• Hiện tại trang web đang trong quá hình chuyển đổi và tái cấu trúc lại chuyên mục nên có thể một vài chức năng chưa hoàn thiện, một số bài viết và chuyên mục sẽ thay đổi. Nếu sự thay đổi này làm bạn phiền lòng, mong bạn thông cảm. Chúng tôi luôn hoan nghênh mọi ý kiến đóng góp để chúng tôi hoàn thiện và phát triển. Cảm ơn

1001 CÂU CHUYỆN CẢM ĐỘNG!!!

Status
Không mở trả lời sau này.
Nếu em là ngàn mây phiêu bồng lờ lững trên tầng trời cao thì anh ko đủ kiên nhẫn để làm 1 ngọn núi để đứng đợi mây quay về lối cũ ..xin em hãy cho anh làm ngọn gió để dìu em đi đến cuối con đường đời phiêu lãng

Nếu em là nhân vật trong 1 câu chuyện cổ tích xa xưa mà khi nghe nó người ta không bao giờ chán và luôn thấy những nét thú vị từ nó...em biết vì sao ko chính anh là người kể câu chuyện đó..

Nếu anh được gặp em từ lúc đầu tiên ,em chưa là của ai, anh sẽ...đến với em. anh ko đủ tự tin nói rằng em sẽ là người hạnh phúc nhất ...nhưng em sẽ có một người luôn yêu em và vì có em bên cạnh nên chính anh sẽ là người hạnh phúc nhất trên cõi đời này

Nếu anh có thể đứng trước em, nói những lời sâu thẳm tận đáy tim mình mà không ấp úng,ko run rẫy thì có lẽ bây giờ ta đã bên nhau...và anh ko phải khắc hình dung em vào mộng ..như chính bây giờ
 
Nội

- Nội xuống kìa!

- Nội xuống ! Ê ! Nội xuống !

- Nội xuống !

Bầy con tôi reo mừng, chạy ùa ra ngõ. Ngoài đó, tiếng xích lô máy cũng vừa tắt.

Trong buồng, vợ tôi gom vội mấy giấy tờ hồ sơ nhét vào xắc tay, nhìn tôi, im lặng. Tôi hiểu: bà già xuống như vậy, làm sao giấu được chuyện tôi và hai đứa lớn sẽ vượt biên ? Sáng sớm mai là đi rồi …

Tôi choàng tay ôm vai vợ tôi, siết nhẹ :
- Không sao đâu. Để anh lựa lúc nói chuyện đó với má.

Khi vợ chồng tôi bước ra hiên nhà thì bầy nhỏ cũng vừa vào tới sân. Đứa xách giỏ, đứa xách bao, đứa ôm gói, hí hửng vui mừng. Bởi vì mỗi lần bà nội chúng nó từ Gò Dầu xuống thăm đều có mang theo rất nhiều đồ ăn, bánh trái thịt thà … Những ngày sau đó, mâm cơm dưa muối thường ngày được thay thế bằng những món ăn do tay bà nội tụi nó nấu nướng nêm-nếm. Nhờ vậy, mấy bữa cơm có cái phong vị của ngày xưa thuở mà miền Nam chưa mất vào tay Việt Cộng … Mấy con tôi thường gọi đùa bà Nội bằng « trưởng ban hậu cần » hoặc chị « nuôi » và lâu lâu hay trông có bà nội xuống. Và lúc nào câu chào mừng của chúng nó cũng đều giống như nhau : « Nội mạnh hả Nội ? Nội có đem gì xuống ăn không Nội ? ». Mới đầu, tôi nghe chướng tai, nhưng sống trong sự thiếu thốn triền miên của chế độ xã hội chủ nghĩa, lần hồi chính bản thân tôi cũng chỉ nghĩ đến miếng ăn thôi !

Con gái út tôi, mười một tuổi, một tay xách giỏ trầu của bà nội, một tay cặp-kè với bà nó đi vào như hai người bạn. Bà nó cưng nó nhứt nhà. Lúc nào xuống, cũng ngủ chung với nó để nghe nó kể chuyện. Nó thích bà nội ở điều đó và thường nói : « Ở nhà này chỉ có nội là thích nghe em kể chuyện thôi ! ». Thật ra, nó có lối kể chuyện không đầu không đuôi làm mấy anh mấy chị nó bực. Trái lại, bà nó cho đó là một thi vị của tuổi thơ, nên hay biểu nó kể chuyện cho bà nghe, để lâu lâu bà cười chảy nước mắt.

Tôi hỏi má tôi :
- Sao bữa nay xuống trưa vậy nội ?

Vợ chồng tôi hay gọi má tôi bằng « nội » như các con. Nói theo tụi nó, riết rồi quen miệng. Lâu lâu, chúng tôi cũng có gọi bằng « má » nhưng sao vẫn không nghe đầm-ấm nồng-nàn bằng tiếng « nội » của các con. Hồi cha tôi còn sống, tụi nhỏ còn gọi rõ ra « ông nội » hay « bà nội ». Cha tôi mất đi, ít lâu sau, chúng nó chỉ còn dùng có tiếng « nội » ngắn gọn để gọi bà của chúng nó, ngắn gọn nhưng âm thanh lại đầy trìu mến.

Má tôi bước vào nhà, vừa cởi áo bà ba vừa trả lời :
- Thôi đi mầy ơi ! … Mấy thằng công an ở Trảng Bàng mắc dịch ! Tao lên xe hồi sáng chớ bộ. Tới trạm Trảng Bàng tụi nó xét thấy tao có đem một lon ghi-gô mỡ nước, vậy là bắt tao ở lại. Nói phải quấy bao nhiêu cũng không nghe. Cứ đề quyết là tao đi buôn lậu !

Rồi má tôi liệng cái áo lên thành ghế bàn ăn, nói mà tôi có cảm tưởng như bà đang phân trần ở Trảng Bàng :
- Đi buôn lậu cái gì mà chỉ có một lon mở nước ? Ai đó nghĩ coi ! Nội tiền xe đi xuống đi lên cũng hơn tiền lon mỡ rồi. Đi buôn kiểu gì mà ngu dại vậy hổng biết !
- Dễ hôn ! Nội đâu có để cho tụi nó « ăn » lon mỡ, con ! Mỡ heo nội thắng đem xuống cho tụi con chớ bộ.
 
Ngừng lại, hớp một hớp nước mát mà con út vừa đem ra, xong bà kể tiếp, trong lúc các con tôi quây quần lại nghe:
- Cái rồi … cứ dan ca riết làm nội phát ghét, nội đổ lì, ngồi lại đó đợi tụi nó muốn giải đi đâu thì giải.

Nghe đến đây, bầy con tôi cười thích thú. Bởi vì tụi nó từng nghe ông nội tụi nó kể những chuyện « gan cùng mình » của bà nội hồi xưa khi cùng chồng vào khu kháng chiến, nhứt là giai đoạn trở về hoạt động ngầm ở thành phố sau này, trước hiệp định Genève …

Con út nóng nảy giục :
- Rồi sao nữa nội ?
- Cái rồi … lối mười một mười hai giờ gì đó nội hổng biết nữa. Ờ … cở đứng bóng à. Có thằng cán bộ đạp xe đi ngang. Nó đi qua khỏi rồi chớ, nhưng chắc nó nhìn thấy nội nên hoành xe lại chào hỏi : « Ũa ? Bà Tám đi đâu mà ngồi đó vậy ? ». Nội nhìn ra là thằng Kiểu con thầy giáo Chén ở Tha-La, tụi bây không biết đâu. Kế nội kể hết đầu đuôi câu chuyện cho nó nghe. Nó cười ngất. Rồi nhờ nó can thiệp nên nội mới đi được đó. Lên xe thì đã trưa trờ rồi … Ti ! Kiếm cây quạt cho nội, con !

Ti là tên con út. Cây quạt là miếng mo cau mà má tôi cắt, vanh thành hình rồi đem ép giữa hai tấm thớt dầy cho nó bớt cong .Má tôi đem từ Gò Dầu xuống bốn năm cây quạt mo phân phát cho mấy cháu, nói : « Nội thấy ba má tụi con gỡ bán hết quạt máy, nội mới làm thứ này đem xuống cho tụi con xài. Kệ nó, xấu xấu vậy chớ nó lâu rách ».

Con út cầm quạt ra đứng cạnh nội quạt nhè nhẹ mà mặt mày tươi rói : tối nay nó có « bạn » ngủ chung để kể chuyện ! Vợ tôi đem áo bà ba của má tôi vào buồng mấy đứa con gái, từ trong đó hỏi vọng ra :
- Nội ăn gì chưa nội ?
- Khỏi lo ! Tao ăn rồi. Để tao têm miếng trầu rồi tao với mấy đứa nhỏ soạn đồ ra coi có hư bể gì không cái đã.

Rồi mấy bà cháu kéo nhau ra nhà sau. Tôi nhìn theo má tôi mà bỗng nghe lòng dào dạc. Từ bao nhiêu năm nay, trên người má tôi chẳng có gì thay đổi. Vẫn loại quần vải đen lưng rút, vẫn áo túi trắng ngắn tay có hai cái túi thật đặc biệt do má tôi tự cắt may : miệng túi cao lên tới ngực chớ không nằm dưới eo hông như những áo túi thường thấy. Mấy đứa nhỏ hay đùa : « Cha … bộ sợ chúng nó móc túi hay sao mà nội làm túi sâu vậy nội ? » Má tôi cười : « Ậy ! Vậy chớ túi này chứa nhiều thứ quí lắm à bây ». Những thứ gì không biết, chớ thấy má tôi còn cẩn thận ghim miệng túi lại bằng cây kim tây !

Tôi là con một của má tôi. Vậy mà sau khi cha tôi chết đem về chôn ở Gò Dầu, quê tôi, má tôi ở luôn trên đó. Nói là để châm sóc mồ mả và vườn tược cây trái. Thật ra, tại vì má tôi không thích ở Sài Gòn, mặc dù rất thương mấy đứa cháu. Hồi còn ở chung với vợ chồng tôi để tránh pháo kích - dạo đó, Việt cộng hay bắn hỏa tiễn vào Gò Dầu về đêm – má tôi thường chắc lưỡi nói : « Thiệt … không biết cái xứ gì mà ăn rồi cứ đi ra đi vô, hổng làm gì ráo ». Cái « xứ » Sàigòn, đối với má tôi, nó « tù chân tù tay » lắm, trong lúc ở Gò Dầu má tôi có nhà cửa đất đai rộng rãi, cây trái xum xuê, và dù đã cao niên, má tôi vẫn thường xuyên xách cuốt xách dao ra làm vườn, làm cỏ. Vả lại chung quanh đất má tôi, là nhà đất của các anh bà con bên ngoại của tôi, thành ra má tôi qua lại cũng gần. Các anh chị bà con tới lui thăm viếng giúp đỡ cũng dễ. Cho nên, dù ở một mình trên đó, má tôi vẫn không thấy cô đơn hiu quạnh. Lâu lâu nhớ bầy con tôi thì xuống chơi với chúng nó năm bảy bữa rồi về. Má tôi hay nói đùa là «đi đổi gió»!
 
Mấy năm sau ngày mất nước, cuộc sống của gia đình tôi càng ngày càng bẩn chật. Cũng như thiên hạ, vợ chồng tôi bán đồ đạc trong nhà lần lần để ăn. Má tôi biết như vậy nên xuống thăm mấy đứa nhỏ thường hơn, để mang « cái gì để ăn » cho chúng nó. Nhiều khi nằm đêm tôi ứa nước mắt mà nghĩ rằng lẽ ra tôi phải nuôi má tôi chớ, dù gì tôi cũng mới ngoài bốn mươi lăm còn má tôi thì tuổi đã về chiều. Vậy mà bây giờ, mặc dù là công nhân viên nhà nước xã hội chủ nghĩa với lương kỹ sư « bật hai trên sáu », tôi đã không nuôi nổi má tôi, mà trái lại chính má tôi phải cắt-ca cắt-củm mang đồ ăn xuống tiếp tế cho gia đình tôi, giống như má tôi mớm cơm đút cháo cho tôi thuở tôi còn thơ ấu ! Thật là một « cuộc đổi đời » ( Việt Cộng thường rêu rao : « Cách mạng là một cuộc đổi đời » ). Nhưng cuộc đổi đời của mẹ con tôi thì thật là vừa chua cay vừa hài hước !

Lắm khi tôi tự hỏi : « Rồi sẽ đi đến đâu ? ». Bấy giờ tôi đã trở thành « trưởng ban văn nghệ » của cơ quan, một lối đi « ngang » mà nhờ đó tôi còn được ở lại với sở cũ. Bởi vì mấy chục năm kinh nghiệm trong nghề nghiệp chánh của tôi, nhà nước cách mạng cho là vô dụng, không « đạt yêu cầu ». Thành ra, tối ngày tôi chỉ lo cho đoàn « nghiệp dư » của cơ quan tập dượt hát múa. Thật là hề. Còn về phần các con tôi, tương lai gần nhứt là đi đánh giặc Kampuchia, tương lai xa hơn thì thật là mù mịt !

Trong lúc tôi không có lối thoát thì một người bạn đề nghị giúp chúng tôi vượt biên, nhưng chỉ đi được có ba người. Vậy là chúng tôi lấy quyết định cho hai đứa lớn đi theo tôi. Chuyện này, chúng tôi giấu má tôi và mấy đứa nhỏ, kể cả hai đứa đã được chọn. Phần vì sợ đổ bể, phần vì sợ má tôi lo. Ai chẳng biết vượt biên là một sự liều lĩnh vô cùng. Rủi đi không thoát là bị tù đày chẳng biết ở đâu, may mà đi thoát cũng chưa chắt là sẽ đến bờ đến bến. Người ta nói trong số những người đi thoát, hai phần ba bị mất tích luôn. Thành ra, « vượt biên » là đi vào miền vô định …

Theo chương trình thì sáng sớm ngày rằm cha con tôi đi xe đò xuống Cần Thơ rồi từ đó có người rước qua sông ông Đốc để xuất hành ngay trong đêm đó. Tôi thắc mắc hỏi : « Tổ chức gì mà đi chui nhằm ngày rằm cha nội? ». Bạn tôi cười : « Ai cũng nghĩ như anh hết. Tụi Việt Cộng cũng vậy. Cho nên hể có trăng sáng là tụi nó nằm nhà nhậu, không đi tuần đi rỏn gì hết. Hiểu chưa ? »

Bữa nay là mười bốn ta nhằm ngày thứ bảy, vợ chồng tôi định không nói gì hết, chờ sáng sớm mai gọi hai đứa lớn dậy đi với tôi xuống Cần Thơ. Như vậy là chúng nó sẽ hiểu. Và như vậy là kín đáo nhứt, an toàn nhứt. Rồi sau đó vợ tôi sẽ liệu cách nhắn tin về cho má tôi hay. Chừng đó thì « sự đã rồi » …

Bây giờ thì má tôi đã có mặt ở đây, giấu cũng không được .Đành phải nói cho má tôi biết. Nhưng nói lúc nào đây ? Và nói làm sao đây ? Liệu má tôi có biết cho rằng tôi không còn con đường nào khác ? Liệu má tôi có chấp nhận cho tôi không giữ tròn đạo hiếu chỉ vì lo tương lai cho các con ? Liệu má tôi … liệu má tôi … Tôi phân vân tự đặt nhiều câu hỏi để chẳng thấy ở đâu câu trả lời …

Tôi ngồi xuống thềm nhà, nhìn ra sân. Ở đó, bờ cỏ lá gừng xanh mướt ngày xưa đã bị chúng tôi đào lên đấp thành luống để trồng chút đỉnh khoai mì, một ít khoai lan, vài hàng bắp. Không có bao nhiêu nhưng vẫn phải có. Cho nó giống với người ta, bởi vì nhà nào cũng phải « tăng gia » cho đúng « đường lối của nhà nước ». Thật ra, trồng trọt bao nhiêu đó, nếu có … trúng mùa đi nữa, thì cũng không đủ cho bầy con tôi « nhét kẻ răng » ! Vậy mà tên công an phường, trong một dịp ghé thăm, đã tấm tắc khen : « Anh chị công tác tốt đấy chứ. Tăng gia khá nhất khu phố đấy ! Các cháu tha hồ mà ăn ». Anh ta không biết rằng mấy nhà hàng xóm của tôi, muốn « tăng gia », họ đã phải đào cả sân xi-măng hoặc sân lót gạch, thì lấy gì để « làm tốt »?

Khi tôi trở vào nhà thì con út đang gãi lưng cho nội. Nó vén áo túi nội lên đến vai, để lộ cái lưng gầy nhom, cong cong và hai cái vú teo nhách. Tôi tự hỏi : « Lạ quá ! Chỉ có mình mình bú hồi đó mà sao làm teo vú nội đến như vậy được ? ». Rồi tôi bồi hồi cảm động khi nghĩ rằng chính hai cái núm đen đó đã nuôi tôi lớn lên với dòng sữa ấm, vậy mà chẳng bao giờ nghe má tôi kể lể công lao. Tôi cảm thấy thương má tôi vô cùng. Tôi len lén từ phía sau lòn tay măn vú má tôi một cái. Má tôi giựt mình, rút cổ lại :
- Đừng ! Nhột !Thằng chơi dại mậy !

Rồi má tôi cười văng cốt trầu. Con Ti la lên :
- Má ơi ! Coi ba măn vú nội nè !
 
Tôi cười hả hê thích thú. Trong khoảnh khắc thật ngắn ngủi đó, tôi bắt gặp lại những rung động nhẹ nhàng sung sướng khi tôi măn vú mẹ thuở tôi mới lên ba lên năm … Và cũng trong khoảnh khắc đó, tôi đã quên mất rằng má tôi đã gần tám mươi mà tôi thì trên đầu đã hai thứ tóc ! Và cũng quên mất rằng từ ngày mai trở đi, có thể tôi sẽ không bao giờ còn gặp lại má tôi nữa, để măn vú khi bất chợt thấy má tôi nhờ cháu nội gãi lưng như hôm nay …

Chiều hôm đó, khi ngồi vào bàn ăn, mắt bầy con tôi sáng rỡ. Bữa cơm thật tươm tất, đầy đủ món ăn như khi xưa. Có gà nấu canh chua lá giang, một loại giây leo có vị chua thật ngọt ngào mà hình như chỉ ở miệt quê tôi mới có. Món này, bà nội mấy đứa nhỏ nấu thật đậm đà. Bà thường nói : « Canh chua phải nêm cho cứng cứng nó mới ngon ». Mà thật vậy. Tô canh nóng hổi, bốc lên mùi thơm đặc biệt của thịt gà lẫn với mùi chua ngọt của lá giang, mùi mặn đằm thấm của nước mắm và mùi tiêu mùi hành … Húp vào một miếng canh chua, phải nghe đầu lưỡi ngây ngây cứng cứng và chân tóc trên đầu tăng tăng, như vậy mới đúng. Nằm cạnh tô canh chua là tộ cá kèo kho tiêu mà khi mang đặt lên bàn ăn nó hãy còn sôi kêu lụp-bụp, bốc mùi thơm phức vừa mặn vừa nồng cay lại vừa béo, bỡi vì trong cá kho có tóp mỡ và trước khi bắt xuống, bà nội có cho vào một muỗng mỡ nước gọi là « để cho nó dằn » ! Đặc biệt, khi làm cá kèo, bà không mổ bụng cá, thành ra khi cắn vào đó, mật cá bể ra đăng đắng nhẹ nhàng làm tăng vị bùi của miếng cá lên gấp bội. Ngoài hai món chánh ra, còn một dĩa măng luộc, tuy là một món phụ nhưng cũng không kém phần hấp dẫn nhờ ở chỗ sau khi luộc rồi măng được chiên lại với tỏi nên ngã màu vàng sậm thật là đậm đà …

Sau khi và vài miếng, vợ tôi nhìn tôi rồi rớt nước mắt. Nội hỏi :
- Bộ cay hả ?

Vợ tôi “dạ”, tiếng “dạ” nằm đâu trong cổ. Rồi buông đũa, mếu máo chạy ra nhà sau. Tôi hiểu. Bữa cơm này là bữa cơm cuối cùng, bữa cơm mà cả gia đình còn xum họp bên nhau. Rồi sẽ không còn bữa cơm nào như vầy nữa. Gia đình sẽ chia hai. Những người đi, rồi sẽ sống hay chết ? Còn những người ở lại, ai biết sẽ còn tan tác đến đâu ? Tôi làm thinh, cắm đầu ăn lia lịa như mình đang đói lắm. Thật ra, tôi đang cần nuốt thật nhanh thật nhiều, mỗi một miếng nuốt phải thật đầy cổ họng … để đè xuống, nén xuống một cái gì đang trạo trực từ dưới dâng lên. Mắt tôi nhìn đồ ăn, nhìn chén cơm, nhìn đôi đũa, để khỏi phải nhìn má tôi hay nhìn bầy con, ngần đó khuôn mặt thân yêu mà có thể tôi sẽ vĩnh viễn không còn thấy lại nữa. Trong đầu tôi chợt hiện ra hình ảnh người đang hấp hối, trong giây phút cuối cùng lưỡi đã cứng đơ mắt đã dại, vậy mà họ vẫn nhìn nuối những người thương để rồi chảy nước mắt trước khi tắt thở. Rồi tôi thấy tôi cũng giống như người đang hấp hối, không phải chết ở thể xác mà là chết ở tâm hồn, cũng một lần vĩnh biệt, và cũng sẽ bước vào một cõi u-minh nào đó, một cõi thật mơ hồ mà mình không hình dung được, không chủ động được !

Má tôi gắp cho tôi một cái bụng cá to bằng ngón tay cái :
- Nè ! Ngon lắm ! Ăn đi ! Để rồi mai mốt hổng chắc gì có mà ăn !

Ý má tôi muốn nói rằng ở với Việt Cộng riết rồi đến loại cá kèo cũng sẽ khan hiếm như các loại cá khác. Nhưng trong trường hợp của tôi, lời má tôi nói lại có ý nghĩa của lời tống biệt. Nó giống như : ”Má cho con ăn lần này lần cuối. Ăn đi con ! Ăn cho ngon đi con !”. Tôi ngậm miếng cá mà nước mắt trào ra, không kềm lại được. Nếu không có mặt bầy con tôi, có lẽ tôi đã cầm lấy bàn tay của má tôi mà khóc, khóc thật tự do, khóc thật lớn, để vơi bớt nỗi thống khổ đã dằn vật tôi từ bao nhiêu lâu nay … Đằng này, tôi không làm như vậy được. Cho nên tôi trạo trực nuốt miếng cá mà cảm thấy như nó thật đầy xương xóc !
 
Má tôi nhìn tôi ngạc nhiên :
- Ủa ? Mày cũng bị cay nữa sao ?

Rồi bà chồm tới nhìn vào tộ cá. Các con tôi nhao nhao lên :
- Đâu có cay, nội.
- Con ăn đâu thấy cay. Hai có nghe cay hôn Hai ?
- Chắc ba má bị gì chớ cay đâu mà cay.
- Con ăn được mà nội. Có cay đâu ?

Các con tôi đâu có biết rằng cái cay của tôi không nằm trên đầu lưỡi, mà nó nằm trong đáy lòng. Cái cay đó cũng bắt trào nước mắt !

Tôi đặt chuyện, nói tránh đi :
- Hổm rày nóng trong mình, lưỡi của ba bị lở, nên ăn cái gì mặn nó rát.

Rồi tôi nhai thật chậm để có thời gian cho sự xúc động lắng xuống. Miếng cơm trong miệng nghe như là sạng sỏi, nuốt không trôi …

Sau bữa cơm, bà cháu kéo hết vào buồng tụi con gái để chuyện trò. Thỉnh thoảng nghe cười vang trong đó. Chen trong tiếng cười trong trẻo của các con, có tiếng cười khọt khọt của nội, tiếng cười mà miếng trầu đang nhai kềm lại trong cổ họng, vì sợ văng cốt trầu. Những thanh âm đó toát ra một sự vô tư, nhưng lại nghe đầy hạnh phúc. Lúc này, có nên nói chuyện vượt biên với má tôi hay không ? Tội nghiệp bầy con, tội nghiệp nội … Ngoài phòng khách, tôi đi tới đi lui suy nghĩ đắn đo. Vợ tôi còn lục đục sau bếp, và cho dù vợ tôi có mặt ở đây cũng không giúp gì tôi được với tâm sự rối bời như mớ bòng bong. Tôi bèn vào buồng ngủ, trải chiếu dưới gạch-từ lâu rồi, vợ chồng tôi không còn giường tủ gì hết- rồi tắt đèn nằm trong bóng tối, gác tay lên tráng mà thở dài …

Thời gian đi qua … Trăng đã lên nên tôi thấy cửa sổ được vẽ những lằn ngang song song trắng đục. Trong phòng bóng tối cũng lợt đi. Không còn nghe tiếng cười nói ở phòng bên và tôi nghĩ chắc đêm nay vợ tôi ngủ với hai đứa lớn ngoài phòng khách, để trằng trọc suốt đêm chờ sáng.

Bỗng cửa phòng tôi nhẹ mở, vừa đủ để tôi nhìn thấy bóng má tôi lom khom hướng vào trong hỏi nhỏ :
- Ba con Ti ngủ chưa vậy ?

Tôi hơi ngạc nhiên, nhưng cũng trả lời nho nhỏ vừa đủ nghe :
- Dạ chưa, má.

Má tôi bước vào đóng cửa lại, rồi mò mẫm ngồi xuống cạnh tôi, tay cầm quạt mo quạt nhè nhẹ lên mình tôi, nói :
- Coi bộ nực hả mậy ?
- Dạ. Nhưng rồi riết cũng quen, má à.

Tôi nói như vậy mà trong đầu nhớ lại hình ảnh tôi và thằng con trai hè hụi tháo gỡ mấy cây quạt trần để mang đi bán. Im lặng một lúc. Tay má tôi vẫn quạt đều.

Rồi má tôi hỏi:
- Tụi bây còn gì để bán nữa hông ?
- Dạ …

Tôi không biết trả lời làm sao nữa. Chiếc xe hơi bây giờ chỉ còn lại cái sườn, không ai chịu chở đi. Trong nhà bây giờ chỉ còn bộ bàn ăn, cái tủ thờ nhỏ và bộ xa-long mây “sứt căm gãy gọng”. Ngoài ra, trên tường có chân dung “Bác Hồ” dệt bằng lụa và nhiều “bằng khen”,”bằng lao động tiên tiến” … những thứ mà nhà nào cũng có hết, cho, chưa chắc gì có ai thèm lấy ! Bỗng tôi nhớ có một hôm tôi nói với bầy con tôi : ”Ba tự hào đã giữ tròn liêm sỉ từ mấy chục năm nay. Bây giờ, đổi lấy cái gì ăn cũng không được, đem ra chợ trời bán cũng chẳng có ai mua. Sao ba thấy thương các con và tội cho ba quá !”. Lúc đó, tôi tưởng tượng thấy tôi đứng ở chợ trời, dưới chân có tấm bảng đề “Bán cái liêm sỉ, loại chánh cống. Bảo đảm đã hai mươi năm chưa sứt mẻ”. Thật là khùng nhưng cũng thật là chua chát !

Nghe tôi “dạ” rồi nín luôn, má tôi hiểu, nên nói:
- Rồi mầy phải tính làm sao chớ chẳng lẽ cứ như vầy hoài à ? Tao thấy bầy tụi bây càng ngày càng trõm lơ, còn mầy thì cứ làm thinh tao rầu hết sức.

Má tôi ngừng một chút, có lẽ để lấy một quyết định :
- Tao xuống kỳ này, cốt ý là để nói hết cho mầy nghe. Tao già rồi, mai mốt cũng theo ông theo bà. Mày đừng lo cho tao. Lo cho bầy con mầy kìa. Chớ đừng vì tao mà bắt mấy đứa nhỏ phải hy sinh tương lai của tụi nó. Mầy liệu mà đi, đi ! Kiếm đường mà kéo bầy con mầy đi, đi ! Ở đây riết rồi chết cả chùm. Không chết trận trên Miên thì cũng chết khùng chết đói. Thà tụi bây đi để tao còn thấy chút đỉnh gì hy vọng mà sống thêm vài năm nữa. Mày hiểu hôn ?

Nghe má tôi nói, tôi rớt nước mắt. Chuyện mà bao lâu nay tôi không dám nói với má tôi thì bây giờ chính má tôi lại mở ngỏ khai nguồn. Và tôi thật xúc động với hình ảnh bà mẹ già phải đẩy đứa con duy nhứt đi vượt biên để vui mà sống với ít nhiều hy vọng ! Thật là ngược đời : có người mẹ nào lại muốn xa con ? Chỉ có ở chế độ xã hội chủ nghĩa mới xảy ra những chuyện “đổi đời” như vậy !

Tôi nắm bàn tay không cầm quạt của má tôi, lắc nhẹ :
- Má à ! Lâu nay con giấu má. Bây giờ má nói, con mới nói. Sáng sớm mai này, con và hai đứa lớn sẽ xuống Cần Thơ để vượt biên.

Tôi nghe tiếng cây quạt mo rơi xuống gạch. Rồi yên lặng. Một lúc lâu sau, má tôi mới nói :
- Vậy hà …

Tôi nghe có cái gì nghẹn ngang trong cổ. Tôi nuốt xuống mấy lần, rồi cố gắng nói :
- Con đi không biết sống hay chết. Con gởi má vợ con và ba đứa nhỏ, có bề gì xin má thương tụi nó …

Nói tới đó, tôi nghẹn ngào rồi òa lên khóc ngất. Tôi nghe có tiếng quạt phe phẩy lại, nhanh nhanh, và bàn tay má tôi vuốt tóc tôi liên tục giống như hồi nhỏ má tôi dỗ về tôi để tôi nín khóc.

Một lúc sau, má tôi nói :
- Thôi ngủ đi, để mai còn dậy sớm.

Rồi bước ra đóng nhẹ cửa lại. Sau đó, có tiếng chẹt diêm quẹt rồi một ánh sáng vàng vọt rung rinh lòn vào khuôn cửa, tôi biết má tôi vừa thắp đèn cầy trên bàn thờ. Tiếp theo là mùi khói nhang, chắc bà nội mấy đứa nhỏ đang cầu nguyện ngoài đó.

Tôi thở dài, quay mặt vào vách, nhắm mắt mà nghe chơi vơi, giống như đang nằm trong một cơn mộng …

Năm giờ sáng hôm sau, má tôi kêu tôi dậy đi. Hai con tôi đã sẵn sàng, mỗi đứa một túi nhỏ quần áo. Chúng nó không có vẻ gì ngạc nhiên hay xúc động hết. Có lẽ mẹ tụi nó đã gọi dậy từ ba bốn giờ sáng để giảng giải và chuẩn bị tinh thần. Riêng tôi, thật là trầm tĩnh. Nước mắt đêm qua đã giúp tôi lấy lại quân bình. Thật là mầu nhiệm !

Tôi vào buồng hôn nhẹ mấy đứa nhỏ đang ngủ say, xong ôm vợ tôi, ôm má tôi. Hai người thật là can đảm, không mảy may bịn rịn.

Tôi chỉ nói có mấy tiếng :
- Con đi nghe má !

Rồi bước ra khỏi cổng.

-oOo-

Lần đó, tôi đi thoát.

Rồi phải ba bốn năm sau, tôi mới chạy chọt được cho vợ con tôi rời Việt Nam sang sum họp với tôi ở Pháp. Má tôi ở lại một mình.

Mấy ngày đầu gặp lại nhau, vợ con tôi kể chuyện “bên nhà” cho tôi nghe, hết chuyện này bắt qua chuyện nọ. Bà Nội được nhắc tới nhiều nhứt và những chuyện về bà nội được kể đi kể lại thường nhứt.

Tụi nó kể :
“Ba đi rồi, mấy bữa sau cơ quan chỗ ba làm việc cho người đến kiếm. Tụi con trốn trong buồng, để một mình nội ra. Nội nói rằng nội nhờ ba về Tây Ninh rước ông Tư xuống bởi vì trên đó đang bị Cao Miên pháo kích tơi bời, tới nay sao không thấy tin tức gì hết, không biết ba còn sống hay chết nữa. Nói rồi, nội khóc thật mùi-mẫn làm mấy cán bộ trong cơ quan tin thiệt, họ an ủi nội mấy câu rồi từ đó không thấy trở lại nữa”.

Rồi tụi nó kết câu chuyện với giọng đầy thán phục :
“Nội hay thiệt !”.

Nghe kể chuyện, tôi bồi hồi xúc động. Tôi biết lúc đó má tôi khóc thiệt chớ không phải giả khóc như các con tôi nghĩ. Bởi vì, trong hai trường hợp dù sự việc xảy ra có khác nhau, nhưng hoàn cảnh sau đó vẫn giống nhau y hệt. “Ba con Ti đi không biết sống hay chết” vẫn là câu hỏi lớn đè nặng tâm tư của má tôi. Bề ngoài má tôi làm ra vẻ bình tĩnh để an lòng con dâu và cháu nội, nhưng là một cái vỏ mỏng manh mà trong khi kể chuyện cho các cán bộ, nó đã có dịp bể tung ra cho ưu tư dâng đầy nước mắt …

“Rồi sau đó -tụi con tôi kể tiếp- nội ở lại nhà mình để chờ tin tức và cũng để ra tiếp chuyện hàng xóm và chánh quyền địa phương, chớ má thì ngày nào cũng đi chùa, còn tụi con nội sợ nói hé ra là mang họa cả đám. Lâu lâu, nội về Gò Dầu bán đồ rồi mua thịt thà đem xuống tiếp tế cho tụi con. Thấy nội già mà lên lên xuống xuống xe cộ cực nhọc quá, tụi con có can ngăn nhưng nội nói nội còn mạnh lắm, nội còn sống tới ngày con Ti lấy chồng nội mới chịu theo ông theo bà !”.

Tôi biết : má tôi là cây cau già - quá già, quá cỗi - nhưng vẫn cố bám lấy đất chỉ vì trên thân cây còn mấy dây trầu … Hình ảnh đó bỗng làm tôi ứa nước mắt. Thương má tôi và nhớ cả quê hương. Cái quê hương tuyệt đẹp của tôi mà Việt Cộng đã cướp mất. Cái quê hương mà trên đó tôi không còn quyền sống như ý mình muốn, phát biểu những gì mình nghĩ, ca tụng những gì mình thích. Ở đó, ở quê hương tôi, tôi còn bà mẹ già, bà mẹ tám mươi đã cắt ruột đuổi con đi, bỏ quê hương mà đi, để bà còn chút gì hy vọng sống thêm vài ba năm nữa ! Bây giờ, vợ con tôi cũng đã đi hết. Má tôi còn lại một mình. Thân cây cau giờ đã nhẵn dây trầu, thêm tuổi đời một nắng hai mưa. Tôi biết ! Má ơi ! Con biết : cây cau già bây giờ đang nhớ thắt thẻo mấy dây trầu non …

Theo lời các con tôi kể lại, hôm tiếp được điện tín của bạn tôi ở Pháp đánh về báo tin tôi và hai đứa lớn đã tới Mã Lai bình yên, cả nhà tưng bừng như hội. Tụi nó nói : “Nội vội vàng vào mặc áo rồi quì trước bàn thờ Phật gõ chuông liên hồi. Đã giấu không cho ai biết mà nội gõ chuông giống như báo tin vui cho hàng xóm!”

“Mấy hôm sau, bỗng có công-an phường lại nhà. Công an đến nhà là lúc nào cũng có chuyện gì đó cho nên nội có hơi lo. Thấy dạng tên công an ngoài ngõ, trong này nội niệm Phật để tự trấn an. Sau đó, nội cũng kể chuyện ba về Tây Ninh rồi nội kết rằng ba đã chết ở trên đó. Rồi nội khóc … ”

Mấy con tôi đâu biết rằng đối với má tôi, dù tôi còn sống, sống mà vĩnh viễn không bao giờ thấy lại nhau nữa thì cũng giống như là tôi đã chết.

“ Sau đó nội than không biết rồi sẽ ở với ai, rồi ai sẽ nuôi nội, bởi vì má buồn rầu đã bỏ nhà đi mất. Nghe vậy, tên công an vội vàng an ủi :
- Bà cụ đừng có lo ! Rồi chúng cháu sẽ đem bà cụ về ở với chúng cháu. Cứ yên chí !”. Sau khi tên công an ra về, nội vào buồng kể lại chuyện đó cho tụi con nghe, rồi nói : “Nội nghe thằng công an đòi đưa nội về nuôi mà nội muốn xỉu luôn ! Không phải vì cảm động mà vì sợ ! Ở với tụi nó, thà chết sướng hơn !”

Vợ con tôi được đi chánh thức nên hôm ra đi bạn bè thân quyến đến chia tay đầy nhà. Lúc mẹ con nó quì xuống lạy má tôi để giả biệt -hay đúng ra để vĩnh biệt- tất cả mọi người đều khóc. Đó là lần cuối cùng mà má tôi khóc với bầy cháu nội. Và tôi nghĩ rằng má tôi khóc mà không cần tìm hiểu tại sao mình khóc, chỉ thấy cần khóc cho nó hả, chỉ thấy càng khóc thân thể gầy còm càng nhẹ đi, làm như thịt da tan ra thành nước mắt, thứ nước thật nhiệm mầu mà Trời ban cho con người để nói lên tiếng nói đầy câm lặng.

Bầy bạn học của các con tôi đứng thành hai hàng dài, chuyền nước mắt cho nhau để tiễn đưa tụi nó ra xe ngoài ngõ. Tôi hình dung thấy những cặp mắt thơ ngây mọng đỏ nhìn các con tôi đi mà nửa hồn tê-dại, không biết thương cho bạn mình đi hay thương cho thân phận mình, người ở lại với đầy chua xót …

Mấy con tôi nói :
”Nội không theo ra phi trường. Nội ở nhà để gõ chuông cầu nguyện”.

-oOo-

Tôi làm việc ở Côte d'Ivoire ( Phi Châu ), cách xa vợ con bằng một lục địa, và cách xa mẹ tôi bằng nửa quả địa cầu. Những lúc buồn trống vắng, tôi hay ra một bãi hoang gần sở làm để ngồi nhìn biển cả. Mặt nước vuốt ve chân cát, tiếng sóng nhẹ nghe như thì thào … những thứ đó làm như chỉ dành cho riêng tôi. Tự nhiên tôi cảm thấy như được dỗ về an ủi. Những lúc đó, sao tôi nhớ má tôi vô cùng. Trên đời này má tôi là người duy nhứt an ủi tôi từ thuở tôi còn ấu thơ cho đến khi trên đầu tôi đã hai thứ tóc. Ngay đến đêm cuối cùng trên quê hương, cũng chính trong vòng tay khẳng khiu của má tôi mà tôi khóc, khi gởi vợ gởi con … Lúc nào tôi cũng tìm thấy ở má tôi một tình thương thật rộng rãi bao la, thật vô cùng sâu đậm, giống như đại dương mà tôi đang nhìn trước mặt.

Bây giờ tôi hiểu tại sao tôi hay ra ngồi đây để nhìn biển cả …

tiểu tử
 
Có đôi khi bất chợt ngoảnh lại mới thấy rẳng mình đã để vuột mất quá nhiều thứ...........

Giá mà ngày trước mình biết cách quan tâm "ấy" nhìu hơn thì bây giờ câu chuyện sẽ không diễn biến như thế này.

Giá mà sinh ra đã vô cảm thì trái tim sẽ ....không đauhuhu bùn ghê

Giá mà thời gian có thể quay trở lại thì mình sẽ lựa chọn cho mình một con đường khác

Giá mà nước mắt mình có thể cạn sau khi mình..... khóc nốt lần này

Giá mà mình làm mình trước đây, chỉ bik cười mà không hề biết khóc

Giá mà mình không quá ích kỷ khi buồn chuyện bản thân mà quên cả lũ bạn....

Giá mà mình có thể làm lại sau tất cả những j mình đã lỡ để vuột khỏi tầm tay......
_________________
"Lần cuối cùng em khóc vì anh...cũng là lúc.... anh tìm đc 1 tình yêu mới,1 hạnh phúc mới...."
 
10 ngày ko yêu thương ...tenth day..
Ngày đầu tiên của chuỗi ngày cực hình ... ko thiz một ai cả ... sáng sớm ngủ dậy thấy mệt mỏi... nắng chiếu vào khung cửa sổ rọi cả vào mặt...

Tối hôm wa nhỏ mệt nhọc lắm ... đọc bức thư đó 2 lần mới hiểu được những gì ng đó muốn nói ... người đó muốn nhỏ là bạn ... thì cứ nói thẳng là từ chối đi chời việc gì phải nói vòng vòng...ừ thì là bạn .. cũng dc là gì cũng dc ... ko wan tâm nữa đã bắt đầu sự mệt mỏi rồi ... Nhỏ muốn nghỉ ngơi...

Gấp bức thư lại nằm lăn ra giường chộp lấy cái điện thoại ... nhỏ muốn nhắn tin cho một ai đó nhưng có nhắn thì cũng chẳng ai trả lời cả... cầm điện thoại nhỏ nhá máy cho mọi người cốt để chúc ngủ ngon .. rổi nằm lăn ra tự nhủ mình khùng quá... thiếp đi lúc nào không biết ... ngủ trong sự mệt nhọc của ngày dài...

Sáng onl ... một hành dộng diễn ra hằng ngày như một thói quen nhưng lần này thói quen đổi khác .. Nhỏ inv. Lâu lắm rồi kể từ ngày đó ... KHông hiểu sao tâm trạng cứ rối bời...

10 ngày ko yêu thương ... nhỏ quyết định vậy .. trong 10 ngày ko yêu thương một ai nữa ... không nhớ, không buồn và không đau... nhìn cho cùng nỗi đau đó có lớn gì mấy đâu ... bằng chứng là nhỏ có khóc đâu ... nước mắt có muốn khóc chưa kịp rơi ra đã khô từ trong khoé mắt rồi ...chỉ còn lại sự mệt nhọc của chuỗi ngày dài mà con người phải đối diện với nhiều thứ ...lại phải cười hì hì như mọi khi coi như ko có chuyện gì sảy ra ...lại phải tỏ ra mình là người mạnh mẽ trong khi cần hết sức một ai đó để dựa vào ...

10 ngày không biết sẽ phải đối diện như thế nào ... 10 ngày ko yêu thương... thở dài mệt mỏi ... muốn ngủ vùi trong vòng tay ấm ...
 
Con cứ tưởng là con đã hiểu tất cả. Hoá ra con không hiểu gì cả. Mọi vật cứ quay cuồng rồi chính con cũng xa lạ với chính con. Con không biết là mình ở đâu nữa, ở trong mình, hay ở một nơi nào rất xa. Con những tưởng là ba biết rõ tất cả. Vậy mà ba bỏ con, ba vui thú với mấy ông bạn già bỏ mặc con với những nỗi lo toan không nơi nương tựa. Con sợ lắm! Nhưng phải cố gượng dậy. Không còn cách nào khác.

Ba ơi! Con thầm gọi ba những lúc thế này để trái tim con ấm lên tưởng như bàn tay ba che chở vỗ về. Ba ở bên con hay ở một nơi nào rất xa. Ba con mình luẩn quẩn bên nhau. Còn cuộc đời thì như những thước phim cứ quay đi quay lại. Đã có lúc con mặc kệ nó. Nhưng rồi nó cứ cuốn con đi. Chân con cứ phải chạy, tai con cứ phải nghe, mắt con cứ phải nhìn thấy và miệng con thì cứ phải huyên thuyên những điều vô nghĩa lý.

Con chẳng biết kể cho ba nghe chuyện gì cả. Chuyện mẹ ở nhà vật lộn với bệnh già ca cẩm suốt ngày, một mình, chỉ có một mình ư? Mẹ hiểu tuổi già của mẹ hơn con. Mẹ bận tâm về nó hơn là bận tâm về con. Con cũng chẳng giúp được mẹ ngoài việc lắng nghe một cách thờ ơ và sốt ruột. Con thấy mẹ lẩm cẩm còn mình thì như có lỗi, như nhận ra mình là đứa con bất hiếu. Tại sao con không già như mẹ để thông cảm với mẹ hơn, để kiên nhẫn hơn và nói được với mẹ một điều gì đó có nghĩa. Các em con cũng thế. Chúng nó chẳng có thì giờ để chia xẻ với mẹ nỗi bận tâm của mẹ. Chúng có bao nỗi bận tâm của chúng. Cái đầu nối giữa tuổi già và tuổi trẻ thật mong manh. Nó cứ trượt đi theo vòng quay thời gian. Đuổi nhau mà chẳng bao giờ nắm bắt được nhau. Nhưng rồi sẽ đến lúc chúng con sẽ già lúc ấy chúng con sẽ thương xót và nuối tiếc. Rồi ai sẽ thương xót và nuối tiếc chúng con? Chắc là các con của chúng con. Giá mà có thể đổi chỗ cho nhau được.

Cái Hường đang mải mê đi thi tay nghề giỏi. Trông nó phởn phơ lắm. Nó giật giải nhì ở huyện đấy ba. Bây giờ nó đang chuẩn bị đi thi thành phố. Chồng nó đang phất, mua sắm được khối thứ. Nó rất ngạc nhiên khi thấy con bỏ nhà bỏ cửa ra đi. Làm sao nó hiểu được. Giá mà nó hiểu được một chút nó sẽ không nhìn con như thế.

Thằng Hưng đang xây khách sạn. Nó gầy rộc đi. Nó chẳng nói với con một câu nào. Con thấy mình thật là vô tích sự.

Con cũng chẳng còn nhận được ra thằng Phú nữa. Nó giống như bọn thanh niên bây giờ, ăn mặc, đầu tóc, nói năng, cả phong cách tiêu sài. Con thật cổ lỗ sĩ phải không ba?

Còn cái Minh, nó nuôi thằng Tiến cho con. Thỉnh thoảng chồng nó lại dúi cho con một ít tiền. Hễ con quà cáp một tý là y như rằng chúng nó kêu lên: "Bác làm gì có tiền mà mua". Khách khứa của chúng đến nhà bằng đủ phương tiện, xe hơi, xe máy... chúng miễn cưỡng giới thiệu: "Bà chị em, viết văn". Thế là con nhận được đủ loại ánh mắt thờ ơ, ái ngại và cả thương hại nữa.

Thằng Tiến đang vỡ giọng, đang tập làm người lớn. Nó không thích laÜng nhaÜng theo con như ngày xưa nữa. Trước khi đi học nó đánh giày, chải đầu, xịt gôm bọt, thỉnh thoảng buông ra một câu triết lý rất "cụ". Nó không thích con xuất hiện trước bạn bè của nó. Không thích con đưa đón và đưa tiền ăn sáng cho nó trước mặt mọi người. Con thấy nó vừa thân thiết với con vừa xa lạ với con. Con ngỡ ngàng tưởng như mình đang mất đi một cái gì đó thật quý giá. Tuổi thơ của con trai con. Tất cả chỉ còn những ký ức. Hiện diện của ngày hôm nay là một cậu thiếu niên đang dần trở thành một cậu thanh niên. Niềm vui xen nỗi lo âu làm con thắc thỏm.

Con hoang mang lắm ba. Con muốn níu giữ một cái gì đấy. Nhưng rồi nó cứ trượt đi. Con hoảng sợ đến một lúc nào đó tất cả sẽ kết thúc. Con đau xót chấp nhận cái quy luật sinh tồn nghiệt ngã.

Anh ấy vẫn cứ thế, vẫn chứng nào tật ấy. Uống rượu liên miên và nuôi mối hận thù thâm căn cố đế với mấy ông lãnh đạo. Anh ấy cho rằng sự "bất công thành doanh toại" của anh ấy là do họ. Còn con thì, cho rằng do rượu. Anh ấy đã tưới mềm ý chí bằng rượu. Đốt cháy sự nghiệp bằng rượu. Bây giờ anh ấy chỉ còn là con ve sầu rả rê than thở. Con chẳng có cách gì giúp được anh ấy dù ở gần hay ở xa. Vì có bao giờ anh ấy biết nghe con. Tại sao người ta không thể chỉ bằng lòng với những gì mình có?

Nhưng có thể muốn bằng lòng cũng không được. Con đã từng an phận, muốn bằng lòng, cuộc đời chỉ biết có chồng con, dạy học, nuôi heo, nuôi gà... Nhưng rồi dạy học, nuôi heo, nuôi gà cũng không nuôi nổi ba con người, một kỹ sư, một thầy giáo và một đứa con ba tuổi. Chúng con không dám chi phí cho một ngày đi công viên hay đi xem xinê. Phải trốn mọi đám cưới của bạn bè, chưa biết thế nào là niềm vui của ngày Tết từ khi ý thức được thế nào là Tết. Ngày xưa con còn nhớ, Tết con không có áo mới không có xe đạp để đi chơi cùng với bạn bè. Nhưng dù sao ngày đó con vẫn hồ hởi ra trò. Bao nhiêu chàng trai vẫn đỏ mặt trước con bởi gương mặt trắng hồng nổi bật trên chiếc áo tháo túi nhuộm nâu của con. Chiếc áo mà bạn của mẹ thấy con không có áo mặc đã động lòng trắc ẩn cho con. Tuổi trẻ của con đã đánh bạt chiếc áo già nua ấy. Con vẫn rực rỡ, vẫn xinh tươi, các bạn trai của con sau này bảo thế. Họ không hề để ý đến chiếc áo ấy đã từng là của một bà già năm mươi tuổi khoác lên người một thiếu nữ mười sáu tuổi. Nhưng bây giờ thì khác rồi ba ạ. Con đã là chủ gia đình, nhất là con trai và hai bên nội ngoại chưa kể đến khách khứa bạn bè và những cô cậu học sinh. Phần mứt rượu Tết của cơ quan con, chúng con mang về lễ tổ tiên bên ngoại. Rồi chúng con bỏ trốn cái Tết đi đến một nơi thật xa. Nơi ấy người ta chỉ đón Tết duy nhất có một ngày mà cái ngày duy nhất ấy, chúng con đang rông ruổi trên đường với túi bánh lương khô. Nỗi khổ sở làm chúng con trở nên khó tính. Con cáu bẳn còn anh ấy thì nghiện rượu. Niềm xót xa cho cậu con trai ba tuổi ngơ ngác không biết Tết là gì làm cho con oán hận. Con oán hận anh ấy. Rồi con lại thấy mình vô lý. Con oán hận đời. Nhưng đời là ai? Là cái gì? Con chẳng làm sao định nghĩa nổi. Con oán hận cho sự hèn kém của mình. Thế là con bỏ chạy. Ba biết đấy ngày đó con đã trốn đi, gia tài duy nhất là cậu con trai. Con không đành lòng trước sự lạc lõng của con báo hiệu một sự lạc lõng định mệnh dành cho con trai con. Con bỏ cái nhà quê tĩnh lặng ấy, bỏ cái công việc dạy học đơn điệu và tẻ nhạt ấy, con chẳng biết dạy gì cho lũ trẻ ấy cả khi mà áo chúng rách còn tim con thì bươm bả, tả tơi. Con lao vào cái đám ồn ào của phố phường để đánh lừa cảm giác là mình đang sống. Con đi đưa hàng thuê dành dụm được ít vốn, đi buôn, rồi mất tất cả. Cuối cùng con đâm sầm vào văn chương hy vọng sẽ gửi gắm nơi đó một điều gì, hy vọng được an ủi, được chia sẻ, được sống...
 
Song văn chương cũng chẳng nuôi sống nổi con và con của con. Đã thế những nỗi niềm tâm tư trăn trở của con lại bị người ta tung hê mổ xẻ và giễu cợt. Con hoảng sợ và lại tiếp tục chạy trốn. Song con không biết trốn vào đâu ba ạ.

Con viết truyện về một ông lão bán kem bị vòng quay nghiệt ngã của cuộc đời đè nát. Người ta bảo, đừng để ông ấy chết, chỉ để ông ấy què chân thôi họ sẽ in và con sẽ có một trăm ngàn tiền nhuận bút. Đêm đêm ông lão tội nghiệp ấy về năn nỉ con:

- Đừng để tôi què chân. Hãy làm ơn để tôi chết! Đừng để tôi què chân!

- Nếu ông què chân thì tôi có một trăm ngàn nhuận bút. Nó sẽ nuôi tôi được mười ngày.

- Nhưng nếu tôi què chân thì ai sẽ nuôi tôi? Ai sẽ cho tôi năm ngàn một ngày để sống? Cô muốn tôi lê lết đi ăn xin ư? Cái thân già này, con đường nhầy nhụa nước mắt và nước bọt này, cô muốn đày ải tôi khổ sở hơn nữa hay sao. Đi bán kem với cái lão già sáu bảy mươi tuổi này chưa đủ khổ ải hay sao? Hãy để cái bánh xe xe hơi làm phúc kia đè nát tôi ngay khi tôi không còn đủ sức để đi bán kem nữa.

- Tôi còn nhớ cái lúc ông quay ngoắt xe lại trước tiếng gọi kem của lũ trẻ trêu trọc. Ông hoàn toàn mất tỉnh táo. Ông bị lừa! Ông bị chết oan! Ông không oán hận cái chết đó sao?

- Chính cái chết đó làm tôi tỉnh táo ra. Tôi đã hiểu được thế nào là sống. Còn cô hình như cô vẫn chưa muốn hiểu phải không?

- Có thể là tôi đã rất muốn mà tôi chưa hiểu được đấy thôi!

Ba ạ! Mùa xuân năm vừa rồi trên mộ ba bỗng nhiên mọc một cái cây có năm cành. Con rưng rưng không biết có phải đó là năm đứa con của ba không. Năm cành non trổ lộc đâm chồi. Con nâng niu và tưới nước mát cho chúng. Con nghe trong gió thoảng hơi thở và tiếng nói thì thầm của ba.

Mùa xuân bình thản buông những giọt bụi mềm ấm xuống lòng đất thổn thức.

Ba ơi!
 
Bông Hồng Cài Áo

Ý niệm về mẹ thường không thể tách rời với tình thương. Mà tình thương là một chất liệu ngọt ngào êm dịu và cố nhiên là ngon lành. Con trẻ thiếu tình thương thì không thể lớn lên được. Người lớn thiếu tình thương thì cũng không "lớn" lên được. Cằn cỗi, héo mòn.

Ngày mẹ tôi mất, tôi viết trong nhật ký: "Tai nạn lớn nhất đã xảy ra cho tôi rồi !" Lớn cách mấy mà mất mẹ, thì cũng như không lớn, cũng cảm thấy bơ vơ, lạc lõng, cũng không hơn gì kẻ mồ côi.

Những bài hát, những bài thơ ca tụng tình mẹ, bài nào cũng dễ thấy hay. Người viết dù không có tài ba, cũng có rung cảm chân thành; người hát ca, trừ là kẻ không có mẹ ngay từ thuở chưa có ý niệm, ai cũng cảm động khi nghe nói đến tình mẹ. Những bài hát ca ngợi tình mẹ đâu cũng có, thời nào cũng có. Bài thơ mất mẹ mà tôi thích nhất từ hồi nhỏ là một bài thơ giản dị. Mẹ đang còn sống, nhưng mỗi khi đọc bài thơ ấy thì sợ sệt, âu lo... sợ sệt lo âu cho một cái gì còn xa, chưa đến nhưng chắc chắn phải đến:

Năm xưa tôi còn nhỏ

Mẹ tôi đã qua đời!

Lần đầu tiên tôi hiểu

Thân phận kẻ mồ côi.

Quanh tôi ai cũng khóc

Im lặng tôi sầu thôi

Để dòng nước mắt chảy

Là bớt khổ đi rồi...

Hoàng hôn phủ trên mộ

Chuông chùa nhẹ rơi rơi

Tôi thấy tôi mất mẹ

Mất cả một bầu trời

Một bầu trời thương yêu dịu ngọt, lâu quá mình đã bơi lội trong đó, sung sướng mà không hay, để hôm nay bừng tỉnh thì đã mất rồi. Người nhà quê Việt Nam không ưa nói cách cao kỳ. Nói rằng bà mẹ già là một kho tàng của yêu thương, của hạnh phúc thì cũng đã là cao kỳ rồi. Nói mẹ già là một thứ chuối, một thứ xôi, một thứ đường ngọt dịu, người dân quê đã diễn tả được tình mẹ vừa giản dị, vừa đúng mức:

Mẹ già như chuối ba hương

Như xôi nếp một, như đường mía lau

Ngon biết bao nhiêu! Những lúc miệng vừa đắng vừa nhạt sau một cơn sốt, những lúc như thế thì không có món ăn gì có thể gợi được khẩu vị của ta. Chỉ khi nào mẹ đến, kéo chăn đắp lại ngực cho ta, đặt bàn tay trên trán nóng ta và than thở "Khổ chưa, con tôi," ta mới cảm thấy đầy đủ, ấm áp, thấm nhuần chất ngọt của tình mẹ, ngọt thơm như chuối ba hương, dịu như xôi nếp một và đậm đà dịm cả cổ họng như đường mía lau.

Tình mẹ thì trường cửu, bất tuyệt; những chuối ba hương, đường mía lau, xôi nếp một ấy không bao giờ cùng tận. "Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra". Nước trong nguồn chảy ra thì bất tuyệt. Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm thương yêu. Mẹ là giáo sư dạy về thuơng yêu, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời.

Không có mẹ, tôi sẽ không biết thương yêu. Nhờ mẹ mà tôi biết được thế nào là tình nhân loại, tình chúng sinh; nhờ mẹ mà tôi có được chút ý niệm về đức từ bi. Vì mẹ là gốc của tình thương, nên ý niệm mẹ lấn trùm ý niệm thương yêu của tôn giáo vốn cũng dạy về tình thương. Đạo Phật có đức Quan Thế Âm, tôn sùng dưới hình thức mẹ. Em bé vừa mở miệng khóc thì mẹ đã chạy tới bên nôi. Mẹ hiện ra như một thiên thần dịu hiền làm tiêu tan khổ đau lo âu. Đạo Chúa có Đức Mẹ, thánh nữ đồng trinh Maria. Trong tín ngưỡng bình dân Việt có thánh mẫu Liễu Hạnh, cũng dưới hình thức mẹ.

Bởi vì chỉ cần nghe đến danh từ "mẹ" là ta đã thấy lòng tràn ngập yêu thương rồi. Mà từ yêu thương đi tới tín ngưỡng và hành động thì không xa mấy.

Tây phương không có ngày Vu Lan nhưng cũng có Mother's Day, mồng 10 tháng 5. Tôi nhà quê không biết cái tục ấy. Có một ngày, tôi đi với thầy Thiên Ân tới nhà sách ở khu Ginza, Đông Kinh, nửa đường gặp mấy người sinh viên Nhật, bạn của thầy Thiên Ân. Có một cô sinh viên hỏi nhỏ thầy Thiên Ân một câu, rồi lấy trong sắc ra một bông hoa cẩm chướng màu trắng cài vào khuy áo áo tràng của tôi. Tôi lạ lùng, bỡ ngỡ, không biết cô làm gì, nhưng không dám hỏi, cố giữ vẻ tự nhiên nghĩ rằng có một tục lệ chi đó.

Sau khi họ nói chuyện xong, chúng tôi vào nhà sách, thầy Thiên Ân mới giảng cho tôi biết đó là ngày Mother's Day, theo tục Tây Phương. Nếu anh còn mẹ, anh sẽ được cài hoa hồng trên áo, và anh sẽ tự hào được còn mẹ. Nếu anh mất mẹ, anh sẽ được cài trên áo một bông hoa màu trắng. Tôi nhìn lại bông hoa trắng trên áo mà cảm thấy tủi thân. Tôi cũng mồ côi như bất cứ đứa trẻ vô phúc khốn nạn nào, chúng tôi không có được cái tự hào cài trên áo một bông hoa màu hồng.

Người được hoa trắng sẽ thấy xót xa, nhớ thương không quên mẹ dù Người đã khuất. Người được hoa hồng sẽ thấy sung sướng nhớ rằng mình còn mẹ và sẽ cố gắng để làm vui lòng mẹ kẻo một mai người khuất núi có khóc than cũng không còn kịp nữa. Tôi thấy cái tục cài hoa đó đẹp và nghĩ rằng mình có thể bắt chước áp dụng trong ngày báo hiếu Vu Lan!

Mẹ là một dòng suối, một kho tàng vô tận, vậy mà lắm lúc ta không biết, để lãng phí một cách oan uổng. Mẹ là một món quà lớn nhất mà cuộc đời tặng cho ta. Những kẻ đã và đang có mẹ, đừng có đợi đến khi mẹ chết rồi mới nói : "Trời ơi, tôi sống bên mẹ suốt mấy mươi năm trời mà chưa có lúc nào nhìn kỹ được mặt mẹ". Lúc nào cũng chỉ nhìn thoáng qua. Trao đổi vài câu ngắn ngủi. Xin tiền ăn quà. Đòi hỏi mọi chuyện. Ôm mẹ mà ngủ cho ấm. Giận dỗi. Hờn lẫy. Gây bao nhiêu chuyện rắc rối cho mẹ phải lo lắng, ốm mòn, thức khuya, dậy sớm vì con. Chết sớm cũng vì con. Để mẹ phải suốt đời bếp núc vá may, giặt rửa, dọn dẹp... Và để mình suốt đời bận rộn lên xuống ra vào lợi danh. Mẹ không có thì giờ nhìn kỹ con. Và con không có thì giờ nhìn kỹ mẹ. Để khi mẹ mất, mình có cảm nghĩ "như là mình chưa bao giờ có ý thức rằng mình có mẹ" Chiều nay khi đi học về hoặc khi đi làm việc ở sở về, em hãy vào trong phòng mẹ với một nụ cười thật trầm lặng và thật bền. Em hãy ngồi xuống bên mẹ. Sẽ bắt mẹ dừng kim chỉ, mà đừng nói năng chi. Rồi em sẽ nhìn mẹ thật lâu, thật kỹ để trông thấy mẹ và để biết rằng mẹ đang sống và đang ngồi bên em. Cầm tay mẹ, em sẽ hỏi một câu ngắn làm mẹ chú ý.

Em hỏi: "Mẹ ơị mẹ có biết không ?" Mẹ sẽ hơi ngạc nhiên và sẽ hỏi em, vừa hỏi vừa cười: "Biết gì?" Vẫn nhìn vào mắt mẹ, vẫn giữ nụ cười trầm lặng và bền, em sẽ nói: "Mẹ có biết là con thương mẹ không ?

Câu hỏi sẽ không cần được trả lời. Cho dù người lớn ba bốn mươi tuổi cũng có thể hỏi một câu như thế vì người là con của mẹ. Mẹ và em sẽ sung sướng, sẽ sống trong ý thức tình thương bất diệt và ngày mai mẹ mất, em sẽ không hối hận đau lòng.

Ngày Vu Lan ta nghe giảng và đọc sách nói nhiều về ngài Mục Kiền Liên và về sự hiếu đễ. Công cha, nghĩa mẹ. Bổn phận làm con. Ta lạy Phật cầu cho mẹ sống lâu. Hoặc lạy mười phương tăng chú nguyện cho mẹ được tiêu diêu nơi cực lạc, nếu mẹ đã mất. Con mà không có hiếu là con bỏ đi. Nhưng hiếu cũng do tình thương mà có; không có tình thương, hiếu chỉ là giả tạo, khô khan, vụng về, cố gắng, mệt nhọc - mà có tình thương là có đủ hết rồi. Cần chi nói đến bổn phận. Thương mẹ như vậy là đủ.

Mà thương mẹ không chỉ là một bổn phận, thương mẹ là một cái gì rất tự nhiên, như khát thì uống nước, con thì phải có mẹ, phải thương mẹ. Chữ "phải" đây không phải là luân lý, là bổn phận. "Phải" đây là lẽ đương nhiên. Con thì đương nhiên thương mẹ, mẹ thì đương nhiên thương con. Nếu mẹ không cần con và con không cần mẹ thì đó không phải là mẹ con. Đó là lạm dụng danh từ mẹ con.

Ngày xưa, thầy giáo hỏi rằng, con mà thương mẹ thì cần phải làm như thế nào ? Tôi trả lời: vâng lời cố gắng, giúp đỡ, phụng dưỡng lúc mẹ về già và thờ phụng khi mẹ khuất núi. Bây giờ thì tôi biết rằng con thương mẹ thì không phải "làm thế nào" gì hết. Cứ thương mẹ, thế là đủ lắm rồi, cần chi phải hỏi "làm như thế nào".

Thương mẹ không phải là một vấn đề luân lý, đạo đức. Anh mà nghĩ rằng tôi viết bài này để khuyên anh về luân lý đạo đức là anh lầm. Thương mẹ là một vấn đề hưởng thụ. Mẹ như chuối ngọt, như đường mía lau, như xôi nếp một. Anh không hưởng thụ thì uổng cho anh. Chị không hưởng thụ thì uổng cho chị. Tôi chỉ cảnh cáo cho anh chị biết mà thôi. Để mai này, anh chị đừng có than thở rằng đời ta không còn gì cả. Một món quà như mẹ mà còn không vừa ý thì họa chăng có làm Ngọc Hoàng Thượng Đế mới vừa ý, mới bằng lòng, mới sung sướng. Nhưng tôi biết được Ngọc Hoàng không sung sướng đâu, bởi Ngọc Hoàng là đấng tự sinh không bao giờ có diễm phúc có được một bà mẹ.

Tôi kể chuyện này, anh đừng nói tôi khờ dại. Đáng lẽ chị tôi không nên đi lấy chồng và tôi không nên đi tu mới phải. Chúng tôi bỏ mẹ mà đi, người thì theo cuộc đời mới bên cạnh người con trai thương yêu, người thì đi theo lý tưởng đạo đức mình say mê và tôn thờ.

Ngày chị tôi đi lấy chồng, mẹ tôi lo lắng, lăng xăng, không tỏ vẻ buồn bã chi. Nhưng đến khi chúng tôi ăn qua loa để đợi rước dâu thì mẹ tôi không nuốt được miếng nào. Mẹ nói: "Mười tám năm trời nó ngồi ăn cơm với mình, bây giờ nó ăn bữa cuối cùng rồi nó đi ăn ở một nhà khác". Chị tôi gục đầu xuống mâm cơm, khóc. Chị nói "Thôi con không đi lấy chồng nữa". Nhưng rốt cuộc rồi chị cũng đi lấy chồng, còn tôi thì bỏ mẹ đi tu. "Các, ái, từ, sở, thân" là lời khen ngợi người có chí xuất gia. Tôi không tự hào chi về lời khen đó cả. Tôi thương mẹ nhưng tôi có lý tưởng, vì vậy phải xa mẹ. Thiệt thòi cho tôi, có thế thôi. Ở trên đời, có nhiều khi ta phải chọn lựa mà không có sự lựa chọn nào là không khổ đau. Anh không thể bắt cá hai tay. Chỉ khổ là vì muốn làm người nên anh phải khổ đau. Tôi không hối hận vì bỏ mẹ đi tu nhưng tôi tiếc thương cho tôi vô phúc thiệt thòi nên không được hưởng thụ tất cả kho tàng quý báu đó. Mỗi buổi chiều lạy Phật, tôi cầu nguyện cho mẹ. Nhưng tôi không được ăn chuối ba hương, xôi nếp một và đường mía lau.

Anh cũng đừng tưởng tôi khuyên anh không nên đuổi theo sự nghiệp mà chỉ nên ở nhà với mẹ. Tôi đã nói là tôi không khuyên răn ai hết - tôi không giảng luân lý đạo đức. Tôi chỉ nhắc nhở anh "mẹ là chuối, là xôi, là đường, là mật ngọt ngào, là tình thương". Để anh đừng quên. Để chị đừng quên. Để em đừng quên. Quên là một lỗi lớn. Cũng không phải là lỗi nữa mà là một sự thiệt thòi. Mà tôi không muốn anh chị thiệt thòi, vô tình mà thiệt thòi. Tôi xin cài vào túi áo anh một hoa hồng để anh sung sướng, thế thôi.

Nếu có khuyên, thì tôi sẽ khuyên như thế này. Chiều nay khi đi học về, hoặc khi đi làm việc về, anh hãy vào trong phòng mẹ với một nụ cười thật trầm lặng và thật bền. Anh sẽ ngồi xuống bên mẹ. Sẽ bắt mẹ dừng kim chỉ, mà đừng nói năng chi. Rồi anh sẽ nhìn mẹ thật lâu, thật kỹ để trông thấy mẹ và để biết rằng mẹ đang sống và đang ngồi bên anh. Cầm tay mẹ, anh sẽ hỏi một câu ngắn làm mẹ chú ý. Anh hỏi: "Mẹ ơị mẹ có biết không ?". Mẹ sẽ hơi ngạc nhiên và sẽ hỏi anh, vừa hỏi vừa cười: "Biết gì?" Vẫn nhìn vào mắt mẹ, vẫn giữ nụ cười trầm lặng và bền, anh sẽ nói: "Mẹ có biết là con thương mẹ không ?". Câu hỏi sẽ không cần được trả lời. Cho dù người lớn ba bốn mươi tuổi cũng có thể hỏi một câu như thế vì ngươi là con của mẹ. Mẹ và anh sẽ sung sướng, sẽ sống trong ý thức tình thương bất diệt và ngày maị mẹ mất anh, anh sẽ không hối hận đau lòng tiếc rằng anh không có mẹ.

Đó là điệp khúc mà tôi muốn ca hát cho anh nghe hôm nay. Và anh hãy ca, chị hãy ca, em hãy ca cho cuộc đời đừng chìm trong vô tâm, quên lãng. Đóa hoa màu hồng tôi cài trên áo anh rồi đó. Anh hãy sung sướng đi !

(Để dâng mẹ và để làm quà Vu Lan cho những người nào có diễm phúc còn mẹ).

Tác Giả: Thích Nhất Hạnh
 
Biển Và Người Đàn Bà

Anh nhập vào nàng như một đám bọt bèo sóng đánh dạt lên bờ. Nếu không có nàng chắc anh sẽ tan rữa ra rồi hòa vào nước biển.

Đó là những ngày tồi tệ nhất trong đời anh khi anh không còn tự chủ được mình. Một cảm giác lạ nhen nhúm và đẩy mạnh lên. Anh chới với khi toàn bộ sức mạnh đàn ông trong anh biến mất, thay vào đó là một cảm giác muốn được vỗ về, ôm ấp. Anh như một kẻ mộng du tìm đến bến tình của những kẻ đồng giới. Anh ngập trong cảm giác được thỏa mãn. Chút tỉnh táo cuối cùng dành cho sự liêm sỉ. Anh che giấu vợ con và bạn bè cái tình cảnh khốn khổ của mình.

Vào cái ngày đó, khi anh nâng cặp kính cận lên khỏi mũi và khi chưa có thói quen ngó sau để cảnh giác, anh luồn tay vào hốc khóa mà bạn tình đã để sẵn cho anh. Bất chợt, một bàn tay vỗ xuống vai anh. A, tôi bắt được rồi nhé. Anh chết đứng khi nhận ra người đứng trước mặt là vợ anh. Anh không nhận thấy một dòng nước ấm chảy từ người anh xuống chân, ướt sũng, vợ anh ném cho anh một cái nhìn khinh miệt đến mức anh chết rồi sống lại, rồi lại chết. Khi vợ anh quay gót đi thì anh gục xuống và không biết gì nữa.

Từ bên trong cửa sổ một ngôi nhà đối diện nàng đã chứng kiến tất cả. Chờ đến năm phút sau không thấy người đàn bà quay lại và anh vẫn ngã gục, đầu dựa vào tường, nàng mở cửa đi ra. Nàng đưa anh đến bệnh viện với chẩn đoán của bác sỹ - hôn mê thận.

Nàng trở về nhà soi gương và tự nhủ. Một người đàn bà xấu xí, cô quạnh nhưng thật thông minh. Nếu như ta không mở cửa và đưa anh ta đến bệnh viện chắc anh ta đã chết rồi. Cứ cho rằng anh ta chết rồi. Bây giờ ta làm anh ta sống lại, anh ta sẽ là của ta.

Nàng không tìm cách để cho người nhà anh biết anh đang hoạn nạn nhưng nàng vẫn ngóng một lần người đàn bà ấy đến tìm anh. Anh dần dần bình phục bởi anh còn nhiều những toan tính, dự định tốt đẹp cho cuộc sống. Khi xuất viện, nàng đón anh về nhà nàng. Qua khỏi cơn ốm đau, anh coi nàng như một người mẹ. Anh không cần giấu giếm nàng cái tình cảm quái gở mà qua thuốc thang cũng không sao khỏi được. Nàng rất đỗi ngạc nhiên, rồi sau đó nàng thất vọng. Nàng lại soi gương và khóc. Vận may không đến với người đàn bà xấu xí được. Ta cần một người đàn ông thực sự của riêng ta kia. Đây không còn là một người đàn ông nữa mà là một con bệnh.

Tuy nhiên với tấm lòng nhân hậu, nàng đan một cái nôi to và đặt anh lên đấy. Đêm đến anh rúc vào nách nàng như trẻ nhỏ. Nàng âu yếm vỗ về anh, rồi kể những câu chuyện cổ tích cho anh nghe. Trong hơi ấm nồng nàn của một người đàn bà, anh lớn dần lên. Có những đêm hơi ấm làm anh ngạt thở. Anh vươn lên trên gối và kể cho nàng nghe. "Anh là người đàn ông thành đạt hoàn hảo. Anh tốt nghiệp đại học vào loại ưu. Anh được chuyển tiếp nghiên cứu sinh. Anh bảo vệ luận án phó tiến sĩ một cách xuất sắc. Sau đó là luận án tiến sĩ. Những công trình nghiên cứu khoa học của anh được đánh giá rất cao ở trong nước cũng như ở nước ngoài.

Anh lấy vợ. Một người đàn bà rất đẹp và sinh ra những đứa con cũng rất đẹp. Từ những thành công trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, cấp trên bắt đầu nhìn nhận đến anh và cất nhắc anh lên làm một nhiệm vụ quản lý chủ chốt. Từ một nhà khoa học thành một nhà quản lý, anh thực sự lúng túng. Tuy nhiên nhiệm vụ của anh cũng suôn sẻ vì thời bao cấp mọi thứ cứ như được định sẵn cả rồi. Chuyển sang nền kinh tế thị trường anh thực sự khốn khổ vì chức vụ anh đang nắm giữ; Nhiều lần anh đã làm đơn xin từ chức để chuyển sang làm khoa học thuần túy nhưng cấp trên không cho vì lý do anh là nhà khoa học giỏi, anh có uy tín trong nước cũng như trên trường quốc tế. Với lại làm khoa học còn khó hơn mà anh còn làm được nữa là. Cùng lúc với công việc ở công sở không trôi chảy thì ở nhà vợ con anh lại có những đòi hỏi, thúc ép anh. Vợ anh đang ở cái tuổi hoàn mỹ, nàng càng ngày càng đẹp ra trong những bộ quần áo đúng mốt, đắt tiền. Nàng bảo anh - ở cương vị anh, anh có thể mang về cho vợ con anh nhiều thứ hơn nữa chứ. Như cái ông giám đốc quèn kia mà còn có những là nhà ba tầng, đầy đủ tiện nghi. Rồi các loại xe xịn cho cả nhà. Nữa là anh, Viện trưởng một viện khoa học tầm cỡ quốc gia.

Người ta đã đòi hỏi ở anh nhiều thứ mà anh không có. Anh sợ hãi co mình lại. Anh âm thầm như một chiếc bóng khi không ai còn hiểu được anh nữa. Tuy nhiên, chiếc bóng đó cũng được người ta lợi dụng triệt để. Những ngày anh khủng hoảng nhất đó là lúc anh bị thua kiện bởi những tội lỗi anh không hề mắc phải. Anh biết người ta muốn giành cái ghế quyền chức của anh mà thôi. Trong cuộc họp anh đã thẳng thắn một lần nữa xin từ chức nhưng người ta không muốn thế. Người ta muốn anh không được làm cả công việc đã từng rất thành đạt là nghiên cứu khoa học nữa kia. Anh bị thanh tra chất vấn đến khổ sở. Về nhà, vợ anh vẫn đẹp rực rỡ. Nàng vẫn không ngừng đòi hỏi anh. Đến một lần nàng nói với anh: "Trước kia sao anh thông minh, đáng yêu thế, bây giờ đến làm một người đàn ông ra hồn anh cũng không biết cách." Thế là chút sinh khí đàn ông cuối cùng trong anh tắt hẳn. Tuy nhiên, vợ anh lại nghi ngờ rằng anh phải lòng một người đàn bà nào đó. Nàng đã rình rập để bắt được quả tang. Và, anh đã chết. Nàng hiểu thấu toàn bộ câu chuyện của anh kể. Nàng bảo anh: Anh là một nhà khoa học thì anh sẽ là một nhà khoa học.

Nàng thu xếp bán hết nhà cửa. Nàng và anh đi về phía biển cả. Ở đấy nàng mua một căn nhà nhỏ và một phòng thí nghiệm cho anh. Anh nghiên cứu một công nghệ mà loài người đang bó tay. Trong nước biển có hóa một lượng vàng rất nhỏ. Nhưng với một khối nước biển khổng lồ thế kia thì lượng vàng đó cũng thành đáng kể, góp phần giàu có cho con người. Anh nghiên cứu mê mải, quên cả nàng và cả những đau khổ mà anh đã trải qua.

Nàng, người đàn bà xấu xí ấy đã quên hết cả bất hạnh là cần một người đàn ông của riêng mình và những đứa con. Nàng ngâm đỗ để lấy mộng giá đem ra chợ bán. Khi dỡ giá nàng để lại một nhúm nhỏ cho anh. Bán xong mẻ giá đỗ nàng mua những mớ rau răm về uống như những người tu hành. Nàng tự ép xác mình để chờ ngày anh thành đạt. Đã trôi qua bao nhiêu năm bao nhiêu tháng.

Một buổi sáng đẹp đẽ, biển bừng lên rạng rỡ không có một gợn gió nào. Biển lặng như một tấm gương khổng lồ. Từ trong phòng thí nghiệm anh kêu to sung sướng. Thành công rồi, thành công rồi. Vàng đây, ta đã lọc được nước biển lấy vàng. Anh chạy ra tìm nàng. Nàng đang soi mình trên biển. Anh cuồng nhiệt ôm lấy nàng với tràn đầy sinh lực. Nàng sung sướng trào nước mắt. Nàng thầm nhủ - Hạnh phúc đã đến với ta rồi chăng? Nàng soi mình xuống biển, biển trả lại nàng một khuôn mặt xấu xí, già nua với đôi mắt ngời lên hạnh phúc.

Anh bàn với nàng "anh sẽ bán công nghệ này cho một nhà máy nào đó." Nàng bảo anh "Không, chúng ta sẽ xây dựng nhà máy. Chúng ta sẽ độc quyền." "Nhưng anh không biết làm quản lý, anh đã chẳng từng thất bại đó sao?." "Không, anh sẽ làm một người chủ rất giỏi trên công nghệ của anh, trên nhà máy của anh."

Anh nghe theo nàng. Anh trở thành một ông chủ giàu có với đầy đủ uy lực, sức mạnh.

Khi anh trở thành một người đàn ông với đầy đủ sức mạnh, anh bảo với nàng "Không biết vợ anh có còn đẹp nữa không?." Nàng khóc thầm trong lòng và thầm nhủ - Ta biết, đã đến lúc rồi. Một người đàn bà xấu xí không thể nào giữ được một người đàn ông cho trọn vẹn cả đâu. Cho dù có phải là một người đàn ông do mình tạo ra đi nữa, cũng thế thôi," Nàng bảo anh - Anh về đi, về thăm lại chị ấy và các cháu.

Anh ngậm ngùi chia tay nàng. Vài ngày sau, một người đàn bà rất đẹp với những đứa con rất đẹp cùng anh đến bờ biển. Mới đầu họ còn e dè nàng nhưng chỉ vài ngày sau họ đã là chủ nhân thực sự của nhà máy và bãi biển này. Anh vui vầy cùng họ chẳng còn để ý đến nàng nữa. Nàng nghe tiếng người đàn bà đẹp hổn hển - Anh tuyệt vời quá em chưa bao giờ được sung sướng thế này.

Nàng đi ra biển. Biển rì rào: "Nàng là một người đàn bà nhân hậu. Nàng rất thông minh, nàng biết việc mình làm. Nàng sẽ giết chết người đàn ông đó, nếu nàng muốn. Nhưng nàng chẳng làm thế đâu. Chính nàng, nàng là vàng hòa lẫn trong nước biển này. Sẽ có một nhà khoa học khác nghiên cứu để lọc, để chắt ra tên gọi nàng." Buổi sáng hôm sau khi hai vợ chồng nhà khoa học ra tắm biển trên bãi cát tinh khôi có những dòng chữ vàng lấp lánh:

"Gửi những người đàn bà đẹp!

Ta muốn kể lại rằng ta đã từng ghen tuông với các người - những người đàn bà đẹp. Bởi tất cả đàn ông đều ngoái lại nhìn và muốn chìm đắm trong vòng tay của các người. Nhưng nếu các người- những người đàn bà đẹp- có thêm một chút thông minh nữa thôi thì trong vòng tay của các người sẽ có những người đàn ông tốt đẹp hơn. Ta gửi lại cho các người sự thông minh của ta trong nước biển xanh này."

Hai vợ chồng nhà khoa học vội vã đi tìm nàng nhưng không còn thấy nàng đâu nữa. Chỉ có sóng biển cồn lên những ánh vàng. Nước biển mà nhà khoa học đã lọc hết vàng nay lại được hòa tan một lượng vàng rất nhỏ.

Tác Giả:Y Ban
 
Biển Tigôn

Tôi đã viết nhiều truyện về nước mắm, chẳng phải tôi là người dân xứ nước mắm mà chỉ vì hằng ngày tôi thường ăn nước mắm. Chúng ta dễ quên đi những điều thường ngày. Tôi nghĩ nếu có lần bạn thử không quên và hết sức chú ý đến chúng, điều thường ngày sẽ có khối chuyện hay xảy ra.

Hàng ngày thay mặt ông chủ, tôi thường liên hệ với các nhà lều sản xuất nước mắm ở Phan Thiết, nhưng đặt chân đến đó thì chưa bao giờ. Sáng nay, bận công việc đột xuất, ông chủ giao tôi theo xe tải từ Đà Lạt xuống Phan Thiết nhận hàng. Hàng của chúng tôi không phải là nước mắm mà là "xác mắm" - loại phân bón tối ưu cho các nhà vườn trồng légumes ở Đà Lạt. Bạn đã bao giờ thấy xác mắm chưa? Đó là xác những con cá nát bấy được vét từ đáy những thùng muối mắm. Thấy xác mắm, bạn sẽ quên nó ngay vì nó chẳng có gì đặc biệt. Nhưng nếu đã ngửi nó một lần trong đời, chắc chắn bạn sẽ không thể nào quên nó được.

Xe tải đến Phan Thiết lúc hai giờ chiều. Trời nắng gắt. Nhà lều chúng tôi đến lấy xác mắm nằm sát bên bờ sông Mương Mán nhưng không có ngọn gió nào từ mặt sông thổi lên. Tôi lấy khăn lau những giọt mồ hôi lấm tấm trên mặt rồi bước vào văn phòng làm việc. Một người đàn ông tóc đã có những sợi bạc, đeo kính lão, đang ngồi xem sổ sách. Chếch về phía bên phải bàn làm việc của ông, một cô thư ký tóc dài đang ngồi đánh máy chữ lóc cóc. Tôi mỉm cười thầm nghĩ, ông chủ này chịu chơi, tuyển nữ thư ký "nhí" ghê!

- Chào ông, tôi đại diện cho ông Quang ở Đà Lạt xuống nhận hàng.

Người đàn ông đứng dậy, vồn vã bắt tay tôi:

- Mời cậu ngồi. Tôi đã nghe điện thoại ông Quang dặn giao hàng chiều nay. Nhưng tôi gom chưa đủ số lượng. Vậy cậu hãy chịu khó đợi đến sáu giờ chiều, chúng ta sẽ cân hàng và chất lên xe luôn.

Rồi ông già quay qua cô thư ký "nhí," nói:

- Con lấy cho ba hai chai nước ngọt.

Cô thư ký rời bàn máy chữ đi vào nhà trong. Tôi ngạc nhiên hỏi ông chủ:

- Cô ấy là con gái của ông?

Ông chủ cười hề hề:

- Nó là con gái út của tôi. Nó đang học lớp 12 trường Phan Bội Châu. Những lúc rảnh, nó thường phụ giúp tôi đánh máy mớ giấy tờ. Cậu mới xuống Phan Thiết lần đầu?

- Dạ phải.

- Vậy trong khi chờ đợi nhận hàng. Tôi sẽ nói con gái tôi dẫn cậu đi coi phố xá hay đi tắm biển.

- Cám ơn ông. Tôi thích tắm biển hơn, vì ở Đà Lạt chỉ có hồ với thác, không bơi lội được.

Cô bé bưng ra hai ly nước đá và hai chai nước ngọt để xuống bàn. Ông chủ nói:

- Ba phải đi lo giấy tờ chuyên chở hàng kẻo chiều tối công sở họ nghỉ việc. Con thay ba dẫn ông khách đây đi tắm biển, ông ấy mới ở Đà Lạt xuống chưa biết biển Phan Thiết nằm ở đâu.

Cô bé quay qua nhìn tôi. Tôi cố gắng nở nụ cười thật tươi để em không từ chối. Và may mắn thay, cô bé đã gật đầu.

Uống một hớp nước ngọt, ông chủ nói:

- Cậu đi tắm biển vui vẻ nghe. Sáu giờ chiều mời cậu về đây ăn bữa cơm gia đình rồi chúng ta cùng cân hàng.

Ông cầm túi xách đứng dậy, dắt chiếc xe Honda đỏ ra khỏi nhà. Cô bé hỏi tôi:

- Ông có biết bơi không?

- Em hỏi làm chi?

- Để em biết nên dẫn ông đến chỗ bãi biển cạn hay sâu.

- Tôi sợ chết đuối lắm. Em dắt tôi đến chỗ nào nước sâu đến... trái tim là được.

Cô bé mỉm cười đi vào nhà trong sửa soạn. Tôi đi ra chỗ xe tải đậu, nói tài xế đợi đến sáu giờ chiều mới nhận hàng. Tôi với lấy túi xách có đựng quần tắm và khăn lông, tôi đã dự trù mang theo từ Đà Lạt xuống đây đợi có dịp là đi tắm biển bơi lội cho thỏa thích.

Một lát sau cô bé chạy chiếc xe cúp màu xanh rêu đến bên chiếc xe tải. Tôi vội nhảy lên ngồi ở yên sau. Cô bé tắt máy xe, bước xuống:

- Ngồi vậy kỳ chết. Ông ngồi trước lái xe đi.

- Nhưng tôi đâu có rành đường. Chạy lạc thì sao?

- Ông khỏi lo, em ngồi sau chỉ đường cho ông.

- Trời đất! Đâu có ai ngồi sau mà "chỉ đạo" được người ngồi trước.

- Có chứ. Mấy ông "sếp" thường ngồi ghế sau xe hơi chỉ đạo cho tài xế ngồi ghế trước.

Tôi nhăn mặt ngồi lên yên trước, đạp máy xe nổ. Cô bé ngồi xuống yên sau, vỗ nhẹ vào vai tôi:

- Ông cho xe quay lại.

Theo sự hướng dẫn của cô bé, tôi cho xe chạy lòng vòng qua một vài đường phố chính. Thành phố này chưa xây dựng nhiều nhà mới. Những ngôi nhà cũ kỹ được quét lớp vôi mới nhưng những mái ngói vẫn để nguyên màu nâu đen. Xe chạy qua một cây cầu mới xây ra ngoại ô. Hai bên đường, nhà cửa cũng còn mới được xây dựng nên mái ngói còn đỏ tươi. Qua một đoạn đường đầy ổ gà, xe bắt đầu leo dốc lên một đỉnh đồi. Vừa lên đến đỉnh đồi, cô bé vỗ vai tôi.

- Dừng lại.

Tôi thở phào hỏi:

- Đến rồi hả?

- Đến rồi.

Tôi lái xe vào một chỗ trống, tắt máy, đứng nhìn quanh. Trời đất! Biển xanh thẳùm ở tuốc phía xa dưới chân đồi. Trên sườn đồi cây cỏ dại mọc tùm lum không thể chạy xe được. Nếu muốn tắm biển phải đẩy xe xuống dưới đó rồi lại đẩy xe lên, chắc tôi sẽ bị "xụm bà chè."Trong khi tôi đang phân vân có nên tắm biển hay không thì cô bé lấy sợi thun cột mái tóc đang bị gió thổi bay tung lên. Em hỏi:

- Ông có biết ông đang đứng ở đâu không?

Tôi nhìn xuống chân mình, quan sát kỹ lưỡng rồi trả lời:

- Tôi đang đứng trên vùng đất pha đá.

Cô bé lắc đầu:

- Ông đang đứng trên nền Lầu Ông Hoàng được người Pháp xây dựng từ năm 1920 và bị sụp đổ năm 1945. Địa danh này nổi tiếng với chuyện tình của thi sĩ Hàn Mặc Tử và Mộng Cầm.

Nóng mũi vì thấy kiến thức của mình thua cô học trò lớp 12, tôi nói gắt:

- Tôi không cần biết Ông Hoàng là ai. Tôi cũng không cần biết thi sĩ Hàn Mặc Tử yêu ai. Tôi chỉ biết tôi đang yêu...

- Ông yêu ai?

- Yêu... xác mắm.

Cô bé lững thững bỏ đi vào một vùng cây leo bò xanh rì mặt đất và nổi bật lên những chùm hoa đỏ hồng. Sợ cô bé bị rắn cắn hay bò cạp chích, tôi vội đi theo em để xem nếu có chuyện gì xảy ra, tôi sẽ về báo cáo với ba em thật chính xác: em bị rắn nào cắn hay bị loại bò cạp nào chích. Chứ nói vu vơ ba em sẽ coi thường tôi thiếu óc quan sát thực tế.

Cô bé dừng lại bứt một bó hoa đỏ hồng rồi quay lại hỏi tôi:

- Ông có biết hoa này tên gì không?

Tôi lắc đầu:

- Ở Đà Lạt tôi chỉ rành tên các loại rau củ, còn tên hoa thì chịu thua.

- Đây là hoa Tigôn, được người Pháp đem qua trồng ở Lầu Ông Hoàng. Lâu đài đã sụp đổ nhưng loài hoa vẫn còn. Thi sĩ T.T.Kh đã tả "Hoa dáng như tim vỡ" ông thấy đúng không?

- Không. Tôi thấy nó giống đầu con cá cơm bị vỡ khi làm mắm.

Cô bé thở dài:

- Đầu óc ông không biết mơ mộng.

- Em thông cảm cho tôi. Một người buôn bán xác mắm mà mơ mộng thì xác mắm sẽ "thơm lựng," bán không được thì tôi sẽ bị chết đói.

Cô bé trao bó hoa đỏ hồng cho tôi:

- Em tặng ông.

Tôi cầm lấy bó hoa thắc mắc hỏi:

- Em nói "Hoa dáng như tim vỡ." Vậy em tặng tôi loài hoa này làm chi? Tim tôi đâu đã... vỡ.

- Em tặng ông để cảnh giác ông đừng làm vỡ trái tim.

- Bộ tôi khùng rồi sao mà tự làm vỡ tim mình?

- Nhưng ông có thể làm vỡ tim người khác vì không biết mơ mộng.

Nghe cô bé nói nhức đầu quá, tôi đề nghị:

- Chúng ta hãy tìm chỗ gửi xe rồi đi bộ xuống dưới kia tắm biển.

- Chúng ta đã tắm biển rồi thôi.

Tôi trố mắt nhìn em:

- Chúng ta tắm biển hồi nào đâu?

Cô bé cười, vòng tay chỉ quanh mình:

- Ông không thấy chúng ta đang tắm trong biển hoa Tigôn sao? Tắm ở đây ông không sợ chết đuối vì hoa Tigôn chỉ mọc cao đến tim ông. Thôi trời sắp tối rồi, chúng ta hãy về kẻo ba em đợi cơm.

Cơm nước xong, chúng tôi bắt đầu cân những bao lát chứa xác mắm chất lên xe tải. Mãi đến tám giờ tối công việc mới hoàn tất. Xe nổ máy, tôi bắt tay chào ông chủ rồi leo lên xe ngồi bên tài xế. Tôi vừa đóng mạnh cửa xe lại thì cô bé chạy đến, trao qua khung cửa xe bó hoa Tigôn.

- Ông để quên cái này.

- Cám ơn em. Mong có dịp chúng ta sẽ lại cùng nhau đi tắm biển Tigôn.

Xe chạy. Tôi buồn buồn nhìn bó hoa đỏ hồng. Tôi tưởng em sẽ đổi ý tặng tôi một lít nước mắm nhĩ loại đặc biệt hay một ký khô mực loại xuất khẩu để làm quà kỷ niệm, nào ngờ vẫn chỉ là bó hoa Tigôn.

Xe chở xác mắm sẽ chạy suốt đêm để tảng sáng có thể giao hàng cho các chủ vườn légumes ở Đà Lạt. Thật kỳ lạ, khi xe chạy qua chỗ nào, những người đứng hai bên đường đều bịt mũi. Vậy mà tôi ngồi ngay trong xe lại ngửi thấy một mùi hương rất dễ chịu. Phải chăng hương hoa Tigôn đã át mùi xác mắm? Hay tại tôi đã biết... mơ mộng?

Tác Giả:Đoàn Thạch Biền
_________________
 
Ban Mai Bình Yên

Buổi sáng Kim ngủ dậy muộn. Mấy người anh đang tán lại giấc mơ đêm qua để đánh đề. Kim cười lơ mơ. Các ông anh trí thức hẳn hoi, ông nào cũng ôm từ một cái bằng đại học trở lên. Ấy vậy mà còn mê tín.

Thằng cu Điệp chạy vào giường lay Kim:

- Cô út! Dậy ba hỏi kìa! Đêm qua cô út mơ thấy gì? Đêm qua cô út mơ thấy cháy nhà. Tiếng anh Minh.

- Tra bảng thử cháy nhà ra con gì? Tiếng chị Sáu.

- Cháy nhà ra mặt chuột! Tiếng ai đó Kim không nhận ra.

Tất cả cười ầm.

Kim xuống nhà dưới giúp mẹ dệt nốt chiếc chiếu. Vụng về, cô làm hỏng một mảng lớn. Mẹ mắng Kim đuềnh đoàn. Buồn, Kim bỏ lên nằm đọc sách.

Đô hẹn sáng nay lên đưa Kim đi Mỹ Sơn. Hơn tám giờ, nắng lên, chắc là Đô không đến. Kim tặc lưỡi. Đô bao giờ cũng sai hẹn. Ban đầu Kim còn hờn dỗi, sau quen dần, Kim xem chuyện ấy là bình thường. Có một điều Kim thường sợ thót tim là Đô hay uống rượu. Đôi khi Kim phải đi tìm. Kim lo Đô quá chén, phóng xe xảy ra tai nạn thì nguy. Đô không biết là Kim luôn lo lắng cho mình.

Chị Sáu thường mắng Kim:

- Bỏ quách nó đi cho rồi. Em không gặp được thằng nào tử tế hơn sao? Đàn ông gì rượu chè tối ngày. Thỉnh thoảng lại bỏ nhà đi hoang ở cái tuổi chẳng trẻ trung gì.

Anh Minh thì nói không nể nang:

- Hắn có cái gì mà mê hoặc được đứa cực kỳ khó tính như mày. Tao thì chỉ thấy hắn vừa già vừa xấu.

Kim thở dài. Chẳng ai lý giải được tình yêu. Kim hiểu Kim yêu Đô đau đớn như thế nào. Đô không hiểu vậy. Kim biết Đô không yêu mình. Đô lừa dối Kim. Đô cặp bộ với Kim và nói với bạn bè anh ta muốn làm cảnh. Kim đã thử bứt mình ra khỏi Đô. Một lần, hai lần, ba lần... mười lần và Kim không đủ sức. Đô thì đàng hoàng một cách chơi chơi. Mà chơi thật. Lúc đầu Kim còn khổ sở. Sau Kim thả lỏng luôn.

Kim nghĩ đến người đàn bà Đô yêu hơn mười năm nay và rủa thầm: "Đồ rắn độc!". Kim không biết Đô còn nô lệ quá khứ đến bao giờ? Đô hay hát "Em giờ đã hai con rồi đó!" Kim nhức nhối. Hai con rồi. Đô vẫn chờ bà ta quay về. Vẫn chờ gia đình kia nát bét ra để minh chứng tình yêu và lòng hào hiệp.

Kim nhớ về những ngày bỏ Huế ra đi. Thịnh giờ chắc con bế con bồng! Hồi ấy Kim và Thịnh yêu nhau. Mối tình đầu chẳng để lại cho Kim chút kỷ niệm gì ngay cả nụ hôn. "Mình thế nào ấy!" Kim tự nhủ thầm. "Mình luôn sống trong trạng thái mê sảng". Mỗi năm đến ngày sinh nhật Kim đi ngồi cà phê một mình. Kim dành riêng nỗi buồn cho mối tình với Thịnh. Đúng ra là có một lần Kim tổ chức sinh nhật linh đình. Ấy là năm Kim và Dũng quen biết nhau. Dũng yêu Kim. Bạn bè ai cũng viện trợ họ. Kim cũng rất muốn yêu Dũng. "Anh ấy tốt!". Đêm đêm đi chơi với Dũng về Kim vùi mặt vào trong chăn. Kim viết về Dũng. Kim tưởng tượng ra Dũng bên cạnh và nói với anh những lời yêu thương. Thế nhưng Kim và Dũng tự nhiên bật ra, chẳng đến đâu hết. Lý do một phần từ sự xuất hiện của Đô. Khi gặp lại Dũng, Kim day dứt. Nhiều lần cô mạo hiểm đến ngôi nhà trọ của anh. Kim đứng rất lâu dưới chân cầu thang. Bên khung cửa sổ Dũng cắm cúi vẽ đồ án. Kim biết chỉ ngước lên là Dũng sẽ thấy cô. Dũng sẽ chạy ra đón. Mãi mãi trong Dũng, Kim là một tiên nữ mù lòa. Đô viết cho Kim những dòng thư đầy ắp yêu thương. Đọc nhật ký Đô, Kim biết rằng những dòng ấy Đô từng viết cho người yêu cũ. Từ ngày chị ta lấy chồng, Đô không gởi những dòng ấy đi. Đô sợ anh chồng đọc được những bức thư sẽ đánh vợ.

Sao Dũng không viết gì cho mình nhỉ? Kim tự hỏi. Rồi Dũng sẽ yêu người con gái khác. Cầu cho anh được hạnh phúc. Bao giờ với Dũng, Kim cũng thật dịu dàng. Nếu quá khứ hồi sinh, em sẽ yêu anh. Kim mơ màng.

Kim nghe tiếng thằng Điệp líu lo:

- Đêm kia má nằm mơ có ông già cho má con số năm sáu. Ngủ dậy má biểu con đi mua cho má con năm sáu. Hồi đêm xổ số ra con sáu lăm.

- Mày vẽ!

Kim nghe tiếng anh Minh cự thằng Điệp.

Lại số đề. Đêm qua Kim cũng nằm mơ. Giữa giấc ngủ nặng nề của Kim hắn đến. Hắn đưa Kim qua dãy sương mù. "Thần chết"! Kim sợ hãi. Kim đã từng tự tử. Chuyện này xảy ra đã mười năm. Lúc nào Kim cũng thèm chết. Trong mơ Kim lại thấy sợ vị thần nắm quyền sinh tử của con người. Kim đợi phép mầu đến với cô. Sự bất tử chỉ dành cho thiểu số có những quyền năng tối thượng. Thấu đáo tất cả không gian thời gian vô tận, vượt ra ngoài thế giới hữu hạn và tương đối này. Làm sao Kim có thể sống làm nên một việc gì thật kỳ diệu? Thế là Kim khao khát.

Ta không nên nhấm nháp nỗi buồn. Kim gọi tình yêu của mình bằng cái tên như vậy. Kim đã trải nghiệm những xót xa, niềm day dứt, thương đau, oan trái, hận sầu, cay đắng, thậm chí thù hận. Cuối cùng Kim thấy mình quá cô đơn. Rồi cô yêu sự cô đơn dù cô chưa biết tận dụng hoàn cảnh ấy để học những điều phi phàm. Quá nhiều thói quen mài mòn Kim.

Chuỗi ngày dài phiền muộn. Điệp khúc vấn nạn vang lên trong cả giấc ngủ. "Đi về đâu?". Kim bức bối: Tình yêu, học vấn, giáo điều, tiền bạc... như xiềng xích. Khi Kim mơ thần chết đưa Kim đến dòng sông. Bên kia là vườn Uyển lạc, lẽ ra Kim được nghỉ ngơi ở đó. Kim biết chốn ấy là nơi dành cho những người suốt đời làm điều thiện. Kim từng phạm nhiều sai lầm, nghiêm trọng và không nghiêm trọng. Có ý và vô ý. Kim đem lại đau khổ cho người và vật. Có sinh linh chết oan vì Kim. Vậy là Kim không được giải thoát hoàn toàn. Kim sám hối.

Kim lại mơ thấy địa ngục như thể cô thoát ra từ chốn ấy. Thần chết đã nói với Kim là cô không đáng bị giam cầm trong đó. Linh hồn và thể xác Kim cũng chưa quá hư hoại để tạo hóa phi công tạo tác lần nữa, điều cần thiết là trả Kim về trần gian, sống nốt kiếp con người. "Muốn liễu thoát sinh tử thì đừng bao giờ làm điều ác nữa". "Hãy sống với tính bản thiện!". Đấy là những điều cuối cùng thần chết dặn. Kim thoát vòng luân hồi. Kim khỏi phải đầu thai kiếp sống mới.

"Tất cả như thật ấy! Hay là đêm qua mình kinh nghiệm sự chết. Dễ lắm chứ". Kim trăn trở. Kinh Phật bảo con người ta có thể chết khi đang cố sống và ngược lại. Ba thì bảo: "Sống chết như trở bàn tay".

Kim bắt đầu hình dung về đôi mắt bí ẩn, nhiều năm nay đôi mắt ấy dõi theo Kim. Ban đầu cô không để ý. Rồi cô thấy nó ở mọi nơi mọi lúc. Cô giam mình trong phòng kín để sống riêng với đôi mắt ấy, cô soi bóng vào đôi mắt và thấy mình từ chân tơ đến kẽ tóc. Rất nhiều khi đôi mắt chiếu vào Kim tia sáng lạnh lùng nghiêm khắc. Nhất là khi Kim làm những việc Kim không thích mà cô cũng cứ làm. Còn thì cô luôn thấy đôi mắt nhìn cô bao dung từ ái.

Sáng nay Kim ôn lại toàn bộ giấc mơ với những băn khoăn. Kim lại thấy đôi mắt. Cô mỉm cười viết:

"Mắt người tình năm xưa.

Hằng đêm về xua tan cơn ám muội

Hằng đêm ta thầm hôn mắt sao trời..."

Cô nghe những giai điệu vang ngân giữa không gian bao la. Bầu trời xanh trong, gió lồng lộng. Những khúc nhạc huyền hoặc rót vào tai Kim. Đô đến đưa Kim đi Mỹ Sơn cùng. Anh ta nhìn cô và buông một câu:

- Hôm nay trông em thật lạ lùng!

Kim không biết Đô khen hay chê mình. Cô thấy mình lạnh nhạt với Đô hẳn, Kim chìm trong những hợp âm từ cây đàn vô hình. Kim biết giữa đôi mắt và tiếng nhạc kia có sự đồng nhất với nhau.

Đô lái xe đưa Kim qua những vùng quê quen thuộc. Anh ta đang công tác tại một phòng văn hóa. Sáng nay anh ta đưa Kim đi khảo sát để viết bài về những di sản văn hóa Chămpa ở miền Trung. Kim quan sát quê hương. Những kỷ niệm thời thơ ấu ùa về. Kim nghe tiếng gọi của một nhân vật trong vở kịch từng để ấn tượng sâu sắc nhất suốt tuổi thơ cô:

"Thời gian ơi! Thời gian ơi! Thời gian ơi!".

Đó là tiếng gọi của Thiên Ya Na, trong vở kịch "Tình sử thiên Ya Na". Người này đã từng là thần tượng thời thơ ấu của Kim.

- Thời gian ơi! Kim hét vang.

Đô dừng xe lại:

- Em làm sao vậy?

Kim im lặng.

Đô đạp máy và buông một câu cục cằn: "Đồ khùng!". Xe đến nhà thờ Trà Kiệu. Đô muốn ghé. Kim cản. Đô thôi. Kim lẩm bẩm:

- Có thể tiền kiếp ta đã sống buổi hoàng kim của kinh đô sư tử.

- Có thể! Đô phụ hoạ.

- Lúc này đây em đinh ninh mình là hậu thân của công chúa Chămpa. Em từng gặp Thiên Ya Na thánh mẫu, Người tạo dựng nên vương quốc Chămpa.

- Còn anh là thần vương Bhađresvana. Gốc rễ của vương quyền.

Đô cũng sôi nổi góp chuyện.

- Không ngờ chúng ta tha hóa đến mức này. Kim vui vẻ. Có khi kiếp sau chúng ta thành khỉ.

- Coi chừng thành thật đấy cô bé, ai mà biết được xưa kia mình không từng đùa cợt kiếp sau mình làm lũ vô tích sự. Đô trầm ngâm. Xe vào Thánh địa Mỹ Sơn. Từ ngàn xưa nơi đây là địa điểm hành hương thiêng liêng của hàng chục triều đại và hàng triệu con người. Mỹ Sơn là nơi thờ phụng vị thần vua Bhađresvana. Tín ngưỡng chính của vương triều Chămpa là thờ tự thần, vua và các thần linh bảo hộ vương quốc cũng như vương quyền. Dân tộc Chămpa đã mất tên trên bản đồ thế giới, giờ đây chỉ còn rơi rớt lại các di tích mà Mỹ Sơn là điển hình.

Đối diện với sự thịnh suy của Lịch sử. Một nỗi trắc ẩn bóp chặt Kim. Cô đau thắt. Cô định nói một điều gì đó với Đô thì bất chợt đôi mắt bí ẩn hiện ra cắt ngang.

- Em giống như một người ngoại tình vậy! Đô nhìn Kim ngờ vực. Kim ngắm đôi mắt ở vị trí trực diện nhất. Đô thấy Kim không phản ứng gì trước câu nói của mình. Đô bực tức, anh ta chọc cho Kim ghen:

- Anh nhớ Phượng ghê!

Kim im lặng. Phượng là tên người đàn bà tình địch. Đô cười khẩy:

- Em say đắm một thằng cha nào rồi phải không?

- Để tôi yên! Kim chau mày. Anh cứ đến chỗ người đàn bà kia mà ăn mày tình yêu...

Kim định nói thêm nhưng trong giây lát Kim dường như thấy đôi mắt kia ngoảnh đi hướng khác. Kim hoảng hốt. Cô suýt khóc. Đô tưởng Kim buồn mình nên kéo cô vào lòng hôn khẽ. Kim lắc đầu. Tại sao Kim không nhận ra đôi mắt ấy sớm hơn nhỉ. Nó là hào quang của Thiên Ya Na. Toàn thân Kim chấn động khi khám phá ra điều ấy.

- Em không còn yêu anh nữa phải không? Đô hỏi Kim.

- Anh đủ nhạy cảm để nhận ra điều đó. Kim đáp.

- Đừng bảo anh dọa! Đô nóng nẩy. Anh sẽ giết chết em và giết cả thằng cha kia, em đợi đấy.

Kim thấy Đô thật thảm hại. Anh ta đã mất cô thật sự. Khi anh ta nhận ra anh ta yêu. Kim thì quá muộn rồi. Kim không thể tôn thờ Đô. Kim tôn thờ con người bất tử ấy: Kim tin vào sự thần kỳ cảm ứng. Kim tin Thiên Ya Na sẽ tái sinh và Người đang ở đâu đó. Kim đi tìm Người.

Tác Giả: Lê Thu Thủy
_________________
 
Ác Cảm

Một chiếc cầu bắc trên dòng sông hẹp, ngăn thành phố với ngoại ô. Sang khỏi cầu, sự thay đổi đột ngột. Con đường xù xì lên những đá và đất đỏ. Những đứa con nít, phần nhiều có một dải bùa vàng buộc ở cổ áo, giỡn nhau giữa đường, chửi đùa nhau cũng khá thô tục. Một đứa bé tí lem luốc bước trên hai cẳng chân chưa vững và khóc bi be. Vài con chó chạy nhong nhong, cúi ngửi bã mía. Từng khoảng một, hai bên mép đường, mấy đứa con gái ngồi bán mía, em nhỏ đặt ngồi cạnh để trông giữ luôn.

Hai dãy nhà lụp xụp nối dài, cửa che bằng phên chống nghiêng nghiêng hoặc bằng mành tre rất to nan. Trên giậu râm bụt, vắt phơi trơ trẽn những quần áo bẩn thỉu, yếm váy vá chằng đụp.

Sông lờ đờ lê dòng hẹp màu vàng đục. Về chiều, nhất là những ngày chủ nhật hay ngày lễ, người trong phố ra ngồi bờ sông câu cá. Có người âu phục, có người ra dáng thợ máy, có mấy cậu học trò, và không biết tại sao, đôi khi lại có cả một bác lính mũ chào mào. Họ ngồi kiên nhẫn dị thường, chặn đầu cần câu dưới một hòn gạch hoặc đá, đoạn lơ đãng ngắm cảnh vật hoặc nhìn lại những người đứng chơi trên cầu nhìn họ.

Mấy người đàn bà lội xuống vo gạo, rửa rau, chè hoặc bèo. Họ cũng có ý đứng xa một tí những người đang giặt yếm váy. Họ khua tay trên nước mấy cái cho bọt và rác dãn ra theo vòng sóng, đoạn nhúng rổ xuống.

Đằng xa, một người đàn bà rán sức vung quá đầu chiếc chiếu cuộn dẹt rồi đập lên mặt nước rất mạnh, khiến nổ bật những tiếng như tiếng súng.

Giữa cái xã hội ngoại ô ấy, Mân sống đã mấy tháng nay. Anh dạy học ở một trường tư trong tỉnh, sau những buổi dạy, anh trở về túp tranh dựng ngay cạnh cầu, thuê mười đồng một năm. Anh chưa quen thuộc hẳn với cái xã hội mà anh cho là ô hợp ấy. Nhất là những lúc nghe hàng xóm chửi bới nhau om sòm, anh không nén được phiền bực.

Túp lều Mân ở tối om om. Mỗi sáng, soạn và chấm bài, anh phải chong ngọn đèn dầu mãi đến bảy giờ. Cái cửa sổ chấn song tre, cạnh đó kê bàn làm việc, nhìn ra con đường nhỏ dẫn xuống bến sông. Người gánh nước qua lại luôn, làm rộn trí anh. Nước đọng vũng, mấy con vịt đến khoắng mỏ lục sục, hơi bùn tanh nhạt, có khi thối hoắc, xông lên nặc mũi.

Một sự lầm lỡ đã đầy đọa Mân đến cảnh này. Chắc mấy người hàng xóm của Mân chẳng ai ngờ rằng cái ông giáo quèn vừa về sống cạnh họ và có bộ xơ xác, đã có lần quản trị hàng vạn bạc. Trước, Mân chung mở đồn điền với một người cùng huyện tên Bạc Hói. ồ, đó không phải một tên Tàu, hay Cao Miên. Nhưng lẽ ra - sau này Mân hối hận và nghĩ lại - với một cái tên như vậy, Mân phải đề phòng hơn mới phải. Có những cái tên hình như tiền định. Hắn hói mất nửa đầu, nên có biệt danh ấy. Tên Bạc cũng chẳng hay ho gì, khi nó dùng để ghép những chữ kép như: bạc ác, bạc bẽo, bội bạc.

Quả nhiên, Bạc Hói lừa Mân. Hắn nắm được một chỗ hở của Mân, đâm đơn kiện và tranh lấy cả đồn điền. Mân thu vét tiền còn lại để theo kiện, nên bây giờ nghèo xơ xác. Mân có của người kinh doanh cái óc bao quát công việc và cái khiếu đón đầu thời cơ. Nhưng anh đã tin người quá. Bao nhiêu những nhà doanh nghiệp đều có quả tim khô khan và khóe mắt nghi kỵ. Họ ngầm giữ miếng với cả những người tâm phúc. Cũng một đôi khi Mân đã ngờ lòng Bạc Hói, nhưng để rồi tự thẹn với mình, tự thẹn vì đã gán cho kẻ khác những tình ý mà hẳn y không có.

Bây giờ Mân sống đoạn tuyệt với mẩu đời vừa qua. Anh nguyền quên hết cả; anh bóp chết trong lòng hình ảnh Bạc Hói cũng như kỷ niệm sâu cay của một cuộc thất bại đau đớn. Nghị lực anh dựng một bức tường cao ngăn hẳn hiện tại với quá khứ. Của thời cũ, nếu Mân còn giữ lại cái gì, thì đó là cái kinh nghiệm về lòng người, càng quý báu vì giá mua càng đắt.

ở được ít lâu nơi ngoại ô, Mân có một bạn láng giềng mới. Một chiều đi dạy về, đang đứng thơ thẩn trước cửa, Mân thấy anh ta chuyển đồ đạc từ xe bò vào túp tranh bên cạnh. Anh không nhìn thẳng vào mắt hắn, nhưng đoán chừng hắn trạc ba bốn mươi. Một hồi sau, ăn cơm xong, anh ra vườn thì lại thấy hắn đứng rửa tay. Hắn quay nhìn sang phía anh, nhưng cúi đầu nên anh không nhận rõ được mặt hắn. Trong bóng hoàng hôn, anh tò mò ngắm hắn lâu lắm. Khuôn mặt hắn tròn tròn, đều đặn, anh chỉ biết có thế.

Chợt tiếng reo nổi lên ngoài phía sông: hẳn một con cá vừa mắc câu, giữa sự vui mừng huyên náo và hơi trẻ con của những người xem. Hắn chưa quen tiếng ồn ào ấy, ngước nhìn, và Mân được dịp nhận ra một bộ mặt hiền lành, nhũn nhặn. Nhưng cùng một lúc, Mân đột ngột cảm thấy cái gì như một phiền rầy: có lẽ bởi anh bị bắt chợt đang nhìn trộm hắn. Anh bèn quay vào.

Vú già nói cho anh biết là hắn sắp mở một quán rượu đón những ông Xã bác Nhiêu lên tỉnh: rằng hắn tên là Tạo. Đàn bà là những cơ quan thông tấn thực nhạy.

Tin báo của vú già khiến lòng Mân nao lên một niềm gì gần như giận dữ. Hàng xóm của anh chưa đủ ầm ĩ hay sao mà hắn còn lo tụ tập lại những ông Lý toét, những bác Nhiêu, chén rượu thịt chó vào rồi hét oang oang như để cho cả trời nghe!

Chiều hôm sau trong lúc ngồi trông nom học trò làm bài, Mân sực nhớ lại giấc mộng hồi đêm. Có nhiều khi hồi ức giấc mộng đã cũ trở lại trí nhớ một cách đột ngột như thế, trong một hoàn cảnh không liên quan gì với chuyện trong mộng cả. Hình như anh đã thấy trong chiêm bao một cảnh gì náo động lắm, có điểm chút kinh hoàng thì phải, nhưng không nhớ rõ chuyện gì. Mà hình như giữa sự hỗn độn của những hình ảnh, có thoáng qua bóng dáng người láng giềng mới của anh.

Sau buổi dạy, trái với thói thường, Mân đi dạo quanh vùng anh ở. Khi qua trước cửa hàng rượu, anh quay nhìn vào một thoáng mau. Không hiểu tại sao anh cứ phải chú ý đến Tạo. Hắn đang sắp lại mấy phong thuốc lào trên quầy hàng, sực ngửng lên. Hắn đon đả chào:

- Thưa ông giáo đi chơi... Ông ghé tạm vào chơi xơi nước ạ.

Mân không bằng lòng với mình vì đã để cho hắn bắt chợt luồng mắt mình. Anh trả lời:

- Cám ơn bác. Để hôm sau.

Hắn có dáng nhã thiệp, và một nụ cười nhũn nhặn, dễ thương. Quần áo sạch sẽ, tóc chải gọn. Nhưng những điều ấy, không biết tại sao, chỉ làm Mân ghét thêm hắn. Hình như trong anh có tiếng nhủ thầm: Hãy coi chừng! Hãy coi chừng cái bề ngoài ấy!

Đáp lại lời mời nhã thiệp của hắn, Mân đã lấy một giọng hơi xẵng, hoặc ít ra cũng khô khan. Nhưng mà anh không thấy tự thẹn vì sự thiếu lễ độ kia; trái lại anh có một chút thỏa thuê trong thâm tâm.

Sau đó mấy hôm, vú già lại nói chuyện với Mân về người láng giềng mới. Vú kể rằng lúc sáng, một ông Phó lý ghé vào hàng hắn uống rượu, rồi ra chợ; một lát sau hắn bắt được trên bàn cái túi, mở ra thấy mấy tờ bạc; hắn vội vàng thuê xe ra chợ, rồi chạy sục khắp chợ tìm cho được người khách lơ đễnh kia, giao giả cẩn thận.

Câu chuyện ấy khiến Mân càng ác cảm với hắn thêm. Anh nuôi sâu cái định kiến vô lý rằng hắn chỉ có thể là một đứa gian tham. Chà! Nếu một hôm nào đó, người ta bắt chộp được hắn đang pha nước vào rượu, hẳn Mân sẽ bằng lòng vô cùng. Anh gắt đuổi vú già xuống bếp. Anh cảm thấy hơi lo ngại, lo ngại cho lòng tự ái, như khi nghe ai đưa lý lẽ để đánh đổ một tin tưởng hồn nhiên nhưng sâu sắc của mình.

Sau cùng, Mân nghĩ ra. Chà, đó chỉ là một tấn kịch dàn mặt. Hắn đã bày ra kế ấy để chiêu khách đến cửa hàng mới của hắn. Ông Phó lý nào đó chỉ là người hắn thuê đóng trò. ý nghĩ đó làm cho Mân hả hê.

Một buổi sáng, Mân vừa ra cửa, một toán con nít đùa nhau xô cả vào anh. Sách vở anh cầm trong tay văng ra đường. Chúng vội bỏ chạy. Vừa lúc ấy, Tạo đi ngang qua, ý chừng lên phố. Hắn kêu lên:

- Ngỗ nghịch thế thì thôi!

Đoạn cúi xuống nhặt hộ một quyển vở. Mân vội tranh nhặt, nhưng không kịp. Hắn phủi bụi cẩn thận, trao trả Mân và nói:

- Con nít mình không biết dạy dỗ, đứa nào cũng hỗn xược.

Hắn kèm lời nói bằng một nụ cười như để cầu xin tha thứ cho bọn trẻ.

Mân nói: "Cám ơn," đoạn gọi xe lên trường. Anh tự nhằn mình vì đã để phải chịu ơn hắn. Hắn càng đáng ghét.

Bài luận lý dạy hôm ấy, về sự công bằng, hiến dịp cho Mân nghĩ về hắn một cách đúng đắn hơn. Người ta ít khi kiểm soát lòng mình, vì lười biếng, và nhất là vì nhát gan; người ta sợ không biện giải được cho những hành động, những tình cảm của mình. Mân nhận thấy mình vô lý. Anh đã bất công với Tạo. Hắn có làm gì anh đâu? Trái lại hắn lịch thiệp và ân cần với anh.

Mân tự hỏi duyên cớ cái ác cảm lạ lùng kia. Có lẽ bởi Tạo là người chứng kiến một quãng đời suy bại của anh chăng? Nhưng không, ác cảm của anh cũ hơn kia; nó đã dậy lên đột ngột ngay từ cuộc giáp mặt đầu tiên; anh thấy phiền rầy bực bội khi vừa trông thấy hắn. Mấy lâu nay anh vẫn lánh mặt hắn - tuy vẫn chú ý ngầm - để tránh cái phiền bực khó hiểu. Mân nghĩ rằng cái phiền bực ấy thuộc về vợ chồng trước khi lan sang địa hạt tinh thần; chắc hắn có một cái cằm hay một cái mũi không ưa mắt anh.

Từ đó Mân để tâm quan sát hắn. Anh thừa những dịp hiếm hắn đứng ở vườn sau để ghé mắt qua khe vách nhìn trộm rất lâu. Anh không tìm ra sự gì mới. Mặt hắn vẫn có vẻ hồn hậu, trong những nét cân đối, tròn trặn. Sau anh nghĩ ra: lỗi của anh là đã nhìn kỹ quá. Khi mình tò mò ngắm một người thân, bạn mình hay mẹ mình chẳng hạn, khi mình để ý đến từng nét lông mày, từng vành môi, từng nếp mi mắt, thì mình nhận thấy - điều này có vẻ trái ngược nhưng mà quả thực thế - người ấy không giống bạn mình, mẹ mình nữa.

Một hôm vú già báo rằng Tạo đánh tiếng muốn nhờ Mân thảo hộ cái đơn xin mở thêm cái tiểu bài một nhãn rượu khác. Tin ấy khiến Mân vui thích: bây giờ anh nắm được chứng cớ cái làm ơn của hắn sáng hôm nọ chỉ là vị lợi. Nhưng anh không quên lợi dụng dịp tốt này để tìm hiểu cái điều làm anh thắc mắc từ mấy hôm. Anh bảo với vú già hẹn hắn đúng tám giờ tối sang nhà anh.

Chiều hôm ấy anh đi mượn một chiếc đèn lớn, đem về treo giữa nhà. Ai hiểu được sự bố trí chu đáo của anh, để đi tới mục đích nhỏ nhặt như thế nào, tất phải buồn cười.

Đèn treo thắp sáng choang. Sau bữa cơm, Mân ngồi làm việc ở bàn, nghĩa là quay lưng ra cửa. Khi Tạo đến, tiếng guốc trên bậc đá sẽ báo trước. Đợi hắn vào quá ngưỡng cửa một chút, anh sẽ vụt quay nhìn ra. Anh không lóa mắt, vì đã quen với ánh sáng cây đèn trên bàn làm việc. Lúc đó, ngọn đèn lớn sẽ chiếu chênh chếch xuống mặt hắn, và làm nổi bật những nét lồi lõm.

Cái việc xảy ra y như Mân đã dự đoán. Gần tám giờ tối, Tạo bước vào. Mân xô ghế rất mạnh, quay nhìn. Một nỗi sững sờ đột ngột chiếm lấy anh, lẫn với cái cảm giác phiền bực mà anh đã từng biết rõ.

Làm sao lâu nay anh không nhận thấy điều đó? Mặt hắn phảng phất giống mặt Bạc Hói.

Tác Giả:Bùi Hiển
 
Gió Rừng







-Nhà anh ở đâu ?
Cô ngập ngừng hỏi , thoáng thấy trên nét mặt cô 1 chút gì đó là thoải mái lắm .
- Nhà tôi cũng gần đây , ở trong dinh điền ấy , cách đây khoảng 4 cây số cô à !
Anh thôi không tập trung vào tờ báo, ngước nhìn cô trả lời
- Mỗi tuần thấy anh ra đây đọc báo 1 lần .
Khuôn mặt cô gái giờ đây không giấu nổi nét tò mò .
- Tôi đi học trên Sài Gòn, về thăm bố mẹ . Trong đấy không có sách báo nên tôi ra đây đọc nhờ .
...
Cô gái im lặng , giành cho anh khoảng không cuối chiều ... Anh vẫn tiếp tục duí đôi mắt sâu hoẵm vào những trang báo ..

Thật ra thì cô cũng chẳng có gì để mà hỏi anh nưã . Cứ mỗi tuần , chiều thứ bảy là thấy anh ở sập báo nho nhỏ cuả cô gái .. Riết rồi quen , cô cho anh mượn hẳn cái ghế ngồi đọc cho thoải mái .


**


Cái nội thị ấy chỉ vỏn vẹn 1 con đường và hai bên là hai dãy nhà , 1 trạm xe - nói là trạm xe thế thôi chứ thực chất là cái bến cho 2 chiếc xe đò tạm dừng lại đón khách , 1 quán cơm cho những người khách đợi xe ghé vào , 1 quán hủ tiếu , 2 quán cà phê , dăm người buôn thúng bán bưng ..và cái sạp báo nhỏ cuả cô .
Khách mua báo của cô chủ yếu là những người đi xe đò, mua 1 tờ rồi ngồi chờ xe đến ..Ít có ai như anh ..à, không , hình như không có ai như anh ..

Cô gái có khuôn mặt bầu bầu , tóc ngắn ngang vai uốn cúp vào trong , dáng người cô đầy đặn , tay chân trắng trẻo , không giống như những cô gái lúc nào cũng phải làm lụng vất vả ở cái quận Chân Thành ấy . Cô bán báo chỉ để giải trí , để có cơ hội nhìn mọi người qua lại trên những chuyến xe đò ... Cô không thích lúc nào cũng ở nhà nhìn 4 bức tường xung quanh mình . Bố cô làm nghề đốt than , ông có 3 cái lò than lớn nhất vùng . Ờ, mà có lẽ nhà ông giàu nhất vùng rồi . Cái sạp báo ông cho cô , thích thì cô bán , không thích thì về , mà cũng có ai mua đâu , dăm họa ra thì chỉ có những người trí thức mới mua ...

Thường thì đến 10 giờ trưa là cô đã về , nhưng hôm thứ 7 ấy cô lại ngồi đến chiều . Cũng không hiểu tại sao . Anh đến và xin mượn 1 tờ báo để đọc , cô gái cảm thấy lạ lùng rồi cũng để anh đứng đọc ...
Và cứ thế , chiều thứ bảy nào cũng vậy , cô lại ngồi đó ngắm anh đọc say sưa , đợi đến khi nào anh đọc xong, cô mới dẹp tiệm về nhà ...

Anh, một gã thanh niên khoẻ mạnh , trắng phau . Nhìn thì cô đoán chắc là anh chàng thư sinh ở thành phố , chứ không phải là những gã trai đen xì , hùng hục , cục mịch như trong lò than của bố cô . Anh có đôi mắt đen sâu và lông mày rậm , .. Cô phải khẳng định là anh đẹp trai , dáng người cân đối , cao ráo , trông khuôn mặt điềm tĩnh và ít nói , hai tay lúc nào cũng đút vào trong tuí quần .


**


Anh vưà thi xong trung học đệ nhất cấp thì theo bố mẹ đi Dinh Điền lập nghiệp theo chương trình của Chính Phủ để khai hoang lập ấp .. Ông bà khoảng 60 tuổi , còn đứa con trai mới 17, những người chị thì 16 tuổi đã đi lấy chồng , và chỉ còn anh chăm sóc 2 ông bà già .
Nhà anh dựng cạnh bià rừng , mỗi ngày anh làm rẫy, chặt cây rừng , trồng ngô, cao su .. ngũ cốc . Người ta có cái duyên, và hình như anh có duyên với đất . Những lúc công việc xong xuôi , anh lại vô rừng một mình , mắc võng nằm , chơi với sóc , tìm trứng chim .. 17 tuổi , cái tuổi vẫn còn mộng mơ lắm, anh nhớ lớp , nhớ bạn bè và thèm đọc ...
Trong rừng lúc nào cũng ít nắng , lá rừng khiến làn da anh trắng trẻo , nhưng cây rừng lại làm tay anh chai sần ..


**


Cô không muốn cắt ngang dòng suy nghĩ của mình , và cũng không muốn cách ngang sự im lặng giữa cô và gã thanh niên đang say mê đọc những dòng chữ . Cô gái lại tiếp tục nhìn, cô thích được nhìn anh, thích cái khoảng không gian giữa cô và anh . Cô cảm nhận được trái tim mình đang thở , hương thơm lạ cuả rừng vương vào làn gió chiều len vào mái tóc bồng bềnh , những kẽ tay và cả lồng ngực ...


**


...Những chiếc xe đò vẫn ghé bến , những người khách chờ xe thỉnh thoảng vẫn mua vài tờ báo trong cái sạp nhỏ gần đấy .. những chiếc lá bị gió thổi cuốn tít vào nhau rồi bung vào trong không trung ... dáng chiều dần tàn .. cô gái dọn sạp nhỏ , chạy theo sau cô là cô bé có đôi mắt cuả gió rừng .........

chieuha
 
Màu Đỏ
Hoàng Anh Tú




- Mặt trời có màu gì?
- Để người ta nhớ lại coi, à, nó có màu lửa. Anh biết lửa không? Nó rất nóng.
- Thế cỏ có màu xanh như thế nào?
- Xanh như mùi lá vậy! Xanh êm ái, xanh như giấc ngủ dịu dàng vậy!
- Vậy màu vàng thì sao?
- An đưa tay cho Tuấn đi!
- Để làm gì? Đây này!
- Đâu?
- Đây!
- Ờ, được rồi, mình đi nhé!
- Đi đâu?
- Ra ngoài sân.
- Có gì ngoài đó vậy?
- Có nắng.
- Sao Tuấn biết ngoài đó có nắng?
- Ờ, tối nào Tuấn cũng nghe thời tiết!
An gật đầu rờ rẫm đi theo Tuấn ra sân. Ra đến nơi, Tuấn bảo:
- An thấy sao?
An đứng lặng đi một chút rồi nói:
- Thấy ấm ấm!
Tuấn mỉm cười:
- Màu vàng đấy! Nắng rất vàng!
An ngẩn người một lúc. Rồi nói:
- Tuấn hạnh phúc hơn An!
Tuấn ngạc nhiên:
- Sao An cho là vậy?
An đáp:
- Tuấn đã biết cuộc sống hình dáng ra sao rồi mới bị mù. Còn An thì…
Cả hai cùng im lặng. Cả hai cùng bị mù. An sinh ra đã không nhìn thấy gì còn Tuấn thì mới bị từ năm lớp 8. Hai người quen nhau đã một tháng nay rồi. An còn nhớ hôm quen nhau. Hôm ấy An đang mò mẫm đi trên đường thì đụng vào Tuấn. Tuấn quát:
- Mù à? Sao không nhìn thấy người ta?
An đáp:
- Xin lỗi anh, tôi mù thật!
Bên kia im lặng và hồi lâu, An nghe có tiếng thở dài:
- Xin lỗi bạn, tôi cũng thế!
Và quen nhau. Từ ngày chơi với Tuấn, An biết được nhiều hơn về hình dáng của mọi vật, màu sắc bằng cảm giác. Màu xanh là màu bình yên, màu của mùi hăng hăng, dễ chịu. Màu vàng là màu âm ấm, màu của cảm giác hớn hở. Màu tím là màu của giấc mơ, của mơ mộng, của sự chờ đợi không biết mỏi mệt… Tuấn kể cho An nghe rất nhiều về cuộc sống, về những con vật dễ thương như gâu gâu là tiếng của con cún. Con cún là cảm giác của sự nô đùa, của cái lưỡi ươn ướt, âm ấm trên tay An. con cá là tiếng róc rách, con gà là ngày mới bắt đầu. Mặt Trăng là mẹ, Mặt Trời là cha, những vì sao là bè bạn, và mưa luôn cuốn phăng tất cả những nỗi buồn…
- An nghĩ gì vậy?
- Màu đen, An biết rõ nhất là màu đen. Khi tất cả ra đi thì chỉ còn màu đen. Màu bất lực.
An thở dài sau câu nói đó. Tuấn siết chặt tay An:
- Không phải! Màu đen là ngôi nhà.
- Ngôi nhà thế nào?
- Là gồm tất cả các màu trộn lại, là giấc ngủ, là bình yên của màu xanh, là giấc mơ của
màu tím, là nắng của màu vàng, là…
An ngắt lời Tuấn:
- Tuấn này, màu đỏ là sao?
- Màu đỏ á! Màu đỏ là…..
Bất ngờ Tuấn đặt một nụ hôn lên đôi má bầu bĩnh của An. An cũng cảm thấy thật lạ. Má An nóng bừng lên.
- Cái gì vậy Tuấn?
- Môi của Tuấn, má của An, đó là nụ hôn Tuấn vừa hôn An.
- Tại sao?
- Màu đỏ đấy!
- Đỏ?
- Ừ, đỏ!… An! Đứng lại đi!
An bỏ chạy. An cảm thấy một điều gì rất lạ đang xảy ra trong An. Và An muốn rời khỏi chỗ này. Chẳng phải là sự chạy trốn, mà là cái gì đó rất lạ, đầy phấn khích. Phấn khích của màu vàng, phấn khích của tiếng gâu gâu, phấn khích của tiếng róc rách…
Tuấn hét lớn:
- Coi chừng hồ nước trước mặt đấy!
Không kịp rồi, An thấy mình hụt chân. An thấy mình rơi xuống nước. Nước có màu gì nhỉ? An sặc. An muốn chạy ra khỏi chỗ này nhưng An chẳng biết phải làm gì. An vùng vẫy. An chìm. Chợt An cảm thấy một vòng tay ôm ngang người mình. Tuấn đưa An lên bờ. An ho sặc sụa, nhưng An vẫn cố nói.
- Tại sao Tuấn nhìn thấy được? Tại sao Tuấn nói dối An?
Tuấn im lặng cầm bàn tay của An đặt lên ngực trái của mình:
- Đây là màu đỏ, bởi vì màu đỏ, An !


Hà Nội 2002
Hoàng Anh Tú
 
Vũ trụ câm
Vũ Đình Giang

---------------------------------------------------------------------- ----------

1. Thường xuyên trong những buổi chiều ngoại ô đầy gió, Min bị nỗi đe dọa xâm chiếm bởi những tiếng sấm mơ hồ dội lên từ cuối chân trời. Nơi cội nhãn già nua chưa bao giờ ra hoa kết trái, Min mắc cái võng dù tòng teng chẳng mấy khi nằm. Từng đám mây bay qua bầu trời thảng hoặc để lại những hình thù ngộ nghĩnh tùy theo trí tưởng tượng của Min. Trong vùng hồi ức xa xăm bỗng mọc lên một đám mây hình nấm trôi đi dưới ánh nắng quái gở của chiều tà - một cảnh tượng kỳ vĩ và ngoạn mục mà có lần trên chuyến bay về H. Min tình cờ thấy được. Qua ô cửa kính đọng đầy hơi nước, tấm thảm mây dày cộm chập chùng dường như bất động, khiến Min nghĩ rằng nếu mình lỡ rơi xuống đó, hẳn sẽ được giữ lại trong cảm giác mềm mại an toàn và vĩnh viễn không thể nào chạm đất.
Giờ đây, trong căn phòng cáu bẩn đầy nghẹt đất sét, màu bột và giấy vụn, Min bó gối nhìn những bức tranh treo xộc xệch trên tường, cố nặn óc nghĩ ra một việc gì đó để làm, cốt xua đi cảm giác bị đe dọa bởi những tiếng sấm mơ hồ. Từ ngày thi rớt đại học, Min đâm ra thờ thẫn và uể oải, cậu hay khép hờ cửa sổ rồi đứng ngó mông lung ra ngoài qua khe cửa hẹp, quan sát thế giới xung quanh thay đổi chậm chạp từng ngày. Bấy giờ là cuối thu đầu đông, những chiếc lá trong vườn bắt đầu cong lên rồi ngả sang màu vàng sậm. Không gian nồng đượm mùi dầu chuối tỏa ra từ xưởng bánh kẹo nhà bên cùng tiếng máy dệt rào lên không ngớt nơi những xưởng dệt thủ công của vài gia đình gốc Quảng còn sót lại trong vùng.
Căn nhà vắng lặng nằm im lìm trong khu vườn nhỏ chỉ bật ra tiếng người vào buổi tối. Bà mẹ độc lập và giàu có dường như cố hữu một nguyên tắc là chỉ trao đổi với cậu con trai những câu chuyện thật sự cần thiết trong bữa ăn, hiếm khi khóe môi bà nở nụ cười. Người hầu gái học được cách tiết chế cảm xúc từ bà chủ quyền lực, cũng như keo kiệt lời nói nhưng lại hào phóng những cái ngáp vặt vô tội vạ. Cô ta chăm chỉ hoàn thành tốt mọi việc trong nhà rồi lên phòng bật tivi, hồn nhiên lau nước mắt sau mỗi trường đoạn sướt mướt của những bộ phim nhiều tập dành cho giới bình dân.
Thỉnh thoảng Min phóng xe máy đi vòng vèo ra các quán xá trong vùng. Mãi cũng chán! Đành khép chặt cửa ở lì trong phòng, ngủ vùi rồi nguệch ngoạc vẽ những bức tranh ngày một khó hiểu. Thời đi học Min cũng lặng lẽ như thế, cả lớp không ai phát hiện ra tài năng của cậu, nên những tờ báo tường của lớp thường xuyên phải thuê người lớp khác sang trang trí. Cho đến ngày lớp trưởng phát hiện ra cậu đang say mê trong một khóa luyện thi của hội mỹ thuật, thì lúc đó mọi người cũng sắp ra trường.
Trong bữa ăn tối lạnh nhạt của ngày biết tin thi rớt, Min thông báo với mẹ bằng một câu nói nhát gừng:
- Con sẽ luyện thi cho năm sau, mẹ ạ!
Bà mẹ nhướng cặp mày thanh tú, tia nhìn tỏa ra một vệt màu tối lặng lẽ, cố trấn an:
- Đừng lo lắng quá, con trai! Mẹ sẽ thuê riêng một họa sĩ về làm gia sư cho con.
- Không cần thế đâu, mẹ! - Đứa con cúi mặt vào tô súp - Con sẽ đến lò luyện như mọi lần...
Bà mẹ lắc mái đầu uốn tỉa khá công phu, mặt nhăn lại khiến những vết rạn ở hai cánh mũi được dịp hằn rõ, cố nén tiếng thở dài:
- Sự dạy dỗ không bao giờ là chu đáo ở những môi trường quá đông đúc.
- Nhưng ở đó con có bạn...
Min lẩm bẩm tỏ thái độ bất bình rồi xoay người mở cửa tủ lạnh lấy ra đĩa trái cây. Cậu tần ngần một lúc lâu rồi quyết định cầm quả lê rời nhà ăn lên lầu. Trong căn phòng nhỏ, nơi thế giới riêng đầy ắp trăm thứ hầm bà lằng nhưng bất khả xâm phạm, cậu nhặt nỗi lòng của mình đang vương vãi trên sàn nhà, rồi đem dán nó nơi cánh cửa sổ đã hờ khép. Cậu vịn tay vào đó và giương mắt nhìn ra. Ngoài kia, đêm tối sẩm. Những tàn cây mệt nhọc đang thiếp ngủ, ánh lên những vệt sáng hắt ra từ các ô cửa của nhà hàng xóm. Mơ hồ một tiếng kêu khắc khoải của loài chim lạ ăn đêm.
Phía dưới nhà, mẹ Min đang trao đổi với ai đó qua điện thoại về một câu chuyện làm ăn dang dở. Người hầu gái bình thản dọn dẹp bàn ăn, nhẩm đếm số chén bát bất di bất dịch được dọn ra vào mỗi tối, tận hưởng niềm sung sướng của một Ô-sin nhàn nhã. Thật may mắn cho cô, ít khi khách đến chơi nhà, nên cô chưa bao giờ bị nhấn chìm trong sự bận rộn và đau đớn vì những tiếng quát tháo của gia chủ. Cô nhớ có lần, hình như đã rất lâu rồi, có một người đàn ông trung niên dáng dấp to cao vâm váp ghé ngang rồi ngủ lại. Đêm ấy cậu chủ nhỏ không về. Hình như Min đang kẹt chuyến dã ngoại xa cùng với lớp. Cô hầu gái bê chai rượu Whisky lên cho bà chủ, thấy hai người lặng câm ngồi đối diện nhau, môi ai cũng dính chặt điếu thuốc tỏa khói mờ mịt. Cô rút lui xuống nhà, sợ hãi đến nỗi chỉ dám bật tivi xem hình nhưng khóa tiếng.
Sáng hôm sau, khi cô hầu gái trở dậy thì người khách lạ đã biến mất tự khi nào. Bà chủ lún sâu trong mớ chăn nệm thoảng lên mùi nước hoa xa lạ, mở to đôi mắt trống rỗng nhìn như xuyên thủng trần nhà. Sáng ấy bà chủ không đi làm, bà cứ đi lên đi xuống cầu thang rồi đột ngột phá tung cửa phòng riêng của Min lục soát thứ gì đó. Chốc sau bà gọi người hầu gái tới và dặn dò:
- Cô đã gọi thợ tới sửa cánh cửa sổ trên phòng cậu Min, nó gần sứt bản lề ra rồi. Thật nguy hiểm nếu đêm nào đó mưa bão quét qua. Và thay luôn tủ kính đã bị rạn. Không hiểu Min đã va đập thứ gì vào kính nên nó mới thế. Chiều nay thợ đến, cháu nhớ quan sát họ và trông nom nhà cửa cẩn thận giúp cô nhé!
Chiều muộn Min về, vứt ba lô ra sàn và hét lên những tràng dài vô nghĩa, khiến cô hầu co rúm người như thể sai lầm ấy là do cô dựng ra. Đúng như dự đoán, Min mắt ngầu đỏ chạy vội xuống cầu thang, gọi người hầu giật giọng:
- Chị Gái! Chị Gái đâu rồi? Tôi đã bảo là không ai được phép xâm phạm căn phòng của tôi kia mà. Ai?
- Nhưng đấy là mẹ cậu... - Cô hầu tên Gái ấp úng, thở không ra hơi.
Min giận dữ bỏ lên lầu và từ chối luôn bữa tối. Rất khuya, bà chủ về tới nhà, không tỏ thái độ gì hoang mang khi nghe thuật lại câu chuyện của Min. Không biết bà lên phòng dàn xếp câu chuyện ra sao mà căn nhà vẫn im bặt, không phát ra một tiếng động nào như mọi khi. Và Min, trong những ngày hôm sau, vẫn giữ thói quen tắt hết đèn trong phòng rồi nhìn ra bên ngoài qua khe cửa sổ mở hé. Mắt cậu mênh mang ngập đầy những tia nắng sót lại trong chiều tà.
 
2. Đêm nối đêm ngày nối ngày, căn phòng nhỏ của Min vẫn lặng câm và phủ trùm bóng tối. Thường sau những giờ luyện vẽ ở trường về, Min đánh trần nằm vật ra sàn ngó mông lung lên trần nhà. Cậu nhìn thấy những đám mây hình nấm trôi đi dật dờ. Không gian dường như giãn nở trong suốt. Cậu vẽ nhiều hơn trước, những bức tranh chập chờn màu sắc ngày một khó hiểu vì không để lại hình thù gì cụ thể, chỉ có những nhát cọ thao túng mặt giấy lúc uể oải lúc cuồng nhiệt. Màu lục sẫm cứ choáng hết mặt tranh. Dưới sàn, vô số những bức tượng què cụt bằng đất sét, có cái đã nứt rạn sứt mẻ một vài chi tiết nên biến dạng thành những vật thể méo mó. Trên tường, chi chít những chiếc mặt nạ tróc lở và các tờ báo cũ dán chồng chéo lên nhau thành các mảng lập thể đầy ám ảnh... Người hầu Gái có lần tò mò đã phá kỷ cương lén nhìn trộm vào phòng trong một buổi trưa oi bức, thấy cậu chủ đang khỏa thân đứng bất động trước tấm gương soi mới thay đã lại xuất hiện những vết rạn mới, đôi mắt mở to nhìn trừng trừng vào chính cậu mà có vẻ như không nhìn thấy một cái gì...
Trong một nỗi hốt hoảng tột độ, người hầu Gái lập cập vịn lan can lần dò xuống tầng trệt và ngã lăn ra bất tỉnh một lúc lâu mới có thể ngồi trở dậy. Chiều ấy cô ta thu xếp quần áo định bụng chờ bà chủ về rồi kết thúc hợp đồng. Thế nhưng khi chạm phải ánh nhìn trống rỗng và khóe môi lạnh lẽo của bà chủ, cô không dám cất lời.
Bà chủ hỏi:
- Tại sao?
Cô không thể thuật lại câu chuyện ban trưa, một phần vì ngượng và một phần vì sự vô lý của nó.
- Cháu đang sợ hãi điều gì ư? - mắt bà chủ vẫn nhìn xoáy vào cô hầu Gái.
“Cái đầu ấy thông minh biết bao!” - cô hầu nghĩ, không dám ngẩng mặt lên, mặt cô nhòe nước và cô thổn thức:
- Cháu sợ...
- Cháu sợ điều gì? - giọng đối diện ân cần mà nghiêm khắc.
- Cháu sợ... Không, cháu buồn! Cháu cảm thấy rất buồn...
Vừa lúc Min đi xuống, cắt đứt giọng sũng nước đang lắp ba lắp bắp. Đôi vai người hầu run lên không thể kiểm soát. Rất may, Min chỉ lướt qua và không dừng lại. Cậu ta dắt xe ra khỏi nhà chuẩn bị đi đâu đó.
Bà chủ vỗ về cô hầu, giọng gần như ra lệnh:
- Cháu phải ở lại! Cháu nên ở lại! Nhà cô chỉ có hai mẹ con, có muốn không buồn cũng chẳng được. Cô thì đi suốt ngày. Min thì lầm lì ít nói, tính nó xưa nay là thế mà... Cháu không nên câu nệ... Mức lương và sự đối xử của cô thế này chẳng lẽ không tốt sao?
- Vâng, là rất tốt... Thế nên...
Bà chủ thông minh cướp lời:
- Thế nên cháu cần ở lại! Cháu phải ở lại! Nào, đưa cái túi xách cho cô. Một công việc lao động phổ thông nhàn nhã trong thời buổi này không nhiều đâu, cô gái trẻ ạ.
Dứt câu, bà xách cái túi lên phòng cô hầu, trả nó về đúng vị trí cũ.



*

* *


3. Không gian vẫn mênh mang ở căn nhà quá rộng và ba chiếc ghế cứ chông chênh trong những bữa ăn tối lặng lẽ. Bà chủ vẫn quan tâm tới con trai bằng những câu hỏi vừa đủ lượng thông tin nhưng thiếu hẳn kịch tính. Min vẫn phát đi phát lại những câu trả lời nhát gừng. Cô hầu vẫn dọn dẹp bàn ăn với chừng ấy chén bát xoong nồi đũa muỗng. Và căn nhà vẫn chưa có vị khách quan trọng nào ghé qua.
Nhưng Min thì hơi khác trước. Cậu ta ra khỏi nhà nhiều hơn vào ban ngày. Đêm, cậu thường tắt đèn sớm. Sau lần bắt gặp cậu chủ khỏa thân đứng bất động trước gương như một kẻ tâm thần, cô hầu Gái không dám bén mảng đến cánh cửa bí ẩn ấy nữa. Cô sợ chạm mắt vào những hình thù quái gở giăng mắc khắp phòng của Min. Bởi mỗi khi cô lén nhìn vào những gương mặt méo mó dị dạng ấy là y như rằng chúng cũng phóng tia nhìn chằm chặp lại cô. Cô sợ chúng ám ảnh vào giấc ngủ rồi sinh ra những cơn ác mộng.
Vậy mà Min đã sống một cách an toàn giữa chúng. Đơn giản vì đó là thế giới do chính Min tạo ra. Dạo sau này Min đã sáng tạo được một trò chơi mới. Cậu tha về những miếng simili có chức năng hấp thụ nhiệt và phản quang, cắt ra thành muôn vàn những mảnh vụn có hình ngôi sao, sau đó tỉ mẩn bắc ghế đính từng ngôi sao tí hon ấy lên trần nhà. Công việc thủ công này tưởng đơn giản nhưng hóa ra rất tốn thời giờ. Nguy hiểm nhất là việc phải sử dụng hai ba chiếc ghế chồng lên nhau mới đủ chiều cao cho Min với tay đụng trần. Min cặm cụi tiến hành công việc trong nhiều ngày mà vẫn không thỏa mãn. Đêm xuống, cậu khoái trá tắt hết đèn. Với sự hấp thụ nhiệt rồi phát ra ánh sáng được một thời gian ngắn, thế là trong vùng tối đen đặc, hiện ra một bầu trời sao lung linh hết sức kỳ thú. Rồi cậu đếm sao. Rồi cậu mơ tưởng viễn vông. Cậu thấy mình bay lên, bay lên... Người cậu nhẹ tênh, cậu chạm vào được những tia sáng lấp lánh ấy. Thế giới nở ra đến vô cùng... Cậu đứng dậy nhảy múa, với tay khua khoắng lên bầu trời sao vĩ đại của riêng cậu. Và cậu cười sằng sặc trong đêm...
Ngày nối ngày đêm nối đêm, Min không ngừng bắc ghế đính sao lên trần để khi tắt đèn vũ trụ sẽ hiện ra rồi khoái trá thưởng thức. Và trong những buổi chiều, không gian vẫn dày đặc nỗi đe dọa xâm chiếm bởi những tiếng sấm mơ hồ dội lên từ cuối chân trời. Cho đến ngày kia, bà mẹ không thấy con trai xuất hiện trong bữa ăn tối bèn sai người hầu Gái lên đập cửa phòng, sau nhiều lần hô toáng lên mà không tiếng đáp trả. Khi cánh cửa bật mở, trong vùng tối đen đặc, cô hầu lần tay bật công tắc điện. Trên cao, bầu trời sao vụt tắt ngúm. Chợt cô hét lên những tràng ú ớ khi phát hiện ra Min đang vật vã trên sàn nhà bừa bộn giấy bút như vừa bị trượt chân ngã từ những chiếc ghế chồng lên cao, tuy nhiên, định thần nhìn kỹ thì thấy nơi khóe miệng của Min đang sùi lên từng dòng nước bọt chảy ngoằng.



*

* *
 
Bông hồng cho Thị Nở

Y Nguyên



Tôi là một đứa con gái không đẹp!
Tôi biết mình không đẹp từ tuổi mười sáu - tuổi bắt đầu biết... soi gương. Chẳng trách mà ba cứ thỉnh thoảng lại lén nhìn tôi, rồi lắc đầu, quay mặt. Còn mẹ, bắt gặp cái lắc đầu của ba, cũng thở ra, mắt rượi buồn...
Bảo rằng tôi không đẹp là nói... cho oai. Thực tình tôi xấu. Xấu đến mức "ma chê quỷ hờn" chưa thì tôi không rõ, bởi tôi chưa bao giờ dám đứng lâu để "thưởng thức" dung nhan mình trước gương. Tôi không thích - nếu không muốn nói là căm thù - những chiếc gương. Mà, hình như cũng đã lâu, nhà tôi không có gương. Vật dụng trong nhà ba mẹ sắm đủ thứ - trừ gương. Về điểm này, bao giờ ba mẹ cũng đạt được "nhất trí cao", khỏi bàn!

Tôi thích văn học, nhưng tôi không thích nhà văn Nam Cao, càng không thích truyện "Chí Phèo" của Nam Cao. Của đáng tội, động cơ "không thích" này hoàn toàn mang tính riêng tư. Văn Nam Cao hay, tôi biết thế. Ông chỉ có mỗi tội đã "đẻ" ra Chí Phèo. Nói đến Chí Phèo, người ta lập tức nhớ ngay Thị Nở. Ác thay, tên tôi cũng là Thị Nở - Trương Thị Nở. Lúc sinh tôi, ba mẹ - hoặc là vô tình, hoặc là... chưa đọc Nam Cao - nên mới nhè đặt cho tôi cái tên tai hại ấy. Cũng không thể trách ba mẹ. Chị tôi - Trương Thị Hoa, và tôi - Trương Thị Nở; "hoa" thì phải "nở". Đúng. Còn chuyện cái cô "Thị Nở" của cụ Nam Cao lò dò... đầu thai nhằm nha tôi thì ba mẹ chẳng biếtm chẳng có lỗi gì...

Tôi học không đến nỗi nào. Có dở cũng là... lớp phó học tập. Nhưng cái oai hờ ấy không cứu nổi tôi thoát khỏi sự châm chọc của lũ bạn nhất quỷ nhì ma. Có chuyện bất bình, chúng lại nhấm nháy, độc địa ngâm nga:
Trông xa thì tưởng Thuý Kiều
Lại gần mới hóa... người yêu Chí Phèo
Thơ gì mà đểu! Tức muốn... trào cơm; nhưng chẳng có cớ để nói, bởi ra miệng thì có khác chi "lạy ông tôi ở bụi này"...

Chuyện đau đầu chưa phải đã hết!
Gã lớp trưởng lớp tôi tên Chí, Nguyễn Hải Chí. Tên hắn trùng tên cúng cơm của họa sĩ Choé, chuyên vẽ tranh biếm. Thật tình, tôi mặc xác việc hắn trùng tên với họa sĩ, thi sĩ, bác sĩ... Tôi chỉ bực việc hắn trùng tên với... Chí Phèo. Công bằng mà nói, hắn cao to, đẹp trai, học hành giỏi giang - tóm lại, chẳng "bà con chi" với Chí Phèo. Nhưng tính hắn thật... quá quắt. Bọn bạn gọi tôi "Thị Nở" khiến tôi nổi cục; còn gọi hắn là "Chí Phèo" hắn lại cứ... cười khì! Hình như hắn khoái cái tên "Chí Phèo" lắm; càng khoái hơn về chuyện "Chí Phèo" và "Thị Nở" bị... cặp đôi! Cái màu "cà tửng" của ông họa sĩ trứ danh kia lây sang hắn bằng đường nào tôi không hiểu. Giá mà hắn cũng bực dọc, cũng nổi khùng ắt tôi còn có đường vớt vát. Đằng này, khốn khổ, nghe lời trêu ghẹo của đám bạn tôi đã muốn phát điên; thêm bộ điệu cười cười khiến tôi lộn tiết! "Vèo" một phát, cây thước kẻ bay vù, phang trúng vai hắn. Đám bạn cười ré. Hắn ôm vai nhăn nhó. Ấy vậy mà vẫn chưa thôi, còn làm bộ lịch sự, cúi nhặt thước, đưa đến tận bàn... Dễ ghét! Tâm lý hả hê vừa thoáng qua chợt ngấm. Tôi những muốn lồng lên, băm vằm hắn cho hả giận. Nhưng vô phương! Tôi chỉ có thể "băm" hắn bằng... nước mắt. Nước mắt tôi trào ra, nhỏ giọt nhòe nhoẹt cả trang vở. Vũ khí ấy xem ra lợi hại. Giọng cười đám bạn tắt ngấm. Nụ cười của hắn cũng tắt ngấm. Hắn khổ sở, vụng về, lóng ngóng như anh nông dân quen ở trần nay phải... thắt cà vạt, mặc comlê! Chờ đám bạn lảng đi, hắn rón rén lại gần, xìa cho tôi mảnh giấy. Tôi quay mặc; nhưng mảnh giấy cứ tần ngần, trêu người khiến tôi không thể... không liếc! Loáng thoáng một hàng chữ, to như quả trứng ngỗng: " Mình xin lỗi!". Hứ, lại còn xin lỗi! Ai thèm...

Tôi vùi đầu vào học. Năm cuối cấp, bài vở dồn ứ. TÔi học như để "trả thù đời" Thây cha cái chuyện "Thị Nở Thị Búp". Hãy đợi đấy, đậu đại học rồi hẵng hay! Cái "sổ đen" dài dằng dặc của tôi bây giờ - ngoài tên... ông Nam Cao - thì hắn, thằng cha lớp trưởng, đứng đầu danh sách! Tôi học và học. Trăm thứ hầm bà lằng phải học. Ôn thi đòi hỏi cả kiến thức cũ lẫn mới. May, kiến thức nền tôi vững nên chẳng nhọc nhằn mấy. Suốt cả năm lớp mười, mười một tôi chỉ biết học, không cơhi bời phất phơ như lũ bạn "Thúy Kiều". Con trai ư? Tôi chẳng thèm để ý (đúng hơn, chẳng tên nào... thèm để ý đến tôi!). Việc ấy lại hóa hay. Ừ, cứ cho tôi là Thị Nở, thì đã sao? Tôi xấu như Thị Nở, nhưng tôi dứt khoát không chịu đần như Thị Nở, và Thj Nở tôi cũng cóc cần một gã Chí Phèo - ngay cả loại "Chí Phèo" học giỏi, đẹp trai như... tên lớp trưởng không đội trời chung chẳng hạn. Dạo này, hắn có vẻ đổi tính. Hắn cũng gầy rạc đi vì học, nhưng công tác cán bộ lớp hắn vẫn làm tốt. Hắn còn mẫn cán đến mức... làm thay cả việc của tôi. "Lấy điểm chuộc tội" đây mà! Thây kệ! Tôi phớt lờ, như không thèm quan tâm. Hắn là kẻ thù số một. Tôi không bao giờ quên điều đó; mặc dù, thỉnh thoảng, tôi bắt gặp hắn len lén nhìn tôi với đôi mắt hối lỗi, khẩn cầu...

Cầm giấy báo nhập học, tôi thở phào. Vậy là xong. Tôi đã không uổng cơm cha mẹ, không phí hoài công sức của thầy cô. Cho chúng biết thế nào là Thị Nở! Tôi vào đại học sư phạm, khoa văn. Giã từ trường trung học. Giã từ đám bạn trời đánh một thời bị tôi ghi cẩn thận vào "sổ đen". Cũng kỳ, lúc ở chung thì bực bội, giờ xa nhau lại thấy thương thương. Hôm chia tay, nhiều đứa khóc. Tôi cũng chực khóc, nhưng kịp kìm. Đêm trước lúc lên đường, tôi quyết định... đốt sổ. Thôi, xúy xóa, "tha" đi để còn... lấy phước. Nhưng xóa ai thì xóa, tôi nhất định không "xóa" thằng cha lớp trưởng Chí Phèo. Cũng may, từ giờ trở đi, có lẽ tôi đã thoát cái xui phải gặp "Chí Phèo". Nghe đâu, hắn thi xã hội nhân văn thành phố...

Tôi cắm cúi rà danh sách lớp. Rà từ dưới lên trên, từ trên xuống dưới. Hình như toàn "bá tánh thập phương", chẳng có ai cùng quê, cùng tỉnh. Mắt tôi chợt dừng nơi vần "C". Trời hỡi! Lù lù trên giấy trắng mực đen cái tên "Nguyên Hải Chí". Tôi dụi mắt, cố nhìn vớt vát vào dòng ghi quê quán: Tuy Hòa, Phú Yên. Thôi rồi, ghét của nào trời trao của ấy, lại đúng là hắn, Nguyễn Hải Chí, Chí Phèo! Mắt tôi tối sầm, chân khuỵu, chực ngã...
Sự đời quả lắm nỗi oái oăm. Lúc rà danh sách, tôi khấn thầm cho gặp một đồng hương; nhưng trí tưởng tượng của tôi chưa bao giờ đủ phong phú để tưởng tượng đồng hương của tôi lại là... hắn. Sau này mới biết, hắn thi xã hội nhân văn thiếu nửa điểm, theo nguyện vọng 2, được chuyển về sư phạm. Ma xui quỷ khiến thế nào, hắn lại đâm sầm vào lớp tôi. Đúng là oan gia! Càng "oan gia" hơn, ngay năm một, hắn được bầu làm lớp trưởng, còn tôi, lại là... lớp phó học tập! Gặp tôi, hắn vui lắm. Hắn hỏi đủ thứ chuyện. Tôi đáp nhát gừng, gióng một, mặt lầm lầm...
Chưa bao giờ tôi hiểu rõ tại sao mình ác cảm dữ dội với "Chí Phèo". Chuyện hắn hùa đám bạn chọc ghẹo tôi ngày xưa đã... cũ mèm, đã thành dĩ vãng. Lên đại học, đứa nào cũng trưởng thành, bớt nghịch quá quắt. Chẳng ai gọi tôi "Thị Nở", cũng chẳng ai gọi hắn "Chí Phèo". Hắn lại càng cạch! Chưa bao giờ hắn dám trêu thêm tôi một lần từ vụ tôi "băm" hắn bằng nước mắt. Ấy vậy mà tôi vẫn ghét! Tôi ghét cái mặt đẹp trai của hắn, cái bộ dạng hòa hoa của hắn; ghét cái cảnh lũ bạn gái cùng khóa cứ lượn lờ quanh hắn. Nói nhỏ, giá hắn chân thọt, lưng gù, hay học hành bí bét, có lẽ tôi còn ít ghét hơn. Đằng này, hắn không có chỗ nào khiếm khuyết. Hắn hoàn hảo quá, hoàn hảo đến... phát bực; và cái hoàn hảo của hắn khiến tôi khổ tâm hơn vì sự khiếm khuyết của mình!
Tôi khổ tâm vì sự khiếm khuyết của mình. Điều này tôi phải thú nhận; không thể nào giấu mãi đằng sau khuôn mặt lạnh. Tôi là "Thị Nở"; nhưng tôi còn khổ hơn Thị Nở bởi tôi không đần độn; tôi khổ hơn Thị Nở bởi tôi không có một... Chí Phèo! Phải, tôi cay đắng nhận ra rằng: tôi cần một "Chí Phèo". Một "Chí Phèo" với những khiếm khuyết cần có để tôi chia sẻ, cảm thông. Hắn thì khác. Hắn không thể là "Chí Phèo". Hắn hoàn hảo quá. Cái hoàn hảo của hắn phải gánh trách nhiệm một phần trong nỗi khổ tâm của tôi. Cái mặt đẹp trai của hắn như cợt đùa dung nhan "Thị Nở" của tôi. Cái tính tưng tửng của hắn như giễu ngầm bộ mặt nghiêm nghị của tôi. Thói quen nhẫn nhịn của hắn làm cá tính ngang bướng của tôi - mỗi bận trổ ra - như đấm phải... bị bông, hết đường phát tán! Tôi bực dọc; bực dọc một cách vô vớ, vô duyênl nhưng không thể nào không bực dọc. Mà cũng không phải vô cớ. Ai bảo khi không hắn lại lù lù dẫn xác... theo tôi lên đại học, vào lớp K12 của tôi làm gì...

Tôi bíu tay vịn cầu thang, lê từng bước lên phòng. Cơn đau bụng hành hạ từ dưới thư viện, theo lên giảng đường, bây giờ như có vẻ nặng thêm. Nội trú chiều cuối tuần vắng ngắt. Bạn bè đứa đi chơi phố, đứa tranh thủ về nhà; cả phòng còn trơ mình tôi và Đỗ Quyên. Lảo đảo, tôi buông mình xuống chiếc giường tầng, mồ hôi vã ướt lưng. Nhìn bộ mặt thảm hại của tôi, Đỗ Quyên hốt hoảng: Mày làm sao thế? - Tao... đau... Đỗ Quyên cuống cuồng: Chết, hay đau ruột thừa. Làm sao đây? Nó loay hoay xoa dầu, đắp mềm cho tôi: Nằm im, cố chịu, chờ tao... Nó lao ra khỏi phòng. Tôi lịm người, mê đi. Hình như có tiếng lao xao; rồi một đôi tay rắn chắc luồn xuống lưng, nhấc bổng tôi lên. Tiếng còi xe cứu thương hụ gấp gáp...
 
Status
Không mở trả lời sau này.
Back
Top