• Hiện tại trang web đang trong quá hình chuyển đổi và tái cấu trúc lại chuyên mục nên có thể một vài chức năng chưa hoàn thiện, một số bài viết và chuyên mục sẽ thay đổi. Nếu sự thay đổi này làm bạn phiền lòng, mong bạn thông cảm. Chúng tôi luôn hoan nghênh mọi ý kiến đóng góp để chúng tôi hoàn thiện và phát triển. Cảm ơn

1001 CÂU CHUYỆN CẢM ĐỘNG!!!

Status
Không mở trả lời sau này.
Ngay từ khi đám cưới được tổ chức cách đây vài ngày, tôi đã nghĩ sớm muộn gì chuyện này sẽ đến. Nhưng tôi không nghĩ nó đến sớm vậy.

Sáng nay tôi ngủ dậy muộn. Tôi không thấy vợ bên cạnh. Tưởng cô ấy ngoài phòng ăn của khách sạn hay đi tắm sớm, tôi đủng đỉnh đánh răng rửa mặt.

Trong lúc đánh răng, tôi nhìn vào gương và thấy qua hình ảnh phản chiếu một tờ giấy trắng trên cái tủ nhỏ đầu giường, nó được chặn bởi một cái cốc thủy tinh. Tôi súc miệng và quay trở vào phòng ngủ. Đó là một lá thư của vợ tôi.

Cách đây vài ngày cô ta cưới tôi. Chúng tôi ra hòn đảo vắng này hưởng tuần trăng mật. Và bây giờ cô ta bỏ tôi. Tôi không đọc được chữ gì cả. Tờ giấy nhòe nhoẹt trong mắt tôi. Tôi chỉ nhìn thấy một vòng tròn trên tờ giấy, dấu vết hoen ố của cái đít cốc dính nước để lại.

Tôi không hiểu gì cả. Mới hôm qua, tôi và cô ta còn vật lộn quần nát cái giường kia. Tôi nhìn những dấu vết lộn xộn và nếp nhăn nhúm của tấm drap trải giường.

Hôm qua, tôi thấy cô ta nhìn ba gã du khách ngoại quốc to cao dễ đến 1m90 với ánh mắt thèm muốn. Lúc chập tối tôi đã cố gắng làm tình như ba gã đàn ông cao 1m90 cộng lại. Hay chính bởi sự hung hãn đó mà cô ta bỏ tôi? Hay cô ta biến thành ba người đàn bà rồi sau đó bay đi như một đàn vịt trời?

Hình như tôi đã chạy ra cầu tàu. Ca nô rời bến lâu rồi. Phải đến chiều mới có chuyến mới. Ai đó nói vậy. Tôi nhớ ra rồi. Chiều hôm qua có một chuyến ca nô. Có một khách mới đến khách sạn. Hắn ta mặc một chiếc quần đùi hoa, áo hoa, đội một chiếc mũ cowboy đan bằng cói, đeo đôi kính mát to bự. Hắn nghỉ ở phòng đầu tiên, cách phòng tôi hai phòng.

Tối qua vợ chồng tôi ăn tối và tán gẫu với hắn đến 10h tối. Hắn nói hắn là nghệ sĩ gì đó. Tôi không hiểu lắm, không nhớ hắn nói gì đó về nghệ thuật bình dân, hắn chụp ảnh các cô gái, ảnh lịch, hắn nói rất nhiều.

Hắn nói hắn làm cái gì đó và thề sẽ không lấy vợ nữa. Hắn nói, xin lỗi hai bạn trẻ, tôi hơi ác cảm với phụ nữ và hôn nhân.

Hắn cũng đã biến mất.

Những cô gái phục vụ khách sạn nhìn tôi ái ngại. Các cô nói gì đó. Tôi đã hình dung ra sự việc. Đêm qua tôi mệt mỏi rã rời vì bơi và làm tình quá nhiều. Tôi đặt lưng xuống là ngủ thẳng cẳng. Có thể vợ tôi đã lẻn sang với tay nghệ sĩ ghét phụ nữ kia, có thể họ đã làm gì đó, có thể không.

Một điều chắc chắn là cô ta đã đi cùng hắn vào sáng nay. Lá thư không nói gì rõ ràng. Cô ta chỉ nói là cô ta sai lầm, tôi sai lầm, khi quyết định cưới nhau. Cô ta xin lỗi. Và hẹn gặp lại tôi để giải quyết êm thấm chuyện này khi quay về đất liền.

Êm thấm ư? Làm sao có thể êm thấm chuyện này? Tôi thì không sao. Nhưng làm sao người ta có thể chấp nhận câu chuyện điên rồ này? Tôi có thể quay về với cuộc sống yên ổn của tôi ngày trước.

Nhưng người ta sẽ nhìn tôi như thế nào? Gia đình tôi biết chui vào lỗ nẻ nào đây? Tôi biết trả lời thế nào với những người khác? Tôi biết nói sao với anh em bạn bè? Chả lẽ bảo tôi bị cắm sừng ngay trong tuần trăng mật?

Tôi sắp vỡ đầu vì những suy nghĩ man rợ. Tôi nghĩ quẩn. Tôi nghĩ tôi sẽ tìm đôi gian phu dâm phụ kia và giết chết cả hai. Sau đó tôi sẽ ra đầu thú. Tôi nghĩ tôi sẽ trả thù như một vụ tai nạn và tìm cách có bằng chứng ngoại phạm.

Nhưng sau đó thì sao?

Tôi ngồi trong phòng, nhìn mãi cái lá thư ghê tởm kia. Chưa bao giờ tôi có cái cảm giác ấy. Chưa bao giờ tôi thấy cái cuộc đời này vô nghĩa đến vậy. Hay là vốn dĩ nó vô nghĩa mà đến cái lúc này tôi mới nhận ra. Sao từ trước đến nay không có một ai nói cho tôi biết sự thật này?

Tôi thay đồ và đi ra bờ biển. Nắng chói chang cát trắng loá mắt. Mọi thứ nhòe nhoẹt trong mắt tôi, run rẩy. Tôi sẽ không suy nghĩ gì nữa. Tôi sẽ không nhớ gì nữa, như trước kia vẫn vậy.

Tôi bơi những sải dài thẳng ra biển. Tôi bơi thật xa về phía chân trời. Tôi sẽ biến thành ba con cá và lẫn vào đại dương. Tôi sẽ không sao cả. Tôi chỉ là ba con cá nhỏ. Có lẽ tôi đã trở thành cá, hoặc chí ít cũng là thức ăn cho cá.

***

Tôi ăn bữa cơm chiều ở phòng ăn khách sạn cùng đôi vợ chồng trẻ mới quen đang hưởng tuần trăng mật ở đảo. Anh chồng đô con cắm cúi ăn, có vẻ anh ta rất đói. Tôi thì không đói lắm. Cô vợ trông lẳng lơ và rất sexy.

Tôi có thể thấy rõ cô ta không mặc áo lót. Khi tôi nhìn vào ngực cô ta, dường như cái núm vú cô ta hếch lên, hiện rõ sau chiếc váy mỏng màu xanh da trời.

- Anh có gia đình chưa? – Cô ta hỏi.

- Đã từng có.

- Ồ!– Cô ta thốt lên. Anh chàng kia ngừng nhai nhìn tôi – Nom anh còn trẻ vậy mà…

- Xin lỗi hai bạn trẻ! – Tôi nói và nhìn ra biển – Tôi hơi ác cảm với phụ nữ và hôn nhân.



Trời chiều vẫn còn mờ mờ, chưa tối hẳn. Ở tít xa ngoài mũi đảo, ngọn hải đăng bắt đầu sáng đèn. Những tia sáng nhợt nhạt chậm chạp quét ngang mặt biển. Cô ta đang nhìn tôi, tôi biết cái kiểu nhìn ấy nghĩa là gì.

Nhưng tôi không có tâm trí đâu nghĩ đến chuyện đó, khi mà anh chồng to con của cô ta ngồi ngay bên cạnh. Cô ta như một con hổ cái đang đói, mềm mại, dẻo dai uyển chuyển, và sẵn sàng xé xác những con mồi.

- Anh làm gì ở đây một mình vậy? – Cô ta hỏi.

- Chụp ảnh – Tôi uể oải - Ở đây cát trắng rất đẹp.

- Buồn chết đi được(!) – Cô ta nói.

- Ở đây cái gì cũng dính cát, kể cả thức ăn – Anh chàng to con ngẩng lên nói, anh ta đang nhai một con tôm, hầu như anh ta ăn hết khẩu phần của cả ba người.

- Anh chụp ảnh làm gì? Để bán ảnh à? – Cô ta vẫn chưa buông tha cho tôi.

- Ừ, để bán, làm lịch này nọ - Tôi quay sang, bất giác ánh mắt lại chuồi xuống ngực cô ta - Đại khái ảnh nghệ thuật bình dân, chụp người mẫu, làm quảng cáo ấy mà.

- Hay nhỉ! – Cô ta cười cười – Giá mà ai cũng được làm công việc thú vị như anh.

- Hay ho gì, chán chết! – Tôi cười lại với cô ta, và buột miệng – Tôi thì lại ước gì được đổi chỗ với anh bạn đây.

Anh chàng đô con ngẩng phắt lên nhìn tôi. Tôi cười: “Thật đấy, tôi ước gì tôi là cậu”. Anh ta nghĩ tôi đùa: “Thế thì mình đổi chỗ nhé, chắc là anh sẽ không thích làm một người nghèo khó như tôi đâu”.

Anh ta yên tâm cúi xuống vét nốt những hạt cơm cuối cùng. Tôi mỉm cười nhìn cô ta và nói như thì thầm: “Nào thì đổi”.

Sau đó tôi bắt đầu kể chuyện huyên thuyên, tôi không nhớ tôi đã kể những gì nữa. Nửa đêm, cô ta mò sang phòng tôi, khi mọi người trong khách sạn đều đã ngủ say.

Sáng hôm sau cô ta đi theo tôi. Một tháng sau cô ta bỏ tôi, hình như đi theo một cầu thủ bóng đá hạng chân đất nào đó. Tôi biết ngay mà, cô ta là một con hổ cái.

Có lẽ đúng là tôi đã đổi chỗ với anh chàng kia thật. Tôi cũng đã trở thành một gã mọc sừng.

***

Tôi nhìn thấy cô ta nổi bật trong đám đông hò hét cổ vũ giải bóng đá phường, vì cô ta có một bộ ngực rất to, lại không mặc cooc-xê. Từ lúc đấy trở đi tôi đá hay hẳn lên.

Hình như ngay sau đó tôi ghi bàn, tôi chạy đến trước mặt cô ta ăn mừng bàn thắng, theo kiểu các cầu thủ Braxin ấy, nghĩa là lắc mông, một tay giơ lên trời, tay kia tóm quần đùi, và lắc mông.

Trong chốc lát tôi biến thành Ronaldo hay Ronandinho gì đó, đại khái vậy, tôi cảm thấy mình phải cao dễ đến 1m90 hoặc hơn, tôi là người hùng, tôi cười tình với cô ta, và có lẽ cô ta đã suýt ngất đi vì sung sướng.

Tôi thề với quả bóng tròn là tôi sẽ phải chiếm được cô ta. Tôi có thể cảm thấy phía dưới chiếc váy kia, cô ta đang ẩm ướt đến chừng nào vì tôi. Cái kiểu nhìn của cô ta kìa.

Từ lúc đó, tôi đá bao sân, tôi như bay khắp sân, tôi đá như một cầu thủ đẳng cấp quốc tế. Tôi giữ được phong độ đỉnh cao như thế trong suốt ba tháng trời. Tôi đã tỏa sáng.

Một ngày nọ, sau ba tháng, cô ta chán tôi. Và hình như tôi cũng đã chán cô ta. Cô ta bỏ tôi để đi theo một gã đàn ông nào đó, nghe nói gã là một tay chơi giàu có.

Từ lúc ấy tôi không còn giữ được phong độ nữa, tôi lại trở về đúng nguyên vẹn là một cầu thủ trong đội tuyển phường. Biết làm sao được, như người ta hay nói ấy: “Phong độ là nhất thời”.

Nhưng thề có quả bóng tròn, có lúc, tôi đã từng đá như một cầu thủ đẳng cấp quốc tế.

***

Những người đàn bà gọi tôi là một người đàn bà lẳng lơ, lăng loàn, đĩ thõa. Những người đàn ông thì gọi tôi là cưng ơi, là hổ cái, là cuồng nhiệt, là nóng bỏng và gợi tình, là người đàn bà tuyệt vời, là mẫu đàn bà đúng như họ mong muốn, là đam mê, khéo léo và hết mình chuyện gối chăn.

Thế rồi sau đó tất thảy họ đều kinh sợ tôi, họ trở nên hèn hạ không thể chịu nổi, họ cố gắng làm cho tôi chán ghét họ, và rốt cuộc họ đều đã thành công, tôi không thể yêu họ thêm được nữa. Tôi lại ra đi tìm những người đàn ông mới. Tôi biến thành một con vịt trời và bay đi theo đàn. Tự do.
 
Khi còn nhỏ tôi đã bao lần ước mong mình là con trai để mẹ hạnh phúc, bà nội và ba mãn nguyện.

Cô y tá bước ra khỏi phòng sinh với nét mặt rạng rỡ:

- Chúc mừng anh, một cô công chúa rất xinh xắn.

Chồng tôi đỡ lấy con một cách thận trọng. Tôi gần như kiệt sức nhưng mãn nguyện, mặc dù đây là đứa con gái thứ hai. Khi mang thai, chúng tôi không siêu âm để biết con trai hay con gái mà hồi hộp chờ đợi trong sự vui sướng, háo hức. Với vợ chồng tôi, đứa con ra đời khoẻ mạnh là điều quan trọng nhất, mặc dù có người xúi: "Trai để, gái bỏ...". Bé Mi, đứa con đầu của tôi, làm cho chúng tôi rất hài lòng. Giờ thêm một cô con gái nữa có nghĩa là niềm hạnh phúc ấy đã được nhân đôi. Chồng tôi bế con đến bên giường, ân cần nói:

- Em xem, nó giống em chưa này!

Tôi bỗng ứa nước mắt khi chợt nghĩ đến mẹ. Chẳng biết khi sinh tôi, bà có mãn nguyện như thế này không. Mẹ tôi sinh được ba cô con gái. Bố tôi lại độc đinh. Chính vì thế, mẹ phải chịu rất nhiều sự dằn vặt từ bà nội. Mẹ kể khi mang thai tôi, bà nội đã nói với mẹ:

- Nếu đứa này nữa mà không là thằng cu thì tôi xin chị cho nó đi tìm người khác...

Khi biết tôi là cháu gái, bà tôi dửng dưng bỏ về để mình ba ở lại chăm sóc mẹ. Ba tôi luôn bênh vực mẹ trước mặt bà nội. Ba không đồng ý khi nội bắt ba bỏ mẹ đi lấy vợ hai. Có lúc ba bị nội tôi vác gậy đuổi.

Bà luôn trách mẹ tôi không biết đẻ khi không thể sinh cho bà thằng cháu đích tôn. Mẹ tôi không muốn vì mẹ mà ba và nội bất hoà. Mẹ cắn răn chịu đựng tất cả không một lời oan thán.

Đáng lý tôi cũng không được là con út vì mẹ định sinh thêm đứa nữa với hy vọng trời ban ân. Nhưng bác sĩ nói mẹ quá yếu, không thể sinh thêm em bé. Với ba tôi, sức khoẻ của mẹ quan trọng hơn hết thảy. Vì vậy, ba đành mang tội bất hiếu, không làm tròn phận sự với họ tộc.

Bà nội thường nhìn ba chị em tôi và chép miệng thở dài. Có lẽ vì vậy mà bà không yêu quý chị em tôi mặc dù chúng tôi luôn ngoan ngoãn.



Tuổi thơ tôi không còn lạ những lần mẹ đưa ba chị em về bên ngoại để ba đi lấy vợ mới. Nhưng chỉ được buổi sáng, chiều đi làm về ba lại hộc tốc sang đón chúng tôi. Thấy ba, tôi chạy nhào ra đón và ôm chặt lấy như sợ chỉ cần buông ra ba sẽ bỏ mẹ con tôi mà đi. Mẹ không về, ba cũng ở lại bên nhà ngoại. Cực chẳng đã, mẹ làm đơn xin ly hôn nhưng ba vẫn không thay đổi quyết định:

- Mình có bỏ tôi, tôi cũng sẽ không lấy người khác. Tôi chỉ có các con và mình mà thôi!

Tôi biết, mẹ yêu ba rất nhiều. Càng yêu nhiều, mẹ càng muốn hy sinh để ba hạnh phúc. Dù không thể thiếu sống thiếu ba nhưng mẹ vẫn nguyện để ba đi tìm hạnh phúc mới.

Từ ngày mẹ mất, ba trở nên lặng lẽ. Tôi muốn ông đi đâu cho khuây khoả tuổi già, nhưng suốt ngày ông chỉ quẩn quanh bên bàn thờ không khi nào ngớt khói hương. Những làn khói trắng làm nhòa đi khuôn mặt phúc hậu của mẹ. Mẹ có nụ cười cam chịu, nhẫn nhịn. Tôi phục nhất sức chịu đựng của mẹ. Người ta nói phụ nữ có thể chia sẻ tất cả, ngoại trừ người đàn ông của mình. Thế mà mẹ từng có ý định để cho ba đi tìm người phụ nữ khác. Có lần chị Hai tôi bàn:

- Hay là mình tìm vợ cho ba. Dù sao cũng có ông có bà chăm sóc cho nhau, ba đỡ tủi. Chứ cứ để ba thế này chị thấy tội quá...

- Nếu ba đưa người đàn bà khác bước vào cái nhà này thì em sẽ không bao giờ về đây nữa.

Tôi là người từ đầu chí cuối phản đối chuyện cưới vợ cho ba. Tôi nghĩ đến mẹ. Tôi không muốn và không cho phép bất kỳ ai thế chỗ mẹ trong căn nhà này. Tuy ở xa, nhưng thỉnh thoảng về nhà, tôi lại có cảm giác như mẹ vẫn con đi lại đâu đó. Vì thế, nếu ba lấy vợ mới thì linh hồn mẹ sẽ rất tủi thân. Ngay cả bây giờ khi tôi đã trở thành mẹ của hai đứa con, mỗi khi nghĩ về mẹ tôi lại không cầm được nước mắt. Như thể mẹ tôi mới chỉ ra đi ngày hôm qua. Có lẽ một phần vi tôi là con út, được mẹ cưng chiều hơn cả.

Tôi biết giờ đây ba rất cô đơn. Tôi muốn ở bên ba, chăm sóc ba nhưng tôi lại là người lấy chồng xa nhất trong mấy chị em. Tôi chỉ biết gửi tiền và thỉnh thoảng gọi điện hỏi thăm sức khoẻ ông. Những lúc như thế, ba thường vỗ về:

- Chỉ cần con sống hạnh phúc là ba yên tâm rồi. Hãy chăm sóc cho chồng con thật chu đáo.

Tôi biết ba cũng yêu tôi nhất mặc dù tôi bướng bỉnh nhất nhà. Từ nhỏ tôi đã hay gần gũi, tâm sự với ba. Khi tôi băn khoăn không muốn lấy chồng xa vì sợ phải xa ba, ông động viên tôi: "Hãy lấy người mà con yêu".

Tôi bảo chị cả:

- Chị cho thằng Hải sang ngủ với ông cho ông đỡ buồn.

- Ừ, ngày nào mà nó chẳng ở đây. Nhưng nó đi học suốt ấy. Với lại, thằng bé còn trẻ con lắm. Hay là... xem ai người ta đứng tuổi mà ưng thì làm mâm cơm mời về bầu bạn với ba.

- Ba cũng gần sáu mươi rồi mà bây giờ còn đi lấy vợ thì để thiên hạ người ta cười cho...

Tôi biết mình ích kỷ với ba. Nhưng ba không có ý kiến gì. Ông chỉ sống một mình lặng lẽ.

Một ngày, tôi nhận được tin nhắn: "Em về nhà ngay".

Trong lòng tôi lo sợ: "Không lẽ ba ốm nặng?". Nhưng tôi ngạc nhiên khi nghe tiếng cười giòn giã của bà cô từ khi chưa đặt chân vào nhà. Tôi bước vào, mọi ánh mắt đổ dồn vào tôi, vừa thăm dò, vừa chờ đợi. Ba ngồi đó, chỉ có điều trông mỏi mệt: "Con đã về!". Ông không trả lời khi tôi hỏi: "Có chuyện gì vậy ba?".

Giờ tôi mới chú ý đến người phụ nữ trung tuổi ngồi đối diện. Cạnh đó là cậu con trai chừng mười lăm, mười bẩy tuổi. Một thoáng ý nghĩ chạy qua đầu nhưng tôi gạt đi ngay. Chị cả vừa vái xong bàn thờ quay sang, giọng dịu dàng, cái giọng giống mẹ ở sự cam chịu:

- Dì thắp hương cho mẹ nén nhang đi đã!

Tôi cầm nén nhang run run làm cho chiếc đèn trên bàn thờ tắt đi. Giọng bà cô lanh lảnh nói cười:

- Ôi chao ơi, em cũng không ngờ anh lại kín tiếng thế. Vậy mà ngày mẹ đi anh chẳng đưa thằng bé về cho bà cháu nhận nhau. Nơi suối vàng chắc mẹ cũng yên lòng nhắm mắt. Tôi làm rơi nén nhang:

- Cháu nào? Cô vừa bảo cháu nào?

Cô tôi chỉ vào chàng thanh niên đang ngồi im lặng:

- Thì đấy, em trai cháu đấy...

Tôi vịn tay vào bàn thờ cho khỏi ngã:

- Chị... Thế này là thế nào?

- Đó là con riêng của ba. Chị muốn để cho mẹ con dì ấy về đây chăm sóc ba.

- Sao? Ba... đó có phải là...

Tôi không cần hỏi nữa vì chỉ cần nhìn qua tôi cũng thấy người thanh niên ấy giống ba tôi như tạc, kể cả mái tóc hơi hất xuống.

Cô tôi vẫn ngọt nhạt:

- Dù sao cũng một giọt máu đào, có chị có em.

Tôi ngắt lời:

- Ba, vậy là ba... Mẹ ơi...

Tôi lặng lẽ xếp hình của mẹ:

- Chị mang ảnh mẹ về nhà được không?

- Kìa, dù sao thì...

Tôi kiên quyết:

- Vậy em sẽ đưa mẹ đi!

- Đừng làm thế. Hãy để ba hương khói cho mẹ để chuộc lại một phần lỗi của mình.

Giọng ba nhỏ yếu như van lơn.

Tôi nhìn bằng tất cả ánh mắt thù hằn:

- Không. Ba đã có người phụ nữ đó và hạnh phúc với đứa con trai chống gậy của ba. Từ nay, ba có thể coi như chưa từng có đứa con gái như con...

Tôi về ngay từ buổi sáng hôm ấy, không nghe thêm lời giải thích hay biện minh nào. Tôi không thể tha thứ vì ba đã lừa dối mẹ.

Tôi không về thăm ba từ ngày đó. Ba làm sụp đổ niềm tin trong tôi về người cha tốt. Tôi vẫn nhớ khi tôi khóc khi nội bảo: "Giá như mày là thằng cu...". Ba đã an ủi tôi: "Ba chỉ cần có các con thôi!".

Có lẽ mẹ không biết mình bị phản bội. Nhưng với tính cam chịu của mình, mẹ sẽ cúi đầu chấp nhận và tha thứ. Tôi lại không thừa hưởng đức tính ấy từ bà. Tôi có cảm giác ba đã chối bỏ chúng tôi khi có thêm con với người đàn bà khác.

Từ trên ban công, tôi vô cùng ngạc nhiên khi thấy ba đang ngập ngừng trước cổng. Tôi ngỡ mình nhầm. Làm sao ba có thể vượt mấy trăm cây số vào tận đây. Ba gầy đi nhiều quá. Tôi định chạy xuống mở cửa nhưng nhìn thấy người thanh niên đứng cạnh đang dìu ba, lòng tự ái trong tôi lại trỗi dậy. Tôi im lặng cố tình không nghe tiếng chuông.

- Ba à, có lẽ chị ấy không có nhà. Mình tìm chỗ nghỉ rồi ghé thăm anh chị ấy sau.

Ba cố ấn thêm hồi chuông nữa.

- Có lẽ, nó không muốn gặp ba... Thôi, ngày mai ba con mình về...

Chồng tôi nhẹ nhàng:

- Làm vậy có nhẫn tâm quá không em?

- Ba có nhẫn tâm với mẹ không?

Tôi bỏ vào nhà mặc anh đứng nhìn theo hai cái bóng.

Từ ngày biết ba có con riêng, tôi bắt đầu nghi ngờ cả chồng. Biết đâu một ngày nào đó anh cũng sẽ dắt một đứa con về và nói rằng nó là con anh... Nhiều khi nhìn thấy anh vui đùa cùng các con mà tôi thấy lòng dấy lên nỗi lo sợ mơ hồ. Chẳng có gì đảm bảo chắc chắn cả. Đôi khi vì quá nghi ngờ khiên tôi trở nên ghen tuông vô cớ. Anh thông cảm cho tâm trạng của tôi nên luôn chủ động làm lành: "Em phải tin tưởng anh chứ".

Ba mất. Tôi ôm ảnh mẹ khóc ròng. Tôi dắt hai đứa con gái về vào dịp tuần đầu ba. Hai chị thở dài trách móc:

- Em cũng phải hiểu cho nỗi khổ của ba chứ. Ba cũng vì bất đắc dĩ thôi.

Dì nhìn tôi:

- Trước lúc đi xa, ba còn trăn trở mãi mong gặp con lần cuối.

Chị cả tôi nói:

- Cho dù thế nào con cái cũng đầu được quyền phán xét cha mẹ.

- Nhưng em có quyền không chấp nhận người cha lừa dối vợ chỉ vì muốn có con trai.

- Kìa chị... Thực ra chị mới là người ba yêu thương nhất, chính ba nói với em điều đó. Vì thế, ba không quản đường xa vào thăm chị.

- Nếu vậy sẽ chẳng có cậu đâu!

Tôi biết mình đang nói những lời quá ư độc ác và cay nghiệt.

- Trước lúc mất, ba nói phải đưa tận tay chị lá thư này.

Tôi run run bóc chiếc phong bì. Bức thư viết từ lâu nhưng được giữ cẩn thận nên nét chữ còn khá rõ. Tim tôi muốn ngừng đập, lá thư của mẹ...

"Các con yêu mến! Khi các con đọc lá thư này có lẽ mẹ đã sang thế giới bên kia. Mẹ chỉ mong các con hãy chăm sóc ba thật tốt. Và mong các con đừng trách ba. Ba con không có lỗi. Chính mẹ đã cầu xin ba hãy đi tìm cho mình một đứa con trai. Mẹ không muốn mang tội với dòng họ... Dù sao cô ấy cũng là một người bạn của mẹ. Mẹ biết thật khó để chấp nhận việc ba có con riêng. Các con hãy vì mẹ, đừng trách ba con...".

Nước mắt tôi nhòa đi khi nhớ đến nụ cười nhẫn nhịn của mẹ.

Tôi trở về với tổ ấm của mình, lòng buồn vời vợi. Mẹ đã không trách ba, vậy mà tôi lại nỡ... Ai bảo con gái là con người ta...
 
Câu Chuyện Cát Đá


Một cô gái nọ vì buồn phiền chuyện gia đình nên đem hai đứa con nhỏ về nhà cha mẹ để ở. Cô ta khóc kể than thở với mẹ:

- Con thực sự hết sống nổi với hắn ta rồi. Thà là sống một mình như vậy nuôi hai đứa con còn sướng hơn. Lúc nào trong nhà cũng có chuyện gây gổ. Cứ như thế thì hai đứa bé ngày nào cũng chứng kiến những điều không tốt, lớn lên sẽ bị ảnh hưởng xấu.

Người mẹ nhìn cô con gái nhẹ nhàng nói:

- Con à. Gia đình nào mà không có những chuyện xích mích bất hòa. Trời còn có mưa có nắng huống gì con người lúc giận lúc vui. Nếu con sợ mấy cháu bị ảnh hưởng không tốt thì hai vợ chồng nên thông cảm và nhẫn nhịn nhau chứ đâu phải giải quyết như thế. Hãy nhớ lại xem, cha mẹ đâu có ép duyên con đâu. Chính con đã từng yêu thương nhung nhớ, chính con đã từng thề non hẹn biển. Còn nhớ không con?

Cô con gái vừa khóc vừa trả lời với giọng bực mình:

- Hồi đó con bị lầm vì chưa có kinh nghiệm. Bây giờ con đã khôn hơn và trưởng thành rồi. Trên đời này đâu phải chỉ mình hắn là đàn ông.

Người mẹ vẫn nhẫn nại khuyên con:

- Con ơi. Con cho rằng hai đứa cháu ngoại của mẹ sống không cha là tốt và không bị ảnh hưởng xấu sao con? Ngày xưa cha mẹ mà có những suy nghĩ như con hôm nay thì con đã không biết cha hay mẹ mình là ai đó con ơi. Vợ hoặc chồng thì ai cũng có thể tìm người khác, nhưng hai đứa con của con suốt đời cũng chỉ có một người cha và một người mẹ mà thôi con ạ. Trẻ thơ mà phải chịu cuộc sống mồ côi, dù mồ côi cha hay mẹ. Đó là một điều bất hạnh lớn đối với trẻ thơ. Chỉ vì những tự ái nhỏ nhen của mình mà con đành bắt hai đứa con của chính mình gánh chịu sự bất hạnh này hay sao?

Nhân lúc ngoài trời đang cơn mưa nặng hạt. Người mẹ chỉ cho cô con gái:

- Con gái của mẹ hãy nhìn xem. Nơi vườn cà ngoài kia, con gà mái đang xòe rộng hai cánh hứng chịu cơn mưa gió bão bùng để ấp ủ cho đàn con. Một con gà mẹ mà còn sẵn sàng chịu đựng những gió mưa cuộc đời cho đàn con được yên ấm. Mà con gái của mẹ chẳng chịu đựng nổi những bất hòa giữa vợ chồng để bắt hai đứa con của chính mình phải hứng chịu bất hạnh cuộc đời sao con. Những xích mích phiền muộn trong cuộc sống vợ chồng chưa đáng để gọi là gió bão cuộc đời và nhẫn chịu những điều đó cũng chưa đáng để gọi là sự hy sinh cao cả của lòng mẹ thương con đâu con ạ. Hãy bình tâm suy nghĩ kỹ lại đi con gái yêu thương của mẹ.

Nghe lời mẹ khuyên cùng nhìn hình ảnh gà mẹ chịu đựng cơn mưa gió che chở cho đàn con, cô con gái vui vẻ đem hai đứa con trở về với gia đình. Và từ đó gia đình cô ta, vợ chồng con cái sống yên vui hạnh phúc trong yêu thương và thông cảm
 
Ở một thị trấn nhỏ êm đềm và thơ mộng kia có đôi nam nữ rất yêu nhau. Họ cùng tựa vào nhau trên đỉnh núi cùng ngắm cảnh bình minh và cùng tiễn những ánh chiều tà trên biển. Mọi người nhìn họ với ánh mắt ngưỡng mộ và thầm cầu chúc cho họ hạnh phúc.
Nhưng rồi bỗng một hôm, người con trai không may bị thương rất nặng. Anh nằm trong bệnh viện mấy ngày mấy đêm vẫn chưa tỉnh lại. Ban ngày, cô gái luôn ngồi trước giường anh và không ngừng gọi tên anh. Buổi tối, cô tới nhà thờ nhỏ trong thị trấn để cầu nguyện. Cô gái dường như đã khóc cạn nước mắt.

Một tuần trôi qua, chàng trai vẫn chưa tỉnh lại. Cô gái đã rất tiều tụy nhưng vẫn chăm sóc anh rất tận tình. Tình yêu của cô đã làm Chúa Trời cảm động, và Ngài đã quyết định dành cho cô gái một ngoại lệ. Ngài nói: "Ta có thể làm cho người yêu cô nhanh chóng khỏi bệnh, nhưng cô phải hóa thành bướm trong vòng ba năm. Cô có đồng ý như thế không?". Cô gái nghe xong rất cảm động và nói một cách dứt khoát: "Con đồng ý".

Trời sáng, cô gái đã biến thành một con bướm rất đẹp. Cô từ biệt Chúa Trời và bay ngay tới bệnh viện. Quả nhiên, chàng trai đã tỉnh lại. Anh đang trò chuyện với bác sĩ, nhưng rất tiếc cô lại không nói được.
Mấy ngày sau chàng trai xuất viện nhưng không hề vui vẻ. Anh hỏi những người thân về tin tức của cô gái, nhưng không một ai biết người yêu anh bây giờ đang ở đâu. Chàng trai cả ngày không ăn không nghỉ, nhất mực đi tìm người yêu. Trong khi đó, cô gái biến thành bướm kia bay qua bay lại bên cạnh anh; chỉ có điều cô không thể gọi tên anh, không thể trò chuyện cùng anh mà chỉ có thể lặng lẽ đón nhận ánh mắt vô hồn của anh.

Mùa hè qua đi, những cơn gió mùa thu mát mẻ thổi rơi những chiếc lá, cô gái phải rời khỏi nơi này. Ngày cuối cùng cô bay tới đậu lên vai của chàng trai. Cô muốn dùng đôi cánh bé nhỏ của mình vuốt ve lên mặt anh, dùng đôi môi nhỏ xíu của mình hôn lên trán anh, nhưng thân hình nhỏ bé của cô không đủ để anh nhận ra.

Trong chớp mắt, mùa xuân của năm thứ hai đã tới. Cô vội bay về tìm người yêu của mình, nhưng đứng bên cạnh anh lúc này là một cô gái rất xinh đẹp. Cô khựng lại, dường như đang rơi từ lưng chừng trời xuống. Người ta kể rằng vào mùa giáng sinh ấy bệnh của anh càng trầm trọng hơn, người ta cũng kể rằng cô bác sỹ ấy đã chăm sóc anh chu đáo như thế nào và người ta nói rằng tình yêu của họ là lẽ đương nhiên. Tất nhiên người ta cũng không quên miêu tả rằng chàng trai đã vui vẻ trở lại.
Cô gái vô cùng đau khổ, mấy ngày tiếp theo, cô thường thấy người yêu của mình dẫn cô bác sỹ ấy lên đỉnh núi ngắm bình minh và họ cùng ra biển tiễn hoàng hôn. Còn cô không thể làm được gì khác ngoài vài lần đậu trên vai của anh.

Mùa hè năm đó dài đằng đẵng, hàng ngày cô bay rất thấp trong đau khổ, cô không còn dũng khí để đến gần người yêu. Những lời nói thì thầm, những tiếng cười vui vẻ của họ làm cô tủi thân.
Mùa hè của năm thứ ba, bướm đã không thường xuyên bay tới thăm người yêu nữa. Người yêu của cô đã ôm vai, hôn lên má cô bác sỹ và anh chắc cũng không còn tâm tư để hoài niệm về những ngày đã qua. Thời gian ba năm sắp hết, trong ngày cuối cùng, người yêu của cô đã tổ chức hôn lễ với cô bác sỹ. Cô nhẹ nhàng bay vào trong nhà thờ đậu lên vai của Chúa và nghe thấy người yêu của cô ở dưới thề rằng: "Tôi đồng ý". Cô nhìn thấy anh đeo nhẫn cho vợ, và sau đó là nụ hôn ngọt ngào của họ. Cô đã rơi những giọt lệ xót xa. Chúa Trời thở dài một cách xót xa: "Con có hối hận không?". Cô lau khô những giọt nước mắt: "Không ạ!". Chúa Trời bỗng vui vẻ nói: "Ngày mai con có thể trở lại thành chính mình rồi". Bướm lắc đầu nói: Hãy cứ để cho con làm kiếp bướm suốt đời.
 
Ngày xưa có 1 gia đình sống rất là hạnh phúc ,chồng yêu vợ thưong con,có hiếu với mẹ già
vợ nghe lời chồng ,cưng con,nhưng hay hỗn với mẹ chồng
Mỗi lần trứoc khi đi làm anh chồng thường ôm vợ và nói
EM thương anh thật sự là chẳng muốn xa em 1 chúc nào cả cho dù ngày hay đêm .Vừa nói anh chồng vừa ôm cô ta thật chặt
EM biết mà anh có yêu em anh mới nói
Thôi anh ạh cô ta chỉ tay ra chiếc xe ,xe nóng rồi anh đi đi nhớ coi chừng xe cộ nha anh
ok anh đi nha
Mẹ ơi lên ăn cơm mẹ
trên bàn cơm có một đìa rau muốn,và 1 con cá thù đù
hai mẹ con chồng và đúa con ngồi và ăn
trong bữa cơm còn dâu cứ gắp phần mình cá bỏ cho con hay bỏ cho mình
còn chừa cái đầu và cái đuôi cho mẹ
ngày qua ngày như vậy mẹ vợ rất buồn nhưng chỉ vì thương đứa con trai nên cam chiệu nhường nhịn
nhưng cái gì cũng có sức hết
cứ thế con dâu càn lấn luớt
Một chưa hề bên dậu mồng tơi ngừoi mẹ ngồi ru cháu trên chiếc võng đong đưa và cất lên câu ru cháu nội
RU hời ru hỡi là you
Con cá thù đù sạn cả đầu đuôi
Ngừoi còn dâu nằm trong nhà nghe thấy thế mới ngẫm nghĩ rồi mới hay
mình làm vậy là không đúng với mẹ rồi và dối chồng
kể từ khi nghe câu hò xong cô ta mới thương mẹ chồng và sau này rất có hiếu với mẹ chồng

Ngừoi khôn nói mánh ,ngừoi dại đánh đòn
 
Ký ức tuổi thơ
Anh Đức

Điệu múa chấm dứt

Các em gái nhỏ vừa múa xong, mặt đỏ bừng. Các em đưa tay vuốt mồ hôi lấm tấm rịn ra nơi trán và chạy về phía cô giáo. Cô giáo quàng các em vào lòng. Cô giáo tuổi đâu chỉ chừng mười chín. Dáng người mảnh dẻ, cô có mặt đen sáng thông minh và hơi rụt rè như mắt trẻ con. Cô thuộc vào thế hệ giáo viên trẻ của cách mạng chúng ta, trẻ như ngôi trường mới dựng lên giữa những xóm làng giải phóng này.

- Đã đến giờ học, các em vô lớp đi! - Cô giáo nói

Đám trẻ ríu rít đi vào lớp. Chúng ngồi trên những chiếc ghế dài làm bằng những cây đước lột vỏ, chôn chân hẳn xuống đất. Bàn viết của lớp học cũng là gỗ đước xẻ ra, bào láng. Cô giáo cầm quyển sách, đợi cả lớp trở lại trật tự. Cô nói:

- Hôm nay chúng ta viết chính tả. Các em chuẩn bị!

Đám trẻ vội vàng mở nút mực, lật vở ra. Chúng sửa bộ ngồi lại cho ngay ngắn. Có đứa cầm bút liền, ưỡn thẳng lưng, với cái tư thế hễ cô giáo đọc là nó sẽ viết ngay. Có đứa lại vòng tay trái giữ lấy quyển vở như sợ lúc viết quyển vở sẽ bay đi vậy. Lại có tiếng ho khúc khắc, tiếng ngòi bút lọc sọc chấm vào các bình mực.

Cô giáo chờ cho mọi thứ tiếng nói im đi, mới lấy giọng trang nghiêm đọc:

"Lịch sử trường em"

Đó là đầu đề của bài chính tả. Những mái đầu cúi xuống hí hoáy viết. Đợi cả lớp viết xong đầu đề, cô giáo đọc tiếp: "Sau ngày giải phóng, trường học xã em đã được dựng lên...".

Rồi cô lại đọc:

"Trường của chúng em là một gian nhà rộng lợp lá. Bàn ghế trong lớp không lấy gì làm sang trọng, nhưng cả thảy đều ngăn nắp, sạch sẽ. Các chú bác nông hội xã đã đắp nền trường và đóng nên những chiếc bàn. Nền trường trước kia vốn là một bãi đất bỏ trống, tại đó đã có những cô bác của em ngã xuống vì sự nghiệp cách mạng. Trên cái nền đất này là trường học thân yêu của em, mấy năm trước là một nơi đầm đìa máu đỏ..."

Tiếng cô giáo vẫn cất lên, trong trẻo và đều đặn giữa buổi trưa tĩnh mịch. Cô sắp đọc tiếp đoạn kế. Thình lình giữa lớp học bỗng bật lên tiếng khóc nức nở. Một em bé gái quãng chín tuổi ngồi ở đầu cái bàn thứ hai đang cắn môi, nước mắt chảy ướt cả hai gò má. Cô giáo nhìn đứa học trò của mình. Cô hiểu. Nó tên là Hà. Cả lớp học đều nhìn về phía đôi vai nhỏ của Hà đang rung lên.

Bé Hà bây giờ không viết thêm được chữ nào nữa. Cây bút em cầm trong tay run quá. Mắt em nhòe ướt. Em tưởng như mình không phải ngồi giữa lớp học mà đang ở giữa cảnh tượng hỗn độn ở nhà em cách đây hơn ba năm. Em đang nhìn thấy lại một buổi sáng mùa nước, những tên lính xông vào nhà, súng lăm lăm trong tay, lục lọi. Ba em và chú Sáu lối xóm đứng ở ngay của buồng thông vào bồ lúa nhà em. Khi bọn lính xông tới, em thấy ba em và chú Sáu xô đám lính, đá chúng ngã lật. Vừa lúc đó em ngó thấy một chú lạ từ bồ lúa phóng vọt ra, chạy biến. Lũ giặc kêu lên:

- Nó kia, nó kia!

Nhưng ba em và chú Sáu đã cản chúng lại. Ba em lia mạnh một cây cột chèo khiến bọn lính té sụm. Bấy giờ người lạ mặt trong nhà em đã chạy thoát. Lúc ấy em không biết người đó là ai, và cũng không biết người đó đã núp trong nhà em từ bao giờ. (Cách đây vài tháng có một chú trên tỉnh tới thăm nhà em, đi theo có mấy anh bộ đội bảo vệ đeo súng các bin. Hóa ra chú đó chính là người lạ mặt đã tới nhà em và được ba em cứu thoát). Sau khi chú ấy chạy khỏi, bọn giặc bắt ba em và chú Sáu. Chúng lôi hai người ra khỏi nhà. Mẹ em chạy theo. Chúng giơ báng súng đập mẹ em ngã ngồi xuống đất. Lát sau em nghe từ bãi đất bỏ hoang (tức là chỗ em đang ngồi học bây giờ) vọng lại tiếng thét của ba em, rồi tiếng kêu nghe hự hự, tiếng chửi rủa... Không nghe súng nổ. Lúc má em cõng em lội tới miếng đất bỏ trống thì bọn giặc đã bỏ đi. Ba em và chú Sáu nằm ngửa ra trên vạt cỏ ngập nước. Lúc vớt lên, môi người nào cũng có dấu răng nghiến vào đến ứa máu, và tay người nào cũng ghì chặt một mớ cỏ ống. Cạnh đấy chúng cắm hai cây sống lá dừa nước, một cây treo hai trái tim còn nhểu từng giọt máu và một cây có kẹp một tấm giấy. Sau này lớn lên em mới rõ tấm giấy đó viết đại ý nói rằng ai chứa chấp Việt Cộng sẽ bị giết y như vậy.

... Bà con lối xóm khiêng ba em và chú Sáu về. Dạo đó mùa nước đang dâng, nhà em bị ngập lênh láng. Mẹ em ôm em ngồi trên bộ chõng tre. Bà nội em nằm dài trên chõng thở coi rất mệt. Mấy người trong xóm đứng dầm chân dưới nước ghép những tấm ván đóng hòm. Đêm đến, nhà em thắp những cây đèn cầy trắng, cháy leo lét. Mẹ em nấu nước tắm rửa cho ba em, mặc cho ba em một bộ quần áo vải xiêm đen mới. Em nhớ rõ tiếng khóc thê thảm của mẹ em và tiếng búa đóng hòm "cum... cum" cứ dội lên, vang ra tận mặt sông. Khi người ta đỡ ba em đặt vào hòm thì mẹ em bế xốc em đến bên hòm. Thấy mẹ khóc, em cũng khóc, nhưng lúc ấy em chưa biết đau đớn. Lúc ấy em chỉ thấy lòng buồn vô hạn. Em tưởng chừng ba em đi đâu rất xa và sẽ lâu về lắm. Nhất là khi người ta khiêng nắp hòm đậy lại thì em khóc thét, không chịu. Sao người ta bỏ ba em vào đó, ngột chịu gì nổi!...

Thế là cuối cùng nắp hòm vẫn nặng nề đậy lại, che khuất hẳn, không để em ngó thấy ba em nữa. Người ta đặt lên hòm mấy chén cơm, mấy quả trứng đã xé thành miếng xếp trên cái đĩa.

Em còn nhớ những cây nhanh cắm trong cái hũ nhỏ đựng đầy gạo cứ cháy mãi, tàn nhang rơi xuống, rơi xuống... Nhang cháy gần hết, người ta lại cắm thêm nhang mới. Tàn nhang rơi xuống phủ đầy cái lọ đựng gạo. Sao mà em nhớ rõ đến thế, cái bao nhang vẽ hình phật bà ngồi trên tòa sen bên ngoài có bọc giấy kính mà bà vẫn thường cho em để chơi, và cái mùi nhang cứ xông ngát lên. Mấy năm qua rồi em vẫn phảng phất ngửi thấy cái mùi nhang đó. Em nhớ mãi lúc người ta sắp đưa ba em ra ruộng. Tiếng chân lội bì bõm trên nền nhà ngập nước, tiếng kĩu kịt của chiếc đòn khiêng bị sức nặng của cái hòm đè lên, tiếng mẹ em khóc, tiếng bà em gọi tên ba em ra kể lể...
 
Ngòi bút của bé Hà vẫn gí lại một chỗ trên trang vở. Ký ức tuổi thơ thật đã khắc những nét quá sâu. Chỉ có khi nào chết đi, em mới có thể quên những cảnh ấy. Em cố nén tiếng khóc cứ dâng lên trong cổ nghèn nghẹn. Em không thấy ngòi bút đã nhểu một đốm mực xuống trang giấy. Em chẳng thấy gì nữa, ngoài cảnh chết của cha em, cảnh cái đêm mùa nước lụt lội ấy. Rõ ràng là lúc mọi người đưa ba em ra huyệt, em đã thiu thiu ngủ trên vai mẹ. Mẹ em và em ngồi trên xuồng. Trong giấc ngủ chập chờn, em nhận ra những giọt nước mắt nóng hổi của mẹ em rơi xuống má em. Trước mặt em, em chỉ thấy vầng khăn trắng mẹ em đội suốt từ trưa đến tối ngày hôm ấy. Em chỉ trông thấy vầng khăn trắng đó và bầu trời tối đen mà thôi. Tới lúc chiếc xuồng dừng lại bên một cái gò đất hiện lờ mờ giữa ruộng thì em đã ngủ thiếp đi... Lúc tiếng giầm cọ vào be xuồng lụp cụp, em giật mình tỉnh dậy. Nằm trong tay mẹ, em mở mắt nhìn thấy những vì sao trên trời... Mẹ và em đang trên đường về nhà. Mọi người đã đặt ba em xuống huyệt rồi. Cho tới bây giờ em hãy còn hết sức ân hận. Em tự giận mình quá đỗi. Bên tai em lúc nào cũng có một tiếng nói văng vẳng: "Sao lúc đó lại ngủ đi như thế, hở con bé dại dột kia?" Đáng lẽ em phải thức, bởi vì giờ phút ấy ba em đã xa em mãi mãi. Thế là em không nhìn thấy cảnh mọi người đặt ba em xuống lòng đất, em không được chính tay cầm đất ném xuống huyệt dù chỉ là một hòn đất nhỏ, như mẹ em và bà em đã ném xuống. Bà nội bảo rằng làm như vậy để cho ba em ở dưới đó không cảm thấy lạnh lẽo. Hòn đất mang hơi ấm của người thân sẽ ở bên cạnh mà sưởi ấm người chết. Em rất hối hận vì đã không đặt được một hòn đất xuống bên chỗ ba em, để ba em nhớ em và đêm đêm vẫn tưởng như có em bên cạnh, như ngày nào em còn nằm ngả đầu lên cánh tay lực lưỡng của ba em mà ngủ. Em cứ hối tiếc mãi về chuyện đó. Và để chuộc lại lỗi lầm do giấc ngủ tai hại kia gây ra, em đã trồng lên ngôi mộ ba em một bụi bông trang. Em làm việc đó một cách kín đáo, lặng lẽ, đến mẹ và bà cũng không hay. Em bứng bụi bông trang ngay trước cửa nhà, cái bụi bông trang mà bà nội em rất quý, thường tưới nước chăm sóc để hái bông cúng bàn thờ Phật. Sáng hôm ấy bà và mẹ đi cấy, em đem bụi bông ra mộ ba em. Ngồi tại ngôi mộ, em suy nghĩ mãi, chẳng biết nên trồng sao cho hợp. Cuối cùng em trồng bên cạnh tấm bia, chỗ đầu ba em nằm. Em nghĩ rằng trồng chỗ ấy là phải hơn cả. Chừng nào bụi bông trang lớn lên, nó sẽ che mát cả ngôi mộ. Em bới đất bằng con dao phay, bới khe khẽ... Em không làm động mạnh, vì em cứ có cái cảm giác ba em bên dưới đang ngủ. Cần để cho ba ngủ được yên giấc. Trồng xong bụi bông trang, em xách gầy xuống mương múc một gầu nước. Tay phải em cầm gầu tưới, tay trái em xòe năm ngón tay ra chặn cho nước đừng đổ ào xuống để nước chỉ rưới nhẹ lên ngôi mộ. Em sợ nước thấm vào người ba em ở dưới. Sau khi trồng xong bụi bông, em ra về, cảm thấy lòng vui và nhẹ nhõm. Tất nhiên là trước lúc về em có bắt chước bà nội, khấn thầm trong bụng cầu cho ba em ngủ yên và hãy phù hộ cho mọi người ở nhà được luôn luôn mạnh khỏe. Em đi ra khỏi mộ vài bước thì ngoảnh lại nhìn. Bụi bông trang mới trồng, lá còn loang loáng nước đang khẽ rung trước làn gió sớm như hứa hẹn với em rằng nó sẽ sống, sẽ lớn lên và sẽ tỏa bóng mát cho ba em khỏi nắng. Từ đấy đến mùa nắng còn tới năm bảy tháng nữa. Bụi bông thế nào cũng lớn kịp, trước khi cánh đồng hứng lấy những cơn nắng lửa chói chang. Em vừa ý với bóng mát của bông trang hơn cả. Nó không thưa mà cũng không rợp. Chắc chắn bóng mát của cây bông trang tỏa lên ngôi mộ sẽ vừa phải, nhẹ nhàng chớ không nặng trịch, đè xuống. Em thật không muốn có thêm cái gì đè xuống nữa, bởi vì tấm ván hòm mà em thấy trong đêm nọ cùng với lớp đất phủ lên trên đó đã đủ làm cho ba em ngột ngạt lắm rồi!

Rủi ro thay lần ấy em vừa về tới nhà thì bà em đã đón hỏi ngay:

- Ai bứng bụi bông trang hở Hà?

Em cúi mặt xuống và đáp:

- Con...

- Trời ơi, bứng đi làm gì? Bụi bông trang của bà trồng để hái bông cúng Phật, sao con lại bứng đi?

Em nói giọng ấp úng:

- Con... con quên hỏi nội... nhưng con bứng nó đem ra trồng ngoài mả của ba con. Nội ơi, mả của ba con bị nắng lắm, đất nó cứ nứt ra...

Em nói thế mà cảm thấy muốn khóc. Bà nội đứng ngây ra mất một lúc, rồi những giọt nước mắt lăn xuống ngấn má nhăn nheo của bà. Bà lập cập bước tới ôm em vào lòng, vừa khóc vừa dỗ em cũng đang nức nở:

- Thôi, thôi... nín... nín... bà không rầy nữa. Tội nghiệp cháu tôi.

Đoạn bà kêu:

- Hòa, Hòa, mày sống khôn thác thiêng, về đây mà coi cảnh con mày đây này...

Rồi bà nội em đem chuyện ấy kể khắp xóm. Mấy thím có tuổi và mấy bà lão luôn chắc lưỡi nói: "Trời nào, Phật nào mà không động lòng cho được!".

Mẹ em thì suốt đêm hôm ấy cứ ôm chặt em vào lòng. Em nằm rất lâu, không ngủ. Có tới hai tiếng đồng hồ sau, em hé mắt nhìn vẫn thấy mắt mẹ mở thao láo. Em biết mẹ thương và nhớ ba lắm. Ngày ba em còn sống, mẹ em và em thấy như sau lưng mình đang có chỗ dựa thật vững chắc. Sau lúc ba em chết, mẹ và em không còn chỗ dựa đó nữa.

Mẹ con thật bơ vơ. Thoạt tiên em chợt nhận ra mình thiếu một cái gì rất lớn. Điều rất giản dị là ba em không còn nữa. Mẹ em như trải qua một cơn bệnh nặng, cả tháng sau mới gượng dậy được. Bây giờ muốn có củi chụm, mẹ em phải chống xuồng vào rừng đốn lấy tới tối mịt mới về. Lúc trước ba em trưa đi là chiều về đầy một xuồng củi đước, và việc của mẹ em là chỉ tiếp ba em đỡ từng cây đước chất lên bờ thôi. Hoặc chẳng hạn như mùa mưa tới, nhà cần xóc nóc lại cho khỏi bị dột, bây giờ mẹ cũng phải leo lên đón thấy những tàu lá xé do bà nội chuyền cho rồi gập tréo lên cây đòn dong... Mấy năm nay mẹ đỡ vất vả hơn vì em đã giúp mẹ được nhiều việc. Em và mẹ rốt cuộc đã đứng vững như hai tàu lá lớn nhỏ đứng kề nhau ngoài bờ sông, gió thổi ù ù cũng không rập xuống được.

Nhưng lắm lúc em thấy cũng khổ lắm. Dầu sao em cũng mất ba em. Biết bao lần em tủi thân suýt khóc lên khi thấy các bạn nhỏ khác được ba chúng ghé đôi vai vạm vỡ cõng chúng làm trò phi ngựa lội dưới sông hoặc còn quấn cho chúng những chiếc vòng thắt kiểu chân rết coi ngộ hết sức. Thật ra, một chiếc vòng bằng lá dừa như thế em cũng biết quấn. Và em đã quấn một chiếc. Nhưng lạ chưa, khi đeo nó vào cổ em lại thấy còn buồn tẻ hơn. Chẳng có gì đáng gọi là lý thú. Em tháo chiếc vòng ra khỏi cổ thẫn thờ nhìn nó, rồi tự nhiên hai ngón tay buông lửng để chiếc vòng rơi xuống đất...

Điều này cũng thật là giản dị lắm!

Em cần chiếc vòng từ bàn tay ba em quấn nên, chứ em chẳng cần chiếc vòng do em tước lá tự quấn lấy. Vậy nói đúng hơn, em thiếu một người cha chứ em không thiếu một chiếc vòng...

Xã của em là một trong những xã về tay cách mạng đầu tiên ở chót mũi Cà Mau. Trường xã được dựng lên trên bãi cỏ hoang, nơi ba em và chú Sáu đã chết. Mẹ em cho em đến trường học. Hết mùa mưa lại đến mùa nắng ráo. Em yêu mùa nắng hơn những ngày mưa dầm lê thê. Mùa mưa, con nước lại dâng lên. Em thấy sợ những đêm nước ngập vào nhà, sợ những giấc chiêm bao hiển hiện một cái hòm kĩu kịt trên cây đòn khiêng, em sợ những cây đèn cầy leo lét cháy nhểu ròng xuống như những giọt nước mắt bằng sáp, em đau lòng chỉ được gặp ba em từ xa, từ xa giơ tay lên vẫy em rồi lại biến dần đi như trong mơ. Em chờ đợi mùa nắng và lòng em khấp khởi khi mỗi sáng thức dậy thấy ánh mặt tời lên rực rỡ trên cánh đồng. Sân trường bị lầy lội trong tháng nước sẽ bắt đầu khô lại, em cùng các bạn có thể múa được nhân giờ ra chơi giữa buổi học. Con đường từ nhà em dẫn tới trường học sẽ dễ đi hơn. Em có thể ghé lại thăm mộ ba em, thăm bụi bông trang coi ngày hôm ấy nó có nở ra được bông nào nữa không. Mùa nắng đến với cái làng nhỏở mũi Cà Mau này thực là đẹp. Đối với em bé Hà, đó là một mùa vui, bụi bông trang em trồng trên mộ ba em tới mùa nắng này đã được ba tuổi. Trên đường tới trường, em nhìn thấy những bông trang đỏ rực giữa khóm lá xanh tươi.

Trưa hôm nay em cũng có ghé lại ngôi mộ. Cách một tiếng đồng hồ sau, không ngờ cô giáo đã đọc một bài chính tả mà em không tài nào viết thẳng tới được. Em chỉ có thể viết đến câu: "Trên cái nền đất này là trường học thân yêu của em, mấy năm trước là một nơi đầm đìa máu đỏ..." Thế rồi em không viết được thêm một chữ nào nữa. Ngòi bút của em nãy giờ vẫn dừng lại ở chữ "máu đỏ...". Mực trên ngòi bút em đọng xuống giấy một đốm tím. Nước mắt em rớt xuống khiến đốm mực nhòe ra.

Em khóc. Các bạn nhỏ cùng lớp đều khóc theo. Cặp mắt cô giáo ướt đẫm. Cố nén xúc động, cô bảo cả lớp với giọng nghẹn ngào.

- Thôi, các em lau nước mắt đi, rồi chúng ta sẽ viết tiếp.

Cô giáo lại đọc tiếp bài chính tả. Giọng cô run run không bình thường. Những mái đầu của các em lại cúi xuống, hí hoáy viết. Lớp học bây giờ chỉ còn lại tiếng sụt sịt mũi và tiếng ngòi bút sột soạt trên mặt giấy. Đằng sau trường học, cánh đồng lúa chín tới đang rì rào. Những cây đước chống trực thăng đổ bộ nhọn hoắt
 
Đại thiên hành hóa hoàng thượng nhược viết:

Cái văn:

Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân,
Điếu phạt chi sư, mạc tiên khử bạo.
Duy ngã Đại Việt chi quốc,
Thực vi văn hiến chi bang.
Sơn xuyên chi phong vực ký thù,
Nam bắc chi phong tục diệc dị.
Tự Triệu Đinh Lý Trần chi triệu tạo ngã quốc,[1]
Dữ Hán Đường Tống Nguyên nhi các đế nhất phương.
Tuy cường nhược thì hữu bất đồng,
Nhi hào kiệt thế vị thường phạp.

Cố Lưu Cung tham công dĩ thủ bại,
Nhi Triệu Tiết hiếu đại dĩ xúc vong.
Toa Đô ký cầm ư Hàm Tử quan,
Ô Mã hựu ế ư Bạch Đằng hải.[2]
Kê chư vãng cổ,
Quyết hữu minh trưng.

Khoảnh nhân Hồ chính chi phiền hà,
Trí sử nhân tâm chi oán bạn.
Cuồng Minh tứ khích, nhân dĩ độc ngã dân;
Nguỵ đảng hoài gian, cánh dĩ mãi ngã quốc.
Hân thương sinh ư ngược diệm,
Hãm xích tử ư họa khanh.
Khi thiên võng dân, quỷ kế cái thiên vạn trạng;
Liên binh kết hấn, nẫm ác đãi nhị thập niên.
Bại nghĩa thương nhân, càn khôn ky hồ dục tức;
Trọng khoa hậu liễm, sơn trạch mỹ hữu kiết di.
Khai kim trường, tắc mạo lam chướng nhi phủ sơn đào sa,
Thái minh châu, tắc xúc giao long nhi hoàn yêu thộn hải.
Nhiễu dân thiết huyền lộc chi hãm tịnh,
Điễn vật chức thúy cầm chi võng la.
Côn trùng thảo mộc giai bất đắc dĩ toại kỳ sinh,
Quan quả điên liên câu bất hoạch dĩ an kỳ sở.
Tuấn sinh linh chi huyết dĩ nhuận kiệt hiệt chi vẫn nha;
Cực thổ mộc chi công dĩ sùng công tư chi giải vũ.
Châu lý chi chinh dao trọng khốn,
Lư diêm chi trữ trục giai không.
Quyết Đông Hải chi thủy bất túc dĩ trạc kỳ ô,
Khánh Nam Sơn chi trúc bất túc dĩ thư kỳ ác.
Thần dân chi sở cộng phẫn,
Thiên địa chi sở bất dung.

Dư:

Phấn tích Lam Sơn,
Thê thân hoang dã.
Niệm thế thù khởi khả cộng đái,
Thệ nghịch tặc nan dữ câu sinh.
Thống tâm tật thủ giả thùy thập dư niên,
Thường đảm ngọa tân giả cái phi nhất nhật.
Phát phẫn vong thực, mỗi nghiên đàm thao lược chi thư,
Tức cổ nghiệm kim, tế suy cứu hưng vong chi lý.
Đồ hồi chi chí
Ngộ mị bất vong.
Đương nghĩa kỳ sơ khởi chi thì,
Chính tặc thế phương trương chi nhật.

Nại dĩ:

Nhân tài thu diệp,
Tuấn kiệt thần tinh.
Bôn tẩu tiền hậu giả ký phạp kỳ nhân,
Mưu mô duy ác giả hựu quả kỳ trợ.
Đặc dĩ cứu dân chi niệm, mỗi uất uất nhi dục đông;
Cố ư đãi hiền chi xa, thường cấp cấp dĩ hư tả.

Nhiên kỳ:

Đắc nhân chi hiệu mang nhược vọng dương,
Do kỉ chi thành thậm ư chửng nịch.
Phẫn hung đồ chi vị diệt,
Niệm quốc bộ chi tao truân.
Linh Sơn chi thực tận kiêm tuần,
Khôi Huyện chi chúng vô nhất lữ.
Cái thiên dục khốn ngã dĩ giáng quyết nhiệm,
Cố dữ ích lệ chí dĩ tế vu nan.
Yết can vi kỳ, manh lệ chi đồ tứ tập;
Đầu giao hưởng sĩ, phụ tử chi binh nhất tâm.
Dĩ nhược chế cường, hoặc công nhân chi bất bị;
Dĩ quả địch chúng, thường thiết phục dĩ xuất kỳ.

Tốt năng:

Dĩ đại nghĩa nhi thắng hung tàn,
Dĩ chí nhân nhi dịch cường bạo.
Bồ Đằng chi đình khu điện xế,
Trà Lân chi trúc phá khôi phi.
Sĩ khí dĩ chi ích tăng,
Quân thanh dĩ chi đại chấn.
Trần Trí, Sơn Thọ văn phong nhi sỉ phách,
Lý An, Phương Chính giả tức dĩ thâu sinh.
Thừa thắng trường khu, Tây Kinh ký vị ngã hữu;
Tuyển binh tiến thủ, Đông Đô tận phục cựu cương.
Ninh Kiều chi huyết thành xuyên, lưu tinh vạn lý;
Tốt Động chi thi tích dã, di xú thiên niên.
Trần Hiệp tặc chi phúc tâm, ký kiêu kỳ thủ;
Lý Lượng tặc chi gian đố, hựu bạo quyết thi.
Vương Thông lý loạn nhi phần giả ích phần,
Mã Anh cứu đấu nhi nộ giả ích nộ.
Bỉ trí cùng nhi lực tận, thúc thủ đãi vong;
Ngã mưu phạt nhi tâm công, bất chiến tự khuất.
Vị bỉ tất dị tâm nhi cải lự,
Khởi ý phục tác nghiệt dĩ tốc cô.
Chấp nhất kỷ chi kiến, dĩ giá họa ư tha nhân,
Tham nhất thì chi công, dĩ di tiếu ư thiên hạ.
Toại linh Tuyên Đức chi giảo đồng, độc binh vô yếm;
Nhưng mệnh Thạnh Thăng chi nọa tướng, dĩ du cứu phần.
Đinh vị cửu nguyệt Liễu Thăng toại dẫn binh do Khâu Ôn nhi tiến,
Bản niên thập nguyệt Mộc Thạnh hựu phân đồ tự Vân Nam nhi lai.
Dư tiền ký tuyển binh tái hiểm dĩ tồi kỳ phong,
Dư hậu tái điều binh tiệt lộ dĩ đoạn kỳ thực.
Bản nguyệt thập bát nhật Liễu Thăng vị ngã quân sở công, kế trụy ư Chi Lăng chi dã;
Bản nguyệt nhị thập nhật Liễu Thăng hựu vị ngã quân sở bại, thân tử ư Mã Yên chi sơn.
Nhị thập ngũ nhật Bảo Định bá Lương Minh trận hãm nhi táng khu,
Nhị thập bát nhật Thượng thư Lý Khánh kế cùng nhi vẫn thủ.

Ngã toại nghênh nhận nhi giải,
Bỉ tự đảo qua tương công.
Kế nhi tứ diện thiêm binh dĩ bao vi,
Kỳ dĩ thập nguyệt trung tuần nhi điễn diệt.
Viên tuyển tỳ hưu chi sĩ,
Thân mệnh trảo nha chi thần.
Ẩm tượng nhi hà thủy càn,
Ma đao nhi sơn thạch khuyết.
Nhất cổ nhi kình khô ngạc đoạn,
Tái cổ nhi điểu tán quân kinh.
Quyết hội nghĩ ư băng đê,
Chấn cương phong ư cảo diệp.
Đô đốc Thôi Tụ tất hành nhi tống khoản,
Thượng thư Hoàng Phúc diện phược dĩ tựu cầm.
Cương thi tái Lạng Giang, Lạng Sơn chi đồ,
Chiến huyết xích Xương Giang, Bình Than chi thủy.
Phong vân vị chi biến sắc,
Nhật nguyệt thảm dĩ vô quang.

Kỳ Vân Nam binh vị ngã quân sở ách ư Lê Hoa, tự đỗng nghi hư hạt nhi tiên dĩ phá phủ;
Kỳ Mộc Thạnh chúng văn Liễu Thăng đại bại ư Cần Trạm, toại lận tạ bôn hội nhi cận đắc thoát thân.
Lãnh Câu chi huyết chử phiêu, giang thủy vị chi ô yết;
Đan Xá chi thi sơn tích, dã thảo vị chi ân hồng.
Lưỡng lộ cứu binh, ký bất toàn chủng nhi câu bại,
Các thành cùng khấu, diệc tương giải giáp dĩ xuất hàng.
Tặc thủ thành cầm, bỉ ký trạo ngạ hổ khất liên chi vĩ;
Thần võ bất sát, dư diệc thể thượng đế hiếu sinh chi tâm.
Tham tướng Phương Chính, Nội quan Mã Kỳ, tiên cấp hạm ngũ bách dư sưu, ký độ hải nhi do thả hồn phi phách tán;
Tổng binh Vương Thông, Tham chính Mã Anh, hựu cấp mã sổ thiên dư thất, dĩ hoàn quốc nhi ích tự cổ lật tâm kinh.
Bỉ ký uý tử tham sinh, nhi tu hảo hữu thành;
Dư dĩ toàn quân vi thượng, nhi dục dân chi đắc tức.

Phi duy mưu kế chi cực kỳ thâm viễn,
Cái diệc cổ kim chi sở vị kiến văn.
Xã tắc dĩ chi điện an,
Sơn xuyên dĩ chi cải quán.
Càn khôn ký bĩ nhi phục thái,
Nhật nguyệt ký hối nhi phục minh.
Vu dĩ khai vạn thế thái bình chi cơ,
Vu dĩ tuyết thiên cổ vô cùng chi sỉ.
Thị do thiên địa tổ tông chi linh, hữu dĩ mặc tương âm hựu, nhi trí nhiên dã.

Ô hô!

Nhất nhung đại định, ngật thành vô cạnh chi công;
Tứ hải vĩnh thanh, đản bố duy tân chi cáo.
Bá cáo hà nhĩ,
Hàm sử văn tri.

Nguyễn Trãi
 
Ngày xửa ngày xưa có 1 cô bé xinh xắn ,cô ta sinh ra trong 1 gia đình khá giả đạo côn giáo.c luôn luôn sống trong cô đơn tại vì cô ta tính tình hay e dè
1 ngày nọ trời xanh mây trắn cô ta mới cảm thấy thoải mái và quyết định đi dã ngoại ở ngoài biển.những bước chân cô ta dẫm lên cát mịn màng ,những con sóng nâng niêu cuốn lấy những gót chân đã qua của cô ta.bổng cô ta cuối xuống và thấy có 4 đấu chân in trên cát.cô ta mới ngặc nhiên và nhìn quanh nhưng chỉ có cô ta với cô ta mà thôi không ai ngoài đó nửa.sau cuùng cô ta cũng biết đó là đấu chân của tạo hoá đã đi song song với cô .cô ta xuốt ngày hôm đó rất là hân hoan và nhưng ngày sau đó cũng 1 tâm trạng.
Cho đến 1 ngày cô ta bị cảm lạnh nhưng cũng ráng ra bờ cát năm củ để được nhìn lại dấu chân của đấn tạo háo,nhưng hởi ôi trên cát bây giờ chỉ còn lại 2 dấu chân mà thôi.cô bé dể thương mới chợt oà khóc và thốt lên sao ngày lại bỏ con mà đi trong lúc con hoạn nạn,thì ra ngày chỉ có cùng con trong vui sướng mà thôi.cô ta cứ thế mà khóc .chợt cô ta nghe có tiếng thì thầm bên tai.Con àh sao con lại nở trách ta ,ta có làm cho con buồn bao giờ đâu .Cô bế vội vàng đáp ngài bỏ con ,ngài bỏ con.Ta không bao giờ bỏ con đâu hởi đứa con dể thương của ta đấng tạo hoá nhỏ nhẹ nói với cô bé.Ngài không bỏ con chứ sao bây giờ con không thấy dấu chân của ngài cô bé nói trong ngẹn ngào.Con àh! dấu chân đó không phải của con đâu mà là dấu chân của ta đó ,ta đang ẩm con đấy mà con chẳng hiểu lòng ta,nhưng ta không trách con đâu đáng tạo hoá nói với cô ta.
trong giây phúc đó cô ta mới chợt hiểu và lòng đầy vui mừng ,cô ta hiểu xuốt đời này đáng tạo hoá sẻ không bỏ cô ta.Cô bé dể thương quay về trong sung sướngvà lòng đầy niềm vui
 
Ngày …tháng …năm…..

Nhỏ,

Nhỏ thường cằn nhằn anh giống cây xương rồng khô khan và đầy gai, nhưng nhỏ nè, mỗi khi xương rồng nở hoa thì quí lắm đấy. Anh chẳng biết viết thơ hay làm văn để tặng nhỏ. Anh chỉ thích Toán, Anh Văn, Vi Tính…thôi. Không biết từ trước đến nay, nhỏ nhận được bao nhiêu “tác phẩm” của mấy gã trồng si theo nhỏ nhỉ ? Có lẽ anh thiếu lãng mạn thật, anh chỉ thích những thứ rõ ràng, logic và có thể chứng minh một cách chắc chắn. Viết thơ, phổ nhạc thì anh mù tịt, anh chẳng biết nói sao cho nhỏ hiểu lòng anh bây giờ. Thôi thì, để anh làm một bài toán chứng minh cho nhỏ rõ tình cảm của anh nhé !

Bài toán tình yêu

Đề bài : Anh là X, nhỏ là Y, với phép tính Yêu và Không Yêu, hãy chứng minh định lí sau : X yêu Y và Y yêu X là đúng và chỉ có thể tồn tại một cách duy nhất.

Giả thiết 1 : X yêu Y

Chứng minh: Để chứng minh là anh yêu nhỏ thì anh có vô khối bằng chứng lẫn ví dụ.

Này nhé, từ thuở mới biết nhỏ thôi, anh đã phải đợi không biết bao nhiêu ngày và mất không biết bao nhiêu đêm để nghĩ ra một lá đơn xin làm quen gửi nhỏ. Nếu anh chỉ giỡn chơi cho vui thì anh đã làm quen nhỏ ngay từ lúc đầu rồi. Nếu anh chẳng “có gì” với nhỏ thì anh đâu phải hồi hộp ngóng thư thư nhỏ trả lời đến như vậy. Nhỏ thấy chưa, chỉ bước ban đầu thôi mà làm kẻ lạnh lùng với trái tim bằng đá như anh phải nao núng không ít. Cái ngày nhỏ cười cười chấp nhận, mắt nhỏ long lanh đến lạ kì, may mà anh còn “nhớ lối đi về”, nếu không chắc gia đình phải đăng báo “Tìm người lạc”. Nhỏ thấy chưa, như vậy cũng đủ thấy tấm thịnh tình của anh dành cho nhỏ rồi .

Nếu anh không yêu nhỏ, anh chẳng thể nào đứng trước trường chờ nhỏ tan học về. Thuở ấy, anh chúa ghét mấy đứa con trai đứng đực mặt ra mong ngóng, trông thật chẳng khác gì mấy thằng ngố. Anh vẫn cười thầm: “Đàn ông đàn ang thì phải khí thế lên, ai đời chỉ vì một người phụ nữ.” Nhưng ôi chao, anh hùng không qua ải mĩ nhân, bây giờ anh lại cam tâm tình nguyện làm một thằng dở hơi như thế. Dù biết chưa đến giờ, anh vẫn nôn nóng tới sớm rồi đứng đợi, chỉ sợ ra trễ, nhỏ theo lũ bạn đi mất. Mong là nhỏ sẽ không cho anh là thằng ngốc, nhỏ nhé.

Có khi nhỏ giận không thèm nói chuyện với chuyện với anh, mới vài ngày thôi mà anh đã thấy thời gian sao dài dằng dặc, vào sở làm mà lòng như lửa đốt, đến nỗi mấy đồng nghiệp cứ phải thì thào: “Mày làm sao thế ?”

Biện luận:

“Tình yêu là mù quáng”. Không, anh chẳng thích làm gã thầy bói mù đoán già đoán non tình yêu của chúng mình. Mắt anh còn tốt lắm, và để thấy rõ nhỏ hơn, anh còn gắn thêm hai miếng kính dày cộm, to chảng. Anh không dám thề non hẹn biển như một kẻ khoác lác, anh cũng không muốn nói vòng vo quanh co đầy ẩn dụ ngụ ý để nhỏ rối tinh rối mù lạc vào mê hồn trận thì tội nghiệp. Anh chỉ có thể rõ ràng, ngắn gọn và súc tích y như một bài toán logic : Anh yêu nhỏ.

Giả thiết 2 : Y yêu X

Chứng minh : Đặt mình vào chỗ ngồi của người khác để suy ra người ta nghĩ gì quả thật là một điều không đơn giản. Nhưng vì nhỏ, anh sẽ cố gắng làm mọi thứ trở nên dễ hiểu nhất mà anh có thể.

Nhỏ có thể đang cong môi, lừ mắt bảo rằng, làm quen thì nhỏ cũng có cả khối người, nhỏ cũng đồng ý cả chục mạng, chứ đâu có riêng gì anh. Ừ, cho là vậy đi, thế tại sao nhỏ không trả lời ngay, mà để đến cả tuần sau, anh năn nỉ mãi mới cho gặp mặt. Định cho anh đau tim chắc ? Vậy là nhỏ cũng coi anh “đặc biệt” hơn người khác một chút rồi. Nhỏ sắp kêu: “Con gái phải làm giá chứ sao!” Ừ, cho là vậy đi, sao khi anh nắm tay nhỏ hỏi: “Chịu không?”, mặt nhỏ đỏ hồng lên, chỉ cười cười mà không nói gì? Nhỏ lại sắp bảo: “Thì con gái phải mắc cỡ chứ sao?” Ừ, cho là vậy đi, sao mấy thằng “ôn con” ở trường xếp hàng chờ đón nhỏ về, nhỏ ngúng nguẩy lắc đầu mà chỉ bẽn lẽn lên xe anh ngồi? Nhỏ chắc đang bặm môi la: “ Tại anh lớn hơn, chững chạc hơn nên đáng tin hơn.” Ừ, cứ cho là vậy đi, sao nhỏ cứ chịu khó viết thư, chép thơ, gửi nhạc cho anh làm gì nhỉ? Mà toàn thơ tình không mới…ác chứ ! Nhỏ biết anh khô queo, cứng như đá, chì như thép, vậy mà còn đưa toàn mấy thứ “ướt nhẹp”. Sao nhỏ không làm thế với mấy “ôn con” trong lớp nhỉ ? Chết thật, lần này anh không suy ra nữa đâu, để tự nhỏ nghĩ đi nhé !

Ngày 8-3, ngày Valentine, nhỏ hí hửng khoe anh nào hoa, nào quà, nào thiệp, cùng “những lá thư tình hay nhất thế giới”. Quen nhau gần một năm trời rồi, vậy mà anh vẫn tay không, tỉnh bơ ngồi uống nước mía cạnh nhỏ, chả phản ứng gì sất. Không biết ai tự dưng hờn mát thế nhỉ? Úi dào, anh đâu có dễ sập bẫy nhỏ như vậy? Cái kế “khích tướng” này xưa còn hơn ….Trái Đất. Ai bảo con trai không được làm giá? Nôn nóng quá nhỏ chạy mất tiêu thì sao ? Nhỏ định chọc cho anh ghen chết đấy à? Đừng hòng nhé. Ôi nhỏ ơi, anh là “người lớn”, chơi với nhỏ anh thành “con nít” một chút. Còn lũ “ôn con” trong trường chỉ là đám con nít tập làm người lớn. Người lớn đã từng làm trẻ con, cho nên trường hợp anh chấp nhận được, còn đám con nít mới nứt mắt hỉ mũi chưa sạch mà học đòi, thế là hỏng ! Khi nào rảnh, anh sẽ viết thêm cho nhỏ một bài chứng minh lí luận đầy đủ về lũ ranh ấy cho chúng biết thế nào là lễ độ !

Biện luận :

Những gì nhỏ dành cho anh, chậc, anh “cảm kích” lắm lắm. Từng ấy ví dụ thôi anh cũng đủ hiểu lòng của nhỏ rồi. Úi dào, nhỏ mắc cỡ không dám nói ra, thôi thì để anh nói giùm nhỏ nhé. Chà, không được, nói lớn quá người ta biết thì nhỏ đỏ mặt, vậy anh nói khe khẽ vừa đủ chúng mình nghe thôi nhỏ nhé: “…” Ui da, đừng có ngắt anh, đau lắm, tội nghiệp!

Từ (1) và (2) =>

Giả thiết 3 : X yêu Y và Y yêu X. Chúng ta yêu nhau

Chứng minh: Nếu giả thiết này thành sự thật thì … ôi chao, còn gì hạnh phúc bằng!

Nhỏ còn bé lắm, nhỏ còn đi học, hồn hiên và ngây thơ. Thỉnh thoảng, nhỏ bỗng thành người nhớn, nghiêm nghị và sâu sắc khiến anh phải ngạc nhiên. Dù sao đi nữa, trong anh, nhỏ luôn là nhỏ bé bỏng và đáng yêu. Anh yêu mái tóc nhỏ nên anh đã phải đi lùng cái kẹp tặng nhỏ dù một thằng đàn ông như anh chẳng ưa gì chuyện sắm đồ con gái. Anh yêu đôi mắt tinh nghịch, lí lắc. Anh yêu cả cái nhìn mơ màng dù với cặp kính mà nhỏ ghét. Anh yêu cái mặt nhăn nhăn như… con khỉ khi nhỏ giận. Anh yêu luôn cả tính xấu của nhỏ vì tình yêu phải bao dung và độ lượng. Còn nhỏ, khi vui nhỏ tìm đến anh chia xẻ, nụ cười lúng liếng của nhỏ làm đời anh thấy tươi đẹp hơn. Lúc buồn, nhỏ cũng thỏ thẻ tâm sự rồi hỏi anh gỡ mối tơ lòng. Bên nhỏ, anh thấy mình cũng quan trọng hẳn lên, và anh cố làm tốt mọi thứ hơn để xứng với tình cảm của nhỏ. Nhiều lúc nhỏ giận lẫy bảo anh vô tình, chẳng quan tâm khi mấy ngày im bặt, chẳng hỏi thăm. Không có đâu, anh luôn nhớ nhỏ, anh chỉ bận đi làm thôi. Nhỏ thấy đó, anh phải làm tốt công việc của mình thì mới ra oai với nhỏ được chứ. Anh còn phải kiếm tiền để có dịp mua quà, dẫn nhỏ đi chơi, đi coi xi nê… Nhỏ thấy chưa, anh cũng có trách nhiệm lắm chứ, anh chả thích ăn không ngồi rồi, đi tán gái cho vui. Anh có nghĩa vụ lo lắng cho tương lai và chuyện học của nhỏ nữa, anh chả muốn vì mải vui nhỏ quên mất học bài. Nếu thế thì anh quả thật đáng trách lắm.

Biện luận:

Có thể anh yêu nhỏ nhiều hơn là nhỏ yêu anh. Thế cũng được, quan trọng là Chúng ta yêu nhau. Yêu anh, nhỏ vừa được yêu nè, vừa được chiều nè, vừa có vệ sĩ, tài xế và cả thầy giáo nữa. Thấy không, nhỏ “lời to” đấy nhé. Còn anh, chỉ cần được nhỏ yêu, vậy là quá đủ rồi.

Giả thiết 4: X không yêu Y và Y không yêu X

Chứng minh: không tìm ra

Biện luận:

Một giả thiết cực kì vô lí . Anh đã gặp qua khá nhiều bài toán hóc búa trong đời, nhưng đây là một câu đố lạ lùng nhất anh từng gặp. Mọi lần, nếu không tìm được một đáp số khả thi, anh sẽ ghi vào phần lời giải rất ngắn gọn: CTMB => Có Trời Mà Biết. Nhưng nhỏ à, giả thiết này có lẽ trời cũng không trả lời nổi, vì nó sai ngay từ giả thiết, vậy thì còn chứng minh cái quái gì nữa !

Chắc nhỏ đang nhắc chừng anh, hình như thiêu thiếu cái gì phải không? Anh biết rồi, nhỏ đang bảo còn hai giả thiết nữa mà anh quên. Anh chẳng quên đâu, anh chỉ thấy chúng không cần thiết thôi. Nhưng để chiều lòng nhỏ, anh nói nhỏ nghe nhé.

Giả thiết 5: Y yêu X và X không yêu Y

Thật không căn cứ, không nguyên do, hoàn toàn vô lí ! Nếu nhỏ yêu anh thì lí nào anh lại không yêu nhỏ được cơ chứ ? Giả thiết này cũng sai lầm ngay từ đầu rồi, chẳng cần chứng minh nữa.

Giả thiết 6: X yêu Y và Y không yêu X

Nhỏ ơi, nếu quả thật có một giả thiết như vậy tồn tại, anh không đủ can đảm lẫn tâm trí để chứng minh nữa. Anh tìm mãi không ra một bằng chứng nào để nói nó là sự thật. Trời sinh ra mỗi người đàn ông và lấy cái xương sườn của họ để làm nên người phụ nữ. Nhỏ chính là cái xương sườn huyết thống ấy. Nếu nhỏ từ chối mà phụ lòng chúa trời, có lẽ anh sẽ chết vì một cái xương sườn ngoại đạo. Chắc chắn nhỏ không nỡ nhìn một kẻ yêu mình phải chết thảm thương như thế chứ? Vậy thì, chúng ta hãy dẹp luôn cái giả thiết “mắc toi” này đi, nhỏ nhé !

Kết luận: Nhỏ ơi, chứng minh nhỏ nghe vậy là đủ rồi, thôi tụi mình cứ tự… kết luận với nhau đi, nghen nhỏ !
 
Phải đòn trận này thì nó cạch đến già! Nhưng đáng kiếp lắm! Ai thương? Ai bảo mới nứt mắt ra đã đi ăn cắp?

Người ta kháo nhau:

- Quân ấy tinh quái lắm! ấy, nó cứ giả vờ đói khát để ăn xin, trát bùn vào mặt, vào người, lử thử lừ thừ, làm như thằng ốm, nhưng hễ rình nhà nào vô ý, là thừa cơ thó ngay, rồi lẩn mất, nhanh như cái cắt!

Người ta gờm mặt nó! Người ta sợ nó! Hễ nó lảng vảng đến, người ta ngờ, người ta canh, người ta giữ, coi nó như một con chó đóị

Một hôm, nó vơ vẩn giữa đám hàng bán rong.

Thấy nó, bà hàng rau đứng dậy, quẩy gánh lên vai, đi chỗ khác. Bà hàng thịt sờ lại ruột tượng. Bà hàng bún riêu nắn lại túi tiền. Bà hàng lê bấm cô hàng bánh đúc. Chị bán bánh rán sốt đưa mắt cho bác bán khoaị

Họ thì thào:

- Thằng ăn cắp.

Trông nó đáng sợ thật. Hai mắt trắng dã, lấm la lấm lét, tóc thì bồng lên như tổ quạ. Da đen thui thủị Mặt rạn như men lọ cổ.

Hai tay thọc vào túi cái áo tây tàng, xơ xác như tổ đỉa, nó đứng nhích ra chỗ bóng nắng, dún dẩy cho ấm.

Nó nhìn gánh bún riêụ Nó nhìn mẹt bánh đúc. Nó nhìn rổ khoai lang. Cơ chừng nó thèm. Nó thèm vì nó đóị

Thấy nó ám, các bà chẳng dám đuổi, nhưng bụng mong nó cút ngay đị

Nó đứng một lúc. Rỗi quá. Nó chìa bàn tay ra xin, xin bằng những câu văn sách thuộc lòng, chứ không cố lấy giọng nằn nì khốn nạn:

- Cắn cỏ lạy bà, con đói khát, bà làm phúc thí bỏ cho con đồng cơm bát cháo.

Thấy nó giở giọng, các bà giữ riết ruột tượng, túi tiền, thức hàng.

- Để bận sau, đi mà xin chỗ khác.

Nó nhăn bộ răng trắng như bầu ra, cười láu cá.

Gớm chết!

Nó cười gì? Ai biết được! Hay là nó chế các bà lần này quá khinh nó? Vì nó tham cơ hội mà xin đó thôi.

Nó làm bộ, lắc túi cho các bà nghe thấy tiếng xu kêu loẻng xoẻng! Ranh con thực! Nó lại đứng yên. Nó ngắm. Hai mắt chòng chọc vào cái nồi bún riêu khói bốc lên ngùn ngụt, vào cái nồi bánh đúc ngon lành, vào cái rổ khoai tròn trĩnh như "ông ỷ". Nó chảy nước dãị Nó thèm. Vì nó đói thực.

Suốt từ sáng, nó chỉ được có sáu đồng trinh, và một bát cơm nguộị Bát cơm ấy, chưa đủ sức đền vào chỗ nhịn chiều hôm quạ Nhưng thôi, làm quái gì cái vặt! Ăn không ra bữa đã quen từ thuở bé. Nó chỉ thấy đóị Chứ không thấy cồn càọ Nó ngồi sán vào cô bán bánh đúc. Nó chìa tay ra xin một miếng. Cô hàng ôm khư khư lấy mẹt vào lòng, xua lấy xua để:

- Chưa bán mở hàng đấy! Khỉ ạ!

Nó lại lê dịch sang kề nồi bún riêu:

- Lạy bà, con ăn mày bà một bát.

- Ba mươi sáu cái nõn nường! Mỗi bát mấy đồng xu của người ta đấy! Thôi đi! Dơ!

Nó lại mó vào củ khoai lang, tủm tỉm cười.

Bà ấy vội hất tay nó ra, và mắng:

- Bà thì tát cho một cái bây giờ, đừng láo!

Bà hàng lê chắc chẳng đời thuở nào nó dám động đến hàng mình, là thứ xa xỉ phẩm, đùa nó rằng:

- Một hào một quả, bỏ tiền đây, tao bán cho.

Nó cười, lắc đầu.

Bà ấy ném vào lòng nó một mảnh vỏ quýt. Nó đỡ được, bỏ vào mồm, nhai gau gáu.

Rồi nghĩ thế nào, nó đứng dậỵ Tay nó đếm xu trong túi, nói với bà hàng bún riêu:

- Bà bán cho cháu một bát.

- Mày có tiền không?

Nó gật đầu, mạnh bạo. Rồi đắc chí, nó lắc túi. Bà ấy múc cho nó một bát đầỵ Nó ăn. Phù phù! Nóng! Xuỵt xoạt! Cay! Ngon quá.

Ai cũng yên bụng. Không ai để ý đến nó nữu. Họ nghênh xe đạp. Họ nhìn ô tô. Họ pha trò. Họ cười ha hả.

Nó vẫn ăn. Ngon quá!



o O o


Năm phút...

Mười phút...

Bỗng chốc:

- Ối ông đội sếp ơi! Thằng ăn cắp! Ai đuổi hộ tôi!

Bọn bán hàng nhốn nháọ Chạy tứ tung. Quang gánh vướng. Người ngã. Hàng đổ. Bát vỡ.

- Bắt lấy nó!

Thằng ấy cắm đầu cắm cổ chạy, nhanh như mũi tên.

- Giời ơi! Nó kia kìa! Ai đuổi hộ tôi!

Một người qua đường đuổi theo nó. Hai người qua đường đuổi theo nó. Rồi ba bốn người, sáu bảy ngườị..

- Bắt lấy thằng ăn cắp!

Rồi hàng chục ngườị Rồi không đếm được bao nhiêu người nữa. Họ chạy huỳnh huỵch. Họ làm như bắt giặc!

Ai cũng kéo cả ra đường để nhìn theo.

Một thằng chạy. Mấy trăm người đuổi. Bụi mù!

Bà ấy chạy sau rốt. Áo lấm. Khăn xổ. Tóc rũ. Ngửa mặt lên mà kêu:

- Ối ông đội sếp ơi!

Mọi người hỏi nhau.

- Ai mất gì?
 
Nó nhăn bộ răng trắng như bầu ra, cười láu cá.

Gớm chết!

Nó cười gì? Ai biết được! Hay là nó chế các bà lần này quá khinh nó? Vì nó tham cơ hội mà xin đó thôi.

Nó làm bộ, lắc túi cho các bà nghe thấy tiếng xu kêu loẻng xoẻng! Ranh con thực! Nó lại đứng yên. Nó ngắm. Hai mắt chòng chọc vào cái nồi bún riêu khói bốc lên ngùn ngụt, vào cái nồi bánh đúc ngon lành, vào cái rổ khoai tròn trĩnh như "ông ỷ". Nó chảy nước dãị Nó thèm. Vì nó đói thực.

Suốt từ sáng, nó chỉ được có sáu đồng trinh, và một bát cơm nguộị Bát cơm ấy, chưa đủ sức đền vào chỗ nhịn chiều hôm quạ Nhưng thôi, làm quái gì cái vặt! Ăn không ra bữa đã quen từ thuở bé. Nó chỉ thấy đóị Chứ không thấy cồn càọ Nó ngồi sán vào cô bán bánh đúc. Nó chìa tay ra xin một miếng. Cô hàng ôm khư khư lấy mẹt vào lòng, xua lấy xua để:

- Chưa bán mở hàng đấy! Khỉ ạ!

Nó lại lê dịch sang kề nồi bún riêu:

- Lạy bà, con ăn mày bà một bát.

- Ba mươi sáu cái nõn nường! Mỗi bát mấy đồng xu của người ta đấy! Thôi đi! Dơ!

Nó lại mó vào củ khoai lang, tủm tỉm cười.

Bà ấy vội hất tay nó ra, và mắng:

- Bà thì tát cho một cái bây giờ, đừng láo!

Bà hàng lê chắc chẳng đời thuở nào nó dám động đến hàng mình, là thứ xa xỉ phẩm, đùa nó rằng:

- Một hào một quả, bỏ tiền đây, tao bán cho.

Nó cười, lắc đầu.

Bà ấy ném vào lòng nó một mảnh vỏ quýt. Nó đỡ được, bỏ vào mồm, nhai gau gáu.

Rồi nghĩ thế nào, nó đứng dậỵ Tay nó đếm xu trong túi, nói với bà hàng bún riêu:

- Bà bán cho cháu một bát.

- Mày có tiền không?

Nó gật đầu, mạnh bạo. Rồi đắc chí, nó lắc túi. Bà ấy múc cho nó một bát đầỵ Nó ăn. Phù phù! Nóng! Xuỵt xoạt! Cay! Ngon quá.

Ai cũng yên bụng. Không ai để ý đến nó nữu. Họ nghênh xe đạp. Họ nhìn ô tô. Họ pha trò. Họ cười ha hả.

Nó vẫn ăn. Ngon quá!



o O o


Năm phút...

Mười phút...

Bỗng chốc:

- Ối ông đội sếp ơi! Thằng ăn cắp! Ai đuổi hộ tôi!

Bọn bán hàng nhốn nháọ Chạy tứ tung. Quang gánh vướng. Người ngã. Hàng đổ. Bát vỡ.

- Bắt lấy nó!

Thằng ấy cắm đầu cắm cổ chạy, nhanh như mũi tên.

- Giời ơi! Nó kia kìa! Ai đuổi hộ tôi!

Một người qua đường đuổi theo nó. Hai người qua đường đuổi theo nó. Rồi ba bốn người, sáu bảy ngườị..

- Bắt lấy thằng ăn cắp!

Rồi hàng chục ngườị Rồi không đếm được bao nhiêu người nữa. Họ chạy huỳnh huỵch. Họ làm như bắt giặc!

Ai cũng kéo cả ra đường để nhìn theo.

Một thằng chạy. Mấy trăm người đuổi. Bụi mù!

Bà ấy chạy sau rốt. Áo lấm. Khăn xổ. Tóc rũ. Ngửa mặt lên mà kêu:

- Ối ông đội sếp ơi!

Mọi người hỏi nhau.

- Ai mất gì?

Người bảo:

- Nó cắt đứt ruột tượng của người kia.

Người bảo:

- Nó lần túi người ta! Chà thằng oe con gớm thật!

Rồi lại thêm mấy chục người nữa đuổi theo thằng ăn cắp.

- Thằng ăn cắp! Bắt lấy nó! ối ông đội sếp ơi! Nó ăn cắp của tôi!

- Kìa, ông đội sếp đến thực. Bỏ mẹ!

Ông ấy cắm cổ, gò lưng, bấm chuông liên thanh, đạp xe đuổi theo.

Nó vẫn chạy như khoàng cả hai chân lên vai. Chạy hăng quá!

Nhưng người đuổi chạy nhanh hơn.

Bà ấy thì lạch bạch như con vịt, kêu không ra tiếng, mỗi lúc một xa nó, xa nó đến sáu bảy mươi thước.

- Khổ thân tôi, giời đất ơi!

Đến ngã tư.

May quá. Một ông chẳng hiểu đầu đuôi ra sao, nghe tiếng kêu, đâm bổ ở trong nhà ra, tóm ngay được cổ nó. Nó cúi xuống, mồ hôi trơn, ông ấy suýt nắm trượt. Nhưng liền vớ ngay được cánh tay nó.

Nó giằng rạ ông ấy khỏe như vâm, quật ngay nó xuống đánh oách, ngã sấp xuống đường đá, sây sát cả người, máu mê bê bết. ông ấy vồ được nó.

- Nó ăn cắp gì?

- Nó giật khăn.

Ức! Một cái đá vào mạng mỡ.

- Chạy nữa đi!

Hự! Một quả tống vào ngực.

Nó méo mặt, không thở được! Đành chịu nằm yên.

Người ta chạy tới dần.

- Nắm chặt lấy nó!

Nhưng chẳng nắm, nó cũng chẳng chạy được.

Huỵch! Huỵch! Bốp! Bốp!

- Này chừa này! Ăn cắp này!

Ai cũng phải giã cho cẩn thận, để bõ lúc chạy mửa mật bắt nó!

Nó lạy. Nó van. Nhưng ai tha? Dại gì mà tha thằng ăn cắp?

Họ càng ghét, túm lại, đánh như mưa.

- Cho đáng kiếp! Nó giật đôi khuyên vàng của người ta.

Họ lại đánh túi bụi, không tiếc taỵ

- Mười ba mười bốn tuổi đầu, đã dám lần lưng, lấy của người ta năm đồng bạc, rồi lại đánh người ta!

Họ lại tức dữ. Lại cho thêm một trận.

Nó đau quá. Nằm sóng soài, không nói được nữạ Hai mắt lừ đừ, khốn nạn như con chó bị trói giật bốn cẳng ra đằng sau lưng.

Họ khám túi nó.

Tang vật nó tẩu đi đâu rồi?

- Mày để đồ ăn cắp ở đâu?

- Nó có đảng!

Nó mở mắt ra nhìn. Họ lại uỵch. Họ lại thụị Họ lại tát. Họ lại đá. Không tiếc tay. Rồi lại hô:

- Đánh chết nó đi!

Nó cũng gần chết thực.

Những mũi giầy, những ngọn gân bò, những quả đấm, những nhát gậy, làm nó đau ê ẩm cả mình. Phen này có sống cũng thành tật!

Nó cựa. Nó nhăn. Nó ôm bụng.

Đám đông càng ùn lên. Xe pháo tắc tị không đi được. Ông đội sếp lôi tay nó dậy:

- A lê! Lên Cẩm!

Nó mềm như sợi bún, không dậy được.

- Nó giả vờ đấy!

Lại mấy cái móng giò. Lại mấy cái tát. Để đợi người khổ chủ còn đương ỳ ạch chạy theo ở đằng xạ

Bà ấy mệt quá. Không lê được một bước. Không kêu được một tiếng. Cơ chừng tiếc củạ Cơ chừng hết sức. Cơ chừng hết hơị Không biết mất cái khăn, đôi khuyên, hay năm đồng bạc? Không biết bị nó đánh có đau không? Chờ bà ấy đến sẽ rõ.

- Ông... bà... giữ... lấy... nó... cho... tôi!

- Có thả nó cũng không chạy được, mau lên!

Bà ấy vẫn chạy. Bà ấy vẫn kêu. Bà ấy vẫn thở. Thảm quá!

Vòng người đứng giãn rạ Bà ấy đến. Hổn hển thở chẳng được.

- Phải, nó đây rồi.

Bà ấy vồ lấy nó, vả lấy vả để.

Bà ấy đánh cứ tưởng mạnh. Nó cũng không biết đau. Nó mê lên rồi.

Bà ấy kiệt sức, ôm chầm lấy nó, rồi ngã sóng soài ngay cạnh.

- Giả tao đây!... Giả... tao... đây!

Nó không thở được. Nó nhăn.

- Nó lấy gì của bà?

- Các ông đưa... nó lên... Cẩm... hộ... tôi!

- Bà mất gì?

Bà ấy cố trả lời, nói rời rạc như người sắp tắt thở:

- Nó ăn của tôi... hai xu... bún riêu... rồi... nó quịt... nó chạy!
 
Buổi sáng hôm nay, mùa đông đột nhiên đến, không báo trước. Vừa mới ngày hôm qua giời hãy còn nắng ấm và hanh, cái nắng về cuối tháng mười làm nứt nẻ đất ruộng, và làm ròn khô những chiếc lá rơi. Sơn và chị chơi cỏ gà ở ngoài cánh đồng còn thấy nóng bứt, chảy mồ hôi.

Thế mà qua một đêm mưa rào, trời bỗng đổi ra gió bấc, rồi cái lạnh ở đâu đến làm cho người ta tưởng đang ở giữa mùa đông rét mướt. Sơn tung chăn tỉnh dậy, nhưng khôg bước xuống giường ngay như mọi khi, còn ngồi thu tay vào trong bọc, bên cạnh đứa em bé vẫn nắm tay ngủ kỹ. Chị Sơn và mẹ Sơn đã trở dậy, đang ngồi quạt hỏa lò để pha nước chè uống. Sơn nhìn thấy mọi người đã mặc áo rét cả rồi.

Nhìn ra ngoài sân, Sơn thấy đất khô trắng, luôn luôn cơn gió vi vu làm bốc lên những màn bụi nhỏ, thổi lăn những cái lá khô lạo xạo. Trời không u ám, toàn một màu trắng đục. Những cây lan trông chậu, lá rung động và hình như sắc lại vì rét.

Sơn cũng thấy lạnh, vội vơ lấy cái chăn trùm lên đầu rồi cất tiếng gọi chị. Mẹ Sơn nghe thấy, đặt chén nước chè xuống, bảo chị Lan:

- Con vào buồng lấy thúng áo ra mẹ mặc cho em, đi.

Rồi quay lại bảo Sơn:

- Con sang đây mà ngồi cho ấm. Bước khéo để cho em bé ngủ.

Sơn kéo chăn lên đắp cho em, ngồi xếp bằng bên khay nước. Mẹ Sơn rót cho một chén, Sơn cầm lấy chén chè nóng ấp vào mặt, vào má cho ấm, rồi để mặt vào miệng chén cho hơi bốc lên. Bà Sơn thường vẫn bảo làm thế cho tỉnh mắt.

Người vú già xù xù cái áo bông cánh rách, xách siêu nước từ dưới nhà lên, vừa xuýt xoa vừa nói:

- Rét quá! Múc nước cóng cả tay.

Vú giơ tay hơ trên hỏa lò. Mẹ Sơn hỏi:

- Năm nay rét sớm hơn mọi năm vú nhỉ?

Người vú già ra vẻ nhớ lại, đáp:

- Cũng chả bằng cái năm mợ đi cân gạo bên Sông. Gớm, mới rét làm sao! Sáng tôi dậy, bà sai đi chợ, cứ run lên cầm cập.

Sơn cũng nhớ cái rét năm ấy rõ rệt lắm, như mới đây thôi. Buổi sớm hôm ấy, mẹ Sơn cũng ngồi uống nước chè như sáng hôm nay và cũng lấy áo rét ra mặc.

Chị Lan từ trong buồng đi ra, khệ nệ ôm cái thúng quần áo đặt lên đầu phản. Mẹ Sơn đặt cái vỉ buồm lục đống quần áo rét. Sơn nhận ra cũng những cái áo Sơn đã mặc năm ngoái, năm kia: một cái áo vệ sinh màu nâu sẫm với một cái áo dạ khâu chỉ đỏ. Sơn cầm giơ những cái áo lên, thấy mát lạnh cả tay. Từ bộ quần áo thoảng ra hơi mốc của vải gấp lâu trong hòm, làm Sơn nhớ lại những buổi đầu mùa rét từ bao giờ, lâu lắm, ngày Sơn còn nhỏ.

Mẹ Sơn giơ lên một cái áo bông cánh đã cũ nhưng còn lành lặn, nói:

- Đây là áo của cô Duyên đây.

Duyên là đứa em gái bé của Sơn, chết từ năm lên bốn tuổi. Mẹ Sơn nhắc đến làm Sơn nhớ em, cảm động và thương em quá. Vú già là người đã nuôi Duyên từ lúc mới đẻ, với lấy cái áo lật đi lật lại ngắm nghía,tay mân mê các đường chỉ:

- Giá bây giờ em nó có còn cũng chả mặc được.

Mẹ Sơn yên lặng không nói gì. Nhưng đến lúc nói với Sơn lại để mặc áo, Sơn thấy mẹhơi rơm rớm nước mắt.

Sơn đã mặc xong áo ấm áp: cả cái áo dạ chỉ đỏ lẫn áo vệ sinh, ngoài lại mặc phủ cái áo vải thâm dài. Sơn đứng trên giường trước mặt mẹ, đã quay đi quay lại ba, bốn lần để mẹ Sơn ngắm áo. Sau cùng, mẹ Sơn vuốt các tà áo cho phẳng phiu, rồi đẩy Sơn ra, bảo:

- Thôi, con đi chơi.

Sơn xúng xính rủ chị ra chợ chơi. Nhà Sơn ở quay lưng vào chợ, cạnh một dãy nhà lá của những người nghèo khổ mà Sơn quen biết cả vì họ vẫn vào vay mượn ở nhà Sơn. Sơn biết lũ trẻ con các gia đình ấy chắc bây giờ đương đợi mình ở cuối chợ để đánh khăng, đánh đáo.

Không phải ngày phiên, nên chợ vắng không. Mấy cái quán chơ vơ lộng gió, rác bẩn rải rác lẫn với lá rụng của cây đề. Gió thổi mạnh làm Sơn thấy lạnh, và cay mắt. Nhưng chân trời trong hơn mọi hôm, những làng ở xa Sơn thấy rõ như ở gần. Mặt đất răn lại, và nức nẻ những đường nho nhỏ, kêu vang lên lanh tanh dưới nhịp guốc của hai chị em.

Đến cuối chợ đã thấy lũ trẻ đang quây quần chơi nghịch. Chúng nó thấy chị em Sơn đến đều lộ vẻ vui mừng, nhưng chúng vẫn đứng xa, không dám vồ vập. chúng như biết cái phận nghèo hèn của chúng vậy, tuy Sơn và chị vẫn thân mật chơi đùa với, chứ không kiêu kỳ và khinh khỉnh như các em họ của Sơn.

Thằng Cúc, con Xuân, con Tý, con Túc sán gần giương đôi mắt ngắm bộ quần áo mới của Sơn. Sơn nhận thấy chúng ăn mặc không khác ngày thường, vẫn những bộ quần áo nâu bạc đã rách vá nhiều chỗ. Nhưng hôm nay, môi chúng nó tím lại, và qua những chỗ áo rách, da thịt thâm đi. Mỗi cơn gió đến, chúng lại run lên, hàm răng đập vào nhau.

Thằng Xuân đến mó vào chiếc áo của Sơn, nó chưa thấy cái áo như thế bao giờ. Sơn lật vạt áo thâm, chìa áo vệ sinh và áo dạ cho cả bọn xem. Một đứa tắc lưỡi, nói:

- Cái áo này mặc thì nóng lắm. Chắc mua phải đến một đồng bạc chứ không ít, chúng mày nhỉ.

Đứa khác nói:

- Ngày trước thầy tao cũng có một cái áo như thế, về sau bán cho ông lý mất.

Con Túc ngây ngô giương đôi mắt lên hỏi Sơn:

- Cái này cậu mua tận Hà Nội phải không?

Sơn ưỡn ngực đáp:

- Ở Hà Nội, chứ ở đây làm gì có. Mẹ tôi còn hẹn mua cho tôi một cái áo len nhiều tiền hơn nữa kia.

Chị Lan bỗng giơ tay vẫy một con bé, từ nãy vẫn đứng dựa vào cột quán, gọi:

- Sao không lại đây, Hiên? Lại đây chơi với tôi.

Hiên là đứa con gái bên hàng xóm, bạn với Lan và Duyên. Sơn thấy chị gọi nó không lại, bước gần đến trông thấy con bé co ro đứng bên cột quán, chỉ mặc có manh áo rách tả tơi, hở cả lưng và tay. Chị Lan cũng đến hỏi:

- Sao áo của mày rách thế Hiên, áo lành đâu không mặc? Con bé bịu xịu nói:

Hết áo rồi, chỉ còn cái này.

- Sao không bảo u mày may cho?

Sơn bây giờ mới chợt nhớ ra là mẹ cái Hiên rất nghèo, chỉ có nghề đi mò cua bắt ốc thì còn lấy đâu ra tiền mà sắm áo cho con nữa. Sơn thấy động lòng thương, cũng như ban sáng Sơn đã nhớ thương đến em Duyên ngày trước vẫn cùng nói với Hiên đùa nghịch ở vườn nhà. Một ý nghĩ tốt bỗng thoáng qua trong trí, Sơn lại gần chị thì thầm:

- Hay là chúng ta đem cho nó cái áo bông cũ, chị ạ.

- Ừ, phải đấy. Để chị về lấy.

Với lòng ngây thơ của tuổi trẻ, chị Lan hăm hở chạy về nhà lấy áo. Sơn đứng lặng yên đợi, trong lòng tự nhiên thấy ấm áp vui vui.

Nhưng cái vui của Sơn không được bao lâu. Bữa cơm về tới nhà, Sơn không thấy mẹ đâu cả, hỏi vú già:

- Mợ tôi đi đâu hở vú?

- Chị Lan và cậu cứ ăn cơm trước đi. Mợ còn đi ăn giỗ đến trưa mới về.

Rồi vú già nhìn rõ vào mặt Sơn, hỏi:

- Có phải cậu đem cho con Hiên cái áo bông cũ phải không?

Sơn ngạc nhiên đáp:

- Phải. Nhưng sao vú biết?

- Con Sinh nó nói với tôi đấy (Sinh là đứa em họ của Sơn, vẫn hay nói hỗn với vú già, nên vú ấy ghét). Nó lại còn bảo hễ mợ về nó sẽ sang mách với mợ cho cậu phải đòn.

Sơn lo quá, sắp ăn, bỏ đũa đứng dậy, van:

- Thế bây giờ làm thế nào, hở vú? Mợ tôi biết thì chết.

- Ai bảo cậu dại dột đem cho áo nó? Bây giờ cậu sang bảo cái Hiên trả lại thì không việc gì.

Sơn vội vàng ra chợ tìm cái Hiên nhưng không thấy con bé ở đó. Đến nhà cũng không thấy ai, mẹ nó cũng không có nhà. Hai chị em lo sợ, đi ra cánh đồng tìm cũng không gặp. Gần đến buổi chiều, Sơn và chị chưa đòi được áo. Lan trách em:

- Sao em lại nghĩ đem cho nó cái áo ấy, có phải bây giờ mẹ mắng chết không.

- Ai bảo chị về lấy? Nếu chị không về lấy thì em biết đâu.

Chị Lan đấu dịu:

- Thôi, bây giờ phải về nhà vậy chứ biết làm thế nào.

- Nhưng mà em sợ lắm.

Chị Lan thở dài, nắm chặt lấy tay em, an ủi:

- Đằng nào cũng phải về cơ mà. May ra có lẽ me không mắng đâu.

Hai chị em lo lắng dắt nhau lẻn về nhà. Đến cửa, Sơn nghe thấy tiếng mẹ nói ở trong với tiếng một người đàn bà khác nữa, nghe quen quen. Lan dắt tay Sơn khép nép bước vào, hai chị em ngạc nhiên đứng sững ra khi thấy mẹ con Hiên đang ngồi ở cái ghế con trên đất trước mặt mẹ, tay cầm cái áo bông cũ.

Thấy hai con về, mẹ Sơn ngửng lên nhìn rồi nghiêm nghị bảo:

- Kìa, hai cô cậu đã về kia. Thế áo bông của tôi đâu mà tự tiện đem cho đấy?

Sơn sợ hãi, cúi đầu lặng im, nép vào sau lưng chị. Bác Hiên vừa cười vừa nói:

- Tôi về thấy cháu nó mặc cái áo bông tôi hỏi ngay. Nó bảo của cậu Sơn cho nó. Tôi biết cậu ở đây đùa, nên tôi phải vội vàng đem lại đây trả mợ. Thôi, bây giờ, xin phép mợ tôi về.
 
Từ ngẩng đầu lên nhìn Hộ ba lần. Ba lần, Từ muốn nói nhưng lại không dám nói. Hắn đang đọc chăm chú quá. Ðôi lông mày rậm của hắn châu đầu lại với nhau và hơi xếch lên một chút. Ðôi mắt sáng quắc có vẻ lồi ra. Cái trán rộng hơi nhăn. Ðôi lưỡng quyền (1) đứng sừng sững trên bờ hai cái hố sâu của má thì bóng nhẫy. Cả cái mũi cao và thẳng tắp cũng bóng lên như vậy. Cái mặt hốc hác ấy, nghiêng nghiêng bên trên quyển sách, trông khắc khổ đến thành dữ tợn. Từ thấy sợ...

Từ yêu chồng bằng một thứ tình yêu rất gần với tình của một con chó đối với người nuôi. Từ bản tính rất dịu dàng, rất tận tâm. Vả lại Hộ, đối với Từ, còn là một ân nhân nữa. Hộ đã cúi xuống nỗi đau khổ của Từ. Hộ đã cúi xuống và đã đưa một bàn tay cầm lấy cái bàn tay mềm yếu của Từ, giữa lúc Từ đau đớn không bờ bến: Từ bị tình nhân bỏ với một đứa con vừa mới đẻ. Gã tình nhân vô liêm sỉ (2) ấy, Từ đã yêu hắn bằng cả tấm lòng yêu lúc ban đầu. Từ đã tin như người ta tin một vị thần. Từ đã hiến mình một cách dè dặt tâm hồn và xác thịt. Và khi biết mình sắp có một đứa con, Từ không hề hối hận một mảy may: Từ rất bằng lòng. ấy thế mà hắn đã phụ từ, phụ một cách hèn nhát và khốn nạn, ngay chính vào lúc Từ cần đến hắn để bảo tồn sự sống và danh dự, lúc đứa con ra đời. Từ sửng sốt vô cùng. Từ không tin ở sự thật rành rành. Rồi khi sự sửng sốt qua thì Từ khóc. Từ khóc như mưa, khóc tưởng chẳng bao giờ còn lặng được. Từ khóc, và ôm con ngồi nhịn đói, bởi vì Từ chẳng còn biết trông cậy vào ai, trừ bà mẹ già mù và quanh năm nay ốm, mai đau, mà Từ vẫn phải nuôi. Bà mẹ già biết làm sao? Bà chỉ còn một cách là còn được ít nước mắt nào thì rỏ cả ra mà khóc với con, và cả mẹ lẫn con chỉ có một cách là khóc cho đến khi nào bao nhiêu xương thịt đều chảy ra thành nước mắt hết, để rồi cùng chết cả. Giữa lúc ấy thì Hộ mở rộng đôi cánh tay, đón lấy Từ. Hộ nuôi Từ, nuôi mẹ già, con dại cho Từ. Hộ nhận làm bố cho đứa con thơ. Vì muốn yên ủi Từ và cứu lấy danh dự của Từ, Hộ đã chính thức nhận Từ làm vợ. Rồi Hộ đứng ra làm ma cho bà mẹ Từ, khi bà cụ mất. Biết bao nhiêu là ân nghĩa! Từ có yêu Hộ đến đâu, có chịu khó đến đâu, có làm nô lệ cho Hộ suốt đời Từ nữa, thì cũng chưa đủ để đền ơn. Bởi thế, nên luôn mấy năm trời, Hộ thấy Từ là một người vợ rất ngoan, rất phục tùng, rất tận tâm. Và đáng lẽ thì Hộ phải sung sướng lắm.

Nhưng Hộ chỉ sung sướng được ít lâu thôi. Sau cái hành vi đẹp của hắn, và cái hành vi ấy được trả công bằng một tình yêu rất êm đềm, hắn chỉ còn nghĩ đến gia đình, chỉ cốt làm sao nuôi được gia đình. Hộ vốn nghèo. Hắn là một nhà văn, trước kia, với cách viết thận trọng của hắn, hắn chỉ kiếm được vừa đủ để một mình hắn sống một cách eo hẹp, có thể nói là cực khổ. Nhưng bấy giờ hắn chỉ có một mình. Ðói rét không có nghĩa lý gì đối với gã trẻ tuổi say mê lý tưởng. Lòng hắn đẹp. Ðầu hắn mang một hoài bão lớn (3). Hắn khinh những lo lắng tủn mủn về vật chất. Hắn chỉ lo vun trồng cho cái tài của hắn ngày một thêm nảy nở. Hắn đọc, ngẫm nghĩ, tìm tòi, nhận xét và suy tưởng không biết chán. Ðối với hắn lúc ấy, nghệ thuật là tất cả; ngoài nghệ thuật không còn gì đáng quan tâm nữa. Hắn băn khoăn nghĩ đến một tác phẩm nó sẽ làm mờ hết các tác phẩm khác cùng ra một thời... Thế rồi, khi đã ghép đời Từ vào cuộc đời của hắn, hắn có cả một gia đình phải chăm lo. Hắn hiểu thế nào là giá trị của đồng tiền; hắn hiểu những nỗi đau khổ của một kẻ đàn ông khi thấy vợ con mình đói rách. Những bận rộn tẹp nhẹp, vô nghĩa lý, nhưng không thể không nghĩ tới, ngốn một phần lớn thì giờ của hắn. Hắn phải cho in nhiều cuốn văn viết vội vàng. Hắn phải viết những bài báo để người ta đọc rồi quên ngay sau lúc đọc. Rồi mỗi lần đọc lại một cuốn sách hay một đoạn văn ký tên mình, hắn lại đỏ mặt lên, cau mày, nghiến răng vò nát sách và mắng mình như một thằng khốn nạn... Khốn nạn! Khốn nạn! Khốn nạn thay cho hắn! Bởi vì chính hắn là một thằng khốn nạn! Hắn chính là một kẻ bất lương! Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện. Chao ôi! Hắn đã viết những gì? Toàn những cái vô vị, nhạt nhẽo, gợi những tình cảm rất nhẹ, rất nông, diễn một vài ý rất thông thường quấy loãng trong một thứ văn bằng phẳng và quá ư dễ dãi. Hắn chẳng đem một chút mới lạ gì đến văn chương. Thế nghĩa là hắn là một kẻ vô ích, một người thừa. Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có... Hắn nghĩ thế và buồn lắm, buồn lắm! Còn gì buồn hơn chính mình lại chán mình? Còn gì đau đớn hơn cho một kẻ vẫn khát khao làm một cái gì nâng cao giá trị đời sống của mình, mà kết cục chẳng làm được cái gì, chỉ những lo cơm áo mà đủ mệt? Hắn để mặc vợ con khổ sở ư? Hắn bỏ liều, hắn ruồng rẫy chúng, hắn hy sinh như người ta vẫn nói ư? Ðã một vài lần hắn thấy ý nghĩ trên đây thoáng qua đầu. Và hắn nghĩ đến câu nói hùng hồn của một nhà triết học kia: "Phải biết ác, biết tàn nhẫn để sống cho mạnh mẽ". Nhưng hắn lại nghĩ thêm rằng: Từ rất đáng yêu, rất đáng thương, hắn có thể hy sinh tình yêu, thứ tình yêu vị kỷ đi; nhưng hắn không thể bỏ lòng thương; có lẽ hắn nhu nhược, hèn nhát, tầm thường, nhưng hắn vẫn còn được là người: hắn là người chứ không phải là một thứ quái vật bị sai khiến bởi lòng tự ái. Kẻ mạnh không phải là kẻ giẫm lên vai kẻ khác để thỏa mãn lòng ích kỷ. Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai mình. Và lại hèn biết bao là một thằng con trai không nuôi nổi vợ, con thì còn mong làm nên trò gì nữa?... Hắn tự bảo: "Ta đành phí đi một vài năm để kiếm tiền. Khi Từ đã có một số vốn con để làm ăn! Sự sinh hoạt lúc này chẳng dễ dàng đâu!". Từ khi đứa con này chưa kịp lớn lên, đứa con khác đã vội ra, mà đứa con nào cũng nhiều đẹn, nhiều sài, quấy rức, khóc mếu suốt ngày đêm và quanh năm uống thuốc. Từ săn sóc chúng đã đủ ốm người rồi, chẳng còn có thể làm thêm một việc khác nữa. Hộ điên người lên vì phải xoay tiền. Hắn còn điên lên vì con khóc, nhà không lúc nào được yên tĩnh để cho hắn viết hay đọc sách. Hắn thấy mình khổ quá, bực bội quá. Hắn trở nên cau có và gắt gỏng. Hắn gắt gỏng với con, với vợ, với bất cứ ai, với chính mình. Và nhiều khi, không còn chịu nổi cái không khí bực tức ở trong nhà, hắn đang ngồi bỗng đứng phắt lên, mắt chan chứa nước, mặt hầm hầm, vùng vằng đi ra phố, vừa đi vừa nuốt nghẹn. Hắn đi lang thang, không chủ đích gì. Rồi khi gió mát ở bên ngoài đã làm cái trán nóng bừng nguội bớt đi và lòng trút nhẹ được ít nhiều uất giận, hắn tạt vào một tiệm giải khát nào mà uống một cốc bia hay cốc nước chanh. Hắn tìm một người bạn thân nào để nói chuyện văn chương, ngỏ ý kiến về một vài quyển sách mới ra, một vài tên ký mới trên các báo, phác họa một cái chương trình mà hắn biết ngay khi nói là chẳng bao giờ hắn có thể thực hành, rồi lặng lẽ nghĩ đến cái tác phẩm dự định từ mấy năm nay để mà chán ngán. Hắn thừ mặt ra như một kẻ phải đi đày, một buổi chiều âm thầm kia, ngồi trong một làn khói nặng u buồn mà nhớ quê hương. Hắn cũng nhớ nhung một cái gì rất xa xôi... những mộng đẹp ngày xưa... một con người rất đáng yêu đã chẳng là mình nữa. Hắn lắc đầu tự bảo: "Thôi thế là hết! Ta đã hỏng! Ta đã hỏng đứt rồi". Và hắn nghĩ đến cái tên hắn đang mờ dần đằng sau những tên khác mới trồi ra, rực rỡ hơn... Rồi hắn ra về, thờ thẫn. Những sự bực tức đã chìm đi. Lòng hắn không còn sôi nổi nữa, nhưng rũ buồn...
 
Ít lâu nay, mỗi lần ra đi, Hộ không chỉ trở về buồn bã mà thôi. Hắn say mềm. Thường thường hắn đã ngủ một nửa ngay từ khi còn ở dọc đường; và vừa về đến nhà, chưa kịp thay quần áo, tháo giày, đã đổ như một khúc gỗ xuống bất cứ cái giường nào, ngủ say như chết. Từ phải chờ khi con ngủ mê, rón rén lừa con, dậy lại tháo giày, cởi quần tây cho hắn, luồn một cái gối xuống gáy hắn, và cố nhấc chân, nhấc tay hắn, đặt cho hắn nằm ngay ngắn lại... Nhưng cũng có đêm hắn chưa ngủ vội. Hắn lảo đảo bước vào nhà, mắt gườm gườm, đôi môi mím chặt. Hắn đi thẳng lại trước mặt Từ. Hắn cúi xuống, quắc mắt nhìn Từ, gõ gõ một ngón tay trỏ vào trán Từ và dọa như người ta dọa trẻ con:

- Ngày mai... mình có biết không?... Chỉ ngày mai thôi! Là tôi đuổi tất cả mấy mẹ con mình ra khỏi cái nhà này... Tôi đuổi tất, không chừa một đứa nào, kể cả con bé Thảo là con ngoan nhất... Mấy đứa kia đều đáng vật một nhát cho chết cả! Chúng nó chỉ biết ăn với hét! Cả con mẹ nữa, con mẹ là mình ấy... cũng đáng vật một nhát cho chết cả! Chúng nó chỉ biết ăn rồi ngồi ôm con như nhện ôm khư khư bọc trứng, không chịu làm thêm việc gì cho có tiền. Chỉ khổ thằng này thôi!

Hắn rít lên như vậy. Rồi hắn mím chặt môi, đôi mắt ngầu ngầu nhìn vào tận mắt Từ. Từ chẳng dám cãi nửa lời, chỉ lẳng lặng cúi mặt nhìn xuống, như một đứa trẻ con biết mình có lỗi khi nghe người ta quở phạt. Bởi vậy hắn trừng trộ một lúc rồi quay ra, loạng choạng cởi quần, cởi áo, hắn vất bừa bộn xuống giường. Rồi hắn tháo giày, quăng từng chiếc một vào một xó nhà. Có khi máy tay, hắn quăng cả những vật gì thấy trên bàn, rồi lải nhải mắng Từ về tội không biết thu dọn nhà cho gọn ghẽ. Hắn nói chán rồi đi ngủ. Bấy giờ Từ mới dám đứng lên, treo quần áo cho hắn lên mắc và thu dọn tất cả những thức hắn đã vứt lổng chổng ra đầy nhà.

Lần đầu, Từ sửng sốt. Từ chẳng hiểu ra sao. Từ đoán chồng nghe ai nói nên ghen bóng, ghen gió chi đây. Từ khóc suốt đêm và dự định sẵn những câu để sáng hôm sau nói. Nhưng sáng hôm sau, hắn không để cho Từ phải nói. Hắn bẽn lẽn kêu mình đã quá chén hôm qua, hỏi Từ về những thủ đoạn vũ phu của mình rất buồn cười, rồi xin lỗi Từ, hôn hít các con như một người cha tốt. Hắn tuyên bố từ giờ chừa rượu và giữ được khá lâu, nhưng rồi lại uống và say như lần trước để làm những trò vừa buồn cười, vừa đáng sợ như lần trước. Cứ thế mãi, Từ quen đi, không giận nữa. Nhưng Từ lờ mờ hiểu nỗi đau khổ mà có lẽ chính Từ đã gây ra cho chồng. Từ hiểu và Từ buồn lắm, buồn lắm lắm. Còn gì buồn cho bằng mình biết mình làm khổ cho người mà mình yêu? Nhưng Từ biết làm sao được? Ðã nhiều lần Từ muốn ẵm con đi. Ðã nhiều lần, Từ muốn bỏ liều con để đi làm, Từ muốn hy sinh. Nhưng lòng Từ mềm yếu biết bao! Từ là vợ! Từ là mẹ. Từ sống với những tình cảm thông thường của đàn bà. Từ rất yêu chồng và thường nhận ra rằng chồng Từ cũng yêu Từ, cũng muốn có Từ. Những khi Từ ốm đau chẳng hạn. Hộ lo xanh mắt và thức suốt đêm để trông coi thuốc thang cho vợ. Ðối với các con cũng vậy. Chỉ xa chúng mấy ngày, Hộ đã nhớ và lúc về thấy các con chạy ra reo mừng và nắm lấy áo mình, thường thường Hộ cảm động đến ứa nước mắt. Hắn hôn hít chúng vồ vập lắm... Biết đâu hắn sẽ sung sướng khi không con, không vợ? Từ nghĩ về hắn: nghĩ thế nhưng Từ cũng chẳng dám tìm cách mà xa hắn. Mới nghĩ đến sự xa hắn, Từ đã phải thổn thức đến bật tiếng khóc ra được rồi... Từ đành chỉ cố ngoan ngoãn hơn, đáng yêu hơn. Từ nhịn mặc, nhịn ăn để bớt những món tiêu. Từ thu xếp cửa nhà ngăn nắp, sạch sẽ, gọn gàng. Nhất là Từ hết sức ngăn những tiếng khóc, tiếng nô đùa của lũ con. Từ sợ cả nói với chồng. Bởi vậy ba lần nhìn chồng để toan nói, Từ thấy chồng đang đọc sách chăm chú quá, không dám nói lại cúi mặt xuống nhìn đứa con đang nằm trong lòng Từ.

CaoNhưng Hộ bỗng ngoảnh mặt lên. Hắn vừa gặp được một đoạn hay lắm nên ngừng đọc, ngẫm nghĩ và để cho cái khoái cảm ngân ra trong lòng. Ðôi mắt hắn, tuy mới rời trang sách đã nhìn ngay lại phía Từ. Hắn mỉm cười, Từ cũng mỉm cười. Hắn bảo:

- Này, Từ ạ... Nghĩ cho kỹ, đời tôi không đáng khổ mà hóa khổ, chính tôi làm cái thân tôi khổ, tôi mê văn quá nên mới khổ. ấy thế, mà tuy khổ thì khổ thật, nhưng thử có người giàu bạc vạn nào thuận đổi lấy cái địa vị của tôi, chưa chắc tôi đã đổi. Tôi cho rằng: những khi được đọc một đoạn văn như đoạn này, mà lại hiểu được tất cả cái hay, thì dẫu ăn một món ăn ngon đến đâu cũng không thích bằng. Sướng lắm! Sao thiên hạ lại có người tài đến thế? Mình tính: người ta tả cái cảnh một người nhớ quê hương chỉ mất có ba câu, đúng ba câu!... Mình có hiểu không? ... Ba câu giản dị một cách không ngờ mà hay được đến như thế này...

Hắn đọc lại đoạn văn. Hắn định nghĩa để Từ nghe. Hắn giảng giải cho Từ. Tuy Từ chẳng hiểu được bao nhiêu, nhưng cũng tin lời hắn lắm. Từ giữ mãi nụ cười hiền dịu trong khi nghe hắn nói. Khi hắn ngừng nói đã được một lúc khá lâu, Từ mới làm như chợt nhớ ra:

- Có lẽ hôm nay đã là mồng hai, mồng ba tây rồi, mình nhỉ?

- À phải! Hôm nay mồng ba... Giá mình không hỏi tôi thì tôi quên... Tôi phải đi xuống phố.

Từ nhắc khéo:

- Hèn nào mà em thấy người thu tiền nhà sáng nay đã đến...

Hộ sầm mặt lại:

- Tiền nhà... tiền giặt... tiền thuốc... tiền nước mắm... Còn chịu tất! Tháng vừa rồi tiêu tốn quá, mới mồng mười đã hết tiền. May mà còn có đất mua chịu được.

Hắn nghĩ đến món tiền hắn đã tiêu phí mấy hôm đầu tháng. Mỗi lần hắn bực tức hay chán nản, hắn lại đi uống rượu, thành thử hết tiền sớm. Từ không hé môi phàn nàn nửa tiếng, nhưng cả tháng Từ ăn và bắt các con ăn kham khổ, thường thường đói nữa! Quà sáng thì bỏ hẳn, có khi bữa tối cũng chịu nhịn cơm, ăn cháo. Hộ trông thấy thế, thương vợ, thương con quá, và ân hận vì mình đã tiêu quá trớn. Bởi vậy suốt từ mồng mười đến hết tháng, hắn không ra khỏi nhà để chẳng phải tiêu thêm tí gì...

Hắn vừa mặc quần áo, vừa nhắc thầm trong trí:

- Nhất định hôm nay không đi đâu cả... Lấy tiền xong là về ngay...

Nhưng Từ bảo:

- Mình đi phố thì đi ăn nhé. Còn có ít gạo chỉ đủ cho lũ trẻ. Em chả đong thêm nữa, để mai trả tiền rồi lấy thêm luôn một thể... Em không để cơm mình đâu đấy... Nhà chẳng còn gì ăn...

Hộ hơi cau mày. Bởi vì hắn sợ bước vào tiệm ăn lắm. Hắn có thể gặp ở đây một vài người bạn... và khi ấy thì... ôi thôi! Mặc kệ gia đình và những cái gì còn lại!... Hắn sẽ uống rất khỏe, nói toàn những chuyện vá trời lấp biển, rồi đi la cà đến hết đêm mới về. Hắn nghĩ ngợi một chút rồi hắn bảo:

- Ðược! Tôi sẽ mua cái gì về để cả nhà cùng ăn.

- Ðừng phiền nữa! Em cứ cho chúng nó ăn cơm trước rồi đi ngủ.

- Ðừng ăn trước... Ðợi tôi đem thức ăn về, ăn một thể. Tôi về sớm. Cả tháng chúng nó đói khát, khổ sở, hôm nay có tiền cũng nên cho chúng nó một bữa ăn ra hồn.

- Vẽ chuyện!

Hắn mỉm cười, đáp lại. Hắn lại gần Từ, cúi xuống nắm lấy tay đứa bé và gọi nó. Mặt hắn và mặt Từ ghé sát. Hắn cố ý khẽ chạm môi mình vào má Từ một cái. Từ vờ giũ mấy cái bụi ở tay áo hắn. Vợ chồng nhìn nhau âu yếm. Hắn vuốt má Từ một cái rồi ra đi.

Ở tòa báo ra, Hội đi thẳng tới một hiệu thịt quay. Hắn định mua mấy hào thịt, vài cái bánh tây, gói đem về. Lòng hắn sáng bừng. Hắn tưởng tượng ra cái cảnh lũ con háu ăn và đói khát, rón thịt bằng tay và ăn những miếng bánh thật to, miệng phụng phịu và môi bóng nhờn những mỡ. Cái cảnh thô tục và cảm động! Hắn sẽ cười thỏa thích. Còn Từ sẽ ngồi bên hắn mà nhìn chúng, đôi mắt sung sướng và thương hại loang loáng ướt... Ðến trước cửa hiệu thịt quay, Hộ dừng lại. Hắn cẩn thận nhìn trước, nhìn sau, trước khi vào. Một người quen có thể đi qua, và nếu họ bắt gặp hắn đang cố nhét một gói thịt vào túi áo!... Không! Không có gì đáng ngại, ngoài đường phố... Nhưng trong hiệu, một thiếu nữ đẹp đang mặc cả... Hắn đành đợi vậy. Trong khi đợi, hai tay chắp sau lưng, hắn làm ra vẻ đợi một người bạn vừa vào một nhà nào gần đấy. Bỗng một bàn tay đập vào vai khiến hắn giật mình quay lại. Trung nhếch cười lặng lẽ và Mão cười ầm ĩ, cùng đưa tay cho hắn bắt:

- Mải ngắm nàng thơ nào mà ngây người ra thế?

Hộ ấp úng:

- À! Các anh!...

- Không theo gót sen nào đấy chứ?

- Cái ấy không quan hệ! Thi sĩ là người giữ được mình trẻ mãi và đến muôn năm cũng vẫn còn trinh bạch.

- Cũng may tôi lại cũng không là thi sĩ nốt.

- Nghĩa là chẳng theo nàng nào cả?

- Chẳng theo nàng nào cả!

- Thế thì đi theo hai thằng này!

Hộ nhìn Trung và Mão một thoáng rồi mới hỏi:

- Làm chi?

- Chẳng làm chi cả!

- Thế thì đệ kiếu. Ðệ phải về kẻo hết tàu điện.

Trung cau mày nhìn Hộ một cách kinh ngạc và khinh bỉ:

- Sao lại có người điên đến thế? Về giữa lúc chiều thì đẹp mà phố thì vui thế này!

Hộ trở nên đứng đắn:

- Không đùa nữa... Thật ra thì tôi có việc phải về, thế thôi.

- ờ! Nói vậy còn dễ nghe... Thôi thế anh về nhé!... Nhưng mà... này! Anh đã biết gì chưa?

Hộ đã toan đi, quay đầu lại nhìn Trung...

- "Ðường về" sắp được dịch ra tiếng Anh đấy nhé! Bản quyền (4) tác giả ba nghìn đồng.

Hộ trợn mắt lên. Người hắn bổi hổi. Một lúc lâu hắn mới hỏi được Trung:

- Có đích không?

- Ðích xác rồi. Chính Quyền đưa cái thư điều đình cho chúng tôi xem.

Hộ có vẻ hoài nghi:

- Không mà lại!... Tôi biết lắm... Nhưng lại đằng này đã, về làm gì vội? Chúng mình làm cốc bia...

Hộ đã quên hẳn vợ con. Hắn chỉ còn háo hức muốn biết thêm về việc quyển "Ðường về" của Quyền được dịch ra tiếng Anh. Hắn bám lấy Mão và Trung. Ba người vào một tiệm giải khát ở Bờ Hồ. Và chỉ độ nửa giờ sau, Mão và Trung đã thấy Hộ đỏ tai, giộng một cái vỏ chai bia xuống mặt bàn:

- Cuốn "Ðường về" chỉ có giá trị địa phương thôi, các anh có hiểu không? Người ta dịch nó vì muốn biết phong tục của mọi nơi. Nó chỉ tả được cái bề ngoài của xã hội. Tôi cho là xoàng lắm! Một tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên bên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái (5), sự công bình... Nó làm cho người gần người hơn. Như thế mới thật là một tác phẩm hay, các anh có hiểu không? Tôi chưa thất vọng đâu! Rồi các anh xem... Cả một đời tôi, tôi sẽ chỉ viết một quyển thôi, nhưng quyển ấy sẽ ăn giải Nobel (6) và dịch ra đủ mọi thứ tiếng trên hoàn cầu!

Trung gật gù cười, vẫn cái cười lặng lẽ của y. Mão thì cười hô hố. Hộ không cười, mặt căng lên vì hứng khởi (7). Hắn nói say sưa lắm. Và đến lúc đèn phố bật, Trung và Mão muốn về, Hộ bảo luôn:

- Thong thả đã! Ði đâu mà vội? Chúng mình đi uống rượu... Tôi có tiền...
 
Sáng hôm sau. Hắn thức dậy trên cái giường nhà hắn. Hắn thấy mình mẩy đau như dần, đầu nặng, miệng khô và đắng. Cổ thì ráo và rát cháy. Hắn đưa tay với ấm nước ở trên bàn để uống. ấm nước đầy và nước hãy còn ấm. Ðó là sự ý tứ của Từ. Hộ hiểu thế, và lòng buồn nao nao. Bởi hắn lờ mờ nhớ ra rằng: hình như đêm qua hắn say rượu, đi la cà chán rồi về, lại gây sự với Từ; hình như hắn lại đánh cả Từ, đuổi Từ đi, rồi mới đóng cửa lại và đi ngủ... Hắn đột nhiên hoảng sợ, nhổm dậy, mắt nhớn nhác tìm Từ. Nhưng không! Từ vẫn còn nhà... Chắc hẳn trong lúc quá say, hắn gài cửa nhưng chưa gài được, thành thử khi thấy hắn ngủ mệt rồi, Từ lại bế con vào. Bây giờ Từ đang thiếp đi trên võng, đứa con nhỏ nằm bên. Từ vốn dậy sớm quen. Sáng nay, chắc Từ mệt quá, vừa mới lịm đi, nên mới ngủ trưa như thế. Ðầu Từ ngoẹo về một bên. Một tay Từ trật ra ngoài mép võng, sã xuống, cái bàn tay hơi xòe ra lỏng lẻo. Dáng nằm thật là khó nhọc và khổ não. Hắn bùi ngùi. Chao ôi! Trông Từ nằm thật đáng thương! Hèn chi mà Từ khổ cả một đời người! Cái tướng vất vả lộ ra cả đến trong giấc ngủ. Hộ nhớ ra rằng: một đôi lúc, nếu nhìn kỹ thì Từ khó mặt lắm. Ðột nhiên Hộ nảy ra ý muốn lại gần Từ, nhìn kỹ xem mặt Từ lúc bây giờ ra sao? Hắn rón rén, đi chân không lại. Hắn ngồi xổm ngay xuống đất, bên cạnh võng và cố thở cho thật khẽ. Hắn ngắm nghía mặt Từ lâu lắm. Da mặt Từ xanh nhợt; môi nhợt nhạt; mi mắt hơi tim tím và chung quanh mắt có quầng, đôi má đã hơi hóp lại khiến mặt hơi có cạnh. Hộ khẽ thở dài và lắc đầu ái ngại. Hắn dịu dàng nắm lấy tay sã xuống của Từ. Cái bàn tay lủng củng rặt những xương! Trên mu bàn tay, những đường gân xanh bóng ra, làn da mỏng và xanh trong, xanh lọc. Cái cổ tay mỏng manh. Tất cả lộ một cái gì mềm yếu, một cái gì ẻo lả, cần được hắn che chở và bênh vực... một vẻ bạc mệnh, một cái gì đau khổ và chật vật, cần được hắn vỗ về an ủi... Thế mà hắn đã làm gì để cho đời Từ đỡ khổ hơn? Hắn đã làm gì để cho Từ khỏi khổ? Nước mắt hắn bật ra như nước một quả chanh mà người ta bóp mạnh. Và hắn khóc... Ôi chao! Hắn khóc! Hắn khóc nức nở, khóc như thể không ra tiếng khóc. Hắn ôm chặt lấy cái bàn tay bé nhỏ của Từ vào ngực mình mà khóc. Từ thức dậy, Từ hiểu ngay, không cần hỏi một câu nào cũng hiểu. Và Từ cảm động. Mắt Từ giàn giụa nước. Từ khẽ rút tay ra, vòng lên cổ chồng, nhẹ nhàng núi hắn vào, để hắn gục đầu lên cạnh ngực Từ. Hắn lại càng khóc to hơn và cố nói qua tiếng khóc:

- Anh... anh... chỉ là... một thằng... khốn nạn!...

- Không!... Anh chỉ là một người khổ sở!... Chính vì em mà anh khổ...

Từ bảo thế. Tay Từ níu mạnh hơn một chút. Ngực Từ thổn thức. Từ chực ngả đầu sát vào vai Hộ. Nhưng đứa con, bị giằng, khóc thét lên. Từ vội buông chồng ra để vỗ con. Tiếng vẫn còn ướt lệ, Từ dỗ nó:

- A! Mợ đây! Mợ đây mà! Ôi chao! Con tôi nó giật mình... Mợ thương...

Hộ đã tránh chỗ để Từ đưa võng... Từ vừa đưa vừa hát:

Ai làm cho gió lên giời,

Cho mưa xuống đất, cho người biệt li;

Ai làm cho Nam, Bắc phân kỳ,

Cho hai hàng lệ đầm đìa tấm thân...
 
Năm 1926, nước to, đê vỡ tứ tung, nhân dân bêu rếch, khổ sở. Nhất là khi nước đã rút rồi, trông cảnh tượng mới lại càng đáng ngậm ngùi nữa.


Cỏ tàn khắp cánh đồng xa,
Bên làng hoang huỷ mấy nhà lơ thơ,
Đầu đường mẹ bế con thơ,
Người tìm sang Bắc, kẻ đưa về Đoài.

Bởi thế, bác Lan luôn mấy tháng, nào nhà đổ, nào trâu chết, nào đất bán, nào ruộng cầm. Gia tài tuy chẳng được là bao, nhưng đến cái cảnh tai bay vạ gió mà sạch sành sanh, thì dẫu ông vua đời xưa mất nước, hay thằng bé bây giờ mất tiền, cái tâm lý cũng đau đớn ngang nhau vậy.

Không những thế, vợ bác lại mới chết về bệnh dịch, để cho bác một dứa con trai mới biết ngồi. Cái cảnh gà sống không còn mồi mà nuôi con mới đáng đau lòng. Bác Lan thực là một thằng khốn nạn vậy.

Đêm hôm trước, bác ngồi nghĩ mà rớt nước mắt. Của chìm của nổi đã không còn gì, nhịn cơm từ sáng nhường con đã lả cả dạ dày. Nếu mai cũng thế này nữa, thì bố chết đói, con chết đói. Âu là trong nhà còn một thứ của nổi nữa, đem bán nốt đi chăng?

Bác Lan nghĩ thế thì làm thế. Bác xin được cái thúng sứt cạp bện đôi quang và chẻ cái đòn gánh. Sáng sớm, gánh thằng bé con đi. Một bên quang là một tảng gạch để thăng bằng thúng hàng bên kia. Một bên quang là một cái thúng đựng hàng. Trên cái thúng, tùm hum manh chiếu rách che hàng cho đỡ nắng.

Bác đi lang thang làng này, làng khác, qua chợ nọ, chợ kia. Nhưng chỉ thấy có người xem, mà không thấy có người mua.

Bác Lan đói quá, mắt đã mờ. Thằng bé con trần truồng trong thúng, nằm ngả ra, mồm miệng bê bết những dãi, mũi và vỏ khoai lang. Đi đường, bác gặp toàn bọn khóc dở mếu dở như bác cả. An ủi nhau cũng chỉ có một câu:

- Này, bác đến nhà ông nghị Trinh, may ông ấy hiếm hoi, thì ông ấy mua cho.

Đi lần mãi mấy làng, bác mới đến nhà ông nghị Trinh. Trời đã sắp xẩm tối. Đứng ở cổng, trông vào trong nhà, bác thấy gạch tây đánh bóng lộn, sập gụ, tủ chè, gương đứng, giường tây, thật có vẻ đỉnh chung sung sướng.

Bác Lan đánh liều gọi cổng. Anh bếp ở trong chạy ra:

- Nhờ cậu vào bẩm với ông bà rằng có người bán con đương ở cổng.

Cậu bếp hỏi han một vài điều ra dáng tử tế, săn sóc, nhanh nhẹn lắm, rồi mới đi vào.

Bác Lan, vì cái đói khát cấp bách quá, nên tưởng tượng ngay độ dăm phút nữa thì bụng sẽ được no đầy. Nhưng tưởng tượng thế là lầm. Độ một giờ sau, bác thấy một người mặt mũi phương phi, cổ rụt, bụng phệ môi trề mà không râu, mặc quần áo lụa, phe phấy cái quạt, ra vườn chơi.

Bác đoán là ông Nghị, bèn đánh tiếng. Thì quả là ông Nghị thực. Vì nghe giọng nói hách dịch lắm:

- Sao không giật chuông gọi người nhà nó vào bẩm?

Bác Lan kể nỗi cơ cực, và ngỏ ý dạm bán đứa con. Ông Nghị nhìn qua bác, nhìn qua đứa bé, rồi nói:

- ừ, để rồi tao nói chuyện với bà sẽ hay. Chờ đây, tao ra ngay.

Nghe câu ấy, bác Lan tuy trong bụng lép kẹp, nhưng thấy như được no một nửa vậy.

Hơn nửa giờ nữa, ông bà Nghị mới ra.

Bác Lan chào, rồi cũng những câu khi nãy, bác nói với bà Nghị. Bà Nghị ra ý cảm động. Bà bế đứa con vào lòng, ngắm nghía mãi.

Ông Nghị thấy bà có vẻ vừa ý, bèn hỏi giá:

- Mày định bán bao nhiêu, nói cho thực.

- Bẩm tùy ông bà cho.

Người bán không nói giá, người mua không biết giá, thì làm thế nào? Độc giả các ngài đánh giá hộ đi? Một người như chúng ta đấy, khéo nuôi, khéo dạy, thì chưa biết chừng, vĩ nhân cũng nên đấy. Một trăm nhé! Hai trăm nhé! Năm trăm nhé!

Ông Nghị thấy bác Lan lưỡng lự, không muốn nói giá, thì đương ngồi xổm ở trước cái thúng, bỗng ông đứng phắt dậy:

- Đáng lẽ anh cho không tôi, tôi cũng không lấy, vì tôi phải nuôi nó cho anh. Nhưng thôi, việc phúc đức, tôi cho anh ba hào, cầm lấy!

Vừa nói, ông vừa móc túi lấy tiền đưa. Bác Lan gãi tai thở dài. Có lẽ không ngờ đâu cái giá trị một thằng bé con có thế mà thôi.

- Thưa ông...

- Tôi không nói lôi thôi. Ông với ênh gì! Tôi không quen mặc cả. Ba hào không bán thì thôi!

Nói xong ông quay lưng vào, gọi bà đi, và đóng cổng lại.

Bác Lan vơ vẩn nghĩ ngợi mãi. Chờ mãi cũng không thấy có người ra trả thêm xu nào.

Nửa giờ sau, bác không thể nào nhịn nổi được cái dạ dạy rỗng tuếch từ hôm trước. Thôi thì ba hào thì ba. Con mình được chỗ ấm no nương tựa, còn hơn là bố con bêu rếch, xó chợ đầu đường. Nghĩ vậy, bác giật chuông. Một lát, ông Nghị ra.

- Thế nào? Anh có định bán như thế không mà gọi?

- Thôi, lạy ông, ông thương phận nào, con nhờ phận ấy.

- Thương là thế nào! Nói cho dứt khoát. Bằng lòng bán ba hào không?

Bác Lan mỉm miệng, gượng cười một cách rất chua chát:

- Vâng!

Ông Nghị đưa bác vào trong nhà. Làm giấy má xong, ông còn xem xét đứa bé rất kỹ càng. Khi thấy sau lưng nó có nhiều nốt ruồi quá, thì ông có ý không bằng lòng, chê bai mãi rằng xấu. Xấu thì phải bớt tiền. Cho nên khi trả, ông không cho bác cả ba hào, mà phạt hai xu nốt ruồi!

Bác Lan lạy van mãi. Nhưng bác nghĩ, nếu cố nằn nì hai xu, thì chưa chắc đã được, mà không khéo thì bị trả tiền lại. Nghĩ nực cười, mình đã khốn nạn, lại gặp phải một thằng khốn nạn hơn, thì thôi, chịu cầm hai hào tám vậy.

Bác bế đứa con lần cuối cùng, hôn hít, dặn dò mãi, mới dứt. Khi ra ngoài cổng, bác đi không nỡ, tình cha con vướng vít, bác nghĩ muốn trả lại hai hào tám mà lấy con về.

Bác đứng lại, quay nhìn trong nhà ông Nghị, thì thấy kẻ bưng chậu nước, người lấy xà phòng, người tìm khăn mặt. Bà Nghị thì tự tay tắm cho đứa bé, ra dáng âu yếm, nâng niu. Bác nhìn mà cũng hả tấm lòng, nỗi đau đớn cũng như tiêu tan vậy.

Còn ông Nghị, hai mắt vẫn nhìn cái lưng nốt ruồi, nét mặt còn như tiếc món tiền tiêu vô ích khi nãy. Một chốc, ông ra ý hối hận, nói với vợ:

- Bà ạ, hoài của, giá bớt hẳn năm xu, nó cũng phải chịu.

- Sao ông nghiệt thế! Tiền hàng vạn lo nghị viên không tiếc, mà mấy xu này lại tiếc hay sao?

Ông Nghị đang tức hơi, phát gắt mà rằng:

- Tiêu những món đáng tiêu thì còn tiếc cái gì! Thằng bếp đâu! Mày chạy đi tìm thằng bán con ban nãy, bảo nó giả tiền tao mà lấy lại con lập tức!

Bác Lan giật nẩy mình, co cẳng, ù té chạy bán sống bán chết, vừa chạy vừa đếm:

- Một, hai. Một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám...
 
Đan Bình là cô bạn gái mà tôi theo đuổi mấy năm nay. Cô chẳng những có năng lực lại rất xinh đẹp, biết săn sóc người khác, thu nhập chẳng hề kém tôi. Tôi cảm thấy đã đến lúc cầu hôn với cô được rồi.

Khi tôi dò ý cô, cô bất ngờ lại lạnh nhạt đáp:

- Chúng mình cứ thế này chẳng tốt hơn hay sao?

Có cái gì đó nổ đánh ùng trong óc tôi, khiến tôi suýt ngất đi. Nghe người ta nói, yêu nhau mà không chịu kết hôn thì có đến tám, chín phần mười là muốn bai bai. Lẽ nào Đan Bình lại chê tôi? Theo tôi, Đan Bình tuy là nữ kiệt trong lứa các cô, mặt nào cũng khá ưu tú nhưng tôi nào có kém cạnh cô điểm gì? Trình độ học vấn của tôi ngang cô, tướng mạo của tôi đủ tiêu chuẩn đàn ông, tiền gửi ngân hàng của tôi đủ để mua nhà cho cô và điều quan trọng hơn nữa là tôi có trái tim chỉ dành cho cô. Thế là tôi bảo cô, tôi quyết không chịu buông lơi sự cố gắng cuối cùng, cho tới khi nào thất bại triệt để mới thôi.

Đương nhiên Đan Bình bắt đầu xa lánh tôi. Cô đủng đỉnh với những lời thăm hỏi tôi gửi đến cho cô, từ chối khéo những lời hẹn hò nhiệt tình của tôi. Càng ngày tôi càng cảm thấy tình hình bất lợi liền hỏi thẳng cô:

- Đan Bình, phải chăng em đã có người tình khác?

Không ngờ Đan Bình cũng trả lời chắc nịch:

- Đúng thế.



Như bị một đòn côn ngầm, tôi hầu như đứng không vững. Một lúc sau, cố nuốt nước mắt, tôi tỏ ra rất có giáo dục nói:

- Đan Bình, chúng mình thân nhau đã ba năm, anh tin rằng anh là người yêu em nhất, hơn nữa anh còn là người thích hợp với em nhất. Đan Bình, em suy nghĩ thêm đi!

- Anh tưởng anh là người ưu tú nhất chăng? - Đan Bình trả đũa.

- Ít nhất thì trong số người muốn cưới em, anh là người ưu tú nhất.

Đan Bình bèn ngửa cổ cười ha ha, tiếng cười đó khiến tôi đỏ mặt, chẳng hiểu ra sao. Chưa chịu thôi, tôi bảo cô:

- Em đưa bạn mới của em đến làm quen với anh đi! Nếu cậu ta hơn anh dù chỉ một điểm nào đó thì anh rút lui, cam chịu thua cuộc và thật lòng chúc hai người hạnh phúc!

Đan Bình đưa cậu "tình địch" ấy của tôi đến thật, mà cậu ta còn đi bằng xe hơi Santana nữa chứ! Vừa nhìn thấy, người tôi đã nguội lạnh: Cậu ta cao to mà điển trai, ngẩng đầu, ưỡn ngực bước tới trước mặt tôi, hơn nữa còn rất lịch sự: Mỉm cười giơ tay: "Chào anh!", tôi đành phải lịch sự giơ tay, đáp lại: "Rất vui được làm quen với anh!".

Trong quán trà, hai chúng tôi ngồi đối diện nhau, còn Đan Bình thì ngồi sát bên người bạn trai mới, ra vẻ quyến luyến nhau lắm. Tôi chỉ còn biết ngậm đắng nuốt cay bắt chuyện với cậu ta:

- Nghe Đan Bình nói, anh là tiến sĩ ngành tài chính, hơn nữa còn tu nghiệp ở Anh đến hai năm. Xin hỏi, hiện nay anh làm việc ở đâu?

- Tôi làm ở một công ty nước ngoài, công việc chủ yếu là liên hệ nghiệp vụ với đối tác Âu Mỹ.

- Chà, năng lực ấy quả không tồi! Như thế là anh thường xuất ngoại chứ?

- Đương nhiên rồi! - Cậu tình địch tự hào nói - Tôi còn định tuần sau đưa Đan Bình sang Mỹ du lịch một chuyến... À, đúng rồi, xin mời anh tới chơi biệt thự của tôi, ở khu...

Tôi không sao nghe tiếp được nữa. Tôi tỏ ra bình tĩnh nhưng sông cuộn biển dâng trong lòng, không làm sao ngăn nổi. Trong lúc bối rối ấy, tôi bèn ra chiêu sát thủ cuối cùng:

- Anh giỏi giang như thế, hẳn là có nhiều cô gái theo đuổi lắm nhỉ? Xin hỏi, anh thật lòng yêu Đan Bình và tình nguyện bảo vệ cô ấy suốt đời chứ?

- Điều ấy còn cần gì phải hỏi nữa? - Cậu tình địch khinh thường đáp - Anh nói đúng đấy, các cô chủ động theo đuổi tôi nhiều lắm, nhưng chỉ riêng với Đan Bình là tôi vừa gặp đã ưng ngay. Tôi nhận thấy về mặt nào Đan Bình cũng giỏi, cô ấy đúng là người mà tôi để tâm tìm kiếm lâu nay. Tôi cũng không biết vì nguyên nhân gì khác nữa, có lẽ đó là do duyên phận. Có phải thế không, Đan Bình?

Đan Bình hắng giọng một tiếng rồi ý nhị gật đầu với cậu ta. Đôi mắt tràn trề tình cảm ấy tôi nào có xa lạ gì, nhưng bây giờ cô đã dành cho người khác không chút tiếc nuối.

Vì quá yêu mà đâm ra hận, cuối cùng tôi đã mất hết lý trí, nghiến răng bảo Đan Bình:

- Như thế là cô tham quý phụ bần, có thịt lợn thì bỏ đậu phụ, phải không nào?

Đan Bình "hử" một tiếng, nói:

- Xin lỗi, đó là tự do và quyền được lựa chọn của tôi. Anh có giỏi thì cứ kiếm "thịt lợn" đi!

- Cô... - Tôi trừng mắt lên nói.

Cậu tình địch của tôi phối hợp rất ăn ý, vội vàng đứng lên dang tay ngăn tôi lại:

- Kim tiên sinh, bình tĩnh lại đi! Tình yêu phải là hai chiều. Nếu chỉ còn một chiều là miễn cưỡng thì hỏi còn ý nghĩa gì nữa? Hai bên đến với nhau được thì cũng xa nhau được, sau này vẫn là bạn của nhau, hà tất phải làm căng quá. Hơn nữa, anh cũng là người rất thông minh, nên nghĩ thoáng hơn chút. Không chừng sau khi chia tay, anh sẽ gặp được cô gái càng khiến anh chung tình hơn nữa đấy!

- Anh là cái đồ gì mà dám lên mặt dạy đời? - Tôi gầm lên - Hai người chẳng qua là bọn coi tình cảm chân thành như trò chơi mà thôi.

Tôi biết không sao cứu vãn được nữa bèn đứng lên đi thẳng ra cửa. Chạy một quãng khá xa tôi mới dừng lại dưới gốc một cây to, để mặc cho nước mắt tràn trề...

Không biết qua đi bao lâu, bỗng sau lưng có tiếng đàn ông gọi:

- Kim tiên sinh, xin bớt đau buồn, thuận theo sự thay đổi...

Tôi ngoảnh đầu lại nhìn, thì ra đó là gã tình địch của tôi. Hắn từ trong xe hơi chui ra, chìa tay nói:

- Đây là danh thiếp của tôi, khi nào cần đến xin cứ gọi.

Tôi liếc mắt nhìn tấm danh thiếp, bỗng nhìn thấy mấy chữ: "Công ty cho thuê tình địch".

- Thế này là sao?

- Xin chớ hiểu lầm. Tôi là nhân viên của công ty cho thuê tình địch. Nếu sau này ông có bạn gái thì chúng ta sẽ cần đến nhau. Chẳng hạn, ông muốn chia tay với bạn gái thì thuê một cô xinh hơn bạn gái làm tình địch của cô ấy, thì bạn gái ông sẽ cảm thấy mình kém cỏi hơn mà tự biết rút lui. Còn nếu ông muốn cưới cô ấy thì hãy thuê một cô cũng xinh bằng hoặc kém xinh hơn một chút làm tình địch của cô ấy. Như thế, cô ấy phải chịu một áp lực, biết rằng không mau mau thì mất đi cơ hội và như thế cô ấy hẳn sẽ trở thành bạn đời chung gối với ông. Công ty chúng tôi có sẵn các chàng trai và cô gái, thoả mãn được tất cả mọi yêu cầu, hơn nữa còn có sẵn cả biệt thự, xe hơi cùng mọi đạo cụ cần thiết khác...

- Thì ra là như thế! - Tôi gào lên như thằng điên - Sao các anh không sớm đến gặp tôi?
 
Lão Hạc thổi cái mồi rơm, châm đóm. Tôi đã thông điếu và bỏ thuốc rồi.

Tôi mời lão hút trước. Nhưng lão không nghe...

- Ông giáo hút trước đi.

Lão đưa đóm cho tôi...

- Tôi xin cụ...

Và tôi cầm lấy đóm, vo viên một điếu. Tôi rít một hơi xong, thông điếu rồi mới đặt vào lòng lão. Lão bỏ thuốc, nhưng chưa hút vội. Lão cầm lấy đóm, gạt tàn, và bảo :

- Có lẽ tôi bán con chó đấy, ông giáo ạ!

Lão đặt xe điếu, hút. Tôi vừa thở khói, vừa gà gà đôi mắt của người say, nhìn lão, nhìn để làm ra vẻ chú ý đến câu nói của lão đó thôi. Thật ra thì trong lòng tôi rất dửng dưng. Tôi nghe câu ấy đã nhàm rồi. Tôi lại biết rằng : lão nói là nói để có đấy thôi ; chẳng bao giờ lão bán đâu. Vả lại, có bán thật nữa thì đã sao? Làm quái gì một con chó mà lão có vẻ băn khoăn quá thế..

Lão hút xong, đặt xe điếu xuống, quay ra ngoài, thở khói. Sau một điếu thuốc lào, óc người ta tê dại đi trong một nỗi đê mê nhẹ nhõm. Lão Hạc ngồi lặng lẽ, hưởng chút khoái lạc con con ấy. Tôi cũng ngồi lặng lẽ. Tôi nghĩ đến mấy quyển sách quý của tôi. Hồi bị ốm nặng ở Sài Gòn tôi bán gần hết cả áo quần, nhưng vẫn không chịu bán cho ai một quyển. ốm dậy, tôi về quê, hành lý chỉ vẻn vẹn có một cái va-ly đựng toàn những sách. Ôi những quyển sách rất nâng niu! Tôi đã nguyện giữ chúng suốt đời, để lưu lại cái kỷ niệm một thời chăm chỉ, hăng hái và tin tưởng đầy những say mê đẹp và cao vọng : mỗi lần mở một quyển ra, chưa kịp đọc dòng nào, tôi đã thấy bừng lên trong lòng tôi như một rạng đông, cái hình ảnh tuổi hai mươi trong trẻo, biết yêu và biết ghét... Nhưng đời người ta không chỉ khổ một lần.

Mỗi lần cùng đường đất sinh nhai, và bán hết mọi thứ rồi, tôi lại phải bán đi một ít sách của tôi. Sau cùng chỉ còn có năm quyển, tôi nhất định, dù có phải chết cũng không chịu bán. ấy thế mà tôi cũng bán! Mới cách đây có hơn một tháng thôi, đứa con nhỏ của tôi bị chứng lỵ gần kiệt sức... Không! Lão Hạc ơi! Ta có quyền giữ cho ta một tý gì đâu? Lão quý con chó vàng của lão đã thấm vào đâu với tôi quý năm quyển sách của tôi... Tôi nghĩ thầm trong bụng thế. Còn Lão Hạc, lão nghĩ gì? Ðột nhiên lão bảo tôi :

- Này! Thằng cháu nhà tôi, đến một năm nay, chẳng có giấy má gì đấy, ông giáo ạ!

À! Thì ra lão đang nghĩ đến thằng con lão. Nó đi cao su năm sáu năm rồi. Hồi tôi mới về, nó đã hết một hạn công-tác. Lão Hạc, đem thư của nó sang, mượn tôi xem. Nhưng nó xin đăng thêm hạn nữa... Lão vội cắt nghĩa cho tôi hiểu tại sao lão đang nói chuyện con chó, lại nhảy vọt sang chuyện thằng con như vậy :

- Con chó là của cháu nó mua đấy chứ!... Nó mua về nuôi, định để đến lúc cưới vợ thì giết thịt...

Ấy! Sự đời lại cứ thường như vậy đấy. Người ta đã định rồi chẳng bao giờ người ta làm được. Hai đứa mê nhau lắm. Bố mẹ đứa con gái biết vậy, nên cũng bằng lòng gả. Nhưng họ thách nặng quá : nguyên tiền mặt phải một trăm đồng bạc, lại còn cau, còn rượu... cả cưới nữa thì mất đến cứng hai trăm bạc. Lão Hạc không lo được. ý thằng con lão, thì nó muốn bán vườn, cố lo cho bằng được. Nhưng lão không cho bán. Ai lại bán vườn đi mà lấy vợ? Vả lại bán vườn đi, thì cưới vợ về, ở đâu? Với lại, nói cho cùng nữa, nếu đằng nhà gái họ cứ khăng khăng đòi như vậy, thì dẫu có bán vườn đi cũng không đủ cưới. Lão Hạc biết vậy đấy, nhưng cũng không dám xẵng. Lão tìm lời lẽ giảng giải cho con trai hiểu. Lão khuyên nó hãy dằn lòng bỏ đám này, để rồi gắng lại ít lâu, xem có đám nào khá mà nhẹ tiền hơn sẽ liệu ; chẳng lấy đứa này thì lấy đứa khác ; làng này đã chết hết con gái đâu mà sợ?... Lạy trời lạy đất! Nó cũng là thằng khá, nó thấy bố nói thế thì nó thôi ngay, nó không đả động đến việc cưới xin gì nữa. Nhưng nó có vẻ buồn. Và lão biết nó vẫn theo đuổi con kia mãi. Lão thương con lắm. Nhưng biết làm sao được?... Tháng mười năm ấy, con kia đi lấy chồng ; nó lấy con trai một ông phó lý, nhà có của. Thằng con lão sinh phẫn chí. Ngay mấy hôm sau, nó ra tỉnh đến sở mộ phu, đưa thẻ, ký giấy xin đi làm đồn điền cao su...

Lão rân rấn nước mắt, bảo tôi :

- Trước khi đi, nó còn cho tôi ba đồng bạc, ông giáo ạ! Chả biết nó gửi thẻ xong, vay trước được mấy đồng, mà đưa về cho tôi ba đồng. Nó đưa cho tôi ba đồng mà bảo : “Con biếu thầy ba đồng để thỉnh thoảng thầy ăn quà ; xưa nay con ở nhà mãi cũng chẳng nuôi được bữa nào, thì con đi cũng chẳng phải lo ; thầy bòn vườn đất với làm thuê làm mướn thêm cho người ta thế nào cũng đủ ăn ; con đi chuyến này cố chí làm ăn, bao giờ có bạc trăm con mới về, không có tiền, sống khổ sống sở ở cái làng này, nhục lắm!...”. Tôi chỉ còn biết khóc, chứ còn biết làm sao được nữa? Thẻ của nó, người ta giữ. Hình của nó, người ta đã chụp rồi. Nó lại đã lấy tiền của người ta.

Nó là người của người ta rồi, chứ đâu còn là con tôi?...
 
Lão Hạc ơi! Bây giờ thì tôi hiểu tại sao lão không muốn bán con chó vàng của lão. Lão chỉ còn một mình nó để làm khuây. Vợ lão chết rồi. Con lão đi bằn bặt. Già rồi mà ngày cung như đêm, chỉ thui thủi một mình thì ai mà chả phải buồn? Những lúc buồn, có con chó làm bạn thì cũng đỡ buồn một chút. Lão gọi nó là cậu Vàng như một bà hiếm hoi gọi đứa con cầu tự. Thỉnh thoảng không có việc gì làm, lão lại bắt rận cho nó cùng ăn. Những buổi tối, khi lão uống rượu, thì nó ngồi ở dưới chân. Lão cứ nhắm vài miếng lại gắp cho nó một miếng như người ta gắp thức ăn cho con trẻ. Rồi lão chửi yêu nó, lão nói với nó như nói với một đứa cháu bé về bố nó. Lão bảo nó thế này :

- Cậu có nhớ bố cậu không? Hả cậu Vàng? Bố cậu lâu lắm không có thư về.

Bố cậu đi có lẽ được đến ba năm rồi đấy... Hơn ba năm... Có đến ngót bốn năm... Không biết cuối năm nay bố cậu có về không? Nó mà về, nó cưới vợ, thì nó giết cậu. Liệu hồn cậu đấy!

Con chó vẫn hếch mồm lên nhìn chẳng lộ một vẻ gì ; lão lừ mắt nhìn trừng trừng vào mắt nó, to tiếng dọa :

- Nó giết mày đấy! Mày có biết không? Ông cho thì bỏ bố!

Con chó tưởng chủ mắng, vẫy đuôi mừng, để lấy lại lòng chủ. Lão Hạc nạt to hơn nữa

- Mừng à? Vẫy đuôi à? Vẫy đuôi thì cũng giết! Cho cậu chết!

Thấy lão sừng sộ quá, con chó vừa vẫy đuôi, vừa chực lảng. Nhưng lão vội nắm lấy nó, ôm đầu nó, đập nhè nhẹ vào lưng nó và dấu dí :

- À không! à không! Không giết cậu Vàng đâu nhỉ!... Cậu Vàng của ông ngoan lắm! Ông không cho giết... Ông để cậu Vàng ông nuôi...

Lão buông nó ra để nhấc chén, ghé lên môi uống. Lão ngẩn mặt ra một chút, rồi bỗng nhiên thở dài. Rồi lão lẩm bẩm tính. Ðấy là lão tính tiền bòn vườn của con...

Sau khi thằng con đi, lão tự bảo rằng : “Cái vườn là của con ta. Hồi còn mồ ma mẹ nó, mẹ nó cố thắt lưng buộc bụng, dè sẻn mãi, mới để ra được năm mươi đồng bạc tậu. Hồi ấy, mọi thức còn rẻ cả... Của mẹ nó tậu, thì nó hưởng. Lớp trước nó đòi bán, ta không cho bán là ta có ý giữ cho nó, chứ có phải giữ để ta ăn đâu? Nó không có tiền cưới vợ, mới chịu về. Ta bòn vườn của nó, cũng nên để ra cho nó; đến lúc nó về, nếu nó không đủ tiền cưới vợ thì ta thêm vào với nó, nếu nó có đủ tiền cưới vợ, thì ta cho vợ chồng nó để có chút vốn mà làm ăn...”. Lão tự bảo lão như thế, và lão làm đúng như thế. Lão làm thuê để kiếm ăn. Hoa lợi của khu vườn được bao nhiêu, lão để riêng ra. Lão chắc mẩm thế nào đến lúc con lão về, lão cũng có được một trăm đồng bạc...

Lão lắc đầu chán nản, bảo tôi :

- Ấy thế mà bây giờ hết nhẵn, ông giáo ạ! Tôi chỉ ốm có một trận đấy thôi.

Một trận đúng hai tháng, mười tám ngày, ông giáo ạ! Hai tháng mười tám ngày đã không làm ra được một xu, lại còn thuốc, lại còn ăn... ông thử tính ra xem bao nhiêu tiền vào đấy?... Sau trận ốm, lão yếu người đi ghê lắm. Những công việc nặng không làm được nữa. Làng mất vè sợi, nghề vải đành phải bỏ. Ðàn bà rỗi rãi nhiều. Còn tí việc nhẹ nào, họ tranh nhau làm mất cả. Lão Hạc không có việc. Rồi lại bão. Hoa mầu bị phá sạch sành sanh. Từ ngày bão đến nay, vườn lão chưa có một tí gì bán. Gạo thì cứ kém mãi đi. Một lão với một con chó, mỗi ngày ba hào gạo, mà gia sự vẫn còn đói deo đói dắt...

- Thì ra cậu Vàng cậu ấy ăn khoẻ hơn cả tôi ông giáo ạ. Mỗi ngày cậu ấy ăn thế, bỏ rẻ cũng mất hào rưỡi, hai hào đấy. Cứ mãi thế này thì tôi lấy tiền đâu mà nuôi được? Mà cho cậu ấy ăn ít thì cậu ấy già đi, bán hụt tiền, có phải hoài không? Bây giờ cậu ấy béo trùng trục, mua đắt, người ta cũng thích...

Lão ngắt lại một phút, rồi tắc lưỡi :

- Thôi thì bán phắt đi! Ðỡ được đồng nào, hay đồng ấy. Bây giờ tiêu xu cũng là tiêu vào tiền của cháu. Tiêu lắm chỉ chết nó. Tôi bây giờ có làm gì được đâu?
 
Status
Không mở trả lời sau này.
Back
Top