉnh, một thân thể phụ nữ tuyệt vời, một dáng người cân đối. Cô gái khoác một chiếc áo jean, chiếc quần lửng:

- Anh ơi, em lấy phòng.

Lê chần chừ dễ chừng một phút. Anh nghĩ về một bức ảnh mà anh khát khao được ghi lại từ cô gái này. Anh đã từng mơ sẽ chụp một bức ảnh khỏa thân với một dáng vóc như thế, một gương mặt như thế, một mái tóc như thế - anh đã rong ruổi khắp đất trời mà vẫn không gặp được, thì lúc anh không ngờ tới, cô gái đã đứng trước mặt anh.

Tiếng cô gái lại vang lên:

- Anh ơi, em lấy phòng.

Lúc đó Lê mới tỉnh cơn mộng của mình, anh hỏi như một thói quen:

- Cô đi mấy người, ở mấy ngày?

Cô gái cười rất khẽ, tiếng cười khẽ giữa đêm yên tĩnh như những nốt nhạc nhẹ trên cây dương cầm:

- Chỉ có mình em thôi anh ạ. Em có thể ở cả tuần.

Anh đi trước, cô gái đi sau. Anh không nhìn thấy cô, chỉ nghe bước chân đang bước theo anh, gõ nhẹ trên con đường lót đá, mà sao anh nghe cả mùi mồ hôi của cô gái, nghe cả tiếng những sợi tóc va nhau. Cho đến khi cô gái theo anh đi dọc tiền sảnh khách sạn, tiếng cô gái reo lên:

- Trời ơi, ảnh ở đây đẹp quá, ảnh anh chụp à.

Anh trả lời:

- Nhưng vẫn còn thiếu một bức ảnh.

Cô gái hồn nhiên:

-Vậy sao?

Thường thì anh thức khuya cho nên hay ngủ dậy muộn, nhưng từ khi có Kim đến ở thì anh lại thức dậy thật sớm, vác máy ảnh ra biển. Kim là cô gái thích ra biển khi mặt trời chưa mọc. Khi đó, đêm vẫn còn trở mình đợi bình minh lên. Từ ngày Kim xuất hiện, nỗi ham muốn chụp một bức ảnh khỏa thân trước biển khi bình minh lên càng làm cho Lê trở nên gầy đi, mất ngủ. Đó không phải là nỗi ham muốn được ngắm nhìn thân thể một người phụ nữ khỏa thân, mà ham muốn được có một tấm ảnh mang trong giấc mơ bấy lâu nay. Kim chẳng nghèo để anh gợi ý trả tiền làm người mẫu cho anh. Qua trò chuyện anh biết Kim hiện đang có một phòng thiết kế thời trang tại Sài Gòn, đã yêu và cũng đã chia tay với tình yêu. Sau khi chia tay với mối tình của mình, Kim đã leo lên một chuyến xe đến Nha Trang như một cách bỏ lại quá khứ sau lưng - còn Kim đến khách sạn của anh là do người tài xế taxi giới thiệu. Người đàn bà sau khi chia tay mối tình của mình ấy có cái thú tắm biển khi mặt trời chưa mọc, ở ghềnh đá nhấp nhô của bãi đá Hòn Chồng. Thú vị hơn nữa là Lê khám phá ra chính là khi tắm biển trong đêm như thế, Kim luôn luôn khỏa thân. Anh lại mang giấc
 
Năm ngày trời Lê không ngủ; anh trở mình lắng nghe tiếng chân của Kim, tiếng gọi mở cửa. Anh không biết rằng có thêm một người đang theo dõi anh vì anh đã có những trạng thái kỳ lạ - Nguyệt, vợ anh. Bởi bình thường, công việc mở cửa sáng sớm cho khách đi tắm biển là Nguyệt chứ không phải là Lê. Giờ đây, khi có Kim xuất hiện, anh trở thành người mở cửa.

Ban ngày, Lê đã đến chỗ mà hàng đêm Kim thường tắm, chọn một vị trí khuất sau các mỏm đá để có thể đặt máy ảnh, anh đợi trăng lên. Anh sẽ chụp ảnh người đàn bà trong tư thế cha sinh mẹ đẻ mà anh biết rằng đó là người đàn bà có tư thế trần truồng đẹp nhất mà anh từng gặp.

Rạng sáng, sau khi mở cửa cho Kim đi tắm biển, y như rằng anh cũng nhón chân bước theo, anh đi theo một con đường tắt hơn, tới chỗ đặt máy. Anh không biết rằng Nguyệt cũng theo anh sau đó.

Cuộc rượt đuổi giữa ba người với ba mục đích khác nhau diễn ra lặng lẽ khi vầng trăng lưỡi liềm ném hào phóng xuống trần gian những tia sáng huyền ảo. Những tia sáng huyền ảo ấy đã là cơ hội cho Lê. Kim thỏa chí tắm biển, Lê tìm một bức ảnh thỏa nỗi đam mê, còn Nguyệt thì mang theo sự ghen tuông - bởi chỉ có hẹn hò mới có chuyện hai người cùng rời khách sạn cùng lúc.

Trăng lung linh, mặt nước lung linh, Kim tháo bỏ những vướng bận trên người - đúng ra chỉ là một chiếc khăn lớn, Kim chỉ giở tấm khăn ra, lộ một thân hình hoàn mỹ như chưa có một thân hình nào hoàn mỹ hơn. Trăng dát lên thân thể người đàn bà ấy những ánh vàng. Đó là lúc lòng Lê chao đảo, đó là lúc anh run lên - những khoảnh khoắc trăng vàng ấy đã ở lại trong ống kính của anh.

Nguyệt cũng sững sờ khi nhìn thấy chồng mình đang say mê chụp lén cảnh Kim khỏa thân. Suýt tí nữa thì Nguyệt nổi cơn ghen. Nhưng chợt Nguyệt chựng chân mình lại, vội quay trở về khách sạn trước.

Bảy ngày sau Kim trả phòng. Mùa hè rực rỡ ném những tia nắng vàng trên cây cỏ. Kim cười rất tươi: "Gặp lại lần sau anh nhé”. Lê cười với Kim, đưa mắt dõi theo bước chân ấy đang ra khỏi cổng. Anh nghe như mình mất mát một điều gì. Chợt điện thọai của anh tít tít báo hiệu có tin nhắn khi Kim đã khuất xa. Tin nhắn: “Em là Kim đây. Khi nào rửa xong những tấm ảnh, anh nhớ gởi cho em tấm nào đẹp đẹp nghe anh”. Tin nhắn tiếp theo: "Anh nhớ treo tấm ảnh đó ngay tiền sảnh nghe anh. Em sẽ trở lại". Số điện thọai di động của anh in ngay trên danh thiếp anh đưa cho Kim.

Và Nguyệt cũng ở sau lưng anh tự lúc nào."Mấy tấm ảnh chụp cô Kim tắm chắc đẹp lắm phải không anh?”, Nguyệt hỏi.
 
Ký Ức Tình Yêu

"Anh có yêu em không ?”. “Có”. “Yêu như thế nào?”. Duy tròn mắt nhìn Vân một thoáng, hơi bối rối: “Thì... cũng như mọi người yêu nhau”. Vân đỏng đảnh: “Ứ, ứ cần anh nói thế. Phải cụ thể hơn cơ”. Duy dụi tắt điếu thuốc lá, cố nén tiếng thở dài, giọng nói đã có phần khang khác: “Em vẫn bảo tình yêu là một khái niệm trừu tượng cơ mà”. Cũng may Vân đã chịu ngồi im, đầu tựa vai anh, mắt lơ mơ nhìn cả vạt đồi thoai thoải tím ngắt sim mua. Một nơi nghỉ ngơi thật tuyệt - Duy nghĩ, nếu như chỉ có một mình anh, anh sẽ nằm xoài ra thoải mái, nhìn trời qua những kẽ lá và nghĩ mông lung. Duy chợt thấy buồn cười, có ai như anh không, ước có một mình trong lúc ngồi cạnh người yêu.

Duy thấy vai mình nặng trĩu, dường như Vân đã ngủ. Anh đỡ mái đầu Vân ngả lên đùi mình, chăm chú ngắm từng nét mặt cô. Phải thừa nhận là Vân giống Linh, giống như hai chị em ruột mặc dù họ chẳng hề biết nhau ngoài đời. Nghĩ đến Linh, Duy vẫn thấy lòng mình se thắt, dù đã 6 năm rồi... Cũng rèm mi hoe hoe vàng cong vút (chứ không phải mi đen) khiến cho đôi mắt có vẻ gì là lạ, đầy ấn tượng. Cũng nốt ruồi son ngay trên cánh môi (nhưng nốt ruồi của Linh nằm chếch về bên trái, bướng bỉnh và tinh nghịch hơn), cũng đôi má bầu bầu, mái tóc ngang lưng, càng nhìn càng thấy giống. Bỗng Vân cựa quậy rồi mở mắt: “Sao nhìn em lạ vậy? Cứ như nghi ngờ điều gì ấy”. Hình ảnh Linh vụt biến mất, chỉ còn lại là Vân. Duy lắc đầu, âu yếm vuốt vuốt mấy sợi tóc xoà trên trán người yêu, kỳ thực để cho Vân nhắm mắt, thôi quấy rầy anh bằng những điệp khúc câu hỏi cũ mèm.

Ừ nhỉ, tại sao những kì nghỉ ngơi lại cứ gắn với mùa hè. Mà tại sao bao nhiêu năm rồi anh vẫn giữ thói quen đến những vùng đồi núi? Nó nhắc anh, bắt anh phải nghĩ về Linh nhiều hơn - cũng có nghĩa là giày vò, hành hạ anh đến khổ sở. Ngày ấy, Linh cũng yêu hoa sim tím vô cùng. "Không, em yêu tất cả các loại hoa màu tím thì đúng hơn". Hai đứa bằng tuổi nhau, tròn hai mươi. Trong nụ hôn đầu choáng váng và run rẩy đến nghẹt thở, Duy hỏi nhỏ: “Gọi Duy là anh nhé?” Linh xấu hổ, cắn vào cằm anh thật đau. Yêu nhau đến độ tưởng như chết được vì nhau, Linh vẫn không thay đổi cách xưng hô: “Duy ơi, Linh nhớ Duy kinh khủng”. “Duy ơi! Khăn len Linh đan cho Duy này”. “Duy ơi, muốn ốm không đấy, trời mưa thế này mà dám đi đầu trần”. Mới đầu Duy còn cự nự, cứ đòi Linh gọi là anh, Linh chỉ cười: “Khi nào mình... cưới nhau, Linh sẽ gọi Duy là anh, chịu không?” Duy chịu thua trước nụ cười thiên thần ấy để ôm ghì Linh trong vòng tay cuồng nhiệt của mình...

Chiều nắng nhạt dần và gió lồng lộng. Vân tung tăng đi trước Duy, thỉnh thoảng lại cúi xuống ngắt vài bông hoa dại. Tóc Vân bay xấp xoã, đáng yêu hệt như hôm anh gặp Vân lần đầu. Duy chạy tới, bịt mắt Vân, cắt ngang tiếng cười khanh khách của người yêu bằng một nụ hôn dài: “Anh yêu em, biết không hả công chúa?” Vân buông ngay nắm hoa dại, vòng tay qua cổ anh, đắm đuối: “Ðừng làm em phát điên lên vì anh nữa”... Duy dìu người yêu đi chầm chậm. Lạ thay, bên Vân, anh vẫn không thôi nghĩ về Linh, dù anh yêu Vân thực sự, dù Linh đã thuộc về quá khứ xót xa...

...Linh chưa kịp bước sang tuổi 21, chưa kịp cùng anh thổi nến trong ngày sinh. Duy vẫn nhớ, ngày ấy anh đã hỏi Linh thích quà tặng gì nhất cho ngày sang tuổi mới. Linh áp đầu vào ngực Duy, thầm thì: “Linh chỉ thích có Duy thôi, thật đấy”. Vậy mà Linh... Ðó là một ngày chủ nhật đường phố đông nghẹt đã cướp đi Linh của anh. Trong giỏ xe vẫn còn lăn lóc một gói quà nho nhỏ. Cô bạn chơi thân với Linh thổn thức: “Nó bảo... nó bảo sáng nay đi chọn mua tặng anh một chiếc cavat thật đẹp”. Duy không tin vào tai mình nữa, anh điên cuồng chạy khắp bệnh viện như một gã tâm thần. Người ta ngăn không cho anh vào nhà xác, không cho anh vào với Linh khi Linh không còn biết cười, biết nói, biết nhìn anh... Anh đã gào lên nguyền rủa hết thảy, gào lên trong nỗi tuyệt vọng tột cùng...

“Anh xem em mặc áo dài màu này có hợp không?”.Duy nhìn Vân đang xoay người trước gương, gật gù : "Ðẹp lắm cưng ạ! Mà với anh, em mặc màu gì cũng đẹp”. Vân quay lại, âu yếm sửa cổ áo cho Duy rồi la lên: “Sao anh không đeo cavat vào. Trời ạ! Mặc complê đi dự đám cưới mà thiếu cavat”. Duy thành thật: “Anh chẳng có cái nào đâu”. Vân ấn anh ngồi xuống ghế, với tay lấy chìa khoá xe “Ðể em đi mua cho anh”. Mặt Duy thoắt tái nhợt, tim anh nhói lên như có vật nhọn nào vừa đâm trúng “Vân, đừng, kệ anh”. Vân hốt hoảng nhào đến. Lát sau, Duy trở lại bình thường, lúng túng giải thích: “Anh hơi đau đầu. Nhưng anh không dùng cavat đâu”. Vân dằn dỗi: “Nhưng mà tại sao mới được chứ. Sao anh gàn thế. Ừ, mà chưa bao giờ em thấy anh dùng cavat". Đơn giản thế mà cũng giận nhau. Vân đùng đùng bỏ về, không đi đám cưới sau một điệp khúc câu hỏi: “Tại sao” mà Duy chẳng thể trả lời. Từ ngày Linh mất, Duy không bao giờ dùng cavat. Anh cứ có cảm tưởng cổ mình bị thít chặt lại khi nghĩ đến nguyên nhân cướp mất Linh của anh. Chiếc cavat Linh mua ngày ấy giờ nằm yên trong ngăn tủ với hàng bao kỷ vật khác: Khăn len, cuốn sổ, một mảnh mùi soa thêu...


Trong suốt thời gian yêu nhau, Linh chưa bao giờ giận Duy, kể cả những lần anh lỡ hẹn (vì có việc đột xuất) hay những lần anh đến trễ giờ. Nếu thấy lâu lâu anh không tới, Linh lại cuống quýt đến tìm: “Duy hư lắm đấy nhé. Linh cứ tưởng là Duy bị ốm, Linh lo cuống cả lên...”. Có một đôi lần Linh dỗi, nhưng Linh có cách trừng phạt riêng, không ngúng nguẩy quay đi hay bỏ về mà sẽ mím chặt đôi môi hồng xinh xắn, ngăn cản nụ hôn của Duy. Nhưng chỉ được vài phút. Duy chưa bao giờ phải khổ sở chạy theo năn nỉ, dỗ dành Linh. Cũng chính vì thế, anh yêu Linh hơn tình yêu của tất cả thế gian này cộng lại...

Không phải Vân không biết trước cô, Duy đã yêu một người con gái khác. Giá như Vân chỉ bằng lòng biết đến đấy thôi, mặc kệ Duy với những gì thuộc về quá khứ, mặc kệ Duy với những kỷ niệm của riêng mình thì có lẽ Duy sẽ bớt đi những lúc đi về giữa quá khứ và hiện tại, sẽ gạt bỏ được những so sánh ngoài ý muốn. Và biết đâu anh lại tìm thấy tình yêu cuồng nhiệt, đắm đuối hệt thuở xưa ở Vân. Nhưng mọi chuyện lại không như thế. Vân đòi biết quá nhiều. Thoạt đầu chỉ là: “Tên của chị ấy là gì hả anh?” và Vân xuýt xoa: “Em thích cái tên Thuỳ Linh lắm. Anh tin không, ngày nhỏ em có con bạn thân là Thuỳ Linh, bao nhiêu lần em khóc đòi bố mẹ đổi tên cho mình”. Vân bảo: “Ai chẳng có những kỷ niệm. Em không hờn ghen với kỷ niệm của anh. Nhưng có điều, đừng sống mãi với kỷ niệm anh nhé”. Lúc ấy nhìn Vân thật buồn và tội nghiệp. Duy cồn cào, anh thấy yêu và thương Vân thành thật, yêu một dáng hình, một tâm hồn, một tấm lòng biết cảm thông, chia sẻ. Vân đã khóc khi anh kể cho cô nghe vì sao anh mất Linh... Thế nhưng tại sao anh càng cố gắng không khơi dậy kỷ niệm thì Vân càng dồn ép, đòi anh phải kể về Linh nhiều hơn. Và càng biết về Linh thì Vân càng hay giận dỗi, so bì, trách móc. Anh không thể chịu nổi điệp khúc căn vặn “Anh có yêu em không?” và những câu hờn mát đến độc địa của Vân “Em chỉ vụng về thế thôi. Em biết, anh chẳng yêu em nhiều”. Duy không biết thanh minh nhiều, anh lại tìm đến với Linh trong kỷ niệm như một sự cứu rỗi.

... Linh bảo: “Một ngày nào đó không còn thấy yêu Linh, Duy cứ đi yêu người khác mà Duy thích. Chỉ có điều phải thành thật mà nói lời chia tay. Ðừng lừa dối Linh”. Duy véo mũi Linh, mắng: “Chỉ vớ vẩn thôi. Mình sẽ là của nhau đến trọn kiếp”. Mắt Linh thoáng buồn “Linh muốn thế nhưng cuộc đời thì nhiều biến động...”. Duy át đi: “Giả sử Duy yêu người khác, Linh chấp nhận chia tay, thế hoá ra Linh không yêu Duy”. Linh bảo: “Linh sẽ buồn, sẽ đau lắm chứ nhưng nếu Duy hạnh phúc bên người khác hơn bên Linh thì...”. Tại sao Linh lại có linh cảm chẳng lành về số phận, về tình yêu như thế? Ðể rồi chỉ ít lâu sau, anh phải gục đầu khóc trước những vòng hoa trắng, khóc giữa những đêm ngồi nghe bản nhạc quen thuộc một mình lẫn với tiếng mưa gõ nhịp đều đều, đều đều.

Duy lại đến tìm Vân như sau hàng bao lần giận dỗi trước đó. Thủ tục làm lành khó khăn hơn nhưng rồi cũng xong xuôi. Hai đứa lại đi dạo trong công viên. Mùa thu, hoa sữa thơm dịu dàng và quyến rũ. Những bông hoa nhỏ xíu rớt xuống nền gạch đỏ như sao sa. Tóc Vân thấp thoáng hoa sữa trắng ngà. Duy vòng tay qua thành ghế đá, mơ màng nhìn lên vòm lá. Hình như có một tiếng chim chiếp chiếp tội nghiệp đâu đây. Dường như Vân hỏi anh câu gì đó nhưng Duy vẫn mải tìm kiếm xem tiếng chim kêu ấy ở chỗ nào. Chắc chắn đó phải là chú chim sâu nhỏ thật dễ thương. Thế mà ngày bé, bao nhiêu lần anh mang súng caosu lêu lổng khắp các khu vườn... Chợt Vân giật tay lại, ngoắt người đi, giận dỗi. Duy giật mình, ngắt khỏi những suy nghĩ lan man: “Gì thế em?” Vân quay lại, nét mặt trở nên cau có: “Em biết mà, anh không thể nào khác đi. Anh lại nghĩ, lại nhớ, lại tiếc tình-yêu-cũ-của-anh rồi phải không?” Duy thất vọng, cúi đầu không nói. Vân vẫn không tha: “Hèn gì em hỏi anh đến ba lần mà anh không trả lời”. “Em hỏi anh gì vậy? Anh im lặng cũng là một cách trả lời đấy chứ”. Vân nhìn sững Duy, nghẹn ngào: “Anh không yêu em phải không. Ngồi với em mà anh chỉ nghĩ đến chị Linh...”. Duy cắn môi đột ngột: "Ừ! Anh yêu Linh và yêu Linh yêu Linh mãi mãi”. Vân bật khóc, cầm túi xắc rồi bước đi như chạy. Duy không đuổi theo như bao lần trước đó. Anh nhìn theo cô rồi buồn buồn nghĩ: Chắc là chẳng khi nào mình gặp lại Vân để làm lành nữa... Ôi! Ngày xưa, Linh thường mặc áo xanh, Linh thường đi thong thả...
 
Trần Thị Thu Thủy tên thật Trần Thị Thỏ, trú tại thôn Tám, Trảng Tranh, Tỉnh Thừa Thiên. Thuở thiếu thời, trí tuệ thì thường thôi, tuy thế, tính Thủy thật thà, thủ thỉ thù thì, thỏn thà thỏn thẻn, thật thương! Tới tuổi trăng tròn, Thủy tròn trặn, tươi tắn, trắng trẻo, tay tròn trĩnh, tóc thơm thơm, thật tuyệt!
Thủy tuyệt trần, tôi tả thì thô thiển. Thôi thì tàm tạm thế.
Trai tráng trong thôn Tám, từ trai tơ tới tuổi tứ tuần, từ tuổi tứ tuần tới tuổi thất thập, thoạt trông thấy Thủy, tất thảy tấm tắc trầm trồ:
“Trời! Trắng tựa tuyết!”
“Thon thả thế!”
“Tóc thật thướt tha!”
“Ti to thế! Tròn thế!”
“Trác tuyệt! Trác tuyệt!”
Trai tơ thổn thức, tứ tuần tơ tưởng, thất thập thẫn thờ. Thấy Thủy thấp thoáng, tất thảy táo tác, thập thà thập thò, thật tội. Tứ tuần thách trai
tơ: tán thắng Thủy thì thua tam trâu. Thất thập thách tứ tuần: tán thắng Thủy thì thua tám thúng tiền. Thách thì thách thế thôi, thua Thủy tất tần tật. Thủy tựa thần tiên, trai tráng trong thôn thì thô thiển, tiền tài trắng trơn, thân thế thấp tè, thế thì tán tới trăm tuổi!
Tiếng tăm Thủy truyền trong toàn tỉnh.Thư từ tới tấp tới tay Thủy. Thư thì thủ thỉ tâm tình. Thư thì tranh thủ trình thêm thân thế, tiền tài. Thư thì than thở tức tưởi. Thư thì thêm thơ, thêm tranh, trang trí thật trang trọng... Trong tám tháng trên tám trăm thư, thật thế!
Trai tráng trong tỉnh tìm tới tán tỉnh Thủy tới trăm thằng. Tám thằng thân
tôi: Thằng Thịnh, thằng Tâm, thằng Thông, thằng Thìn, thằng Thỉ, thằng Trung, thằng Tuy, thằng Tuấn tán tỉnh tài thế, tí ta tí tởn tới tán Thủy, tốn tiền trăm tiền triệu, tiêu tiền tới trắng tay, thua tiếp tục thua. Tám thằng thất thểu tìm tới tôi than thở:
“Thôi! Tiền thế, tài thế, tập tễnh tới tán Thủy thêm thiệt thòi.”
Tôi thích Thủy, tuy thế tôi tỉnh táo tự thấy: trí tuệ tôi tầm thường, tiền tài thiếu thốn, thân thế tiếng thì to, thực tình thanh thế tổ tiên thôi, thân thế tôi thấp tẹt. Tôi trù tính: thư từ tán tỉnh, trật! Tiền tài: trật!
 
Thân thế: trật. Tổ tiên ta từng truyền tụng: tham thì thâm. Thư từ, thân thế, tiền tài... trật trật trật! Thua thua thua! Thủy thích tinh tế, trung thực, thật thà, thế thôi. Tôi tính toán thật tình tiết: từ thị trấn Tân Tiến tận tụy tới thôn Tám tìm Thủy tâm tình, từ từ, từ từ, tránh trắng trợn, tránh thô thiển, thỉnh thoảng thêm tí tranh, thêm tí thơ tặng Thủy, trời thương trời trợ thủ thì tất thành.
Trời thương tôi thật. Tới thôn Tám, thấy Thủy trơ trọi, thui thủi trên thềm, tôi thích thú thấy tôi tính toán trúng.
Tôi trấn tĩnh, từ từ tiến tới tận thềm, thì thầm:
“Thủy! Tôi tên Trí, Trần Trọng Trí, thầy thuốc Tây...”
“Trần Trọng Trí!”, Thủy trầm trồ, “Thầy thuốc trị tim, trị thận, trị toàn thân thể, tiếng tăm truyền tám tỉnh!Trời, trẻ thế! Trẻ thế!” Thủy tấm ta tấm tắc.
Tôi trùng tên thầy Trí, thầy thuốc thiên tài trên tỉnh. Thủy tưởng thế, thật trúng tủ, trời toàn thương tôi!
Thấy tình thế thật thuận tiện, tôi tiếp tục thủ thỉ:
“Thủy, tôi trốn thầy, trốn thủ trưởng, trốn tránh tất thảy, từ thị trấn Tân Tiến tới tìm Thủy!”
Thủy trao tôi tách trà, thẹn thùng:
“Thủy thật tầm thường, tìm Thủy thật trớ trêu...”
Tôi tíu tít:
“Thủy! Thủy! Thủy tránh tự ti. Thủy thật tuyệt trần, tiếng thơm truyền từ tỉnh Thanh tới tỉnh Thừa Thiên, thật thế!”
“Thầy Trí tưởng thế thôi...”, tiếng Thủy trong trẻo, thánh thót.
Tôi thủng thẳng tán tỉnh, thầm thầm thì thì, tu từ thật tốt, thỉnh thoảng thêm tí thán từ. Thấy Thủy thinh thích, tôi tấn tới, thả từng tiếng thật tha
thiết:
“Tháng tư, tôi trông thấy Thủy tha thướt trong thị trấn. Tôi thảng thốt:
Trời, tiên từ trên trời tới thị trấn! Từ tháng tư tới tháng tám, tối tối tôi thao thức, trằn trọc. Tâm thần tôi trục trặc, thân thể tiều tụy. Tưởng tượng thấy Thủy trẻ trung, tươi tắn, tôi thổn thức: Thiếu thủ trưởng thì thảnh thơi, thiếu trời thì tổn thọ, thiếu Thủy thì tắc thở! Thủy! Trái tim tôi tràn trề tình thương Thủy. Tôi tìm tới Thủy trao trọn trái tim thật thà, trái tim trong trắng, trái tim thân thương, trái tim trẻ trung, trái tim trung thực... Tôi thề, tôi trao trọn
 
Bây giờ, em bắt đầu hỏi anh. Anh chỉ có nhiệm vụ trả lời tất cả những câu hỏi một cách chính xác và nghiêm túc.

- Ừ!

- Tốt. Chúng ta bắt đầu nhé!

- Năm nay anh bao nhiêu tuổi?

- Còn em?

- Vậy anh nhỏ hơn em bao nhiêu? Chính xác là bao nhiêu?

- Anh không biết.

- Anh không trừ được từng tháng hả?

- Ừm... m... hình như là ba mươi.

- Đúng. Ba mươi tháng. Vậy tức là, khi em vào lớp mầm, anh chỉ mới chào đời. Khi em vào lớp một, anh vẫn còn ôm bình sữa. Khi em bắt đầu dậy thì, anh chỉ là cậu bé chưa biết chạy xe đạp. Khi em vào đại học, bắt đầu biết yêu, nếu anh không bị ở lại lớp, anh sẽ là cậu học sinh cấp ba, râu lún phún...

- Và khi em tốt nghiệp đại học thì anh chỉ mới là thằng sinh viên năm nhất (nếu không ở lại lớp) và mặt mày ngơ ngáo chứ gì?

- Chính xác. Điều đó có nghĩa, khi em bắt đầu kiếm được tiền, chi tiêu thoải mái theo ý mình thì anh vẫn còn xòe tay xin tiền bố mẹ. Anh vẫn phải đi thưa về trình, thậm chí chẳng thể khao bạn gái một bữa ngon lành bằng tiền của chính mình.

- Thế thì sao?

- Thì vậy đó! Tiếp tục, anh đã yêu bao nhiêu lần, tính đến thời điểm gặp em?

- Đấy có phải là thành tích đâu mà báo với cáo...

- Tất nhiên, em có bảo anh báo cáo đâu. Em chỉ kêu anh nhẩm tính thôi mà...

- Ừ, nhiều hơn một.

- Thôi nào, anh. Nghiêm túc và chính xác hơn. Không nhớ à?

- Ừ, ba.

- Tính luôn cả em?

- Em nữa là bốn.

- Ừm... em nghĩ phải nhiều hơn chứ !

-...

- Còn em, tính đến thời điểm gặp anh, em đếm được hai, kể cả anh!

- Em lại định nhắc đến người kia à?

- Không, em chỉ đang tính. Anh yêu nhiều hơn em dù anh nhỏ hơn em ba mươi tháng nhưng có bao giờ anh nghĩ sẽ yêu một người lớn tuổi hơn mình không?

- Chưa nghĩ chứ không phải là không bao giờ... À, mà có đấy. Anh yêu cô giáo hồi lớp một. Cô ấy rất xinh, dịu dàng!

- Anh thôi đi. Nghe đây, nếu chưa nghĩ đến sao lúc gặp em và biết em lớn hơn ba tuổi, anh vẫn cứ yêu, hả?

- Ơ, em hỏi kỳ cục! Anh biết đấy, biết hết đấy. Rồi sao nào? Ai cấm anh yêu?

- Không ai cấm nhưng anh đã nói dối em, nói dối một cách trắng trợn và như thật.

- Anh xin lỗi rồi. Rắc rối. Biết thế anh đã không nói với em.

- Nè, anh quên là sự thành thật bao giờ cũng đáng quý hơn à?

- Anh chẳng biết, chỉ thấy trong trường hợp này, tác dụng ngược lại.

- Anh nghe đây, em năm nay hai sáu. Em vừa trải qua mối tình đầy thương tích. Em bị người ta bỏ rơi... Người ta chẳng quan tâm đến tình yêu mà em chắt chiu cho họ. Họ đạp bỏ hết. Họ không cần biết em sống ra sao sau khi vứt em qua một bên. Anh có biết, em đã phải vất vả, phải sống những ngày thế nào không? Em tan nát và bi lụy. Họ chạy theo một con bé bằng tuổi anh. Em cũng từng trẻ trung như con bé ấy nhưng bây giờ em khác rồi, em đã là phụ nữ. Một phụ nữ thành đạt. Anh hiểu không? Em đủ điều kiện để mơ ước một người chồng giàu có, giỏi giang. Một người chồng chứ không phải một thằng chồng. Em cần một người chồng để yêu thương, để dạy em, để làm thay đổi hàng đống khuyết điểm trong con người em chứ không phải một cậu bé chỉ biết yêu và tận hưởng. Anh hiểu không?!

- Anh vẫn đang nghe dù chưa hiểu hết... Nhưng em cứ nói...

- Em nói rồi. Hai năm nữa em sẽ lấy chồng. Trễ lắm cũng chỉ ba năm. Em sẽ lấy chồng. Em không phải đóng vai phụ nữ thành đạt. Em không cần chiếc ghế giám đốc. Em muốn làm vợ, làm mẹ. Em sẽ sinh con, ít nhất là ba đứa. Em sẽ nấu ăn, giặt giũ, dọn dẹp nhà cửa đợi chồng về. Thời gian rảnh rỗi em sẽ viết văn. Anh biết không? Em sẽ viết loại tác phẩm best seller ấy. Người ta sẽ nhắc đến em như một phụ nữ mẫu mực, đảm đang và trầm lắng.

- Em có nhầm không? Trầm lắng gì khi em cứ muốn tác phẩm của mình sẽ best seller? Mà này, em không định đi làm à? Thế mục tiêu mua nhà đẹp đâu rồi?

- Ừ, em sẽ mua nhà trong hai năm nữa. Sau đó, em chẳng việc gì phải lao vào kiếm tiền.

- Nghe hay nhỉ? Nếu thế, ngay từ bây giờ em làm ơn đừng đi spa mỗi tuần, đừng làm đẹp bằng mặt nạ đắt tiền, cũng đừng shopping tùy hứng, đừng tiệc tùng bù khú, đừng biếu tặng, đừng đi nhà hàng sang..., may ra hai năm nữa em sẽ mua được một phần tư căn nhà trong một con hẻm ở quận ngoại thành nào đó...

- Anh nói hay ghê!

- Chứ không phải như vậy sao? Này, em đừng nhắc những chuyện như thế được không?

- Anh không thích nghe chứ gì! Vì anh chưa bao giờ nghĩ đến chuyện sẽ yêu một bà chị lớn hơn ba tuổi. Anh chưa chuẩn bị tâm lý để đối phó với việc này. Cho nên, nếu bố mẹ anh ngăn cản, anh sẽ ba chân bốn cẳng chạy mất.

- Em nghĩ vậy thật sao? Đúng, rõ ràng anh chưa chuẩn bị nhưng đâu có nghĩa anh không biết cách giải quyết.

- Vậy anh trả lời đi. Nếu hai năm nữa em lấy chồng, mà chắc chắn ông chồng ấy không phải anh, vậy em còn yêu anh để làm gì?

- Em hỏi hay thật. Anh chịu, không biết trả lời thế nào.

- Anh đừng khen em bằng giọng đó. Bây giờ em cho anh một số option, anh chọn nhé.

- Lại còn vậy nữa. Sao em nhiều trò thế?

- Anh nghe này. Một là chúng ta chia tay. Hai, tiếp tục yêu và cưới nhau trong hai năm nữa. Ba, cứ yêu nhau nhưng hai năm nữa em sẽ lấy chồng, còn anh thế nào mặc kệ. Tùy anh chọn.

- Ôi trời, em nghĩ hay thật. Vậy em chọn option nào?

- Em chọn option thứ nhất.

- Trả lời nhanh quá. Em chuẩn bị từ khi nào vậy?

- Chẳng chuẩn bị gì hết, tự nhiên thôi. Còn anh?

- Anh chọn option hai phẩy năm. Em chọn option một, cộng lại là ba phẩy năm, không có trường hợp đó, nên thôi vậy.

- Anh thật buồn cười! Ở đâu ra cái kiểu đó hả?

- Nếu em tự nghĩ ra được thì anh cũng làm được. Đơn giản mà!

- Chuyện này không đơn giản đâu. Em chưa bao giờ nghĩ sẽ yêu một người nhỏ hơn mình ba tuổi.

- Yêu một người nhỏ hơn ba tuổi? Anh nghĩ em chưa hề tưởng tượng sẽ ngủ chung với một thằng nhỏ hơn ba tuổi chứ?

- Anh dám ăn nói vậy hả?

-Thôi nào... Anh đùa. Thế không phải chúng ta đã cùng làm điều đó? Một mình anh sao làm được?

- Ừ, đúng. Cả hai đã cùng làm. Thì sao? Anh quên nó đi. Em chẳng nhớ gì dù nó vừa xảy ra hôm qua. Và anh cũng quên luôn khái niệm tình yêu chiếm năm phần, tình dục chiếm bốn phần rưỡi, nửa phần còn lại dùng để dự trữ...

- Được thôi. Thế em cho là phải yêu mấy phần? Còn tình dục, em bỏ đi đâu? Nếu thiếu nó em sẽ vẫn sống vui vẻ, vẫn sinh ra những đứa con khỏe mạnh?

- Con của em có khỏe mạnh hay không chẳng liên quan gì đến tình dục của bố mẹ nó.

- Thôi đi. Cái tình yêu mà em nói, chỉ có trong sách vở. À, như quyển sách Điều kỳ diệu của tình yêu em tặng anh, anh đọc cả rồi. Chưa bao giờ anh kiên nhẫn đọc sách nhưng vì của em tặng nên anh cố đọc. Em có biết tình yêu trong cuốn sách này thế nào không? Nó đẹp dã man, anh nói thật đấy! Đẹp đến nỗi anh tìm mãi mà chẳng thấy mình trong đó. Thế còn em? Em nhìn thấy tình yêu của em trong đó à?

- Không! Em không thấy. Vì không thấy nên em mới mơ ước sẽ có một tình yêu như vậy...

- Vậy có phải cái thứ tình yêu thực tế chẳng hề giống tí gì với cuốn sách này, đúng không?

- Nếu không có, người ta lấy đâu ra để viết cho anh đọc... Mà cũng có thể anh nói đúng. Thứ tình yêu em có chỉ là sự phụ rẫy, gian dối, manh mún và tệ hại.

- Thôi, em đừng nhắc điều đó nữa. Em có biết, con bạn gái đầu tiên của anh đã trù anh thế nào không? Nó trù anh sẽ không có con trai. Nó bảo, nếu anh không lấy nó thì cả đời anh chẳng có đến một thằng con để bưng nhang đèn...

- Vậy có nghĩa, nếu em lấy anh, em cũng không thể có con trai à?

- Ừ. Nếu lời trù rủa linh nghiệm.

- Sao như vậy được? Chẳng lẽ dù em và anh có hợp nhau thế nào thì cũng không thể có con trai? Phi lý quá!

- Ai biết được. Nhưng ý anh là, tình yêu trên thực tế rất trần trụi, chẳng có nguyên tắc nào, luật lệ nào. Vậy em cứ săm soi tình yêu của chúng ta để làm gì? So sánh tuổi tác của em và anh để làm gì, nếu chúng ta yêu?

- Vậy có nghĩa là, anh khẳng định chúng ta yêu nhau?

- Vậy theo em, gọi là gì nếu không gọi là yêu nhau?

- Em thì lại nghĩ, chúng ta đang tận hưởng nhau. Anh không thấy vậy sao?

- Thế nào là tận hưởng nhau?

- Thôi, không nói về vấn đề này nữa. Em tự tìm ra cách giải quyết rồi. Em out đây.

- Khoan đã. Anh hỏi em điều này!

- Thì anh hỏi đi!

- Tháng này... em ổn chứ?

- Anh chỉ hỏi riêng tháng này thôi hả? Tính từ khi em gặp anh, đúng không?

- Em, mỗi lần nói đến điều gì em đều phải làm cho phức tạp lên thì mới dễ chịu sao?

- Em lại nghĩ mình không như vậy. Rõ ràng, em vẫn ổn từ trước khi gặp anh. Tháng nào em cũng tốn ít tiền mua Kotex nhưng tháng này có vẻ như ngoại lệ. Nếu ba ngày nữa vẫn không thấy, có nghĩa... có gì đó bất thường rồi còn gì...

- Em đừng nói vậy. Đó cũng là chuyện bình thường, bình thường như việc anh yêu em, dù em có hơn anh bao nhiêu tuổi chăng nữa...

- Thôi em mệt rồi, em out đây. Cứ để mọi chuyện xảy ra đúng như những gì cần xảy ra.

***

- Anh, em vừa đi ngang một tiệm bán áo bầu, đẹp thật!

- Này, em ổn đấy chứ? Không thể nói chuyện một cách bình thường được à?

***

- Anh, em vừa đi ngang trung tâm siêu âm phụ sản, vắng hoe...

- Ôi, em...

- Anh, em không thể yêu kiểu này. Vài tháng nữa, kết thúc dự án, em sẽ về Sài Gòn, cuộc sống của em sẽ tiếp tục. Anh vẫn là con của bố mẹ anh, vẫn là loại con trai Hà thành. Anh vẫn cứ kiêu ngạo, chải chuốt, hào hoa, ngông cuồng và lại yêu như chưa từng có em trong đời. Em sẽ về nơi chốn của em và tìm một công việc ít tổn hại đến tinh thần. Em sẽ sống cuộc sống bình thường, tìm một người chồng bình thường...

- Em nhắn tin dài quá, anh đọc rất mệt. Ngắn gọn thôi. Đợi gặp nhau, mình sẽ nói nhiều. Em đừng vội quyết định điều gì.

- Anh, em muốn đi ngoại thành bằng Vespa, chiếc Vespa vàng anh đã chở em hai mươi mốt lần kể từ ngày chúng ta gặp và yêu ngay sau đó. Em sẽ mặc váy trắng, áo dây trắng, áo khoác trắng, mũ rộng vành trắng. Còn anh, sẽ mặc ka ki màu bò, sơ mi trắng mềm rủ cùng với giày tây trắng. Mình sẽ nằm trên cỏ. Em sẽ hát anh nghe và mình sẽ nói đủ thứ chuyện trên đời, về tương lai và những đứa con. Anh sẽ hôn em chứ? Hôn thật sâu, thật dài như nụ hôn đầu tiên anh đã hôn. Khi ấy chúng ta ngồi trên Vespa và anh đã quay người ra sau hôn em nụ hôn rất kêu mặc cho đường phố Hà Nội đông kịt. Nụ hôn đó hẳn anh đã tích góp sau bao mối tình, còn em, em sẽ hôn anh bằng nụ hôn thần thánh, biến anh thành người đàn ông thực thụ, không phải cậu bé hai mươi ba với một quá khứ yêu đương rách mướp. Anh có tin sẽ làm tâm hồn em lành lặn như trước khi em yêu người đó không? Anh có thể chữa lành vết thương mà người đó đã khắc sâu vào tâm trí em không? Đồ tồi, bỉ ổi...

***

Cuối cùng, cô cũng về. Đầu tiên, cô trở về căn phòng của mình. Căn phòng vỏn vẹn hai mươi mét vuông đủ kê một cái tủ, một tấm nệm và một giá sách. Buổi sáng đó, sau khi kết thúc chuyến công tác dài ngày, cô nhớ mình đã mang đi khá nhiều thứ từ nơi mình đến. Cô mang theo tấm bùa An đã xin trong một lần ghé thăm chùa Hương, một bức ảnh chụp nghiêng gương mặt cô đang nhìn ra hồ một sáng chủ nhật hanh gió. Đó là bức ảnh An chụp bằng điện thoại và dùng phần mềm biến cô thành thiếu nữ thời xưa với gam màu trắng đen gợi cảm. Còn một thứ nữa, cô buộc phải mang theo, đó là An. Người đàn ông nhỏ hơn cô ba mươi tháng với màu mắt nâu, tóc thẳng, sóng mũi ngang và cái miệng luôn tươi cười.

Hình như, trí nhớ cô không đủ để ghi nhận nhiều hơn thế. Nó không thể nhớ nhiều hơn một buổi tối, An đã cho cô cảm giác trở thành đàn bà lần thứ hai trong đời. Cô nhớ mồn một hình ảnh Huy dù người nằm lên người cô là An với vóc dáng và những rung cảm hoàn toàn khác. Cô không hiểu vì sao hình ảnh người đàn ông đầu đời vẫn cứ nằm trong trí nhớ mình dù có nhiều thứ thay thế, giành chỗ.

Cô chỉ là đàn bà, như sương sớm. Cô ngưng tụ và bốc hơi. Có thể An lại nói cô ngông dù cô đã sống nhiều hơn An ba mươi tháng. Đã bao lần cô nghĩ, An chỉ là một cậu bé mới lớn, sẽ chẳng bao giờ An hiểu được những ngóc ngách trong con người cô, và rồi mọi thứ gút mắc mà cô thường dồn nén sẽ vẫn đâu vào đấy. Cả An cũng thế. Rồi An sẽ chẳng còn nhớ gì đến cô, người đã bám An để cố tạo những xúc cảm thay thế sự phụ rẫy, ruồng bỏ mà cô đang gánh chịu.

Hóa ra, cô phung phí bản thân, hào sảng ban phát cho An những rung động chai mòn, với những tiếng kêu phấn khích, chỉ vì cô vẫn khao khát Huy, người đàn ông đã biến cô thành đàn bà ở tuổi hai mươi ba trong trẻo, và sau đó bỏ rơi cô giữa đường.

Rồi cô sẽ quên, Huy đã quên và An cũng quên. Tất cả họ sẽ chẳng ai còn giữ lại điều gì sau khi gột rửa tấm thân nhầy nhụa thời tuổi trẻ. Cô cũng sẽ làm vợ, làm mẹ như mong muốn. Cả Huy và An sẽ trở thành chồng một thiếu nữ giản dị trắng trong nào đó, không phải người đàn bà với bao xúc cảm phiền toái luôn làm cho mọi thứ phức tạp lên...

***

Nếu An du học và tiếp tục theo đuổi sự nghiệp, khi cô thành mẹ, có lẽ An cũng lấy được bằng MBA.

Còn Huy... Huy đã tan theo gió, tan theo gió... ngay từ khoảnh khắc cô biết mình không còn yêu...
 
Ba ơi, mở mắt ra đi!

Nguyễn Thị Diệp Mai


- Má cứ để ổng đi! - Tôi hấm hứ - Ổng đợi ngày này mấy chục năm rồi mà cản đản làm gì.


Thấy cái mặt chù ụ của tôi, má đang định lên tiếng nói tiếp thở dài thôi luôn. Ông ta im lặng mặc áo mưa vào. Vẫn thái độ nhẫn nhịn cam chịu thấy mà ứa gan. Không biết từ hồi nảo hồi nào tới giờ mỗi khi có đụng chạm tới chuyện đó, tôi thì nhảy cồ cồ lên, ổng thì cứ nín thinh ẩn nhẫn như một ông đạo đang tháng chay tịnh vậy. Mặc xong cái áo mưa kiểu ba-đờ-xuy cũ mèn, ổng lẳng lặng dắt chiếc xe ra sân nổ máy. Ông ta quay lại nhìn má tôi như nói: “Anh đi nghe! Đi coi thiệt hông rồi về liền”. Dù không có tiếng nói nào phát ra nhưng má tôi như hiểu hết, gật đầu tán thành. Chiếc Magic cũng cũ sì như cái áo nổ máy ù ục rồi lao vào màn mưa giăng đặc không nhìn được quá năm thước. Chỉ chưa đầy hai phút là ổng và chiếc xe mất dạng. Tiếng máy chìm lịm vào tiếng mưa. Con Bé Tư đang cầm cuốn tập học bài, bỏ xuống, thở ra bất nhẫn:


- Ba làm vậy cũng là vì chị. Sao chị Hai ác với ba quá vậy?


Tôi quay lại sừng sộ:


- Ba của mày chứ đâu phải của tao. Ổng làm vậy vì muốn chứng minh mình là người đàng hoàng chứ đâu phải vì tao.


- Hai đứa con đừng cãi nhau nữa! - Má tôi giọng méo đi như van xin - Trời mưa lớn vầy mà đi tới Ba Hòn xa quá! Ba của tụi bây mới bịnh xong.


- Ôi, xì… ! Ổng là bác sĩ mà, má lo gì.


Nói thì nói vậy chớ thấy mắt má ướt rượt, cái cục lửa trong bụng tôi hạ ngọn liền.


Từ hồi má sanh thằng Bé Ba, rồi con Bé Tư tới giờ tôi chưa một lần kêu ông ấy bằng ba hay dượng. Trổng không ngôi thứ xưng hô khi cần nói, mà giữa tôi và ông ấy ít có việc cần lắm. Trước mặt khách lịch sự thì “ổng này, ổng nọ” cho qua chuyện. Ngày ba tôi mất tích tôi đã bảy tuổi. Ngày ông ấy về nhà ở luôn với má, tôi chín tuổi rồi. Má đẻ thằng Bé Ba, lúc tôi mười tuổi. Tôi đã ghét cay ghét đắng ai tới nhà tôi hỏi:


- Ba đâu rồi Bé Hai?


Tôi cộc lốc:


- Chết rồi!


Người ta lắc đầu:


- Không phải, dượng con kìa?


- Hổng biết.


Tại có mặt ông ta trong nhà mà người ta quên mất ba của tôi. Má tôi cũng quên ba tôi rồi. Chỗ ba tôi nằm với má giờ để cho ổng nằm. Chính giữa chiếu hồi trước là chỗ tôi nằm với ba má giờ là thằng Bé Ba, rồi con Bé Tư. Tôi ấm ức, lúc đầu còn khóc, sau chỉ ngồi chầm dầm không nói rằng tới ai. Bà nội tôi hồi còn sống ôm tôi ra mái chái sau nhà, để lên võng. Hai bà cháu đưa nhau. Nội nói:


- Đừng có làm vậy má con buồn lắm Bé Hai. Dượng của con tốt lắm, tốt như ba con hồi đó vậy, con kêu bằng ba đi.


- Đừng có hòng! Ổng đâu có gì giống ba tôi.


Trong tâm trí tôi, ba cao lớn dình dàng đi vô nhà phải khom khom để khỏi đụng ngạch cửa. Ai cũng kêu ba tôi là chú trung đội trưởng, nghe oai ơi là oai. Ba tôi nói năng sang sảng, cười ha hả rộn cả nhà. Ba đi về tới là bỏ đại ba-lô, súng dài xuống đất, tuột quần dài liệng lên đầu võng. Tôi nhớ như in cái lai quần cụt lửng bằng vải bao bòng bột của ba có thêu hai chữ “Út Trọng”. Má tôi nói thêu chữ làm dấu khỏi lộn quần với người khác vì ba có cái tật tiện đâu bỏ đó. Ba tôi cười khì khì, thương quá thì may quần áo xong, dích dắt chữ lên cho đỡ nhớ chớ bự con như ba thì ai mặc quần khính được mà làm dấu. Ba ẵm tôi tung lên, hứng xuống làm tôi cười nắc nẻ. Còn ông ta, ốm nhom, trắng nhách, nói không dám nói lớn, ẵm không dám mạnh tay như sợ làm tôi đau
 
Không phải vậy mà tôi ghét ổng đâu. Tôi ghét là vì ngoài ổng ra không còn ai biết ba tôi đâu rồi. Hồi còn chiến tranh người này nói ba tôi chết mất xác. Người khác xù xì ba tôi đầu hàng theo giặc về Rạch Giá ở rồi. Nội và má khóc hết nước mắt. Người ta bỉu môi sau lưng: "Thứ đồ chiêu hồi, ham sống khoái giàu sang bỏ vợ bỏ con”. Ông ấy không biết từ đâu về báo với xã ba tôi hy sinh ở ngã ba Ba Hòn rồi. Ba tôi và cậu liên lạc của tiểu đội ở lại chặn đường cầm chân giặc để đồng đội đưa thương binh vượt tuyến về căn cứ an toàn. Người ta hỏi chứng cớ đâu. Ổng ngồi im. Người ta hỏi mồ mả, xương cốt của ba tôi ở đâu. Ổng lắc đầu. Người ta hỏi còn ai làm chứng. Ổng nói đoàn thương binh về đến kinh Cái Sắn đã được đón đi hết, đội quân y thoát khỏi trận càn ấy chỉ còn lại mình ổng. Ở xã không ai tin. Mà tin sao được khi lời đồn đã nhìn thấy ba tôi mặc đồ rằn ri, ngồi xe zeép đi dọc đường Lê Lợi ở Rạch Giá. Ông ấy thề trên danh dự của một con người, của một bác sĩ, của một người lính rằng ba tôi hy sinh vì nhiệm vụ là thật. Không ai tin. Người ta nói nếu tìm được xương cốt của ba thì mới biết thật hay giả. Tôi nhớ ba quá, năn nỉ ổng đi kiếm ba về cho tôi. Đi kiếm ba về để người ta đừng nói tôi là con của thằng chiêu hồi. Mà tôi có biết “chiêu hồi” là cái gì đâu. Chắc là xấu lắm nên mấy thím, mấy dì trong xóm mới dè bỉu má con tôi dữ vậy. Ông nín thinh ngồi không nhúc nhích. Bà nội buồn rầu, chết luôn trên võng ở chái nhà sau. Không còn ai ẵm đưa tôi nữa. Má tôi lùm đùm hai đứa em nhỏ, thời gian đâu mà đưa tôi mà dỗ tôi. Tôi khóc òn ỉ, xin ổng dẫn tôi đi kiếm ba để có người đưa tôi ngủ. Ổng cũng khóc nói đang chiến tranh bom đạn ầm xèo vậy không đi được đâu con. Tới lúc nào hết giặc rồi dượng đi kiếm ba của con về cho con. Kiếm tới chừng nào được mới thôi. Tôi giãy tử, phải kiếm bây giờ để tới chừng đó người ta đâu còn nhớ ba là ai. Tôi không muốn làm con của kẻ đi chiêu hồi nữa. Má thấy tôi làm giặc, bỏ thằng Bé Ba xuống, chạy ra nắm tay lôi vô nhà. Má rút cây sống lá trên vách, bẻ một khúc quất vô đít tôi. Vừa quất, vừa khóc, vừa chửi:


- Lì lợm nè! Nói không biết nghe nè! Đồ hư! Má đánh chết con còn hơn để con la khóc giết cả nhà! Má đánh chết con cho rồi!


Ông ấy xông đến, giật cái cây trên tay má. Lần đầu tiên tôi thấy mặt ổng đỏ bừng, giận dữ quát lớn:


- Em khùng hả? Bé Hai còn nhỏ biết gì đâu mà đánh nó. Muốn trút giận thì đánh anh đây nè!


Má ngồi bẹp xuống đất khóc. Thằng Bé Ba chạy ra ngồi xuống kế má không biết gì cũng khóc. Mặt ổng từ đỏ chuyển sang xanh rồi ngồi quì xuống ôm má cũng khóc. Tôi tự nhiên nín khóc. Từ đó tới giờ tôi không bao giờ khóc nữa.

Tôi đợi ông ấy thực hiện lời hứa. Một năm. Hai năm. Sáu năm. Giải phóng, hết chiến tranh, hết bom đạn, cũng không thấy gì. Ông ấy đưa má con tôi về Rạch Giá ở, rồi đi hỏi thăm khắp nơi, cũng không thấy gì. Có người nói thấy ba tôi theo đoàn người đi di tản hồi năm bảy lăm rồi. Cũng có người nói sau trận càn bảy mươi chín ngày đêm, hứng mấy trăm ngàn tấn bom đạn, đá xứ Ba Hòn còn bị nghiền nát huống hồ chi xương cốt con người. Cứ như vậy mười năm nữa trôi qua. Rồi ba mươi năm. Vẫn không một chút manh mối gì. Tôi lớn lên với cái lý lịch ghi: cha mất tích, nghi vấn ra chiêu hồi.


Thời gian cứ vậy mà trôi. Tôi cứ vậy mà lớn, mà lì lợm, mà chống đối ông ta ra mặt. Ổng muốn tôi học nghề y, tôi đi thi sư phạm. Ổng khuyên học xong đại học hẵn lấy chồng, tôi vừa lấy chồng vừa đẻ con vừa học. Ổng xin cho về tôi dạy trường điểm của tỉnh, tôi đi tuốt về trường tệ nhất thị xã để dạy. Ổng kêu vợ chồng tôi về ở chung cho đỡ cực. Tôi cương quyết ở căn hộ tập thể mười hai mét vuông. Ổng cưng con tôi ôm ấp hôn hít thằng nhỏ. Đợi ổng quay lưng đi tôi lôi nó ra tắm rửa, kỳ cọ cho mất sạch dấu tích. Ba chục năm rồi cứ vậy. Mất hết hy vọng ba sẽ trở về và tôi cũng không còn nghĩ đến chuyện sẽ ghi lại lý lịch. Thi thoảng tôi mới đưa con về thăm má dịp tết nhứt, giỗ quẩy. Khi nào má nhớ cháu ngoại quá thì tự tìm đến khu tập thể của trường mà thăm.
 
Lúc nào rảnh thì ổng đưa má đến chỗ tôi. Nhìn căn phòng nhỏ xíu lớp tole nóng như cái lò hấp, ổng nói với chồng tôi:


- Ráng dành dụm kiếm cái nhà riêng đi con, ở vầy hoài sao.


Đồng lương giáo viên hai vợ chồng chật vật lắm mới đủ nuôi con chứ đừng nói gì đến chuyện mua sắm một ngôi nhà riêng. Tôi nghe ổng nói mà phát ghét. Bốn năm trước, lần đó vợ chồng tôi sẵn đường đi dạy về đưa con ghé thăm, má e dè nói:


- Ba con định cho hai vợ chồng con miếng đất chế độ ở khu trung tâm. Về đó cất nhà đi con, má cho tiền.


Mắt tôi ngó lơ chỗ khác. Má vội phân bua:


- Tiền này là của hồi môn của bà nội để lại cho con, không phải tiền của ba con đâu.


Chồng tôi ngồi đằng kia chơi với Bé Tư cũng lóng tai nghe chuyện. Tôi gạt ngang:


- Má kêu ổng để đó cho hai đứa nhỏ. Con không lấy đâu.


- Bé Hai à… - Má tôi biết có nài cũng vô ích.


Tôi thấy chồng tôi thở ra quay nhìn ra cửa. Ngoài kia dòng người tan giờ làm chiều đang tấp nập về. Tôi biết ông ta cũng sắp về liền chào má, kêu chồng đi về. Chồng tôi lẳng lặng dắt chiếc xe mô-bê-lét đạp rù rù, nhả khói mù một khúc đợi tôi và con lên cùng về. Đi một đoạn anh nói như không phải nói với tôi:


- Mấy chục năm rồi, còn gì nữa mà giận hoài.


- Có thương đâu mà giận. Anh thì biết gì chớ? Ổng cứ giả bộ tội nghiệp, cứ gạt má em hoài. Ba em chết sống sao rồi, tới giờ ổng có chịu nói đâu.


Chồng tôi lại thở ra, nín thinh không nói gì nữa. Hồi còn sinh viên, anh thương yêu tôi cũng bắt đầu từ việc cảm thông với sự mất mát thiệt thòi không cha của tôi. Giờ anh đâu nỡ gợi lại.


Mưa gì mà mưa hết cả buổi sáng. Chồng tôi đón con về đến. Anh hỏi má:


- Hồi sáng đụt mưa ở gần đầu cầu Đúc thấy ba đi đâu mà gấp gáp dữ vậy? Sao không đợi hết mưa rồi hả đi?


Má nói:


- Nghe người ta báo tin xe ủi đất làm đường ở Ba Hòn gặp một bộ hài cốt của người lớn và một đứa nhỏ với ít đồ, ba con muốn đi coi thử.


Chồng tôi cằn nhằn:


- Sao má để ba đi như vậy? Để con về đưa ba đi hay hơn không. Đây tới Ba Hòn sáu, bảy chục cây số. Để ba đi một mình đi giữa mưa vậy sợ thấy mồ.


Má buồn buồn:



- Lỡ đi rồi. Tại ba con mừng quá má cản không được. Vái trời cho phải vậy!


Tôi cũng vái trời cho phải. Lần này mà phải thì ông ấy khỏi mỗi chút nghe tin ai tìm thấy xương thấy cốt gì ở trên đó là bất kể chết để đi coi phải không. Mà mấy chục năm rồi làm sao mà biết phải hay không. Tôi còn không hy vọng gì thì ông ấy níu kéo làm chi chớ. Tôi đâu còn giận, còn hờn, còn thương yêu gì nữa đâu mà ổng cứ hết tìm rồi kiếm. Mỗi lần đi như vậy về không tìm được gì thấy ổng buồn thỉu mà phát rầu. Mà ít đâu một năm cả chục lần nhận tin “lên giả” kiểu đó lần. Mỗi lần như vậy cái vết đau trong lòng tôi vừa lên da non lại bị rạch một nhát, lại ứa máu. Cứ như vậy miệng vết thương đã dày như da gót chân trâu rồi. Mà nó càng dày mỗi lần bị rạch càng sâu hơn, đau hơn, lâu lành hơn. Tôi vái trời lần này nữa thôi. Trúng hay trật thì cũng bỏ cho rồi.


Tôi thôi bị đau, ổng khỏi bị khổ, má hết bị buồn nữa. Ở cái xứ Ba Hòn đó có biết bao nhiêu trận càn, trận bom, biết bao nhiêu người vùi xác phơi xương. Giờ tìm thì tìm sao đây? Xương người thì đàn ông giống đàn ông, đàn bà giống đàn bà thôi.


Má với chồng tôi cứ chắt lưỡi hít hà hoài làm tôi nao lòng không nỡ thúc giục anh đi về. Thôi thì cứ chờ ông ta về coi sao. Thiệt giả gì thì tôi cũng sẽ tuyên bố với ổng và cả nhà đừng có tìm kiếm nữa. Tôi đã chấp nhận đối mặt với sự thật từ lâu rồi, cả nhà không cần phải nấng níu làm chi cho chẳng ai vui. Ổng cứ ở yên nhà, cứ làm việc của ổng, cứ khỏe mạnh cho má tôi mừng là tôi cám ơn lắm rồi.


Má biểu:


- Hai đứa ăn cơm đi rồi đi dạy cho kịp giờ chiều, để thằng nhỏ đó má coi chừng cho.


Vợ chồng con cái tôi ngồi vào mâm, kêu Bé Tư ra mời má vô ăn cơm. Má nói:


- Má chưa muốn ăn, mấy đứa cứ ăn mà còn đi học đi dạy gì. Má đợi thằng Bé Ba đi làm về rồi ăn với nó cho vui.


Tôi cầm đũa lên ăn. Biết má cố tình đợi ai rồi, hơi đâu mà nói. Ăn cơm gì mà như nhai rơm. Tôi chán quá bỏ đũa thôi ngang, ngồi gắp đồ ăn cho con. Ở trong bụng lo chuyện gì đó mà cứ nóng cồn nóng cào. Tôi lật đật chuẩn bị cho kịp giờ đến trường dạy tiết một. Ra tới cửa tôi dặn với lại:


- Ổng về thì điện cho con nghe má!


- Ừ, đi đi!


Má dẫn thằng cháu ngoại đi rửa miệng khuất mất tầm nhìn. Tôi leo lên chiếc xe cà tàng chồng tôi đã nổ máy đợi sẵn.


Tôi dạy được nửa tiết tư rồi mà đầu óc cứ lần thần không đâu vô đâu. Bực quá, tôi kêu lớp trưởng lên chép bảng cho cả lớp chép theo. Tôi lửng thửng đi lên văn phòng. Được nửa đường thầy hiệu trưởng tất tả đi về phía tôi. Trong bụng tôi hồi hộp kỳ lạ. Y như rằng, thầy kêu giật giọng:


- Bé Hai, cô đến bệnh viện nhanh lên! Ba cô bị tai nạn! Tôi coi lớp cho. Cô đi nhanh lên!


Tôi hoảng hốt, không kịp nói cám ơn, quên luôn chuyện quay lại lớp lấy túi xách, đâm đầu đi riết ra cổng. Chồng tôi đã dắt xe ra tới. Ngồi phía sau anh mà tôi chỉ ước chiếc mô-bê-lết này gắn động cơ một trăm phân khối. Cuối cùng tôi cũng đã đến được phòng cấp cứu. Má tôi ngồi chết trân nhìn vào cánh cửa phòng mổ trắng đục phía bên trong hành lang. Tay má ôm khư khư một cái vật hình khối chữ nhật được quấn trong cái áo mưa ba-đờ-xuy cũ loang lỗ máu. Má thấy tôi, nước mắt hai hàng, đưa vật ôm trên tay qua phía tôi:


- Ba con đó! Trả ba con lại cho con đó!


- Ổng sao rồi má? - Tôi không hiểu má nói gì nhưng cũng đưa tay nhận. Máu me không, tôi rợn gai ốc.


- Ba con chấn thương gãy xương sống. Nặng lắm! Bác sĩ đang mổ - Má nhìn vào cái gói đồ - Ba con sợ dằn xốc xương cốt của ổng bị đau nên cột đeo trên lưng. Đường trơn quá ổng bị té…!


Má nói lộn xộn không đầu không đũa. Chắc là má bị xúc động quá nên thần trí bị hoảng loạn. Ba con? Ổng nào? Xương cốt? Nhìn cái khối vuông, tôi chợt hiểu xuýt kêu thét lên.


Tôi quì đại xuống nền gạch trước cửa phòng cấp cứu mở gói đồ cột chặt bằng cái áo mưa nhuộm máu. Tôi tháo lần từng lớp vải, mở nắp cái thùng cây. Trong thùng có mấy cái gói bằng vải đỏ. Một bộ hài cốt có ống xương tay, xương chân lớn đại. Chắc chắn là xương của một người đàn ông lớn con lắm. Một gói màu vải đỏ khác cũng quấn chặt vậy nhưng ngắn hơn. Hài cốt của một đứa nhỏ chừng mười mấy tuổi. Cái gói nilông dưới cùng quấn thật chặt vật bên trong còn dính bụi đất đỏ. Vải nilông đã khá mục, nó bị rách xoẹt một đường khi tôi lỡ mạnh tay gỡ. Một miếng vải dù bông, một cái quần cụt may bằng vải bao bồng bột lớn đại. Tôi sờ sẩm cái quần đùi. May mà có lớp nilông bao bên ngoài nó không bị mục. Nhớ như in hồi đó má thêu chữ ở góc này nè. Đây rồi! Những mũi thêu chữ thập nổi cồn cộm: “Út Trọng”.


- Ba tôi đây nè! Ba tôi nè! Trời đất ơi, ba tôi!


Tôi kêu rú lên. Những người xung quanh nhìn tôi lom lom như nhìn một con điên. Tôi áp cái quần vào ngực bật khóc. Khóc tức tưởi. Khóc không thèm nhìn ai. Mấy chục năm rồi tôi mới khóc được. Vậy là ổng không có nói dóc. Ổng đưa ba tôi về với tôi rồi. Tôi nghĩ quấy cho ổng rồi. Tại cái quấy đó mà tôi đã hại chết ổng. Tôi bật dậy lao về phía cửa phòng mổ:


- Ba! Ba ơi!


Chồng tôi hốt hoảng ôm tôi lôi lại. Anh kéo tuột tôi ra ngoài. Kéo như nhấc bổng tôi ra sảnh ngoài phòng cấp cứu. Tôi khóc rấm rức, cố chì lại:


- Ba của em đó! Ba không có gạt em! Em muốn vô trong nói chuyện với ba!


- Em điên rồi hả? Phòng cấp cứu đó. Đừng có la hét như vậy. Nín đi!


Chồng tôi như hiểu ra chuyện. Anh ôm tôi thật chặt để tôi áp tôi vào lòng khóc cho đã. Cái quần cụt vẫn bị nắm chặt trong tay tôi. Đằng kia má tôi lui cui gói lại hai bộ xương và mấy thứ đồ tôi bỏ bừa hồi nãy. Má không có chút gì là hoảng loạn. Rất nhẹ nhàng. Rất cẩn thận xếp cái áo ba-đờ-xuy đầy máu để vô, đóng nắp thùng lại. Má ôm cái thùng đến chỗ tôi. Má đặt nó xuống ghế. Tôi ngẩng lên nhìn má. Má không hờn giận chút nào, cười hiền lắm:


- Của con đó. Nhận đi con! Giữ cho kỹ, đừng phụ lòng ba con nghe Bé Hai!


Tôi ngẩng lên nhìn má. Nghe lòng yên ổn trở lại. Ấm áp trở lại. Từ thăm thẳm, từ lâu lắm rồi tôi mới có cảm giác này. Tôi với tay ôm tay thùng lên. Cánh cửa phòng mổ bật mở. Mấy người y sĩ đẩy chiếc xe chở ba tôi ra. Má tôi tất tả chạy lại. Tôi ôm cái thùng chạy theo má.


Ông ấy nằm bất động trên nền ga trắng. Trên tay người y sĩ đi bên phải cầm một bịch máu giơ cao. Chiếc xe đi rất nhanh kèm theo lời yêu cầu tránh đường của mấy người phụ mổ. Tôi không nghe thấy họ nói gì chỉ chăm chăm chờ đợi đôi mi khép chặt ấy nháy động. Tôi chờ đôi mắt ẩn nhẫn ấy mở ra nhìn thấy tôi đang ôm cái thùng xương cốt. Chân tôi chạy theo chiếc xe đẩy. Một tay tôi đã chạm được bàn tay nằm bên ngoài tấm đắp. Bàn tay lạnh lắm dù nơi ngực vẫn còn nhấp nhô nhịp thở. Tôi lại chảy nước mắt, rớt xuống làm ướt mấy lỗ trên tấm đắp.


- Ba ơi, ba mở mắt ra đi!
 
Lại thấy mình đang yêu
Thùy Linh


1. Nhà Trà

“Mình chia tay đi”, “Em xin lỗi nhưng…”, “Cảm ơn anh vì những ngày đã qua, nhưng…”… Trà đã tưởng tượng ra cảnh cô nói những lời như thế với Việt không biết bao nhiêu lần.

Nhưng ngày này qua tháng khác, chúng vẫn chỉ được cất giữ trong im lặng. Lục tung mọi ngóc ngách của hiện tại và cả những ngày đã qua, Trà cũng chẳng thể nào tìm nổi một lý do để nói ra những lời như thế, lý do cho Việt, cho chính Trà.

2. Nơi làm việc

Có lẽ lý do đã xuất hiện. Nhân vật thứ ba đến từ cùng một nơi làm việc. Minh có đủ sức mạnh khiến Trà khẽ gai người mỗi khi anh bắt được ánh mắt của cô. Trà bỗng hoảng hốt nhận ra mình đang bị cuốn về phía cái nhìn đó, một cách vô thức nhưng mạnh mẽ đến không sao cưỡng lại. Đã lâu lắm cô chưa từng có cái cảm giác phải huy động toàn bộ sức lực của cơ thể chỉ để đứng vững trước một đôi mắt nhìn mình. Nó khác rất xa với những khoảng thời gian bên Việt, không có những cuộc điện thoại hàng ngày, những tin nhắn đều đặn vào giờ ăn trưa, những cuộc hẹn hò được lên lịch trước…

Nó khiến Trà thấy mình như đang yêu. Đó là một cảm giác nhiều sức cám dỗ đến mức Trà không thể, mà cũng chẳng hề tìm cách dừng mình lại như cô vẫn biết là phải thế. Chỉ vài giây đồng hồ thôi, khi ánh mắt của Minh khẽ lướt qua, nhịp tim và hơi thở của Trà sẽ đều trở nên gấp gáp không kiểm soát nổi. Thường thì sau vài giây ấy, mọi chuyện sẽ chầm chậm trở lại, Trà và Minh sẽ lại trở lại là những đồng nghiệp chỉ hết lặng lẽ khi nói chuyện công việc mà thôi. Nhưng cũng như Trà không thể kiểm soát được nhịp thở của chính mình, Minh cũng không thể ngăn mình tiến về phía Trà. Vào một sáng hè, Trà đến cơ quan, bật máy tính lên và thấy trên background là một lời mời không đề tên: Một bữa trưa như những đồng nghiệp? Như phản xạ, Trà đưa mắt nhanh sang chỗ của Minh. Minh đã đến từ bao giờ, đang chăm chú nhìn Trà, nở nụ cười thân thiện “Không có gì quá đáng chứ?”.

Trà bỗng bật cười. Cái cách Minh nói khiến Trà thấy mình hoá thành trẻ nhỏ. “Không” - Trà đáp - “Như những đồng nghiệp thôi mà”.

3. Quán ăn bên đường

Bữa trưa vui vẻ tại một quán nhỏ đối diện công sở. Câu chuyện bị cắt ngang khi Việt sms, tin nhắn quen thuộc lúc 12h trưa: “Em ăn trưa chưa? Ngon miệng không? Nhớ ăn nhiều vào nhé!”. Trà đã có cả một thư mục tin nhắn mẫu để trả lời Việt “Như mọi khi thôi mà. Em nhớ rùi, anh cũng vậy nhé!”. Chỉ cần hai giây trước khi Trà gập máy. Minh cười “Tốc độ đấy”. “Quen rồi mà”, Trà đáp, trong chốc lát bỗng thấy rõ ràng thức ăn đang không trôi theo quy luật trong thực quản. Nhưng cảm giác đó qua rất nhanh. Cô chống tay lên cằm, nhìn thẳng vào Minh, mỉm cười:

- Có lẽ em hơi thiếu thành thật khi nhắn tin. Không phải bữa trưa “như mọi khi” mà là bữa trưa vui nhất trong nhiều tháng nay.

- Thật sao? Tôi có đóng góp được gì cho niềm vui này không? Minh đáp, cũng với một nụ cười.

- Cũng có chút ít ạ. Một lời mời, chi phí cho phần của anh và những câu chuyện thú vị.

- Vậy thì không phải chút ít mà là 1/2. Phần còn lại là của Trà: nhận lời, đĩa của Trà và cũng những câu chuyện thú vị - Minh cười lớn - Trà không thể cho tôi phần hơn sao? Trả tiền cho phần đồ ăn của Trà chẳng hạn?

- Nếu anh muốn vậy. Trà lại bật cười rồi tiếp tục với món vừa gọi. Rõ ràng là ở anh chàng này có một điều gì đó mà cô vẫn tìm kiếm. Và rõ ràng là với cô, ngay từ đầu anh ta đã hơn rất nhiều một nửa bữa trưa ngon.



4. Những ngày hè đầy nắng

Những ngày tiếp đó đối với Trà là những ngày hoàn toàn mới. Trà hào hứng với chúng đến nỗi tất cả những ý nghĩ rằng hình như mình có lỗi chỉ cần chớm xuất hiện sẽ được bào chữa bởi đủ mọi lý do. Trà dần quên trả lời những tin nhắn của Việt và trở nên bận rộn một cách bất thường mỗi khi Việt hẹn gặp. Những lời chia tay ám ảnh Trà ngày càng trở nên rõ nét. Trà cần một lý do. Và cô đã có một lý do. Là Minh, là một cái gì đó khác với Việt, khác với bầu không khí yên bình đến đơn điệu luôn bao phủ mỗi khi Trà và Việt bên nhau.

Trà chợt nhớ lâu lắm rồi với Việt cô không hề cười lớn tiếng, không dùng tiếng lóng, chẳng bao giờ đi chơi đến tận đêm khuya… Không phải Việt bắt buộc cô như thế, mà đơn giản bởi khi ở bên một người dịu dàng đến vậy, Trà bỗng tự mình dịu nhẹ hẳn đi, lành hiền như lá cỏ, đến mức đôi khi cô cảm thấy mình mờ nhạt và nhẹ bẫng… Những lý do cứ thế thành hình và vững chắc. Và chúng sẽ được nói ra, Trà đã quyết định như thế, ngay sau chuyến đi này.

5. Chuyến đi

Đó là một chuyến công tác hai người, gồm Trà và Minh, tại một thành phố biển tuyệt đẹp. Trà nói với Việt là đi một mình. Việt chỉ cần nhìn thẳng vào mắt là biết Trà nói thật hay nói dối, cũng như không phải Việt vô tâm đến mức chẳng hề nhận thấy chuyện gì đang diễn ra với Trà, nhưng anh tin và yêu cô đến mức cho rằng chất vấn lại là một cái gì đó rất gần với sự xúc phạm. Và như thế, như mọi lần Trà đi xa, tối hôm trước Việt đến giúp cô sắp xếp hành lý. Trà không quan tâm lắm. Cô gần như để mặc Việt với chiếc vali có bánh xe. Chẳng bao giờ Trà nghĩ mình cần nhiều hành lý đến vậy cho một chuyến đi ngắn ngày. Sau những ngày rất ngắn ấy, cô sẽ trở lại. Sẽ mới hoàn toàn.

6. Sàn khiêu vũ

Công việc bận rộn ban ngày được bù đắp bằng những cuộc vui thâu đêm. Trước khi gặp Minh, Trà đã không hề biết là mình có thể khiêu vũ không biết mệt đến tận sáng. Khoá học khiêu vũ bị bỏ quên suốt 2 năm giờ đột nhiên hữu dụng đến bất ngờ.

- Đẹp lắm! - Minh không bao giờ tiếc lời khen tặng.

- Cảm ơn - Trà đáp trong khi xoay tròn trong tay Minh - Anh cũng rất tuyệt.

- Có còn được như vậy không nếu tôi ngỏ lời ngay bây giờ?

Trà khựng lại ngay. Mặc kệ những cặp nhảy khác vẫn đang lướt qua mình trong tiếng nhac du dương chưa hề tắt, Trà bỏ dở vòng xoay, đứng như trời trồng.

- Xin lỗi, anh không có ý làm hỏng vòng xoay này của Trà - Minh tự đỡ lời.

- Nó đã hỏng rồi. Nhưng em chưa có lý do gì để trách anh. Trà cố lấy lại vẻ bình bĩnh vốn có.

- Vậy thì có lẽ sắp có rồi. Bởi vì tôi yêu Trà.

Trà choáng váng. Chuẩn bị trong tưởng tượng và đối mặt với thực tế cách xa nhau hơn Trà nghĩ rất nhiều. Trà đã chờ đợi điều này, đã nghĩ rằng chỉ cần Minh ngỏ lời, cô sẽ lao ngay vào vòng tay ấy mà không cần băn khoăn. Nhưng ngay khi điều đó xảy ra, ngay lúc này... Chỉ cần một cái gật đầu thôi cô sẽ cách xa khỏi Việt, mãi mãi…

- Em mệt rồi. Trà hít sâu vào rồi lên tiếng. Tránh cái nhìn của Minh, Trà vội vàng rời khỏi sàn khiêu vũ. Minh giữ cô lại. Nhưng Trà vùng ra. Trong vô số những cảm xúc và ý nghĩ đang hỗn độn, chằng chịt trong Trà chỉ có một điều là rõ ràng: cô cần rời khỏi đây ngay lập tức, cô cần được ở đâu đó. Một mình.

7. Phòng của Trà tại khách sạn

Ba giờ sáng. Trà tìm thấy mình trong căn phòng khách sạn, một mình và mệt nhoài. Cái gì đang diễn ra thế này? Cách xa Việt mãi mãi, chính Trà luôn mong như thế còn gì? Thế nhưng cái ý nghĩ đó, ngay khi nó sắp trở thành hiện thực, lại khiến Trà sợ hãi đến muốn khóc oà. Không hiểu điều gì đang điều khiển mình, Trà bấm số gọi Việt. Việt tắt máy. Lục tung điện thoại của mình, Trà thấy như hụt hơi khi không có bất cứ dấu vết nào của Việt. Trước khi đi Trà đã xoá hết chúng, còn những ngày này Trà đã quá bận rộn, quá vui vẻ để để ý rằng Việt đã chẳng hề gọi điện hay nhắn tin cho cô nữa. Thở hắt ra, Trà đứng dựa vào tường và để mặc cho mình cứ từ từ trôi xuống. Trà đã đẩy Việt ra xa đến thế rồi ư?

Bảy giờ sáng. Lại ngày mới. Lại công việc. Trà tỉnh dậy trên sàn nhà, thấy khắp người đau nhức. “Quỷ tha ma bắt”, cô tự rủa thầm trong khi cố ngồi dậy đi rửa mặt mà không được. Có tiếng gõ cửa. “Lát nữa hãy dọn phòng được không?”, Trà gào lên rồi lại nằm vật ra sàn nhà, nhắm nghiền mắt.

- Quý cô làm sao thế?

Trà mở choàng mắt. Là Minh à? Cô bật dậy như lò xo

- Anh đến đây làm gì? Đúng 7h30 tôi sẽ có mặt - Trà không biết là mình đang cáu gắt.

- Khi 7h10 còn nằm đây, mặc đồ khiêu vũ, mắt nhoè nhoẹt mascara và còn chưa thèm đánh răng? Rồi không đợi Trà phản ứng, Minh kéo cô dậy, đẩy vào WC:

- Nhanh lên, 10 phút thôi nhé. Tôi sẽ lấy sẵn quần áo cho. Trong vali hả?

Trong tiếng xả nước ầm ầm từ nhà tắm, Trà ngập ngừng rồi bỗng nói vọng ra:

- Này, em không yêu anh đâu…

- Trà thẳng thắn đấy! Minh cười lớn, cố giữ cho mình khỏi run lên. Tôi biết, mặc dù không hề mong chờ điều này.

Lại một thoáng lặng lẽ khẽ lướt qua. Nhưng gần như ngay lập tức, Minh lại phá vỡ nó:

- Trà có cái vali ngăn nắp đấy!

- Ừ - Trà lại thấy hụt hơi - Không phải nhờ em đâu…

- Tôi cũng biết - Tiếng Minh tự dưng nhỏ lại - của một người đã để lại một lời nhắn ở đáy vali.



Ở đáy vali? Trà nghe thấy tiếng tim mình đập dồn dập. Kết thúc công việc trong nhà tắm nhanh nhất có thể, Trà lao đến chỗ chiếc vali. Không nhận ra mình hơi quá khích, Trà giật lấy tờ giấy từ tay Minh. Và ngay khi những nét chữ ấy đập vào mắt Trà, cô không sao ngăn nổi mí mắt mình cứ thế trở nên mọng đầy. “Anh luôn luôn yêu em cho dù em có muốn thế hay không. Và anh vẫn mong được chuẩn bị hành lý cho mỗi chuyến đi xa của em, cho dù chuyện gì xảy ra chăng nữa”. Việt chưa bao giờ xa Trà, cho dù Trà đã hơn một lần trong ý nghĩ và cả bằng hành động đẩy Việt ra xa, thậm chí từng muốn rằng xa mãi mãi. Minh nhìn Trà khóc, thấy trái tim mình như cũng khẽ nứt lanh canh. Nhưng lại như mọi khi, Minh lại cố bật cười:

- Thôi nín đi - Minh đứng dậy vỗ vỗ vào vai Trà - Anh ấy nói “cho dù có chuyện gì xảy ra”, nữa là chưa hề có chuyện gì xảy ra…

Ừ đúng là chẳng có chuyện gì xảy ra như Việt đã mơ hồ cảm thấy. Trà đã nghĩ rằng mình chỉ cần một lý do để chia tay Việt, nhưng ngay khi có đủ mọi điều kiện để hiện thực hoá điều đó, cô đã không thể. Chỉ vì ở đâu đó sâu thẳm trong Trà, còn sâu sắc hơn những cảm giác về sự nhàm chán, về ước muốn muốn thoát ra tìm kiếm sự mới mẻ, là một cảm giác yên bình không gì thay thế nổi khi Trà biết luôn có Việt trong đời.

- Nhanh lên, sắp muộn rồi - Minh cắt ngang mach suy nghĩ của Trà bằng hộp khăn giấy và bộ đồ trang điểm đặt trước mặt cô - Tôi đợi ở dưới xe.

8. Trong xe

- Xin lỗi anh - Trà vừa sập cửa xe vừa nói.

- Vì chuyện gì? Minh cho xe chạy, đáp mà không nhìn Trà.

- Vì chuyện tối qua… chuyện vừa nãy… umm, tôi không biết nói sao…

- Trà nên nói là xin lỗi vì đã đến muộn. Vậy thôi - Minh vẫn giữ mắt nhìn về phía trước

- Ừ, xin lỗi…



Không thể chịu đựng được sự im lặng quá lâu, Minh lại lên tiếng, cố giữ giọng mình không khác với mọi khi:

- Ít ra thì bây giờ tôi đã không còn mất bình tĩnh khi đối mặt với Trà nữa rồi.

Trà bật cười. Chẳng biết Minh có nói thật không nhưng với Trà thì đúng là thế. Cảm giác như bùng nổ khi bắt gặp Minh đã chẳng kéo dài như Trà tưởng. Cầm chiếc điện thoại trong tay, Trà gửi đi một tin nhắn không giống những tin nhắn mẫu của mình “Em sắp về, chắc chắn sẽ về”. Ngay khi ấy, một cảm xúc kì lạ dịu dàng lan toả tới tận từng tế bào trong Trà. Cô lại thấy mình đang yêu, không phải từ đầu nhưng theo một cách hoàn toàn khác…
 
Ca ve xóm núi
Nguyễn Đình Tú

Cái mùa đông đó cách nay đã bốn năm rồi. Khi ấy Hoàng còn được coi là một phóng viên trẻ, cần phải khẳng định mình trước sếp và đồng nghiệp. Tờ báo mười sáu trang “ngốn” bài ghê gớm. Mà báo chí chưa bao giờ lại ra nhiều như bây giờ.

Viết mãi thì cũng phải hết. Xã hội muôn màu muôn vẻ, muôn tầng muôn vỉa nhưng cào mãi thì cũng nhạt, đào mãi thì cũng kiệt. Thế nên cánh phóng viên trẻ như Hoàng hễ có cơ hội là mò đi vùng sâu vùng xa, lặn lội tới miền núi hải đảo. Dù sao bài cũng dễ được in hơn, lại không bị coi là “rặt một thứ câu chữ cớm nắng”.

Nhưng đó cũng chưa phải là lý do chính để Hoàng quyết định mò lên cái cổng trời Quán Bù ấy những mười lăm ngày để rồi về toà soạn cũng nộp được cái phóng sự đi ba kỳ, càng đọc càng thấy nhạt hoét. Lý do chính là sự “nhờ vả” của Vi! Em gái Vi đang học năm thứ ba trường Mỹ thuật công nghiệp. Nhà trường tổ chức đi thực tế. Chả hiểu có một ai đó nói rằng Quán Bù có rất nhiều tam giác mạch, thế là đám sinh viên rồ lên, cứ đòi mò lên cổng trời bằng được để vẽ hoa tam giác mạch.

Vi bảo Hoàng: “Lần đầu tiên nó đi xa. Mẹ em đứng ngồi không yên. Anh đi với nó ít hôm để mẹ em yên tâm. Nếu anh không đi thì em phải đi. Nhà chỉ có hai chị em gái. Anh lại là nhà báo, đến đâu cũng quan hệ được. Ở nơi núi rừng heo hút ấy, có anh đi cùng nó, em và mẹ đỡ lo hơn nhiều. Anh đi nhé?!” Ừ thì... ý Vi là mệnh lệnh đối với Hoàng lúc này. Mới chớm yêu mà. Tình yêu đòi hỏi con người ta phải “thể hiện”. Thứ tình kỳ lạ ấy lại vừa mới nhen nhóm lên trong Hoàng, tất nhiên, trong cả Vi nữa. Thế là chưa nhờ đã nhận, chưa hỏi đã gật. Đám bạn sinh viên của em gái Vi cũng đều “chất nghệ đầy mình” cả, thế nên có thêm một anh nhà báo đi cùng đối với họ chỉ thêm vui chứ không thêm phiền. Hoàng thực sự thấy thoải mái trong chuyến đi cực Bắc này.

Mấy ngày đầu Hoàng còn hăng hái vác bảng gỗ, giấy vẽ, hộp màu, túi bút, palét, xô, thùng đi theo đám sinh viên mỹ thuật mò vào các bản làng, chốn chợ phiên, đến các địa danh lạ tai như Núm Vú Cô Tiên, Hang Gà, Khu mộ cổ, Suối Tầm Gai, Cây Si Bảy Gốc... Sau thấy chán, lại không hiểu gì về bố cục, gam màu, hình khối của các bức ký họa, phong cảnh, chân dung nên bảo em gái Vi: “Mai anh bắt đầu hành nghề của anh, tạm thời chia tay nhau một ngày nhé. Em nhớ đi cẩn thận!”

Khi em gái Vi cùng đám bạn của cô cổ mang, tay xách khuất sau Núm Vú Cô Tiên thì việc đầu tiên là Hoàng vào Phòng giáo dục huyện. Lên vùng cao, cái có thể viết được nhất có lẽ là sự dạy và học. Sau khi nắm qua vài ba số liệu cần thiết, Hoàng gật gù cảm ơn Phó phòng giáo dục huyện rồi thuê xe ôm đi vào các xã, lê la đến các điểm trường.

Về đến nhà cũng sẩm tối, người mệt bã ra. Em gái Vi vẫn chưa về. Có lẽ cô bé đã ở lại một bản nào đó. Đám sinh viên này rất mê ở lại qua đêm với một bản người Dao hay người Mông để thực sự được “hết mình” với những nét phác thảo ẩn chứa đầy ý đồ nghệ thuật của họ. Hoàng đã từng đi với những nhóm sinh viên mỹ thuật như thế này đôi ba lần. Có lần đi cả với đám Mỹ thuật Yết Kiêu nữa. Khi họ đã “máu” lên thì dù có bị coi là rồ dại họ vẫn làm theo ý mình.

Buổi tối dường như lạnh thêm. Nhà trọ lại không có phòng tắm nước nóng. Hoàng lang thang ra phố huyện tìm dịch vụ tắm nóng lạnh. Phố núi buồn hiu hắt. Khi chưa lên đến đây thì hai từ “Cổng trời” có sức hấp dẫn ghê gớm. Sau cổng trời sẽ là thiên đình, là nhà trời, là xứ sở của những vua Mông, hoa hậu Mường, của thầy mo, của bùa ngải và vô vàn những điều kỳ bí giấu sau những nếp nhà mái gỗ tường trình ẩn mình bên thung núi.

Trước đây Hoàng cũng đã từng run rẩy khi lần đầu tiên được nghe thông báo xe sắp lên cổng trời Quán Bù. Từ cổng trời lại được nghe hướng dẫn rằng xe đang chạy xuống một thung lũng nơi đặt trung tâm huyện lỵ, và trước khi vào thị trấn Quán Bù mọi người sẽ được chứng kiến một kỳ quan của tạo hóa, đó là Núm Vú Cô Tiên. Quả là mọi người đã “ồ” lên thích thú khi nhìn thấy hai trái núi đất vồng lên như hai mâm xôi, đều đặn, cân đối như một “đôi gò bồng đảo” ngay bên cạnh con đường chạy qua thị trấn.

Lần ấy xe chạy qua Quán Bù lên cao nữa chứ không dừng lại ở phố núi này nên Hoàng chưa có dịp được nhìn thật gần Núm Vú Cô Tiên. Còn lần này thì coi như Hoàng đã khám phá xong cái thị trấn dưới chân cổng trời. Nếu theo lối tư duy cổ tích thì “Thiên đình” hay “Nhà trời” có tên là Quán Bù này chẳng có gì đặc biệt, nó giống như bao phố núi khác, chỉ có vài ba dãy phố, một cái chợ vùng cao, một ngôi trường nội trú, đôi dãy nhà trụ sở cùng số dân cư thưa thớt của nhiều sắc tộc.

Thời tiết thì sáng lạnh, tối lạnh, trưa nóng. Không phải một bản làng phình to mà cũng chẳng phải một thành thị thu nhỏ như ở dưới xuôi. Nó có những nét rất riêng của nó. Dường như ở đây cái gì cũng một và chỉ một mà thôi. Một quán cơm phở bình dân. Một cửa hàng kính mắt. Một nhà tắm nóng lạnh. Một quán bánh cuốn. Một cửa hàng sửa xe ngựa. Một nhà thuốc bắc. Một quán thắng dền...
 
Nó là Xóm núi. Cách gọi ấy phù hợp với nó hơn cả. Đúng với nó hơn cả. Nghĩa là với những người như Hoàng thì không thể ở đây lâu được. Ngay cả với những người như cô em gái Vi cũng thế. Họ chỉ đến đây chơi, xem, vẽ vời, làm thơ và viết báo chứ không thể ở đây được. Hiu hắt kinh khủng. Buồn chán kinh khủng. Tẻ nhạt kinh khủng. Và hơn tất cả là một cái gì đó thất vọng kinh khủng.



Ngay cả “kỳ quan của tạo hóa”, tức Núm Vú Cô Tiên cũng mất đi vẻ đẹp gợi tình của nó khi bàn chân Hoàng đặt lên tới đỉnh một trong hai núm vú đó. Nhìn xa thì tròn trịa, mịn màng, lạ lẫm, đẹp đẽ là vậy. Nhưng đến gần thì loang lổ những vết cào xước, màu xanh của cỏ lẫn với những đường rãnh, khe nứt, những vùng đất đá lổn nhổn trông thật nhức nhối. Lật xới lớp vỏ cổ tích lên là điều tệ hại nhất đối với loài người. Hoàng đã có lần chiêm nghiệm rằng: Nếu có thể, thì, đừng bao giờ vừa nghe chuyện cổ tích lại vừa làm người lớn.

Vậy mà Hoàng lại lạc vào thế giới cổ tích của Quán Bù ở cái tuổi hai mươi nhăm.

Tuổi ấy nhiều ước mơ nhưng cũng hay thất vọng.

... Đi gần hết dãy phố mà vẫn chưa tìm thấy nhà tắm nóng lạnh đâu. Đang ngó nghiêng thì cái biển hiệu “Gội đầu Xóm Núi” đập vào mắt Hoàng. Chắc chắn đây cũng lại là cái quán duy nhất ở phố núi này. Một tí tiểu tư sản bỗng bốc lên trong Hoàng. Cũng nên thử xem con gái xóm núi gãi đầu, vỗ trán, mát xa mặt ra sao? Hoàng vén tấm mành nhựa buông trước cửa, lách người vào.

Trước mắt Hoàng là một thứ dịch vụ hơi có phần... hổ lốn! Gian quán không rộng lắm vừa để ghế gãi, giường xả cho khách gội đầu lại vừa được dùng để bán cà phê; vừa bày bán mấy củ tam thất, nấm linh chi, thảo quả lại vừa cả làm dịch vụ váy áo cô dâu, trang trí đám cưới nữa. Và đèn mờ. Không gian của quán chìm trong ánh đèn mờ pha màu tím ngắt. Quán vắng tanh. Từ sau tấm màn ri đô ngăn quán với góc trong cùng, một cô gái vén rèm bước ra.

- Anh uống nước hay gội đầu?

Trước khi nghe trọn tai câu hỏi ấy Hoàng kịp nhận ra cô chủ quán rất xinh đẹp và... đặc sệt chất miền xuôi.

- Cả hai.

- Quán em có thể phục vụ được cả bốn trong một cơ. Nào, bây giờ anh lên ghế em gãi.

Hoàng thấy thú vị trước cái cách đùa của cô gái. Anh hỏi lại:

- Anh không muốn gội đầu trước thì sao?

- Uống nước với một cái đầu ngứa ngáy thì sẽ không thoải mái đâu. Thôi nào, em biết là anh cần gội đầu trước mà, anh ngồi vào ghế đi.

Cô gái quấn tấm vải quanh cổ Hoàng rồi hỏi: “Anh dùng dầu gì?”. Hoàng không trả lời mà hỏi lại cô ta: “Em giỏi thật. Thế em còn biết gì về anh nữa?”

- Anh là thầy giáo hướng dẫn đoàn sinh viên thực tập phải không?

Hoàng không trả lời, lặng lẽ nhận cái danh vị mà cô gái muốn khoác cho anh. Đúng hơn là anh không muốn thanh minh. Và đó quả là một buổi tối thú vị. Cô chủ quán tên Tiên. Hai mươi ba tuổi. Quê Tuyên Quang. Lên Quán Bù được hai năm rồi. Lý do: Nuôi em ăn học.

Những ngày sau đó, mỗi khi em gái Vi cùng chúng bạn xách bảng vẽ vào bản là Hoàng lại ra quán Tiên ngồi. Bỗng tìm được một người trò chuyện ở cái chỗ chẳng có việc gì mà làm như thế này, đối với Hoàng kể cũng bớt đi phần nhàm chán. Tiên lại là người hay chuyện. “Anh bảo anh ở đường Đê La Thành à? Thế anh có biết quán Mây Chiều gần Ô Chợ Dừa không? Không à? Tại sao em lại biết á? Biết chứ! Trước em xuống làm cho dì em ở gần đấy mà. Sao bây giờ lại chuyển lên xó núi này á? Vì hai đứa em của em học nội trú ở đây. Sao lại chuyển được về đây học á? Chú em làm ở ủy ban mà. Dưới Tuyên Quang không có điều kiện học nên chú xin cho cả hai đứa lên trên này. Em phải đi theo chúng nó. Bố mẹ em á? Buồn lắm. Tai nạn nên mất sớm cả rồi. Em á? Em chỉ được học đến lớp tám thôi. Rồi em theo dì xuống Hà Nội, ở đó vài năm thì lên đây. Có buồn không á? Cũng phải quen thôi. Lấy chồng á? Thôi, còn lấy gì nữa, chỉ mong hai đứa em học xong rồi em bỏ hết mọi thứ lại để đi. Đi đâu á? Không nói được, mà có nói anh cũng chả tin. Có tin á? Thôi, em không nói đâu...”

Cứ thế, mỗi ngày cô gái tên Tiên lại rủ rỉ vào tai Hoàng những chuyện rất quen mà lại rất lạ như thế. Hoàng không phân định nổi trong khối chuyện mà Tiên nói có bao nhiêu phần trăm sự thật, nhưng rõ ràng là ít nhiều nó có sức ám ảnh đối với người nghe. Có thể cái khứu giác báo chí trong Hoàng đã gửi thấy mùi “sự kiện” ở chuyện đời của cô gái này, cũng có thể Hoàng quá ngây thơ và ủy mị trước một nhan sắc biết nói dối, nhưng dẫu sao thì cũng phải thừa nhận Tiên và những câu chuyện của cô hấp dẫn Hoàng.

Một lần Tiên hỏi: “Anh có máy ảnh à? Chụp cho em một kiểu được không?”. Hoàng gật đầu: “Ôkê! Em muốn chụp ở đâu?”. “Ở núi Cô Tiên, chỗ giữa hai...”

- Núm vú?

Tiên khẽ gật đầu, miệng tủm tỉm cười. Thế là buổi sáng hôm ấy Tiên nhờ em gái trông hàng rồi diện đẹp, cùng Hoàng đi bộ ra Núm Vú Cô Tiên. Hoàng chụp cho Tiên bốn, năm kiểu liền, sau đó lại còn cao hứng kể cho Tiên nghe sự tích núi Cô Tiên nữa. Tất nhiên câu chuyện hoàn toàn do Hoàng bịa đặt. Câu chuyện ấy trong một phút ngẫu hứng đã được Hoàng nghĩ ra, nội dung của nó đại loại như thế này:
 
Status
Không mở trả lời sau này.
Back
Top