• Hiện tại trang web đang trong quá hình chuyển đổi và tái cấu trúc lại chuyên mục nên có thể một vài chức năng chưa hoàn thiện, một số bài viết và chuyên mục sẽ thay đổi. Nếu sự thay đổi này làm bạn phiền lòng, mong bạn thông cảm. Chúng tôi luôn hoan nghênh mọi ý kiến đóng góp để chúng tôi hoàn thiện và phát triển. Cảm ơn

1001 CÂU CHUYỆN CẢM ĐỘNG!!!

Status
Không mở trả lời sau này.
... Tôi thấy mình gặp Thị Nở. Thị Nở bằng xương bằng thịt. Thị Nở có khuôn mặt "như những người đần trong cổ tích và xấu ma chê quỷ hờn". Thị Nở cầm tay dắt tôi. Đi, đi với chị... - Đi đâu? - Chẳng phải em muốn gặp Chí Phèo sao? Chị đưa em đi gặp Chí Phèo... Ừ đi gặp Chí Phèo, thì đi! Kia! Chí Phèo kia... Tôi dụi mắt, nhìn kỹ. Cha mẹ ơi! Lại là... hắn. Hắn đang đứng chờ tôi, cái mặt đẹp trai dễ ghét cười toe. Không, không phải... tôi vùng khỏi tay Thị Nở, bỏ chạy. Tôi không biết mình chạy đi đâu. Hình như tôi đang... về nhà. Kia, nhà tôi kia! Chờ tôi, có đủ: ba mẹ, bầu bạn, thầy cô. Tôi lao vào vòng tay họ; cảm giác như con cá sắp chết khô vừa rơi xuống hồ nước mát. Có tiếng bật khóc. Ai khóc? À lại Thị Nở. Thị Nở vừa lủi thủi, bỏ đi vừa ôm mặt khóc. Sao thế chị? - Chị không có mẹ cha, không có gia đình... - Đừng chị đừng đi... bàn tay tôi yếu ớt chụp vai Thị Nở. Đôi vài trơn chuội, không có chỗ bấu víu. Người đàn bà đi mỗi lúc mỗi xa, miệng không ngừng lảm nhảm: chị không có mẹ cha, không có gia đình...

... Tôi thấy mình ở tuổi mười lăm. Tôi nằm trên giường - như cái lần tôi sốt xuất huyết, liệt giường hàng tháng. Tôi hé mắt. Đứng đầu giường là ba. Ba cúi nhìn tôi. Hình như ba quên mất chuyện buồn phiền vì bộ mặt "Thị Nở" của tôi. Mắt ba đầy lo lắng, yêu thương. Và mẹ. Dù nhắm mắt, tôi vẫn cảm nhận rõ ràng sự hiện diện của mẹ. Mẹ dịu dàng vuốt tóc, lau mồ hôi, đưa từng muỗng nươc scam vào đôi môi phồng rộp của tôi. Giọng mẹ thầm thì: Uống đi, cố uống đi con. Ngoan... Từng muỗng nước cam ngọt ngào trôi qua cổ họng, tràn vào huyết quản, làm nguội đi những tế bào bốc lửa. Tôi lịm người đê mê. Đầu tôi chợt nảy ra ý tưởng khùng điên: ước chi mình cứ bệnh, bệnh mãi... Tôi đọc thầm điều ước ấy. Người tôi bỗng thu nhỏ, nhẹ tênh, chỉ còn bằng đứa trẻ lên ba. Mẹ cúi xuống bồng tôi, hôn chùn chụt vào mắt, vào môi, vào má. Tôi cười khanh khách, vòng tay ôm cổ nghe mẹ nựng ừ, út cung của mẹ, con đẹp hơn mọi thứ trên đời...

Tôi nặng nhọc cựa mình, hé mắt. Hình như tôi ngủ đã lâu lắm. Một ngày, hai ngày... hay bầngy? Người tôi cứ lơ lửng, bồng bềnh. Một bên tay tê cứng vì bị cột xuống giường, bụng đau âm ỉ... Mình sao thế này? Hình như mình đang bệnh. Ờ, đúng là tôi đang bệnh. Mùi cồn ête lơ lửng không trung báo tôi biết rằng tôi đang ở bệnh viện. Vậy là tôi chưa ra khỏi giấc mơ. Tiếng bước chân ai lại gần. Người ấy cúi xuống bên tôi. Một bàn tay âm ấm sờ trán. Chắc là mẹ... không, không phải mẹ; tiếng thở của đàn ông. Vậy chắc là ba. Tôi khẽ động đậy đôi mi. Tỉnh rồi! Âm thanh như một tiếng reo vui. Giọng nói quen quen, nhưng không phải giọng ba. Ai? Ngoài ba mẹ ra, ai có thể ở bên tôi? Chịu, không đoán nổi. Tôi chơm chớp mắt, cố mở. Cái bóng trước mặt nhảy nhót, bồng bềnh như sương. Tôi lại nhắm mắt. Rồi mở ra. Lần này thì mở hẳn...
Không phải mẹ, không phải ba - mà là... HẮN!
Hắn đang nhìn tôi, cười lặng lẽ. Mặt hắn hốc hác, mắt thâm quầng. Sao... mình... ở... đây? - Bạn hôn mê hai hôm rồi. Tắc ruột. May mà mổ kịp... - Ba... Mẹ... - Mình đánh điện hôm qua. Chắc trưa nay vào tới... Tự dưng tôi bật khóc. Từng đợt nước mắt cứ trào ra, chảy ròng xuống gối. Ơ, sao lại khóc, tôi là đứa con gái cứng rắn cơ mà...

Luận văn tốt nghiệp của tôi - đề tài: Nam Cao và tác phẩm Chí Phèo - bảo vệ thành công trước hội đồng giám khảo. Tiếng vỗ tay vang dội. Bầu bạn ùa lên chúc mừng. Mắt tôi rưng rưng. Để khỏi bật khóc trước bàn dân, tôi quyết định... lủi ngõ sau, một mình về ký túc xá.
Hắn lù lù trấn cửa phòng tôi tự lúc nào. Bộ mặt đẹp trai "dễ ghét" cười ngoác đến mang tai! Chúc mừng bạn! Tay hắn thu thu, giấu giấu vật gì đó sau lưng. Cái gì thế? Nụ cười trên môi hắn vụt tắt. Hắn rụt rè, lóng ngóng. Đưa đây! Hắn ngập ngừng, rồi... chìa tay. Trên tay hắn cầm một đóa hồng...

Đất Phú - tháng 4.2004
_________________
 
Bình nguyên xanh thẳm

Dương Bình Nguyên


Nhà nằm lọt thỏm giữa thung lũng, ngẩng lên thấy mây vần, ngó ra thấy rừng rú. Mỗi chiều về, cái mảnh trời nho nhỏ hình khum bát lại trở dạng màu tro vạc, như ánh mắt buồn buồn.

Ẩn giữa vườn tốt tươi cây trái, từ trên đỉnh núi nhìn xuống, nhà giống một nốt ruồi son trên khóe miệng cô gái đôi tám xuân thì. Ông nội bảo, đất này thiêng lắm, ban phúc lộc đời đời. Phải biết phụng thờ thần rừng, chúa đất. Ông nội là người nặng nợ với quê nhà, thuộc nhiều tục xa tích cũ. Từ bé tôi đã sống trong tinh thần thấm đẫm những câu chuyện kể của ông. Nó từa tựa huyền thoại về những chốn linh thiêng, mà mỗi khi nhắc đến không khỏi trầm trồ thán phục.

Ông kể rằng, ngày tôi sinh thì máy bay quân bành trướng vè vè qua đỉnh rừng. Bố đi biệt không về, mẹ ôm tôi ngằn ngặt khóc đói sữa trong hầm tăng xê. Lúc ấy, ông phải vác thuổng vào núi đá đào củ mài về nấu cháo. Đêm về, lại thức hút thuốc lào xéo xoét bên bếp lửa để xua cọp khỏi rình chuồng lợn. Ông bảo, cái buổi loạn ly, nghĩ sao mà cực. Rồi ông nhướng mày nhìn về phía trước nhà, rừng xanh đang bạt ngàn xanh còn tóc ông thôi phai màu nữa, bạc phơ như một vòm mây mỏng. Ông nội ung dung và tự tại, một vẻ đẹp lâu bền như màu xanh nơi mảnh đất này vốn tự nhiên mà xanh mê xanh mải vậy.

Khi tôi lớn lên thì mọi thứ đã khác trước. Người ta lấy ngựa thồ vật liệu về để xây nhà gạch; những ngôi nhà sàn đẹp, mềm mại như vạt áo cổ tích mất dần trong trí nhớ trẻ con. Bố rục rịch làm nhà, ông nội gạt đi, nhà sàn ở cho mát, nhà ngói làm gì cho nó khổ sở ra. Thế là bố đành chịu. Bố ngồi nghe ông nội kể chuyện những ngôi nhà sàn cả trăm gian rộng, từ lan can những dải lụa, thổ cẩm phấp phới bay mà chẳng thấy bóng người. Ai vào đó có tiếng ma gà đếm từng bước chân. Khi ấy, tôi nghe chuyện thấy mông lung hư thực. Nhưng nhiều phần tin. Và mãi đến sau này, khi đã qua thời tuổi dại, đôi khi tôi vẫn giật mình, ngỡ như lời ông nội có điều gì báo ứng.

Năm mười tuổi, tôi được ông cho theo phường săn. Năm nào cũng vậy, cứ ăn qua rằm tháng Giêng là ông lại họp quân, chuẩn bị súng ống. Rồi một ngày đẹp trời, trưa vàng hong nắng, phường săn vác súng, dẫn bầy chó săn đi. Trước lúc xuất phát, ông nội thắp một nén nhang lên bàn thờ, như lời báo cầu đến thần rừng chúa đất. Tôi được ông đặc cách đi theo họ. Đám trẻ trong làng nếu muốn đi theo phải qua một cuộc thi tài, ấy là vượt từ bờ này qua bờ kia con sông Cái. Đứa nào về nhất sẽ được đi cùng với tôi. Ông bảo, đấy là người ta muốn rèn cách cho mấy đứa thành tài để thay lớp người già. Bố bảo, thời chúng mày không phải sinh ra chỉ để làm mỗi một việc đi săn và cưới vợ. Ông nội ừ hử, giận lắm nhưng rồi vẫn cho chúng tôi theo. Cứ một hồi súng nổ, chó ran ran sủa, để chiều kẻ khiên người vác tụ về sân nhà tôi. Dây chim bẫy được hai chúng tôi xách đầy trên tay.

Người tay dao, người tay thớt, mỡ nổ xèo xèo, thịt lợn rừng quay với lá mắc mật thơm đẫm cả thung lũng, vượt sang cả bên kia sông. Đầu con thú lớn nhất được bày mâm cúng. Cúng xong, thịt thà pha tất ra, thái vuông quân cờ, chia đều cho từng nhà. Ông gói vào lá chuối nướng cho chúng tôi một gói tướng, bảo là lộc xuân. Lộc xuân gồm những cái lưỡi, cái tai, và những miếng thịt hổ lốn, để tôi thò tay nhón từng miếng rồi vừa đùa chạy huỳnh huỵch vừa nhồm nhoàm nhai cho tới no lặc lè. Người nào bắn trúng ức con thú thì cả năm được mọi người quý trọng nể vì. Còn đám trẻ cùng xóm, chẳng cần bình bầu, chẳng ai giành giật, tôi nghiễm nhiên đóng vai thủ lĩnh trong mọi cuộc chơi… Những mảnh ký ức rất đậm ấy sau này tôi kể cho thằng bạn thân nhất người thành phố. Nó nhìn tôi, cười nhăn mũi, mọi rợ thế. Tôi vặc lại, còn mày thì ngu ngốc. Tôi cắt đứt tình bạn với nó. Bố biết chuyện bảo, ra thành phố thì những chuyện như thế con chỉ nên giữ lấy cho riêng mình.

Hè năm mười sáu tuổi, tôi bỏ hết những lớp học thêm, bỏ cả đợt tham quan biển Trà Cổ để về nhà xin ý kiến bố về đường hướng cho ngày mai. Lúc này, bố đã bỏ việc ở trên huyện vì những lý do chẳng ra sao. Đơn giản là bố không chịu luồn cúi. Bố về nhà, theo đám đàn ông trong làng đi ngược con sông Cái lên mãi miền Thượng du để làm nghề Sơn Tràng. Tôi thấy mẹ vẫn bươn bả với nương lúa mố, nhà cũ đã lần hồi vẹt ngấn thời gian. Ông nội thì đã già lắm, cứ ra thẩn vào thơ với câu hát nửa miệng, giống như những lời ước ao:

"Giá mà tôi ở trong rừng
Chim kêu vượn hót, nửa mừng nửa lo"

Tôi nhìn ông, nhà mình vẫn còn ở rất sâu trong rừng. Ông nội lắc đầu, thế này mà mày gọi là rừng đấy hẳn? Mày ăn lộc rừng từ bé, mày được cái chữ cái nghĩa vào người, mày thử nghĩ xem đi chắt hết rừng để lấy cái đút vào mồm là tốt hay xấu? Ông nội cũng đã nói câu đó trong buổi đi săn cuối cùng. Khi ấy bố đang ướp rượu rắn, bảo là làm thằng đàn ông con trai mà nghèo thì hèn lắm. Ông nội gắt, cả đời tao ở đây, ai dám nói tao hèn? Bố lắc đầu im lặng. Cái sự không chấp nhặt người già chứ không phải sự quy phục.

… Tôi hỏi mẹ, đợt này bố con đi đâu? Mẹ bảo, đi Vân Lăng, chắc phải hơn tháng. Tôi bảo, con cần gặp bố. Ông nội bảo, vào đấy làm gì, rừng thiêng nước độc. Chao ôi, cứ ngẫm mà sợ. Rồi không chết bất đắc kỳ tử cũng chứng nọ tật kia. Tôi bảo, bây giờ khác ngày xưa. Chắc lúc ấy ông định nói đến những ngôi nhà sàn phấp phới thổ cẩm, đẹp như thiên đường bờ xôi ruộng mật mà lại có ma gà đếm bước… Mẹ tôi gói túi cơm nắm cho tôi bảo, đi ngược sông cho dễ, đi chi đường đèo cho cực trần ai. Con sông Cái chảy vắt ra làng như một người bạn đời thân thiết. Mẹ tôi bảo, từ ngày về đây làm dâu, thì con sông cũng đã trắng đôi bờ lau lách và tím dại một loài hoa. Số mẹ tôi vất vả, cả đời đối mặt với cái nghèo đói, chắt chiu tấm áo manh quần cho chồng, cho con. Để đến giờ, tóc đã trộn lẫn xanh bạc bảy ba mà cái phận hẩm truân chuyên vẫn chưa dứt. Cả thời xuân trẻ, mẹ vắt sức mình trên nương mố và chờ đợi, đến nỗi sự nhẫn nại đã thành quen, miễn trừ được hết thảy những cú sốc rình rập lơ lửng đâu đó trong cuộc đời. Chưa bao giờ mẹ cản tôi điều gì. Mẹ yêu thương tôi bằng một tình yêu thương riêng biệt, bằng một mạch ngầm lan tỏa và có sức sống bền dai.

Tôi nghe theo lời mẹ, lần theo ngược bờ sông. Ngày trước sông xanh và tha thiết chảy, nhìn xuống thấy bóng cây rừng la lả bắc những nhịp cầu sang. Bây giờ sông ngòn ngòn đỏ, đâu đó trên miền thượng du người ta đang hì hục đãi vàng. Vừa là canh bạc với cuộc đời vừa là kế sinh nhai. Hồi còn học ở trường làng, tôi vẫn thường theo bố ra sông để học bơi. Bố lặn ngụp thần tình như một con rái cá. Tôi đùa nghịch vang cả mặt sông. Về sau này, khi tóc bạc về nhà, bố vẫn ra sông, ngóng sang bờ cây hoa tím và hoang hoải sa bồi, xa xăm những túp nhà đơn cách như những dấu lặng. Tôi hỏi, bố tìm gì? Bố bảo, chả tìm gì, cái điều đó không tên tuổi. Lại hỏi, bên ấy thì có gì? Chả có gì, toàn những cuộc đời chen lẫn vào nhau. Bố nhả khói thuốc như bắc cầu vồng qua bên kia sông. Chắc bên ấy bố có nhiều kỷ niệm.

Thứ nhất mất mẹ mất cha
Thứ nhì gánh vã, thứ ba Sơn Tràng

Bố bỏ đi làm thợ rừng, ông thường thơ thẩn hát thế. Mỗi lần tôi về, ông thường ngâm nga và bảo, sướng chẳng biết sướng, rừng xanh núi đỏ, vào đấy rồi biết sống chết ra sao? Lần này tôi lại bỏ đi rừng tìm bố. Tôi muốn bố chính thức có lời quyết định. Thực tình tôi muốn ra đi, muốn đổi đời bằng ngôn Ăng-lê xa lạ. Ông nổi cáu, mày sinh ra từ đâu, mày sống lên từ đâu. Hừ, coi chừng thần rừng phạt mày. Có lần cũng câu chuyện này, bố đã cải lại ông, ông phải để nó sống cho chính nó, bây giờ chúng nó phải sống khác ông và con. Ông nội nhìn những đám khói thuốc lớn phía trước mặt: Khác gì? Mày sống ở đâu, mày chết ở đâu, bao giờ chẳng thế? Câu chuyện vẫn thường lửng lơ thế, mà tôi chưa bao giờ nghĩ mình sẽ làm cầu nối cho sự hòa hợp. Tôi còn miên miết theo những cuộc đua ở dưới phố. Tôi cũng chẳng biết rồi mọi chuyện sẽ đến đâu… Nhưng hôm nay thì tôi vẫn phải đi. Tôi đi bên con sông buồn bã chảy. Tôi đi.

Cuộc sống đang vươn cánh tay cường tráng đến từng nẻo đất hoang nơi đây. Tôi thấy người ta trồng ngô, trồng sắn, những đám dưa gang nằm lăn lóc như lợn con. Làng càng lúc càng xa mờ. Mình tôi đi. Không ai cho tôi đi đường khác cả. Phía trước tôi là những cách rừng đá dựng. Phía sau tôi là thoai thoải một triền sông. Tôi đi, cùng bên tôi là ký ức về những vùng bên sông ám ảnh bố bởi bạt ngàn hoa tím.

Đêm. Tôi trèo lên chạc cây ngồi ngủ để tránh thú dữ. Tôi ngồi đó, lơ mơ trong tiếng réo âm vang của rừng già. Cứ thế, ba ngày liền thì tôi đến Vân Lăng.

Từ rất xa đã ngửi thấy mùi nghiến cháy cay xè cả mắt. Một mùi kỳ lạ xồng xộc vào mũi, vào các giác quan, thấy nôn nao. Đến đêm thứ ba thì tôi mệt quỵ. Tôi gục lả bên gốc trám già. Và khóc, nước mắt đắng chát đàn ông.

Khi tôi tỉnh dậy thì đã tảng sáng. Sương mai trắng đục như sữa nhú ra sau những rặng rừng. Ngoài cửa lán nghe tiếng mài cưa đục, tiếng búa bổ chan chát và những câu chuyện tiếu lâm kèm theo rất nhiều tiếng cười. Đám trai làng, những đứa trẻ nghe chuyện ma gà và thi vượt sông để theo phường săn giờ đã lực lưỡng, tấm lưng để trần như tấm phản gỗ lim. Học cười đùa, họ vô tư lự nhìn tôi. Họ đã sống bao ngày rồi như thế này?

Bố nhìn tôi rất lâu. Trong giây phút lặng yên ấy. Tôi bỗng nhận ra tuổi già đã lần tìm được bố mất rồi. Tôi im lặng nhìn ra phía ánh sáng. Và tôi hỏi bố về những trường đại học của đời mình. Bố nhìn theo những vệt sáng trên những luồng rừng đã bị phát sạch. Người ta sẽ mở qua đó một con đường. Bố bảo, tùy con. Nhưng chàng trai, hãy bắt đầu bằng đôi chân này, cho dù nó có phồng rộp và bỏng rát. Tôi cũng thôi hỏi bố, thôi nhắc về phần ký ức bạo liệt của người từ thời trai trẻ. Nó đã thuộc về ngày hôm qua rồi. Hôm nay, bố đã hiện hữu với vóc dáng già nua, chòm râu rậm rạp như cánh rừng nguyên sinh không thèm cạo. Nhưng ánh mắt bố thật sáng, tràn trề hy vọng. Cái hy vọng ước mơ chảy truyền qua dòng chung huyết thống.

Sau chuyến đi rừng ấy, chẳng biết tại những lo toan cật lực suốt đời hay bi “Trời đánh thánh vật” như lời ông tôi đoán mà bố tôi đau ốm, lưng người còng rạp xuống như một dấu hỏi lặng thầm.

Rừng bây giờ bạc nhiều, người ta đang phá nốt những tán rừng còn lại để trồng quế, trồng hồi theo dự án. Ông nội vẫn hát “Giá mà tôi ở trong rừng…” nhưng bố chẳng còn hơi sức đâu mà bực dọc như xưa nữa. Hàng ngày bố chỉ còn nhóng đôi mắt hàng bạc lên những cánh rừng thưa còn sót lại nhưng mong đợi điều gì. Ánh mắt ấy chẳng biết có giống ánh mắt xuân sắc của mẹ đợi chờ không?
Tôi ra thành phố, học mãi học mê, chẳng máy dịp về nhà. Nhà thì mãi thế, ba người ngày một già đi ngóng theo tôi trên con đường gập ghềnh. Tôi biết, một mai nó sẽ bị bào mòn và sẽ phẳng phiu hơn. Nhưng mỗi lần đặt tên cho những khát khao, tôi vẫn thường hướng về miền cây lá sinh sôi của mình. Tôi sinh ra và lớn lên từ vùng xanh thẳm đầy huyền hoặc ấy. Cái thung lũng màu tro vạc, nơi mà rừng cây cũng trường tồn và có cả khi thăng trầm như cuộc sống vậy. Cuộc sống luôn luôn ẩn dật và chảy truyền. Nó lúc nào cũng bắt đầu từ những đứa con.
 
Đoản khúc mùa thu

Nguyễn Đình Tú


Ngày anh cưới vợ em mặc chiếc áo màu cánh sen, hở cổ và chiếc váy dài màu trắng sữa. Dáng hình mảnh mai, mái tóc ngắn rẽ ngôi một bên, gương mặt trang điểm nhẹ nhàng, đầu ngẩng cao và ánh nhìn lạnh băng kiêu hãnh, em đã xuất hiện trước anh trong hình hài anh chưa bao giờ được trông thấy.

Anh yêu, anh là một người mù
Nên em đâu dám trách
Còn em, em có nguyên đôi mắt
Song chẳng để làm chi...

(Ha-lin Po-xvat-tôp-xka)

Chúng ta gặp lại nhau vào một ban mai cuối thu.

Trên bãi cỏ cạnh ghế đá công viên chúng ta cùng ngồi, hai đứa bé xinh xắn đang mải mê nghịch ngợm những chiếc lá bàng đỏ, những bông hoa cỏ vàng, những trái bằng lăng khô mà chúng mới tha thẩn lượm nhặt về. Giọng nói, tiếng cười hồn nhiên của chúng hòa cùng tiếng chim hót thánh thót văng vẳng đâu đó. Hai đứa bé ấy chính là hai đứa cháu út ít của chúng ta.

Bên hồ. Mặt nước trong veo, vơi cạn, lăn tăn sóng gợn. Cây phượng cao lớn vững chãi vươn những nhánh cành thanh mảnh về phía bầu trời xanh thẫm lạ lùng. Một ngày cuối của mùa thu. Nắng vàng hoe da diết. Những chiếc lá phượng bé bỏng, li ti, già nua, vàng úa cuối cùng còn vương vấn trên cây bị cơn gió heo may bứt xuống. Bay, bay mãi. Lá phượng rơi lên tay, chạm vào mặt, bám lên mái tóc và áo quần chúng ta.

Có thể, đó cũng là cây phượng con cháu của loài cây tuổi trẻ chúng ta đã từng ghi dấu. Ngày xưa, những ngày đã lâu lắm rồi, cây phượng gù ấy đổ nghiêng thân về phía lòng hồ. Những chiếc cành mảnh mai của nó lòa xòa trên mặt nước. Tưởng như sẽ chạm hẳn vào mặt hồ mà rồi lại dè dặt run rẩy cách xa...

* * *

- Đến tận ngày cưới, em tới, chỉ cần em nói: Anh hãy kết thúc ngay trò đùa này đi! Anh đừng làm em đau khổ nữa! Một lời thôi, anh cũng sẵn sàng từ bỏ tất cả, cam lòng bị nguyền rủa, cam chịu mắc nợ cả đời với người con gái kia để đi cùng em, chạy trốn cùng em đến bất cứ nơi nào cả hai chúng ta cảm thấy bình yên và hạnh phúc. Nhưng em đã không làm như thế...

- Em vẫn còn nhớ. Ngày anh cưới vợ em mặc chiếc áo màu cánh sen, hở cổ và chiếc váy dài màu trắng sữa. Dáng hình mảnh mai, mái tóc ngắn rẽ ngôi một bên, gương mặt trang điểm nhẹ nhàng, đầu ngẩng cao và ánh nhìn lạnh băng kiêu hãnh, em đã xuất hiện trước anh trong hình hài anh chưa bao giờ được trông thấy. Xinh đẹp, dịu dàng, trẻ trung, trang trọng và xa cách vô cùng. Rất nhiều người trai trẻ nhìn theo và mỉm cười thân thiện với em. Như một đôi rất yêu nhau, em khoác tay đi bên anh ấy, hồn hậu, nhiệt thành chúc mừng anh như cầu chúc cho người bạn thân thiết.

...Suốt buổi, anh ấy luôn phải nắm rất chặt lấy tay em, đôi lúc còn khẽ lắc lắc, như muốn nhắc: Chị vững vàng lên nhé. Còn có tôi đang bên cạnh chị đây này!

Dĩ nhiên là em làm sao quên được vai diễn của mình. Em đã cố tìm gặp và nhờ cậy một chàng trai trẻ đóng vai người yêu để đi dự đám cưới của người yêu cũ. Có vẻ như ảnh hưởng trích đoạn bộ phim tâm lý hoặc trang tiểu thuyết tình cảm buồn thảm nào đó. Nhưng anh ấy đã nhận lời. Có thể, vì sự chân thật của em. Có thể, vì anh ấy cũng có trong mình tố chất của người nghệ sỹ: Đồng cảm, dễ sẻ chia, giàu lòng trắc ẩn và nhiệt thành!

Em lặng lẽ nhìn cô dâu đi bên cạnh anh. Nghe nói, cô ấy kém em vài tuổi nhưng vì ngày cưới phải mang trên người quá nhiều đồ trang sức cộng với khuôn mặt trang điểm hơi kỹ càng nên có vẻ nặng nề, khô cứng và già dặn. Cô ấy khoẻ mạnh, lộng lẫy, cân đối, hiểu biết và vui vẻ là được rồi. Em nghĩ và thành thật tin vào hạnh phúc của anh. Vậy mà không hiểu sao khi tan tiệc, ra cửa, chạm vào nụ cười và lắng nghe giọng nói cảm ơn bè bạn của cô ấy em lại thấy có điều gì đó bất ổn... Nhưng em vội vàng xoá đi ý nghĩ này. Chỉ là linh cảm thoáng qua, linh cảm của một người đa đoan, mẫn cảm mà rõ ràng không nên như thế đối với cô gái đã có được anh trong đời. Trở về nhà, em ngã ngay xuống gối. Mệt nhoài, buồn thảm, trái tim cũng như quỵ xuống vì phải trải qua tình huống quá sự chịu đựng của mình.

* * *

- Cuộc hôn nhân của anh chỉ yên ổn được trong một vài năm. Khi đứa con đầu lòng ra đời, vợ chồng anh không sống cùng cha mẹ nữa mà ra ở riêng. Anh được đề bạt chức vụ cao hơn, công việc như ý và tiền bạc kiếm được ngày một dễ dàng. Vậy mà chẳng hiểu sao anh lại nhớ đến em nhiều thế. Mọi việc đối với anh trôi chảy, bài bản, suôn sẻ, thuận chiều nhưng sao tâm hồn anh trống rỗng và đơn điệu quá thể. Anh biết, anh đã sống bằng thói quen mất rồi. Anh và vợ anh hoàn toàn không hiểu nhau. Sự đồng cảm, chia sẻ, dịu dàng mà cô ấy dành cho anh những ngày yêu nhau chẳng qua cũng chỉ là một sự cố tình tạo ra để có được anh. Cái gì không phải là tự nhiên thì sẽ không bền lâu. Trước năm tháng đời người, sự gượng ép, giả tạo mau chóng phôi phai, lộ chân tướng. Điều bất hạnh lớn trong đời người đàn ông là không được sống cùng tri âm, tri kỷ. Không có em, nhớ em nhiều, anh âm thầm hiểu ra lý lẽ tình yêu của em. Chẳng ai yêu anh như em yêu anh. Lúc nào cũng dè dặt, lúc nào cũng dịu dàng, lúc nào cũng chưa trọn vẹn. Một tình cảm thoang thoảng, thực hư, mờ ảo, trên bạn bè một chút, dưới tình yêu một chút... Anh đã từng nghĩ, tình yêu của em giành cho anh, giống như nước lã. Nhưng bây giờ anh lại hiểu, đó không phải là thứ "nước lã người dưng" mà là nước lã tinh khiết, âm thầm bên nước đường ngọt ngào, mê đắm. Nước đường thì quyến rũ và dễ say lòng. Nhưng không ai uống nước đường được mãi. Chỉ có nước lã mới bền lâu... Khi anh thực sự biết đau, cũng là lúc đã quá muộn màng...

- Là kẻ mất mát tình yêu của anh, em hoàn toàn gục ngã, kiệt sức và cảm thấy hình như cuộc sống của mình không còn tồn tại nữa. Em không muốn thức dậy bất cứ một ký ức nào về anh. Những tặng vật kỷ niệm anh dành cho em đều được gói ghém và mang đi chôn cất. Em muốn yên lành. Muốn lãng quên. Sáng nào thức giấc em cũng phải nhìn vào ảnh cha em, nước mắt vòng quanh, thầm thì hàng trăm lần lời hứa âm thầm trước vong linh người đã khuất. Những sắc màu loang lổ trên toan vẽ. Những hình khối lớn bé, xiêu vẹo, xấp ngã. Những đóa hoa run rẩy dưới ánh trăng giá lạnh. Những em bé, những cánh chim nhỏ nhoi trước ban mai rộng lớn. Em vẽ, cứ vẽ, vẽ mải miết. Em quên hết thời gian, quên cả nỗi muộn phiền, quên nỗi khổ đau hiện hữu và những nhức nhối trong tâm tưởng... Tâm trí và sức lực em dồn hết cho sự lựa chọn của mình, sự lựa chọn nhọc nhằn, cay đắng, một hành trình không hứa hẹn gì đến thành công và vinh quang cả. Nhưng mong ước có người kế nghiệp hội hoạ của cha, những giọt nước mắt và nụ cười không bao giờ trọn vẹn của em lại chính là điểm tựa vững vàng nhất mà em có. Đi tới bến bờ này lại nhận ra nơi phía trước kia hình như mới chính là bờ bến mình cần đến. Nghệ thuật không có điểm dừng lại. Nỗi buồn đau riêng tư cũng không bao giờ hết cả. Em đã vẽ rất nhiều, rất nhiều. Vẽ như hoà cả tâm hồn mình vào những sắc mầu, hình khối của năm tháng ấy...

- Tranh của em luôn đầy sức sống, niềm tin, lạc quan và hy vọng. "Hoa mặt trời", "Em bé và con thỏ", "Khung cửa mùa thu", "Bà mẹ", "Bàn tay người tạc tượng"... Anh được tận mắt chiêm ngưỡng sự thành công của em vào chính những ngày buồn thảm nhất của đời anh. Con trai anh phải đưa vào trại cai nghiện ma tuý lần thứ tư. Vợ anh gần như mắc bệnh tâm thần. Đứa con gái bị chồng bỏ cứ hễ gặp mặt bố là rầu rĩ, thở than, khóc lóc. Ban lãnh đạo mới không xếp anh vào ê kíp làm việc của mình. Anh như rơi xuống vực thẳm, đầy chông gai, không thể nào gượng đứng dậy được. Mới ngoài bốn mươi mà tóc anh bạc trắng. Như sợi dây cung bị chùng xuống, anh không có ý định nài ép nghị lực của mình thêm một lần nữa căng lên. Rượu, trà, thuốc lá, bóng đá và cờ bạc là bầu bạn thường xuyên của anh. Phòng cơ quan, nhà mấy người bạn độc thân rồi quán xá trở thành nhà trọ thân thiết hơn mái nhà anh từng ra vào sinh sống bao nhiêu năm tháng. Rồi em ạ, tình cờ (ôi, tuổi trung niên còn xúc động và thức tỉnh trước sự tình cờ của số phận mới thật kỳ lạ!), một buổi vào giờ cơm tối, anh đang ngồi lơ mơ trong quán rượu thì ti vi đưa chương trình về em. Vẫn gương mặt xinh xắn, trẻ trung, dịu dàng. Vẫn nụ cười tinh nghịch, hồn hậu. Vẫn đôi mắt rực sáng và ánh nhìn ngay thẳng. Dù em có đẫy đà hơn, quý phái và sang trọng hơn, anh vẫn nhận ra em. Em trả lời phỏng vấn. Kỹ thuật viên để gương mặt em nổi bật trên khuôn hình, để tất cả khán giả hâm mộ đều được thấy rõ, được như đang trực tiếp đối diện với em. Vậy mà, khi ấy, anh lại có cảm giác là em chỉ nhìn thấy, chỉ nói chuyện với mình anh. Em đã thành công rồi. Lời hứa âm thầm trước người cha đã khuất của em mà mãi sau này anh mới biết nay đã thành hiện thực. Không ngờ, trong hội hoạ, một người vào tuổi hai mươi ba mới bắt đầu đi những bước đầu tiên lại mau chóng đạt được vinh quang rực rỡ. "Tôi muốn dành những lời sau nhất để gửi tới một người bạn của tôi, một kiến trúc sư tài hoa của những năm tôi tuổi hai mươi. Tôi vừa được biết, hiện tại anh đang gặp nhiều trắc trở trong sự nghiệp và đời sống riêng tư. Nhưng tôi luôn luôn tin rằng bằng nghị lực và tài năng của mình nhất định anh sẽ vượt qua. Vào giây phút này tôi mong mỏi được chia xẻ cùng anh như với người thân thiết yêu dấu của tôi".

"Anh ngồi quán đấy à!", "Anh đừng hút thuốc lá!", "Anh đừng uống rượu nhé!"... Ngày xưa, em vẫn hồn hậu, ngây thơ, nhẹ nhàng khuyên can, nhắc nhở, quan tâm đến anh một gã lãng tử bụi phủi bất cần đời như thế. Bây giờ, thành đạt và vinh quang, em không lãng quên bạn bè cũ, em chưa hề quên anh... Như kẻ bừng tỉnh sau cơn mê, anh liêu xiêu đứng dậy, móc ví trả hết số tiền nợ của quán rượu rồi loạng quạng bước nhanh ra cửa. Ngôi nhà của anh. Dưới ánh đèn nê ông nhợt nhạt, con gái anh đang ngồi chờ bố bên mâm cơm. Vợ anh nhác bóng chồng vội xoè quạt giấy che mặt và cười khanh khách. Ghế bên phải anh còn trống trải - vị trí của đứa con nghiện ngập đang cai nghiện chưa về. Xộc xệch, tan nát, bất hạnh. Nhưng đó là gia đình của anh. Nó cần anh làm điểm tựa, cần anh vững vàng nhóm lại ngọn lửa hồng ấm áp, cần anh xốc lên, vực dậy. Sống hơn nửa đời, anh phải làm lại từ đầu. Nhọc nhằn, cay đắng nhưng cũng gắng gỏi lắm. Điều anh làm lại cho anh, cho vợ con anh không hẳn hoàn mỹ nhưng chắc chắn có ý nghĩa hơn những tháng ngày bạc nhược trước đó. Anh làm tất cả những gì mình có thể làm đó là vì ai, em biết mà...

- Chồng em mất đã hơn mười năm rồi. Hơn ba ngàn ngày, em đã sống những phút giây trống rỗng. Nhưng em cảm ơn số phận đã ưu ái trao vào tay em tình yêu của anh ấy. Anh ấy chính là chàng trai có mặt bên em trong đám cưới anh ngày nào. Anh ấy là một họa sĩ, là học trò của bố em, là người thầy đầu tiên hướng dẫn em những nét cọ đầu tiên. Nhưng nếu em không hạnh phúc thì em cũng không đổ lỗi cho anh. Đừng trách quá khứ vì nếu cho ta làm lại từ đầu chưa chắc ta đã làm khác đi. Đôi khi con người ta cứ hay tuyệt đối hoá tình yêu. Chưa hẳn một tình yêu đẹp sẽ đưa đến một hôn nhân đẹp. Đừng lấy quá vãng bao biện cho những thua thiệt hiện tại. Có phải thế không?
 
4. Nhưng Min đã không chết. “Ma túy, chị hiểu không? Con chị đã bị sốc thuốc, may mà...” - vị bác sĩ nghiêm mặt kết luận. Còn người mẹ đau khổ lảo đảo vịn tay ghế, nhắm mắt nuốt cơn cảm xúc vào trong như thói quen lạnh lùng thường nhật. Tuy nhiên, lần này bà đã không thể. Bà ngẩng mặt lên cay đắng hỏi: “Ma túy ư? Vì sao?...”.
Dù Min tỉnh lại Min cũng không thể trả lời hay nói đúng hơn là Min không muốn trả lời. Vì một lẽ cậu cho rằng mẹ cậu hẳn phải hiểu rõ điều này hơn ai hết. Nỗi buồn, sự cô đơn, chứng trầm cảm..., chúng đã bao vây cuộc sống của con, trùm phủ khắp căn nhà này. Chẳng lẽ mẹ không hiểu sao, hở mẹ?
Thấy con đã qua cơn nguy kịch, bà mẹ móc di động run rẩy bấm số định gọi cho một ai đó. Rồi bỗng dưng bà dừng lại đột ngột. Không! Bà không muốn ông ấy lại đay nghiến bà. Bao nhiêu năm nay bà đã chứng tỏ được bản lĩnh của mình, bằng vẻ mặt bình tĩnh đông cứng trong mọi trường hợp, bằng một sự nghiệp ổn định và phát triển. Không! Bà chưa hề vấp ngã, chưa hề suy sụp. Bà không thể để cho ông thấy bà đang thất bại trong vai trò người mẹ như thế này.
Chỉ có cô hầu Gái là không hề biết gì về những bí ẩn trong ngôi nhà mà cô đang phục vụ. Cũng phải thôi. Cô chỉ mới đến đây làm việc có hai năm. Cô làm sao biết được từ rất nhiều năm trước, khi cậu chủ Min còn bé tí và còn rất đỗi hồn nhiên tinh nghịch, cha mẹ cậu đã chia tay vì một vụ ngoại tình diễn ra từ phía người chồng. Bằng tất cả sự kiêu hãnh của người phụ nữ quá đỗi xinh đẹp, người vợ trừng phạt chồng bằng cách chối bỏ hai chữ “thứ tha”, dù người chồng ra sức van nài. Trải qua nhiều năm, lòng kiêu hãnh đóng băng rồi biến thành nỗi đớn đau câm lặng. Đứa con đành gánh vác hậu quả này. Mà ngay cả nó, dù có cố gắng vẽ ra bao nhiêu bức tranh khó hiểu đi nữa, dù tạo ra bao nhiêu bầu trời sao đi nữa, nó cũng không thể mường tượng được rằng hàng năm, mẹ nó chỉ cho phép hai người gặp nhau đúng một lần vào dịp kỷ niệm ngày cưới, cũng chính là ngày hai người chối bỏ nhau.
Dĩ nhiên, cái ngày ấy cô hầu Gái không thể nào biết được. Nhưng hình như người cha tội nghiệp của Min thì cô hầu đã gặp một lần rồi. Ấy là vị khách hiếm hoi có cái dáng to cao vâm váp đã ghé ngang ngôi nhà một đêm nào đó vắng Min. Rất tiếc, mối quan hệ sâu xa này cô cũng không biết nốt, bởi vì ngay cả tên ông ta cô còn chẳng nhớ nữa là...

<Vũ Đình Giang>
 
Tiệc tàn
Truyện ngắn của Bích Hạnh


Khi anh đến, tiệc cưới đã bắt đầu được một lúc. Nhướng mắt nhìn lên sân khấu, anh thấy chú rể đang vòng tay qua eo cô dâu để biểu diễn màn rót sâm banh. Không phải anh cố tình đến trễ trong đám cưới thằng bạn học cuối cùng lấy vợ, mà vì anh ngủ quên. Bữa nhậu hồi trưa không dài, nhưng không hiểu sao anh cảm thấy mệt. Có lẽ nó là sự tiếp nối của buổi tối hôm trước, khi chú rể của ngày hôm nay rủ anh em đi nhậu một trận giã từ cuộc sống độc thân. Anh đã ngủ một mạch gần ba tiếng đồng hồ, cho đến khi choàng tỉnh dậy bởi cú điện thoại của Cầm. Ngoài trời nhá nhem tối.

- Anh đã tới đám cưới chưa?

- Chết rồi, anh ngủ quên. Anh dậy ngay đây, sẽ đi ngay bây giờ.

Sự im lặng ở đầu dây bên kia khiến anh chột dạ.

-Thế em đang ở đâu?

Hình như có tiếng thở dài.

- Em, chắc em không đi đâu anh ạ.

Suýt chút nữa thì anh thốt ra "Sao vậy?", rồi anh định nói "Ừ", nhưng rốt cuộc anh lựa được một câu khác:

- Hay là anh qua đón em?

Tiếng cười nhạt của cô gái. Có vẻ như cô đã lấy lại bình tĩnh, cô nói bình thản:

- Không cần vậy đâu. Em nghĩ kỹ rồi, đi làm gì, bọn em có phải là khách sáo gì đâu, anh ấy sẽ thoải mái hơn. Anh biết đấy...

- Khi nào tan tiệc anh sẽ gọi cho em.

- Không sao đâu, cảm ơn anh. Anh đi đi, muộn rồi đó.

Khách khứa đã ngồi kín các bàn tiệc. Ở một khách sạn sang trọng bậc nhất Sài Gòn thì số lượng bàn lên đến cả trăm là quá nhiều. Anh tìm được một chỗ trống, và mỉm cười với người phụ nữ ngồi cạnh anh, bên tay phải. Nàng trạc ba mươi tuổi, khá đẹp. Anh chợt nhận thấy nàng có vẻ gì đó quen quen. "Phụ nữ ở những đám cưới bao giờ cũng đẹp, và bao giờ cũng có cảm giác quen quen"... Anh nhớ ra nhận xét của một thằng bạn và cảm thấy khá có lý.

- Em là bạn của cô dâu hay chú rể ? - Anh bắt chuyện.

- Dạ, em... - Nàng lúng túng.

- Xin lỗi, anh thấy em quen quen... - Anh nói ra cảm giác của mình. Đó là một cái tật của anh. Và anh nhìn nàng lần nữa.

- Người anh em, uống chút làm quen nào...

Người đàn ông ngồi bên tay phải nàng nhoài người qua phía anh. Anh ta đặt tay vào eo cô nàng xinh đẹp, cười ý nhị.

- Tôi là Hưng. Còn đây là vợ tôi.

Anh nhận thấy bốn chữ "đây là vợ tôi" được Hưng nói một cách trịnh trọng hơn bình thường. Có thể vì muốn nói câu nói đó mà anh ta cụng ly với anh chăng. Anh nhếch mép cười. Dù sao anh ta cũng có quyền tự hào. Vợ anh ta đẹp thật. Nàng có đôi mắt đẹp, mắt của một người đàn bà dễ cảm, biết bộc lộ cảm xúc, hút người đối diện vào một cảm giác được tìm hiểu nàng, vương vấn nàng, dù chỉ là một thoáng qua. Trông nàng thật thanh mảnh với chiếc đầm dài giản dị màu xanh da trời để lộ cần cổ trắng mượt mà gợi cảm.

Mình để ý đến cô ta hơi nhiều. Rõ ràng mình đã gặp cô ta ở đâu đó. Anh cố nhớ, nhưng đầu trống rỗng, không có manh mối gì.

Cô dâu chú rể đã uống xong thứ rượu màu hổ phách bằng cái cách mà anh nghĩ là khó chịu nhất khi uống rượu, nghĩa là vòng tay qua nhau, và cúi gập người vào nhau gò bó, ngượng nghịu. Có lẽ cả đời họ chẳng bao giờ cùng uống với nhau như thế lần thứ hai. Họ bắt đầu đi chào bàn. Anh thấy bà mẹ của Tiến - ở quê vào đã mấy hôm nay. Bà mặc một chiếc áo dài nhung the màu tím, mặt trắng xóa phấn, trông khác hẳn bà cụ lọm khọm đôn hậu quê mùa mà anh từng biết. Tiến cười luôn miệng, tay vòng qua eo cô dâu. Cô dâu có một gương mặt trung bình, không đẹp không xấu, nếu anh gặp cô ta dưới ba lần chắc anh không nhớ rõ cô. Tiến nói cô bằng tuổi, cha cô là một quan chức lớn trong ngành ngân hàng. Đám cưới có lẽ ba phần tư là người quen của họ nhà gái.

Anh cảm thấy điện thoại của mình rung lên, nhưng khi mở ra thì không thấy có tin nhắn hay cuộc gọi nhỡ nào.

Người đàn bà ngồi cạnh anh ăn tay trái. Hình như nàng đụng vào anh và quay sang mỉm cười bối rối. Anh nhìn thấy những ngón tay nàng và tự dưng xao động. Tay nàng không đẹp, những ngón tay dài và thon, trắng nhưng hơi xương xương, nổi gân, và nó giống đôi tay Phượng kỳ lạ. Phượng cũng thuận tay trái, cũng bàn tay xương xương như vậy. Nàng nấu ăn giỏi, biết thêu thùa, đan lát, biết vẽ tranh, làm thơ, viết truyện... trước khi lấy anh. Anh nhớ Phượng những lúc nàng ở trong bếp, trổ tài nấu nướng. Tóc Phượng cặp cao để lộ cái gáy trắng trẻo mảnh dẻ, chiếc áo hai dây trễ một bên vai và thỉnh thoảng nàng phải co người về một phía để kéo nó lên. Anh lại gần, không cưỡng được một cái hôn vào gáy nàng. Anh thích ngắm đôi tay Phượng thành thạo và khéo léo với dao, đũa, thìa, chai lọ, rau củ... và khi Phượng dọn món ra bàn ăn thì anh có cảm giác mình là một ông vua.

Nhưng đó chỉ là những ngày đầu của cuộc hôn nhân.

Nhiều chủ nhật rảnh rỗi về sau Phượng không còn thích nấu nướng nữa. Cô để tâm hàng giờ với những đôi tất len vớ vẩn, những chiếc hoa và đồ vật làm bằng giấy màu, bìa, vải vụn, keo và những chất liệu mà anh không còn biết gọi tên là gì. Làm xong, cô vứt chúng lung tung khắp nhà hoặc có khi ném vào thùng rác.

Phượng bắt đầu ít về nhà. Cô ở riết cơ quan, cả những khi cô trực và những khi không có việc gì. Cô bắt đầu đi học đủ thứ, về nhà muộn. Anh và Phượng không cãi cọ nhau, có lẽ bởi bản tính kiêu hãnh của anh, nhưng điều đó làm anh bức bối. Anh, một người đàn ông có thể nói là thành đạt sớm so với bạn bè. Hành trang mà anh mang về sau sáu năm du học cộng với dáng vẻ thể thao khỏe đẹp đủ để người ta mời anh vào những vị trí ngon lành. Đám bạn học cũ của anh ngoài Hà Nội sinh sống ở Sài Gòn thường mơ được như anh, nhất là khi anh cưới Phượng. Hồi đó Phượng đòi thiết kế cái bếp theo ý tưởng riêng của nàng, anh để nàng toàn quyền với một cọc tiền, và anh hạnh phúc vì điều đó. Anh không ngờ rằng một năm sau đó, Phượng đã không còn thiết gì đến trò chơi làm đầu bếp mà anh là một khán giả trung thành.

Anh đã sai lầm khi chọn cách trả đũa nàng.

Hôm đó, muộn quá không thấy Phượng về, anh không thể chịu đựng nổi. Anh xách xe chạy lòng vòng và không cưỡng được, đến ngay cơ quan nàng. Nhiều người biết anh và họ để anh lên thẳng phòng nàng làm việc. Phượng đang ngồi ở đó, quay lưng về phía anh. Rõ ràng là nàng ngồi chơi vì hai chân ghếch lên chiếc ghế trước mặt, hai tay gác sau gáy. Trước mặt nàng là hai đồng nghiệp nam đang ngồi thoải mái trên bàn. Họ vừa nói một chuyện gì đó và cười sặc sụa. Phượng đang cười, tiếng cười của nàng giòn tan, sảng khoái, trong trẻo và vô tư. Khi quay lại nhìn anh, mặt nàng vẫn còn tươi rói. Đó là vẻ mặt và tiếng cười lâu lắm rồi anh không được nghe, được thấy. Nó dội vào tim anh như thủy tinh vỡ, bỏng rát. Trong lòng sôi sục. Nỗi ghen tuông vô cớ làm mặt anh tái đi.

Anh trả đũa nàng bằng hai mươi mốt ngày... không đụng đến nàng. Mỗi đêm, anh vẫn thấy nàng đều đặn uống một viên thuốc nhỏ trong cái vỉ hai mươi tám viên của nàng trước khi đi ngủ, đều đặn như một cái máy, và nàng vẫn hay mặc chiếc áo ngủ màu cam nhạt mà anh thích. Có lúc anh run lên vì phải kìm nén. Nhưng anh đã kìm nén được. Mỗi khi anh nghĩ đến tiếng cười thủy tinh của nàng, nó chọc thẳng vào tự ái của anh.

- Anh ăn gì đi, anh chỉ uống thôi à?

Người phụ nữ ngồi cạnh nhắc anh và lại mỉm cười. Những người đàn bà hay cười như thế thường đa tình. Trong chốc lát, anh thấy tóc nàng thật mượt mà. Anh xác định một lần nữa rằng nàng không giống như những cô gái xinh đẹp khác, vẻ quyến rũ đặc biệt mà anh có thể "ngửi" được bằng kinh nghiệm của những cuộc tình không còn đếm được rõ ràng.

Anh vẫn thầm tự hỏi, nếu anh không "trừng phạt" Phượng bằng hai mươi mốt ngày ấy, không biết cuộc hôn nhân của họ còn có thể cứu vãn được không. Khi anh trở lại với Phượng, cô gần như đã thành con người khác. Cô cứng đờ, đau đớn. Anh đã làm đủ mọi cách, nhưng anh không thể chịu nổi cảm giác là đang hành hạ Phượng. Cô khóc. Anh buông Phượng ra, nhìn vào đáy mắt nàng. "Tại sao" - anh rít lên trong câm lặng. "Em không biết" - Phượng trả lời thành tiếng.

Đầu tiên, anh ngủ với con bé văn thư. Cô bé mười chín tuổi, vừa học xong một khóa... đánh máy vi tính và vào cơ quan anh làm việc với "chuyên môn" là giọng nói ngọt ngào dễ nghe và dáng người tròn trặn hấp dẫn. Nó mê anh từ lâu. Nó bảo ở quê đã lấy chồng và bỏ chồng sau ba tháng nên bây giờ "em đã là người phụ nữ bình thường" rồi. Anh sửa lại: "Đã là phụ nữ được rồi, không cần thêm chữ bình thường". Nó vặn lại: "Phụ nữ là nói chung, bình thường là nói riêng. Khối phụ nữ không bình thường, lesbian chẳng hạn". Nó cười hí hí, cắn ngón tay anh đau điếng.

Hôm tòa xử anh và Phượng ly hôn, con bé cũng đến dự. Nó bảo "anh cứ bình thường hóa anh ạ, em đây này, kém anh chục tuổi mà đã một lần chồng, có sao đâu". "Nhưng anh chẳng bao giờ lấy em". Anh nói thẳng. "Em biết, có sao đâu, chuyện ấy cũng là bình thường. Em cũng chẳng lấy anh, đàn ông gì mà cứ suốt ngày nghĩ nghĩ ngợi ngợi, mệt!".

Hôm ấy Phượng đi cùng anh một đoạn đường. Cô tỉnh táo: "Em thực sự xin lỗi anh. Em không yêu ai khác, không ngoại tình. Khi lấy anh, em đã nghĩ mình sẽ thành một người đàn bà bình thường (lại bình thường - anh nghĩ) như những người đàn bà khác, chiều chuộng chồng, sinh con đẻ cái, vun vén gia đình... Nhưng từ khi lấy anh, em cảm thấy mình không còn là mình - Phượng giải thích một cách khó nhọc - Biết nói như thế nào... Có lần, em đã định đến bác sĩ. Em không nói điều đó với anh, nhưng em tự hỏi, tại sao anh chưa bao giờ nói với em rằng em nên đến bác sĩ...". Anh im lặng, và thừa nhận tất cả, trong khi chính anh cũng không hiểu tại sao.

Tiến đã đến gần bàn anh ngồi, nhưng hình như anh ta không nhìn thấy anh. Đêm qua, không hiểu sao anh về được đến nhà. Anh ngạc nhiên vì sự tỉnh táo của Tiến.

- Mai làm chú rể rồi, tối nay mày uống thế thì còn làm ăn gì được.

Anh nói. Mắt Tiến vằn tia đỏ. Tiến đặt xuống bàn một vật gì đó. Chiếc chìa khóa, của nhà anh. Nó nằm như một vệt đen trên mặt bàn ướt đẫm nước đá tan chảy từ ly bia của anh. Anh thấy cổ họng đăng đắng.

- Mày đúng là thằng tồi.

- Ừ.

- Tao thấy thương cho Cầm.

- Thôi đừng nói chuyện đó nữa.

Tiến dằn ly bia xuống bàn. Anh cầm lấy chiếc chìa khóa của mình, xâu nó vào chung một chùm với hai chiếc nữa giống y như vậy. "Năm năm rồi, tao cũng phải buông Cầm thôi. Lấy nhau để suốt đời cho nàng ở nhà thuê à, hay là đến ở nhờ nhà mày luôn. Tao không giỏi kiếm tiền như mày". Tiến nói, nhưng anh không nghe thấy gì nữa.

Anh đứng lên trước khi cô dâu chú rể tới bàn mình. Tự dưng anh thấy vô nghĩa. Những bản nhạc trữ tình, những bó hoa, những gương mặt xinh đẹp phụ nữ, những lời chúc tụng...

Người phụ nữ ngồi cạnh anh ngước nhìn anh ngạc nhiên. Không hiểu sao anh thấy mắt nàng có một tia tiếc nuối hoang dại khi anh đứng lên sớm như vậy. Hay là anh ảo tưởng. Anh vẫn thấy nàng quen vô cùng, nhưng vẫn không thể nhớ ra nàng.

Chồng nàng có vẻ thoải mái khi thấy anh rời bàn tiệc. Đêm nay anh ta sẽ ôn lại buổi tân hôn với vợ mình, chắc chắn thế. Lũ đàn ông ích kỷ và ham muốn sở hữu. Anh đi ra đường. Gió thổi lồng lộng.

Truyện ngắn của Bích Hạnh
 
Kim Thư nằm, hai cánh tay xuôi đều. Nước da cô bây giờ xanh tái với đôi môi thâm tím. Mắt cô nhắm nghiền như người ngủ với hai hàng mi khép lại. Thư đã chết. Cái chết của cô làm chúng tôi bàng hoàng! Mới mấy hôm trước, cả bọn đi dự tiệc sinh nhật ở nhà Tiến rất vui vẻ...

Kim Thư là một cô gái hiền lành, dáng dấp quý phái. Cô hình như không có bạn trai. Một vài chàng khá phong độ, tán tỉnh làm quen với cô một thời gian, rồi không hiểu sao, các chàng ấy lại rút lui. Tôi cũng có nghe những tay ấy phát biểu về cô những lúc trà dư tửu hậu. Có cậu nói: “Con bé chẳng có gì chê được. Nhưng nàng hình như bị lãnh cảm!”. “Có thể cô nàng làm cao. Đợi gặp hoàng tử rồi mới yêu! Dân trí thức mà. Có yêu nhau cũng văn vẻ, lý tưởng chứ đâu xô bồ, lộn xộn như bọn mình!” - một cậu khác cảm thán nói.

Khi lão Sùi - chuyên gia tẩm liệm - vạch miệng Thư, cho vào mồm cô một miếng vàng y, tôi thấy được lần cuối cái răng khểnh của Thư. Tôi thoáng bồi hồi, đau đớn trong lòng: “Trời ơi! Thư! Cái răng khểnh của em đã làm nên mấy bài thơ đăng báo cho anh!”.

Tôi không phải là người yêu của Thư. Nhưng chính cái vẻ đẹp mỏng manh, có lúc tựa hồ như khói, như sương ấy đã tạo nên nhiều cảm xúc trong tôi. Tôi thường có thói quen đi tìm sự sáng tạo trong vẻ đẹp đa dạng của những cô gái. Bây giờ một trong những người mẫu trong tâm hồn tôi đã ra đi. Thư ơi! Chẳng biết ngày mai em sẽ về đâu? Ôi thật là đau xót! Sao em lại dại dột chết trẻ như thế khi chưa biết tình yêu, chưa rành rẽ về cuộc đời này. Dẫu cuộc sống có những buồn vui, đau khổ... nhưng biết bao nhiêu người vẫn thiết tha yêu nó, chẳng bao giờ có ý nghĩ muốn rời xa nó như em. Có người gặp trăm ngàn bất hạnh hơn em nữa kia! Có thể biết đâu chừng, ngày sau có anh trong đó! Nhưng anh quyết sẽ sống. Chỉ khi nào thật sự không còn khả năng để sống! Mà tại sao em lại quyên sinh? Em buồn chuyện gì? Em khổ chuyện gì? Em là cô gái được cha mẹ cưng chiều! Nhà em cũng chẳng phải nghèo túng mà còn khá giả hơn nhiều người khác!

Lão Sùi nhìn mọi người nói: “Nào! Có ai muốn nhìn mặt cô Thư lần cuối không? Lại đây, tôi đắp khăn lên mặt cô ấy thì sẽ không giở ra nữa nhé. Giở ra không nên!”. Bọn chúng tôi e dè xúm lại. Có một giọng khóc rấm rứt: “Thư! Thư ơi! Sao bạn lại bỏ mình đi sớm vậy? Biết bao giờ gặp lại nhau đây Thư? Biết bao giờ...”. Đó là Quỳnh Dao. Cô này là bạn rất thân của Thư, sắp có chồng về Sài Gòn. Nghe Quỳnh Dao khóc, chúng tôi cũng mủi lòng. Một vài bạn gái của Thư cũng khóc theo. Bọn đàn ông, con trai chúng tôi có một vài cậu đỏ mắt, quay mặt đi chỗ khác.

Tôi ngồi chung với lão Sùi ở bàn nước góc nhà lúc các vị sư cô tụng kinh, gõ mõ cầu siêu cho Kim Thư. “Chú Sùi! Ông làm nghề tẩm liệm biết bao nhiêu người rồi. Ông có thấy chuyện gì huyền bí thuộc về tâm linh không?”. “Khối chuyện...”. Thấy tôi có vẻ tin chuyện âm dương, lão Sùi xem bộ thích. Lão cũng đã có vô vài cốc rượu cúng ban chiều nên có vẻ hăng hái: Này nhé... Cậu có biết chuyện “hồn thư” chưa? “Là thế nào? Nghe bí ẩn quá!” - tôi chăm chú nghe lão Sùi. Lão nói giọng đều như kể chuyện đêm khuya:

- Sau khi người chết vừa chôn rồi, đêm ấy, vào lúc nửa khuya chỗ họ nằm lúc liệm, từ dưới đất sẽ bật lên một đốm lửa xanh bằng đầu ngón tay út, bay vòng vòng một hồi rồi sẽ nhập vào di ảnh hay bài vị. Vào giờ đó nếu ai chẳng may bị “hồn thư” chạm vào sẽ bị nguy hiểm. Nhẹ thì bị bệnh cũng vài hôm. Nặng có khi hóa rồ, có thể điên luôn!... Cậu không để ý đó thôi. Sau đám ma người thân, có người phải nằm bệnh. Đôi lúc có người còn mang chứng tâm thần dai dẳng!... Vì quá đau xót, không để ý chạm phải “hồn thư” đó thôi!

- Có cách gì tránh được cái vụ “hồn thư” đó hay không?

Lão Sùi bập bè điếu thuốc: Cũng dễ thôi. Các cụ xưa tìm dao phay đâm họng heo, hoặc dao yếm cắt cổ vịt cắm ngay chỗ giường người chết là xong ngay! “Hồn thư” dậy không nổi, và sau đó, qua ngày mở cửa mả, hồn thư sẽ tiêu tan vào đất thôi!

- Còn... chuyện quỷ nhập tràng thì sao? - tôi hỏi lão Sùi nhưng trong lòng cũng hơi gờn gợn.

- Lúc chưa cho vào hòm, nhất thiết phải đốt đèn canh chừng và nhốt hết mèo lại. Vì trong số vài chục con mèo đen sẽ có một con linh miêu. Con linh miêu này do mèo mun cái giao cấu với rắn mà sinh ra. Khi nó phóng ngang mình người chết, sẽ tạo ra một lực hút vô hình rất mạnh mẽ. Người chết sẽ bật dậy và thành quỷ nhập tràng. Quỷ nhập tràng đưa hai tay về phía trước đi thẳng, và khi chạm vào ai thì người đó vong mạng, bởi luồng tử khí trong người nó rất lớn!

Nghe lão Sùi kể về quỷ nhập tràng, tôi cảm thấy ớn thật. Sống lưng dờn dợn...

- Còn chuyện mở cửa mả thì sao? Chuyện này thường nghe nói, nhưng chẳng biết ý nghĩa ra sao? - tôi sẵn dịp hỏi tới.

- Này nhé! Khi người ta mới chết, người ta chưa biết mình đã chết, nên hồn phách đi chu du, rong chơi bờ này bãi nọ. Ba ngày sau khi chết, người nhà cúng mở cửa mả bằng cách kéo con gà trống tơ đi quanh vòng mả. Con gà bị kéo sẽ kêu quang quác, báo hiệu cho người chết biết rằng phải trở về nhà của anh là nấm mồ mới đắp. Và người chết, sau ngày mở cửa mả, đêm đêm sẽ ngồi khóc tại nấm mộ của mình, vì khi ấy mới biết mình đã chết thật rồi! Đã vĩnh viễn lìa xa trần thế. Vĩnh viễn rời xa những người thân...

- Có bao giờ chú gặp người của thế giới bên kia không?

- Tôi có gặp rồi. Thậm chí gặp nhiều lần... - Bỗng lão Sùi nhìn tôi như dò xét. Rồi lão nói nhỏ có vẻ nghiêm túc: “Ba ngày nữa, cậu có muốn gặp cô Thư không?” - “Gặp Thư... Cô ấy lúc đó đã chôn xuống đất rồi mà! Làm sao gặp được” - “Có cách!... Đây là chuyện thuộc về thế giới huyền bí. Sau nhiều năm tiếp xúc với người chết, bọn như chúng tôi đã nắm được vài bí quyết để có thể thấy được người của thế giới bên kia!” - “Có chuyện đó thật sao?”

Tôi ngờ ngợ nhìn lão Sùi. Lão vểnh râu phun khói thuốc lên trần nhà. Trông lão cũng hơi có vẻ “tiên phong đạo cốt”, và cũng thoang thoáng chút âm u như phù thủy. Đây có lẽ là chuyện thuộc về bí quyết pháp thuật giống như chuyện người ta đồn đại về sự kỳ lạ của bùa Lỗ Ban! Tôi vốn có máu tò mò chuyện lạ. Nhất là những chuyện về thế giới vô hình mà các phim truyện kinh dị của Mỹ và liêu trai Tàu thường chiếu trên màn hình. Có ma hay không? Có hồn người hay không? Những câu hỏi luôn ám ảnh tôi và cả người đời cũng như giới nghiên cứu khoa học. Quả đây là một dịp có một không hai để tôi khám phá nhằm khẳng định quan điểm của mình.

- Vài hôm nữa. Tôi muốn gặp cô Thư như chú đã nói. Chú có thể giúp tôi? Chú có cần gì không? - Tôi thăm dò lão Sùi và cố giấu sự nghi ngờ.

- Không... Tôi sẽ chỉ cho cậu phương pháp. Với điều kiện cậu phải tin tưởng và chút xíu gan dạ!

- Tôi sẽ cố gắng...

- Tôi mong rằng cậu sẽ gặp cô ấy. Nếu không gặp được là tại cậu không hạp đó thôi. Chứ tôi đã từng có gặp vài người đã chết trong trường hợp làm như thế.

Lão Sùi kéo tôi ra hông nhà của Thư, sau đám chuối khá vắng vẻ. Lão kề tai tôi nói nhỏ trong tiếng rỉ rả tụng kinh siêu độ phía nhà trên. Tôi hơi nhăn mặt: “Thôi, chú giúp tôi luôn cái vụ đó đi”. Tôi móc bóp đưa cho lão Sùi hai tờ giấy năm chục ngàn. Lão lắc đầu nguầy nguậy, bảo chỉ nhận tiền công lấy bửu bối chừng mươi ngàn, để cúng tổ và mua rượu.

***

Màn đêm bao trùm trên nghĩa trang vắng vẻ. Tôi nhìn vầng trăng mọc muộn để có thể đoán đúng tương đối giờ giấc. Lão Sùi dặn tôi không được đem trong người những gì có liên quan tới máy móc như điện thoại di động, đồng hồ, đèn pin. Tôi phải mặc áo vải mùng trắng, đi chân không và ngồi cạnh một ngôi mộ không gần quá, cũng không xa quá mồ Kim Thư để có thể quan sát cô ấy mà không làm cô nghi ngờ vì tưởng tôi cũng là một hồn ma như cô. Bửu bối “tuyệt chiêu” mà lão Sùi đã đánh cắp cho tôi, đó là tấm khăn được xếp nhiều lớp bằng giấy quyến đắp trên mặt Kim Thư trước khi đưa cô ấy vào quan tài.

Lão Sùi đã đánh tráo nó bằng một tấm giấy khác có sự theo dõi và chứng kiến của tôi. Đây là tấm giấy đắp mặt cho người chết! Lão đưa cho tôi đem về nhà, khoét hai lỗ trên tấm giấy quyến ấy và cột dây làm một cái mặt nạ, để giả làm ma, lừa bọn ma thiệt! Sau đó phải bỏ trong gối ôm và để trong mùng và không được cuốn mùng lên trong suốt thời gian chưa sử dụng. Tôi ngủ xưa nay vốn không có gối ôm nên phải bươn bả ra chợ mua về. Trong phòng tôi ít có ai vào nên cũng tiện cho việc bỏ mùng sùm sụp tối ngày sáng đêm. Thoạt đầu, tôi suy nghĩ: “Chuyện thật nhảm nhí, hoang đường! Nhưng biết đâu mình cũng có dịp kiểm chứng, có dịp rút ra cái gì đó. Cũng chẳng thiệt cho mình và cho ai. Có thể như một trò chơi ảo... game online!”.

Tôi hồi hộp chờ đợi giây phút được thấy Thư xuất hiện. Vầng trăng khuyết mờ mờ xanh lét treo trên bầu trời nghĩa trang hoang vắng. Lô xô, chập chùng những ngôi mộ lớn nhỏ; mới có, cũ có. Thỉnh thoảng, có ngọn gió lạnh lẽo lùa qua làm những đám lau sậy bông trắng, phất phơ như những bàn tay vẫy. Đôi khi có tiếng con chim lạ đi ăn đêm kêu lên làm tôi giật mình. Tôi căng mắt nhìn vào ngôi mộ của Thư. Thời gian chầm chậm, nặng nề trôi qua. Chẳng thấy gì cả, ngoài nấm đất đen sì mới đắp.

Tôi hơi nản chí: “Mẹ kiếp, mình dễ tin quá. Bị lão Sùi lừa cho muỗi cắn!”. Bỗng tôi giật mình, dựng tóc gáy khi thấy một bóng đen ngồi cạnh mộ Thư khóc hu hu vừa đủ nghe. Trời ơi! Hồn Thư đã trở về thật rồi! Cô đang ngồi khóc vì mới hay mình đã chết! Ôi, tội nghiệp cho Thư quá! Tôi bỗng dưng không còn sợ hãi nữa. Tôi định chạy qua bên mộ của Thư, nắm tay cô mà an ủi. Nhưng tôi nhớ lời dặn của lão Sùi: “Chỉ xem thôi! Không được manh động gì khác. Nếu trái lời sẽ nhận hậu quả không lường được. Có thể mất mạng hoặc điên khùng như chơi!”.

... Tôi đem chuyện gặp hồn ma của Thư nói lại với Tiến. Tiến ban đầu không tin. Cho là tôi đặt chuyện trêu anh. “Sao cậu không nói đã thấy cái răng khểnh của Kim Thư dài ra khi lão Sùi vạch miệng cô ấy? Tôi buồn mà cậu cứ đùa dai...” - Tiến có ý trách cứ và mỉa mai nhẹ tôi. Nhưng tôi kể lại quy trình được gặp Thư, với những lời lẽ chân thật, nghiêm túc. Tiến vốn biết tính tình của tôi. Anh ta xin tham gia đêm nay. Đó là đêm thứ ba sau ngày mở cửa mả của Kim Thư.

Theo lời của lão Sùi, Kim Thư sẽ xuất hiện ngày một thưa đi, và đến khi làm tuần 49 ngày thì cô ấy sẽ về âm cảnh. Tiến là người thiết tha thầm yêu, trộm nhớ Kim Thư. Từ khi Thư mất, Tiến xuống sắc thấy rõ. Trong thâm tâm, anh vẫn còn tiếc thương, luyến nhớ người con gái ấy!

Tôi và Tiến lại núp nơi ngôi mộ cũ. Chúng tôi chờ đợi. Tôi trao mặt nạ người chết cho Tiến đeo. Tôi nhường cho anh ta vì tôi đã thấy Thư rồi. Và Thư đã xuất hiện! Thư khóc rấm rứt, đau đớn đến nao lòng. Bỗng một sự việc xảy ra ngoài trí tưởng tượng của tôi. Tiến bất ngờ phóng qua ngôi mộ của Thư. Tôi không kịp giữ anh ta lại. Tiến nắm chặt tay Thư. Anh ta nói như khóc: “Kim Thư! Em đã trở về... Em đã trở về! Em đừng đi nữa nghe em. Anh đau khổ lắm! Anh nhớ em quá! Thư ơi... Thư ơi!”. “Trời đất ơi! Người và ma làm sao tái hợp được!” - Tôi đau đáu trong lòng. Bên kia mộ Thư bỗng yên lặng lạ kỳ. Tôi lo sợ thật sự: “Phải qua bên ấy cứu Tiến. Có thể Tiến bị Thư hớp hồn. Anh ta có thể chết hoặc điên khùng như lời lão Sùi đã cảnh báo!”.

Bóng ma Thư ngồi cúi mặt bên cạnh Tiến. Tôi thật hoang mang không hiểu nổi đây là thực hay hư!? Khi cô ấy ngước lên, tôi giật mình, kinh ngạc vô cùng. “Quỳnh Dao! Trời ơi! Sao em có mặt nơi đây!?”. Quỳnh Dao thở dài sườn sượt: “Em sẽ kể cho mấy anh nghe...” - Cô dừng lại, nấc lên nghẹn ngào: “Em và Kim Thư yêu nhau!... Chúng em muốn thành vợ chồng và chung sống suốt đời với nhau!” - “Các cô là người đồng tính?" - Tôi buột miệng vì không ngăn được sự ngạc nhiên quá đỗi! Quỳnh Dao tiếp: “Ba má em chỉ có một mình em là con gái. Ba má em biết chuyện này và không muốn như vậy. Em bị gia đình ép phải có chồng, vì thực ra chúng em vẫn đầy đủ chức năng của một người phụ nữ. Chỉ khác là yêu người đồng tính mà thôi!”. Tôi và Tiến chợt hiểu ra vì sao mà Kim Thư đã uống hơn hai chục viên thuốc sốt rét để tự tử khi biết Quỳnh Dao sắp có chồng!

Quỳnh Dao cho chúng tôi biết cô ra đây cũng với hy vọng là được gặp mặt Kim Thư, bởi cũng có người làm nghề đồng bóng bên xứ cô chỉ vẽ cho cô cách gặp mặt người đã khuất.

Trên đường về, tôi nói với Tiến:

- Cậu chăm sóc cho Quỳnh Dao. Cô ấy đẹp không thua kém gì Kim Thư và xem chừng cũng là người cũng có tình, có nghĩa!

- Nhưng cô ấy sắp có chồng kia mà?

- Cậu ngốc quá! Gia đình Quỳnh Dao ép cô ta lấy chồng là vì muốn cắt đứt mối quan hệ không bình thường này! Cậu thay vào chỗ Kim Thư thì hay quá!” - Tiến nghe tôi nói, chỉ thở dài và im lặng. Tôi còn nói thêm: Tình yêu thật diệu kỳ! Con người đã thắng được nỗi sợ hãi để tìm đến với nhau. Người như Quỳnh Dao cũng đáng trân trọng!

***

Chuyện tôi bày cho Tiến thế mà hóa ra hay! Sau một thời gian, với những tình cảm chân thật của hai người với nhau - có lẽ Tiến và Quỳnh Dao cũng vì Kim Thư một phần - họ đã thành vợ chồng và sống rất hạnh phúc.
_________________
 
Con Chim Trốn Tuyết _ Paul Gallico

Cánh đồng lầy mênh mông chạy dọc theo theo bờ duyên hải Essex, giữa thôn Chelmbury và Wickaeldroth, một bến chài của dân Saxon ngày xưa. Đây là miền hoang đại cuối cùng còn sót lại tại nước Anh, một miền sình lầy, hẻo lánh đầy cỏ lác và lau sậy với những bãi cỏ ngợp nước trải dài tới bên bờ những ruộng muối lớn. Những bãi bùn non và những vũng nước thuỷ triều sát bên đại dương đầy sóng gió.
Những đường mương rạch do nước thuỷ triều xẻ vào nội đại và những nhánh sông nhỏ lượn uốn quanh co trước khi tuôn ra biển cả, qua miền lầy lội, mặt đất bập bềnh lên xuống như hô hấp theo nhịp thuỷ triều lên xuống mỗi ngày. Cảnh tượng vắng vẻ, cho ta cảm giác càng thêm quạnh hiu bởi tiếng kêu, tiếng gọi của loài dã điểu làm tổ trong những đầm lầy hay ruộng muối - những con ngỗng trời, những con hải âu, vịt trời, le le, cò lửa, cò hương mò mẫm tìm mồi trên những hồ nước mặn. Còn sự hiện diện của loài người thì không có, không thấy một ai, hiếm lắm mới thấy một người lưới chim hoặc vài thổ dân mò sò, tới đó tiếp tục làm cái nghề đã cũ mèm ngay từ hồi những người Normand đặt chân lên miền Hasting.
Màu xám, màu xanh và màu xanh lá cây nhạt là những màu nổi bật, bởi vì suốt trong những mùa đông dài dằng dặc, nhiều vũng nước trên bãi biển, trên đầm lầy phản chiếu ánh sáng lạnh lẽo và xám đen của bầu trời. Nhưng đôi khi, vào buổi bình minh hoặc lúc hoàng hôn, màu trời sắc đất bực lên như ánh lửa vàng, lửa đỏ.
Sát bên một nhánh quanh co của con sông Aelder nhỏ bé có một quãng đê thuộc bức trường thành trấn giữ bờ biển ngày xưa, khúc đê nhẵn và kiên cố, không một kẽ hở, đó là thành luỹ bảo vệ đất liền chống lại sự xâm lấn của biển cả. Con đê chạy sâu vào tận hồ muối, sâu vào đất liền tới ba dặm kể từ eo biển nước Anh, rồi từ đó rẽ theo hướng Bắc. Chính ở góc đó mặt đê bị sóng biển nhồi vỗ đã rạn vỡ tan tành. Con đê bị chọc thủng và qua chỗ hổng, biển cả như con thú đói ùa vào tranh giành đất đai, cả bức trường thành và cả những vật gì còn lại nơi đó.
Lúc thuỷ triều rút, trơ ra những tảng đá vỡ màu xám đen, vết tích của ngọn hải đăng hoang phế, nằm phơi trên mặt nước, lác đác quanh đó, tựa như những cái phao cột xác chết, rải rác đầu những cây cọc của của một hàng rào đã bị lúc xuống. Ngày xưa ngọn hải đăng nhô cao trên biển và ánh đèn đã từng soi sáng dọc miền duyên hải Essex. Theo dòng năm tháng, sóng biển soi đất lở dần, ngọn hải đăng hoá thành vô dụng.
Gần đây nó lại được dùng làm nơi trú ngụ của loài người. Có một người đàn ông cô độc đến đó ở. Thân hình méo mó, nhưng tâm hồn anh tràn đầy tình thương đối với các loài hoang thú bị săn đuổi. Trông anh thật xấu xí nhưng chính anh lại là người tạo ra cái đẹp. Câu chuyện sau đây thuật về chính chàng trai đó, và một cô bé đã tìm hiểu được chàng, tìm hiểu được một vẻ đẹp nào đó tiềm ẩn bên trong cái thân hình thô kệch của chàng.
Đây không phải loại truyện có bố cục với những tình tiết nhịp nhàng hấp dẫn. Cốt truyện được thu góp từ nhiều nguồn và từ nhiều người, một phần dưới hình thức những mẩu chuyện vụn vặt của chính những người đã chứng kiến những cảnh tượng khốc liệt và kỳ lạ. Rốt cuộc, biển cả đã trở lại nguyên vị, bao phủ lên nơi chiến trận lớp sóng nhấp nhô, và bóng chim trắng khổng lồ, hai đầu cánh đốm đen, cánh chim đã từng chứng kiến sự việc từ đầu đến cuối, cũng đã quay về miền yên lặng huyền bí, cóng lạnh của vùng Bắc cực, là nơi mà từ đó nó đã bay đi.
Vào cuối mùa xuân năm 1930, Philip Rhayader tìm đến ngọn hải đăng hoang phế ở cuối sông Aelder. Chàng mua vọng đèn bỏ hoang cùng nhiều mẫu đất lầy và đồng cỏ nước mặn quanh đó.
Chàng sống cô đơn và cặm cụi làm việc một mình quanh năm. Chàng là hoạ sĩ chuyên vẽ chim và phong cảnh thiên nhiên. Vì nhiều lí do, chàng đã trốn lánh khỏi xã hội loài người. Người ta có thể tìm ra một vài trong số những lí do đó, trong những chuyến chàng xuống làng Chelmbury, nửa tháng một kỳ để mua thực phẩm, phơi bày tấm thân lệch và bộ mặt đen đúa của chàng dưới những cái nhìn soi mói của dân làng. Bởi vì chàng gù lưng và cánh tay trái có tật teo đi, cổ tay khoèo lại tựa như móng của loài chim.
Ít lâu sau dân làng dần quen với hình dáng kỳ quái của chàng, nhỏ nhung đầy sức lực, quen dần với chiếc đầu vững chắc, tóc đen, râu rậm hơi tụt xuống phía dưới chiếc gò bí hiểm mọc trên lưng chàng, quen dần với đôi mắt sáng ngời, cánh tay hình móng chim, và đối với họ chàng trở thành “anh chàng vẽ tranh kỳ quái sống ở hải đăng”.
Hình thù quái dị thường làm người có tật hận thù loài người. Nhưng Rhayader không hề thù hận! Chàng thương yêu tha thiết con người, mọi loài muông thú và cảnh vật thiên nhiên. Tâm hồn chàng tràn đầy lòng thương xót và sự cảm thông. Chàng đã làm chủ được điều bất hạnh, nhưng chàng không sao chế ngự nổi sự hắt hủi phải gánh chịu, sự hắt hủi gây ra bởi hình thù quái dị của chàng. Sự kiện dồn chàng đến thế ẩn dật là sự thất bại không tìm thấy nơi đâu sự đền đáp lại mối cảm tình nồng nàn từ nội tâm chàng tuôn trào ra. Phụ nữ lẩn tránh chàng. Còn đàn ông có thể đối tốt với chàng , nếu họ hiểu chàng. Nhưng chỉ nghĩ rằng người đó phải cố gắng mới hiểu được chàng cũng khiến chàng tủi hổ và cũng đủ để chàng lánh xa kẻ ấy.
Năm chàng đến vùng đồng lầy chàng đã hai mưoi bảy tuổi. Chàng đã đi du lịch khá nhiều nơi và đã chiến đấu một cách anh dũng trước khi đi đến quyết định rút lui ra khỏi cái thế giới mà chàng không có chỗ đứng như những người đàn ông khác. Ngoài sự nhạy cảm của người nghệ sĩ và sự hiền dịu đầy phụ nữ tính chứa chất trong lồng ngực căng phồng, chàng cũng đàn ông như ai.
 
Trong cuộc sống ẩn dật, chàng còn có chim chóc, hội hoạ và cánh thuyền buồm. Chàng có một chiếc thuyền dài mười sáu bộ, mà chàng sử dụng rất tài tình. Những lúc một mình, không bị ai dòm ngó xét nét, chàng điều khiển nó rất khéo léo bằng bàn tay có tật, chàng cũng thường vận dụng đến hai hàm răng vững chắc để điều chỉnh những cánh buồm bập bùng khi gặp cơn gió chướng.
Chàng thường thả thuyền dọc theo con lạch hay chạy ra khơi, mỗi lần chàng đi tới mấy ngày liền, tìm kiếm những loài chim mới để chụp ảnh hay vẽ phác và chàng cũng lưới được chim khá thiện nghệ để tăng thêm cho bầy hoang điểu mà chàng thu thập về nuôi trong chiếc chuồng dựng bên phòng vẽ vốn là trung tâm ở ẩn của chàng.
Chàng không hề bắn chim bao giờ và chàng không chịu cho những người săn chim lại gần khu vực chàng ở. Chàng là bạn thân của mọi loài chim hoang dã và chúng cũng đền đáp lại chàng bằng tình thân hữu.
Thuần thục trong khu vườn nhà chàng có giống ngỗng hoang hàng năm cứ đến tháng Mười lại từ miền Băng-đảo và từ quần đảo Spitbergen bay dọc duyên hải mà xuống, từng bầy lớp rợp trời và thinh không rào rào tiếng cánh vỗ mỗi khi chúng bay ngang - những con ngỗng thân lông nâu, chân mầu hồng, ngực lông trắng với những chiếc cổ lông đen và bộ mặt ngộ nghĩnh, những con hải âu lông trắng ngực có sọc đen và nhiều loại vịt trời, le le, mòng két, mòng đốc…
Vài con được xén lông cánh ở lại làm chim hiệu và mỗi đầu mùa đông chúng sẽ nhử những loài hoang điểu dừng cánh nơi đây là chỗ trú ẩn an toàn và sẽ có miếng ăn.
Hàng trăm con đã đến và ở với chàng suốt mùa đông lạnh buốt từ tháng Mười cho mãi tới đầu xuân, khi chúng lại di chuyển về phương Bắc, trở về đất tổ của chúng, gần bên những vòm băng đá.
Rhayader thấy mãn nguyện khi biết rằng dù cho bão táp có dập vùi, sự lạnh buốt có nghiệt ngã và mồi ăn có khan hiếm hay những cây súng lớn mũi nhọn của những người thợ săn đeo túi đựng thú ở xa có nổ, thì những con chim của chàng vẫn bình an - những con chim mà chàng đã tụ tập vào nơi an toàn dưới sự bảo trợ của đôi cánh tay và con tim chàng, những con chim hoang dã hiểu biết và đã đặt lòng tin cậy nơi chàng.
Vào xuân chúng sẽ đáp lại tiếng gọi của quê hương miền bắc, nhưng sang thu chúng sẽ trở lại, trở lại kêu la rối rít, tru tréo om sòm, huyên náo cả vòm trời thu muộn, lượn quanh ngọn hải đăng xưa cũ rồi cùng hạ cánh xuống gần đấy để lại đóng vai khách quý của chàng - những con chim mà chàng còn nhớ rõ là đã nuôi chúng từ năm trước.
Và điều này khiến Rhayader sung sướng, bởi vì chàng biết rằng ẩn bên trong chúng có mầm mống tri giác về sự có mặt và nơi ẩn náu an toàn của chàng, rằng sự tri giác này đã tham dự vào cuộc đời chúng để mỗi khi bầu trời trở xám và gió bấc thổi lộng chúng sẽ tìm lại với chàng không hề lầm lẫn.
Ngoài ra chàng để hết tâm trí vào việc vẽ lại cảnh vật nơi chàng đang sống cùng những sinh vật trong miền. Không có nhiều tranh của Rhayader ngoài thị trường. Chàng say sưa giữ lại, chồng chất chúng trong hải đăng, và xếp đống ở những tầng trên có tới hàng trăm bức. Chàng không hài lòng về chúng, vì người nghệ sĩ vốn không mấy khi mãn nguyện về những gì mình sáng tạo.
Nhưng vài bức đến tay người thưởng ngoạn đều là những kiệt tác, tràn ngập nguồn sáng và màu sắc từ mặt nước loáng lên, từ những cánh chim bay rung động toả xuống, từ sự gắng gỏi mãnh liệt của những cánh chim bay ngược luồng gió sớm mai đang thổi rạp những ngọn lau lớn xuống. Chàng diễn tả vẻ cô tịch và bầu khí lạnh đượm vị muối, sự vĩnh cửu, vẻ thiên thu của cánh đồng lầy, những sinh vật hoang dã, những đàn chim bay trong bình minh, hoặc thảng thốt vút lên bầu trời và những bóng chim xoải cánh bay trong đêm lẩn trốn ánh trăng.
Vào một buổi chiều tháng Một, ba năm sau khi Rhayader đến ở vùng Đồng lầy, có một cô bé lại gần phòng vẽ trong hải đăng, qua lối bờ đê. Hai tay cô ôm khư khư một gói nặng.
Cô bé trạc mười hai tuổi, mảnh mai, lem luốc, lo lắng và nhút nhát như một con chim, nhưng dưới vẻ lọ lem ấy cô ta đẹp kỳ lạ như một nàng tiên của vùng Đồng lầy. Cô là giống người Saxon thuần túy, to xương, da trắng mịn, với một chiếc đầu còn lớn hơn so với thân hình và đôi mắt thăm thẳm màu tím sẫm.
Cô bé vô cùng khiếp sợ người đàn ông xấu xí mà cô phải đến gặp, vì một huyền thoại về Rhayader đã bắt đầu hình thành, và những người thổ dân ưa săn bắn đâm ra thù ghét chàng vì chàng đã cản trở môn thể thao ưa thích của họ.
Nhưng vượt trên nỗi sợ hãi ấy là tình cảnh nguy khốn của sinh vật mà em đang ấp ủ trên tay. Trong trái tim bé nhỏ của em, đã gắn sâu sự hiểu biết, nhờ nghe người ta đồn đãi quanh vùng, rằng con ngáo ộp sống trong hải đăng có bùa phép chữa lành những thú vật bị thương.
Trước đó chưa bao giờ cô bé nhìn thấy Rhayader và cô suýt hoảng hốt bỏ chạy trước bóng dáng chàng xuất hiện nơi khung cửa phòng vẽ, khi nghe tiếng chân người lại gần - một sự hiện hình dễ sợ với chiếc đầu bù xù và bộ râu đen, chiếc lưng gù buồn thảm và cánh tay khoèo hình móng chim.
Cô bé đứng sững lại, nhướng mắt nhìn chằm chặp hơi sẵng như một con chim nhút nhát dưới đồng lầy sẵn sàng cất cánh bay xa.
Nhưng khi chàng lên tiếng, giọng chàng thật trầm và thân thiện :
“Có chuyện gì đấy em?”
Cô bé vẫn không bớt sợ hãi, rụt rè bước tới. Vật mà cô bé ôm trong cánh tay là một con chim lớn màu trắng, con vật nằm bất động. Có những vệt máu trên bộ lông trắng và trên chiếc áo của cô bé nơi mảnh vải dùng để lót con chim.
Cô bé đặt con chim vào đôi cánh tay chàng.
“Thưa ông, em bắt gặp nó, nó bị thương. Nó còn sống, phải không ông?”
“Đúng. Đúng đấy, tôi cũng nghĩ vậy. vào đây, vào đây em”.
Rhayder mang con chim vào trong nhà, đặt nó lên bàn, và con vật yếu đuối cựa mình. Tính tò mò lước thắng sự sợ hãi, cô bé vào theo và thấy mình ấm hẳn lên trong căn phòng có ngọn lửa than đốt để sưởi, căn phòng sáng rực lên dưới những bức tranh màu treo la liệt trên tường, và tràn ngập một mùi hương là lạ nhưng dễ chịu.
Con chim vẫy cánh. Với bàn tay lành lặn, Rhayader trải rộng một trong hai chiếc cánh trắng lớn ra. Bầu cánh có đốm đen rất đẹp.
Rhayader trầm trồ ngắm nghía và hỏi :
“Này em! Em thấy nó ở đâu đấy?”
“Ở trong đồng lầy, ông ạ, nơi những tay thợ săn đi qua. Loại chim gì ông nhỉ?”
“Loại ngỗng trốn tuyết gốc Canada. Mà tại sao nên nông nỗi này?”
Tên con chim hình như chẳng có ý nghĩa gì đối với cô gái bé nhỏ. Đôi mắt thăm thẳm màu tím sẫm sáng lên làm át cả vẻ lem luốc của khuôn mặt gầy đét, chăm chú nhìn con vật bị thương đầy vẻ lo âu.
Cô bé hỏi :
“Liệu ông có chữa cho nó lành được không?”
“Được, được chứ”, Rhayader đáp. “Chúng ta thử xem sao. Lại đây, em giúp tôi một tay nhé”.
Trên chiếc kệ có sẵn kéo, băng và nẹp gỗ để tháp xương bị gãy, và mặc dù có tật, chàng khéo tay lạ thường, ngay cả cánh tay khoèo hình móng chim cũng vậy, cầm vật dụng rất tài.
Chàng nói : “Tội nghiệp, cô ả bị đạn bắn trúng đây. Cẳng bị gãy rồi, đầu cánh cũng vậy, nhưng không đến nỗi nặng lắm. Xem nào, mình phải xén lông cánh mới băng bó được, nhưng sang xuân rồi lông cánh sẽ mọc lại và cô ả sẽ lại bay được. Mình sẽ cột chặt cánh vào thân, và như vậy cô ta sẽ không cựa quậy đôi cánh được cho tới khi lành hẳn. Kế đó mình sẽ bó chỗ chân cô ả bị đau”.
Cô bé quên cả sợ, say sưa theo dõi việc làm của chàng, một phần cũng vì chàng vừa bó chiếc chân chim gãy vừa kể cho cô nghe một câu chuyện kỳ diệu.


Con chim còn non, chưa tròn một tuổi. Nó sinh ra ở đất bắc xa xôi, cách mấy trùng biển cả trên một lãnh địa thuộc vương quốc Anh Cát Lợi. Nó bay về phương nam để trốn tuyết, trốn băng giá, trốn làn khí lạnh rợn người, một cơn bão lớn đã vồ lấy nó, đã cuốn nó vào những đợt cuồng phong. Một trận bão thật kinh khủng, mạnh gấp bội đôi cánh lớn của nó, và mạnh hơn bất cứ sức mạnh nào. Ròng rã nhiều đêm và nhiều ngày, trận bão đã xua đuổi nó, không ngừng nghỉ và con chim mắc kẹt không thể làm được gì hơn là nương bay theo luồng gió cuốn. Sau cùng cơn bão tan dần và bản năng tinh tường lại dẫn nó bay theo về hướng nam, nó đã tới một miền đất xa lạ và quanh nó toàn giống chim lạ mà trước đó nó chưa hề thấy. Sau cùng, mệt lả vì đuối sức, nó sà xuống nghỉ trên cánh đồng xanh thân thuộc để rồi được viên đạn của người đi săn tiếp đón.
“Một lối tiếp rước tàn nhẫn đối với một vị công chúa từ nơi xa tới viếng thăm”, Rhayader kết luận. “Mình sẽ gọi cô ta bằng biệu hiệu “La Prrincesse Perdue” – Nàng công chúa lạc loài. Rồi chỉ ít ngày sau nàng sẽ khá hẳn đó. Coi nào!” Chàng thọc tay vào túi lấy ra một nắm hạt. Con ngỗng trốn tuyết mở tròn đôi mắt ra và bắt đầu rỉa mồi.
Cô bé cất tiếng cười thích thú, rồi bỗng nín thở khi chợt nhận ra nơi chốn cô ta đang ở, và không nói nửa lời cô bé quay mình chạy vọt ra khỏi cửa.
“Đợi chút, đợi một chút!” Rhayader la lên và chạy theo ra cửa. Chàng đứng lại nơi ngưỡng cửa và khuôn cửa đóng khung lấy hình thù dềnh dàng của chàng. Cô bé đã thoát ra tới bờ đê ven biển rồi, nhưng nghe tiếng gọi thì dừng lại.
“Này em, em tên là gì nhỉ?”
“Frith”.
“Hả?” Rhayader hỏi. “Tôi chắc là Fritha mới đúng. Thế em ở đâu?”
“Với dân chài dưới bến Wickaeldroth”. Cô bé đọc tên ấy bằng giọng Saxon thật xưa.
“Mai hay mốt em có lại thăm sức khoẻ nàng Công chúa hay không?”
Cô bé không trả lời ngay khiến Rhayader lại liên tưởng đến những con chim hoang dưới đầm lầy khi hoảng sợ thường bất động trong khoảng một phần mười giây trước khi vỗ cánh bay xa.
 
Nhưng giọng nói trong trẻo mà yếu ớt của cô bé lại vọng tới chàng : “Có chứ!”
Và rồi cô bé bỏ chạy, mái tóc hung vàng tha thướt tung bay trước gió.
Con ngỗng trốn tuyết bình phục mau lẹ, khoảng giữa mùa đông nó đã tập tễnh đi trong khu đất có hàng rào, hay nhập bọn với những con ngỗng hoang chân hồng, chứ không đi với bọn lông nâu, và nó cũng biết chạy lại tìm ăn mỗi khi Rhayader lên tiếng gọi. Và cô bé, Fritha, hay Frith, là người khách thường xuyên lui tới. Cô bé không còn sợ hãi Rhayader nữa. Trí tưởng tượng của cô bị thu hút bởi sự hiện diện của nàng công chúa áo trắng kỳ ngộ đến từ miền đất lạ cách mấy trùng dương, miền đất toàn màu hồng trên tấm bản đồ mà Rhayader đã chỉ cho em xem, trên đó hai người dựng lại cuộc hành trình vất vả mà cánh chim lạc lõng trong cơn gió bão đã vượt quakể từ khi rời quê hương trên đất Canada để đến miền Đồng lầy rộng lớn trên duyên hải Essex.
Rồi một buổi sáng tháng Sáu một bầy ngỗng chân hồng cuối cùng, no nê, mập mạp sau suốt mùa đông ở hải đăng, nghe theo tiếng gọi thôi thúc của miền đất xanh tươi, uể oải bay lên theo vòng trôn ốc mỗi lúc một rộng. Lẫn trong đàn chim đó, rực sáng trong ánh nắng xuân tươi, là thân lông trắng tuyền với hai đầu cánh lớn đốm đen của con chim trốn tuyết. Sự việc xảy ra vào lúc Frith có mặt ở hải đăng. Tiếng kêu của cô bé khiến Rhayader từ trong phòng vẽ nhảy bổ ra.
“Coi kìa! Coi kìa! Nàng công chúa! Bộ nàng cũng bỏ đi hay sao?”
Rhayader ngước nhìn lên trời dõi theo những chấm đen di chuyển. “Chà!” chàng nói, bất giác dập theo lời cô bé. “Nàng công chúa hồi hương! Lắng tai mà nghe, nàng đang từ giã chúng ta đó!”.
Từ trên vòm trời trong vắt vọng xuống tiếng kêu ai oán của những con ngỗng chân hồng, và nổi bật lên trên, cao hơn, trong hơn, là tiếng của con chim trốn tuyết. Những chấm đen di chuyển theo hướng Bắc, kết thành hình chữ V nhỏ dần, rồi mất hút.
Từ bữa con chim trốn tuyết ra đi, Frith không lui tới vọng hải đăng nữa.
Rhayader lại một lần nữa thấm thía ý nghĩa của hai chữ “cô đơn”.
Mùa hè năm ấy, moi trong ký ức, chàng vẽ lại hình dáng thanh thanh của cô bé, mặt lem luốc, mái tóc hung vàng bồng bềnh trong gió lộng tháng chín, trong tay ghì chặt con chim trắng bị thương.
Vào giữa tháng mười, có một chuyện lạ xảy ra. Lúc đó Rhayader đang đứng trong khu đất có hàng rào cho chim ăn. Gió đông bắc gây gấy lạnh và mặt đất rầm rì dưới làn nước thuỷ triều dâng. Vượt lên trên tiếng sóng biển và tiếng gió rì rào, chàng chợt nghe, có tiếng kêu lanh lảnh, cao vút. Chàng ngước mắt nhìn lên vòm trời chiều vừa đúng lúc để trước hết thấy một chấm đen nhỏ xíu, rồi thấy ảo ảnh một giấc mơ đen trắng chập chờn xuất hiện, nó lượn quanh hải đăng một vòng, rồi, sau chót, một cánh chim thực hạ cánh xuống đất ngay chỗ chuồng chim rồi đường bệ tiến lên đòi ăn như thể nó chưa hề bỏ đi xa bao giờ. Đó chính là con chim trốn tuyết, không thể nào lầm lẫn được. Nó đã đi đâu? Chắc chắn là không thể bay về tổ nó bên Canada. Không, chắc chắn là nó đi nghỉ hè ở Greenland hay Spitzbergen với những con ngỗng chân hồng. Nó đã nhớ và đã trở lại.
Kỳ tới xuống thôn Chelmbury mua lương thực, chàng nhờ cô trưởng trạm bưu điện nhắn tin giùm và điều đó đã khiến cô ta ngạc nhiên không ít. Chàng nói : “Phiền cô làm ơn nói lại với Frith, cô bé ở dưới xóm chài Wickaeldroth, rằng Nàng công chúa đi lạc đã trở lại”.
Ba hôm sau, Frith, to lớn hơn, nhưng áo quần vẫn xốc xếch, tóc rối, bẽn lẽn tìm đến hải đăng để thăm nàng công chúa.
Thời gian trôi qua. Trên vùng đồng lầy, bước đi của thời gian được đánh dấu bởi sự lên xuống của nước thủy triều, nhịp đi chầm chậm của bốn mùa, sự di chuyển của chim muông, và, riêng đối với Rhayader, sự đến và đi của con chim trốn tuyết.
Thế giới bên ngoài xao động, bùng sôi và gầm gừ dưới áp lực của một mãnh lực nào đấy, không bao lâu sau đã bùng nổ và đưa thế giới đến bên bờ sự hủy diệt. Nhưng mãi tới lúc đó, Rhayader vẫn chưa chịu ảnh hưởng của thời cuộc, và cả Frith cũng thế. Ngay cả khi cô bé đã khôn lớn, hai người vẫn hoà hợp tự nhiên một cách lạ thường. Khi con chim trốn tuyết có mặt tại hải đăng thì chính cô bé cũng lại lui tới để thăm viếng và học hỏi Rhayader được nhiều điều. Hai người ra biển chơi trên chiếc thuyền buồm chạy nhanh mà chàng điều khiển rất tài tình. Họ lưới chim hoang để tăng thêm cố chim đang nuôi, và dựng thêm hàng rào, mở thêm sân che chở cho chúng. Nhờ chàng, cô bé học hỏi được nhiều điều về đủ loại dã điểu, từ loài hải âu tới giống chim ưng bay lượn trên vùng đồng lầy. Thỉnh thoảng cô bé nấu ăn cho chàng và đôi khi cô còn tập pha sơn vẽ nữa.
Nhưng hễ con chim trốn tuyết bay về vùng cư ngụ mùa hè thì mọi chuyện lại xảy ra như thể có một hàng rào ngăn cách giữa hai người và cô gái không lui tới hải đăng nữa. Có một năm con chim không trở lại và Rhayader buồn khôn tả xiết. Chàng như có cảm tưởng mọi sự đã hết trong đời chàng. Chàng vẽ như điên suốt mùa đông và mùa hè sau đó, và không hề gặp mặt cô bé một lần nào. Nhưng vào thu, tiếng kêu thân thuộc lại vang trên thinh không, và cánh chim trắng khổng lồ, bây giờ đã lớn hết cỡ, từ trời cao hạ xuống cũng bí mật như lúc nó ra đi. Mừng rỡ, Rhayader dong thuyền xuống Chelmbury để nhờ cô trưởng trạm bưu điện nhắn tin giùm.
Lạ thay, lần này sau khi nhắn tin phải đợi tới hơn một tháng trời Frith mới xuất hiện và Rhayader kinh ngạc đến sững người khi nhận thấy cô ta không còn là một cô bé nữa.
Và sau cái năm con chim không tới ấy, thời hạn nó vắng mặt càng lúc càng thu ngắn lại. Nó đã trở nên dạn dĩ đến nỗi lúc nào nó cũng quấn quít theo Rhayader và nó dám vào cả trong phòng vẽ những lúc chàng đang làm việc.
Mùa xuân năm 1940 bầy di điểu rời khỏi vùng đồng lầy sớm hơn thường lệ. Thế giới đã lâm chiến. Tiếng gầm rú của máy bay phóng pháo và tiếng nổ ì ầm của bom đạn làm chúng khiếp đảm. Hôm mồng một tháng năm, Frith và Rhayader đứng vai kề vai bên bờ đê ven biển theo dõi những đốm cánh cuối cùng của đán ngỗng chân hồng cánh không bị xén và những con ngỗng hoang lông nâu cất cánh bay lên từ nơi chúng trú ẩn. Cô gái thì cao, dáng thanh tú, thảnh thơi như gió thoảng, vẻ đẹp mê hồn. Chàng thì đen đúa, thô kệch, cái đầu râu tóc bù xù ngước nhìn lên trời, đôi mắt đen lóng lánh theo dõi đàn chim bay thành hàng.
“Coi kìa, Philip”, Frith gọi.
Rhayader nhìn theo hướng mắt của cô gái. Con chim trốn tuyết đã cất cánh, đôi cánh lớn xoè ra, nhưng nó bay thấp và có lúc bay sát chỗ hai người đứng, sát đến nỗi hai đầu cánh đen gần như quệt vào người họ, và họ cảm thấy luồng gió mạnh của lớp cánh chim tạt vào người. Một lần, rồi hai lần, con chim lượn quanh hải đăng, rồi hạ cánh trong sân, nơi có những con ngỗng bị xén lông cánh còn ở lại, và bắt đầu nhặt mồi ăn thong thả.
“Nó không đi nữa”, Frith nói, đầy vẻ kinh ngạc trong giọng cô gái. Cánh chim trong lúc bay sà xuống sát bên cô dường như đã đem đến cho cô một niềm phấn khởi kỳ diệu “Nàng Công Chúa sẽ ở lại”.
“Phải”, Rhayader đáp, và giọng nói của chàng run lên vì cảm động. “Nàng sẽ ở lại, Nàng sẽ không đi nữa. Nàng Công Chúa đi lạc sẽ không còn đi lạc nữa. Từ nay nơi đây là quê hương của nàng- quê hương do nàng tự ý chọn lựa”.
Sức quyến rũ mà cánh chim vấn chung quanh cô gái bị rạn vỡ và Frith bỗng ý thức được sự kiện là cô bị kinh hoàng, và nguyên nhân gây nên sự sợ hãi ấy chính là đôi mắt Rhayader - sự van lơn cầu khẩn, nỗi cô đơn và tất cả những gì thầm kín, sâu xa, sôi động đều tiềm ẩn bên trong và bên trên tia mắt ấy, lúc chàng ngước nhìn cô.
Những lời chàng vừa nói cứ lập lại trong đầu cô gái tựa như chính chàng vừa nhắc lại : “Từ nay nơi đây là quê hương của cô – cô tự ý chọn lựa”. Bản năng hền dịu của Frith đã làm Rhayader xao xuyến và làm cho cô hiểu được những ý nghĩ thầm kín mà vì mặc cảm tật nguyền, xấu xí, chàng đã không thể nói được nên lời. Và vì lời nói của chàng có sức phủ dụ, cô lại càng thêm hoảng sợ trước sự yên lặng cùng mãnh lực của những gì không nói ra giữa hai người. Bản năng đàn bà trong cô như thôi thúc cô bỏ chạy trước một sự việc nào đó mà cô chưa đủ khả năng hiểu thấu.
Frith lắp bắp : “Em – em phải về. Thôi chào ông. Em cũng vui là – là nàng công chúa sẽ ở lại. Từ đây ông không cô đơn lắm nữa”.
Cô gái quay lưng, thoăn thoắt bước đi và chỉ thoáng nghe thấy lời chào buồn thảm “Chào em, Frith”, mơ hồ như tiếng ma, lạc trong tiếng gió thổi rì rào trên đồng cỏ hoang. Đi được một thôi dài rồi cô mới dám liếc mắt nhìn trở lại phía sau. Chàng vẫn đứng trên bờ đê, một chấm đen nhỏ in trên nền trời bao la.
Cơn sợ hãi bấy giờ mới tan. Nó nhường chỗ cho một cái gì khác, một cảm giác mất mát là lạ, cảm giác đó mạnh đến nỗi khiến cô đứng sững lại hồi lâu. Rồi, bước đi chậm chạp hơn, cô tiếp tục rời xa dần ngọn hải đăng mọc chĩa lên nền trời như một ngón tay, tiếp tục rời xa dần người đàn ông đứng ở phía dưới.


Sau đó có đến ba tuần Frith mới trở lại hải đăng. Tháng Năm đã gần hết, và ngày hôm đó, ngày cũng dần tàn, vào lúc hoàng hôn đang nhường dần chỗ cho màu trắng bạc của vầng trăng đã treo lơ lửng trên vòm trời phía đông.
Cô gái tự nhủ, trong lúc tiến bước, rằng cô cần phải tới xem con chim trốn tuyết có còn ở lại đúng như lời Rhayader đã nói hay không. Rất có thể là rốt cuộc nó đã bay đi. Những bước đi vững chắc của cô trên mặt đê thật là hăng hái và đôi lúc bất giác cô chợt nhận ra mình đang rảo bước đi mau.
Frith nhìn thấy ánh lửa vàng của chiếc đèn lồng ở dưới bến riêng của Rhayader và cô xuống gặp chàng dưới đó. Chiếc thuyền buồm của chàng nhè nhẹ đung đưa trên ngọn nước triều dâng và chàng đang chất lương thực lên thuyền - nước ngọt, thức ăn khô, mấy chai rượu mạnh, đồ dùng trên thuyền và một cánh buồm phòng hờ. Khi chàng quay lại vì nghe tiếng chân cô đến gần, cô thấy vẻ mặt chàng tái nhợt, nhưng đôi mắt đen lúc bình thường vốn rất ư dịu dàng, đang sáng ngời lên vì cảm kích, và chàng thở hào hển vì mệt nhọc.
Frith bỗng nhiên cảm thấy lo sợ. Con chim trốn tuyết bị lãng quên rồi.
"Philip! Bộ anh dọn đi nơi khác à?”
Rhayader ngừng tay để chào đón cô gái, và trên gương mặt chàng thoáng hiện một vẻ gì khác thường - một sắc diện hớn hở mà trước đó cô chưa từng thấy bao giờ.
“Frith! Tôi mừng vì em đến đúng lúc. Vâng, tôi phải đi. Một chuyến đi ngắn ngủi. Rồi tôi sẽ trở về”. Giọng nói của chàng thường nhật dịu dàng, bữa nay trở nên khàn khàn vì chàng đã cố gắng rõ rệt để chế ngự cơn xúc động trong nội tâm.
Frith hỏi : “Anh phải đi dâu chứ?”
Rhayader vồn vã kể . Chàng phải đi Dunkerque.
Cách chừng một trăm dặm bên kia bờ biển phía Bắc, một đạo binh Anh mắc bẫy ở đó, trên bãi cát, đang chờ bị tiêu diệt bởi bàn tay quân Đức đang tiến tới. Hải cảng ngùn ngụt bốc cháy, tình cảnh thật tuyệt vọng. Chàng nghe được tin ấy khi chàng xuống dưới làng mua lương thực. Nhiều người đã đáp lại lời kêu gọi của chính phủ rời bến Chelmbury với đủ thứ tàu : tàu kéo hàng, tàu đánh cá hay xuồng máy, miễn là máy còn chạy nổi đều được kéo ra khỏi cảng, vượt eo biển để lôi binh sĩ ra khỏi bãi biển, chở họ đến những tàu vận tải hay những chiến hạm lớn không vào được chỗ đó. Dân chúng cố gắng cứu sống càng nhiều càng hay số binh sĩ Anh thoát khỏi làn mưa đạn của quân Đức.
Frith lắng nghe và cảm thấy lòng mình buồn như muốn chết. Chàng cho biết là chàng sẽ vượt qua eo biển trên chiếc thuyền buồm nhỏ của chàng. Nó có thể chở được sáu người mỗi chuyến, nếu cần thì bảy người. Chàng có thể chở nhiều chuyến từ bãi biển ra tàu vận tải đậu ngoài khơi.
Cô gái còn trẻ, chất phác, vụng dại. Em chưa hiểu gì về chiến tranh, hoặc về những gì đang xảy ra trên đất Pháp, hoặc về ý nghĩa sự mắc bẫy của đoàn quân Anh, nhưng do linh tính cô gái cũng biết ở nơi xa xôi đó thật nguy hiểm.
“Philip! Anh đi thật sao? Anh sẽ không về được đâu. Mà sao anh lại phải đi?”
Cơn hăng say đang bồng bột trong tâm hồn chàng tưởng chừng tan biến trước đợt đầu tiên của những câu nói và chàng cố giải thích bằng những lời lẽ mà cô gái có thể hiểu được.
Chàng nói : “Binh sĩ bị lùa ra bãi biển giống như những con chim bị săn đuổi, Frith ạ, như những con chim bị săn và bị thương mà chúng mình vẫn thường bắt gặp và đưa về nơi trú ẩn. Bay lượn trên họ là một bầy chim bằng thép, những con diều hâu, chim ưng, kên kên, và họ chẳng biết nấp vào đâu để tránh những con chim sắt săn mồi ấy. Họ bị thua, bị bão táp dồn đuổi, bị đe doạ như nàng công chúa đi lạc mà em đã bắt gặp trong đầm lầy và mang đến cho tôi nhiều năm trước, và chúng ta đã cùng lo chạy chữa. Cũng như bầy hoang điểu của chúng ta, những người lính đó cần được giúp đỡ, em ạ. Và vì thế mà tôi phải đi, đó là điều mà tôi có thể làm được. Đúng, tôi làm được mà. Ít ra là một lần - phải, ít ra là một lần tôi có dịp chứng tỏ mình là đàn ông và có thể đảm nhận trách nhiệm của mình”.
Frith nhìn Rhayader trừng trừng. Chàng như đã hoá thân. Lần đầu tiên cô gái thấy chàng không còn xấu xí, tật nguyền nữa, trái lại chàng rất đẹp. Trong tâm hồn cô cũng sôi sục bao nhiêu điều muốn được nói nên lời, nhưng cô không biết nói thế nào.
“Philip! Em sẽ đi cùng với anh!”
Rhayader lắc đầu : “Em đi thì con thuyền sẽ mất bớt một chỗ, do đó một người lính sẽ bị bỏ lại, rồi một người nữa, và một người nữa. Anh phải đi một mình, em ạ”.
Chàng mặc áo mưa, đi giày ống cao su và dong thuyền chạy. Chàng giơ tay vẫy gọi với lại : “Tạm biệt nhé! Nhờ em săn sóc giùm lũ chim đến lúc anh về nghe Frith!”
Frith đưa tay lên, nhưng chỉ tới lưng chừng thôi, vẫy lại : “Cầu xin Chúa che chở cho anh”, rồi cô vội giải thích ngay bằng thổ ngữ Saxon. “Em sẽ săn sóc đàn chim. Cầu trời che chở cho anh, Philip.”
Lúc đó đã vào đêm, trời sáng dưới ánh sao, vừng trăng lưỡi liềm cùng ánh lửa cháy hồng từ phương bắc. Frith đứng trên bờ đê, ngó theo cánh buồm trắng trên con lạch ngập nước triều dâng. Bỗng nhiên từ vùng bóng tối phía sau cô gái, có tiếng cánh bay rào rào và có một vật gì đó bay ngang qua sát bên cô. Trong ánh sao đêm cô thoáng thấy đôi cánh trắng loé sáng, đầu cánh có đốm đen, và cái đầu chúi về phía trước của con chim trốn tuyết.
Nó bay lên và lượn một vòng quanh ngọn tháp để rồi bay xuôi theo hướng con lạch quanh co trên hồ và cánh buồm của Rhayader đang lướt nhanh dưới làn gió lộng. Con chim bay chầm chậm phía trên con thuyền theo hình vòng tròn rộng.
Còn nhìn thấy cánh buồm trắng và cánh chim trắng trong một hồi lâu.
“Hãy trông chừng chàng, hãy che chở cho chàng”, Frith thì thào. Lúc cả hai cùng khuất bóng, cô gái quay lưng và uể oải cất bước, đầu cúi thấp, đi về hải đăng trống vắng.
Đến đây câu chuyện được chắp nhặt đây đó, và một trong những mẩu chuyện vụn vặt đó được thuật lại do lời nhũng người lính đi phép trong quán Crown and Arrow, một quán rượu gần thánh đường East Chapel.
“Một con ngỗng, một con ngỗng tuyệt đẹp đã cứu tôi”, anh binh nhì Potton thuộc Ngự Đoàn bộ binh thành Luân Đôn nói.
“Xì”, người lính pháo thủ có đầu gối cong, tỏ vẻ không tin.
“Đúng là một con ngỗng, tôi chắc mà. Này Jock, cậu cũng trông thấy nó như tôi, đúng không? Nó bay xuống từ đám khói mịt mù, nồng khét của chiến trường Dunkirk (Dunkerque), lơ lửng trên đầu bọn này. Lông nó trắng, đầu cánh có đốm đen, và nó lượn xung quanh bọn này như một phi cơ phóng pháo mắc dịch nọ. Jock thấy thế mới nói : “Tiêu rồi, Thần chết đến tìm bọn mình đó.”
 
“Bậy nào”, tôi cãi, “đây là con ngỗng lông hồng, từ quê hương mình bay sang mang theo thông điệp của ông Churchill, ông ta muốn biết tụi mình đang thưởng thức cái thú tắm mát này ra làm sao. Đây là một điềm báo, đúng mà, dù là điềm báo đầy máu. Rồi thế nào bọn mình cũng thoát mà, bạn ơi.”
“Tụi mình đang bị nướng chín trên bãi biển nằm giữa Dunkirk và Lapanny, giống như một xâu chim câu óng chuốt bên bờ hồ Victoria, đang chờ lão đồ tể Jerry(10) đến vặt lông làm thịt. Chắc chắn hắn sẽ ăn sống nuốt tươi bọn mình. Hắn theo bén gót mình, thúc cạnh sườn mình và ngay trên đầu mình. Hắn sẽ cho mình một phát đạn ghém và tặng mình tước vị , và từ trên vòm trời trong sáng lũ quỷ Jittersmiths(11) sẽ rắc tiêu lên đầu mình”.
Và ngoài khơi có chiếc Kentish Maid, chiếc tàu chở du khách mà tôi đã đáp nhiều chuyến đi Margate(12) trong dịp hè, giá vé hai đồng sáu hào, đang chờ đón tụi tôi, nó đậu chỉ cách chỗ bãi biển đang lâm chiến chừng nửa dặm đường.
Trong lúc tụi tôi nằm trên bãi biển thì chỉ còn biết chửi thề thôi vì không có cách nào ra được chỗ tàu đậu, một chiếc Stuka(13) nhào xuống con tàu, một chuỗi bom rơi dọc bên hông tàu, khiếnnước tung lên trông như những vòi nước vọt trong vườn hoa các dinh thự, có điều là ở vườn hoa thì các vòi nước phun lên đều đều.
Rồi một chiếc khu trục hạm ló ra bảo chiếc Stuka : “Đừng có làm thế”, bằng những tiếng nổ lạch tạch, đùng đùng, nhưng một chiếc Jerry khác lại nhào xuống chiếc khu trục hạm và ném bom trúng. Khiếp! Nó nhảy tưng lên! Nó bốc cháy trước khi chìm, rồi khói, mùi khét lẹt tạt vào tận bãi biển, khói vàng, khói đen, và trong đám khói ấy xuất hiện con ngỗng sáng rực, nó lượn quanh chúng tôi đang nằm mắc kẹt trên bờ biển.
Thế rồi, từ một khúc biển uốn quanh xuất hiện một chiếc thuyền nhỏ vấy máu, chạy thật thanh thản tựa như một chiếc du thuyền rực rỡ nhàn nhã rong chơi vào một buổi chiều chủ nhật trên hồ Henlye.
“Ai đó?” một người thường dân hỏi.
“Tôi đây! Tôi đến để cứu các anh đây”. Con thuyền đã vô sự vượt qua làn mưa đạn súng liên thanh từ một chiếc máy bay trong phi đội phóng pháo Đức dội xuống - trước đó nửa giờ một chiếc thuyền gắn máy ở Ramsgate đã cố vào chuyển chúng tôi đi và đã bị bắn chìm - mặt nước ngầu lên vì vết đạn cày, nhưng gã lái thuyền như không lưu ý tới, chắc chắn là gã không thèm lưu ý tới. Làm gì có xăng nhớt mà sợ bị máy bay phát nổ, và cứ thế nó len lỏi qua những mũi đạn chúc xuống rào rào.
Từ trong làn khói đen của chiếc tàu bốc cháy rẽ vào chỗ cạn, có một anh chàng nhỏ thó, đen đúa, có râu, một bên cánh tay có tật giống như chiếc móng chim, và một cục bướu trên lưng.
Gã gù cắn chặt sợi dây giữa hai hàm răng, sợi dây trắng bóng giữa bộ râu đen rậm, ngồi đằng đuôi lái gã vẫy chúng tôi lại. Và ngay trên đầu là cánh chim lực lưỡng lượn qua lượn lại.
Thấy thế Jock nói : “Coi kìa, điên thật rồi. Đúng là loài quỷ dữ đến rước mình đi. Chẳng thà trúng đạn chết mất ngáp còn hơn là trông thấy nó”.
“Bậy nào”, tôi cãi, “tôi thấy hắn ta giống ông Thiện chứ không phải loài quỷ dữ”.
Mà thật thế trông hắn ta giống những bức hình in trong những cuốn sách giáo lý với khuôn mặt trắng, và ngay cả con thuyền quái quỉ của hắn nữa.
“Tôi có đủ chỗ cho bảy người mỗi chuyến”, hắn hô lên khi chiếc thuyền ghé lại gần.
Vị sĩ quan chỉ huy chúng tôi đáp : “Anh can đảm lắm! … Bảy cậu gần thuyền nhất, lên đi!”
Chúng tôi lội ùa ra tới bên thuyền hắn. Tôi mệt đến nỗi không leo lên được cạnh thuyền, nhưng hắn nắm lấy gáy áo tôi mà lôi lên, miệng nói : “Ráng lên nào, anh bạn”, rồi người kế tiếp leo lên.
Thế là tôi lên được. Chà, hắn mới khoẻ làm sao chứ. Rồi hắn kéo buồm lên, một cánh buồm lỗ chỗ đạn súng máy giống như chiếc sàng sảy lúa, và hắn hô ta : “Ngồi cả xuống lòng thuyền, mấy chú, phòng trường hợp dọc đường có gặp thêm đồng đội của mấy chú chăng”, và rồi chúng tôi rời khỏi bờ, hắn ngồi đằng sau lái, răng cắn chặt sợi dây thừng, chiếc tay khoèo hình móng chim nắm giữ một sợi khác, tay phải bẻ lái và rồi con thuyền lướt sóng ra khơi, chạy len lỏi giữa những viên đạn làm tung toé nước, từ một ổ súng đặt ở một nơi nào đó trong bờ biển bắn ra. Và cánh ngỗng lực lưỡng lượn đi lượn lại, kêu quàng quạc át cả tiếng gió và tiếng huyên náo mà quân Đức đang tạo nên, giống như ngày đại hội khiêu vũ hoá trang trên đường phố thành Winchester.
Tôi đã bảo anh rằng con ngỗng kia là điềm lành mà”, tôi nói với thằng Jock.
“Nhìn hắn mà xem, hắn là ông Thiện tới cứu mình mà”.
Hắn ngồi ở chỗ tay lái, ngước nhìn lên cánh ngỗng, răng cắn chặt sợi dây thừng, và mỉm cười với con ngỗng như đã từng quen biết nó từ lâu.
Hắn đem chúng tôi ra tới tàu Kentish Maid rồi lại quay thuyền đi chở chuyến khác. Suốt buổi chiều và luôn cả đêm hôm đó nữa hắn chở được rất nhiều chuyến, vì cả vùng trời Dukirk cháy sáng rực nên có thể nhìn thấy rõ như ban ngày. Tôi không rõ hắn đi được bao nhiêu chuyến, nhưng hắn và chiếc du thuyền có gắn máy hảo hạng của hội bơi thuyền Thames Yacht Club và một chiếc tàu cấp cứu khác từ bến Poole tới đã hè vào chở hết bọn tôi, không sót một tên nào, ra khỏi cái dải đất đặc biệt của vùng hoả ngục ấy.

Tàu nhổ neo khi người cuối cùng trong bọn tôi đã lên, có tới trên bảy trăm mạng nhét trên con tàu được đóng để chở chừng hai trăm người. Hắn hãy còn ở lại đó khi chúng tôi khởi hành, hắn vẫy tay từ giã chúng tôi và lại quay mũi theo hướng Dunkerque, con ngỗng vẫn bám sát theo hắn. Trông thật ngộ nghĩnh, cánh chim lực lưỡng bay quanh chiếc du thuyền của hắn, cánh chim loé ngời lửa đạn, tựa như một vị thiên thần trong trắng bay lượn giữa đám khói lửa mịt mờ.
Một chiếc Stuka dọc đường lại tấn công chúng tôi thêm một lần nữa, nhưng anh chàng phi công ý hẳn đã thiếu ngủ từ nhiều đêm trước nên oanh kích hụt đích. Tảng sáng chúng tôi về đến nước nhà bình an vô sự.
Sau đó tôi không biết số phận hắn ra sao, hoặc hắn là ai – cái anh chàng gù lưng với chiếc thuyền buồm bé nhỏ của hắn. Anh chàng đó thật là can đảm và tốt bụng lạ thường”.
“Chà”, người lính pháo thủ nói, “một cánh chim lực lưỡng và hung hung đỏ, có ai biết không nào?”
Một vị sĩ quan hải quân trừ bị, trong bốn ngày cuối cùng của cuộc triệt thoái, đã bị thiệt hại mất hai chiếc tàu kéo lưới Brixham và một chiếc tàu rà mìn Yarmouth được đặt dưới quyền chỉ huy của ông, lên tiếng hỏi : “Bác có nghe nói gì tới huyền thoại khó mà tin được về một con ngỗng hoang không nhỉ? Nó hết bay lên rồi lại bay xuống dọc theo bãi biển. Mà bác cũng thừa biết loại chuyện đó thường xảy ra như thế nào rồi. Có một số binh sĩ tôi chở từ Dunkerque về bàn tán mãi chuyện đó. Con ngỗng xuất hiện trong những ngày cuối cùng từng chập một giữa khoảng Dunkerque và Lapanne. Ai mà may mắn được nhìn thấy con ngỗng là kể như sau đó thế nào cũng được cứu thoát. Bác thừa biết, cái lối nửa hư nửa thực ấy mà…”
“Hè…ừ…ừm”, trung tá Brill Oudener nói, “một con ngỗng hoang à. Theo tôi thấy thì nó đã được dạy cho thuần thục rồi. Một thứ chi tiết vô cùng kỳ lạ. Bi đát nữa, hiểu theo một cách khác. Và thật may cho chúng tôi. Để tôi kể cho bác nghe. Đó là chuyến thứ ba trên đường về. Vào khoảng sáu giờ chiều chúng tôi nhìn thấy một chiếc thuyền nhỏ trôi giạt, trên thuyền dường như có một người hay một cái xác người nào đó, và một con chim đậu trên mạn thuyền.
Khi tới gần, chúng tôi bèn đổi hướng tàu để lại xem có chuyện gì. Trời đất ơi, đúng là một người. Hay đúng ra, trước đó đã là một người. Tội nghiệp hắn! Bị trúng một phát đạn liên thanh, nói thế là bác cũng đủ hiểu rồi. Bị nặng lắm! Đầu gục xuống nước. Con chim, một con ngỗng, loài ngỗng đã được huấn luyện thành thục.
Chúng tôi ghé lại gần, nhưng khi một người trong bọn chúng tôi định leo lên thuyền thì con chim kêu rít lên va dang cánh ra đập hắn. Không lấy được xác gã kia ra. Bất thần, Kettering, một chú lính trẻ theo hộ vệ tôi, thét lên, giơ tay chỉ xuống mạn tàu bên phải. Một trái thủy lôi bập bềnh sát bên. Trái thủy lôi khủng khiếp của bọn Đức. Nếu chúng tôi đi thẳng thì thế nào cũng đụng nhằm trái thủy lôi đó rồi. Chúng tôi lái tránh cho trái thủy lôi dạt ra xa. Khi nó đã giạt ra xa, cách chiếc xà lan cuối đoàn chừng một trăm thước, thì mấy anh lính lấy súng nhắm bắn cho nó nổ tung lên.
Khi chúng tôi quay lại tìm kiếm chiếc thuyền trôi giạt thì nó đã biến đâu mất. Chìm rồi. Thủy lôi nổ, rung động, làm thuyền lật, bác biết đấy. Kéo theo cả cái gã kẹt trong thuyền. Tựa như gã cột người gã vào với chiếc thuyền. Con chim bay lên và lượn vòng quanh. Nó lượn ba vòng tựa như một chiếc máy bay lượn chào làm chúng tôi sững sờ hồi lâu. Rồi nó bay về hướng tây. Cũng may cho chúng tôi đã lên boong xem, nếu không thì sao nhỉ? Mà cũng ngộ là bác đã đề cập tới chuyện con ngỗng đó”.
Fritha ở lại một mình trong hải đăng nhỏ bé trên vùng đồng lầy rộng lớn, săn sóc những con chịm bị xén lông cánh còn ở lại. Cô chờ đợi mà chẳng biết mình chờ đợi gì. Những ngày đầu tiên cô hay lên bờ biển ngóng chờ, dù cô đã biết là uổng công vô ích. Sau đó cô thơ thẩn đi khắp các căn buồng để đồ trong hải đăng, nơi chất đầy những bức hoạ trên đó Rhayader đã mô tả lại tất cả những cảnh trí cùng những tác động của ánh sáng trên vùng đất hoang vu và vẻ đẹp huy hoàng của các loài dị điểu sống nơi đó.
Trong số tranh ấy cô gái tìm thấy bức chân dung Rhayader vẽ mình theo ký ức, đã nhiều năm về trước, hồi cô còn là một cô bé nhỏ xíu, nhút nhát, đầu tóc rối bù đứng bên ngưỡng cửa, ghì chặt trong lòng con chim trốn tuyết bị thương.
Bức họa và những gì cô gái nhận thức được đã khiến cô xúc động như chưa từng xúc động, vì Rhayader đã gửi gắm rất nhiều tâm hồn chàng vào đấy. Lạ thay, đó là lần duy nhất chàng vẽ con chim trốn tuyết, con vật lạc loài, bị bão táp xô giạt đến từ miền đất lạ, con vật đã mang tình bạn đến cho cả hai người, và chính con vật ấy, cuối cùng đã trở lại báo cho cô biết là cô sẽ không bao giờ còn gặp lại chàng nữa.
Khá lâu trước khi con chim trốn tuyết từ vùng trời phía đông ửng hồng sà xuống lượn vòng quanh hải đăng như ngỏ lời chào vĩnh biệt, Fritha nhờ sự linh cảm mẫn tiệp sẵn có trong cô đã biết trước là Rhayader sẽ không bao giờ về nữa.
Cũng chính vì thế, vào lúc trời chiều, nghe tiếng chim kêu lảnh lót quen thuộc từ trời cao vọng xuống, lòng cô không trải qua một giây phút hy vọng hão huyền. Giây phút ấy, dường như cô đã từng sống qua rất nhiều lần, nên không còn ảo vọng.
Cô gái hối hả chạy ra bức trường thành, đôi mắt không hướng ra phía eo biển xa vời mà từ đó một cánh buồm có thể xuất hiện, nhưng lại ngước lên vòm trời đỏ rực mà, từ đó, con chim trốn tuyết rơi thẳng xuống như một hòn đá. Cánh chim từ trời cao rớt xuống, tiếng kêu não nùng của nó, và sự cô quạnh vây bọc quanh cô, đã phá vỡ con đập ngăn giữ mọi xúc cảm trong cô, thả tung mối tình không ngăn giữ được, không chối cãi nổi, tuôn trào thành suối lệ.
Một linh hồn hoang dã kêu gọi một linh hồn hoang dã khác, cô có cảm tưởng như mình đang bay theo cánh chim to lớn bay vút lên vòm trời chiều và lắng nghe lời Rhayader nhắn nhủ.
Trời đất như vang vang lời nhắn gửi và cô rung rung theo hoà âm đó với một cường độ vượt quá sức cô. “Frith, Fritha! Frith, em yêu. Vĩnh biệt nhé, người em yêu dấu”. Đôi cánh trắng, có đốm đen, như quạt vào lòng cô những lời âu yếm ấy, và lòng cô đáp lại : “Philip, em yêu anh”.
Có một lúc Frith đã tưởng là con chim trốn tuyết sắp hạ cánh trong khuôn vườn, khi những con ngỗng bị xén cánh kêu vang lời chào đón. Nhưng nó chỉ sà xuống thấp rồi lại bay vút lên, luợn một vòng tròn rất đẹp mắt, quanh ngọn hải đăng cổ xưa một lần nữa rồi bay lẩn trong đám mây cao vút.
Nhìn cánh chim bay vút lên cao, Frith không còn thấy hình ảnh con chim trốn tuyết nữa, mà chỉ thấy linh hồn của Rhayader đến giã biệt cô gái trước khi chắp cánh bay vào cõi hư vô.
Cô gái không còn bay theo cánh chim nữa mà trở lại buộc ràng trên mặt đất. Cô dang hai cánh tay giơ lên trời, những ngón chân nhón cao, với theo, miệng kêu lên : “Xin trời đưa dẫn anh, ra đi êm đẹp nhé, hỡi anh Philip của em!”
Nước mắt Frith như khô cạn. Khi bóng chim mịt mù, cô còn đứng đó, âm thầm ngó lên trời cao trong một hồi lâu. Rồi cô trở lại ngọn hải đăng tìm lấy bức chân dung Rhayader đã vẽ mình. Ghì chặt bức hoạ vào ngực, cô trở về nhà, đi dọc theo con đê ven bờ biển cả.
Đêm đêm, trong nhiều tuần kế tiếp sau đó, Frith còn trở lại hải đăng cho lũ chim bị xén lông cánh ăn. Rồi vào một buổi sớm mai, một phi công Đức trong một phi vụ lúc trời chưa sáng tỏ đã lầm tưởng ngọn hải đăng cũ hoang phế là một mục tiêu quân sự đang hoạt động nên nhào xuống như một cánh chim ưng bằng thép và bắn phá ngọn hải đăng cùng tất cả những gì còn lại trong đó tan thành cát bụi.
Tối hôm đó, khi Fritha trở lại, sóng biển đã ùa qua những bức tường sụp đổ và bao phủ lên tất cả. Không còn gì sót lại khả dĩ làm cho giảm bớt quanh cảnh ảm đạm thê lương. Không một cánh chim nào trong vùng đồng lầy dám trở lại. Chỉ có những con hải âu dạn dĩ chập chờn bay lượn, nức nở kêu thương quanh nơi chốn cũ – nơi mà khi vầng thái dương mới ló còn là ngọn hải đăng xưa.
 
Ngày xưa em gọi con đường này lá con đường vàng. Con đường em yêu nhất và có nhiều kỷ niệm nhất trong thị xã chúng mình. Cái thị xã nhỏ như lòng bàn tay con gái mà với em, mỗi ngả đường đều có tên riêng. Đường Trưng Trắc là đường hoa sữa . Đường Lê Lợi em gọi là đường thầm mát - Đến bây giờ tôi cũng chưa biết tên gọi chính xác của loài cây ấy là gì, loài cây thân gỗ cao như cây phượng vĩ, lá giống như lá ngâu mà hoa nở bung xốp xốp, bông bông, trắng vàng với mùi hương hăng hắc. Chỉ biết rằng ngày ấy, em nhí nhảnh bảo tôi rằng: Đấy là cây thầm mát của em. Cái tiếng "của em" dễ thương mà đành hanh rất riêng em dành cho tất cả những gì mình yêu quí đã đi vào miền nhớ của tôi ngày ấy, em biết không?
Con đường vàng. Tôi đã đi qua bao miền quê, bình yên hay dữ dằn, ồn ào náo nhiệt hay dịu dàng đằm thắm, vẫn không thể tìm được con đường thứ hai như con đường ngày xưa mình đi . Em vẫn bảo màu vàng là màu của ký ức, của thời hoàng kim đã qua, màu vàng là màu của nỗi nhớ. Đẹp diễm lệ, đẹp huy hoàng mà buồn sầu thẳm. Em còn bảo màu vàng là màu của sự giàu sang, vương giả, màu tượng trưng cho sự hưng thịnh của những triều đại xưa, màu của no đủ và quyền quí. Nhưng màu vàng cũng là màu của chia ly, đổ vỡ, của nỗi đau chia lìa và sự bội phản ( ... Giọt nước mắt sắp vỡ òa trên khóe mi em ). Đến bao giờ tôi có thể quên được đôi mắt thẳm buồn của em và câu nói nhẹ như thoảng qua: "Thầy em bảo ai yêu màu vàng đến độ quên mất mình thì khổ lắm. Nhưng em yêu nó ". Em yêu gam màu ấy, không ồn ào biện minh, không che giấu lẩn tránh, cũng chẳng nhiều lời . Yêu đắm đuối, yêu si mê và đau đớn ...
Cũng như tôi đã yêu em, cô gái nhỏ của tôi . Em thật bé bỏng và yếu đuối trong tình yêu của mình. Đến tận bây giờ, tôi mới hoảng hốt nhận ra rằng, tất cả những mâu thuẫn giằng xé đè nặng lên bờ vai mỏng manh của em là những giằng xé từ tiền kiếp. Còn ngày ấy , cái gã trai ngốc nghếch trong tôi đã chỉ xui tôi cầm bàn tay em mà nói rằng: "Em đừng tin nhỏ ạ ! Chỉ cần em giữ được một lòng yêu đầy đủ ... ". Bao nhiêu ngày qua, tôi hối hận vì câu nói nhẹ tênh của mình, dằn vặt vì đã không làm được gì cho em, ký ức dấu yêu của tôi ! Tôi đã chỉ biết giữ một lòng yêu đầy đủ mà không làm gì để cưỡng lại sự sắp đặt trớ trêu của định mệnh. Bây giờ thì em đã xa tôi, xa xôi lắm ! Đôi mắt đen tròn với ánh nhìn bỡ ngỡ không còn reo lên sung sướng mỗi buổi chiều đắm mình vào con đường này . Khuôn miệng xinh xắn với bờ môi mọng đỏ không còn phụng phịu giành với tôi từng tán lá, từng nhành hoa dại . Và tôi, tôi cũng không thể còn được sững mình như năm nao khi bắt gặp em trốn giữa một triền sông đầy nắng, đầy gió và trải vàng hoa cải .
Kỷ vật cuối cùng em còn gửi lại trần gian cho tôi là cuốn sổ này với vô vàn những nét đậm nhạt khác nhau của gam vàng. Những câu thơ như mảnh vỡ của một trái tim, đã thức cùng tôi bao tháng ngày qua:
"Ký ức không màu, ký ức không tên.
Tim em đó không là nơi anh trú
Dạm ngõ tình yêu anh em mình ra thử
Lúc si mê ai nói thực bao giờ"
Không ! Tôi không tin là ký ức không màu đâu, em ạ ! Và tôi, tôi cũng mải chỉ là kẻ hành khất tội tình được trú ẩn trong trái tim em. Nếu biết rằng những ngày cuối cùng của cuộc đời, trên giường bệnh, em vẫn cố hết mình để giữ một lòng yêu đầy đủ, có lẽ tôi không đủ sức mạnh để phiêu bạt nhiều đến thế ! Khoảng cách và những chuyến đi, ... có phải nó đã cướp em của tôi ?
Đã lâu lắm rồi, tôi không còn bị say sóng và say gió ... Nhưng chiều nay ... Tôi ngỡ rằng mình quen với song biển và gió biển đến độ không bao giờ còn bị gục ngã. Những chuyến đi đã trở thành nhịp sống của tôi . Vậy mà sóng gió đã cuốn lấy tôi trên chính con đường này, em yêu dấu ạ ! Dưới chân tôi, lá vàng ngập đầu, xào xạc tiếng xào xạc của quá khứ. Lá trút xốn xang sau mỗi lần gió thổi . Lá của hôm nay lá rụng từ ngày xưa ? Gam vàng hực lên, rực rỡ, tráng lệ và huy hoàng giữa buổi chiều đang tắt nắng. Và em, em đang đón tôi về với chùm hoa học trò tươi thắm trên tay; Giống như năm nào em đợi tôi nơi ngã ba này sau một biển động.
Em - vùng ký ức trong lành mà thẳm sâu trong trái tim tôi . Dẫu bây giờ tôi có gom tất cả mọi cung bậc khác nhau của sắc vàng trên trái đất này chất lên những con thuyền về trặng em thì em cũng không còn nữa . Tôi chỉ còn có thể gặp lại em những nơi nào ta đã đi qua ... Em là máu thịt, là hơi thở quyện hòa vào từng thớ thịt tôi, mang cho tôi sức trẻ để hòa vào sóng gió.
Hai hàng cổ thụ năm nào nay đã thêm nhiều ưu tư mới, em ạ. Mùa xà cừ trút lá, em vẫn bảo sao kiêu hãnh và rắn rỏi, đau đớn mà mạnh mẽ? Ngày xưa em bảo: Em đọc được, em nhìn thấy phía sau màu vàng nhức nhối của lá lìa cành là ánh sáng xanh lấp lánh của chồi non, lộc biếc. Có sự giã từ nào lại không đau đớn, phải không em? Nỗi đau đớn của cái chết và sự vĩ đại của hồi sinh ... Tôi đã mang cái nhìn của em ra đại dương và đến tất cả những vùng trời tôi đến để thấu hiểu thêm về cuộc sống, về em. Cho tôi được nghiêng mình cảm tạ gam vàng đắm đuối này của ký ức , nơi sinh ra em , nuôi dưỡng em và đón em trở về, dấu yêu ơi !


_________________


Back to top





ngaymaituoisang [ Biết đi ] - Offline - Posts: 324


Joined: Jun 15 2005 - - -
$571 Dollars
Posted: Thu Sep 28, 2006 9:16 am


Truyện viết với lối văn gợi cảm độc đáo, tuy mang tính miêu tả cổ điển nhưng ít nhất cũng đã tạo nên một định nghĩa mới...một cái nhìn mới, cái nhìn về màu vàng......

Cám ơn bạn!
 
Vẫn như thói quen ở Thành phố, sáng đầu tiên ở quê ngoại, tôi dậy thật sớm chạy bộ dưới cái se lạnh của buổi ban mai tinh khôi, trong sạch. Đường quê loanh quanh, cây trái xum xuê đan xéo vào nhau đong đưa theo gió nghiêng bóng xuống mặt đường.
"Rầm!" Nhớn nhác sao tôi đâm sầm vào một gã đi bên đường. Lướt nhìn khuôn mặt hắn: nai quá. Tôi đàn áp liền:
- Ông là ai ?
Hắn bốp chát lại:
- Tôi là tôi .
Bực mình tôi gắt lên:
- Tôi hỏi ông là ai ? Ở đâu tới ? Mắt ông để ở đâu mà sao ông cản đường tôi .
Hắn thản nhiên đáp:
- Tôi là tôi, tôi ở đây tới đây, mắt tôi để dưới chân mày và tôi không cản đường ai cả. Còn mắt cô để đâu ?
- Ở trên lỗ mũi ... Xíííí ...
Tôi nạt hắn, định bụng cho hắn một bài học nhưng hắn đút hai tay vào túi quần miệng huýt sáo ung dung bỏ đi . Cái hành động của hắn làm tôi tức muốn điên lên. Tôi hét theo:
- Này! Hãy đợi đấy .


- o O o -

- Chào Vân. Tôi giật mình quay lại:
- Sao ông lại biết tên tôi ?
Hắn cảm thấy khoái chí với câu hỏi của tôi .
- Tất cả mấy đứa nhóc trong xóm này là đồng minh của tôi . Hôm qua tôi đã chi trả cho chúng mười trái xoài tượng để được biết tên nhỏ.
- Xí ... Tôi sẽ chi hai mươi trái xoài để chúng nó điều tra tên của ông. Tôi gằn giọng, hắn vẫn thản nhiên:
- Khỏi đưa chúng nó, đưa cho tôi cũng được, tôi tên là Phong. Vân là mây, mây bay trên trời . Phong là gió, gió dìu mây đi .
- Nhưng tôi không bao giờ đi với ông.
- Còn tôi! ...
- Im. Ông không được nói . Nói xong tôi dọt lẹ. Hắn gọi với theo:
- Này nhỏ, hãy đợi đấy tập hai .

- o O o -

Buổi chiều mặt trời ngả bóng xuống ngọn núi xa xa, nắng vàng miền quê rực rỡ. Tôi đang ngồi với mấy đứa em bạn dì xơi hàng chục xoài chấm với nước mắm đường, tê rần chớp lưỡi . Hắn đến lần này không đi một mình mà mang theo cây đàn Guitar gảy từng tứng tưng. Hắn cứ gào lên:
- Bằng lòng đi em về với quê anh - Một dòng sông xanh một dòng nước xanh - Bằng lòng đi em ...
Tôi bực mình quay ra chặn hắn lại:
- Ai cho ông đi ngang đây mà gào lên vậy ?
Hắn vẫn thản nhiên:
- Không, tôi đang hát cơ mà.
- Hát thì về nhà mà hát.
- Tôi muốn hát tặng Vân thôi .
- Tôi không lấy, ông hiểu chưa .
Mấy đứa em bạn dì nhìn tôi sửng sốt. Riêng hắn thả cây đàn xuống, nhún vai ra vẻ hiền lắm. Tôi xoay hắn lại gằn từng tiếng vào tai hắn:
- Này Nôbita hãy đợi đấy tập ba . - Nói xong tôi chạy vội vào nhà. Hắn vẫn kịp hét lên:
- Xuka, tôi sẵn sàng đợi .

- o O o -

Chỉ vài ngày nữa là tôi phải về thành phố, chuẩn bị cho năm học mới, thời gian đi qua nhanh quá. Hắn và tôi lúc này đã thân nhau, tuy nhiên "hãy đợi đấy" vẫn đang ở tập chín mươi chín.
Buổi chiều hắn ghé nhà chơi tặng tôi cuốn sách, nhìn bìa sách ghi tác giả "Dạ Thảo" tôi hỏi hắn:
- Anh cũng thích đọc sách của Dạ Thảo à?
- Ừ, thích lắm - Cặp mắt hắn mơ màng nhìn tôi - Vân cũng biết Dạ Thảo à?
Sẵn dịp tôi nổ luôn cho hắn sợ:
- Dạ Thảo là bạn của Vân đấy .
Hắn nhún vai le lưỡi ra vẻ sợ lắm.
- Thế Dạ Thảo có đẹp trai không vậy ?
- Ơ ... Cao như anh vậy, nhưng trắng và đẹp trai hơn anh (Tôi đã bỏ từ ông để gọi hắn). Hắn nhoẻn miệng cườị
- Làm gì mà anh cười .
- Không, không có gì. Tôi không cười Vân đâu .
Sẵn dịp tôi lại nghĩ ra câu chuyện tào lao về nhà văn Dạ Thảo nói cho hắn nghe .

- o O o -

Tôi đến tòa soạn báo học trò lãnh tiền nhuận bút truyện ngắn vừa được đăng trên báo . Sẵn dịp gặp nhà văn Dạ Thảo góp ý cho tác phẩm mới của tôi . Theo sự hướng dẫn tôi đẩy cửa phòng khách bước vào, chàng trai ngồi sau bàn giấy ngẩng mặt nhìn tôi . Tôi tròn mắt la lên:
- Ơ ... Anh làm gì ở đây ?
- Tôi làm việc, Vân muốn gặp ai ?
Tôi bối rối lườm hắn:
- Dạ Thảo, gặp nhà văn Dạ Thảo .
- Có chuyện gì quan trọng không?
- Tất nhiên là có.
- Thế à - Nói với tôi không được sao ?
- Không, không thể được, phải gặp nhà văn Dạ Thảo cơ .
Cuối cùng hắn buông ra một câu cố hữu .
- Thế thì. Hãy đợi đấy .
Tôi đáp lại: Ừ thì đợi .
Thời gian chậm chạp trôi qua huyên thuyên với hắn đãmệt, tôi xin phép ra về dịp khác sẽ ghé lại .
Bước ra cổng gặp bác bảo vệ đang ngồi vê cằm nhổ mấy cọng râu, tôi chào bác, bác hỏi với theo:
- Sao, cháu gặp anh Thảo có vui không?
- Ơ ... Ông ấy đi đâu cháu chờ mãi không gặp.
Bác bảo vệ ngạc nhiên: Hồi nãy bác đi ngang phòng khách thấy cháu đang ngồi nói chuyện với anh Thảo cơ mà.
Tôi sững người, chẳng lẽ là hắn. Thôi rồi, biến ngay thôi . Ngoái đầu nhìn lại thấy hắn đã đứng sau lưng tôi tự hồi nào, hắn nheo mắt mỉm cười:
- Chào Vân - Vân đã gặp nhà văn Dạ Thảo chưa ?
Nếu mà Mao Toại trong truyện Phong Thần chắc tôi đã độn thổ mất tiêu rồi .
- Gặp rồi .
- Vui không?
- Vui lắm, ông ấy là một tên chuyên nghiệp lừa đảo kẻ khác, mà Vân là nạn nhân của ba tháng qua - Tôi cứng giọng - Hôm nay Vân đi tìm ông ấy để báo thù.
- Ghê thế à, rạch mặt ông ấy hả ?
- Còn hơn thế nữa, ông ấy phải dẫn Vân đi ăn chín mươi chín cây kem ngay bây giờ.
Hắn nghệt mặt ra cười:
- Xin tuân lệnh!
 
Lam bước nhanh, tay ôm quyển sách trước ngực, co ro xiết chặc chiếc áo khoác vào người mong tìm thêm một tí hơi ấm. Gió buốt lạnh, rên xiết, những cành phong khẳng khiu run bần bật, vài chiếc lá khô còn sót lại sau mùa thu chao đảo trên không trung rồi đậu xuống lối đi bằng xi măng, chốc chốc lại bị gió cuốn tung lên xoay vòng vòng trên nền đá lạnh. Chưa đến Lecture, Lam sắp hàng mua tách ca phê và hai khoanh fonut nóng hổi rồi đi vòng quanh tìm chỗ ngồi . Cái bàn "ruột" trong góc cafeteria đã bị chiếm mất, Lam dạm bước lên mấy tầng lầu trên tìm một góc khác yên tĩnh hơn. Một tên con trai tóc đen tự nhiên cứ lẽo đẽo theo sau . Hắn lẩm bẩm gì đó, Lam nhìn qua, hắn mỉm cười làm quen, lại dân tửng nữa rồi, Lam chau mày, rảo bước tiếp. Qua hết mấy ngã rẽ, hắn vẫn kè kè đi sau . Lam ráng bò lên tuốt lầu 5, hắn cũng lót tót bò theo . Lam rẽ vào con đường dẫn đến toilet, ngoảnh mặt lại vẫn thấy hắn. Vừa bực, vừa sợ, Lam đặt ly ca phê và đĩa donut xuống cái bàn trước mặt, hắn tự nhiên cũng đứng lại . Lam quay sang, mặt hầm hầm.
- Excuse me ! Don't you have anything better to do than ... stalking people ?
- Pardon ? Oh sorry, didn't mean to scare you .
- Oh yeah ! so you just happen to walk in the same direction as me all the way from level 2 to the ... ladies toilet on level 5 huh ? What a coincidence ! ... i don't think sọ
Lam nói một hơi như vậy mà hắn vẫn tỉnh bơ, mở miệng cười toe toét:
- Calm down. Have a seat. Are you Vietnamese ?
- So what if I am Vietnamese or not ?
- Thi để nói tiếng Việt cho đỡ quê một chút.
- So what's there to be embarrashed ?
- Vậy là cô bé hiểu tiếng việt, Nguyên đoán không lầm mà. Uống ca phê đi để nguội hết bây giờ.
- It's none of your business.
- Có chứ, uống xong để có tay mà ôm quyển sách của cô bé nè. Nguyên sắp có tutorial rồi, hổng có đi theo cầm dùm nữa đâu .
Lam nhìn xuống tay hắn, quyển Economics bao bìa tím rõ ràng là của nhỏ cớ sao lọt vào tay hắn (?). Chết rồi, hồi nãy mua ca phê rồi bỏ quên, làm nãy giờ la hắn cho đã. Hai gò má Lam từ từ đỏ bừng nhưng lỡ làm mặt ngầu rồi nên phải ngầu tiếp:
- Ai mượn ông vác sách kè kè theo hồi nào đâu . Kêu người ta cũng được chứ bô ....
- Chịu nói tiếng Việt rồi hả !? "Ông" tên là Nguyên, đừng gọi vậy tổn thọ Nguyên hết. Coi nè, một tay bé cầm tách cà phê, một tay cầm đĩa donut còn tay nào nữa đâu mà ôm sách đâỵ Hồi nãy Nguyên có gọi đó chứ nhưng bé nhìn qua kênh Nguyên một cái rồi bỏ đi tiếp, Nguyên đâu còn sự lựa chọn nào khác đâu . Mà thôi, sách nè, Nguyên có giờ rồi, chào cô bé nha .
Hắn vụt chạy xuống lầu, tiếng " cảm ơn" của Lam còn vướng ở cổ ...


Hôm nay trời đẹp, những tia nắng sóng sánh như mật ong xuyên qua mấy cành cây trụi lá, nhảy nhót trên bờ cỏ, trên lối đi theo từng cơn gió lung lay . Thứ bảy, đại học vắng người, Lam tinh nghịch bước giẫm lên những chiếc lá khô khốc, giòn tan. Bãi cỏ lóng lánh nắng vàng, màu cỏ xanh, điểm đầy những đóa hoa cúc dại nhỏ xíu đã tan sau mùa thu giờ hóa thành trắng xóa . Một làn gió nhẹ thổi, những cánh hoa mỏng manh như sợi tơ vỡ tan chơi vơi trong nắng rồi bay lẫn vào mây trời . Vài cánh khẽ khàng đậu lại trên bờ tóc rối, Lam thấy mình như nàng công chúa trong khu vườn cổ tích đầy hoa .
- Cô bé !
Lam giậc mình ngó quanh quất.
- - đây nè.
Hắn lò đầu ra từ sau gốc cây phong, lý lắc mỉm cười . Từ vụ quyển sách hôm nọ đến giờ Lam chưa gặp hắn lần nào, giờ tự nhiên từ trời rơi xuống phá ngang giấc mơ công chúa của nhỏ. Lam sẵng giọng:
- Người ta hổng phải tên " cô bé" đâu mà kêu hoàị
- Vậy hổng lẽ cô bé tên là "người ta" sao ? Ngộ ghê hả !
Hắn cười châm chọc. Lam xụ mặt:
- Thấy ghét !
- Thôi, hổng giỡn nữa đâu . Đừng giận Nguyên mà. Hôm nay Lam đi thư viện hả ?
Lam tròn mắt:
- - đâu ông biết tên người ta ?
Trên quyển sách hôm nọ đó. Lam ngồi đây chơi tí đi, Nguyên hái mấy bông tuyết chọ
Hắn nhìn sâu vào mắt Lam, nửa dịu dàng, nửa ra lênh, không hiểu sao Lam lại chớp mắt nghe theọ Hắn hái thật nhiều cúc dại, những đóa hoa mà mùa thu rợp vàng cả thảm cỏ xanh để rồi bước sang đông lại hóa thành những cụm bông li ti trắng nõn. Hắn mang đến cho Lam, khẽ thổi vào chùm hoa, nhưng sợ tơ mỏng tang lìa cành bay lả tả, trắng bồng bềnh, rơi xiên xiên như tuyết đổ. Lam đứng dậy, nghiêng người chụp lấy cánh hoa trước mặt. Gió thoảng qua, cánh hoa bay vòng vèo vuột khỏi tầm tay với, Lam cười khúc khích. Nắng rót mật lên mái tóc mượt mà, óng ánh sắc nâu huyền, ngọn gió khẻ luồn vào trong cuốn tóc làn tóc bay bay tha thướt, vài sợi nhẹ vướng lên môi che mất một phần khuôn mặt. Chiếc áo choàng trắng như tan lẫn vào mây trời, nhòa nhạt, mờ ảo giữa những toà building cổ kính của Đại Học. Hắng lặng nhìn Lam rồi những cụm hoa, không nói câu nào .
- Hoa Tuyết của Nguyên là thế đó hả ?- Không ngờ Nguyên lãng mạng ghê ta ?
- Lam thích ?
- Dĩ nhiên rồi ! trẻ con và dể thương lắm !
- Khi nào buồn Nguyên đi tìm những cụm hoa này, thổi tung lên trời cao để thấy được nỗi buồn của mình nhỏ nhoi như thế nào . Mỗi một nỗi buồn bay đi sẽ trở thành một điều ước. Như vậy Nguyên sẽ bớt buồn và hy vọng nhiều hơn.
- Nguyên suốt ngày lo chọc người ta mà cũng biết buồn nữa sao ?
Hắn trâm ngâm hồi lâu, ánh mắt mong lung xa vời :
- ... Lam biết không, mẹ Nguyên hồi đó sợ mùa đông lắm, vì cứ mỗi mùa đông những khớp xương của mẹ lại lên cơn đau nhức. Tuy vậy mẹ vẫn mê những ngày tuyết đổ. Mùa đông Oslo lạnh nhưng tuyệt lắm, chiều nào mẹ cũng bắt ghế cánh cửa sổ ngồi trông tuyết rơi chờ ba về. Gia đình dời sang Úc, mùa đông mẹ mất, nhưng những thấp khớp vẫn còn. Ba Nguyên ngày càng lơ là. Hai người ly thân sau 6 tháng ở Úc. Mẹ xanh xao và buồn hơn. Nguyên lúc đó chưa đủ lớn để hiểu và xoa dịu những nổi buồn của mẹ. Mùa đông, mẹ hay hái những đóa Cúc dại sắp tàn như thế này rồi thổi bay đi gọi là mùa tuyết rơi của mẹ. Mẹ mất giữa mùa hoa tuyết thứ ba .
- Lam xin lỗi ... Lam..
- Không sao đâu Lam, bay năm rồi còn gì. À ! mà lúc nãy khi Lam với tay cố chụp lấy những cánh hoa trông Lam giống mẹ Nguyên ghê lắm đó. Ngày xưa, mỗi lần nhìn hoa tuyết Nguyên hay nghĩ đến mẹ, bây giờ chắc Nguyên sẽ nghĩ đến Lam nữa, chỉ mong hoa tuyết của Lam sẽ không dẽ vở như của me ....
- Chuyện của Nguyên đ thương như cổ tích nhưng kết thúc buồn ghê .
- Không biết Lam tin không nhưng Lam là người đầu tiên nghe chuyện này đó. Mà khi nghe rồi thì Lam cũng trở thành một vật trong truyện luôn, hy vọng kết thúc mới sẽ không còn buồn như khi câu chuyện bắt đầu ...
Hắn nhìn sang Lam, nhỏ khẽ mỉm cười, hắn cũng cười theo, những đóa hoa tuyết rơi rơi, bao muộn phiền chợt tan biến cho mơ ước vụt bay cao .
Mùa hoa tuyết cứ tiếp tục kéo về như lời hẹn thề muôn đời cùng trời đất. Có điều năm nay, bãi cỏ có thêm một người hái hoa và dường như đông cũng bắt đầu ấm lại .

HẾT
 
Cái Đêm Hôm Ấy...Đêm Gì ?
Phùng Gia Lộc


Cuối năm 1983, tôi được ở nhà chờ quyết định về nghỉ chế độ. Chiều Chủ Nhật, thằng Học con tôi rủ rỉ nói:
- Con bắt được bác Quang ăn bánh cuốn ở hàng anh Minh. Bác đi thồ sắn ở chợ Phúc Địa về. Bác cho mấy bó nhưng con không lấy. Bác dặn con về đừng nói với bố mẹ là đã gặp bác. Nói, hôm nào sang bác đánh chết.
- Hừ! Lại thế nữa...
Tôi buột miệng bảo với con thế, rồi thừ ra. Bạn bè anh em cùng một phòng với nhau mà đi qua không vào. Có điều gì nhỉ?
Sáng thứ Hai tôi sang cơ quan ứng mấy cân gạo và định bụng sẽ gặp, trút sấm sét lên đầu anh ấy. Nghe tôi trách, Lê Trung Quang, trưởng phòng tổ chức Ủy ban huyện Thọ Xuân, cười hà hà làm lành thật đôn hậu, dễ yêu:
- Giá có một mình thì tôi vào. Đằng này những bốn binh, khao được, anh cũng liệt. Vả lại, bốn cái xe nặng è, sợ tối.
Là trưởng phòng tổ chức ủy ban huyện, anh cũng để gia đình vợ con đói thiếu. Ra anh còn kém cỏi hơn cả tôi, một kẻ chân chim trần trụi, một tay sắp trở thành "phó thường dân". "Nhà mình cũng bí. Nộp sản đi rồi, lúa đã cạn. Khó mà ăn thấu tết được". Quang lắc đầu bảo thế.
Anh gạn tôi:
- Ông ở đây với tôi đêm nay cho vui. Tôi buồn quá.Tôi chỉ vào mấy cân gạo đã bó buộc sau xe, bảo anh Quang:
- Phải mang "hàng chiến lược" này về chứ.
Nếu nghe lời Lê Quang Trung nằm lại với anh một đêm, thì tôi đã không thể nào hình dung nổi ở Phú Yên xã tôi Cái đêm hôm ấy là đêm gì...
Có cái "các" quá giang của Lê Trung Quang cho mượn, tôi không phải mất ba đồng tiền đò. Qua sông Chu gió vù vù bên tai, tôi phải kéo vành mũ len, trùm thấp cho đỡ run. Tôi về đến nhà, trời đã sẩm tối, con mực xông ra í a í ẳng vờn chân lên hông. Vợ tôi bế thằng Văn ngủ khì trong lòng, ngồi bên bếp than vỏ cao su um khói. Bên cạnh, thằng cu Thức bốn tuổi đang liến láu. Còn Học - thằng con nhớn đang học bài ở nhà trên.
Thấy tôi về thằng Thức reo lên:
- A bố! Bố về là bố về! Có chi không bố?
- Có cái rét cóng đây này!
Tôi nói rồi dắt xe vào nhà, mở túi gạo, vác xuống bếp khoe:
- Ứng được năm cân gạo.
Bà cụ thân sinh ra tôi mệt đã lâu, thấy tôi về, cũng gượng chống gậy xuống bếp sưởi. Cụ bảo:
- Mẹ Học đi nấu cơm cho bố va ăn!
Tôi hỏi:
- Nhà ăn rồi hả mẹ?
Cái thằng Thức đến là hở miệng, cấm có giấu nó được tí gì. Nó nói:
- Chỉ nấu cơm cho bà với em thôi! Mẹ với anh Học, với con ăn cháo rau má rồi. Bữa nay mẹ luộc rõ nhiều rau cải.
Tôi thấy cay sè trong mắt.
- Thế thì nấu thêm vào. Hết thì tao đi bới đất, nhặt cỏ, van ông vái bà. Làm con người mà miếng cơm chín vào bụng vẫn không đủ thì sống thế nào?
Vợ tôi định cãi câu gì đó, nhưng lại thôi, vội trao thằng Văn cho bà rồi lại mở túi gạo đi vo. Bà cụ nói:
- Rau cải ế nhăn! Đói, chả mấy người mua. Hôm nay mẹ va không đong được gạo. May lấy được đấy, không thì mai gác con lên...
Ngoài cửa gió ào ào, tiếng chó sủa ổng oảng ở đầu ngõ. Có tiếng ai hỏi mua rau cải nhà tôi. Cô Hoa vợ chú Được. Hoa cũng người họ Phùng, gọi tôi bằng bác. Chồng cô ấy là đội trưởng đội sản xuất cũ, nay vừa được rút lên làm trưởng ban định mức, rồi phó chủ nhiệm. Cô vào bếp vừa nói, vừa run:
- Sao năm nay rét sớm thế này? Bác bán cho cháu mấy bó rau cải xào.
Vợ tôi bắc nồi cơm lên bếp, mấy bà cháu phải dồn chỗ cho hai người đàn bà tê cóng này ngồi cạnh bếp hơ tay, ngó chẳng khác những viên đạn bị nén trong cái băng lò xo tròn. Tuy gần bằng tuổi vợ tôi, nhưng là hàng cháu họ, nên Hoa vẫn bác bác, cháu cháu ngon ơ.
- Bác có ngan, gà gì để cho cháu vài cân. Giá mấy cũng được, cháu không quản.
- Còn có vài ba con, phải để hôm sau bà...
Tôi lừ mắt chặn lại câu nói hớ, khiến vợ tôi im bặt. Chả là vì mẹ đẻ ra tôi yếu lắm rồi. Cụ đã bảy mươi lăm tuổi, lại phù nề mặt mũi vàng ủng như quả thị rụng. Ai cũng bảo khó qua cái đầu mùa Đông này. Vì vậy gia đình tôi đã lo chuẩn bị ngầm, phòng sau khi cụ về cõi. Cái gì vợ tôi cũng bảo dành để hôm sau bà...thành quen miệng. Cau cũng phơi kỹ bỏ be để hôm sau, thậm chí bọt bẹt được đồng rau nào cũng dồn mua ván đóng sẵn áo quan để hôm sau... Ấy nhưng nói đến cái chết, cụ lại giận và làm nau:
Bay trông tao chết à? Tao phải sống để nhìn con cháu được đến lúc sung sướng chứ. Khổ mãi rồi.
Tôi hỏi Hoa để lấp láp câu hớ rồi cho bà cụ khỏi giận:
- Mua đồ nhậu làm gì tối thế này?
- À... mua cho mấy thằng về đội ta thu sản, khuya các hắn đớp. Đội và quản trị thuê khoán cháu nấu.
Vì có chồng ở ban quản trị, cô ấy cũng là loại biết nhiều chuyện "bí mật nội bộ". Hoa thì thò cho vợ tôi biết đêm nay là đêm "đồng khởi" thu sản, tổng vét cả xã. Họ sẽ đổi chéo, công an và dân quân đội này về đội kia, vét bằng hết. Vì đội 12 này là nặng gánh nhất, nên họ sẽ điều về đây những tay cứng cựa. Hoa khuyên:
- Bác có thiếu sản, thì liệu mà xoay đi
- Thế thì tao đét bán rau cho mi nữa.
Vợ tôi toan từ chối, nhưng Hoa nài mãi và có tôi nói vào nên chị chàng mới chịu nghe. Hoa cầm đèn ra vườn soi cho vợ tôi hái. Cô ấy cầm rau, rồi còn đi các nhà bên cạnh hỏi mua gà. Cơm cạn, tôi vần cạnh bếp. Vì không phải ghế độn khoai độn sắn gì nên chín rất mau. Thấy chỉ nấu mình cơm tôi, lòng tôi lại buồn nổi gai. Vợ tôi bế thằng út vào lót cho nó ngủ trong buồng, rồi lấy cho tôi cái bát, đôi đũa. Cuộc chào mời đùn đẩy, nhường nhịn nhau rõ bực.Tôi lùa hai bát cơm với nước dưa chua, rồi bỏ đấy. Bà cụ nài, rồi tôi dỗ thằng Thức cũng lắc đầu không dám ăn chỗ cơm còn lại. Hắn sợ mẹ. Nhà này, mẹ chúng nó có quyền uy tối thượng. Biết vậy, nhưng tôi cũng sắp trở thành kẻ sống nhờ...
Ngồi ở bếp, tôi hỏi vợ:
- Nhà mình còn thiếu của hợp tác xã bao nhiêu thóc nữa em?Cô ấy không trả lời tôi mà nói rất vô lễ:
- Có biết thế này, đái tòe tòe vào, chứ tội gì lôi về. Cha đời! Bữa trước thì tuyên bố vớt được nấy ăn nấy, người ta mới hụp lặn xuống nước lụt mà khở (gở) từng bông lúa. Nay lại giở trò giảm tỷ lệ!
Tôi vỗ về:
- Thôi! Lụt thì lụt cả làng, em ạ! Em nói xem, so với tổng sản phải nộp, nhà ta thiếu bao nhiêu?
- Một tạ mười hai cân, em đã trình bày với anh Nhà đội trưởng rồi. Thực tế mò được hạt nào đã ăn hết hạt nấy. Mấy lâu nay bán được đồng rau nào mua ăn, không bán được thì nhịn. Đã nói khất rồi. Không cho khất, thì nhà đấy có dỡ được, đến mà dỡ.
- Phải mềm mỏng, em ạ! Khéo bán khéo mua thua người khéo nói! Gia đình mình, con cái mình còn ăn đời ở kiếp nơi đây.
Vợ tôi rền rĩ như sắp khóc:
- Chả nhẽ kiếm liều thuốc chuột, cho vào nồi cháo, ăn hết cả nhà cho sướng cái đời...
Ngồi sưởi ở bếp rất lâu, vỏ cao su cháy tàn, đã vạc hai ba đống than, mà chẳng ai muốn nói với ai câu nào nữa. Bà cụ ngồi lâu, mỏi và chán chuyện bỏ đi nằm. Thằng Học làm toán xong, lấy cho bà nồi than, rồi cũng rúc xuống bếp. Hắn đi bốc rơm lót ổ ngay cạnh bếp, lấy ván chắn rồi trải chiếu, ôm chăn ra nằm.
- Ngủ đây mà ấm, bố ạ!Trong giường thằng Út Văn khóc í óe. Hắn lại đái lạnh đít rồi. Mẹ nó vào quả không sai. Nó được ôm ra bếp sưởi, nằm gọn trong lòng mẹ. Gần một tuổi mà nó còn bắt nhá cơm bón và bú thì hơn con bê non. Lại nhai tòm tọp thế đó! Tôi đùa với con để nó cười sằng sặc cho dịu cơn lo buồn.
Gần mười hai giờ khuya, cả nhà đi nằm. Tôi ngủ với hai thằng oắt trong ổ rơm dưới bếp.Có điều gì đó bồn chồn và nơm nớp...
Bỗng tiếng kẻng gõ giục giã liên hồi. Kẻng khắp xã: từ đội 1 đến đội 15, như một sự bùng nổ dây chuyền. Tiếng loa phóng thanh mở hết cỡ đọc bản tin, kế hoạch huy động lương thực của tỉnh và chỉ thị của tỉnh ủy về công tác lương thực. Hoàng Văn Nhân, đội trưởng đội 12, đọc trên loa danh sách những nhà thiếu thóc chưa giao nộp cho hợp tác xã. Đèn đóm soi rừng rực ở các ngã đường. Chó sủa ơi là chó sủa. Cũng cái loa phóng thanh ấy, có tiếng ông chủ tịch xã gọi cán bộ về đội 12 hội ý. Ông trưởng công an xã Nguyễn Đình Định gào rát cổ trên loa, giọng giật giội gọi lực lượng dân quân, công an tăng cường về chi viện cho đội 12, tạo đà cho đội hoàn thành chỉ tiêu huy động. Tôi rùng mình nghĩ đội tôi là đội trọng điểm, nên cán bộ xã, hợp tác xã, vón cục cả về đây. Họ sẽ gõ cho ra chục tấn thóc còn tồn sổ.
Gần một giờ sáng, công an, dân quân đã ập đến các nhà nợ thóc. Tiếng chó sủa vang, tiếng lợn kêu èng ẹch như bị chọc tiết ở các nhà gần quanh, làm thằng Út Văn khóc thét lên, ôm riết lấy mẹ. Thằng Thức cũng im thin thít, nằm co trong lòng tôi không dám cựa. Bên nhà ông Ái, láng giềng cách vườn nhà tôi một hàng rào, công an và dân quân đang lùng sục. Tiếng ông bà Ái kêu xin và tiếng quát lác, tôi nghe rõ mồn một.
- Cứ bắt lấy cái xe đạp! Phích, xô, bắt ráo!
Ở cổng nhà tôi đã có bước chân rình rịch, con chó mực đang có chửa bị quất, kêu ử ử.
Cạch cạch cạch.
- Chị cò Lộc, mở cửa ra!
Tiếng thằng bé trong buồng khóc thét. Thằng Thức đang ôm tôi, nghe em khóc cũng òa khóc toáng lên. Thằng Học mười hai tuổi đã học lớp tám rồi, mà cũng níu lưng tôi run bắn. Nghe tiếng quát lần thứ hai, từ nhà bếp, tôi chạy lên. Một luồng đèn pin soi giữa mặt làm tôi lóa mắt, phải lấy tay che.
- Có chuyện gì đấy, các bạn trẻ ơi?
- Thu thóc, thu thóc chứ còn gì, ông đừng hỏi vờ.
Vợ tôi đã mở toang cửa, tay ôm thằng bé ngất lịm. Một anh, hai anh... bốn anh bạn trẻ ùa vào nhà. Anh đi đầu cao to, tóc cắt tăng gô, mặc áo bông thùng thình, soi đèn pin rồi đánh diêm châm cái đèn hoa kỳ ở bàn thờ. Có lẽ Tâm "hộ pháp" là người này. Phải, tôi đã thấy anh ta đứng chân hộ vệ giữa, trong một cuộc đá bóng với xã khác. Tay anh cầm cái choòng sắt cỡ ngón tay cái. Vợ tôi mời họ ngồi ghế. Bà cụ đang ốm ở giường bên cũng cố ngóc dậy, run rẩy chào.
 
Như là tình yêu


Hình như trong trái tim anh có một tình cảm mới mẻ, nguyên lành và tinh khôi đang nảy mầm.

Đôi khi, Tường thấy ngột ngạt kinh khủng. Và chênh vênh... Rất nhiều lúc, Tường tự hỏi không biết mình đang đi tìm điều gì mà cứ quẩn quanh mệt nhoài thế này.


Bạn bè nhìn thấy ở anh sự thành đạt, cuộc sống tự-do-có-khuôn-phép mà bố mẹ rất tôn trọng. Hai mươi lăm tuổi, liệu như thế có là đủ đầy?

Sau khi chia tay Quyên, anh cũng chẳng còn thói quen ra ngoài tối thứ bảy. Vẫn biết chẳng có gì vĩnh viễn, nỗi buồn rồi cũng qua, vết thương rồi cũng lành. Nhưng nỗi thất vọng ám ảnh không thôi khiến anh quên mất mình còn một chặng đường dài phía trước...

Lúc chia tay. Quyên chỉ nói một câu mà đủ sức dứt anh ra khỏi quãng thời gian ba năm yêu nhau: “Tình yêu mà! Em thật sự không giải thích được. Anh ấy có thể không tốt bằng anh. Nhưng chắc chắn em biết rằng đó không phải là một cơn say nắng...''.

Anh ngồi chết lặng nhìn cô. Lúc ấy, dường như cô không còn là cô gái bé nhỏ, yếu đuối nữa. Cô vụt trở nên khác hẳn, mạnh mẽ và quyết liệt như thể đang cố gắng bảo vệ cho người thứ ba kia.

Đó mới là điều làm anh đau đớn. Anh để cô ra đi, thật nhẹ nhàng...

Tường trở nên thờ ơ với chuyện hẹn hò. Hay nói đúng hơn là anh thấy mệt mỏi. Thật sự, anh vẫn chưa thôi nhớ đến Quyên... Anh cố gắng thu xếp lại mọi thứ có thể gợi nhớ đến cô, cất chúng vào một góc.

Một ngày mùa thu hanh hao. Gió nhẹ, nắng dịu. Dường như người đi trên phố cũng chậm hơn mọi ngày. Không có những gắng gỏi, chen lấn. Không có những cau có, bực dọc...

Hết giờ làm, bỗng nhiên Tường muốn lòng vòng đâu đó một chút. Về nhà giờ này cũng chẳng làm được gì, mà trời thì đang đẹp... Lướt xe qua một trạm xe buýt, bỗng có điều gì đó khiến anh phải ngoái đầu nhìn lại.

Phía kia là Quyên. Là Quyên với cái dáng bé nhỏ đã bao lần khiến anh chỉ muốn ôm vào lòng. Quyên, vai đeo ba lô, đứng tựa gốc cây. Hai tay đút vào túi áo khoác. Mắt nhìn xuống mũi giày đang di di trên đất. Rõ ràng là dáng đứng của Quyên mỗi khi chờ anh trước cổng trường.

Tường khựng lại một vài giây rồi quyết định vòng xe lại. Anh khẽ gọi: "Quyên!''. Cô gái ngước lên, miệng còn lẩm nhẩm hát theo chiếc iPod đeo trước ngực. Sau cặp kính cận là đôi mắt trong veo. Gỡ chiếc tai nghe, cô nhoẻn miệng cười:

- Gì vậy anh?

Một tích tắc, máu trong người Tường như đông cứng lại. Rồi cảm giác thất vọng xâm chiếm lấy anh. Không phải Quyên. Cô gái này nhìn trẻ con hơn nhiều. Nhưng vầng trán với những sợi tóc tơ mảnh dẻ lòa xòa, cả dáng đứng di di mũi giày xuống đất, giống Quyên vô cùng.

Nén tiếng thở dài, anh lắc đầu:

- Xin lỗi, anh nhầm!

Đưa tay vén đám tóc tơ, cô gái mỉm cười:

- Không sao đâu ạ, chuyện thường ấy mà!

Bỗng nhiên Tường thấy rã rời, hứng thú đi dạo tiêu tan đâu hết. Lúc này anh mới chợt nhớ ra, Quyên không bao giờ đi xe buýt. Cô rất sợ "mùi xe buýt". Anh không nghĩ rằng Quyên còn trong anh nhiều đến vậy. Tường về thẳng nhà trong sự mệt mỏi, chán chường.

Hôm nay, phòng Tường nhận một sinh viên thực tập. Anh được giao nhiệm vụ hướng dẫn. Vậy mà trận bóng đá nửa đêm làm anh đến muộn.

Tường ào vào phòng, miệng rối rít xin lỗi. Chị trưởng phòng đã quen với cảnh làm việc a-ma-tơ của đám trai trẻ. Lườm Tường, chị chỉ tay về phía bàn anh:

- Ra mắt “nhân viên mới” nhé! Đây là người đẹp trai nhất phòng chúng ta đấy!

Ngay tức thì, đám con trai trong phòng nhao nhao lên. Tường cười xòa rồi đưa mắt về bàn mình.

“Nhân viên mới” cũng kịp đứng dậy. Ngỡ ngàng, Tường nhận ra cô gái ở trạm xe buýt hôm trước. Cô chẳng có vẻ gì là nhận ra anh. Chị trưởng phòng vỗ vỗ vai Tường:

- Làm gì ngẩn ra thế? Chị "bàn giao" cô ấy cho em đấy nhé. Hướng dẫn cho tốt đấy!

Hơi bất ngờ và bối rối, Tường gật đầu chào. Cô gái đẩy gọng kính, nhoẻn cười rất tự tin:

- Em tên Khanh!

Khanh thông minh. Làm việc với cô, Tường thấy rất thoải mái. Anh thật sự ngạc nhiên bởi những ý tưởng trẻ trung của cô.

Trong tay Khanh, những bản decor, bố cục xơ cứng trở nên linh hoạt, đầy phá cách. Nhìn cách Khanh làm việc, Tường quên mất là mình đang hướng dẫn. Anh nhận ra từ lâu, mình đã bỏ quên sự sáng tạo.

Khanh cư xử rất dễ thương. Cô luôn quan tâm đến mọi người theo cách riêng của mình.

Với Tường, sự quan tâm có vẻ đặc biệt hơn đôi chút. Có lẽ vì hai anh em có nhiều dịp tiếp xúc với nhau hơn.

Thỉnh thoảng, Khanh dúi vào tay anh những viên kẹo trái cây trong trong, nhiều màu sắc, thơm lừng. Theo thói quen, anh nhận rồi đút luôn vào túi áo, túi quần.

Nhiều khi nhớ ra, viên kẹo đã chảy nước hoặc chiếc quần đã nằm trong máy giặt. Đôi khi, Khanh thắc mắc:

- Anh không thích kẹo?

Anh cười xòa:

- Thích, nhưng đang làm việc, lúc nào rỗi, anh sẽ ăn.

Thế là Khanh quên ngay, lại cắm cúi làm việc. Lần sau, cô lại tiếp tục dúi vào tay anh những viên kẹo trong trong, thơm lừng...

Chỉ còn một tuần nữa là Khanh kết thúc đợt thực tập. Chiều mưa, cô ngập ngừng hỏi:

- Anh cho em đi nhờ một đoạn nhé! Trời mưa to quá, ra đến trạm xe buýt thì ướt mất...

Khanh có thói quen đi xe buýt, vì “không bao giờ có cảm giác một mình”, có lần cô giải thích với Tường như thế.

Tường bật cười trước vẻ nghiêm trọng của Khanh:

- Trời ơi! Anh chở em vô tận nhà cũng được, có sao đâu mà...

Khanh nhoẻn cười ngượng nghịu:

- Em cứ sợ anh bận...

Khanh ngồi sau xe, xuýt xoa vì lạnh. Tường bật cười, khẽ nhắc:

- Ngồi cẩn thận, kẻo ướt đấy, nhóc!

Khanh rủ rê:

- Đi uống cà-phê? Em biết một quán hay lắm.

Khanh ngồi lọt thỏm trong chiếc ghế đệm dày ở quán, liến thoáng như cô học trò cấp ba.

Tường thấy ngạt thở. Khanh không biết rằng đây là nơi ngày trước anh và Quyên thường ngồi. Và cái vẻ bé nhỏ của Khanh lúc này giống Quyên đến nao lòng.

Tường lặng im. Khanh hỏi điều gì đó loáng thoáng bên tai.

- Sao, em bảo gì?

Khanh ngạc nhiên:

- Anh sao thế? Có gì không ổn à?

- Không có gì! Mà em vừa hỏi gì cơ?

- À em bảo là hôm nay thứ bảy, anh có phải về sớm không?

Tường nhướn mắt:

- Để làm gì?

Khanh nghiêng đầu, nhìn anh lạ lẫm:

- Anh không đi chơi với chị ấy à?

Một khoảng tối vụt nhanh qua mắt, Tường lắc đầu. Khanh hơi khựng lại, không hỏi gì nữa, cắm cúi khuấy khuấy, gõ gõ tách cà phê.

Ngồi một lúc thấy có vẻ gượng gạo, anh đề nghị:

- Mình về nhé!

Khanh gật đầu, vẻ mặt không còn vui như lúc chiều. Bỗng nhiên, Tường thấy có lỗi, gượng cười:

- Hay là anh em mình đi ăn thứ gì đó đi!

Cô lắc lắc mái tóc nâu:

- Em muốn về nhà.

Anh thả Khanh xuống đầu con dốc. Rồi như có điều gì đó khiến anh phải nán lại nhìn cô. Hai tay đút vào túi áo khoác, cô chầm chậm đi xuống con dốc nhỏ. Hôm đó, anh về nhà rất muộn...

Vắng Khanh, cả phòng trầm hẳn. Chẳng còn giọng nói trong trẻo, cái dáng mảnh khảnh nhanh nhẹn. Ai cũng buột miệng: “Nhớ Khanh quá!".

Chị trưởng phòng trêu:

- Tường nhớ cô bé ấy nhất đấy nhỉ?

Anh mỉm cười, lại cắm cúi với bản vẽ. Không có Khanh, anh thấy mình bận rộn, phải làm công việc nhiều hơn. Đôi lúc ngừng tay, anh cảm thấy thiếu thiếu, trống trải...

Mở ngăn kéo tìm cây bút dạ, tìm mãi không thấy, bực mình. anh kéo luôn ngăn tủ ra ngoài.

Thật bất ngờ, sâu trong góc ngăn là một lọ thủy tinh chứa đầy những viên kẹo trong trong, nhiều màu sắc, thơm lừng...

Anh mỉm cười, rồi rất tự nhiên, bóc luôn một viên, cho vào miệng. Một mảnh giấy từ vỏ bọc viên kẹo rơi ra: ''Cuộc sống là một bức tranh muôn màu. Hãy chấp nhận và yêu tất cả những mảng màu mình có, anh ạ''.

Tò mò xen lẫn thích thú quên mất việc anh tìm cây bút dạ, anh bóc tiếp viên thứ hai, thứ ba, thứ tư. Mỗi viên là một câu chúc rất ngộ.

Cuối cùng anh quyết định đóng nắp hộp lại, cất vào chỗ cũ.

Và cứ thế, thành một thói quen. Mỗi sáng ngồi vào bàn, việc đầu tiên anh làm là nhón lấy một viên kẹo, chờ đợi một lời chúc ngộ nghĩnh.

Những chiếc kẹo vơi dần, vơi dần trong lọ thủy tinh. Đến khi chỉ còn lại vài ba chiếc thì Khanh trở lại.

Anh không gặp được cô. Chỉ nghe nói là cô đi đâu ngang qua đây, thấy nhớ mọi người nên ghé vào thăm rồi đi ngay.

Lúc đó, anh sang phòng kế hoạch chưa về.

Không nghe thấy Khanh hỏi gì về anh, mà anh cũng không tiện hỏi ai, nên thôi. Về bàn làm việc lật giở từng tập tài liệu, bản vẽ, kể cả mở chiếc lọ thủy tinh, Tường thấy cũng chỉ còn đúng năm viên kẹo.

Không thấy Khanh để lại gì cho anh, một mảnh giấy với vài dòng thăm hỏi chẳng hạn... Có gì đó gần giống với sự thất vọng lẫn bực bội vô lý xuất hiện trong lòng.

Hình như cả ngày hôm đó anh làm việc nhiều hơn, để xua đi những cảm giác kỳ lạ...

Cơn mưa chiều ập tới, mọi người ngồi trêu chọc nhau. Anh bỗng nhớ đến giọng ngập ngùng khe khẽ của Khanh hôm nào: “Anh cho em đi nhờ một đoạn nhé...”.

Anh nhớ cái vẻ trẻ con của cô lúc ngồi sau xe, xuýt xoa vì lạnh. Cũng lâu lắm rồi mới có một cô gái ngồi sau lưng anh như thế...

Anh thảng thốt nhận ra mình đang nhớ Khanh. Nhưng không hiểu sao có gì đó ngăn lại, tựa như chính anh không dám tin vào cảm giác của mình.

Đôi khi, cảm giác chỉ là cảm giác. Mà anh thì cần nhiều hơn thế. Anh cần một niềm tin...

Tường không biết mình đã nói gì với Khanh dưới tán lá xanh của cây sấu già đầu con dốc nhỏ. Anh chỉ biết mình đã đứng chờ Khanh từ lâu lắm rồi. Có lần, anh chỉ kịp nhìn thấy cái dáng mảnh khảnh của Khanh bước xuống xe buýt phía bên kia đường.

Cũng có lần, anh đứng nhìn theo chân cô nghịch ngợm, vừa đi vừa nhảy lên để chạm vào những chiếc lá.

Nhiều lúc, anh cố ghìm mình, không bật gọi tên Khanh. Đó là khi anh nhìn thấy cô đơn độc, lặng lẽ ngồi phịch xuống dưới chiếc cổng màu xanh, rũ đầy những chùm hoa cát đằng.

Chờ đợi, chẳng biết để làm gì, hay chỉ để cho mình một cơ hội...

Cho đến khi Khanh ngước đôi mắt ướt nhìn Tường, thì thầm: "Em biết thế nào anh cũng đến mà!'', trong anh vỡ òa...

Hình như có điều gì đó mới mẻ đang nảy mầm đâu đây thật nguyên lành tinh khôi...

Hình như tay Khanh đang nằm gọn trong bàn tay ấm áp của anh.

Hình như... đó là tình yêu. Mà không, anh biết chắc chắn, đó chính là tình yêu...


Theo Thế Giới Văn Hóa
 
Hồng nhan
Trần Minh Thuận


Long chưa bao giờ thấy ai bán vé số mà đẹp vậy. Cả cái xóm Cải Già này xôn xao hẳn lên từ khi cổ đến, nhứt là mấy ông sồn sồn rỗi việc và mấy cậu choai choai tuổi mới dậy thì.


Mấy quán càphê trong xóm ế ẩm thường xuyên tự dưng đông khách lạ thường, người ta đến ngồi chật cả quán để uống càphê và mua vé số. Thật ra là để ngắm cô bán vé số và trêu ghẹo vài câu. Quán có mười bàn thì hầu như cả mười bàn đều có người mua số. Ông Tư Búa lựa một hồi lâu mà chỉ mua một tấm, miệng cười hề hề méo xẹo:


- Mỗi bữa mua một tấm được rồi, bi nhiêu đó mà vô độc đắc chắc là đủ cưới em rồi hén! Một tấm vé số này biết đâu bằng tiền tui mài dao hai chục năm. Mà cô em tên gì? Hổm rày quên hỏi.


Cô gái liếc nhẹ ông một cái:


- Trúng năm tấm tui mới ưng, mua thêm vài tấm nữa đi rồi tui nói tên cho biết.

Ông Tư thấy cột sống mình như có một luồng điện chạy rần rần trước cái liếc mắt sắc như dao cạo, rất đơn giản bởi đã hơn năm mươi tuổi rồi mà ông chưa có lấy một lần làm chú rể. Ông móc hết các túi của cái quần soọc gom được mười một ngàn, chừa một ngàn để trả ly càphê đen còn bi nhiêu mua hết, ông phùng mang:


- Chơi xả láng, sáng có giang máy cày dìa luôn. Cô tên gì nói tui nghe đi!


Cô lẹ làng đưa ông thêm bốn tấm vé số nữa:


- Thuyền! Điêu Thuyền đó nghen! Tui đang chờ Lữ Ôn Hầu mà chưa thấy ổng đâu.


Cả quán càphê cười rần rần trước câu đùa có duyên (hay vô duyên) của cô. Hình như người đẹp nói câu nào cũng có duyên.


Long ngồi một mình lặng lẽ quan sát cô gái. Đẹp như vậy chắc thiếu gì dân nhà giàu đeo, hay ít nhất cũng có thể xin được những chỗ làm tốt thì tại sao đi bán vé số chớ. Hổng lẽ cổ không biết chữ như mình? Hổng biết chữ nhưng đẹp vậy thì cũng thiếu gì chỗ nhận? Long nhìn kỹ và nhận thấy cô gái này có một điều gì đó rất bí ẩn, đằng sau ánh mắt lẳng lơ giả tạo kia như cất giấu một nỗi buồn.


Người trải qua bao nhiêu nỗi đau trong cuộc sống như Long thì nỗi buồn của người khác anh cảm thấy rất rõ dù người ta cố tình che giấu nó đi. Cô nhìn quanh quất rồi đi về phía bàn Long, chìa xấp vé số ra, giọng ngọt như mía lùi:


- Anh Hai mua giùm em vài tấm, chiều nay trúng số lấy rổ đựng tiền, chạy liền ra chợ, bợ cái tivi, dìa coi cho đã.


Cô nói một hơi có vần có điệu nhưng không hiểu sao Long chẳng có một chút cảm giác nào. Anh chỉ thấy tội nghiệp thật lòng cô gái trẻ kia, sao mà phải sống trong một cái vỏ bọc như vậy chớ. Anh lắc đầu nhè nhẹ:


- Tui không bao giờ kiếm tiền bằng cách rủi may.


Một chút bối rối hiện lên khuôn mặt, cô gái lặng lẽ bước ra khỏi quán, dáng đi sao mà trông khổ đến lạ. Khi không Long lại xao lòng với tấm lưng thon thả. Anh tự cười mình: Điên thiệt! Không tới mầy đâu mà trông, người ta đẹp như vậy thiếu gì người đeo. Quên đi! Cái thằng bốc vác mà mong gì!


Anh cố quên nhưng không biết sao chẳng thể nào quên được, bóng dáng ấy cứ bám lấy anh, dai dẳng đến đáng ghét. Anh vác gạo hùng hục cho quên, mệt quá thì quên mà hễ nghỉ uống nước một chút thì nhớ, tối về nhà nằm trằn trọc không ngủ được lại càng nhớ hơn.


Từ hôm anh từ chối mua số, cô không bao giờ mời anh nữa. Cô càng nói chuyện bạo hơn làm cho mấy ông hảo ngọt chết mê chết mệt và vé số cô bán càng chạy hơn, có ngày cô bán hơn ba trăm vé. Trong xóm xảy ra không biết bao nhiêu vụ vợ chồng lục đục chửi bới, thậm chí đánh nhau tơi tả mà nguyên nhân cốt lõi theo mấy bà vợ là đều do mấy tấm vé số của cô. Một bữa, bà Hai thu mua phế liệu bị chồng đánh chạy cồng cồng ra giữa chợ chửi rùm lên:


- Trời đất ơi! Bà con ơi! Nó mê con đĩ đó, tui nói mà nó đánh tui. Bi nhiêu tiền đem mua vé số hết! Sao hông mua luôn "cái đó" đi!


Ông Hai chạy theo lôi bà về nhà. Bà cố vùng vẫy, cào cấu nhưng cuối cùng cũng phải chịu phần vì ông mạnh quá, phần vì bà con cả chợ bu lại, như coi hát Sơn Đông. Mắc cỡ. Nhiều ánh mắt nhìn bà thông cảm, cả cái chợ này hình như rất nhiều người bị chồng hạ cẳng tay, thượng cẳng chân vì cô bán vé số. Họ xúm lại bàn bạc, rì rầm chửi rủa cô thậm tệ, coi cô chính là thủ phạm làm cho gia đình họ xào xáo không yên.


Lẽ thường tình hễ tức nước là vỡ bờ. Một buổi chiều đi vác gạo ngoài bến về, Long thấy rất đông người bu đen bu đỏ. Nghe mấy bà đàn bà chửi toàn những lời tục tĩu, trong đầu Long lờ mờ đoán ra điều gì đó bất ổn đến với cô. Anh vẹt đám đông bước vào và một cảnh hãi hùng đập vào mắt anh. Bốn năm người đàn bà đang túm lấy Thuyền, miệng chửi tay đánh. Bà Hai là người hung hăng nhất:


- Đánh cho mầy đi khỏi xứ này luôn! Mầy là con quỷ chớ con người gì! Bữa nay, tụi tao cho mầy biết tay!


Nói xong bà cầm cây kéo chụp đầu cô cắt lia lịa, từng lọn tóc bay lả tả xuống đất. Mái tóc dài tha thướt của cô nhanh chóng xơ xác đến tội nghiệp. Mấy bà khác cũng xúm lại xé áo xé quần cô nghe rẹt rẹt. Thuyền ngồi dưới đất cam chịu, không cự nự, đôi mắt ráo hoảnh không có một giọt nước mắt nào. Gương mặt vô hồn. Nhói lòng, Long vội bước tới lôi mấy bà kia ra, ẵm Thuyền chạy ra khỏi đám đông hỗn loạn. Anh nghe họ chửi với theo:


- Mầy giỏi thì cưới nó đi cho tụi tao yên! Cái thứ đó cưới nó, mầy cũng khổ thôi chớ chẳng sướng ích gì đâu.


Ra khỏi chợ, anh bỏ cô xuống, cởi áo mình choàng vô cho cô mặc. Lúc nầy, Long mới thấy hai giọt nước mắt trong veo lặng lẽ chảy dài trên má Thuyền. Anh nói nhỏ, giọng run run vì xúc động:


- Sao cô ra nông nỗi nầy chớ, tui cũng không hiểu tại sao cô phải sống theo cách như vậy nữa. Có chuyện gì cô nói thử coi tui có giúp được gì không. Cô ở đâu tới đây vậy?


Anh hỏi một hơi mà cô vẫn không trả lời câu nào. Hai người ngồi im lặng trên bờ đê nhìn con nước ròng hồi lâu. Cuối cùng cô đứng dậy:


- Tui dìa đây! Cảm ơn anh!


Cô lê từng bước chậm chạp trên con đê nhỏ, anh nhìn theo cái bóng nhỏ vàng vọt, xiêu vẹo in trên đê dưới những tia nắng chiều cuối cùng yếu ớt. Tự dưng anh thấy mắt mình cay cay. Ngay ngày hôm sau, xóm Cải Già lại nhanh chóng loan đi một tin khủng khiếp: Thuyền không còn đi bán vé số nữa mà đã đi bán bia ôm ở quán Điểm Hẹn của bà Năm Đau Khổ. Cái quán này Long chưa bao giờ ghé nhưng nghe thiên hạ nói thôi thì cũng đủ biết, ai vô đó bước ra bao giờ cũng rất "đau khổ" vì may mắn lắm là còn lại bộ đồ.


Cuối cùng anh cũng gặp Thuyền ngoài chợ khi cô cố tình cho cả chợ này biết hình ảnh mới của mình. Mái tóc dài mới bị "sởn" xơ xác ngày hôm qua biến thành một kiểu tóc tém rất hợp thời trang với màu vàng óng ánh. Bộ bà ba bị xé tả tơi hôm qua nhanh chóng thay thế bằng một cái áo thun hai dây treo hờ hững trên đôi bờ vai, cổ áo rộng đến nỗi lồ lộ cả một phần ngực và cái quần jean trễ cạp khoe nguyên một khoảng bụng trắng nõn nà.


Đi bên cạnh Thuyền có thêm hai thằng ma cô mình mẩy xăm vằn vện và tóc tai bờm xờm với bộ mặt lạnh tanh. Cô đi từ đầu chợ đến cuối chợ, ghé từng nhà mấy bà đã đánh cô hôm qua nhưng họ trốn mất biệt. Long gặp cô trong quán càphê, nhưng anh lặng yên vì cũng không biết nói gì. Thuyền kêu cái đen uống và giơ tay ngoắc thằng nhỏ bán vé số lại:


- Bữa nay mầy còn bi nhiêu chị mua hết! Năm chục vé phải hôn? Một trăm nè! Từ đây dìa sau, mầy không còn một đối thủ cạnh tranh lợi hại nữa đâu. Tao bây giờ bán cái khác chớ không bán vé số nữa.


Nghe cô nói mà Long thấy nỗi chua chát dâng lên ngập lòng. Làm sao đến nông nỗi như vầy hả Thuyền! Phải chi tui có đủ điều kiện để giúp cô vượt qua những khó khăn trong cuộc sống này. Từ đó đêm nào anh cũng thập thò ở quán bia của bà Năm Đau Khổ để chờ cô về. Cứ đều đặn khoảng mười một giờ là cô rời quán lội bộ về căn nhà nhỏ thuê ở cuối chợ. Cô đi trước, anh lặng lẽ đi sau, khi cô dừng lại ói thì có anh bên cạnh vỗ lưng, đưa khăn cho cô lau miệng.


Mấy hôm đầu cô còn cự nự không chịu nhưng dần dần việc này trở nên quen thuộc với cô và nói thiệt nhằm bữa mà không có anh kè về chắc cô đã nằm xỉn ngoài đê hay đâm đầu xuống kinh rồi cũng nên. Anh thấy cô khóc nhiều hơn trong những cơn say oằn oại, có lẽ khi say rượu người ta không thể nào tự dối lòng mình được. Một bữa thấy cô uống nhiều rượu say mèm nên anh không dám bỏ cô lại một mình trong căn nhà rách nát, gió thổi vào lồng lộng, lạnh thấu xương. Anh sợ cô trúng gió. Cô nằm trên vạt chúi đầu xuống mà ói ồ ồ, xong rồi khóc như con nít:


- Má ơi! Con hư rồi! Cuộc đời con coi như bỏ đi rồi. Bin ơi! Con biết kêu má chưa? Chừng nào má mới gặp lại con đây. Trời ơi! Con tui còn nhỏ xíu mà!


Anh ngồi kế bên tay cầm ca nước đưa cho cô xúc miệng:


- Cô ráng ói ra hết đi! Chút khoẻ lại hà! Uống chi nhiều vậy hông biết!


Sau khi ói hết, Thuyền tỉnh táo trở lại:


- Anh dìa đi! ở đây làm gì mang tiếng lắm! Tui nói là nói cho anh chớ thân tui có còn cái gì đâu mà sợ mang tiếng.


Anh lúng túng, nửa muốn về nửa không. Cuối cùng anh quyết định:


- Tui không sợ mang tiếng! Mà thân tui cũng vậy thôi, cái thằng không cha không mẹ, dốt đặc cán cuốc như tui thì sợ mang tiếng gì chớ! Với lại, tui muốn nói chuyện với cô.


Thuyền ngồi dựa vào vách nhìn anh buồn buồn, có lẽ cô đã lờ mờ hiểu ra những điều anh muốn nói. Đâu có ai thật lòng lo lắng cho mình như anh đâu, cô ngước lên:


- Anh quyết không dìa thì thôi! Nhưng mà anh có đủ can đảm ngồi nghe tui kể chuyện đời tui không. Nếu chịu nghe hết thì anh muốn nói gì thì nói.


Long gật đầu cái rụp:


- Tui nghe! Nghe tới sáng cũng được! Dù chuyện cô như thế nào đi nữa tui vẫn nói những suy nghĩ của mình bao lâu nay. Cô kể đi!


Suốt đêm hôm đó Thuyền kể cho Long nghe về cuộc đời đau khổ của mình. Giọng cô chầm chậm, buồn thiệt buồn. Quê cô ở tận đất mũi Cà Mau. Từ đây tới đó ít gì cũng hơn ba trăm cây số. Cô thương một người thật lòng. Hai người quen nhau được gần hai năm, tình cảm tưởng là rất sâu đậm.


Cô là một cô gái nghèo ở nhà phụ má bán cái tiệm tạp hoá nhỏ. Một lần hắn ghé vào mua một gói thuốc, thấy cô bán hàng xinh đẹp nên từ đó về sau lui tới thường xuyên. Hắn giúp đỡ gia đình cô nhiều nên chiếm được cảm tình của má cô và cô cũng rất cảm động. Tình yêu của một đứa con gái mới lớn rất ngây thơ và trong sáng, cô thường mơ ước một ngày mình bước lên xe hoa về nhà người chồng mình thương yêu hết mực. Kết quả của sự yêu đương bồng bột đó là một giọt máu đã tượng hình trong bụng Thuyền.


Sau khi nghe cô báo tin này và nói ý định muốn làm đám cưới của mình thì hắn trốn biệt. Sau nhiều lần chống xuồng đi dò la, cô mới tìm được đến nhà hắn thì một sự trùng hợp ngẫu nhiên rất đau lòng lại xảy ra: Bữa đó là ngày đám cưới của hắn. Sự đau khổ và tức giận dâng lên đến tột cùng, cô ra chợ mua một cái ca nhựa và một can axít. Nhưng nghĩ tới nghĩ lui cô thấy mình không thể quá hèn hạ và độc ác, người ta phụ mình thì có trời đất phạt họ, con mình đẻ ra thì mình nuôi. Cô đổi ca axít bằng một ca nước mắm và đi đến nhà hắn. Đám cưới đông vui, chẳng ai để ý đến cô gái lạ. Cô bước đến trước mặt cô dâu và chú rể chậm chạp từng tiếng:


- Anh có con với tui rồi mà còn cưới vợ, bữa nay tui bắt anh phải trả sự công bằng lại cho tui.

Nói xong cô giơ ca nước mắm lên, khách khứa chạy tán loạn vì họ tưởng đó là ca axít. Cô tạt mạnh vào người hắn và bỏ chạy một hơi ra chiếc xuồng ba lá ngoài bến, mở dây chống vội ra sông cái về nhà mà nước mắt ròng ròng. Cô vừa chống xuồng vừa lẩm bẩm một mình trong cơn nấc nghẹn:


- Anh bỏ tui, tui cũng không cần anh nữa, chắc cũng có người giống như tui rồi nên người ta mới nói: Ví dầu tình có dở dang/ mình ên, thiếp chống đò ngang thiếp dìa. Bây giờ tui cũng y chang như vậy, tui cũng một mình chống xuồng dìa nhà nè! Trời ơi!


Cô khóc muốn hết nước mắt, nhiều lúc muốn chết cho rồi nhưng nhìn cái bụng đội áo ngày càng cao, cô không đành lòng. Đứa nhỏ trong bụng cô có tội tình gì chớ? Dù sao đi nữa mình cũng phải sinh nó ra và nuôi cho nó thành người. Cả xóm ai cũng nhìn cô với ánh mắt ghẻ lạnh. Không chồng mà có mang thì không gì nhục bằng. Họ dạy đám con nít mấy câu chọc cô khi cô mang cái bụng bầu ra đường: "Không chồng mà chửa mới ngoan, có chồng mà chửa thế gian chuyện thường". Sự chịu đựng cũng có giới hạn, khi thằng Bin được bốn tháng thì cô để con lại cho má nuôi, bỏ xứ đi nơi khác làm để kiếm tiền gởi về nhà tiếp má nuôi thằng Bin. Đã hơn năm rồi cô chưa gặp lại con, cô nhớ nó lắm, tối ngủ khóc hoài. Cô mong muốn một ngày về bên con mà không còn phải ngại ngùng.


Long ngồi lặng lẽ nghe cô kể đến khi gà đã gáy vang trong xóm. Anh ôm lấy cô, vỗ về:


- Dù sao cô cũng còn may mắn hơn tui, còn có con, có má. Còn tui là một đứa con nít bị người ta quăng bỏ bên đầu cầu. Đến bi giờ ba má tui mặt mũi ra sao tui còn hông biết. Nếu cô không ngại, tui muốn mình làm ba thằng nhỏ, tui với cô cùng dìa một lượt cho nó có ba có má đầy đủ thì cô không còn sợ ai cười nữa. Tui tính vậy cô thấy sao? Nếu được, hừng đông mình đi liền.


Thuyền lại khóc, nhưng có lẽ bây giờ là những giọt nước mắt hạnh phúc. Cô nhìn anh không nói nên lời. Đúng là ông trời còn thương cô. Anh chạy về nhà gom ít quần áo và mớ tiền dành dụm mấy năm qua rồi trở lại giúp cô thu dọn đồ đạc. Cả hai lặng lẽ rời khỏi xóm Cải Già khi trời còn chưa sáng, sương đêm lạnh buốt đôi vai nhưng trong lòng họ như có một ngọn lửa ấm áp được thắp lên...
 
Chúc một ngày hạnh phúc
Diễm Tuyết

Chị tôi, trong bộ đồ bệnh nhân, bước đi theo người y tá vào phòng mổ. Nhìn dáng liêu xiêu của chị, tôi thấy chạnh lòng mà không dám khóc. Tôi chưa thấy ai sắp được mổ bước đi vô hồn mà vội vã như chị.

Năm mươi tuổi đời, xinh đẹp và độc thân. Giống như những bông hoa chưng trong mùa nắng; những cơn buồn nhiều hơn cuộc vui đã làm cho nhan sắc chị tàn phai nhanh dần theo năm tháng. Sống cởi mở với cuộc đời nhưng số phận vẫn như không buông tha cho chị. Một khối u nào đó, có lẽ hình thành từ những nỗi buồn lẻ loi trong nhiều năm tháng đã lớn dần lên trong người chị. Vài lần chị vẫn do dự chưa quyết định có nên cắt bỏ nó hay không. Vì sự tồn tại của nó hơn mười năm nay thật sự chưa phiền hà đến chị là bao, ngoài những cơn mệt mỏi vô cớ không thường xuyên mà chị nghĩ rằng do mình bắt đầu có tuổi. Thế rồi sau một đợt khám tổng quát rồi đến khám chi tiết, bác sĩ nói bằng một giọng thật nhẹ nhàng nhưng gây chấn động chẳng khác nào quan tòa vừa tuyên án tử hình: một u nang buồng trứng, một u xơ tử cung cần cắt bỏ vì nó không còn chức năng gì nữa ngoài việc có thể chuyển sang ung thư và gây tử vong.

Chiều hôm qua, lúc hai chị em ngồi ở phòng khám, miệng chị mếu xệch, chực khóc: “Nên mổ không em?”. Chao ôi, đó là câu hỏi khó trả lời nhất trong đời tôi. Thường ngày, tôi vẫn trả lời những bệnh nhân của mình bằng những câu hỏi hết sức tự tin và tế nhị: “Không sao đâu, mổ xong là hết bệnh”, “Bệnh này thường lắm, nhiều người mổ lắm, nghỉ ngơi một thời gian thì bình phục hoàn toàn, không có tai biến gì đâu”... Thế nhưng, với chị, sao tôi không có can đảm trả lời như vậy. Mỗi một ca mổ đều là một sự can thiệp bất thường của bàn tay con người vào những chức năng sống của cơ thể. Làm sao ai có thể chắc chắn được không có điều gì xảy ra? Ai có thể chắc chắn được không hề có một tai biến nào. Mỗi một ca mổ là một chuyến đi về định mệnh. Trông bề ngoài, chị vẫn như một người khỏe mạnh, đang đi đứng yên lành. Nếu tôi lắc đầu: không nên mổ, thì tôi đã ngăn chặn một cơ hội sống của chị tôi về sau. Tôi đã trả lời chị bằng một câu hỏi: “Bác sĩ còn đưa ra cho chị phương án nào nữa không?”. “Không còn cách nào khác em ạ”. Chị thở dài ảo não.

Chiều hôm qua, trong khi hai chị em ngồi đợi làm thủ tục nhập viện, chị đã nói với tôi: “Em ạ, hay là mình đi thẳng lên Đà Lạt chơi một chuyến rồi về Nha Trang quách cho rồi”. Lời đề nghị mới hấp dẫn như thể dường như cuộc sống thật tươi đẹp không biết gì là tật là bệnh. Quả thật, chỉ cần bước ra khỏi Bệnh viện Từ Dũ này, đón một chuyến xe đò thì đến tối hai chị em chúng tôi đã ở nơi nhà ông anh. Lâu nay bận rộn không có dịp đi thăm nhau. Chỉ một chuyến xe, chúng tôi có thể thoát khỏi thành phố Sài Gòn bụi bặm nóng bức này và tận hưởng một không khí mát lạnh của vùng cao nguyên; để rồi vài ngày sau cuộc sống lại trở lại bình lặng như thành phố biển tôi đang sống; để rồi khối u vẫn cứ thỉnh thoảng cuộn lên những cơn mệt mỏi bất thường trong người chị như cơn sóng ngầm. Cuộc sống là một bài thi trắc nghiệm mà trong đó buộc mình phải đánh dấu vào một ô vuông nào đó. Ô vuông của cuộc đời chị, tôi nào dám mạnh mẽ đánh dấu vào.

Mới sáng hôm qua, hai chị em còn đi siêu thị lựa thứ này thứ kia, chị ướm thử hết áo này áo nọ, tỉ mỉ chọn lựa từng màu son môi, từng chiếc túi xách. Mỗi lần vào thành phố, chị không bao giờ quên việc đi mua sắm. Chị như luôn cảm thấy hạnh phúc trong công việc này. Mua sắm cho mình và mua quà cho mọi người trong nhà. Chị luôn có sở thích mua sắm và ăn hàng. Mỗi khi buồn, chị đi mua sắm. Mỗi khi buồn, chị đi ăn hàng. Mỗi lần chị rủ tôi đi ăn là tôi biết chị có điều không vui. Chị thích nói với tôi một câu: “Cuộc sống là món ăn mà buồn vui như gia vị”. Mới sáng hôm qua, chị hồn nhiên bên những chiếc tủ lạnh như những cô gái mới lớn mà buổi chiều chị đã như một bà già, lưng còng hẳn xuống và vai so lại ủ rũ như con gà mái đứng dưới mưa, mặc dù chị đang diện một bộ đồ thật đẹp. Ngồi trên hàng ghế đợi, có lẽ, chị cũng không nghĩ đến điều gì xa xôi quá hăm bốn tiếng đồng hồ. Chị đang chờ nghe gọi tên mình, chờ thủ tục nhập viện, rồi sau đó sẽ chờ phẫu thuật, chờ kết quả. Cả phần đời còn lại như được quyết định bằng hăm bốn tiếng đồng hồ nữa thôi. Tất cả quá khứ cũng trở nên vô nghĩa, tương lai thì miễn dự định. Vậy mà ngay trong chính cái thời khắc hăm bốn tiếng đồng hồ này, chị không làm gì được cho mình, và tôi không biết làm gì cho chị ngoài việc ngồi chờ.

Sáng hôm qua, tôi chở chị đi mua chim phóng sinh. Có ai đó mách rằng phóng sinh chim sẽ được mạnh khỏe và sống lâu. Những con chim nhỏ bé bay lên cao bên trên tháp chùa Vĩnh Nghiêm trông thật dễ thương. Chúng bỗng gieo trong lòng tôi một niềm tin mạnh mẽ rằng chị tôi sẽ khỏi bệnh. Những con chim như mang theo một lời nguyện cầu của tôi trình lên đấng tối cao nào đó, cầu xin cho chị tôi được an lành. Một người bạn của tôi nói đùa: “Chim ở đây quen rồi, chúng nó bay một vòng rồi quay trở lại chui vào lồng của người bán chim thôi”. Mong sao không phải như vậy. Nếu không thì số phận của người phụ nữ như chị tôi cũng luẩn quẩn như những con chim sẻ chỉ biết đường về lồng chim.

Cánh cửa tự động của phòng mổ khép lại sau lưng chị. Tôi có cảm tưởng mình không còn biết gì về chị nữa. Ngay cả bộ đồ mặc cho bệnh nhân mổ trên người chị cũng quá lạ lẫm. Chẳng lẽ nào đó là hình ảnh cuối cùng của chị mà tôi ghi nhận lại? Bây giờ có lẽ chị đang trả lời những câu hỏi của nhân viên gây mê. Những câu hỏi người ta thường hỏi cho đến lúc bệnh nhân không trả lời được nữa và chìm lỉm trong giấc ngủ của cơn tiền mê. Bây giờ có lẽ bác sĩ đang “khai đao”. Tôi bỗng hoảng hốt. Dường như tôi đang lạc mất chị. Tôi cố nhớ lại chị. Tôi cố tưởng tượng ra lúc hai chị em đang sóng sánh cùng nhau. Nhưng tôi bất lực. Ngày ngày chị chăm sóc cho mỗi người trong gia đình. Mọi thứ đều có bàn tay chăm chút của chị, nhưng dường như trong nhà không ai bận tâm đến những gì chị đã làm, cứ như một sự hiển nhiên. Bây giờ, thời gian như ngừng lại. Những kỷ niệm của tôi và chị như ngừng tại đây. Tôi không còn biết gì về chị nữa. Tôi nhìn quanh lục tìm. Chỉ còn chiếc điện thoại di động của chị. Tôi cầm nó lên tay, tôi có cảm tưởng nó chực reo.

Xưa nay, tôi chưa bao giờ tò mò nhìn vào điện thoại ai, vậy mà, bây giờ tôi hối hả lục tìm trong điện thoại của chị. Tôi hối hả nắm giữ những gì còn sót lại, có thể liên quan đến chị. Tôi đọc điện thoại của chị, như thế nó có thể nói cho tôi biết chị tôi bây giờ ra sao. Những cái tên riêng trong danh bạ không bỏ dấu, tôi chẳng biết ai ngoài một số người thân trong gia đình. Bỗng dưng trong tôi xuất hiện một ý tưởng ngớ ngẩn. Tôi muốn gởi đi một tin nhắn hàng loạt cho tất cả mọi người trong danh bạ: “Ai biết chị tôi bây giờ ra sao không?”. Tôi chợt oán ghét những cái tên này. Sao chẳng ai gọi đến một cú điện thoại nào hỏi thăm chị tôi cả. Tôi lục tìm tin nhắn. Tôi chợt sững người khi chợt thấy một mẩu tin mới nhất của một ai đó với cái tên được lưu là QD. “Can đảm lên, anh luôn ở bên cạnh em. Anh sẽ là người đầu tiên gọi cho em khi em tỉnh giấc”. Đọc xong tin nhắn, tôi vội vàng tắt điện thoại của chị. Tôi sợ nghe tiếng người đó gọi. Hiện giờ thì tôi chưa thể trả lời cho ai biết tình trạng của chị. Tôi sợ sẽ gây thất vọng cho một ai đó. Có lẽ, chị cũng muốn nghe được giọng nói của QD đầu tiên sau khi mình tỉnh thuốc mê. Bỗng dưng, tất cả những ý nghĩ của tôi về chị bây giờ tò mò chuyển sang một nhân vật khác. QD là ai, tôi chưa từng nghe chị nói. Một điều gì đó thôi thúc tôi bật mở điện thoại của chị trở lại. Tại sao tôi lại tắt điện thoại khi không còn biết chút gì về chị nữa sau khi chị bước qua cánh cửa phòng mổ. Thông tin duy nhất mà tôi còn biết về chị chỉ còn là chiếc điện thoại này mà thôi. Tôi lại bật lên. Một lời chào xuất hiện trên máy: “Chúc một ngày hạnh phúc”. Tội nghiệp chị của tôi. Chị đã ngày ngày tự chúc cho mình có một ngày hạnh phúc. Tôi bỗng chắp tay nói thầm: “Em chúc chị một ngày hạnh phúc”. Bỗng nhiên, bao nỗi lo lắng trong tôi tan biến. Tôi biết sau vài giờ nữa, chị sẽ được đưa ra khỏi phòng mổ, và tôi, và mọi người trong gia đình, và cả QD nữa, sẽ có một ngày hạnh phúc.
 
Chuyện tình của mỗi người
Tăng Văn Chung


Tôi run rẩy ngồi xuống bên anh, xa xa một tí. Nín thở. Lần đầu tiên trong đời đi chơi với người con trai. Anh bảo đến Vườn Địa Đàng hay lắm. Ở đó có gì? Anh chỉ mỉm cười. Ví như lúc nãy mình hỏi anh vì sao ai cũng im lặng dưới gốc cây mà không nói gì thì anh cũng mỉm cười bí hiểm như thế.

Hình như là đêm giữa tháng, trăng treo lơ lửng giữa trời. Trời cao đến choáng ngợp. Những đêm như thế này, hai mẹ con thường ngồi trước bậc thềm nhìn hun hút ra dãy núi mờ sương trăng. Quê tôi đầy những con dốc. Mỗi độ chiều về, gió mải miết, cuốn tung vầng bụi đỏ. Cho trâu ăn rồi cùng tụi bạn ngồi trên đỉnh đồi thi nhau hát, thả cho gió âm vang cả buổi chiều.

Mấy tháng trước, tôi từ giã những thửa ruộng bậc thang - nơi lầm lũi dáng mẹ bước thấp bước cao – xuống thành phố học. Tạm biệt những cụm hoa mua sắc tím. Đêm đó trăng cũng sáng, gió về khe khẽ mang theo mùi hoa dủ dẻ, cả tiếng tĩnh mịch của xóm núi. Hai mẹ con nói chuyện đến khuya. Mẹ bảo thân con gái mười hai bến nước. Cả đời mẹ là quãng chờ đợi và thất vọng. Đừng tin con trai. Tôi không nói gì. Mẹ bó gối nhìn những con dốc chập chùng dưới trăng, nghèo nàn, cô độc. Dáng ngồi và cái nhìn của mẹ thật bơ vơ .

Trong phòng, tụi nó gọi tôi là con nai trên núi chạy xuống đây. Chỉ còn mình tôi chưa có người yêu. Những tối thứ bảy quẩn quanh rồi lấy sách ra đọc. Căn phòng vốn chật chội bỗng buồn tênh. Nội trú có ai cùng cảnh mình mà hát tình ca nghêu ngao. Khuya, tụi nó về. Sau những hẹn hò, đứa vui, đứa cáu kỉnh. Con Lan tuyên bố sẽ làm mai cho tôi một người.

Quả thật, ba ngày sau, anh ngập ngừng trước phòng.

Những ngày sau đó tôi quên mất mẹ với bến đục bến trong. Những ngày sau đó, tôi thấy nhớ anh. Nhớ lắm. Nhà không có đàn ông, chưa bao giờ tôi gần gũi cái mùi mồ hôi kỳ lạ. Và, nhất là bàn tay ấm nóng của anh.

Nhưng tôi không nghĩ mình đã yêu. Tôi không định hình được tình yêu. Bây giờ thì tôi ngồi đây, bên anh. Anh hứa vào đây sẽ nói những gì nhưng chẳng nói. Vườn Địa Đàng là gì? Sao ai vào Vườn Địa Đàng cũng loay hoay mà không nói? Anh mỉm cười nhẹ nhàng kéo tôi sát lại. Vẫn cái hơi ấm của bàn tay anh...

Anh cúi xuống... Tôi chết lặng. Hóa ra thế. Chắc là thứ tình yêu truy lĩnh như bọn nó nói đây. Những bài học luân lý của mẹ chập chờn rồi nhạt nhòa hẳn. Tôi nhắm mắt nhưng thấy mình đi trên mây với anh. Tôi nhìn xuống mỗi gốc cây, những đôi yêu nhau câm lặng. Tôi thấy cả xóm núi bạt ngàn hoa mua, mẹ đang làm gì đó. Nghe nhột nhạt ở ngực. Một luồng lạnh chạy dọc sống lưng. Tôi lại thấy mẹ với mười hai bến nước. Cảm giác nhột nhạt ở ngực lan dần. “Không!”. Tôi hét lên và đẩy anh ra. Cả hai nhìn nhau sững sờ. Vườn Địa Đàng xôn xao như mùa trái rụng. Những đôi mắt lườm nguýt, rồi lại chìm vào nốt lặng. Anh thì thầm: “Đừng sợ. Đôi mắt anh lúc nào cũng có lửa, lúc này lửa đang nghi ngút. Tôi khóc. Sao anh không nói với tôi lời yêu thương, dù anh ít nói. Tôi gạt anh ra, miệng khóc ư ư. Chạy khỏi Vườn Địa Đàng .

2. Một tháng sau.

Tôi chống cằm nhìn hai đứa trẻ trước mặt. Hai đứa học lớp hai, một đứa lưu ban. Chúng đều rất sợ những con số. Cảm giác tội nghiệp tụi nó trong tôi đã mất, tình thương dành cho nó tôi không hiểu được, thênh thang như gió núi ngọt ngào hương dủ dẻ. Buổi dạy đầu tiên, hai đứa đứng nhìn tôi chòng chọc, con bé lớn có cái nhìn sâu hút. “Ba đâu cháu?”. “Ba đi làm tối về”. “Mẹ đâu?”. “Mẹ bỏ đi rồi”. Có tiếng vỡ ngân lên đâu đây. “Thôi vô học đi. Cô được ba...”. Con bé cắt ngang: “Biết rồi. Ba dặn cô dạy xong, ăn cơm rồi về”. Tôi thành gia sư.

Sau đêm bỏ chạy đó, anh không đến nữa. Tôi ốm ba ngày. Chuyện của mình được tụi trong phòng thưởng cho mấy trận cười nghiêng ngả. Tôi lại khóc. Sao lời anh không ấm nóng như bàn tay? Sao anh chỉ mỉm cười mà không nói? Sao mắt anh là lửa mà không phải là nước để tôi vùng vẫy, đắm mình trong đó?

Tụi nó diễn lại cảnh tôi bỏ chạy, rồi ôm mặt cười rũ. Rồi con Lan chẳng thèm hỏi tôi nửa câu. Rồi nó tuyên bố anh đã có con bé khác, chẳng “hâm” như tôi. Tôi cắn môi, thấy sự vô nghĩa đến tận cùng. Hương hoa trong gió có người ngửi thấy, có người không. Nhưng ai mà nhìn thấy được. Trong tôi vẫn còn hơi ấm nơi bàn tay anh. Lúc gượng dậy thì nhận được thư mẹ. Tôi lại rũ xuống giường. Cái nghèo lâu nay kìm nén, bây giờ nổ tung. Mẹ đau mà chẳng thể nhập viện, nhưng mẹ bảo đừng về, chẳng giải quyết được gì cả. Tôi không về. Tôi nhớ hoa mua, mảnh mai thế mà cũng tím ngát được trên sỏi đá. Ba của hai đứa trẻ cho tôi tạm ứng tháng đầu gởi về cho mẹ. “Em ở đây nấu ăn trưa. Chiều, cô cháu đi học. Tối anh mới về”. “Dạ”. Tôi khép nép nhìn anh. Gương mặt cương nghị. Mái tóc chớm tai phủ màu nắng gió. Duy đôi mắt là không phải của anh. Nó u buồn, sâu thẳm của đôi mắt ấy là sự mất mát, đớn đau.

3. Tôi mệt mỏi ngồi tiếp anh – người có bàn tay ấm nóng. Một ngày vừa làm gia sư kiêm bảo mẫu, vừa làm sinh viên khiến tôi rã rượi. Anh đang nhảy múa bằng lời trước mặt. Cố kìm cái ngáp bất lịch sự. Bất ngờ anh nắm lấy tay tôi. Bàn tay lạnh ngắt - giống như sự dối trá. Tôi rụt tay lại: “Anh đừng đến đây nữa”. “Em yêu anh ta rồi, phải không?”. “Ai?”. “Anh chàng đã có hai con”. Tự dưng tôi thấy đời vô nghĩa. “Anh đừng đến đây nữa”. Đóng “sầm” cửa lại, tôi vùi mặt vào gối. Chẳng trách tụi trong phòng mấy hôm nay xì xầm giống như anh nói. Một lần nữa khẳng định cái “hâm” của tôi. Tôi cười khinh bỉ, nhận ra cái nhìn hẹp hòi của thế gian. Nhưng sau đó lại giật mình, thấy đôi mắt anh cứ ám ảnh mình trong giấc ngủ. Anh bốc vác ở cảng cả ngày, tối mịt mới về. Có khi tôi giặt quần áo cho anh nữa. Tôi làm mà không hiểu nổi mình. Khi chiều tắt, anh tất tả đạp xe về để tôi về ký túc xá. Những lúc như thế, mấy đứa con anh đã ngồi vào bàn học, tôi cũng ngồi đọc cuốn sách gì đấy. Anh đứng lặng không nói gì. Cơm canh đã chờ sẵn trên bàn. Anh vẫn nhìn tôi với đôi mắt tôi luôn nhớ và không bao giờ hiểu nổi. Tôi chỉ biết lí nhí: “Em về”. Tôi nhất định không ăn bữa tối nhà anh. Anh theo tôi ra cổng, tôi im lặng đạp xe. Dù không ngoảnh lại cũng biết anh đứng nhìn theo xa lắc...

Có một dịp nào đó, tôi ở lại ăn cơm cùng anh. “Em có người yêu chưa?”. Lúc còn hai người ngồi ăn, anh hỏi. “Dạ... chưa”. “Có bao giờ em nghĩ đến không?”. “Dạ... không”. Anh và tôi rơi vào khoảng trống. Ngoài trời rì rào một cơn mưa, căn phòng chật chội như dịu lại. “Anh mang ơn em nhiều lắm”. “Anh đừng nói thế”. Tôi cố không nghĩ đến bản hợp đồng mưu sinh giữa tôi và anh. “Hay là em đừng đến đây làm nữa”. Hình như tôi hỏi anh vì sao, nghe như giọng của ai vọng lại. “Em khổ quá. Em có thấy vô lý không?”. Im lặng. “Em đã nói với anh rồi... Nhưng mà tháng sau anh đừng trả thêm tiền cho em...”. Anh cắt ngang: “Bỏ đi. Những ngày qua đối với anh, tiền nào mua được”. Im lặng. Cả hai đều như muốn nói: Chúng mình vứt nỗi buồn ra ngoài mưa đi nhé!

“Em thấy anh già chưa?”. “Đâu có”. Tôi cố cười cho không khí khác đi. Anh nhìn tôi: “Em có biết, nhờ em mà mắt anh bớt sâu không?”. Câu nói cắt ngang tiếng cười của tôi. Cả hai lại rơi vào khoảng trống mênh mông. Tôi cúi xuống chén cơm. Anh lỡ lời hay sao mà bâng quơ nhìn ra cửa sổ. Cửa sổ khóc, từng sợi mưa.

4. “Sáng nay ba đi làm mang theo xách áo quần. Ba khóc, bảo con ở nhà nghe lời cô, vài bữa ba về. Hồi tối ba cũng khóc”. Con bé lớn chùi nước mắt rồi đưa tôi mảnh giấy. Có điều gì như cơn bão qua tôi. Tôi biết mình không chịu nổi những xót xa.

“Em!

Anh có lỗi vì đi mà không nói trước. Thời gian ngắn thôi. Anh vào Sài Gòn để gặp mẹ hai đứa. Ngược xuôi mãi rồi mới biết cái mình cần. Cuộc sống nhọc nhằn quá, không thể u buồn hay hận thù mãi được. Không hình dung được những ngày tới không có em, anh sẽ thế nào. Nhưng yêu em là có tội... Hy vọng vài ngày nữa, anh lại đưa mẹ hai đứa trẻ về. Em chăm sóc hai đứa cho anh. Tiền ăn và tiền lương trong tủ”.

Tôi buông mình xuống ghế. Ngoài hiên nắng đã lên. Có gì vui mà nhảy nhót trên từng phiến lá? Sao tĩnh lặng đến ghê người? Con chim gì sao sáng này không hót? Tôi không khóc nhưng nước mắt tôi chảy dài. Phải vui mừng cho anh ấy chứ. Tôi ngồi bất động, thấy đất dưới chân mình nứt ra, tôi rơi xuống cái vùng tối đen tối thẫm. Đất lấp lại. Đất nén chặt quá. Tôi nghẹt thở. Tôi cảm giác mình sắp chết. Đâu đây văng vẳäng tiếng chuông lễ nhà thờ. Đúng rồi, sáng nay chủ nhật. Tôi cố vùng vẫy và hét lên: “Không!”.

Tiếng mình lạc đi, lẫn trong tiếng chuông ngân nga đồng vọng.

Tôi thấy nước mắt mình chảy thành dòng sông. Tôi cố chèo chống chiếc thuyền chở hai đứa bé ngược dòng sông đó. Sông vẫn chảy...

Sông đỏ màu phù sa cuồn cuộn. Xa xa, ở một bến nước, hình như bóng mẹ lặng lờ...
 
Người Xưa
Nguyễn Ngọc Tư


Khi Hiên thôi học ở thành phố về, mướn căn nhà, treo cái bảng kẻ bằng bút lông lên giấy các tông "Viết hồi ký thuê" thì Hiên gặp lại người thương của má.

Bảy năm rồi, Hiên mới gặp ông. Ông ốm, xanh, ông không già đi bao nhiêu nhưng tóc đã rụng nhiều để lại cái trán rộng như sân bay Trà Nóc. Hiên luôn luôn thấy ông gần gụi và thân thuộc, cái cảm giác ông luôn luôn có mặt trong đời của Hiên mặc dầu chẳng thân tình gì nhaụ Cứ nói với một đứa bé mười, mười hai tuổi rằng cái ông đang nói trên ti-vi hồi đó thương má mầy, nó sẽ dõi theo ông ta bằng một sự quan tâm nào đó không lý giải được. Ngay từ khi ông còn tại chức, ông luôn xuất hiện trên mặt báo, trên ti-vi với sự chân thật toát ra từ đôi mắt, một vẻ mặt trăn trở, đấu tranh. Hiên cho rằng đôi mắt thể hiện được con ngườị Ông từ chức chủ tịch trước nhiệm kỳ hồi cuối năm rồi với lý do sức khỏe kém, không đủ năng lực để làm việc. Hiên cố làm như mình chẳng bao giờ quen ông. Bảy năm, đủ để ông già đi và Hiên bỏ bộ dạng đứa học trò quê mùa cũ. Hiên hỏi ông muốn viết hồi ký ở dạng nàọ Hẳn nhiên là có nhiều cách viết khác nhau, để lại cho con cháu thì đào sâu về đạo đức, lối sống, về buổi đầu lập thân cực nhọc ra làm sao để lại cho đời sau cơ ngơi, sự nghiệp nầỵ Nếu xuất bản hàng loạt thì chú trọng những công việc, thành tích trong đời... hoặc chỉ viết riêng cho một mình ông thôi, sống giấu kín, chết mang theọ Ông cười rất đẹp (đôi lúc có những nụ cười như thế làm cho tim Hiên thót lên một tiếng hít hà):

- Tôi muốn cháu viết cho người tôi yêụ Và viết thật.

Hiên thưa rằng Hiên sẽ viết thật nếu như ông nói thật. Ông lại cườị Má ơi!

Hiên thèm được viết thật dữ lắm chớ. Hiên vừa học vừa làm thêm việc viết hồi ký non hai năm. Hiên đã gặp nhiều khách hàng nghe họ kể về cuộc đời của họ. Ai cũng làm tỉ mỉ điều tốt, điều cao thượng hơi giống nhau, bày tỏ lòng nhân ái với thế giới, lòng thương mến với tất cả mọi ngườị Hiên nhận ra một quỹ đạo nhàm chán là không ai kể về những lỗi lầm của mình dù là từ thuở ấu thơ đã ngắt đuôi con chuồn chuồn đỏ nhét vào cọng cỏ hay về chú dế lửa bị mình nhốt trong cái lồng đất đã chết vì chật và buồn. Mà, Hiên cho rằng, hồi ký là phải thật, ai đời người ta lại gian dối với cả chính mình. Đôi khi cầm quyển hồi ký do chính tay mình viết ra, trình bày sạch sẽ, bìa đẹp, lật từ trang đầu tới trang cuối thấy người ta sống sao mà tốt quá, tốt thiệt, tốt đến không ngờ. Bạn bè cười vào cái ý nghĩ ngớ ngẩn của Hiên: "Thì tật con người ta vậy mà... ". Hiên biểu tin Hiên đi, thấy cuộc đời kiểu nầy không ham, không thấy vui đâụ

Ông không vậy, ông thủ thỉ với Hiên như một người bạn bên một người bạn thân thiết. Hiên cảm thấy cái quý giá nhất của hợp đồng nầy là được ông tin cậỵ Ông nói với Hiên về tuổi thơ, về quê hương, về tất cả những chiến công và những lỗi lầm. Những nơi ông đến rồi đi và ấn tượng những người ông gặp... Buổi tối, trở về căn nhà vuông vức như cái bánh chưng, Hiên mở máy ghi âm để ghi lại giọng nói điềm đạm như thể dè dặt của ông và chợt nhận ra mình viết cái hồi ký không phải cho riêng ông. Hiên viết cho những đồng đội đã hy sinh xương máu để giúp ông lập nhiều chiến công. Hiên viết cho những người cộng sự cùng ông đưa cái địa phương nầy đi lên, được biểu dương thành tích. Và Hiên hạnh phúc viết về một bóng hình mơ hồ nào đó mà ông đã chia tay trong quá khứ nhưng luôn hiển hiện bên ông. Hiên không chắc chắn đó có phải là má Hiên không. Thường thì đàn ông không nhớ sâu sắc và yêu sâu sắc như người đàn bà.

*

Ông sống một mình trong một căn nhà rộng, mặt ngó ra một con đường nhỏ chạy vòng vèo quanh một hồ rộng nhân tạọ Vợ Ông qua đời gần tròn bốn năm. Họ không có những đứa con trai, con gáị Ông bảo bà yếu ớt, hay đau hay bệnh lắm. Ông cũng đang bệnh, mỗi sáng, mỗi trưa và tối, Hiên thấy ông uống một vốc thuốc. Hơi thở của ông cũng phảng phất mùi kháng sinh. Hiên hỏi thăm ông bệnh gì, ông cười, bệnh nhỏ thôi, mai mốt hết. Hiên hơi bần thần. Cô vẫn cần mẫn đến nhà ông như mọi ngàỵ Sáng nào ông cũng rang cơm và chừa cho Hiên một chén. Ông rang cơm rất ngon. Hột cơm se lại, giòn tan. Mùi tỏi vàng trong dầu nóng xộc vào mũị

Hiên thường bưng chén cơm ra ăn ngoài khoảng sân hẹp rụng đầy bông điệp đỏ và ngồi xuống cái băng đá đặt dưới bệ cửa sổ. Mầu của buổi sáng trong ngôi nhà nầy mới trong trẻo làm saọ Hiên bảo:

- Sống một mình khổ thiệt. Cháu sẽ làm mai cho chú một cộ Thím cũng mất lâu rồi, phải không, chú?

Ông lấy tay vỗ vỗ đầu gối Hiên, tay ông to, nhưng mềm và lạnh lẽo:

- Thôi, cháụ Trễ quá rồị

Hiên cười, chú vẫn còn trẻ chán. Ông chắc lưỡi, "tự nhiên thèm gặp một người" rồi quay sang hỏi Hiên có muốn nghe chuyện tình của ông không. Hiên còn chờ đợi gì mà không gật đầụ Hiên nhận thấy con người nầy luôn luôn vắt kiệt mình trong đám bùng nhùng thiện - ác, đúng - sai, giả - chân... Cả trong tình yêu cũng vậỵ Hai người ngồi trong cảnh buổi sớm đang vãi nắng lên caọ

Hiên tưởng như mình đang đi trên con tàu cuộc đời ông và đã qua bao ngoặc trái ngoặc phải, leo bao đồi dốc, băng qua những cây cầu sang sông rồi một ngày, Hiên nhìn thấy má mình như một ga xép hiện rõ dần lên trong đêm tốị Một ga xép với đầy đủ vẻ đẹp của nó: thầm lặng, đìu hiu, nhưng rất trân trọng đón đưa những con tàu xuôi ngược.

- Đó là thời đạn bom ác liệt, nhưng sáng nào cổ cũng chèo xuồng ra chi khu Rạch Ráng bán trầụ Tôi thương cổ từ ốp trầu cổ bó. Ốp trầu chắc nụi, hai đầu cong cong như mái đình làng. Những lá trầu xanh đằm lên nhau khăng khít không chèn lẫn một lá úa nàọ Tôi thương cổ từ ngón tay cái bấm trầu đã mòn khuyết như trăng mùng tám. Tôi hoạt động trong vai một thầy giáo, "con" út của một bà má tiến bộ. Con trai má đi lính cho Ngô Đình Diệm đã bị tử trận, bà má đó quả quyết là con trai bà bị chính lực lượng cộng hòa dập pháo và bà muốn trả thù. Sáng nào tôi cũng ra bến chợ, xuống xuồng của cổ mua một ốp trầu cho "má". Cổ không đẹp lắm, ừ giống như cháu vậy, ở cổ luôn luôn lộ ra một nét duyên ngầm, càng nhìn càng thấy lạ, thấy thương. Cổ cũng thương tôi thiệt lòng. Ngặt cái cổ là con gái xã trưởng Ba Chi khét tiếng ác. Gia thế cổ là vậỵ Cổ chấp nhận thương tôi mặc dầu cũng đoán được tôi ở phía nào trong cuộc chiến tranh nầỵ Cháu cũng biết thân phận của tôi mà, ông nội tôi, ba tôi, các chú bác đều thoát ly đi làm cách mạng. Gia đình tôi phản đối dữ lắm. Tổ chức cũng không đồng ý. Nhưng lúc đó tôi còn trẻ, trẻ như cháu bây giờ, tôi nghĩ, tình yêu sẽ vượt lên tất cả.

- Cháu cũng nghĩ vậy, chú à. - Hiên gật đầụ

- Nhưng cháu còn trẻ, cháu có hiểu không? Chiến tranh vốn đầy bất trắc. Nó để lại cho tôi một niềm đau, lâu quá rồi mà còn đau hoàị

Hiên cũng vậỵ Hiên biết buồn nỗi buồn chiến tranh từ ngày thơ bé. Tụi bạn chơi trò đánh trận giả, bao giờ cũng đẩy Hiên về phía giặc. Thằng Đen lớn nhất, nó chống nạnh cười khì khịt: "Mày phải ở "bên nó". Má tao nói hồi đó ba mầy đi lính quốc gia". "Bên mình" bắn "bên nó" phằng phằng, Hiên cũng bắn lại phằng phằng nhưng Hiên thì phải chết. Có khi nằm trên ổ kiến lửa để chết, Hiên giật nảy lên, giãy giụa, thằng Đen đứng vỗ tay cười chưa xong đã khóc mướt: "Con nhỏ nầy chết y hệt ba tao"". Hiên cũng khóc. Những đứa trẻ như thằng Đen, như Hiên mới tí tuổi đầu đã bị súng bập dừa bắn vào trái tim thơ ngâỵ Đen thôi hồn nhiên và Hiên thì ngơ ngác chết.

- Người ta mong hòa bình một, tôi mong tới chín, mười, cháu à. Sau Mậu Thân, cơ sở bị lộ, tôi rút vô cứ. Địch ra sức đàn áp phong trào cách mạng. Tề ngụy gom dân vô ấp chiến lược, trong đó, nhà cổ đi đầụ Người xuôi kẻ ngược, cổ chỉ kịp đầm đìa nước mắt và hẹn nhau hai tiếng "hòa bình". Coi lại, cả đời chúng tôi rượt đuổi nhaụ Cổ bỏ nhà ra ấp chiến lược mới chín tháng thì chúng tôi mở rộng căn cứ về xóm quê ở. Tôi dọn dẹp căn nhà đầy mạng nhện và bồ hóng của cổ để làm nơi làm việc. Hôm một bà má đi chợ về ghé báo con út Xuyến nó lấy một thằng lính ngụy, đêm đó bom bỏ vụn căn nhà. Tới bây giờ, tôi cũng không hiểu làm sao mình còn sống được, nhưng hôm đó, trong cái hầm, nước lỏng bỏng, tôi tìm được trong hốc đất một cái khăn trắng thêu hai con chim đậu trên cành mận trổ đầy hoa, và một dòng thêu dở: "Đường dài ngựa chạy biệt tăm... "

-... " Người thương có nghĩa trăm năm cũng về". - Hiên buột miệng, rồi giật mình, cô quấy quá thêm - Cháu đã đọc câu ca dao nầy ở đâu rồi, chắc là trong trường học.

Ông gật đầu, dường như chớm bàng hoàng, ông nhẩm lại "Người thương có nghĩa trăm năm cũng về". Mặt ông hơi tái đị

- Vậy tôi không phải là người thương có nghĩa rồi, cháu à. Tôi đã có thật nhiều cơ hội nhưng rồi đã bỏ quạ Năm tám hai, tôi chuẩn bị làm Bí thư huyện thì nghe tin chồng cổ vượt biên.

- Và chú phải lựa chọn, hoặc làm bí thư hoặc phải từ bỏ tất cả, không ai chấp nhận chú lập gia đình với một người đàn bà đã có một đời chồng là lính ngụỷ

Ông nhìn Hiên kinh ngạc, trong mắt ông ánh lên một niềm đau xót:

- Cháu biết nhiều như vậy để làm gì, cháu gáỉ

Hiên có muốn biết nhiều đâu, đời dạy cô vậy mà. Cô không trả lời câu hỏi, chỉ thốt lên:

- Trời đất ơi, sao chú lại có thể đem tình yêu ra mà bì với mấy cái đó. Cháu mà yêu ai, cháu sẽ vượt qua mọi trở ngại để tới với người tạ

- Cháu đã làm thử chưả

- Rồị - Hiên quả quyết.

- Tôi cũng có lần làm như vậỵ Có một lần, tôi về thăm căn cứ. Chiếc tàu hì hụi về tới xóm đã chạng vạng. Tôi lúc đó không nghĩ tới chuyện gì khác ngoài chuyện tôi sắp gặp lại cổ. Khi tàu ghé dưới bật kinh nhà Tám Muốt, tôi thấy cổ bơi xuồng đi đặt đó. Xuồng nhỏ, bóng cổ nhỏ, một mình. Tôi nhìn cổ và nghĩ rằng mình có thể bỏ hết tất cả để về đây để che chở cho cái bóng nhỏ nhoi đó suốt đờị Nhìn tôi, cổ mừng xuống nước mắt. Tối đó, sau khi ăn đã đời bữa cơm bông súng nấu canh chua cá nâu, mắm sống, tôi chống xuồng qua sông. Hôm đó, tôi hơi saỵ Chắc tôi ngộ lắm nên đứa con gái nhỏ của cổ cứ nhìn tôi hoàị Tôi ngã mình trên võng mà khói cứ bay nồng mũị Tôi còn nhớ mình nói rằng không chấp chuyện đã qua, tôi không ngại đứa con gái lên ba tuổi của cộ Tôi nói rằng cơn mưa xưa đã đem nguồn nước cũ về đầm. Cổ nằm trên một cái võng khác, giăng xéo qua hai cây cột, đứa con gái ngủ. Cô chỉ khóc, khóc thật nhiều mà có nói được gì đâụ Vậy mà hai đứa thức, thở vắn thở dài tới sáng. Bữa sau, tôi đi thăm những bà con trong xóm căn cứ cũ. Vườn sau sân trước hố bom chằng chịt hố bom. Bảy năm sau giải phóng mà xóm rất nghèọ Những gia đình cách mạng ngày xưa hết mình nuôi nấng, che giấu chúng tôi, cuộc sống rất khó khăn, mặc dầu bông súng đã nở trắng hố bom, bầy vịt ta lội ngủng ngẳng. Cạnh nhà tường đạn bom cháy xém, bà con dựng lại căn nhà lá. Tôi về than, bà con mình nghèo quá. Cổ nói với tôi rằng dù có chính tay họ làm hay không nhưng cha cổ, chồng cổ đã gây biết bao nhiêu tội ác, làm cho cái quê nhỏ nầy trở nên như vậỵ Mà, có còn ai để giúp cổ trả món nợ nầy cho bà con, cho làng xóm, để cho cổ được ngẩng đầu lên nhìn cuộc đời mà không thấy mình có tội, ngoài tôị Tôi thương cổ lắm, tôi quay lại, tự hâm nóng mình. Thời đó tôi sống tràn đầy hoài bão, tràn đầy yêu thương như cháu bây giờ, cháu gái à. Tôi chưa biết ham mê tước vị, quyền lợị Rồi từ từ tôi mới biết cân nặng nhẹ, biết so đọ Tôi lấy vợ, mà tội nghiệp tôi lắm, lấy vợ mà cũng so đọ Ông già vợ tôi là cán bộ tổ chức của tỉnh. Tới một ngày chợt nhận ra, quyền lực đối với tôi càng giống như cục mỡ rệu trong veo trong nồi thịt kho tàu ngày Tết, nhìn thì thèm, ăn lại quá ngán mà bỏ thì tiếc.

Ông cười sùng sục. Tiếng cười nghe xao động như quầy dừa rụng xuống vườn ranh giữa buổi trưa vắng. Nhưng Hiên giật mình vì ánh mắt không hề có một niềm vui, nó sâu hun hút. Hiên thấy lòng mình tạnh hẳn. Cái nhìn ông lạnh như cái ao sâu phủ kín lục bình.

- Chú à, bây giờ cô ấy ở đâủ

- Cháu có biết xóm Trầủ Một cái xóm đẹp. Căn cứ cũ của chúng tôị Tôi nhớ hoài, trước mặt xóm là một cái đầm nước gió ơi là gió...
 
một hàng dừa nước bên sông nghiêng mình soi đáỵ Những ngày gió chướng về, nước trong vằng vặc như thấy rành rạnh từng xớ lá. Trên bờ kinh, dây choại mọc đầy, đọt choại xanh non nhuốt líu ra líu ríu níu bước chân ngườị Hàng bông bụp trước sân nhà nở đỏ. Con heo cỏ bụng bự đầy đất sục mũi vào đám rau diệu, rau chaỵ Sau vườn, dây trầu già leo cây cau ốm. Bầy kiến vàng liêu xiêu bò ra bò vào trên nhánh chanh giấy de ra mé aọ Và ở đó có má Hiên, một đời thầm lặng, hiền lành... Sớm sớm, ngồi xắt chuối quết nát trộn với cám cho bầy vịt Xiêm ăn. Xẩm tối, má đốt nhang lên bàn thờ ông bà ngoại, đóng cửa, sập rèm. Má Hiên bị bức phải lấy ba Hiên tháng chín, tháng ba năm sau giải phóng miền nam. Cái khoảnh khắc đó so với cuộc đời nó ngắn ngủi biết bao nhiêu nhưng đã trì níu cuộc đời má Hiên xuống. Mấy mươi năm, cuộc đời má như hũ sành bể nát, không mảnh nào ráp được với mảnh nào, phải làm hai, làm ba còn lấy keo chắp vá. Niềm vui chỉ những ngày cuối tuần, má Hiên trông từng chuyến tàu trưa, coi Hiên có về không? Một người quen cũ có về không? Khi ba Hiên đi học tập cải tạo ba năm, Hiên lớn lên không hề có ba mà không thấy tủị Ba Hiên về, ba năm sau xuống tàu vượt biên. Hiên đã là một con bé lạ lùng. Hiên có thể rạch ròi từng chuyện một. Hiên nghĩ rằng ba ra đi là lỗi của ông vì ông nghĩ rằng đất nầy không cưu mang, không liên quan tới chuyện mối tình xưa gì gì đó của má. Hồi đó, mối tình đó chỉ là một ngọn lửa nhỏ le lói cháy trong mắt má Hiên. Lạ sao, đến bây giờ, ngọn lửa vẫn không tắt và chưa bao giờ tắt. Hiên vẫn không tin được, chỉ những lời hứa hẹn và một đôi lần nắm tay nhau (Hiên tưởng tượng cùng lắm thì hôn lên má nhau thôi, nếu có thể) lại làm cho người ta nhớ lâu, nhớ sâu đến vậỵ Một lần xem ti-vi, nhìn ông thoáng qua, trên màn hình, má Hiên luôn cười rất nhẹ, kín đáo âm thầm. Cái cười nhỏ nhưng tràn đầy tình. Hiên có lần bảo: "Con mà thương ai thể nào con cũng lặn lội lại nói với người ta liền". Má Hiên cười: "Con còn trẻ, má già rồị Mà, má có xứng gì đâu... ". Hiên chợt nhận ra, thế hệ của mình đã khác, thế hệ mình sống nhẹ nhàng hơn thời của má nhiềụ

- Không biết bây giờ xóm cũ có còn như trước, cũng ba năm rồi tôi không về...

Ông trầm ngâm. Hiên nói với lòng mình: Không, cái xóm đó không bao giờ thay đổi được. Người ở xóm đó vẫn vậỵ Chắc nó không khác được đâu, lúc nào nó cũng soi mình xuống Đầm. Thấy mình khác một chút đã sửa lạị

- Lẽ ra bây giờ chú phải về xóm Trầụ Cháu chắc chắn là có người vẫn chờ đợi chú, chờ đợi tới trăm năm.

Ông bồn chồn ngước lên nhìn Hiên:

... Hai hôm sau, khi Hiên quay lại nhà ông, nhà đã khóa cửa ngoàị Hiên quay về chỗ trọ thì nhận được lá thư nhỏ. Thư của ông, Hiên cứ cầm thư mà xuống nước mắt. Ông viết: "Cuộc đời đã tằn tiện chia sớt lại cái cơ hội cuối cùng của chú, cũng bởi vì chú đã hoài phí nhiềụ Chú đã nhận ra cháu rồi, cháu gái à. Chú chuyển lời xin lỗi đến má cháụ Chú bệnh, bệnh nặng. Không còn ham hố, vướng bận gì nữa, chú cũng không thể trở về, bởi vì chú không muốn làm một gánh nặng cho má con cháu lúc cuối đời... Chú thương cháu nhiều, con gái nhỏ... ".

Chỉ vậy mà họ có thể bứt khỏi nhau ra được sao, trời đất quỷ thần ơi, những người lớn. Đường đời gang tấc mà vì nỗi gì đi vòng cho xa hoài, xa mãị Hiên lặng người, tới bây giờ Hiên cũng không biết ông bệnh gì, nghiêm trọng ra làm sao Hiên không biết. Má ơi!
 
Status
Không mở trả lời sau này.
Back
Top