• Hiện tại trang web đang trong quá hình chuyển đổi và tái cấu trúc lại chuyên mục nên có thể một vài chức năng chưa hoàn thiện, một số bài viết và chuyên mục sẽ thay đổi. Nếu sự thay đổi này làm bạn phiền lòng, mong bạn thông cảm. Chúng tôi luôn hoan nghênh mọi ý kiến đóng góp để chúng tôi hoàn thiện và phát triển. Cảm ơn

1001 CÂU CHUYỆN CẢM ĐỘNG!!!

Status
Không mở trả lời sau này.
Ngày xửa ngày xưa có một nàng tiên nữ rất thích mây gió trăng hoa. Nàng thường ngao du với các vị nam thần, nhất là các sơn thần ngụ ở hạ giới. Thế rồi nàng tiên nữ ấy mắc một thứ bệnh không thuốc nào giải nổi. Bệnh ấy bắt đầu từ cơ quan sinh dục, cứ thế phát triển lên khắp cơ thể, đầy mình tiên nữ chẳng mấy chốc xuất hiện những vết bầm đỏ, những vết này sưng tấy, làm mủ, vỡ ra và nhiễm trùng. Đến một ngày kia, bệnh nặng quá, tiên nữ bay về trời để tìm thuốc chữa nhưng cô cất mình lên đến cổng trời thì mệt quá rớt xuống thung lũng Quán Bù và chết.

Thân xác cô nằm phơi giữa thung sâu, theo năm tháng phân hủy đi nhưng riêng có bộ ngực thì hoá thành hai trái núi đất. Ngọc Hoàng Thượng Đế cho thái y đến khám nghiệm, chỉ thấy bộ ngực của tiên nữ có nhiều vết cào xước, bầm nát mà không phát hiện ra được nguyên nhân cái chết của tiên nữ nọ. Sau khi tiên nữ chết được một thời gian, dưới hạ giới các sơn thần đã từng quan hệ với nàng tiên này cũng lần lượt mắc chứng bệnh lạ. Thân thể họ hao mòn, trí lực họ giảm sút, phép thuật họ mất linh, họ không còn làm được những công việc họ phải đảm nhiệm nữa.

Rồi họ đổi chính thành tà, bỏ thánh làm ma, dùng thuốc quỷ thay thuốc tiên. Nhiều vị trong số họ đoản số trước ngày giờ ghi trong cuốn sổ đặc biệt của Nam Tào - sổ cai quản các vị nam thần. Ngọc Hoàng Thượng Đế thấy vậy vội sai người điều tra, kết quả cho thấy các nam thần này đều mắc chung một chứng bệnh với tiên nữ nọ, vợ con của họ cũng đang có nguy cơ mắc bệnh theo. Ngọc Hoàng lo lắng vội cho gọi Thái Thượng Lão Quân đến để tìm phương thuốc chữa trị chứng bệnh nan y đang làm điên đảo quân thần Nhà Trời.

Lão Quân dùng lò bát quái luyện linh đan thần dược nhưng nghe ra thần dược không trị nổi bệnh quỷ, thuốc tiên không cứu được ma trùng. Lão Quân tâu lên rằng, bệnh này do chuyện sinh hoạt nam nữ mà ra, muốn trị bệnh chỉ còn cách cấm trai gái chung đụng mà thôi. Vì thế Nhà trời sau ba vạn chín nghìn năm thì tuyệt chủng. Bây giờ quân thần nhà trời đều đã tan vào hư vô, chỉ còn hai trái núi đất ở cửa ngõ nhà trời là chứng tích còn lại của giống thần tiên mà thôi. Sau này con người ở dưới hạ giới cũng đã tràn lên trời để ở. Vì thế Quán Bù mới được gọi là Cổng Trời, và hai trái núi đất kia mới được gọi là Núm Vú Cô Tiên...

Câu chuyện kể có dụng ý của Hoàng lập tức gây tác dụng. Mặt Tiên tái đi. Những nét đẹp trên khuôn mặt cô trở nên u ám như có vầng mây đen che phủ. Tiên đòi về. Hoàng cảm thấy áy náy vì mình đã đùa ác với Tiên. Rất có thể những tháng ngày Tiên ở Hà Nội có điều gì đó uẩn khúc, nhưng Hoàng lại đem câu chuyện ẩn dụ trên ra kể cho Tiên nghe thì tàn nhẫn quá.

Mặt trời đã lên cao và những đám mù mây không vượt qua nổi cổng trời bắt đầu lẫn vào đám cây tạp, rã ra, tan loãng trong sắc xanh nơi triền núi. Hoàng đưa Tiên về theo lối khu mộ cổ. Có vài ngôi mộ hình thuyền được xây bằng đá đã ngả màu thời gian đen thẫm. Không biết đó là mộ của người Tàu, người Mông, người Dao hay người Kinh nhưng hầu hết chúng đều có bia hình sừng trâu đặt ở đầu mộ, bên trên có khắc chữ tượng hình.



Hoàng tranh thủ chụp mấy kiểu ảnh vì thấy chúng lạ mắt. Bỗng Tiên bảo: “Ngày còn bé mẹ em hay đọc Kiều và có nói đến nấm mộ Đạm Tiên. Không hiểu sao khi lần đầu tiên nhìn thấy những ngôi mộ này em lại nghĩ đến mẹ em và cái nấm mộ của người kỹ nữ sống làm vợ khắp người ta ấy. Em chỉ học đến lớp tám thôi. Có được học Kiều và có nhớ mấy câu thơ ấy. Lần nào đọc đến cái câu "Đến khi thác xuống làm ma không chồng" em cũng rùng mình. Lên đây ở, thỉnh thoảng em lại ra thắp hương cho mấy ngôi mộ này. Chúng không có chủ đâu anh ạ. Em sống ở đây em biết. Lắm khi em ngồi bên chúng cả buổi. Rồi em cũng nằm xuống một ngôi mộ như thế này thôi. Và chắc gì đã có ai nhang khói cho em?”

Hoàng bảo:

- Sao Tiên lại nói thế? Nay mai các em Tiên học xong cả nhà sẽ chuyển xuống xuôi chứ chắc gì đã ở lại đây?

Tiên cười buồn:

- Em sẽ ở đây. Sẽ tự xây mộ đá cho mình. Không hiểu sao em rất thích mộ đá. Nằm trong đó sẽ thực sự cảm thấy vững chãi, thực sự bình yên...

Nghe Tiên nói Hoàng thấy hoảng. Tại sao một cô gái đẹp như Tiên lại nói toàn những điều quái gở thế nhỉ? Hôm nay Tiên diện một bộ đồ màu trắng. Tóc cô dài, buông chùng xuống bờ vai nhỏ trông đẹp một cách mỏng manh, yếu ớt. Nét mặt Tiên căng mịn, dáng dấp Tiên thanh thoát, nhẹ nhàng không có biểu hiện gì của một sinh thể đang ủ đầy mầm bệnh. Tại Hoàng quá giàu trí tưởng tượng hay tại khung cảnh này đã khiến Hoàng tự gieo vào lòng mình mối hồ nghi không đáng có? Khi hai người ra tới đường cái thì gặp một thanh niên trạc tuổi Hoàng đứng chờ bên vệ đường cùng chiếc xe máy màu mận chín. Anh ta ăn mặc khá lịch sự, sơmi bỏ quần, cổ cài ca vát, mắt đeo kính cận. Thấy Hoàng và Tiên anh ta cười thân thiện và hỏi rất nhã nhặn:

- Hai anh em đi thăm núi về rồi à?

Tiên cũng đáp lại một cách vui vẻ: “Vâng, đây là anh Hoàng mới ở Hà Nội lên, còn đây là anh Tuấn bên Phòng văn hóa huyện”. Thanh niên tên Tuấn gật đầu chào Hoàng xong, quay sang Tiên bảo: “Việc em nhờ anh làm xong rồi, đây là giấy biên nhận thu lệ phí của huyện, em cứ việc lấy đá xếp quanh khoảnh đất ấy lại thôi, khi nào thu xếp được thì chuyển cốt cho các cụ”

Tiên nhận tập giấy tờ từ tay Tuấn, bảo: “Để em gửi tiền anh”. Nhưng Tuấn quay ra xe ngay, nói với lại: “Để khi khác, bây giờ anh phải về cơ quan có tí việc, em với anh Hoàng về sau nhé”

Tuấn đi rồi, Tiên quay sang nói với Hoàng:

- Em nhờ anh ấy xin cho phần đất giữa mấy ngôi mộ cổ. Mai này em chuyển bố mẹ em về nằm đấy.

Hoàng nói vu vơ:

- Ở xóm núi này mà cũng có người đẹp trai nhỉ!

Tiên bảo:

- Anh ấy quê ở thị xã, mới lên đây nhận công tác được vài năm. Anh ấy tốt lắm.

Tiên nói không sai. Hoàng còn được chứng kiến lòng tốt của Tuấn đôi ba lần nữa trước khi rời cổng trời về xuôi. Tuấn đã bỏ ra hai buổi chiều để giúp Tiên xếp đá quanh “sinh phần của các cụ”, và theo yêu cầu của Tiên, Tuấn đã chở Hoàng đi chợ rượu ở bản Lũng Pàn cách cổng trời những bốn mươi cây số. Chợ rượu Lũng Pàn họp phiên theo tháng. Ở đây có đủ các loại rượu của mọi dân tộc. Rượu nấu từ ngũ cốc, rượu chắt từ các loại rễ củ, rượu men gạo, men lá, rượu ngâm các loại, rượu hạ thổ, rượu tự nhiên và nhân tạo... đủ cả!

Lần đầu tiên Hoàng hoa mắt vì các chủng loại rượu. Mấy ngày sau đó Hoàng còn được Tiên giúp tìm hiểu thêm nhiều điều về vùng đất dưới chân cổng trời Quán Bù này. Hoàng nhận ra tình cảm của Tuấn dành cho Tiên chính là thứ tình cảm mà anh đã dành cho Vi. Tự sâu thẳm lòng mình Hoàng thấy mừng cho cô gái mồ côi phải lưu lạc từ đất Tuyên Quang lên đây nuôi em ăn học như Tiên. Hóa ra Hoàng nhạy cảm và suy diễn thái quá chứ Tiên đang được cuộc đời trả lãi đấy thôi. Nếu Tiên lấy Tuấn thì đó sẽ là một đôi uyên ương đẹp. Nếu các em Tiên học hành đến nơi đến chốn thì cũng có nghĩa là cô đã trả được hiếu cho bố mẹ mình dưới suối vàng rồi. Và Hoàng còn phải ơn Tiên nữa kia.

Loạt phóng sự đi ba kỳ sau này tư liệu chủ yếu do Tiên cung cấp và gợi mở. Và cái mùa đông ấy cũng đã trở thành một ký ức đẹp trong cuộc đời làm báo của Hoàng. Cái mùa đông ấy đã trở thành quá vãng rồi. Bốn năm sau Hoàng mới lại có dịp quay trở lại cổng trời Quán Bù.

Vừa đúng bốn năm, cũng lại vào mùa đông...

Lần này Hoàng lên cổng trời Quán Bù với nhóm phóng viên của một hãng truyền hình Nhật Bản. Họ đã đọc được cái phóng sự ba kỳ của Hoàng ở một xó xỉnh nào đó và họ mê cái đoạn tả về chợ rượu Lũng Pàn. Mùa đông này họ sang Việt Nam nhờ Hoàng đưa đến phiên chợ rượu độc đáo đó để họ làm phim ẩm thực. Bên họ có một kênh truyền hình chuyên phát những loại phim này. Tất nhiên là Hoàng oke ngay. Bốn năm qua đủ biến Hoàng trở thành một phóng viên cứng cỏi. Sự chia tay với Vi cũng làm cho con tim Hoàng dường như trưởng thành hơn. Một anh bạn Hoàng từng bảo: “Không nên dùng từ trưởng thành đối với con tim, nghe nó điêu ngoa lắm”. Hoàng cười khẩy: “Người ta còn gọi là trái tim non, là con tim mù lòa được kia mà. Sao lại không thể gọi là con tim trưởng thành?”.

Cô em gái Vi cũng đã ra trường và xin được việc làm ở công ty mỹ thuật Thủ đô. Bức tranh vẽ hoa tam giác mạch của cô bây giờ treo trong phòng ngủ của chị gái mình. Vi và người chồng của cô sẽ nhìn ngắm bức tranh ấy vào những lúc tâm hồn họ thanh thản nhất, và Vi sẽ giới thiệu về lịch sử bức tranh cho chồng cô nghe. Trong câu chuyện của cô chắc chắn sẽ không có cái tên Hoàng xuất hiện với tư cách là người hộ tống tác giả bức tranh. Vi đã không thể lấy một anh nhà báo giỏi mà không có nhà ở Hà Nội, đồng lương lại không đảm bảo hạnh phúc gia đình nên Hoàng đành mất đi cơ hội được treo bức tranh tam giác mạch đó nơi phòng ngủ của mình vào đêm tân hôn.

Và sự trở lại cổng trời lần này không phải để tìm một bức tranh tam giác mạch khác thay thế. Điều khiến Hoàng bồi hồi nhất chính là niềm phấn khích được gặp lại Tiên.

Đoàn làm phim được thu xếp nghỉ ở Trung tâm văn hóa huyện. Nhận phòng xong, quay ra Hoàng bỗng nhận thấy dáng Tuấn đang đi ở dưới sân. Vẫn cái dáng cao gầy với sơ mi bỏ quần có thắt cà vạt và đeo kính gọng đen y như bốn năm trước đây. Hoàng liền cất tiếng gọi. Cái người ở dưới sân vội ngước mắt lên nhìn Hoàng. Ánh mắt anh ta tỏ ra hết sức ngỡ ngàng. Hoàng cũng đã ngờ ngợ là mình nhầm người. Cậu thanh niên đeo cà vạt đó tiếp tục đi vào lối dẫn lên cầu thang và chỉ lát sau thì anh ta đã xuất hiện ngay trước mắt Hoàng.

- Anh quen anh Tuấn à? – Cậu ta hỏi Hoàng.

- Ừ, xin lỗi, mình nhầm.

- Anh Tuấn chuyển về sở rồi. Em về thay anh ấy. Trước khi anh ấy đi, hai anh em ở với nhau gần hai tháng. Em là Quân.

Hoàng vội làm thân:

- Mình với Quân ra phố uống cà phê đi. Trước mình có quen Tuấn, nay có dịp lên công tác muốn hỏi thăm cậu ta thôi.

Quân gật đầu:

- Ở đây chỉ có một quán cà phê duy nhất. Tỉnh lẻ mà. Ngon dở thế nào anh dùng tạm nhé?

Hoàng gật đầu: “Ôkê!” rồi khoác vai Quân đi xuống cầu thang gác. Đúng là vẫn quán cà phê của Tiên, vẫn biển hiệu “Gội đầu Xóm Núi”, vẫn tấm mành mành nhựa hai màu xanh, trắng. Khi tấm mành được vén lên thì vẫn là một thứ kinh doang tổng hợp như bốn năm trước đây Tiên đã từng làm. Chỉ có điều, chủ quán không phải là Tiên. Hoàng vội quay sang Quân:

- Quán này mới thay chủ à?

Quân gật đâu:

- Vâng, quán này trước là của chị Tiên. Chị ấy chết rồi.

Hoàng kinh ngạc:

- Chết rồi? Thế Tuấn...?

Quân nhìn thẳng vào Hoàng, đáp:

- Anh cũng biết chuyện giữa chị Tiên và anh Tuấn à? Chị ấy chết được hơn một năm rồi. Chết sau ngày đứa em thứ hai của chị ấy vào đại học. Anh Tuấn buồn lắm. Anh ấy rất yêu chị Tiên. Chẳng hiểu sao chị ấy lại không lấy anh Tuấn. Có người bảo chị ấy chết bệnh, lại có người bảo chị ấy tự tử. Anh Tuấn là người đưa xác chị ấy từ bệnh viện tỉnh về chôn ở khu mộ cổ. Có lẽ anh Tuấn là người biết rõ nhất về chị ấy. Nhưng anh ấy không bao giờ nói với ai về chuyện đó cả. Chỉ có một lần anh ấy bảo với em là: “Tiên đã chuẩn bị trước cho cái chết của mình, cô ấy đã xây sẵn một ngôi mộ đá”

Hoàng uống vội ly cà phê đắng ngắt rồi cùng Quân ra khu mộ cổ. Đúng là Tiên đã về nằm dưới ngôi mộ đá do chính tay cô chuẩn bị từ trước. Những chuyện mà Tiên nói với Hoàng bốn năm về trước như vẫn còn bên tai anh, như văng vẳng đâu đây giữa nghĩa địa hoang vu, bên những nóc mộ cổ in dấu thời gian này. Tiên rất sợ cái câu thơ định mệnh "Đến khi thác xuống làm ma không chồng nên cô đã phải chọn sẵn cho mình một ngôi mộ đá để khi nằm trong đó mới thực sự cảm thấy vững chãi, thực sự cảm thấy bình yên. Bây giờ thì em đã bình yên chưa Tiên ơi? Trước ánh mắt đờ đẫn vì xúc cảm của Hoàng, Quân bảo: “Muốn hiểu về chị ấy, anh cứ về sở gặp anh Tuấn là rõ. Anh Tuấn là con trai của bác phó giám đốc sở đấy, cũng dễ tìm thôi mà”

Hoàng mỉm cười chua chát. Quân quên mất Hoàng là nhà báo ư? Việc tìm Tuấn đối với Hoàng có gì là khó đâu. Ngay cả việc xác minh lý lịch của Tiên với cái nhà hàng Mây Chiều đã bị đóng cửa ở gần Ô Chợ Dừa ấy đối với Hoàng cũng chẳng khó gì. Nhưng tìm Tuấn để làm gì? Biết rõ hơn về Tiên cũng để làm gì? Làm sao tìm hiểu cho hết uẩn khúc của mỗi con người trong cái thế gian đầy phức tạp này?! Tiên đã muốn bình yên trong nấm mộ đá kia, những muốn người đời quên mình đi thì cũng chẳng nên xới lật cuộc đời cô thêm một lần nữa. Có chăng là cắm cho cô nén nhang để linh hồn cô khỏi lạnh lẽo nơi lòng đá mà thôi. Hoàng nhìn sang Núm Vú Cô Tiên, thấy câu chuyện tự biên tự diễn của mình sao kinh khủng thế? Nếu ba vạn chín nghìn năm trước đây có một nàng tiên như thế thì bây giờ nàng nằm kia mưa nắng dãi dầu, đắng cay, oan nghiệt quá. Cho nên Tiên mới muốn trốn vào mộ đá để khỏi bị miệng lưỡi người đời nhắc đến chăng?

Ngay sáng hôm sau Hoàng rời Quán Bù lên Lũng Pàn và ở lại đó cho đến khi đoàn làm phim quay xong. Trở lại Hà Nội được một tuần thì Vi điện đến cho Hoàng. Vi bảo: “Nghe nói anh dạo này hay la cà ở các quán gội đầu thẩm mĩ lắm phải không? Cẩn thận không các cô ca ve ấy cho anh tiêu đời luôn đấy. Tốt hơn hết là anh lấy vợ đi. Rồi cố đẻ một cô công chúa để làm thông gia với em”

Hoàng bảo: “Cảm ơn lời nhắc nhở của em. Đừng lo cho anh nữa. Con tim anh trưởng thành lên nhiều rồi mà”

Và Hoàng cúp máy.
 
Thị trấn hoài niệm
Dương Bình Nguyên


Đã có những tháng năm dài, Nguyễn thường ngồi nhìn màn hình máy tính trong đêm, đánh lên đó những con chữ về đời mình rồi xóa đi một cách không thương tiếc. Không ngủ được. Ngồi nhìn vào bóng tối trong căn nhà trọ trên phố, nó cảm giác như mình đang tồn tại trong một cõi nào khác với mặt đất trần tục.

Cuối cùng thì cũng về đến nhà Nguyễn, cái thị trấn với con dốc cắt ngang phố như một cây thập tự. Gian nhà Nguyễn giờ được quây mặt tiền cho người ta mượn bán hàng khô, những gói bỏng nhuộm phẩm xanh đỏ khiến liên tưởng tới những bông trái cho ngày tết. Lũ trẻ con thập thò nhìn Nguyễn, mua những quả bóng bay đầy phẩm rồi thổi phì phẹt, lúc sau đã nhoe nhoét hai bên má màu xanh lẫn với màu hồng.

Thị trấn có một dãy nhà chạy dọc bên đường cái, mùa đông bụi trôi về đỏ những ngọn bàng. Đất này không biết trồng gì, người ta thả hoang cho những bầy dê, bò chạy. Giống như cô gái điếm từng một thời xuân sắc, thị trấn của Nguyễn giờ nằm hiu hắt với những ngọn đồi góa chồng, nham nhở những hố sâu một thời từng mang đến sự hào nhoáng giàu có cho thị trấn. Những hố vàng và từng đoàn người tha nhau đến chui vào lòng đất, mong kiếm một cuộc đổi đời. Nguyễn bảo, giờ về nhà thấy buồn. Ngày trước, lúc tao còn bé, sầm uất lắm.

Lúc nào Nguyễn cũng nói về thị trấn ngày nó còn bé, nhưng đó vẫn là một mảnh đất xa mãi không ai tìm lại được. Ngay cả Nguyễn, bằng tất cả tình yêu thương chắt chiu sau năm tháng khó nhọc, giờ thị trấn cũng đã như một miền cỏ hoang. Vậy mà ông già tao bỏ mạng ở đây. Thị trấn này biết bao người tự tử. Vàng mà. Vàng! Thật chả đáng.

Nguyễn nói rồi quay đi. Nghe như có tiếng gió rít qua tai. Nguyễn lúc nào cũng buồn. Suốt những buổi chiều ấu thơ Nguyễn ngồi nhìn ra đường, khóc trong bóng tối xuống dần. Nguyễn lớn lên với ông nội. Ông nội mất, nó bỏ ra thành phố. Đời Nguyễn buồn như chén rượu nhạt...

Chúng tôi leo đồi. Lâu ngày chạy xe thành phố nhiều, chân mỏi. Nguyễn chỉ, kia là mộ ông già, cỏ mọc tràn vào hoa. Hoa chết hết rồi. Thôi để ông già bạn bầu với cỏ dại. Tôi đứng lên đỉnh đồi, nhìn trời, thấy đất này cây này đẹp thật, mà sao người ta sống lầm lụi quá. Đi ngoài đường cũng ít ai ngẩng mặt lên. Nguyễn gọi tôi, mày qua chào ông già tao đi, mày là người bạn đầu tiên tao giới thiệu với ông già. Cuộc đời không cho Nguyễn nhiều tình người nên nó quý từng mụn bạn vặt vãnh. Vặt vãnh như tôi.

Nguyễn bảo, dạo sau này tao ít về quê, nhưng chẳng biết làm sao nữa. Về quê thì lại thấy đời chán thật. Mình là một đứa lạc loài... Đến lúc này tôi vẫn không cắt nghĩa được, Nguyễn đã sống được trong chừng ấy năm bởi điều gì. Nó bạc bẽo với chính bản thân mình. Bạt mạng. Như một con thú hoang cô đơn. Nguyễn không có gì liên quan đến tôi, kể cả từ hình thức đến tính cách. Chúng tôi chỉ có một điểm chung là những cái nhìn quá góc cạnh. Tôi và nó. Vì bị cô lập, vì cô độc mà hợp nhau lại như tìm một điểm tựa, một niềm tin trên con đường dài không có bạn bầy.

Nguyễn luôn là một điều bí mật, bí mật cả trong từng việc làm của nó, khiến chẳng ai có thể hiểu một cách rành mạch. Nguyễn yêu nhiều, rồi tình tan nhanh. Kể cả đến bây giờ, tôi vẫn không ghép được khuôn mặt ấy, cái ngang tàng ấy của hiện tại vào những mảnh vụn quá khứ quá nhiều nước mắt. Tôi đã từng cho rằng, đang có một hội chứng hoang tưởng trong những người trẻ tuổi, hay thích gắn kết những chi tiết trong phim ảnh thành câu chuyện của đời mình. Trên những trang blog, rất nhiều cô cậu non tơ đã kể vẻ rất sành đời, đã nói về quá khứ của mình rất đỗi bi thương, nhưng thực chất họ mới bước qua tuổi mười lăm và chưa bao giờ biết đến mùi của những giọt mồ hôi khó nhọc.

Tôi rất không muốn tin một đứa như nó lại sống một ấu thơ không ra gì. Nguyễn ít cởi lòng. Nên những gì về nó giống như những giọt nước rơi lơ mơ trong những câu chuyện giữa những buổi uống rượu đêm buồn. Sau nhiều cuộc nhậu, chúng tôi coi nhau như huynh đệ. Huynh đệ rồi biết rõ cuộc đời nhau. Cuộc đời như những trang giấy nham nhở. Để rồi đến giờ tôi vẫn không biết Nguyễn sống vì những điều gì.

Đã có những tháng năm dài, Nguyễn thường ngồi nhìn màn hình máy tính trong đêm, đánh lên đó những con chữ về đời mình rồi xóa đi một cách không thương tiếc. Không ngủ được. Ngồi nhìn vào bóng tối trong căn nhà trọ trên phố, nó cảm giác như mình đang tồn tại trong một cõi nào khác với mặt đất trần tục. Rồi nó buộc phải lôi cái hộp thuốc trong túi xách, lấy ra một liều rồi vả hết vào mồm. Luôn là những liều an thần. Không ngủ được. Tao cũng không biết khi tao ba chục tuổi, tao còn nhớ được gì không. Nhưng mà không ngủ được, phải uống. Cảm giác như khi uống thuốc ngủ, Nguyễn tìm được mình trong giấc mơ dễ dàng hơn.



Chúng tôi xuôi đồi. Những cây hoa dại mùa đông nở những bông không hương. Buổi tối, chỉ có quán cơm duy nhất giữa thị trấn, chủ quán ngồi vêu chờ đám xe tải chạy đường dài. Chúng tôi ngồi ăn cơm với thịt nhím xào. Rượu không? Bà chủ hỏi, ngực trễ phơi cả một vườn lê già. Nguyễn cười, cho chai rượu ngô. Rượu ngô lâu ngày tôi không uống, từ ngày xa nhà, giờ bất chợt lại thấy nhớ. Nguyễn nói, rượu ngô như chăn đơn cũ, người mới cầm thì chê thô, người đắp lâu lại thấy ấm ngào ngạt.

Hóa ra chúng tôi cùng ra đi từ những xó rừng, cùng thích thứ rượu bần hàn mà thôi. Nhưng sao tôi khác Nguyễn, tôi đã không bạt mạng được như nó, tôi đã không tự quyết định được mọi chuyện của cuộc đời mình một cách rành mạch? Tôi cũng không biết nữa. Nhưng tôi đã yêu em, đã nhìn thấy em đi cùng Nguyễn, đã thấy những giấc mơ vụn dưới chân mình, mà tôi đã không thốt lên được lời nào. Tình yêu như một giấc mơ buồn thảm mà mãi sau này, khi mọi thứ đi qua rồi, tôi cũng thấy mình có lỗi.

Bà chủ quán dọn rượu rồi ngồi hóng chuyện. Dạo này thị trấn nhiều chuyện rùng rợn lắm. Thằng chồng con Huê mới nhảy lầu tự tử . Nợ nhiều quá, không trả nổi, đầu gấu nó lùng, trốn mãi sao được. Chiều đó qua nhà tôi uống rượu, rồi đêm đến nghe đánh bụp như quả mít rụng. Sáng sau người ta thấy nằm im lìm trước nhà. Sợ lắm. Đất này bạc bẽo mà. Bà chủ quán nói với Nguyễn. Nguyễn ngồi im uống rượu. Rồi đột nhiên Nguyễn hỏi, cô Huê giờ sao? Bà chủ quán bảo, thì vẫn vậy. Con đó số hồng nhan, mới hơn ba chục tuổi đầu mà góa bụa. Một mình sống thôi. Chả có con cái gì. Nó mới mở một sạp hàng nhỏ, bán miến rong với nấm hương cho người ta mua về xuôi.

Nguyễn bảo, nhà cô ấy ở đâu? Bà chủ quán hỏi, tính đến thăm hả? Mày còn trẻ, còn trai tân, mắc mớ gì mà đến? Nguyễn bảo, kệ mẹ tôi, bà hỏi tò mò quá. Bà chủ quán bảo, đến chỗ nào có cái chùm chuông gió treo điếc tai hàng phố thì là nhà nó. Thanh niên đẹp trai vậy mà tính khí khó ưa. Nguyễn bảo, mày cứ ngồi đây, chờ tao. Rồi bỏ đi. Bà chủ quán được dịp nói chuyện về cô Huê. Ngày trước cô Huê là mối họa của đàn bà thị trấn. Biết bao nhiêu gã đàn ông đến, săn tìm và người ta đồn cô đã ngủ với tất cả đàn ông thị trấn. Cô Huê đẹp.

Tôi cắt lời bà, bà có thấy ai ngủ với cô ấy chưa? Quỷ sứ! Cậu ăn mắm ăn muối đâu mà hỏi chuyện vớ vẩn vậy? Mà lạ lắm, đám tài xế xe tải hôm nào đi về cũng mang cho nó nắm tiền, túi hoa quả. Họ bảo, có quà đón tay nó đi xa về gần may mắn. Nó là cái thần tài. Mà cậu là thế nào với cái thằng Nguyễn trời đánh? Là bạn. Bạn bè gì cái thằng này, ngày nhỏ nó đập không biết bao nhiêu người. Nhiều đứa mụ mị vì ăn đòn của nó. Mà tôi thấy cậu hiền lành quá. Nó hiền mà nó ăn thịt bà được đấy - tiếng Nguyễn bất chợt vọng lại. Nguyễn đã về, rót rượu ra chén, uống một mình. Bà chủ quán hấp háy mắt, không giấu được nỗi tò mò. Con Huê sao? Sao là sao? Thì tôi hỏi xem nó như thế nào mà? Như thế nào thì liên quan gì đến nhà bà? Biến ngay! Biến thì biến, thanh niên gì khó tính như ông già. Nguyễn ném tiền lên bàn. Tan một bữa tối. Bữa tối vắng trong thị trấn vắng, ảm đạm.

Chúng tôi ngồi hút thuốc dưới gốc cây bàng cụt ngọn. Thi thoảng có chiếc xe tải chạy ậm ạch qua. Mùa đông lạnh như một nắm cơm khô. Nguyễn rít thuốc như tích tụ trong lồng ngực mình một bình khói. Rồi bảo, cô ấy đã không còn yêu tao nữa. Hóa ra bao nhiêu tháng bao nhiêu năm, bạt mạng cả cuộc đời nhưng Nguyễn vẫn không đổi thay được chính mình, không dứt bỏ được xứ này như dứt bỏ một thứ quá khứ buồn đau. Vì sao? – Tôi hỏi. Tao cũng không biết nữa. Tao đã đi qua đời con gái của cô ấy. Nhưng cũng chả trách được. Tao đối với cô ấy chả ra gì...

Những ngày cũ kỹ ấy, hóa ra với Nguyễn không chỉ là những ngày tháng dằn vặt. Nó còn có cả một tình yêu thầm lén và cuồng dại. Khi Nguyễn biết mình là người đàn ông đầu tiên của Huê, gần như Nguyễn đã ngất đi. Một tình yêu mà mãi sau này, Nguyễn vẫn không sao quên được. Không ai cho Nguyễn cái cảm giác ngây ngất ấy. Những người đàn bà đi qua đời Nguyễn đã gom góp từng ngày sự khinh miệt trên mặt nó. Để rồi hôm nay, khi tôi hiểu nó sống vì những điều gì thì điều ấy đã vỡ vụn mất rồi.

Ngày Huê cưới chồng cũng là ngày Nguyễn bỏ thị trấn về thành phố. Huê lấy một người đàn ông làm chủ những chuyến xe hàng. Huê có yêu người đàn ông đó không? Đến bây giờ Nguyễn vẫn không trả lời được. Nhưng lòng người thiếu phụ ấy đã vĩnh viễn khép lại sau khi chồng cô mất. Nguyễn đã không còn lại gì với thị trấn, ngoài một tình yêu bị nhốt giấu trong lòng người như huyệt mộ và một nắm xương tàn của cha.

Tao muốn về Hà Nội quá, Nguyễn bảo. Tôi gật đầu. Và khoác túi, bước ra ngoài, tìm một chiếc xe tải để vẫy xin đi nhờ. Nguyễn lụi cụi trong nhà rất lâu. Như thể ngắm nhìn ngôi nhà thơ ấu lẫn trong bóng tối. Đến khi tiếng xe chạy tới, Nguyễn lao ra cùng tôi. Chúng tôi leo lên thùng xe chất đầy những bao thảo quả. Nguyễn bảo, thôi, coi như tạm biệt.

° ° °

Một câu chuyện rất cũ. Hai năm rồi, phải, cũng phải đến hai năm rồi tôi mới chợt nhớ lại. Một ngày mùa đông nào đó trong cuộc đời mình, mình đi trên một hành trình không phải để cho mình mà cũng không vì điều gì cả. Tôi đi như một điểm tựa cho Nguyễn sau biết bao câu chuyện. Tôi sợ nó tự tử, chính xác là như vậy. Hai năm kể từ ngày đó, kể từ ngày Nguyễn lên máy bay vào Sài Gòn để bắt đầu một cuộc sống không cần thuốc ngủ để tẩy rửa, tôi cố tình không liên hệ với Nguyễn.

Không phải vì những hiểu lầm trong một mối quan hệ tay ba như người ta thêu dệt về tôi sau này mà đơn giản để Nguyễn bắt đầu ở một nơi không có nước mắt. Cuộc sống của tôi sau hai năm cũng mang nhiều biến động. Một gia đình và một tình yêu. Tôi chỉ chợt nhớ lại Nguyễn khi một ngày rảnh việc xục xạo các blog để tìm ý tưởng cho một chương trình quảng cáo. Cái blog ấy không biết của ai, nhưng nó gợi lại cho tôi về cái thị trấn đầy hoài niệm ấy
 
Cậu bé chờ thư





Hồi đó tôi làm giáo sư một trường trung học con trai. Một học sinh tên là Bob, trái hẳn với các bạn, không bao giờ nhận được một bức thư nào cả. Vậy mà buổi chiều nào em cũng mau chân nhất, chạy lại chỗ đặt các hộc riêng chăm chú ngó vào hộc của em cho tới khi thư phát hết rồi mới quay ra.
Không phải là gia đình em quên em đâu. Tiền ăn ở trong trường, tiền tiêu vặt của em vẫn gởi tới đều đều đúng hạn. Tháng sáu, ông Hiệu trưởng nhận được thư xin cho em đi nghỉ ở một trại hè. Thì ra viên thư ký của thân phụ em lãnh nhiệm vụ lo cho em tất cả những chi tiết dó.
Nhưng song thân em không ai viết cho em một bức thư nào cả. Khi em kể lể với tôi rằng ba má em đã ly thân nhau, tôi mới hiểu tất cả nguyên do. Và tội nghiệp em, em vẫn tiếp tục trông thư một cách tuyệt vọng. Tôi thường đem tình cảm sầu thảm của em ra nói với một ông bạn đồng nghiệp, ông Joe Hargrove. ông ấy bảo:
- Nếu em đó ít lâu nữa mà không nhận được bức thư nào cả thì đáng ngại cho em lắm, có thể tai hại.
Thế rồi một bạn học thân nhất của em, tên là Laurent nảy ra một sáng kiến. Laurent ở trong một gia đình hòa thuận, có hạnh phúc, tuần nào cũng nhận được nhiều bức thư của cha mẹ, cả của anh chị em nữa. Một hôm Bob rầu rĩ ngó xấp thư Laurent cấm trong tay. Laurent thấy vậy, bảo ngay:
- Bob, vô trong phòng tôi di, tôi đọc thư của má cho Bob nghe.
Một lát sau tôi thấy hai em ngồi sát nhau cùng bàn tán về bức thư đó. Chiều hôm sau tôi nhận thấy khi phát thư, Bob chẳng những ngó hộc của em mà còn ngó hộc của Laurent nữa. Bob hỏi bạn:
- Lại có thư của má anh nữa hả?
- Không, hôm nay là thư của chị tôi.
Rồi Bob hỏi một bạn khác:
- Anh có thư của má anh không?
- Có !
- Anh cho tôi đọc chung với nhé?
- Ừ! Để tôi đọc lớn tiếng lên nhé!
Từ hôm đó, Bob tha hồ đọc thư của bạn. Khắp tứ phía nhao nhao lên:
- Ê, Bob, hôm nay muốn đọc thư của má không?
Tụi con trai đôi khi có vẻ tàn nhẫn, không giữ ý gì cả, nhưng tuyệt nhiên tôi không thấy một em nào thốt một lời mỉa mai bóng gió hay chế giễu gì em Bob cả. Một hôm tôi kinh ngạc nghe em Bob tự do hỏi ngay Laurent:
- Hôm nay chúng mình có thư không?
Như vậy có dễ thương không chứ! Nên thưởng cho các em nhiều kẹo, nhiều bi mới phải ! Laurent mỉm cười đáp liền, không hề do dự:
- Có, hôm nay chúng mình có một bức.
Chuyện đó làm cho ông Joe Hargrove quyết tâm hành động. Tôi thì tôi cho má em Bob là hạng người ra sao rồi. Nhưng ông Joe đã gặp bà ta nhiều lần, định làm liều xem sao. Một hôm ông ta lại kiếm tôi, tay cầm sáu bức thư đánh máy và sáu bao thư đề địa chỉ của Bob, dán cò sẵn sàng. ông ta bảo:
- Coi này, tôi gởi cho bà Lennoux đây. Bà ta chỉ cần ký tên: "Má của con" rồi mỗi tuần bỏ một bức vào thùng thư.
Tôi đọc những bức thư đó. Viết được lắm, ít bữa sau, Bob cũng lại ngong ngóng đợi ở chỗ đặt các hộc riêng, nhưng chú hết ý vào cái hộc của Laurent. Bỗng học sinh lãnh việc phát thư, la lên:
- Ê, Bob, mày có thư này ! Có thư này!
Bob nhẹ nhàng đưa hai tay lên, cử chỉ y hệt một thiên thần đương cầu nguyện, để đỡ lấy bức thư. Em nói, như thể vẫn chưa tin:
- Ờ có tên tôi ngoài bao thư nè!
Rồi em la lên:
- A ! Tôi cũng có thư! Tôi cũng có thư! Anh em ơi, có ai muốn đọc thư của tôi không?
Những đứa khác cũng vui mừng, đồng thanh la lớn:
- Có ! Có ! Bob, đọc thư của bồ lên, đọc lên?
Cuộc phát thư tức thì tạm ngưng lại. Chúng đun Bob lên cho đứng trên một cái bàn rồi cả bọn vây chung quanh. Bob ngập ngừng đọc:
- Con cưng của má !
Rồi ngẩng lên nói:
- Tôi không đọc nhanh được !
Laurent bảo:
- Không sao, Bob! Cứ đọc chầm chậm, càng tốt. Đọc chậm mới hiểu rõ từng chữ chớ.
Và Bob chậm chạp đọc bức thư đó, lời lẽ âu yếm như bức thư của bất kỳ bà mẹ nào gởi cho con.
Tháng sáu, buổi phát phần thưởng, tôi thấy má em Bob lại dự. Tôi không ngạc nhiên về điều đó vì, sau khi gởi hết mấy bức thư ông Joe viết sẵn cho rồi, bà ta đích thân viết cho con, quả là một phép màu ! Bob đã cho tôi coi bức thư bà báo trước sẽ tới dự buổi lễ. Phát phần thưởng xong, bà ta kéo tôi ra một chỗ, hỏi tôi:
- Bà thấy thư tôi viết cho cháu được không?
- Được lắm!
Bà ta nói tiếp giọng hơi ngập ngừng:
- Tôi nhờ bà nói về tôi cho cháu Bob nghe...
- Vợ chồng tôi đã hòa thuận với nhau hơn trước, và chúng tôi tính với nhau nghỉ hè này cho cháu về nhà, và... chúng tôi sẽ tìm cách hiểu cháu hơn.
- Xin bà yên tâm, tôi sẽ hết sức giúp bà.
Tôi có cần gì nói thêm rằng không có công việc nào làm cho tôi vui bằng công việc đó không?
_________________
 
Nhớ xóm Quýt , quê xa…



“Tháng chạp, quýt to bằng nắm tay trẻ nhỏ, da bóng lưỡng như ướt mỡ. Khi ấy gió dịu, trời ửng hồng sáng trong, nắng mới cũng vừa soi ấm vô vàn chùm quýt loà xòa, đung đưa…Đến giữa tháng, quýt chín đỏ vườn …”
Đoạn văn trên tôi tả cảnh quê mình khi còn ngồi học lớp 5, mãi đến hôm nay vẫn còn in trong trí…

Quê nội, nơi chôn nhau cắt rốn của tôi, vỏn vẹn hơn 20 hộ, nằm rải rác hai bên bờ một nhánh sông nhỏ thuộc dòng nước Hậu giang hiền hoà.Chốn ấy từ bao đời có tiếng vì giống quýt hồng thơm ngọt.Nhờ lẽ đó miền đất được người dân quen gọi bằng cái tên mộc mạc: xóm Quýt, dù đất đã có một tên khác khá thơ mộng: Yên Hạ .

Năm ấy cha tôi làm ăn thua lỗ, cha như người dại; còn mẹ tôi ngồi đâu dáng cũng thẫn thờ.Cuối mùa nước nổi cha phải bán nhà để trả nợ. Ông nội lụm cụm theo chú Tám từ dưới Cần thơ lên bàn bạc, dẫn dắt gia đình tôi về lại quê hương. Với số tiền ít ỏi còn lại , cha chỉ đủ mua hơn 2 công vườn quýt, cả nhà tôi đành ở tạm trong kho chứa củi của ông .

Tôi nhớ mãi buổi sáng hôm đó.Trời vừa bửng mắt, chú Tư đầu xóm cùng đứa cháu hè hụi vác đến mấy cây tre to, dài sọc . Chưa kịp lau mồ hôi, chú gọi vọng:“Sáu ơi, tao đem cho mấy cây tre đây…”.Cảm động xiết bao khi thím Bảy ở tận Bà Vèn bơi xuồng đem lại hơn 200 lá chằm dùng để che lợp. Còn chị Phương cũng vồn vã qua làm quen tôi bằng mấy bó dây buộc chẻ từ cọng lạt vừng …

Vậy đó, người góp công, người giúp của.Và ngày cha mẹ tôi dựng nhà, chòm xóm thân sơ đến dùm gíup thật đông.Không chỉ có vậy, nghe theo lời chú út Võ Tòng :“ Làm nghĩa phải cho trót…”, liên tiếp nhiều ngày sau , bà con tạm gác việc nhà đến làm cỏ, be bờ; tận tình chỉ vẽ cách bón phân , chiết nhánh …Sau này, gia đình tôi còn chịu ơn nhiều tấm lòng đáng qúi khác như thím Tư chia sẻ cặp heo giống, chị hai Liên dạy cho chị tôi nghề dệt chiếu bông …

Tôi cũng không quên được đêm giao thừa năm ấy.Tiết trời lành lạnh, nhà nhà đỏ lửa, mùi bánh tét, bánh phồng tỏa ngát xóm thôn. Nhờ tiền bán Quýt, sau khi trang trải một phần nợ, mẹ tằn tiện lo được nồi thịt kho rệu , sắm cho chị em tôi mỗi người một bộ áo quần.Chú Chín, bạn thân thiết của cha, sai con mang đến biếu một rổ bánh ít còn bốc khói.Bác Giáo cũng đem qua chè xôi, hai lít rượu nếp cẩm thơm để cúng ông bà. Còn đám trẻ mặt mày ai nấy đều hớn hở, xênh xang với áo màu, dép mới rủ tôi lên đình xem hội… Đã lâu, tôi vẫn như còn thấy sắc mai vàng, quýt đỏ khoe tươi; đôi má chị ửng hồng, mắt cha mẹ ánh trong và dòng sông nhỏ chảy thầm thì kia cũng ấm…

Lại có những đêm sân nhà ngập ánh trăng, hương hoa quýt thơm lừng. Các người thân hiểu gia đình tôi vừa gặp chuyện không may nên thường rủ nhau đến ngồi trước sân, đàn ca rôm rả.Già trẻ, gái trai trong xóm cũng xúm xít góp vui.Lẫn tiếng đàn cò, kìm, sáo, nhị là giọng ca mộc mạc, vụng về …vậy mà vẫn có sức quyến rũ lạ …

Và cũng thật xốn xang, khác với bạn bè trên phố phường , các bạn nơi xóm Quýt như Tí Cộc, 14 tuổi, chưa học xong lớp 4; Nghĩa Đen còn ễnh bụng tuyên bố:“ Làm cỏ mướn có tiền, đi học chẳng có xu nào!’. Đổi lại, các bạn ấy nói vanh vách từng loại chim: thằng chài, chích choè, thầy bói…; tháng nào mù u trổ bông, cá lên đồng, xiết nước lúc nào cho quýt chín kịp tết .

Ngày trước làm văn, tôi hay ca ngợi thú vui nơi thôn dã, như trẻ thơ được mặc sức đùa giỡn, lặn hụp trên sông; được thi nhau vớt trái mù u để lấy dầu thắp sáng hoặc nhồi đất sét nặn voi, nắn ngựa…Sống lâu miệt đồng , tôi mới hiểu mọi chuyện không hoàn toàn như vậy. Sau giờ học các bạn ấy còn phải đi giăng câu, vớt bèo nuôi vịt hoặc làm cỏ, tưới cây …nghĩa là phải lem lấm, phải đổ mồ hôi để có thêm cái ăn, cái mặc, gánh vác tiếp mẹ cha mà phần lớn đều đông con, nghèo và ít hiểu biết …

…Sống nơi quê nội vui buồn như thế mấy năm , cậu Tám sắm được xe, mời cha tôi lên phụ giúp . Gia đình lại dắt díu nhau đi. Đêm trước khi xa quê, tôi lặng lẽ khóc, tuy lòng hé vui vì biết mẹ cha và chị sẽ vơi bớt nỗi nhọc nhằn . Nhưng không bùi ngùi sao được khi tôi phải xa ông bà nội, mặc dù tuổi cao vẫn hết lòng lo lắng, yêu thương con cháu; xa bà con xóm Quýt nghèo tiền nhưng giàu chữ nghĩa nhơn . Nhất là phải xa đám bạn bè hôi như cú mà thật thà như đất, xa vuông vườn tuổi thơ bé nhỏ đã cho gia đình tôi không biết bao nhiêu là hoa trái ngọt lành …

***
Tết này tôi có về xóm Quýt, quê xa . Thăm lại ông bà cùng bao người ơn đã giang tay đùm bọc gia đình tôi suốt một thời khốn khó . Tuy trên gương mặt, nếp nhăn có nhiều theo năm tháng ; nhưng qua ánh mắt tôi hiểu tấm lòng bà con vẫn đôn hậu như xưa.

Tôi chỉ buồn, khi nhịp sống nơi thành thị ngày một sôi nổi đi lên; những cảnh đời chốn vùng sâu chưa đổi thay mấy.Vẫn nhiều những tol, lá … nóng bức, ẩm thấp với mớ đồ đạc cũ kỹ.Vẫn là thứ ánh sáng qua nhiều trung gian , le lói buồn thiu…

Tôi nghe đâu mấy năm trước quýt được mùa, được giá ; nhiều hộ đã sắm được xe gắn máy , tivi…Mấy năm gần đây chén cơm của họ khá bấp bênh do giá thuốc sâu, phân bón vùn vụt tăng cao, nguồn nước tưới bị ô nhiễm và sâu “vẽ bùa” kháng thuốc nên chồi lá cứ vàng úa , quăn queo, hoa trổ rồi lại rụng, lũ kiến vàng lũ lượt bỏ đi . Đến khi vào mùa vụ thì quýt hồng không sao cạnh tranh nổi với lê,\táo nhập nên giá cả rẻ như bèo, như cho…

Tôi cũng dành nhiều thì giờ đi thăm hỏi bạn bè . Gặp lại nhau, ai nấy đều nửa mừng nửa tủi. Sáu Đèo, Khách, Bích; con nhà kha khá còn được học . Số đông bạn đành chịu dở dang về lam lũ với ruộng vườn . Thương Tí Cộc , Tâm Hô theo cha chú làm phụ hồ tận Sông Bé, ngày tết vẫn không về được .

Đêm đó , tôi ngồi bên nội cùng canh lửa cho nồi bánh nếp lá dừa, nghe bà kể chuyện người, chuyện đất … Về giống quýt hồng nhờ ai mà có, về bao nổi gian lao của cha ông thuở mở đất, khai nguồn . Bà cũng phiền trách mấy đứa con của thím Sáu không chịu làm gì chỉ ham mê rượu chè, đàn đúm, ngày đêm cứ tơ tưởng số tiền đất sẽ được bồi hoàn .

Tôi nghe mà lòng chạnh xót xa . Chợt nhớ lại ánh trăng đêm nào cùng lời ca cũ :“ Đất như người mẹ hiền tần tảo, vắt kiệt sức mình nuôi lớn các con …” Và cũng đêm đó tôi mơ thấy những đoàn tàu chở đầy quýt đỏ, những áo màu dự lễ hội kỳ yên, nghe lại giọng hát hò trên cánh đồng lúa mới và tiếng chị tôi reo vui khi đàn kiến trở về ….

Lẽ ra, tôi không nên viết thêm những câu buồn bã vào cuối mẩu chuyện này. Không hiểu sao có những chiều như hôm nay, lẫn trong những kỉ niệm êm đềm nơi xóm Quýt, hình bóng chị Phương thân thiết lại cứ hiện về.Nhớ mà đau, cha chị mất sớm; rồi vì mẹ vì em, chị bằng lòng lấy chồng người Đài loan cao tuổi và nghe đâu phải lâm cảnh đắng cay, mặn nhạt ở xứ người… Những ngày nơi xóm Quýt xưa kia, chiều nào chị cũng sang nhà rủ tôi đi quét lá quýt khô để dành nhóm bếp. Có lẽ chiều nay chị âm thầm ngồi đâu đó một mình , nhớ mẹ nhớ quê, nhớ cả khói lên trời …


Bùi Thuỵ Đào Nguyên
 
ÔNG LÃO VƯỜN CHIM
ANH ĐỨC

Khoảng rừng tràm cuối cùng bị bom dầu đốt cháy đã được dập tắt. ánh mặt trời nhạt dần trên những ngọn tràm. Sức nóng của một ngày nắng hạ và cháy lửa đã dịu hẳn xuống. Chiều lại đến, buổi chiều bảng lảng của U Minh và biển như đang lặng lờ ve vuốt các đám cháy còn nghi ngút khói. Như đang rờ rẫm những vết thương chưa trút cơn đau của rừng.

Đứng bên cái khoảng rừng bị cháy mới được dập tắt đó, một ông lão đen đúa cứ chống cuốc đứng nhìn trân trối những cây tràm bị cháy trụi gốc. Ông lão ở trần, đầu buộc khăn xước, mặc cái quần không ra quần ngắn mà cũng chẳng thành quần dài. Mồ hôi tươm tươm chảy ướt cả lưng ông lão, tấm lưng cháy nắng, đen thui thủi và dăn deo. Đôi mắt ông lão từ nãy giờ không chớp lấy một cái, mà cả người ông cũng vậy, cứ im nguyên, như tì hẳn lên cái cán cuốc. Quanh ông còn có chừng một chục người đàn bà đứng tuổi, mấy cô du kích khoác súng bá đỏ và ba bốn đứa con nít. Tất cả hình như đều ở dưới quyền chỉ huy của ông lão thì phải, bởi vì sau khi đứng ngó đám cháy một lúc lâu, bỗng thình lình ông lão đá hất cán cuốc, vung cao lưỡi cuốc lên và hô lớn:

- Thôi đi về, đi về!

Đám người kéo đi sau lưng ông lão, men ra phía bờ kinh. Dọc đường, ông lão thộp được mấy con rùa bị bom nóng quá chạy trốn xuống dưới gió. Ông lão gọi mấy đứa nhỏ tới, đưa cho nó. Mấy đứa nhỏ tay bợ rùa, chân bám sát theo ông lão. Hễ hướng mắt ông lão ngó chỗ nào là tụi nó te te chạy tới chỗ đó, kiếm rùa. Đang đi lầm lũi, chợt ông lão quay ra sau nói:

- Nè, ai làm siêng xuống phía dưới gió mấy chỗ bị cháy, thế nào cũng kiếm được rùa ăn... Mẹ cha ba thằng Mỹ, nó cứ chơi cái mửng này đôi ba trận nữa thì rùa rắn gì cũng bỏ đi hết ráo.

Đi tới một cụm rừng tràm có tiếng cò, diệc kêu vang rân, ông lão dừng lại. Trước khi lẩn vô cụm tràm đó, ông lão còn dặn với:

Hừng đông, mấy đứa phải có mặt đông đủ ở chòi của tao nghe. Nhớ đem theo dao phảng để chặt rễ cây.

Đám người nghe ông lão dặn thế thì đều dạ. Mặc dù ông lão nói câu nào câu nấy cứ như là hạ lịnh, nhưng ngó bộ ai nấy đều nghe ông răm rắp, chừng như họ có vẻ tin tưởng và kính nể ông dữ lắm.

Đám người đó đều đi về xóm bìa rừng, trừ một cô du kích thì cũng ghé vô cụm tràm với ông lão.

Ông lão về tới chòi, trời đã sụp tối. Cô du kích theo kịp ông lão luồn trước vào chòi. Trong phút chốc, ánh đèn đã cháy lên. ánh đèn chờn vờn soi rọi gian chòi có sàn lót bằng những cây tràm lột vỏ. Kể ra cái chòi cũng khá tươm, tuy không lớn như cái nhà, nhưng coi gọn ghẽ và kín đáo. Những thân tràm lót sàn lên nước bóng láng. Trong chòi có cả bếp nấu, sống chén, và ở cây cột giữa có treo một cây đờn gáo
 
Ông lão dựng cuốc ở hè, nhưng chưa vào chòi. Trong khi cô gái nổi lửa bếp và bắt cá rộng nơi lu đem đập đầu bôm bốp thì ông lão vẫn còn đứng ngoài sân. Bóng tối mỗi lúc một đen thẫm. Thế mà bên trái mái chòi, bên trên đầu ông lão, cò diệc vẫn còn bay loạn xạ. Chúng kêu lên, vỗ cánh soàn soạt. Hình như những con cò con diệc ấy nửa muốn đậu xuống, nửa muốn lìa khỏi cụm rừng. Ông lão đứng trong bóng đêm nhập nhoạng, đưa hai bàn tay nứt nẻ dính đầy tro bụi sờ sờ bấu bấu lên ngực.

- Trời ơi... - Ông lão buột miệng rên rỉ.

Là vì giữa lúc đó, ông lão đau đớn quá. Giữa lúc đó, ông lắng tai nghe thấy được những tiếng đập cánh phân vân, rõ ràng là lũ chim của ông đang không nỡ bỏ đi, nhưng đáp xuống thì lại không dám.

- Chưa có trận nào như vậy, thiệt là chưa có mà!

Ông lão lẩm bẩm tự nói.

Đêm tối trùm phủ cái vườn chim xao xác, trùm phủ bóng ông lão đứng ngước mặt nhìn lên. Tối nay thiệt là một đêm tối khác biệt, có thể nói là một đêm tối tai biến nhất đã xảy ra trong gần suốt bốn mươi năm kể từ khi ông lão tới đây coi giữ vườn chim. Tại góc rừng U Minh hạ miệt giáp biển Hòn Đá bạc này, ông lão đã sống gần trọn một đời. Trong ngót bốn mươi năm, bên mái chòi ông lão ngủ, hầu như không có lúc nào ngừng nghỉ tiếng chim kêu, tiếng chim vỗ cánh, tiếng của những chuyến đi và về của không biết cơ man nào là cò cùng diệc.

Những năm tháng dài dặc đã gắn liền đời ông lão với khu vườn chim. Lâu rồi, ông có niềm vui sướng bình dị của riêng ông là chiều nào lũ chim cũng trở lại với ông, kêu lên những tiếng kêu như tiếng khánh, làm rộn rịp cả cụm rừng và vui vẻ bầu trời. Đời ông lão vất vả cực nhục đã nhiều, cho nên nguồn vui của ông nó cũng đơn sơ: tình ông đối với cái vườn chim này là một, và tình ông đối với bộ đội giải phóng là hai. Thì chính có lần ông đã thốt: - Cái chi tao dứt bỏ được chớ cái vườn chim này với mấy thằng bộ đội thì tao không dứt ra được đâu!

Nói mấy thằng bộ đội tức là trong đó có cả thằng cháu nội của ông hiện tại ngũ, mà chính cô du kích nổi lửa nấu cơm trong chòi là vợ chưa cưới của anh ta.

Cho tới bây giờ, cả xã ít có ai biết tên thiệt ông lão là gì.

Bà con nơi xóm bìa rừng đây thì vẫn thường gọi ông là ông Tư Vườn Chim.

Nay ông Tư Vườn Chim tuổi đã dư sáu mươi rồi đó, thế mà cái vườn chim ông coi giữ đây còn cao tuổi hơn ông nhiều. Theo lời ông thì cò, diệc kéo đến làm tổ ở đây đã lâu, lâu lắm. Khi ông cùng vợ vác nóp tới cắm chòi, cụm rừng tràm này chim cò đã tới nhiều. Ông nói trong buổi đi kiếm đất khai khẩn bị lạc lối, ông leo lên cây cao nhắm hướng, xảy thấy giữa khoảng rừng tràm xanh ngăn ngắt nổi lên một cụm rừng nhấp nhô những cánh chim lên lên xuống xuống, và ông thấy tất cả những ngọn tràm ở đó đều nhuốm trắng, trắng xóa. Bấy giờ tuy còn ôm chặt thân cây nhưng ông đã kêu với vợ đứng dưới:

- Mình ơi, khỏe rồi, vợ chồng mình sống đặng rồi!
 
Quả là vợ chồng ông Tư Vườn Chim đã sống ngay được từ buổi đầu lặn lội tới U Minh, nhờ ở cái vườn chim trời cho ấy, nhờ ở những con diệc con cò mới ra ràng mà hai vợ chồng cào móc cho rớt xuống, bắt đem bán và đổi gạo. Rõ ràng thiên nhiên U Minh đã khoản đãi ông, đã bù đắp cho ông sự vất vả cực nhục mà thời con trai ông sớm chịu đựng, nhưng chịu đựng riết không nổi phải bỏ làng dắt vợ đi miết tới chốn này. Nhưng hỡi ôi, thiên nhiên nào có khoản đãi ông được lâu. Sau khi vợ chồng ông cắm chòi giáp năm thì bỗng thình lình ngày nọ có mấy người mặc áo "bành tô" vàng ngồi xuống đi từ Xép Biển vô báo cho vợ chồng ông hay rằng cái vườn chim này đã có chủ chớ không phải vườn chim hoang, và người chủ phóng bông tiêu lâu rồi, cớ sao hai vợ chồng dám lỏn vô ở, tự tiện bắt chim đem bán. Ông Tư nghe vậy mới bật ngửa, mồ hôi toát ướt cả người. Khi ông hỏi người chủ là ai, thì mấy người mặc áo bành tô vàng đó không thèm đáp, cứ chắp tay sau đít đi rảo rảo quanh chòi ngó coi chim cò, xầm xì to nhỏ cái chi với nhau. Lúc sắp xuống xuồng về, họ mới nói tạt vào mặt ông là ông không lo sửa soạn đi ở tù còn ở đó gân cổ lên mà hỏi. "Người chủ là ai à? Là ông hội đồng ở bên Phong Thạnh, biết chưa?".

Cái ông hội đồng ở bên Phong Thạnh mà ông Tư không hề biết mặt mũi ra sao đó, bỗng chốc trở thành ông chủ vườn chim. Còn ông Tư thì cũng chưa đến nỗi đi ở tù. Người ta nói là để giảm tội cho ông, ông phải ở lại chòi mà coi giữ vườn chim, mà bắt chim giao cho ông hội đồng. Tóm lại, đáng ra ông mới chính là chủ vườn, thì trong nháy mắt ông biến thành kẻ đầy tớ. Ức quá, ông muốn dắt vợ bỏ đi chỗ khác thử kiếm kế mưu sinh lần nữa, nhưng ngặt vì lúc ấy vợ ông đã có thai. Hơn nữa chốn này kể như là "thủy đã cùng, sơn đã tận" rồi còn biết đi đâu nữa.

Vậy là ông Tư Vườn Chim đành ở coi vườn cho ông hội đồng Phong Thạnh. Về sau ông hội đồng này bán đất cho Tây La Ghi, ông Tư lại là kẻ ở coi chim cho Tây La Ghi. Cách mạng tháng Tám thành công, ông Tư Vườn Chim như người chết đi sống lại. Lúc này vợ ông đã qua đời và đứa con trai cũng đã thành niên. Ông lo cưới vợ cho con. Khi Tây bắt đầu tấn công xuống miệt này, ông liền cho con trai đi Vệ quốc đoàn. Mấy tháng sau, đứa con trai độc nhất của ông hy sinh trong trận Xẻo Rô, để lại vợ và một đứa con, cũng là con trai. Ông Tư Vườn Chim bao bọc cho con dâu và nuôi thằng cháu nội.
 
Hồi kháng chiến lần trước, vườn chim vẫn thuộc đất giải phóng nên ông Tư là người quản thủ vườn chim cho quốc gia. Hòa bình lập lại, không lâu sau, bọn Diệm đóng đồn lớn ở Xép Biển, luồn sâu tới xóm bìa rừng lập hội đồng hương chính, tổ chức tự vệ hương thôn. Chúng bắt đầu giết người kháng chiến cũ một cách ác hại. Nhưng làm chi thì làm, khu vực vườn chim của ông và các cánh rừng tràm kế cận suốt những năm đen tối vẫn là chỗ tốt nhất cho anh em cán bộ cách mạng lánh né, ẩn náu. Trong mấy năm đó, ông chứng kiến biết bao cảnh thương tâm, và ông lại mất nốt đứa con dâu, một đứa con dâu mà ông lão thương yêu rất mực. Đã nhiều lần, vì cảm thương cho tuổi trẻ góa bụa, ông đã lựa lời khuyên con dâu hãy gây dựng cuộc đời mới. Và cứ để đứa con cho ông nuôi. Nhưng chị vợ góa của người Vệ quốc đoàn ấy chỉ khóc, và cứ như vậy, ngày ngày đi bắt chim với ông lão, nuôi con. Hồi đen tối, chị vẫn thường lẻn đi đem cơm cho anh em cán bộ trốn ngoài vườn tràm. Bọn ác ôn tay sai của Mỹ Diệm bắt được chị giữa lúc chị đi tiếp tế. Chúng mổ bụng chị tại vườn chim, nơi chị sống qua những ngày góa bụa để nuôi con khôn lớn.
 
Ở cuối hai con đường - Phạm Tín An Ninh

( Một câu chuyện hoàn toàn có thật.Tác giả xin được kể lại nhận dịp kỉ niệm ngày miền Nam thất thủ)



Những năm "cải tạo" ở miền Bắc, tôi được chuyển đi khá nhiều trại.Từ Lào Cai, xuống Hoàng Liên Sơn, rồi Nghệ Tĩnh.Khi mới đến Hoàng Liên Sơn, tôi được đưa đến trại Hang Dơi, nằm sâu trong núi.Đây là một vùng sơn lâm chướng khí, nên chỉ mới gần hai năm mà tôi đã có hơn 20 người bạn tù nằm lại vĩnh viễn ở dưới sườn đồi.

Sau đó, tôi được chuyển về trại 6/Nghĩa Lộ. Trại này nằm gần Ban chỉ huy Tổng Trại, và cách trại 5, nơi giam giữ gần 30 tướng lãnh miền Nam, chỉ một hàng rào và mấy cái ao nuôi cá trám cỏ. Ban ngày ra ngoài lao động, tôi vẫn gặp một vài ông thầy cũ, kể cho nhau nghe đủ thứ chuyện vui buồn.

Ngày nhập trại, sai khi "biên chế" xong, cán bộ giáo dục trại đưa 50 thằng chúng tôi vào một cái láng lợp bắng nứa, nền đất, ngồi chờ "đồng chí cán bộ quản giáo" đến tiếp nhận.

Vài phút sau, một sĩ quan mang quân hàm thượng uý đi vào láng. Điều trước tiên chúng tôi nhìn thấy là anh ta chỉ còn một cánh tây. Một nửa cánh tay kia chỉ là tay áo bằng kaki Nam Định, buông thỏng xuống và phất phơ qua lại theo nhịp đi của anh.Không khí trở nên ngột ngạt.Không nói ra, nhưng có lẽ trong đám tù chúng tôi ai cũng có cùng một suy nghĩ:
-Đây mới đích thực là nợ máu đây, biết trả như thế nào cho đủ?

Nhưng bất ngờ, người cán bộ quản giáo đến trước chúng tôi, miệng nở nụ cười.Nhìn khuôn mặt hiền lành, và ánh mắt thật thà, chúng tôi cũng bớt lo âu.

Bằng một giọng đặc sệt Nghệ Tĩnh, anh quản giáo giới thiệu tên mình: Nguyện văn Thà, rồi "báo cáo" một số nội quy, yêu cầu của trại. Anh đưa cho anh đội trưởng một tập vở học trò, phát cho anh em mỗi người một tờ giấy để làm bàn "lý lịch trích ngang".

Tôi đang ngồi hý hoáy viết cía bản kê khai lý lịch ba đời với bao nhiêu thứ "tội" dưới biển trên trời mà tôi đã thuộc lòng từ lâu lắm- bởi đã phải viết đến cả trăm lần, ngay cả những lần bị đánh thức lúc nửa đêm- bỗng nghe tiếng anh quản giáo hỏi:

- Trong này có anh nào thuộc Sư 23?

Tôi im lặng giây lát rồi lên tiếng:

-Thưa cán bộ, có tôi ạ.

-Anh ở trung đoàn mấy?

-Trung đoàn 44.

-Vậy anh có tham dự trận đánh Trung Nghĩa ở KonTum đầu mùa hè 1972?

-Vâng, có ạ.

Anh quản giáo đưa cánh tay bị mất một nửa, chỉ còn cái tay áo đong đưa, nói:

-Tôi bị mất cánh tay này trong trận đó.

Nhìn qua anh em, tất cả mọi con mắt đều dồn về phía tôi.Để lấy lại bình tĩnh, tôi làm ra vẻ chủ động:

-Lúc ấy cán bộ ở đơn vị nào?

-Tôi ở trung đoàn xe tăng thuộc Sư 320.
 
Anh quản giáo rảo mắt nhìn quanh, rồi hạ giọng tiếp tục:

-Trận ấy đơn vị tôi thua nặng.Cả một tiểu đoàn tăng của tôi còn có 2 chiếc.Chiếc T54 của tôi bị bắn cháy. Tôi thoát được ra ngoài, nhưng bị các anh bắt làm tù binh.

-Sau đó cán bộ được trao trả? Tôi hỏi.

-Tôi bị thương nặng lắm, do chính đạn trong xe tôi phát nổ. Tôi được các anh đưa về Quân y viện Pleiku chữa trị. Nhờ vậy mà tôi còn sống và được trao trả tù binh đợt cuối cùng năm 1973, sau đó có hiệp định Ba Lê.

Dạo đó, miền Bắc; đặc biệt trên vùng Hoàng Liên Sơn, trời lạnn lắm. Mỗi láng được đào một cái hầm dưới nhà, đốt những gốc cây được anh em nhặt ngoài rừng, sau giờ lao động, mang về sưởi ấm. Tối nào, anh quản giáo cũng xuống sinh hoạt với anh em. Gọi là sinh hoạt, nhưng thực ra anh chỉ tâm tình những chuyện vui buồn đời lính,tham hỏi hoàn cảnh của anh em tù, và khuyên anh em nên cố gắng giữ gìn sức khoẻ, đừng làm điều gì sai phạm để không phải nghe mấy ông cán bộ nặng lời. Anh thường nói"

-Tôi rất đau lòng, khi thấy các anh phải nghe những lời thô lỗ. Tôi biết các anh đều là những người có trình độ văn hoá và anh cũng đã từng chỉ huy.

Mùa đông, không trồng trọt được nên khẩu phần ăn của mỗi người tù chỉ có một miếng bánh mì đen bằng hai ngón tay, hoặc lưng một bát bắp hạt. Phần thiếu ăn, một phần ẩm ướt thiếu vệ sinh, nên nhiều anh em tù bị bệnh kiết lỵ. Thuốc men hoàn toàn không có, nên bệnh kéo dài lâu ngày.Nhiều người đứng không vững.

Một buổi chiều cuối đông, mưa phùn rả rích, sương mù giăng kín cả thung lũng trại tù, cả đám tù chúng tôi ngồi co ro trong láng, cố nhai từng hạt bắp cứng như viên sỏi, nhìn ra cánh đồng phía trước, thấp thoáng một người mang áo tơi( loại áo mưa kết bằng lá cây ) chạy lúp xúp từ chỗ này đến chỗ khác, cho đến khi trời tối.

Đêm đó, như thường lệ, anh Thà xuống sinh hoạt với anh em bên bếp lửa. Anh bảo nhỏ anh đội trưởng:

-Tôi để một giỏ cá đàng sau láng.Trước giờ ngủ, anh ra mang vào, chia cho mấy anh em bị kiết lỵ đang mất sức để các anh bồi dưỡng.Nhớ giữ kín, đừng để trên biết.

Bây giờ anh em mới hiểu, người mà chiều nay, đặt lờ bắt cá ngoài đồng ruộng chính là quản giáo Thà.Ai cũng cảm động.

Biết là anh em tù bị đói triền miên, nhất là sau mùa đông dài, một buổi sáng đầu mùa xuân, quản giáo Thà đưa cả đội 50 người tù lên một đồi trồng sắn của một hợp tác xã nào đó. Sắn đầu mùa, của còn nhỏ.Anh chỉ cho anh em cách đào lấy củ mà thân sắn vẫn còn nguyên; đào mấy cái bếp "Hoàng Cầm" để luộc sắn mà không ai phát hiện có khói.Anh dắt hai anh tù xuống đồi xách hai thùng nuớc mang lên, căn dặn anh em thay phiên nhay luộc sắn an cho no.Anh đích thân ở lại đứng gác, nếu có ai vào, anh vờ ra lệnh "chuẩn bị đi về", anh em tức khắc giấu hết "tang vật" xuống một cái hố đã đào sẵn.

Dường như đó là cái ngày duy nhất mà 50 người tù chúng tôi được no- dù chỉ là no sắn.

Không biết tối hôm ấy, trong giờ "giao ban", quản giáo Thà đã báo cáo với ban chỉ huy trại là đội tù của chúng tôi đã phát được bao nhiêu hecta rừng?

Mỗi lần ra bãi thấy anh em lao động nặng nhọc, anh Thà bảo nhỏ"

-Anh em làm việc vừa phải, khi nào mệt thì ta nghĩ. Nhớ giữ gìn sức khoẽ, vì thời gian cải tạo còn dài lắm.

Vào một dịp Tết, cầm giấy nghỉ phép trong tay, nhưng anh không về nhà, mà ở lại với anh em. Số tiền lương vừa lãnh được, anh mua mấy bánh thuốc lào, vài ký kẹo lạc, biếu anh em ăn tết. Lần ấy, anh tâm sự thật nhiều với anh em:

- Lần bị thương năm 1972 ở Kontum, tôi nghĩ là tôi đã chết. Vết thương quá nặng, lại phải nằm trong rừng rậm một mình, không có thức ăn, nước uống.Trong lúc tuyệt vọng nhất, tôi bất ngờ được một đơn vị của Sư 23 các anh phát giác. Các anh băng bó vết thương, cho tôi ăn uống, tận tình săn sóc tôi như một người đồng ngũ.Các anh luân phiên khiên tôi ra khỏi khu rừng rậm, gọi máy bay tản thương đến đưa tôi về bệnh viện. Trời tối, máy bay chưa xuống được, đảo mấy vòng, thì vị trí bị lộ. Các anh bị pháo kích, may mà không có ai bị thương.Các anh lại phải vội vàng di chuyển đi nơi khác. Cả khu rừng chỉ có một khe đá là nơi trú ẩn an toàn, các anh lại dành cho tôi, rồi phân tán mỏng.Tôi được hai anh y tá săn sóc suốt cả đêm. Người chỉ huy hôm ấy là một anh rất trẻ, mang quân hàm trung uý, mấy lần ôn tồn hỏi thăm tôi và khuyên tôi cố gắng để được đưa về quân y viên chữa trị. Anh còn cho tôi nửa bao thuốc lá còn lại của anh, bảo tôi hút thuốc để quên bớt cơn đau của vết thương. Sáng sớm hôm sau, tôi được máy bay tản thương đưa tôi về quân y viện Pleiku. Ở đây, mặc dù tôi phải nằm riêng, nhưng được bác sĩ các anh chăm sóc tận tình. Tất cả đã đối xử với tôi như người đồng đội. Có lần, một phái đoàn đến uỷ lạo thương binh các anh, họ cũng đến thăm, cho tôi quà, và an ủi tôi thật chân tình. Vết thương vừa lành, thì tôi được lệnh trao trả tù binh. Khi chia tay, bệnh viện còn cho tôi nhiều thuốc men và một số đồ dùng.Lòng tôi tràn ngập cảm xúc.Tôi nghẹn ngào trước tình con người, tình dân tộc mà các anh đã dành cho tôi. Tình cảm ấy tôi chôn chặt tận đáy lòng, không dám tâm sự cùng ai, vì lòng tôi lúc nào cũng nghĩ đến vợ con tôi, và nhất là người mẹ già gần tuổi 80 đang ngày đêm mong chờ tôi trở về.
 
Thời gian vàng son của năm mươi người tù đội 4 trại 6/Nghĩa Lộ, Hoàng Liên Sơn, kéo dài không quá sáu tháng.

Một buổi sáng sớm, khi sương mù còn vương trên thung lũng trãi tù, một người đạp chiếc xe đạp vội vã rời ban chỉ huy trại. Sau xe đèo theo một cái rương bằng gỗ và một túi đeo lưng bộ đội.Một vài anh em nhận ra anh Thà và báo cho anh em. Cả một đội năm mươi người tù vừa mới thức dậy, còn ngái ngủ, chạy ùa ra sân, vẫy tay gọi. Anh Thà không nhìn lại, đưa cánh tay chỉ còn một nửa lên vẫy vẫy, rồi biến dạng trước cổng trại.

***

Chiếc thuyền nhỏ mang theo trên 30 người vượt biển, trong đó có tôi và ba người bạn cùng tù ở Nghĩa Lộ ngày trước, ra đến hải phận quốc tế hai ngày thì gặp bão. Chúng tôi may mắn được một chiếc tàu chuyên chở dầu hoả của vương quốc Na Uy, trên đường tứ Nhật sang Singapore, cứu vớt.Hai ngày đêm trên tàu là cả một thiên đường.Từ vị thuyền trưởng đến anh thuỷ thủ, chị bác sĩ, y tá, đều hết lòng săn sóc lo lắng cho chúng tôi.Hôm rời tàu để được chuyển đến trại tị nạn Singapore, chúng tôi quá xúc động không ai cầm được nước mắt.Tất cả thuỷ thủ đoàn đều ra đứng thành hai hàng dài trên boong tàu, ai nấy đều khóc sướt mướt ôm lấy từng người chúng tôi mà chia tay. Rồi những ngày sống trong trại, chúng tôi được thầy cô giáo và ông đại sứ Na Uy, thường xuyện có mặt lo lắng cho chúng tôi đủ điều.Chúng tôi vừa xúc động vừa đau đớn. Nỗi đau của một người vừa mới bị anh em một nhà hành hạ, đuổi xô đến bước đường cùng, phải bỏ nhà bỏ xứ để thoát thân trong cái chết, bây giờ lại được những kẻ xa lạ không cùng ngôn ngữ, màu da, màu tóc, lại hết lòng đùm bọc yêu thương.Mang cái ân tình đó, chúng tôi chọn Na Uy là nơi tạm gởi phần đời còn lại của mình.

Bốn anh em, những người cùng tù Nghĩa Lộ năm nào, đươc sắp xếp ở gần nhau.Mỗi ngày gặp nhau đều nhắc lại những năm tháng khốn khổ trong tù.Đặc biệt khi nhắc tới quản giáo Thà, ai trong chúng tôi cũng ngậm ngùi, nghĩ đến một người không cùng chiến tuyến mà còn có được tấm lòng.Sau lần bị "hạ tầng công tác" ở trại tù Nghĩa Lộ, không biết anh đi về đâu, nhưng chắc chắn là bây giờ cũng vất vã lắm.

Sau hai năm theo học, tôi được nhận vào làm trong ngân hàng bưu điện trung ương.Tại đây, tôi quen với Kenneth Hansen, một bạn đồng nghiệp còn trẻ tuổi, lại ở gần nhà, nên sau này trở nên thân tình.Anh ta là sinh viên đang theo học về kinh tế, chỉ làm việc thêm ngoài giờ học.Làm chung gần một năm, thì anh bạn Na Uy này được nhận vào một công ty lớn và sang làm việc ở chi nhánh bên Ấn Độ.

Bẵng đi vài năm, bất nờg một hôm anh gọi điện thoại báo là sẽ đến thăm tôi và đem đến cho tôi một bất ngờ. Và đúng là bất ngờ thật, vì cùng đến với anh là người con gái Việt Nam. Anh giới thiệu với vợ chồng tôi, đó là vị hôn thê của anh.

Cô gái tên Đoan, nói giọng Hà Nội chính tông. Gặp chúng tôi ở một nơi xa lạ, cô vui mừng lắm, nhưng khi nhìn thấy tấm ảnh của tôi treo trên tường, mang quân phục và cấp bậc của quân đội Việt Nam Cộng Hòa, cô có vẻ ái ngại.Biết vậy, chúng tôi vẫn niềm nở, đùa cợt cho cô được tự nhên.Cô cho biết cô là bạn thân của nữ ca sĩ Ái Vân từ lúc hai người còn đi học ở Hà Nội.Sau sáu năm du học ở Đông Đức, rồi Liên Xô, cô được sang thực tập tại Ấn Độ.Chính tại đây cô có dịp gặp và làm quen với chàng trai Na Uy này. Khi ấy cô đã có chồng và một đứa con trai. Người chồng trước cùng du học ở Liên Xô, sau này trở thành một cán bộ cao cấp trong ngành dàu khí tại Hà Nội.Sau thời gian thực tập ở Ấn Độ trở về, cô được bạn bè và người thân cho biết là anh chồng đã cặp một cô gái khác chỉ một vài tuần sau ngày cô đi.Cô đem việc này nói phải trái với chồng, lại bị anh ta hành hung và nói những lời thô lỗ.Cô vừa buồn vừa giận, bỏ chồng, xin sang học tiếp chương trình Tiến sĩ tại một đại học ở Đông Đức.

Sau này bức tường Bá Linh ô nhục bị nhân dân Đức phá sập, nước CHND Đức ( Đông Đức ) bỗng chốc không còn nữa. Cô không về nước mà tìm cách trốn sang Tây Đức. Qua một thời gian hết sức khó khăn, cô may mắn liên lạc được với anh Kenneth Hansen, để được bảo lãnh sang Na Uy. Biết cô thuộc gia đình một đảng viên cộng sản cao cấp, bởi cô được du học ở nhiều nước thuộc khối cộng sản trước đây, nhưng tôi không hỏi vì sợ cô ngại. Sau này chính Kenneth Hansen, cho biết, bố của cô trước đây là đại sứ Việt Nam tại Liên Xô cũ.Sau này Liên Xô sạp đổ, kéo theo sự tan vỡ toàn khối cộng sản Đông Âu, ông xót xa nhìn ra đuợc một điều gì đó. Trở về Việt Nam, ông không còn được nhà nước cộng sản trọng dụng, trở thành kẻ bất mãn, cả ngày nằm nhà không tiếp xúc một ai.

Sau một thời gian, được cấp quốc tịch Na Uy, cô Đoan trở về Việt Nam thăm gia đình, đặc biệt là người cha già đang ốm nặng.Nhân tiện xin mang đứa con trai sang Na Uy với cô.

Việc cô trở về Hà Nội làm tôi nghĩ đến anh quản giáo Nguyễn văn Thà thuở trước.Tôi cùng với mấy người bạn tù cũ, góp một số tiền khoảng 800 đô la, nhờ cô Đoan về Nghệ Tĩnh và trao lại cho anh, như để tỏ chút lòng biết ơn một người bao nhiêu năm sống trong đám bùn lầy nước đọng mà vẫn còn giữ sạch được tấm lòng.Việc tìm anh không phải dễ dàng, vì chúng tôi không biết nhiều về anh. Trong mảnh giấy nhắn , chỉ vỏn vẹn vài chữ:" ông Nguyễn văn Thà, gốc Nghệ Tĩnh, khoảng năm 1979 là thượng uý,làm quản giáo trại tù cải tạo số 6/Nghĩa Lộ, Hoàng Liên Sơn". Cô Đoan vui vẻ nhận lời và hứa sẽ tìm đủ mọi cách để gặp hoặc liên lạc anh Thà.Cô cũng cho biết là cô có ông chú họ hiện làm việc tại bộ quốc phòng.Cô sẽ nhờ ông tìm hộ.

Một tháng sau, cô Đoan trở lại Na Uy, báo cho chúng tôi biết là ông chú của cô không tìm thấy tên Nguyễn văn Thà trong danh sách sĩ quan.Ông đoán là anh ta đã bị phục viện từ lâu lắm rồi. Cô đã đích thân vào Nghệ Tĩnh, hỏi thăm mọi cơ quan, nhưng không ai biết.Cuối cùng cô phải thuê mấy tờ báo địa phương đăng lời nhắn tin, trong đó có ghi số điện thoại của tôi. Cô còn cho biết là nhận tiện có mặt ở Nghệ Tĩnh thì cô nhờ họ thôi, chứ không có nhiều hi vọng gì, vì chỉ một số ít người ở thành phố có báo đọc.

Thời gian trôi qua, bận bịu bao nhiêu việc làm ăn, lo cho con cái, để kịp hội nhập vào đời sống trên quê hương mới, chúng tôi không còn ai nhắc đến chuyện anh Thà.

Bỗng một hôm, khi đang say ngủ, nghe tiếng điện thoại reo, tôi giật mình tỉnh giấc. Xem đồng hồ, hơn hai giờ sáng.Mùa đông Bắc Âu, nhiệt độ bên ngoài cửa sổ chỉ -20 độ C. Tôi ái ngại.Giờ này mà ai gọi điện thoại thì phải có điều gì khẩn cấp lắm.Tôi bốc ống nghe, đầu dây bên kia là giọng một cô gái, nói tiếng Việt rất khó nghe.Cô hối hả, nhưng rất lễ phép, xin được gặp tôi. Cô cẩn thận nhắc lại tên tôi hai lần, với đầy đủ họ và tên.

- Xin lỗi, cô là ai và đang ở đâu ạ? tôi hỏi.

- Dạ, cháu là Hà, Nguyễn Thị Hà, cháu đang ở Ba Lan ạ.

Tôi im lặng. Thoáng lục lọi trong trí nhưng tôi không nhớ là mình đã quen ai tên Hà. Bên đầu dây, cô gái lên tiếng:

- Bác có còn nhớ ông Thà, làm quản giáo ở Nghĩa Lộ không ạ?

-Ông Thà, Nguyễn văn Thàn, Bác nhớ, nhưng cô là gì của ông Thà, và sao lại ở Ba Lan?

- Dạ, ông Thà là bố cháu. Cháu ở Ba Lan với một đứa em trai. Bọn cháu khổ lắm Bác ạ.Tiếng cô gái sụt sùi.

-Cháu cho bác số phôn, bác gọi lại ngay, để cháu khỏi tốn tiền.

Tôi gọi lại, và nghe tâm sự não nề của cô gái. Cô và em trai, tên Tĩnh, được bố mẹ lo lắng, chạy vạy, bán hết đồ đạc trong nhà, kể cả chiếc xe đạp Trung Quốc mà cha cô nâng niu như là một thứ gia bảo, vay mượn thêm, lo cho hai chị em cô sang lao động bên Ba Lan.Sau khi chính quyền cộng sản Ba Lan bị cuốn theo làn sóng dân chủ ở Đông Âu, chị em cô cùng hầu hết những người được chính quyền Việt Nam gởi sang lao động, đã không về nước, trốn ở lại. Vì sống bất hợp pháp, nên không tìm được việc làm chính thức.Hầu hết làm chui, buôn bán thuốc lá lậu.Một số trở thành ăn cắp, băng đảng, quay lại cướp bóc hoặc tống tiền những người đồng hương, đồng cảnh. Số người Việt này trở thành mối bận tâm không nhỏ cho những chính quyền mới ở các nước Đông Âu.

Hai chị em cô Hà thuê một căn gác nhỏ trong thành phố Warszawa, nhận thuốc lá của một ngưòi khác, mang đi bán.Nhưng mỗi lần dành dụm được một ít, chưa kịp gởi về gia đình thì bị cướp sạch.Một hôm, cậu em trai nhận thuốc lá mang đi bán, bị cảnh sát bắt và phát hiện số thuốc lá kia vừa bị mất cắp tại một cửa hàng Ba Lan. Vì vậy cậu em trai bị nhốt vào tù, còn cô Hà thì đang bị truy nã.Việc xảy ra một ngày trước khi cô Hà gọi điện thoại cho tôi.

- Bây giờ cháu đang ở đâu? tôi hỏi.

-Cháu đang trốn ở nhà một người bạn, nhưng cô ta không dám chứa cháu lâu.Cháu không biết phải làm sao, thì bất ngờ nhớ đến lá thư của ba cháu gởi cho cháu cách nay vài tháng. Ba cháu bảo cháu trong trường hợp rất cần thiết mới gọi cho bác.

-Ba cháu bây giờ làm gì?

-Ông bị óm nặng. Cách nay hai năm bị tai biến mạch máu não, liệt nửa người, nên chỉ nằm một chỗ. Vì vậy nên chị em cháu trốn ở lại đây để kiếm tiến gởi về cho bố cháu điều trị và sống qua ngày Bác ạ.

Tôi ghi số điện thoại, địa chỉ người bạn của Hà, tên nhà tù mà Tĩnh, em trai của Hà đang bị giam giữ, trấn an và hẹn sẽ gặp cô trong một ngày rất gần ở Ba Lan.

Tôi nhớ tới một người bạn Ba Lan, anh Zbigniew Piwko. Chúng tôi quen khá thân lúc cả hai vứa mới đến Na Uy. Anh ta lớn hơn tôi ba tuổi. Trước kia là một đại tá không quân, chỉ huy một không đoàn chiếcn đấu thuộc quân đội cộng sản Ba Lan. Về sau, ông ta ngầm ủng hộ Công Đoàn Đoàn Kết do ông Walesa lãnh đạo. Hành tung bại lộ, trong khi bị truy bắt, anh đã lấy một chiếc trực thăng, chở gia đình, gồm người vợ và hai đứa con, bay sang Tây Đức. Theo sự thỉnh cầu của anh, gia đình anh được chính phủ Na Uy đặc biệt nhận cho tị nạn chính trị.

Anh và tôi học tiếng Na Uy cùng một lớp, và sau đó có một thời gian chúng tôi cùng làm thông dịch cho Sở Cảnh Sát. Nhưng chỉ hơn một năm sau, thì tình hình chính trị ở Ba Lan thay đổi bất ngờ.

Công Đoàn Đoàn Kết của ông Walesa lãnh đạo đã thắng lợi vẻ vang. Ộng được bầu làm Tổng Thống đầu tiên của nước Ba Lan dân chủ. Anh Piwko, người bạn tị nạn của tôi, được mời về nước để giữ một chức vụ khá lớn trong ngành cảnh sát.Vào những dịp Giáng sinh, nhớ đến tôi, anh gởi thiệp mừng giáng sinh và năm mới. Anh kể đủ thứ chuyện về xứ sở của anh, về niềm vui và hy vọng của người dân Ba Lan bây giờ. Sau tấm thiệp không đủ chỗ nên lúc nào anh cũng viết kèm theo vài trang giấy.Anh mời vợ chồng tôi có dịp thu xếp sang chơi với gia đình anh vài hôm và xem đất nước Ba Lan của anh đang hồi sinh trong dân chủ.

Sáng hôm sau, tôi tìm lại số phôn và gọi cho anh. Anh rất vui mừng khi nghe tôi báo tin sang thăm. Vì đi vội, nênn tôi chỉ đi một mình. Vợ chồng anh đón tôi ở phi trường, nơi dành cho VIP-thượng khách.Anh chị còn cho biết là rất vui khi có dịp được dùng lại ngôn ngữ Na Uy để nói chuyện với tôi.Tôi thực sự xúc động trước sự tiếp đón nồng hậu mà gia đình anh đã dành cho tôi. Tôi ngại ngùng không dám noi với anh những điều muốn nhờ anh giúp.

Nhưng rồi cuối cùng, tôi củng phải tâm tình cùng anh về chuyện anh quản giáo Thà trong trại tù Nghĩa Lộ năm nào, và hoàn cảnh khốn khó của hai đứa con hiện đang ở tại đây, ngay trên đất nước Ba Lan của anh.Nghe tôi kể, anh ngậm ngùi giây lát rồi đứng lên ôm vai tôi, hứa sẽ hết lòng giúp tôi về việc này.

Anh đưa tôi đến gặp hai chị em cháu Hà. Đưa Hà về nhà ở với gia đình anh.Hai hôm sau anh làm thủ tục bảo lãnh Tĩnh, em của Hà từ trại tù về.

Trước khi về lại Na Uy, tôi đã thức trọn một đêm để tâm tình khuyên lơn hai chị em Hà, biếu cho hai cháu một số tiền để tạm sinh sống và chuyển về Việt Nam để biếu anh Thà, bố hai cháu.Trên đường đưa tôi ra phi trường, vợ chồng Piwko bảo tôi yên tâm, anh chị xem hai chị em Hà như là cháu trong nhà và sẽ tận tình lo lắng cho hai cháu.

Hơn một tháng sau, Piwko gọi phôn báo cho tôi tin mừng: hai chị em Hà đã đuợc Piwko bảo trợ, được cấp giấy tờ chính thức cư trú tại Ba Lan. Hai cháu đang được học ngôn ngữ Ba Lan. Hà, vì lớn tuổi, nên sẽ xin việc làm.Tĩnh, em Hà, sẽ được tiếp tục theo học tại một trường trung học.

"Các anh thân quí,

Khi ngồi viết những dòng này cho các anh, thực tình tôi không còn nhớ mặt các anh, nhưng tôi còn nhớ rất rõ thời gian tôi làm quản giáo ở trại Nghĩa Lộ. Vậy mà không ngờ hôm nay các anh còn nhớ đến tôi.Đọc thư của cháu Hà từ Ba Lan gởi về, cùng với số tiền của các anh gởi cho, lòng tôi cảm xúc đến nghẹn ngào.Tôi và gia đình xin muôn vàn cảm tạ.Các anh làm tôi nhớ đến một câu nói của Các Mác:" Chỉ có loài súc vật mới quay lưng trước cảnh khốn khổ của đồng loại". Ngày nay, cả thế giới đều lên án Mác, những nước một thời lấy chủ nghĩa Mác làm ánh đuốc soi đường, bây giờ cũng đã từ bỏ Mác, chỉ còn một vài nơi lấy Mác làm bức bình phong để che đậy những mục nát ở phía bên trong, nhưng câu nói trên kia của Mac, với tôi, vẫn mãi mãi là một lời vàng ngọc. Điều tệ hại là những kẻ một thời theo Mác đã luôn luôn làm ngược lại lời nói này của Mác.

Chúng tôi mừng cho các anh đã đưa được gia đình ra khỏi nước.Mặc dù tôi biết một người phải bỏ quê hương mà đi, còn đau đớn nào hơn. Ngay cả con cái chúng tôi, vất vả biết chừng nào, mà tôi cũng đành khuyên các cháu phải ra đi để may ra còn tìm được một chút tương lai, giá trị nào đó của kiếp con người.

Phần tôi, sau khi bị kiểm điểm nặng nề ở trại Nghĩa Lộ, tôi bị điều ra mặt trận phương Bắc, trong thời kỳ giặc bành trướng Trung Quốc tràn qua biên giới.Nhờ thương tật, tôi được bố trí một công tác lặt vặt ở hậu cần.Mặt trận kết thúc, tôi bị phục viên về nhà, tiền phụ cấp không đủ nuôi chính bản thân.Tôi chỉ còn một cánh tay mà phải phát rẫy trồng rau để phụ giúp gia đình.

Hơn ba năm nay, tôi bị ốm nặng, nằm liệt giường.Nhờ chị em cháu Hà gởi tiền về nuôi tôi và cả gia đình, tôi mới còn sống đuợc tới ngày hôm nay.Biết trốn tại Ba Lan, không có giấy tờ, hai cháu sẽ khó khăn ghê lắm, nhưng vẫn còn hơn là về lại bên này.Có làm suốt ngày cũng chẳng đủ ăn.May mà nhờ các anh hết lòng giúp hai cháu.Cái ơn này biết khi nào chúng tôi mới trả được cho các anh đây.

Tôi biết mình không còn sống bao lâu.Cuối đời một con người, tôi nghiệm rõ được một điều: Chỉ có cái tình con người với nhau mới thực sự quí giá và tồn tại mãi với thời gian.Những chế độ này, chủ nghĩa nọ, cuối cùng cũng chỉ là những đám mây đen bay trên đầu. Đôi khi che ta được chút nắng, nhưng nhiều lúc đã trút bao cơn mưa lũ xuống để làm khốn khổ cả nhân gian..."

***

Không ngờ lá thư đầu tiên này cũng là lá thư cuối cùng chúng tôi nhận được từ anh Thà.Anh đã qua đời sau đó không lâu.Nghe cháu Hà kể lại. Khi hấp hối, anh bảo vợ anh mang mấy cái huy chương, anh được cấp trong thời chiến tranh, đào lỗ chôn xuống phía sau nhà.Anh thầm thì: xin hãy chôn chặt hộ tôi cái quá khứ đau thương và lầm lỡ đó lại. Chính nó đã gây biết bao chia lìa, tang tóc, và sự thù hận của những người anh em cùng một mẹ, không biết sẽ kéo dài cho đến bao giờ?

Phạm Tín An Ninh - Vương Quốc Na Uy
 
Ánh sáng vàng úa của vừng thái dương đỏ chót như còn do dự ở chân dẫy tre già cao vót, rì rào, kẽo kẹt.

Luồng gió mát về chiều vừa đánh thức xóm Hồng Thủy miên man ngây ngất trong bầu không khí nồng nực của buổi trưa mùa hạ. Nào tiếng cười đùa của các cô gánh nước xúm sít nhau bên bờ giếng, nào tiếng ca hát của bọn mục đồng cưỡi trâu bò về chuồng, nào tiếng cãi cọ của trẻ con đuổi chạy quanh mấy gốc đa già trên tòa miếu cổ.

Bỗng trẻ con rời bỏ gốc đa, kéo ùa ra đường và cất tiếng reo:

- Cô điên! A! Cô điên!

Trên con đường hẹp ngoằn ngoèo lượn theo cái lạch nhỏ, bờ trồng cây, lá xanh um, một người con gái chừng mười tám tuổi, tóc bỏ xõa, đương vừa đi vừa lẩm bẩm nói một mình.

Thấy lũ trẻ chạy, reo cười, cô đưa bàn tay lên xua, ra hiệu bảo im đi, rồi lại lẳng lặng cúi đầu đi thong thả như đương cặm cụi theo sau một vật gì, một cái xe chẳng hạn. Bọn trẻ trỏ tay bảo nhau:

- Cô ấy đưa đám ma đấỵ

Một đứa nói:

- Sắp đến huyệt rồị

Quả thực, khi đi đến cái rãnh xẻ để tát nước vào ruộng, người con gái đứng dừng lại, đăm đăm nhìn, như ngắm người ta đương hạ cái áo quan xuống huyệt. Nước mắt cô từ từ nhỏ giọt. Một lát sau, cô quỳ xuống bới đất lấp kín rãnh, rồi nằm phủ phục, khóc nức nở, không ra tiếng. Ðứng xúm xít chung quanh đàn trẻ thi nhau cười như nắc nẻ.

Bỗng cô ngước mặt lên nhìn lên, mỉm cười, rồi như nói với ai đứng bên cạnh:

- Em cảm ơn anh... anh thương em quá... Ðương lúc em đau đớn mà anh lại đến an ủi em thế nàỵ.. Vâng, em xin tuân theo lời anh dạỵ

Chỗ này cô đổi giọng ồm ồm bắt chước tiếng đàn ông:

- Em nghe anh, không nên buồn nữa, không nên khóc nữạ

Rồi cô lại mỉm cười nói giọng tự nhiên, làm như hai người chuyện trò với nhau vậy:

- Không em có buồn nữa đâụ Ở trên đời còn có anh thì em không bồ côi bồ cút đâu mà sợ.

Có lúc cô đứng lặng, hé cặp môi son chú hết tinh thần như đương nghe ai se sẽ thì thầm bên taị
 
Quả thực, khi đi đến cái rãnh xẻ để tát nước vào ruộng, người con gái đứng dừng lại, đăm đăm nhìn, như ngắm người ta đương hạ cái áo quan xuống huyệt. Nước mắt cô từ từ nhỏ giọt. Một lát sau, cô quỳ xuống bới đất lấp kín rãnh, rồi nằm phủ phục, khóc nức nở, không ra tiếng. Ðứng xúm xít chung quanh đàn trẻ thi nhau cười như nắc nẻ.

Bỗng cô ngước mặt lên nhìn lên, mỉm cười, rồi như nói với ai đứng bên cạnh:

- Em cảm ơn anh... anh thương em quá... Ðương lúc em đau đớn mà anh lại đến an ủi em thế nàỵ.. Vâng, em xin tuân theo lời anh dạỵ

Chỗ này cô đổi giọng ồm ồm bắt chước tiếng đàn ông:

- Em nghe anh, không nên buồn nữa, không nên khóc nữạ

Rồi cô lại mỉm cười nói giọng tự nhiên, làm như hai người chuyện trò với nhau vậy:

- Không em có buồn nữa đâụ Ở trên đời còn có anh thì em không bồ côi bồ cút đâu mà sợ.

Có lúc cô đứng lặng, hé cặp môi son chú hết tinh thần như đương nghe ai se sẽ thì thầm bên taị

Ðã hơn một tháng nay, từ hôm cô về làng Hồng Thủy ở với bác để điều trị bịnh thần kinh, chiều nào cô cũng nhắc lại những cử chỉ, những ngôn ngữ như thế, đến nỗi bọn trẻ con trong làng cứ tới giờ ấy là xúm nhau đứng sẵn ở gốc đa bên miếu để chờ cô đi qua. Chúng biết trước rất rành mạch hết mọi sự sắp xẩy ra, từ việc làm cho chí lời nói của cô. Mà hôm nào cũng chỉ đi đến chỗ đương xẻ là cô lại quay về. Trước kia những người tát nước còn ngăn cản không cho cô lấp đất. Nhưng sau thấy cô khóc lóc lạy van khẩn khoản, họ đem lòng thương hại, để mặc cô muốn làm gì thì làm, chờ khi cô đi khuất, họ lại khơi rãnh rạ

Lúc trở về nhà cô đi mau hơn, nết mặt vui tươi, cười cười, nói nói như được cùng người yêu chuyện trò thân mật.

Bỗng khi đến gần nhà, cô lại bưng mặt khóc.

Bọn trẻ thấy cô đang cười, mà khóc ngay được thì cùng nhau cười vang xóm. Như không nghe thấy gì, cô chỉ nức nở nói một mình:

- Vậy ra anh lừa dối em... Anh bỏ em... chơ vơ một mình... một bóng... anh đi lấy vợ.

*

Một hôm đắp xong cái mồ tưởng tượng, cô ngước mắt nhìn lên vừa nói dứt câu: "Em cám ơn anh" thì bỗng cô ngừng bặt.

Trước mặt cô, một trang thiếu niên vận Âu phục đứng nhìn cô có vẻ thương hại, đau đớn. Cô ngẫm nghĩ một lát rồi hỏi:

- Có phải anh Linh của em Cúc đây không?

Chàng mỉm cười gật sẽ.

Cô cúi mặt xuống nũng nịu:

- Anh bỏ em, anh đi mãị

Chàng đuổi bọn trẻ đi theo trêu ghẹo, rồi đưa cô Cúc về nhà.

Ông bác cô ra đón chào khách:

- Cảm ơn ông, cháu nó ốm đã mấy tháng nay. Thuốc uống đã nhiều mà vẫn không chuyển. Tôi lo quá, cậu mợ cháu chết đi chỉ được có một mình cháụ

Chủ nhà mời khách ngồi chơi uống nước. Trong khi ấy thì cô Cúc chú mục đứng nhìn hai người nói chuyện. Chủ hỏi:

- Thưa ông, ông học trường thuốc, vậy ông có biết căn bệnh này không?

Khách đáp:
 
Ðầu đuôi bệnh trạng ra sao, xin cụ kể lại cho tôi nghe xem.

- Thưa ông, nào có gì đâu. Hồi tháng hai năm ngoáị..

Thấy cô Cúc đứng lắng tai nghe chuyện, khách bảo sẽ chủ:

- Giá Cụ bảo cô ấy vào trong nhà đã rồi hãy nói chuyện thì hơn.

Khi Cúc đã ngoan ngoãn theo lời bác lẳng lặng vào buồng, cu. Tú Vụ liền kể cho khách nghe cậu chuyện sau này:

"Cúc bồ côi cha từ năm lên mười. Mẹ cô nhà cũng khá, cho cô đi học, và hiện cô đang theo học năm thứ ba trường Sư phạm. Mẹ cô có mình cô nên rất mực chiều chuộng, mà cô thì cô yêu quý mẹ lắm.

Bỗng tháng hai năm nay, mẹ cô ốm. Hơn một tháng cô hết sức trông nom, đến nỗi người cô sút hẳn đi. Nhưng bệnh ho của mẹ cô một ngày một trầm trọng, rồi đến đầu tháng tư thì mẹ cô chết.

Cô thương xót khóc lóc không ai khuyên can nổi. May sao có một cậu, cậu Linh, sinh viên trường Ðại Học, khi còn mẹ cô, vẫn khi tới chơi nhà, vì chàng thấy cô có nhan sắc thì đem lòng thương trộm yêu thầm. Trong khi đau đớn, khổ sở, ngày ngày có chàng đến an ủi, Cúc cũng nguôi dần.

Sang tháng sau, nghĩa là cách đây hai tháng, chàng vừa tốt nghiệp trường Cao đẳng ra, liền về thẳng nhà, bo? Cúc trơ trọi ơ? Hà Nội. Cái ngày mà Cúc được tin Linh cưới vợ là ngày bệnh điên của cô bắt đầu phát.

Khách nghe câu chuyện, buồn rầu, ngồi ngẫm nghĩ. Cu. Tú thấy chàng không nói gì, lại hỏi:

- Vậy ông cho nó là bệnh gì?

- Thưa cụ, cô Cúc chắc bị một định kiến thôi miên.

- Ông tính có thể chữa được không?

- May ra thì được... Phải chữa mẹọ

Rồi chàng ghé vào tai cu. Tú thì thầm:

- Từ nay trước mặt cô Cúc, xin cụ gọi tôi là Linh, và cụ dặn người nhà cùng những người quen thuộc cũng vậỵ

Cu. Tú mỉm cười, không hiểu:

- Nhưng tôi sợ nó biết tên thực ông là Giao rồị

- Cụ không sợ. Tôi mới gặp cô ấy lần này là một.

- Thưa ông, ông có thể giảng nghĩa cho tôi hiểu không?

- Thưa cụ, bây giờ tôi chưa có thể giảng nghĩa được, sợ tiết lộ bí mật. Ðể chờ khi cô Cúc khỏi đã hãy haỵ

Cu. Tú lại mỉm cười:

- Cách chữa bí mật thế kia à?... Nhưng ông còn ở chơi nhà lâu không?

- Thưa cụ, còn những một tháng kia. Chắc đủ thì giờ.

Từ đó, chiều chiều Cúc đưa cái đám ma tưởng tượng của mẹ tới chỗ đường xẻ lại gặp Giao mà cô vẫn tưởng lầm là Linh.

Mấy hôm đầu, Giao còn để vậy cho Cúc đắp mộ, cùng khóc lóc rồi ngước cặp mắt âu yếm bảo chàng:

"Vậy ra anh Linh của em không lừa dối em đấy chứ?"

Chàng cầm tay cô, mỉm cười nhìn vào mắt sẽ đáp
 
Khi nào anh Linh của em lại nỡ lừa dối em.

- Thế anh chưa lấy vợ chứ?

- Chưa em ạ!

- Thế anh chờ em chứ?

- Cái đó thì đã cố nhiên. Khi nào em khỏi hẳn thì anh sẽ cưới em làm vợ.

- Nhưng em có ốm đâu mà anh bảo em khỏỉ

Giao cười:

- Em không ốm, nhưng mà em còn mê man tinh thần. Kìa em coi, cô con gái đẹp, ai lại đi nằm xuống đất để đến nỗi lấm láp thế kia? Mà ai lại đi chân không như thế kia bao giờ?

Cúc bẽn lẽn nhìn xuống chân, lấy tay phủi bụi bám vào quần áọ

Dần dần Cúc đã biết chăm đến sự điểm trang, chân đi dép da láng, quần áo chải chuốt, tóc vấn cẩn thận.

Một hôm, cô vừa toan quì xuống đắp mả, thì Giao giữ lại bảo:

- Nếu em muốn anh yêu em thì em đừng vầy đất nữa kiạ

Cúc mỉm cười, cặp mắt sáng quắc nhìn Giao:

- Nhưng em có vầy đất đâu? Em đắp mồ cho mẹ em đấy chứ.

- Em quên à? Mẹ mất ơ? Hà Nội kia mà?

Cúc ngơ ngác:

- Thế đây là đâủ

- Ðây là làng ta và chỗ này là cái rãnh xẻ để tát nước.

Cúc ngần ngừ có ý nghi hoặc, nhưng hình như sợ hãi người yêu, nên không dám đắp đất nữạ

Nhờ về những ống tiêm thuốc bổ, và nhất là nhờ về tình âu yếm dịu dàng của Giao, bệnh thần kinh của Cúc một ngày một thuyên giảm. Rồi nửa tháng sau, tuy Cúc vẫn còn mê sảng, nhưng sự đi theo đám ma hình như đổi hẳn ra một cuộc đi chơi mát của đôi bạn trẻ. Vì tình nhân loại, Giao một ngày một thêm đằm thắm, thân mật. Còn Cúc thì ngày một thêm chăm chỉ đến sự điểm trang.

Một hôm, chàng đến hơi trễ. Cúc y phục chỉnh tề, quần trắng, áo trắng, mái tóc rẽ lệch, đương đi đi, lại lại, băn khoăn khó chịu ở trước cửa. Vừa thoáng thấy chàng ở đàng xa, cô chạy vội lại, trách:

- Sao hôm nay anh đến muộn thế? Em giận lắm. Ðã đến giờ đưa đám rồị

Giao nét mặt nghiêm nghị, đáp sẽ:

- Nếu em không bỏ cái tính giận dữ đi thì anh không yêu nữa đâu. Nhất là em không được quên rằng mẹ em mất đã được bốn, năm tháng rồi. Nay anh chỉ đến rủ em đi chơi mát, không phải đi đưa đám. Em cố nghĩ lại xem.

Không biết Cúc có nhớ ra không, nhưng vì sơ. Giao không yêu, nên khi thấy chàng hỏi lại rằng đã nhớ ra chưa, thì cô tươi cười đáp liền:

- Em nhớ ra rồi. Mẹ em mất những bốn, năm tháng trước.

Giao gật:

- Em Cúc của anh ngoan lắm. Vậy mai hễ gặp anh thì em phải nhắc lại cho anh nghe cấu ấy, anh sẽ yêu thực nhiều, nhé!

Hôm sau, Giao lại đến trễ hơn, nhưng không những Cúc không tức giận, cô lại còn vui vẻ đến chào chàng, rồi như đứa học trò nhỏ, ôn lại câu chàng dặn:

- Mẹ em chết đã được bốn, năm tháng rồi. Nay anh chỉ đến rủ em đi chơi mát, chứ không phải đi đưa đám. Vậy anh có yêu em không?

Giao cười, lấy tay đập se sẽ vào má Cúc:

- Anh yêu em lắm.

*

Câu trả lời khiến Giao ngẫm nghĩa, mỉm cườị

Rồi câu ấy ngày nào chàng cũng nhắc đi nhắc lại, nhắc đi nhắc lại vì lòng nhân từ hào hiệp đối với một người khốn khổ.

Một hôm ngồi một mình, chàng bỗng buộc miệng như nói với người trong mộng:

- Anh yêu em lắm!

Chàng ngơ ngác nhìn quanh phòng như sợ hãi một sự huyền bí. Vì chàng nhận rằng câu ngẫu nhiên ấy nó ở tự đáy trái tim, tận cùng linh hồn thốt ra và không còn ngụ một ý nghĩa nhân từ hào hiệp nữạ

Hôm ấy chàng đi thong thả trên con đường đất ngòng ngoèo lượn theo cái lạch nước nhỏ. Lòng chàng bối rối, sự buồn rầu lộ ra nét mặt.

Chàng có ngờ đâu từ thương tới yêu, con đường lại ngắn đến thế. Cái lòng thương nhân loại, thương những sự yếu hèn, đau đớn của loài người, chàng có ngờ đâu lại trở nên tình ái!

Song chẳng lẽ yêu một người điên, tuy người điên ấy là một trang thiếu nữ tuyệt sắc! Phải chăng chàng chỉ yêu cái hào nhoáng bên ngoàỉ

Không phải. Quyết là không phảị

Chàng vừa đi vừa cố phân chất, cố giải phẫu những tính tình của chàng như chàng đã đem khoa học mà tìm căn nguyên bệnh thần kinh hệ của Cúc. Khi chàng đã đưa tư tưởng đi ngoắt ngoéo hết các con đường khúc khuỷu trong tâm trí, thì chàng mỉm cười, vì trong lúc mê muội, chàng chỉ nhận ra được có một điều là chàng yêụ

Cái tình yêu ấy, cỗi rễ ở lòng thương mà ra cũng có, nhưng nhất là ở sự tìm thấy một linh hồn khác thường, linh hồn dịu dàng, chất phác ngớ ngẩn của một cô gái điên. Mà ba cái tính tình dịu dàng, chất phác, ngớ ngẩn ấy lại rất dễ cảm động lòng ngườị

Nhớ lại những câu nói tự nhiên của Cúc chàng cảm thấy hay hay, nũng nịu vừa như tiếng trẻ thơ, vừa như giọng âu yếm của ái tình.

Chàng thực yêu rồi, yêu một cách vô lý, nhưng yêu một cách nồng nàn và vơ vẩn. Mà chỉ còn một tuần lễ nữa là chàng đã phải từ biệt người chàng yêu. Biết đâu khi chàng đi rồi, bệnh điên kia đã thuyên giảm bội phần, đã hầu như khỏi hẳn, lại không nặng như xưa? Xa sự dịu dàng, xa sự âu yếm của chàng thì Cúc khó lòng khỏi được. Rồi cái thân mềm mại kia đáng lẽ phải chứa một linh hồn lanh lợi sẽ không còn đựng một mẫu trí thức cỏn con.

Chàng nghĩ thế thì chàng càng thấy buồn, càng thấy khổ, càng thấy thương, càng thấy yêu. Cái nhân loại bé nhỏ, hèn yếu mà xưa kia chàng vẫn muốn đem hết tâm trí, đem hết tinh thần ra thương yêu, nay đối với chàng hình như chung đúc cả vào cái thân thể mảnh dẻ của cô gái điên.

Bước thong thả, hai tay chắp sau lưng, chàng băn khoăn tư lự. Bỗng vừa rẽ một chỗ đường ngoặt, chàng thấy sừng sững trước mặt chàng cô Cúc, vận quần áo đại tang. Cô ngả đầu, lễ phép chào chàng, rồi buồn rầu cất tiếng run run nói sẽ:

- Thưa ông, tộị.

Cô chỉ nói được có thế. Nước mắt cô ứa ra, khiến cô nghẹn lời. Giao vội hỏi:

- Có sự gì thế em? Em Cúc của anh... của anh Linh?

Cúc đưa khăn tay lên lau nước mắt, lạnh lùng bảo:

- Ông nói dối! Ông không phải là ông Linh. Ông không thể là ông Linh được!

Hai giọt nước mắt ngập ngừng dưới cặp mi, Giao lo lắng, khổ sở, đăm đăm nhìn Cúc. Cúc bỗng cười ngất, cái cười khoái lạc mà Giao cho là cái cười vô nghĩa lý, vô ý thức của người điên. Chàng sung sướng cũng mỉm cười, vì chàng cho là tri thức của Cúc tuy còn đương ở vào giữa chỗ tự tri và vô tri, nhưng đã hơi chịu xét đoán. Hy vọng lắm rồi!

Nhưng nếu ông thầy thuốc hy vọng, thì người yêu liệu có hy vọng được không? Giao mỉm cười, cái mỉm cười của ông thầy thuốc, của nhà khoa học. Phải, nếu Cúc biết suy xét, biết nhận rõ sự thực hư thì liệu Cúc có còn giữ mối cảm tình đối với người mà Cúc nhận lầm là Linh nữa không? Ông thầy thuốc lại mỉm cười, cái mỉm cười tự cao, tự đại. Giao nghĩ thầm: "Ta hãy bỏ lòng ích kỷ mà mong cho Cúc khỏi hẳn bệnh đã."

Ngắm Giao có vẻ tư lự, Cúc hình như cố nhịn cười mà nhắc lại lời chàng dặn bữa nọ:

- Mẹ em mất đã được bốn, năm tháng rồi. Nay anh chỉ đến để rủ em đi chơi mát, chứ không phải đi đưa đám. Vậy anh có yêu em không?

Cô nói dứt câu, bẽn lẽn cúi xuống nhìn dòng nước chảy. Giao cười ra dáng đắc chí, trả lời:

- Anh yêu em lắm chứ!

Hai người yên lặng đi bên cạnh nhau. Bỗng như vì sự sung sướng xúc động tâm hồn, Cúc lim dim cặp mắt như mộng, cất tiếng nói:

- Này anh ạ! Em chỉ muốn suốt đời được cùng người yêu ở trong cái cảnh dịu dàng, êm ái này. Anh hãy trông: con đường quanh co dưới bóng lá cây um tùm, bên dòng nước trong như lọc, thực Tạo hóa đã riêng gây nên để tặng hạng người biết yêu thưởng thức.

Giao mỉm cười:

- Em làm thơ đấy à? Anh xét ra có hai hạng người thích ngâm vịnh và có tài ngâm vịnh, là hạng người thi bá và hạng điên rồ.

Cúc nghiêng cái đầu hơi rung động, mái tóc se sẽ lung lay trước cơn gió chiều. Và nàng hỏi lại:

- Vậy anh cho em là người điên hay là thi sĩ?

- Em vừa là điên vừa là thi sĩ?

Cúc cười ngất:

- Thế thì anh lầm.

Cô ngẫm nghĩ mấy giây, rồi nói tiếp:

- Nhưng không, anh nói đúng đấy: vì xét kỹ thì em điên thực, mà khổ cho em, em lại tự biết em điên.

Giao sửng sốt nhìn Cúc lấy làm lạ rằng lời nói của người điên sao lại có luận lý đến thế. Chàng ngờ vực, lẩm bẩm: "Không có lẽ". Nhớ lại những câu hỏi thứ nhất của Cúc, khi Cúc mới gặp chàng ban nãy, Giao càng nghi lắm. Nhưng bây giờ thì sự nghi hoặc của chàng làm cho chàng sung sướng. Chàng mỉm cười, nghĩ thầm: "Có lẽ thế chăng?"

*

Ðêm hôm ấy ở ấp Hồng Giang và ở làng Hồng Thủy có hai người thức suốt sáng.

Hôm sau, mặt trời vừa rạng đông, trên con đường từ ấp tới làng, quanh co bên cái lạch nước nhỏ, đã thấy Giao thung thăng bách bộ. Chàng tới Hồng Thủy làm gì sớm thế? Ðến chàng, chàng cũng chẳng biết tại saọ

Tới cổng nhà cu. Tú Vụ, chàng đã toan đi qua không vào, nhưng có cái mãnh lực gì nó giữ chân chàng lại. Chàng mỉm cười, chép miệng rồi gọi cổng.

Gặp chàng, cu. Tú vui mừng, nhưng không thể không lấy làm lạ về sự đến chơi sớm quá như thế. Chừng chàng cũng đoán được ý nghĩa của cụ, nên nói chống chế ngay:

- Thưa cụ, hôm nay tôi lại sớm là vì thứ thuốc bổ này cần phải tiêm vào buổi sáng.

Cu. Tú chắp tay cung kính trả lời:

- Xin cảm ơn ông. Mời ông ngồi chơi để tôi gọi cháu nó rạ

Cúc nằm ở buồng bên cạnh nghe rõ tiếng Giao, trong lòng mừng rỡ, nhưng vờ ngủ mê mệt hai, ba tin gọi cũng không dậy. Là vì đêm hôm trước, không chợp mắt, cô sợ sự mệt nhọc làm mất vẻ kiều mị của cô, nên cô muốn tránh mặt người yêu. Còn Giao nghe có tiếng gọi mà Cúc vẫn ngủ mê thì gạt đi mà nói rằng:

- Thôi để lát nữa tôi trở lại cũng được.

Cu. Tú lấy làm ngượng, đáp:

- Thế thì làm phiền ông quá. Ông để tôi vào đánh thức cháu dậỵ

- Không nên, cụ ạ. Phải để cho cô ấy nghỉ chứ. Người mắc bệnh thần kinh hệ cần nhất là phải ngủ nhiềụ

- Cảm ơn ông, tôi không biết lấy gì trả ơn ông cho xứng đáng. Thực ông đã cải tử hoàn sinh cho cháu. Bệnh cháu mười phần đã khỏi đến quá chín rồị

Giao mỉm cười:

- Thưa cụ, có gì mà cụ phải nói đến ơn với huệ? Bổn phận của loài người là phải cứu giúp lẫn nhau, khi mình có thể cứu giúp được. Nếu cô Cúc qua khỏi cái tai nạn này thì tôi sẽ sung sướng suốt đời. Há chẳng phải cụ là ân nhân của tôi saỏ

Chàng biết mình nói hớ, - mà câu nói hớ ấy chàng có ngờ đâu đã khiến ở buồng bên Cúc cười thầm - nên nói chữa ngay:

- Vì cụ đã giúp tôi được có cái hân hạnh, cái hạnh phục làm nổi một công cuộc gọi là có ích cho đờị

*

Trong năm hôm sau chót, Giao và Cúc luôn luôn cùng nhau dạo chơi bên dòng nước. Hình như hai người đều tưởng đến ngày ly biệt sắp tới, nên tình bè bạn càng thêm thân mật. Có hôm buổi sáng sớm, không hẹn hò mà hai người cùng lang thang dưới rặng cây, rồi gặp nhau ở giữa đường. Tuy hai người không hề ngỏ ý với nhau, nhưng cùng hiểu rằng thời giờ gặp gỡ chỉ còn có trong ít bữa, những buổi chiều ngắn ngủi sao đủ giải tỏ nổi lòng yêủ

Mà câu chuyện thì có gì đâu! Quanh quẩn chỉ nước cùng trời, chỉ cây cùng cỏ, vì cái mục đích nói chuyện để giúp bệnh nhân biết tự suy xét theo lối khoa học nay không còn ở trong ý nghĩ của Giao nữa. Nay chàng nói chuyện là vì một lẽ khác hay đúng hơn, chẳng vì một lẽ gì nữạ

Ðối với chàng thì câu chuyện ấy là câu chuyện thường, câu chuyện tự nhiên, câu chuyện để có chuyện. Song trái lại, về phần Cúc thì có khi cô lại phải cố ý nói ngớ ngẩn một vài câu để chàng tưởng rằng cô thỉnh thoảng vẫn còn điên. Cô muốn thế để đứng trước mặt Giao cô đỡ bẽn lẽn, cái bẽn lẽn tự nhiên của một cô gái tơ đứng trước mặt một chàng tuổi trẻ.

Chiều hôm nay là một buổi chiều từ biệt của hai người. Ngày mai, Giao phải rời Cúc để vào trường thuốc.

Cúc vừa gặp Giao, cảm động quá, buộc miệng gọi:

- Anh Giao!

Hai cặp mắt nhìn nhau. Hai linh hồn, hai trái tim: một ý tưởng.

Sự yên lặng kể lể biết bao nỗi thương yêu!

Dịu dàng, âu yếm, Cúc đặt đầu vào vai Giao, ngước mắt nhìn lên mỉm cườị

Giờ lậụ. Giao ghé tận tai Cúc thì thầm:

- Chúng ta điên.

Cúc cười khẽ gật.
 
Xóm Người Mù. Không biết tự bao giờ cái tên gọi ấy đã trở nên quen thuộc. Không thể nhớ nổi người khiếm thị đầu tiên nào đã dùng bước giang hồ ở khu dân cư trải dọc triền sông này, rồi rủ rê thêm những người đồng cảnh ngộ quy tụ lại, chọn nơi đây làm "đất lành chim đậu".

Ra đi từ nhiều miền quê khác nhau. Trẻ có, già có, gặp gỡ đâu đó dọc những ngả đường bươn chải kiếm sống họ dắt dìu nhau về, thoạt tiên vài người rồi dần dà đến vài chục, và, sống đạm bạc khiêm cung giữa bao người lành lặn khác. Ban đầu chính quyền địa phương đặt vấn đề đòi trục xuất, riết làm ngơ vì chẳng nghe ai kiện cáo, tị nạnh gì. Đèn nhà ai nấy sáng, không hẳn đùm bọc, nhưng tuyệt đại đa số người trong xóm giềng đều tỏ ra thông cảm, sống chan hòa thuận thảo. Có lẽ có cô tôi là ngoại lệ, không thích đã đành, còn hết sức lấy làm khó chịu bởi không dưng phải lọt thỏm giữa một khu xóm như thế. Có lần cô bảo:

- Bạn hàng hễ ai nghe tao cho biết số nhà, tên đường, tên phường thì cứ y như rằng người ta hỏi có phải ở Xóm Người Mù không? Không dưng mang tiếng mù lây. Chun đụt dưới mái nhà này lỡ ăn nên làm ra nên không đành bỏ đi nơi khác, chớ không tao xới khỏi lâu rồi. Cái xóm gì mới bảnh mắt ra ngõ đã gặp người lò dò bị gậy phát ngán. Bao nhiêu cái Tết có cáp vàng tao cũng đâu dám xuất hành đầu năm!

Là chị hai của cha tôi, cô xa nhà sống theo kiểu thân tự lập thân hồi còn trẻ, giờ xấp xỉ tuổi năm mươi, chưa chồng con dù nhan sắc đến nỗi nào, khó tính là điều dễ hiểu, nhưng tôi vẫn không thể hiểu nổi sao cô hẹp lòng đến vậy.

Rời quê ra tỉnh học trọ, mỗi sáng sớm tôi ra chợ tiếp cô bày hàng quần áo thời trang, giày dép, mỹ phẩm, chiều tiếp dọn hàng. Từ vài tháng nay bỗng có người tình nguyện làm thay, tôi bỗng rảnh rang. Ông ta kém cô vài tuổi, luôn "hình dong chải chuốt, áo quần bảnh bao". Nhờ ông, hình như dạo này cô đâm ra trẻ lây, đâm ra thích chưng diện với lắm bộ đồ môđen mặc rồi đứng uốn éo trước gương hệt những người mẫu thời trang không khoe chướng, cô hỏi, chẳng muốn cô buồn tôi đành miễn cưỡng khen đẹp. Đêm đêm, tôi đến lớp ngoại ngữ học thêm thì ông đèo cô đi chơi bằng xe Dream. Chiếc xe cô nhún nhường cho biết vốn là hàng còn nguyên thùng, mua để tiện việc ông đưa đón. Chưa hết, cô bê về cả dàn máy karaoke để giải sầu. Thỉnh thoảng hai người kề vai song ca trông rất mùi mẫn. Thỉnh thoảng mở tiệc đãi bạn bè tại nhà. Nhưng cái đám cưới lắm lần nghe cô bàn tính mãi chưa thấy thực hiện.

Dù cô luôn rầy la ngăn cấm, tôi vẫn lén chơi với đám người mù trong xóm. Đứa hát rong, đứa bán vé số dạo, đứa đan sọt đan thúng,... Trong số ấy tôi thân nhất con Thắm hát rong. Con nhỏ ông Tư đờn cò đã "nhặt" về trên một chuyến tàu Thống Nhất. Nó gầy gò đến độ qua cầu gió có thể thổi bay. Nó hay khiến tôi nhớ tới con em gái dưới quê nên thường lén cô tiếp tế cho hai cha con chút ít lương thực, hoặc thuốc men lúc đau ốm. Thắm bị mù từ thưở lọt lòng, chẳng biết tí gì về thế giới chung quanh, chỉ nghe kể rồi mường tượng. Thuộc khá nhiều bài ca do nghề nghiệp, riêng món vọng cổ luôn bị ông Tư bắt bẻ, ca hoài chưa ngọt, chưa rặt giọng đàng trong theo ý ông muốn. Có hôm nó hỏi tôi:

- Anh ra sao anh hai?

- Thì cũng giống hầu hết mọi người.

- Có đẹp trai không cơ!

- Đẹp xấu tùy người đối diện - Tôi nói đại. Nó phụng phịu:

- Anh quên người đối diện hổng có mắt sao? Thôi thì chắc anh đẹp như ông Lục Vân Tiên hoặc Thạch Sanh trong truyện bố Tư kể, vì anh cũng tốt bụng như họ.

- Xấu như Trương Chi thì có, đừng có ham tưởng tượng.

- Ai nói Trương Chi xấu, riêng em vẫn cho là đẹp.

- Hiểu rồi, Thắm cũng đẹp lắm.

- Xạo quá mạng vậy anh hai?

Đại để, chúng tôi thường trò chuyện vớ vẩn kiểu ấy. Uống nước rạch Đầu Sấu bao năm, cố nói tiếng Nam bộ, giọng Hà Bắc vẫn còn vương lại vài âm hao như là dấu ấn của quê quán, dù quê quán ấy nay đã trở nên xa vời vợi, mờ nhạc trong trí nhớ nó. Những lúc Thắm theo ông Tư đi hát rong đâu đó cả tháng mới quay về, tôi thấy nhớ cái giọng thỏ thẻ nửa Nam nửa Bắc của nó. Sau một chuyến đi xa, bao giờ nó cũng tặng tôi một món quà gì đó, dù rẻ tiền cũng khiến tôi cảm động.

Không ít lần hễ nghe ông ấy và cô hát karaoke, tôi bắt gặp Thắm đứng lặng lẽ ngoài rào bông bụp. Biết tỏng nó rất thích trò chơi hiện đại ấy, một đêm đôi tình nhân vừa lên xe ra khỏi cổng, tôi rủ nó đến nhà, ngồi vào ghé salon hẳn hoi, và mở máy cho Thắm tha hồ ca, tôi giúp nó đọc lời những bài chỉ thuộc lõm bõm. Nhìn vẻ mặt hân hoan khó tả, nghe giọng bội phần diễn cảm, tôi cảm thấy vui như đang đãi nó một bửa tiệc thịnh soạn. Hai đứa vui nên "dượng" và cô về lúc nào không hay.

- Trời đất, bộ mày khùng rồi sao Khánh? Dám mời con nhỏ dơ dáy thượng lên cả salon, còn bày đặt hát xướng. Bộ mày mê nó lắm sao thằng ông con? Này, cút mau! - Vừa đay nghiến, cô vừa nhào tới đẩy xua Thắm ra khỏi cửa. Quýnh quáng, con nhỏ không kịp cầm gậy, ngã lăn từ bậc thềm xuống sân, bể cả mắt kiếng đen, bật khóc tức tưởi. Ông ấy chỉ khoanh tay đứng nhìn lắc đầu cười. Tôi đỡ Thắm dậy, đặc chiếc gậy vào tay nó, đổ quạu, quên cả giữ kẻ:

- Nhẫn tâm vừa thôi, cô không thương xót kẻ tật nguyền chút nào sao?

- Mầy, mầy dám lên giọng chửi tao hả đồ mất dạy? - Cô gào, nhảy chồm xỉa xói. Ông ấy ra vẻ kẻ cả khoác tay ngăn, cất giọng du dương:

- Kìa em, nguôi giận đi nào. Chậc, chỉ là chuyện nhỏ. Thôi, cho anh xin!

Từ hôm ấy Thắm luôn tránh gặp tôi, không nhận cả chiếc kiếng mới tôi mua đền nó. Vào một ngày mưa từ ga Hòa Hưng quay về, ông Tư đờn cò ngã bịnh. Tuy được chòm xóm tận tình giúp đỡ đưa vào bịnh viện điều trị nhưng ông không qua khỏi. Sau đám tang chừng vài hôm, đã nguôi giận, Thắm tìm gặp tôi rủ ra chợ Cái Răng ăn kem với vẻ mặt buồn rượi. Tôi ngạc nhiên chẳng nghe nó nhắc đến bố Tư, lại tỉ mỉ nhắc kể từng người tốt kẻ xấu trong xóm, chi li từng kỷ niệm vặt, nhỏ nhoi của hai đứa, đoạn mĩm cười:

- Còn sao trên trời ở xóm mình có giống nơi khác không anh hai?

- Giống!

- Bèo dưới bến cũng thế chứ?

- Thế! - Tôi nhại giọng Hà Bắc cốt làm nó vui.

- Vậy là dù đi bất cứ nơi đâu em ngước "nhìn" trời cũng sẽ mường tượng ra sao ở xóm mình, qua khúc sông nào cũng "thấy" bèo của bến nhà, chắc là không buồn lắm đâu.

- Thắm nói gì lạ vậy? Tính bỏ đi sao? Đi đâu?

- Đố anh biết? - Nói xong nó cười. Nước mắt lấp lánh trên má. Ngỡ chỉ nói đùa chơi, hôm sau Thắm mang theo cây đờn cò bỏ đi mất biệt. Câu đố đêm ấy tôi vẫn nhớ nhưng không cách chi tìm thấy câu trả lời.

Bây giờ tôi đã vào đại học. Mỗi lần ra chợ tiếp cô bày hàng và chiều dọn về như trước đây. Cô tôi lại tiếp tục sống cô đơn. Sau trận đánh ghen tàn độc của bà vợ và tám đứa con kéo từ Vĩnh Long sang Cần Thơ vào một ngày không nhớ đẹp hay xấu trời, ông "dượng" ra đi không lời từ biệt, quên cả chiếc Dream. Bây giờ cô tôi luôn mang kiếng đen vì con mắt trái bị axít làm hỏng, trở nên trầm lặng, ít nói và, hình như trong con mắt còn lại những người mù chung xóm chẳng còn đáng ghét nữa.
 
Đoạn sông chảy qua bến Cốc lia một vòng cung đẩy những doi cát bên bồi về mãi phía tây. Bến đò ở ngay gốc gạo đơn độc đầu xóm. Con sông bến nước mơ màng và buồn cô liêu, nửa như chờ đợi, nửa như hờn dỗi.

Mùa hoa, trên ngọn cây gạo màu đỏ xao xuyến lạ lùng. Nước lờ lững trôi, giữa tim dòng sông rạch một mũi sóng dập dồn, ở đầu mũi sóng có một điểm đen tựa như mũi giáo. Bến đò tĩnh lặng rất ít người qua lại. Mùa đông có cả những con sáo lông đen chân vàng đậu trên sợi thép níu đò căng từ gốc gạo sang phía kia sông. Chúng nghiêng nghiêng đầu xuống dòng nước chảy tha thiết líu ra líu ríu. Chiều xuống tiếng chuông nhà thờ ở giữa bến Cốc lan trên mặt sông mang mang vô tận. Con sông tựa như giật mình phút chốc sau đó lại lặng im trôi, giống như một người hiểu biết tất cả nhưng đang mải mê suy nghĩ, chẳng cần mà cũng chẳng thèm biết đến xung quanh chộn rộn những gì. Con sông và bến đò ấy gắn với đời tôi những năm thơ ấu. Hồi ấy nhà tôi ở cách bến đò chừng năm trăm thước. Ngoài giờ đi học, thỉnh thoảng tôi vẫn lang thang xuống bến đò chơi. Thường thường, tôi vẫn thích nhất mùa đánh cá mòi. Tiếng gõ đuổi cá lanh canh và tiếng sóng vỗ oàm oạp bên mạng thuyền nan làm tôi mê mải. Ở trên mặt sông, ánh sao mờ mờ hắt xuống những vệt lăn tăn bàng bạc đẹp đến lạ lùng. Hàng chục chiếc thuyền thúng bé nhỏ lặng lờ trôi trên mặt nước. Tiếng ho húng hắng, tiếng rít thuốc lào và tiếng lầm rầm đọc kinh cầu nguyện nghe thú vô cùng. Về sáng, một rải sương mù buồn toả trên sông, không thể phân biệt ranh giới giữa bến với bờ, giữa đường mặt sông với nền trời nữa. Những con cá mòi màu trắng bàng bạc đầy trong lòng thuyền. Mùi khói thơm nồng và mùi cá nướng thơm ngậy lan trong không khí ban mai trong sạch. Tất cả những quang cảnh ấy và cảm giác ấy đều thật tuyệt vời. Tuyệt vời hơn nữa còn là truyền thuyết huyễn hoặc về con trâu đen ở khúc sông này. Những người đánh cá ban đêm quả quyết đã nhìn thấy nó. Nó thường xuất hiện vào lúc nửa đêm. Nó ở dưới đáy lòng sông lao lên mặt nước. Toàn thân bóng nhẫy, đôi sừng cao vút, mõm thở phì phì, con trâu phi trên mặt nước như phi trên cạn. Con trâu phì bọt, nước dãi của nó tựa như trứng cá. Nếu ai may mắn hớp được bọt ấy sẽ có sức lực phi thường, bơi lặn dưới nước giỏi như tôm cá. Tất cả những điều như thế đối với tuổi thơ của tôi có sức lôi cuốn lạ kỳ. Thâm tâm, tôi vẫn ước mong nhìn thấy con trâu, biết đâu tôi sẽ chẳng được hưởng điều kỳ diệu? Hễ cứ chập tối là tôi bỏ nhà ra đi, mặc kệ sách vở và những lời khuyên của mẹ. Tôi xuống bến đò, năn nỉ những người đánh cá mòi để giúp không công cho họ. Thường tôi phải vã bọt mép mới có một người nào đấy thương hại cho tôi ngồi ghé lên thuyền.

- Chỉ qua bến Cốc thôi nhé! - Ông chủ hào hiệp của tôi mặc cả - Thằng ngu như chó, trời rét thế này về mà nằm ổ. Mày định học đánh cá mòi làm gì thế?

- Nó định lớn lên lập hợp tác xã! - Một gã béo lẳn và đen chùi chũi ở chiếc thuyền bên mỉm cười thâm hiểm.

- Giêsuma! Ông lỏi đã sành đi đánh cá đêm thì ta chỉ còn xương cá mà ăn thôi đấy!

- Quăng nó xuống sông cho Hà Bá bắt! - Một gã nào đấy hăm dọa, thuyền gã lướt qua và gã dùng chiếc mái chèo thúc vào sườn tôi đau điếng.

- Ông cho nó đi xúi cả mẻ cá đêm nay là ăn đòn đấy! - Một lão chột mắt gầm gừ, lão giơ mái chèo chẳng có vẻ gì là đùa bỡn cả.

- Thôi mày xuống đi! - Ông chủ của tôi hốt hoảng - Cái lão trùm Thịnh không đùa với lão được đâu!

- Cháu xin bác... - Tôi rên rỉ - Bác bảo cho cháu đến cuối bến Cốc cơ mà! - Cốc với cò gì… - Ông chủ của tôi lái thuyền vào bờ, nửa như bực bội nửa như ngượng nghịu - Mày chỉ mới ngồi mà nước tràn cả vào thuyền, đến cuối bến Cốc thì tao xuống dưới đáy sông với Hà Bá à?

Tôi lội xuống thuyền nhìn theo, nước mắt giàn giụa. Có con cá gì thúc vào giữa bọng chân tôi, tôi cảm thấy cái vây của nó đụng vào nhờn nhờn mềm mại. Có lần tôi được chính gã béo lẳn và đen trùi trũi cho ngồi lên thuyền. Gã tên là Tảo. Gã có đôi mắt lờ đờ như là mắt cá, một vết sẹo bỏng ở bên má bên trái to bằng bàn tay làm mặt gã biến dạng hẳn đi. Gã nói với tôi bằng giọng mềm mại trơn tuột:

- Tao thấy chú mày lên thuyền nhưng tao bảo gì thì chú mày phải nghe đấy… Hồi tao bằng tuổi chú mày tao cũng đi đánh cá đêm. Tao quăng lưới xuống dòng sông rồi ra sức kéo. Hôm ấy mưa phùn mà rét rét là… Lưới nặng như cùm. Tao nghĩ phen này phải được một mẻ cá lớn... Khi tao kéo lưới lên thuyền thì mày có biết gì trong lưới này hay không? Một cái đầu lâu người chết! Tóc xoã rũ rượi vướng những sợi rong dài như giun đũa. Cái đầu ngâm nước trương phình mõm như quả thị. Máu bết ở hai lỗ mũi nhơm nhớp như nước dãi người… Tao đụng vào, hai hàm răng thì nó tụt ngay khỏi lợi, những cái chân răng ba ngạnh dài bằng đốt tay dính đầy những sợi dây chằng bé như sợi chỉ... Hai mắt của cái đầu lâu thô lố nhìn tao, hai cái con ngươi từ từ đùn khỏi hốc mắt cứ thế phồng ra như có người bơm không khí…

Tôi sợ tái người. Con thuyền không người điều khiển quay tròn tạo thành những xoáy nước nhỏ. Tảo bỗng quát lên:

- Chèo gì lạ thế? Đã sợ vãi đái ra quần rồi hả? - Tảo đưa ngón tay chuối mắn túm lấy ngực tôi - Tôi xin mời ông cút khỏi thuyền ngay! Ông ở trên thuyền rồi tôi lại kéo phải đầu lâu người thì tôi chết!

Tôi khóc nức nở, lạy van rối rít. Thuyền của chúng tôi đang ở giữa sông, cây gạo ở phía bến đò trông xa như một bàn tay bé nhỏ nhiều ngón khua lên bầu trời đùng đục.

- Nhảy xuống! - Tảo nhe hàm răng nhọn hoắt quát lên hung dữ - Ông cho mái chèo vào gáy bây giờ!

Tôi trườn xuống dưới dòng nước và lặng lẽ bơi, mắt hướng về phía cây gạo làm chuẩn. Tảo cho thuyền bơi ngược dòng, giọng cười của gã rờn trên mặt nước:

- Bơi cho cẩn thận nhá! Chỗ ấy là chỗ ngày trước tao kéo được đầu lâu đấy! Tôi cắn chặt răng để khỏi òa khóc. Trái tim nhỏ bé của tôi thắt lại. Nước chảy rất xiết, tôi bỗng hiểu ra nước chảy bao giờ cũng xiết, có điều phải cố mà bơi cho đến được bờ…

Cũng có một lần tôi theo trọn vẹn buổi đánh cá đêm. Lúc ấy tôi ngồi thuyền của trùm Thịnh. Lão già chột mắt này rất nổi tiếng vì những câu chuyện rùng rợn trong cuộc đời mình. Hồi trẻ lão từng đi lính cho Tây. Vợ lão có hai đứa con da trắng mắt xanh mũi lõ. Lão giết thằng quan ba Tây để chiếm mụ vợ. Những vụ trộm lớn nhỏ trên phố chắc có dính líu đến lão vì cứ thỉnh thoảng uỷ ban lại gọi lão giam ít ngày. Lão mở quán mì vằn thắn những người ta đồn lão dùng thịt chuột đánh bả thạch tín. Bát mì vằn thắn mang cho chó ăn chó chết. Người ăn thịt chó cũng lại chết luôn. Quán mở nửa tháng thì lão dẹp tiệm, lão chất rơm vào trong quán rồi đốt đùng đùng. Có người kể rằng khi lửa bốc cao thì ở trong quán có con chuột to bằng bắp chân người phóng thẳng ra ngoài cứ cười hềnh hệch… Cái lão trùm Thịnh khủng khiếp thế mà đồng ý cho tôi đi theo. Tôi trèo vào thuyền mà run như rẽ. Nhưng rồi chính niềm say mê huyền diệu đã thắng trong tôi. Tôi bắt đầu chèo và cố làm tốt những điều lão già sai bảo.

Lão già bắt tôi lái thuyền men theo bờ sông bên lở. Thuyền lão bỏ cách thuyền khác đến nửa cây số. Tôi nhìn cách lão điều khiển con thuyền và hiểu đây thực sự là tay bợm già trong nghề sông nước… Lão biết những chỗ thuyền nên dừng lại. Cũng có nhiều khi lão nằm hàng nửa giờ nửa thức nửa ngủ kệ tôi xoay xở. Khoảng quá nửa đêm lão tỉnh như sáo và bỗng huyên thuyên đủ thứ chuyện.

- Cái nghề đánh cá là nghề có sớm bậc nhất - Lão nói với tôi - Anh em ông thánh Simon trước kia cũng đi đánh cá. Đức chúa Giêsu trông thấy mới bảo họ: "Các ông hãy đi theo tôi, tôi sẽ biến đổi các ông thành những người đánh lưới người" - Lão già hít hơi thuốc lào rồi lại buồn buồn nói tiếp - Hôm nọ trên huyện công an hỏi tao: "Ông làm nghề gì?". Tao bảo làm nghề đánh cá. Họ cười lăn lộn: "Ông đánh lưới người thì có!". Mẹ kiếp! Hoá ra tao thành ông thánh Simon chứ còn gì nữa!

- Trong các thứ nghề thì nghề ăn trộm là nhàn nhã nhất... Có lần trời đang mưa phùn, mấy thằng ăn sương bên làng bảo tao: "Bác trùm Thịnh này, bây giờ mà có thịt chó ngồi ăn thì thích!". Tao bảo: "Đến nhà trùm Thịnh muốn gì được nấy!". Tao nói thế thôi, cũng lo… Chợt nhớ ban chiều nhà chánh tổng Thi giết chó... Thế là khoác áo ra đi, tao đến gần bếp thấy mùi thịt cầy bụng đã mừng thầm. Ngó lên nhà trên thấy mấy đám tổ tôm. Tao mới đàng hoàng đi vào trong bếp nói với người ở: "Thịt chó được chưa? Các cụ đang giục cuống lên trên nhà… Tắt đèn đi! Để tôi lấy cho các bác một bát ăn thầm dưới bếp rồi tôi bê nồi lên cho các cụ!". Miệng nói tay làm… Mấy thằng gà mờ chúi vào bát thịt còn tao bê nồi cút thẳng!

Lão cười khùng khục. Tôi nghe lão cười mà lòng cuộn lên một nỗi bức bối và chua xót lạ. Ở phía dưới cát bên sông, vầng trăng lưỡi liềm toả ánh sáng xanh mờ ảo. Gió thổi mơn man. Có con chim gì ăn đêm bay qua rất thống thiết. Mặt sông như rộng hẳn ra chẳng có bến bờ gì cả. Phía đằng cây gạo, những tia sáng hồng của buổi ban mai bắt đầu le lói… Tôi hỏi trùm Thịnh:

- Bác ơi, thế chuyện trâu đen có thực hay không? -Trùm Thịnh bật cười, lão ngả người ra sau lái, tia sáng từ trong hốc con mắt lành nhay nháy:

- Tao đã đánh cá trên khúc sông này sáu chục năm trời. Tao thuộc từng lạch một… Chuyện con trâu đen chỉ là chuyện đồn nhảm nhí… Mày hãy tin tao, ở bến Cốc này thì chuyện giết người ăn cướp có thực, ngoại tình có thực, cờ bạc có thực, còn chuyện trâu đen là giả. Tôi lén một tiếng thở dài. Con thuyền bồng bềnh trôi xuôi. Một lát, thuyền của chúng tôi tìm cách vòng ra tim sông. Những con thuyền khác cụm dần một chỗ, tiếng gõ lanh canh vang trên mặt nước nghe rất rộn ràng. Trùm Thịnh bỗng nhiên chồm dậy, giọng lão lạc đi rất lạ:

- Luồng cá! Những con thuyền khác cũng đã phát hiện ra được luồng cá. Một cuộc giành giật diễn ra, tiếng lưới ném xuống mặt sông rào rào. Thuyền của chúng tôi bị kẹp giữa các thuyền khác, không sao tung lưới ra được. Trùm Thịnh làu bàu chửi rủa. Lão điều khiển thuyền vọt lên làm tôi ngã ngửa. Tôi định ngồi dậy thì thuyền tròng trành lật nghiêng hất tôi xuống nước. Tôi không hiểu được ngay tình thế mình. Nước sặc vào miệng khiến tôi nghẹt thở. Một nỗi hoảng hốt lạnh buốt lướt trong tim óc. Tôi gào thất thanh kêu cứu. Chân tôi cứng đờ, đau buốt lạ lùng. Tôi chìm xuống nước. Tôi bỗng hoảng sợ điên cuồng vì nhớ những người đánh cá có lệ không cứu những ai chết đuối… Tôi mê lịm đi, thấp thoáng nghe có tiếng ai như đang tâm sự với mình:

- Năm nay Hà Bá chưa bắt người nào!… Tiếng một phụ nữ thất thanh. Tôi ngất lịm đi, thấy cả bầu trời sập xuống… Khi tôi tỉnh dậy, tôi thấy mình nằm trên con đò ngang. Ngồi bên cạnh tôi là một phụ nữ khăn trùm kín mặt. Đôi mắt to đen nhìn tôi mừng rỡ:

- Thế là tỉnh rồi… Em ăn một tí cháo nhé? - Tôi cố nhỏm dậy, bụng dạ trống rỗng vào đau cồn cào, chân tay tôi run bần bật. Tôi đón bát cháo cá nóng mà cầm không vững. - Để chị bón cho - Người phụ nữ nói dịu dàng - Chị tưởng em chết. Chân tay em cứng đờ ra…

Lão Tảo dốc trong bụng em dến nửa vại nước. Em là liều lắm! Đi đánh cá đêm với lão trùm Thịnh có ngày chết toi mất xác! - Chị cứu em à? - Tôi hỏi.
 
Ừ chị nghe thấy em kêu cứu - Bọn đánh cá đêm ác lắm chị ạ - Tôi buồn rầu nói - Họ nghe thấy em kêu cứu mà cứ lờ đi... - Đừng trách họ thế - Người phụ nữ an ủi tôi, giọng nói ngân nga như hát - có ai yêu thương họ đâu… Họ đói mà ngu muội lắm... Tôi ngạc nhiên nghe lời chị, chưa ai đi nói với tôi những điều như thế. Buổi sáng hôm ấy trời đẹp tuyệt vời. Mùa đông thường có những ngày nắng ấm tương tự thế này: mặt trời hào phóng trải trên mặt đất tất cả hào quang rực rỡ của mình. Trời xanh ngăn ngắt, một làn gió thổi làm những hạt cát trên thuyền thành lốc nhỏ. Ở bên kia sông có tiếng ai hát một bài rất lạ, tiếng hát thật buồn:

Chảy đi sông ơi
Băn khoăn làm gì?
Rồi sông đãi hết
Anh hùng còn chi?...

Tiếng hát lơ lửng bay trên mặt sông. Hơi nước ở trên mặt sông bốc lên ngùn ngụt. Lòng tôi trào dâng cảm giác dễ chịu lạ lùng, như vừa tắm xong, như vừa gột rửa được điều u ám. Thế là từ đấy tôi quen chị Thắm. Chị Thắm nhà trong bến Cốc. Nhà chị nghèo lắm. Suốt ngày ở trên con đò ngang, một tấm khăn vuông đen trùm kín mặt. Có lần tôi hỏi chị Thắm về chuyện trâu đen. Chị bảo:

- Trâu đen có thực! Nó ở dưới nước. Khi nó lên bờ là nó mang cho người ta sức mạnh... Nhưng nhìn thấy nó, được nó ban điều kỳ diệu phải là người tốt. Tôi tin lời chị. Lòng tôi vẫn hằng ấp ủ trông thấy điều kỳ diệu ấy. Con người ta tối tăm lắm... Chị nói với tôi khi hai chị em ngồi trên mũi đò chờ khách sang sông. Con người vô tâm nhiều như bụi bặm trên đường. Tôi nghe chị nói, mắt ngó như nhìn bông gạo thỉnh thoảng lại khẽ khàng buông những cành đỏ thắm trên bãi cát ướt. Tôi thiu thiu ngủ, văng vẳng lời chị đang kể thủ thỉ sự tích các thánh trên nước thiên đàng:

- Ngày xửa ngày xưa ở xứ Jerualem có một con người…

Mùa hè năm ấy nhà tôi chuyển về thành phố. Thế là tôi xa bến Cốc, xa chị Thắm. Khi tôi ra đi, chị Thắm gọi tôi xuống đò cho ăn cháo cá… Tôi cũng không ngờ đó là bát cháo cá mòi cuối cùng tôi ăn trong thời trai trẻ. Một cuộc sống mới mở oà trước mặt tôi. Thành phố cũng bán cá mòi nhưng là thứ cá đã được ướp khô, rút ruột. Tôi cũng chẳng biết tôi hoà cùng với nhịp sống thành phố từ khi nào nữa. Tôi lớn dần lên, hăm hở đuổi theo bao điều phù du. Kỷ niệm về mùa cá mòi và chuyện trâu đen trong thời thơ ấu của tôi phai nhạt dần đi. Năm ngoái, bỗng nhiên tôi có dịp trở về bến Cốc. Bây giờ tôi đã trưởng thành. Tôi làm công chức ở sở, lấy vợ, đẻ một đàn con đông đúc. Cuộc sống trưởng giả no đủ bao bọc lấy tôi. Có lẽ tôi cũng chẳng có gì phàn nàn cuộc sống. Ước mơ tuổi trẻ nhường chỗ cho bao nhu cầu thiết thực. Bến Cốc vẫn hệt như xưa. Cá mòi phơi trắng trên bờ. Bến đò rất ít những người qua lại. Cây gạo vẫn đứng cô đơn chốn cũ, màu hoa rực đỏ xao xuyến bồn chồn. Tôi bước xuống đò mà lòng bồi hối khôn tả. Trên đò, một bà cụ già đang ngồi tư lự. Tôi bước lại gần khẽ hỏi:

- Cụ ơi, chị Thắm lái đò còn ở đây không?

- Thắm ư? - Bà cụ thoáng nỗi ngạc nhiên.

Tôi đứng lặng người khi nhận ra con đò cũ. Kỷ niệm ấu thơ bồng vụt hiện về.

- Ông quen nhà Thắm ư ông? - Bà cụ hỏi tôi, giọng nói nghẹn ngào.

- Bao nhiêu năm nay chẳng hề có ai hỏi thăm nhà Thắm... Nhà Thắm chết đuối hai chục năm rồi! Tôi oà lên khóc nức nở. Xung quanh sông nước nhoà đi. Bà cụ lái đò vẫn đang rầu rầu kể lể:

- Khốn nạn! nhà Thắm cứu được không biết bao người ở khúc sông này… Thế mà cuối cùng nó lại chết đuối mà không ai cứu… Bên sông lại vẳng tiếng hát thuở nào tê tái:

Chảy đi sông ơi
Băn khoăn làm gì?
Rồi sông đãi hết
Anh hùng còn chi?…

Tôi muốn gào lên chua xót. Tôi bỗng nhiên thấy cuộc sống hiện giờ của tôi vô nghĩa xiết bao. Con trâu đen, con trâu đen trong thời thơ ấu của tôi nay ở đâu rồi?

Bên sông có tiếng gọi đến là ráo riết:

- Đò ơi… Ơi đò! Đò ơi! Ơi đò!


Nguyễn Huy Thiệp
 
Cây im, sông lắng đợi xuân về.

(Thế Lữ)

Linh cho ngựa phi nước kiệu lớn, qua dặng đồi cỏ tranh, hấp tấp, vội vàng như người đi đâu có việc gì cần kíp.

Tới chỗ sông Thương lượn khúc chảy ven đường Bố Hạ, quanh một quả đồi rộng trồng cam, Linh kìm cương, nhẹ nhàng nhẩy xuống đất, buộc ngựa vào một cây trẩu trụi gần hết lá. Đã một tuần nay, từ khi cam bắt đầu rám đỏ, sáng sáng, dùng xong bữa điểm tâm sơ sài, Linh lên ngựa đi thăm lấy lệ mấy nơi vừa phá hoang trồng chè, rồi phi thẳng tới đây ngồi đợi.

Chàng đợi người năm ấy. Sự mong mỏi làm rạo rực lòng chàng và như man mác cả linh hồn vạn vật.

Vì có lúc ngắm cảnh quanh mình, chàng thấy những khóm cây yên lặng nghiêng mình trên bờ cao, soi bóng xuống mặt nước xanh rêu không động, những bụi lá sắc và nhọn với hàng bông trắng đứng im tăm tắp và loáng thoáng lẩn trong không. Cả những làn mây nhạt đương lững thững trôi trên ngọn đồi xa cũng ngập ngừng dừng lại. Hình như cùng chàng mong ngóng người xưa, cỏ cây, mây, nước cũng trầm ngâm mong ngóng xuân về.

Tiếng chim sơn ca hót trong cỏ rậm. Linh giật mình quay nhìn theo con đường đỏ, và cảm thấy tất cả nỗi thất vọng của một tấm lòng vơ vẩn đợi chờ...

Nhưng qua giậu nứa đan mắt cáo, màu vỏ cam mới rám hồng vẫn nhắc nhỏm gợi nhớ nhung.

*
* *

Cách đây hai năm, và cũng trong tháng chạp. Một hôm cưỡi ngựa đến bên sông thăm vườn cam sắp trẩy, Linh gặp một chiếc ô tô đỗ cạnh đồi. Tưởng đó là xe khách đến chơi và tài xế không biết lối vào trong ấp, Linh cho ngựa lại gần, nghiêng mình nhòm qua cửa xe. Trong xe, một bà ngót năm mươi tuổi và một thiếu nữ đầy đặn nở nang, nước da hồng hào rám nắng, mà thoạt trông chàng ví ngay với màu da cam bắt đầu rám chín dưới luồng gió heo may.

Chàng ngồi thẳng người lên, lễ phép nói:

- Xin cụ tha lỗi cho, tôi tưởng bạn đến chơi.

Nhưng thiếu nữ rất lịch thiệp đã thò đầu ra ngoài mỉm cười đáp lại:

- Thưa ông, me tôi không dám. Vả lầm thì ai chả có khi lầm.

Câu trả lời, Linh cho là vô vị. Song nụ cười tình tứ điểm theo, chàng ngắm thấy ngọt như mật ong, thơm như hoa cam sành mới nở, và có mãnh lực làm cho chàng lúng túng mất vài giây. Sự lúng túng ấy chàng che đậy bằng một câu hỏi, giọng run run:

- Thưa cô, xe liệt máy?

Nụ cười càng tình tứ hơn, tuy đôi lông mày bán nguyệt tô thêm chỉ hơi díu lại một cách rất nũng nịu, dễ yêu.

- Thưa ông, xe không chết máy, nhưng hết dầu xăng.

- Vậy ý hẳn bác tài đi mua dầu xăng?

- Không, anh ấy đến hàng nước kia hỏi xem có thể mua lại ở đâu được vài lít xăng để đủ chạy từ đây đi Kép. Vậy thưa ông, ông có biết thì xin ông làm ơn bảo giùm cho.

Linh mỉm cười:

- ồ! Tưởng hỏng máy, chứ nếu chỉ hết dầu xăng, thì tôi xin biếu cụ và cô.

Bà cụ sung sướng vội hỏi.

- Thưa ông, nhà ông ở gần đây?

- Thưa cụ, cũng không xa. Đây là đồn điền của tôi.

Thiếu nữ vẻ mặt ngạc nhiên.

- Đồn điền của ông? Chắc là rộng lắm!

- Thưa cô, cũng không rộng lắm, độ hai nghìn mẫu thôi.

Thiếu nữ mở cửa xe bước xuống, gọi:

- Anh tài!

Tức thì một người vận âu phục màu vàng từ trong hàng nước cạnh bến phà đi lại. Linh xuống ngựa, nói:

- Bác cưỡi ngựa theo con đường này vào ấp bảo người nhà tôi đưa cho một bi đông ét xăng, rồi cầm ngay ra đây...

- Thưa ông, cháu không cưỡi ngựa bao giờ.

- Chà, khó gì!

Linh ngẫm nghĩ một giây rồi chép miệng nói tiếp:

- Thôi được, để tôi đi lấy cho.

Thiếu nữ vội gạt:

- Chết thế thì phiền ông quá!

Nhưng Linh đã nhẩy lên lưng ngựa, dựt cương ra về, và nháy mắt, chàng đã biến vào trong cỏ tranh cao, rậm.

*
* *

Lúc trở lại, Linh chỉ thấy người tài xế nằm ngủ trên nệm xe. Chàng dừng lại ngồi thở, trời rét, cái áo lót của chàng ướt đẫm mồ hôi, vì chàng đã cho ngựa phi mau quá.

Bỗng có tiếng cười nói trong vườn cam. Linh vội vàng cởi bỏ vào trong xe cái bi đông dầu xăng buộc sau yên, rồi cho ngựa thong thả lên đồi. Tiếng thiếu nữ nói qua hàng giậu:

- Chúng tôi đương đợi ông ra để xin ông một quả cam.

Linh hấp tấp rẽ cương qua cửa vườn.

- Thưa cụ, cam ở đây còn chua lắm, chưa ăn được. ở trong ấp có một ít đã thực chín rồi và ngọt lắm, xin mời cụ và cô quá bộ vào chơi.

Bà cụ từ tạ:

- Xin cảm ơn ông, chúng tôi xin về... Ông đã cho chúng tôi vay dầu xăng?

Linh buồn rầu đưa mắt nhìn thiếu nữ:

- Thưa cụ, có dầu xăng rồi.
 
- ồ! thế thì may quá. Cảm ơn ông quá. Không có ông giúp thì mẹ con tôi chẳng biết làm thế nào mà về được đến nhà.

- Thưa cụ, ấp cách đây có hơn hai cây số, xin mời cụ quá bộ vào chơi. Thưa cụ, tôi ở nơi hẻo lánh này chẳng mấy khi được hân hạnh đón tiếp khách quý.

Thiếu nữ nể lời ân cần mời mọc của chủ ấp, áy náy nhìn mẹ:

- Thưa me, hay là me vào chơi một lát cho ông chủ bằng lòng. Vào ăn quả cam Bố Hạ rồi lại đi ngay.

Quay về phía Linh, nàng mỉm cười, láu lỉnh nói tiếp:

- Rồi ông để chúng tôi đi ngay nhé?

Linh, trên mặt lộ đầy vẻ biết ơn:

- Xin vâng.

- Vậy vào nhé, me nhé?

Bà mẹ mắng yêu con

- ừ thì vào. Gớm chết! Cô Phụng đi đâu cô cũng la cà hết ngày hết buổi.

Linh sung sướng chạy vội ra cửa vườn gọi tài xế.

*
* *

Một giờ sau, Linh đưa Phụng đi xem khắp vườn cam, quýt, trong khi bà mẹ ngồi nghỉ bên lò sưởi, vì đứng ở ngoài lâu chân tay bà rét buốt.

Nhờ có một nền giáo dục lịch thiệp nhận được ở trường học và ở một gia đình theo lối mới Phụng đối với ông chủ ấp không chút ngượng ngùng, e lệ. Nàng cười nói dễ dàng, hỏi nhiều câu mà Linh phải lấy làm kinh ngạc, tưởng các cô thiếu nữ không bao giờ dám nghĩ tới.

Đến một gốc quít cỗi, nàng ngắt một quả rồi vờ quay đi ăn vụng. Nhưng nàng quay lại ngay, phá lên cười và kêu:

- Bắt lấy con ăn cắp quýt cho tôi!

Linh cũng cười, nói một câu mà vừa buột miệng thốt ra, chàng cho là rất sáo:

- Nó được hân hạnh cô chiếu cố là may cho nó.

- Vậy tôi lại muốn chiếu cố đến nó nữa.

Vừa nói Phụng vừa với một quả ở cành cao nhưng không tới.

- Cô để tôi lấy giùm.

Linh phải nhảy lên mới với được cả cành quít chĩu chịt gần chục quả.

- ồ phí quá, ông nhỉ?

Linh toan ngắt ra từng quả nhưng Phụng vội gạt.

- ấy, ông cho xin cả để tôi mang về giữ làm kỷ niệm.

Hai tiếng kỷ niệm ở miệng mỹ nhân nói ra, Linh nhận thấy âu yếm, thấm thía tâm hồn. Chàng toan đáp lại một câu tình tứ, nhưng không tìm ra được, đành chỉ lặng lẽ mỉm cười nhìn thiếu nữ. Giữa phút thần tiên ấy, có tiếng gọi:

- Phụng, xin phép ông về thôi!

Lần đầu tiên trong đời, Linh cảm thấy tất cả cái ý nghĩa buồn rầu, sầu thảm của chữ "về".

- Phụng, đi về!

- Vâng, con đây.

Nàng bỏ cả nửa quả quít vào mồm nhai ngốn ngấu. Còn một nửa có lẽ vì đãng trí, nàng đưa cho Linh:

- Trời ơi! Quít ngọt quá! Ông nếm thử mà xem.

Rồi nàng chạy vội lại chỗ mẹ.

Linh thở dài, lững thững theo sau...

*
* *

Lúc xe mở máy. Linh mới chợt nhớ ra rằng chưa hỏi địa chỉ của Phụng.

Trong một giờ được một mình ở bên người đẹp, Linh chỉ mê man nghĩ đến hiện tại mà chàng biết rằng ngắn ngủi. Và chàng chỉ cảm thấy từng phút từng giây đương lạnh lùng rơi vào quãng không.

Kẻ ở người đi rồi hiện tại sẽ thành dĩ vãng sẽ thành một kỷ niệm như cành quít mà Phụng đã đem về nhà để giữ làm kỷ niệm.

Nhưng cái kỷ niệm giây phút ấy đối với Linh đã thành vĩnh viễn thiêng liêng.

Năm, năm, cứ đến tháng chạp khi cam ngoài vườn bắt đầu rám đỏ dưới luồng gió heo may, Linh lại cảm thấy thân thể và tâm hồn rung chuyển. Rồi trong vườn hiện ra hình ảnh một thiếu nữ tươi tốt, hồng hào thướt tha bên gốc cam, gốc quít.

Linh chờ đợi, mong ngóng.

Chàng chờ đợi, mong ngóng cho tới hết mùa cam. Vì Phụng có hứa với chàng rằng mỗi năm cứ đến mùa cam nàng sẽ lại cùng mẹ một lần lên thăm ấp của Linh. Lời hứa ấy có lẽ Phụng đã thốt ra theo cách xã giao trong câu truyện thù ứng. Nhưng Linh tin là lời hứa thành thực. Chàng cũng không hiểu sao chàng lại tin như thế nhưng chàng cũng không thể không tin được.

Đã hai năm chàng chờ đợi...

Và trên bờ sông cao khóm cây vẫn yên lặng nghiêng mình soi bóng xuống mặt nước xanh rêu không động, những bụi lau lá sắc và nhọn vẫn đứng thẳng hàng, bông trắng loáng thoáng lẫn trong không. Và trên ngọn đồi xa, làn mây bạc vẫn ngập ngừng dừng lại. Cùng chàng mong ngóng người năm ấy, vạn vật trầm ngâm mong ngóng xuân về.

Khái Hưng
 
Status
Không mở trả lời sau này.
Back
Top