• Hiện tại trang web đang trong quá hình chuyển đổi và tái cấu trúc lại chuyên mục nên có thể một vài chức năng chưa hoàn thiện, một số bài viết và chuyên mục sẽ thay đổi. Nếu sự thay đổi này làm bạn phiền lòng, mong bạn thông cảm. Chúng tôi luôn hoan nghênh mọi ý kiến đóng góp để chúng tôi hoàn thiện và phát triển. Cảm ơn

1001 CÂU CHUYỆN CẢM ĐỘNG!!!

Status
Không mở trả lời sau này.
Chiếc ô
Ysunari


Mưa xuân giăng đầy trời như sương mỏng, tuy không thấm qua được quần áo song cũng làm cho da tay dính nham nháp. Từ trong cửa hiệu chạy ra, cô gái nhìn thấy chàng trai giương ô, bèn hỏi:
- Sao thế, mưa à?
Chàng trai sở dĩ giương ô, nếu bảo là để che mưa, chẳng bằng nói là để che khuôn mặt đỏ bừng vì ngượng của mình khi đi qua cửa hiệu mà cô gái chờ. Tuy vậy anh cũng lẳng lặng giơ ô ra toan che kín thiếu nữ, nhưng cô gái cũng chỉ ghé nửa người chui vào trong ô. Nước mưa thấm vào áo chàng trai vì tuy cô gái nép mình dưới ô nhưng anh lại ngượng không dám đứng sát vào cô gái. Cô gái tuy rất muốn giở một tay ra nắm lấy cán ô cùng chàng trai, song lại xấu hổ chỉ chực vùng chạy ra khỏi ô.
Hai người bước vào một hiệu chụp ảnh. Cha chàng trai là quan chức sắp phải đi tới một vùng xa để nhận việc. Đây là lúc họ chụp ảnh kỷ niệm trước khi xa nhau.
Người chụp ảnh chỉ chiếc ghế dài bảo họ:
- Mời cô cậu ngồi chung trên chiếc ghế dài này!
Chàng trai không ngồi cạnh cô gái mà đứng sau lưng cô. Mong muốn thân thể hai người có một chỗ nào đấy chạm vào nhau, chàng trai khẽ để ngón tay tựa trên lưng ghế chạm vào áo khoác ngoài của cô gái. Đó là lần đầu tiên chàng chạm vào người thiếu nữ và cảm thấy nhiệt độ trong người cô dường như truyền qua ngón tay mình. Chỉ thế thôi cũng khiến chàng trai cảm thấy độ nóng của thân thể khi tưởng tượng ra hai người đang ôm chặt lấy nhau. Đời này kiếp này, chỉ cần nhìn vào tấm ảnh là chàng sẽ cảm thấy như được gần gũi nàng.
- Chụp thêm một kiểu nữa nhé! Lần này hai vị ngồi cạnh nhau, nửa người trên ưỡn thẳng một chút-Người chụp ảnh nói.
Chàng trai gật nhẹ đầu, khẽ nhắc cô gái:
- Tóc!
Cô gái vút ngẩng đầu nhìn chàng trai, hai má ửng hồng, mắt lấp lánh tia mừng vui rõ nét, rồi như đứa trẻ, hồn nhiên đi vào phòng trang điểm. Lúc nãy, vừa nhìn thấy chàng trai đi qua cửa hiệu, cô đã chạy ào ra, chẳng kịp chải lại đầu. Cô vốn biết tóc mình rối tung như khi vừa tháo chiếc mũ bơi trên đầu, song cô lại là người thấy ngượng khi phải sửa lại tóc tai trước mặt bạn trai. Còn chàng trai thì nghĩ nếu mình bảo thẳng cô phải chải lại đầu sẽ làm tổn thương đến lòng tự trọng của cô. Khi nhìn thấy vẻ mặt điềm nhiên của cô trong lúc bước vào phòng trang điểm, chàng trai thấy hớn hở vui sướng. Thế rồi, hai người ngồi trên ghế dài, dựa kề vào nhau như những đôi người yêu khác.
Khi sắp rời hiệu chụp ảnh, chàng trai tìm chiếc ô nhưng anh chợt phát hiện cô gái ra trước anh đã cầm theo chiếc ô rồi. Cô đang đứng ở ngoài cửa. Thấy chàng trai nhìn mình, cô mới nhận ra mình đang cầm ô trên tay, bất giác cô lấy làm kinh ngạc. Cử chỉ vô tình này chẳng phải chứng tỏ cô đã thầm nhận lời anh hay sao?
Chàng trai không nhắc đến ô, thiếu nữ cũng không đưa ô trả lại. Khác với lúc đến hiệu chụp ảnh, hai người bỗng cảm thấy thân nhau rất nhiều, họ mang theo tâm tình như của đôi vợ chồng trên đường trở về nhà.



Chiếc ô đã hoàn thành sứ mệnh.
 
Bông hồng thủy tinh
Nguyễn Đại


- Phương ơi!
Tôi đang đứng trước cổng nhà thằng bạn. Ba giờ chiều. Thằng bạn tôi chắc vẫn đang ngủ nướng.
Nắng quá, sao thằng này lâu thế nhỉ? Chưa dậy à? Tôi gọi thêm lần nữa.
- Phương ơi!
- Đây, làm gì mà gọi lắm thế?
- Giờ này còn ngủ hả mày?
- Đâu, riêng hôm nay không ngủ. Tao đọc nốt quyển truyện, không lại chưa đọc xong đã phải trả mày.
- Thế đọc xong chưa?
- Rồi.
- Thôi mang ra đây, tao cầm rồi về luôn.
- Ô kê, đợi tao chút.
- Nhanh lên, đứng đây nắng khiếp.
Thằng bạn tôi chạy vụt vào nhà. Tôi đứng tựa cổng, nhìn ra xung quanh. Phía bên trái tôi là một lũ trẻ con đang chơi đá bóng. Chẳng hiểu bố mẹ chúng nó nghĩ gì mà cho con cái chơi trời nắng thế này. Xe cộ qua đường có vẻ rất vội vã, cứ như họ sợ chảy tan ra vì nắng vậy. Điểm duy nhất đáng chú ý trên đường là một người đang ôm đàn, ngồi trên ghế đá thẳng trước mặt tôi. Đầu tiên tôi thoáng nghĩ đó là một người hát rong, nhưng không, anh ta ăn mặc khá đơn giản nhưng đẹp, sơ mi trắng mài kiểu Thái, quần Jean sáng màu. Cây đàn guitar màu gụ đỏ thì tuyệt đẹp, tôi vẫn ước có một cây đàn như thế. Anh ta hát một bài hát mà tôi thích. Có vẻ đây là một anh chàng lãng mạn nổi hứng thôi. Cũng phải, trời nắng thế này dễ làm cho nhiều người nổi máu nghệ sĩ lắm.
Tiếng cổng sắt rền vang ngay bên phải tôi. Tôi quay sang nhìn. Gì thế này? Dễ thương quá. Một cô bé khoảng tuổi tôi đang đứng bên trong nhà, mở cổng, cô bé ở nhà sát vách với thằng bạn tôi. Cần phải thú nhận, tôi luôn bị cuốn hút rất mạnh bởi những cô bé xinh xắn như thế này. Cô bé này lại đúng kiểu người mà tôi thích nhất: nước da trắng tươi tự nhiên, đôi mắt với hàng mi cong dài, thân hình thon vừa phải, không quá mảnh mai và cũng không quá thô kệch, những đường cong tuyệt đẹp. Nhưng điểm tôi chú ý nhất – điểm đầu tiên mà tôi nhìn vào khi gặp một người – cô bé có đôi môi hết sức quyến rũ. Thằng bạn tôi sướng thật, được làm hàng xóm của cô bé này.
Cô bé đứng lui vào trong nhà, để cổng mở. Hình như cô bé đang chờ bố mẹ ở trong nhà ra để cùng đi đâu đó.
Thằng bạn tôi đã xuống, tay nó cầm quyển “Mật mã Da Vinci” của tôi.
- Đọc thấy thế nào?
- Tạm được. Nói chung là cũng có tài hơn người. Nếu cần cù luyện tập thì mươi năm nữa có thể đủ trình làm học trò của tao!
Tôi không cười, vì chẳng có gì đáng cười cả, thằng này nhái lại câu của tôi. Vả lại tôi cũng không thích nó nói như thế về Dan Brown, tôi coi Dan Brown là một trong những thần tượng của tôi.
- Tao về đây.
- Bắn đi.
Tôi thả quyển sách vào giỏ xe. Bất giác, tôi hát theo tiếng người ôm đàn sau lưng. “Thời gian cho ai sẽ lãng quên, ai âm thầm tiếc nuối, bụi mờ quá khứ đã giăng che mờ trên cây đàn đã nín câm…”
Tiếng đồ thủy tinh vỡ “choang” một cái nghe thật chói tai.
Tôi quay lại nhìn. Chính cô bé xinh xắn vừa rồi đã làm rơi một chiếc chậu cảnh thủy tinh nhỏ, có lẽ khá đắt tiền. Tôi thấy cô bé có vẻ sợ hãi, pha thêm tức giận nữa, mặt cô bé tái nhợt đi, hai tay run run, môi mấp mãy không thành tiếng, cặp mắt mở trừng trừng nhìn tôi, phải, đúng là nhìn tôi, không quan tâm đến chiếc chậu cảnh vỡ. Đứng cạnh cô bé là một người phụ nữ đứng tuổi, mái tóc hơi xoăn và khuôn mặt có vẻ khắc khổ.
- Câm, câm đi! Câm ngay!
Tôi không hiểu có chuyện gì đang xảy ra. Cô bé kia vẫn trừng trừng nhìn tôi, gân hết giọng lên để quát ai đó, và hình như “ai đó” ở đây chính là tôi.
- Cút, cút đi!
Cô bé lại quát tôi. Sao vậy nhỉ, tôi đã làm gì? Tôi nhìn xung quanh. Không có dấu hiệu gì nói cho tôi biết rằng tôi đã làm điều gì đó tệ hại.
Người phụ nữ đứng tuổi bên cạnh cô bé ôm lấy đôi vai cô bé, đưa cô bé vào nhà. Tôi còn kịp nghe cô bé vừa đi vừa khóc, và nói điều gì đó trong nước mắt, hình như là “Mẹ ơi, bài hát… bài hát của anh ấy…”
Bài hát của anh ấy, hừ, của ai chứ. Bông hồng thủy tinh, sáng tác của Trần Lập, triệu người thích bài này. Cô bé này là người yêu Trần Lập chắc? Khùng.
Thằng bạn tôi đứng đó, trơ mắt ra nhìn, tủm tỉm cười.
- Cười cái gì? Bé kia làm sao thế?
- Nó hay chập chập thế đấy. Nó ghét, à không, sợ nhất những người chơi guitar hoặc những người hát bài đó.
- Sao lại thế?
- Bố ai mà biết được, tao cũng mới dọn về đây ở mà.
- Nhưng… bé ấy đẹp đấy chứ, hả?
- Đấy, thích thì cưa đi. Không có người yêu đâu. Bằng tuổi mình đấy, học Kim Liên.
- Thế thì ổn quá còn gì! Tao có nên tin mày không đấy? Một bé dễ thương thế kia mà chưa có người yêu à?
- Đã từng có. Hình như thế. Tao nghe nói bé bắt đầu chập chập từ khi người yêu bé chết.
- Tội nghiệp nhỉ, chắc là sốc lắm nên mới thế.
- Cũng không biết, nhưng tao nghe mẹ tao kể lại là nó bị ảo giác. Đêm nằm nó cứ kêu gào thảm thiết gọi bố mẹ, rồi hỏi bố mẹ có nghe thấy tiếng đàn không, có nghe thấy tiếng hát không, trong khi chẳng ai nghe thấy cái quái gì. Thôi mày về đi,tao vào nhà đây.
Trong đầu tôi đang rối tung lên vì một loạt những ý nghĩ linh tinh, chẳng đâu vào đâu. Sốc gì mà ghê thế, người yêu chết một phát là thành ra điên dại luôn, chẳng lẽ lại có người yếu đuối thế à? Mà sao lại quát nạt mình cơ chứ? Vô lý đùng đùng, cái thằng kia nó hát mãi, đàn mãi thì không sao…
Nghĩ đến đó, tôi quay sang nhìn người chơi đàn. Anh ta đã ngừng hát từ bao giờ, đang gác chéo hai tay lên đàn – một động tác rất giống tôi mà những người chơi đàn khác chẳng bao giờ có – và chằm chằm nhìn vào tôi như thể tôi vừa rơi xuống từ mặt trời vậy. Tôi cắm mặt đi thẳng.
*
* *
Ngày hôm sau là thứ hai. Tôi đợi đến đúng giờ, căn thật chuẩn, rồi đi sang nhà thằng bạn. Để đưa nó quyển sách, và hơn nữa là để…
Đúng năm rưỡi. Tôi tính, nhà thằng bạn tôi ngay gần trường Kim Liên, đi mất không đầy năm phút, mà trường Kim Liên giờ này là tan. Cô bé bằng tuổi tôi mà lại.
Thằng bạn tôi đã về. Tôi đưa nó quyển sách, không nói gì, mắt cứ chăm chăm nhìn vào khoảng xa trước mặt. Thằng bạn tôi hiểu ý đồ của tôi, chỉ cười thầm rồi vào nhà, đóng cổng.
Một bóng dáng xinh tươi hiện ra từ phía xa. Cô bé đó chăng? Phải, đúng là cô bé ấy. Cô bé mặc đồng phục, đội một chiếc mũ xinh xinh màu xanh da trời.
Tiếng đàn hôm trước lại vang lên bên tai tôi. Tôi quay sang nhìn, vẫn anh chàng đó, vẫn bộ quần áo đó và vẫn giai điệu quen thuộc đó. Nhưng hôm nay tôi không quan tâm.
“Nàng” đã đến. Cô bé đã đi đến nhà, đang định mở cổng bước vào.
- Chào bạn!
Cô bé nhìn tôi, có vẻ hơi tò mò, cả sợ hãi nữa.
- Mình… mình đến để xin lỗi… về chuyện hôm qua… mình không cố ý đâu…
Sao tôi lại ấp úng như thế nhỉ? Tệ thật, tôi vốn giỏi giao tiếp với những người chưa quen cơ mà?
Cô bé thoáng chút băn khoăn không hiểu, rồi cô bé mỉm cười:
- Không, tớ không nghĩ gì đâu. Không phải lỗi tại cậu. Là vì…
- Mình biết, mình đã được nghe kể qua. Nếu bạn không muốn nhắc đến chuyện ấy thì đừng nhắc đến nữa! – Tôi nói vội, vì tôi sợ cô bé sẽ khóc khi nhắc đến chuyện này. Tôi không thích phải nhìn thấy con gái khóc.
- Anh ấy… anh ấy…
Thế là điều tôi sợ đã xảy ra. Cô bé bắt đầu khóc, nước mắt chảy dài trên gò má trắng hồng xinh xắn. Trời ơi, sao cứ mỗi lần nghe con gái khóc là tôi lại cảm thấy nôn nao thế nhỉ?
Cô bé bắt đầu tuôn ra một tràng, xả hết mọi tâm sự – với một người không quen biết, động tác này rất hay gặp ở con gái khi có chuyện buồn bực.
- Mọi người không hiểu… mọi người không tin… đêm nào anh ấy cũng hát cho tớ nghe… bài hát đó… có đêm anh ấy còn vào tận trong phòng tớ, ngồi ôm đàn hát cho tớ… anh ấy rất thật, rất thật…
Tôi chẳng còn biết nói gì nữa. Cô bé vừa nói vừa sụt sịt. Hai bàn tay nhỏ nhắn vuốt nước mắt không kịp.
- Anh ấy sẽ không tha cho tớ, không bao giờ…
- Thôi nào, đừng nghĩ như vậy chứ. Tâm lý của bạn bây giờ nặng nề quá! Mình nghĩ có lẽ bạn nên tìm đến một điều gì đó khác để quên chuyện này đi…
Cô bé lắc đầu, nước mắt vẫn chảy giàn giụa.
- Một người khác… chẳng lẽ ngoài anh ấy không có ai đáng để bạn chú ý hay sao? – Một lời khuyên chân thành của tôi, nhưng đồng thời cũng gieo một mầm mống cơ hội cho tôi.
- Anh ấy sẽ không tha cho tớ đâu… nếu tớ làm thế, anh ấy sẽ giết tớ mất…
- Mình không nghĩ vậy… được, mình tin bạn, mình cũng cho là anh ấy có thật, hàng đêm anh ấy hiện hữu rất thật. Nhưng cho dù có thật thì anh ấy vẫn chỉ là một oan hồn thôi. Từ nhỏ mình đã được người ta kể cho về những hồn ma, họ ở lại là vì lưu luyến thế gian, họ chỉ có thể dọa người ta sợ chứ không bao giờ làm hại được ai. Tại sao lại phải sợ những gì không làm hại mình? Vả lại, nếu anh ấy yêu bạn, thì anh ấy sẽ luôn mong cho bạn có được hạnh phúc, dù anh ấy còn sống hay đã chết…
Đúng là tôi không biết sợ ma là gì thật, vì chẳng ai đi sợ một con gì đó chưa bao giờ được gặp, mà lại không có khả năng hại mình. Có điều tôi không tin chuyện thằng cha kia hiện về lắm, nhưng phải nói vậy để an ủi cô bé. Nhưng vô ích, cô bé vẫn khóc và lắc đầu:
- Cậu không hiểu, không thể hiểu… Cậu không biết mỗi lần anh ấy vào phòng tớ, nhìn tớ và nói với tớ những gì đâu… Anh ấy sẽ không buông tha tớ… không bao giờ!
Cô bé đóng sập cửa lại, chạy vụt vào trong nhà. Tôi lắc đầu. Mệt thật. Tôi cảm thấy tội nghiệp cho cô bé.
Anh chàng sau lưng tôi vẫn hát nãy giờ, nhưng lạ cái là cô bé vẫn không hề để ý đến anh ta. Tôi lại gần anh ta, ngồi xuống bên cạnh. Tôi thích guitar, thích lây luôn cả những người chơi guitar. Tôi muốn học guitar, đã từng học và học cũng khá, nhưng sau đó lại phải bỏ vì thiếu thời gian. Và tôi thích bài hát này…
“Những đắm say tìm đến, khi thời gian chưa xóa mờ vết thương… Dù cho năm tháng trôi, cuộc tình chia cách xa đôi đường, ngày xưa ta đã yêu…”
Tôi muốn bắt chuyện với anh ta, nói gì thì tôi cũng chưa biết. Tôi định ngồi đợi cho anh ta hát xong bài rồi sẽ bắt chuyện. Anh ta vẫn chơi đàn, vẫn hát và không để ý gì đến tôi.
“Vì tình yêu kia mong manh như thủy tinh, anh không muốn trong đời thiếu em… Rồi thời gian ta chia xa không phai nhòa, vì ngày mai ta sẽ mãi mãi không quên… Xin em hãy giữ kỉ niệm bông hồng thủy tinh…”
Người thanh niên kết thúc bài hát bằng một giọng buồn xa xăm. Tôi đang định bắt chuyện với anh ta thì có một ông cụ khoảng tám chục tuổi chống gậy đi lại gần. Anh ta lập tức xách đàn đứng lên, bỏ đi, và ông cụ ngồi ngay vào chỗ anh ta vừa ngồi. Tôi chán nản ra về.
Chiều hôm sau, tôi lại đến nơi đó. Lần này tôi đến sớm hơn một chút, nên cả thằng bạn tôi lẫn cô bé kia đều chưa về. Chỉ có chàng ca sĩ kia là vẫn chơi đàn.
“Cuộc tình xưa như vết cứa xót xa, tim anh âm thầm đau đớn… Bụi mờ quá khứ đã giăng che mờ trên cây đàn đã nín câm… Một tình yêu đó xin gọi tên bông hồng thủy tinh, để sỏi đá quen bước chân anh từng đêm trên phố khuya…”
Tôi lại gần chàng ca sĩ. Anh ta chỉ hát đến đó, rồi bỏ dở bài hát giữa chừng, quay sang nhìn tôi. Tôi lấy làm lạ, vì một người chơi đàn luôn rất ghét phải bỏ dở bài hát giữa chừng.
- Anh đi với tôi một lát.
Anh ta nói với tôi ư? Tôi á? Đi đâu nhỉ? Anh ta định làm gì? Nhìn cách anh ta ăn mặc và cây đàn của anh ta, tôi không nghĩ anh ta có ý định trấn lột. Mà có thế thì tôi cũng chẳng mang gì theo mà trấn. Đánh nhau à? Anh ta có vóc người tương đương tôi, nhưng gầy guộc hơn. Tôi không nhìn thấy trên người anh ta có chỗ nào có thể giấu vũ khí được, mà một người chơi đàn không bao giờ dùng cây đàn của mình làm vũ khí. Thì đi, sợ gì.
Anh ta đứng lên, bước đi. Tôi bước song song, ngay cạnh anh ta.
- Anh thích bài hát này phải không? – Anh ta hỏi tôi.
- Đúng, tôi thích guitar, và thích bài hát đó.
- Còn người con gái đó?
- Người con gái nào?
- Thôi nào…
- Tôi thấy cô ta đẹp. Tôi hơi có cảm tình với cô bé ấy, thế thôi, chưa có gì rõ ràng cả.
- Vậy sao?
- Còn anh? Hình như ngày nào anh cũng qua đây chơi đàn?
- Đúng. Tôi hát cho người yêu tôi, nhưng thường thì buổi đêm cô ấy mới nghe thấy.
- Anh hát cả ngày lẫn đêm sao?
- Đúng. Tôi còn việc gì để làm nữa?
- Người yêu anh thích bài hát đó à? Nhưng hình như bài hát của anh làm phiền cô bé của tôi đấy.
Chúng tôi đã đi vào một hẻm vắng. Không một bóng người.
- Cô bé của anh ư? Đó chính là người yêu tôi. Ngày trước, khi tôi vẫn còn sống, nàng rất thích nghe tôi hát bài hát đó.
Anh ta nói cái quái gì vậy? Tôi chẳng hiểu gì cả. Suy nghĩ mất mười lăm giây, tôi bật cười.
- Đùa hay đấy anh bạn. Anh thông minh đấy.
Tôi đưa tay lên vỗ vai người thanh niên đó, và…
Có ai tưởng tượng nổi không?
Bàn tay tôi bị hẫng. Không chạm vào một bờ vai nào hết. Không có bờ vai nào ở đó, mặc dù tôi vẫn nhìn thấy nó. Tôi không nhìn thấy bàn tay tôi đâu, nó chìm trong cái bờ vai kia.
Tôi hơi choáng.
- Bây giờ anh biết tôi là ai rồi chứ?
Hắn… là người yêu đã chết của cô bé ư?
Tôi chưa bao giờ tin vào ma.
Bình tĩnh, thôi nào, hãy bình tĩnh. Tôi cố trấn an mình. Không có gì phải sợ, ma không thể làm hại được ta.
- Tôi hiện hữu trước anh là vì muốn nhờ anh một việc.
Nhờ tôi một việc? Anh ta nói gì vậy?
- Tôi cần anh giúp.
Đầu óc tôi quay cuồng. Một con ma cần mình giúp? Tôi cố tỏ ra bình tĩnh, nói dõng dạc, tuy nhiên tôi vẫn thấy giọng mình run run:
- Việc gì vậy? Nếu tôi có thể giúp…
- Anh có thể giúp.
- Anh nói đi.
- Tôi muốn được có lại người mình yêu.
- Bằng cách nào? Tôi có thể làm gì?
- Anh có thể làm gì à? – Anh ta mỉm cười, đặt cây đàn gác lên bờ tường, rồi gằn từng tiếng: – Hãy chết đi!
Hai bàn tay anh ta, rất nhanh, chộp lấy cổ tôi. Cặp ngón cái cứng như thép ấn mạnh vào sụn thanh thiệt của tôi. Tôi không sao thở được. Tay chân tôi không hiểu sao lại tê cứng, không thể nhúc nhích được một li. Mắt tôi xuất hiện những chấm, những vằn đỏ vàng, rồi những chấm, những vằn ấy bắt đầu nhảy múa… chúng đặc dần, đặc dần đến khi tôi không còn nhìn thấy gì nữa…
*
* *
Tôi tỉnh dậy, thấy mình vẫn nguyên vẹn. Tay chân tôi cử động được. Quần áo vẫn nguyên. Tôi hắng giọng, lấy lại cảm giác nơi cổ họng. Hoàn toàn bình thường.
Trời có lẽ đang ban trưa. Đã một ngày trôi qua rồi sao?
Tôi ngồi dậy, thấy cơ thể mình thật nhẹ, như vừa qua một giấc ngủ thoải mái vậy. Mình đang mơ sao? Phải rồi, tất cả là một giấc mơ.
Tôi nhìn ra xung quanh.
Ôi, không!
Tôi đang ở trong một con hẻm nhỏ.
Và bên bờ tường… là cây đàn guitar màu gụ đỏ tuyệt đẹp.
Tôi hoảng loạn, rồi lại cố trấn tĩnh.
Không được sợ, ta không được sợ. Ta vẫn sống, ma không bao giờ hại được người ta.
Tôi cầm lấy cây đàn guitar trong góc tường. Ta có thể cầm được nó. Ta vẫn sống.
Tôi bước đi.
Đây rồi. Nhà thằng Phương bạn tôi. Và nhà cô bé.
Tôi ngồi xuống băng ghế đá trước nhà cô bé.
Kìa, cô bé đang mở cổng. Vậy thì chắc bây giờ là một giờ trưa. Cô bé đi học.
Tiếng bước chân đang đi lại gần. Tôi quay sang nhìn.
Tôi lại choáng. Những vằn đỏ vàng lại hiện ra trước mắt tôi. Tôi thường bị thế khi tụt huyết áp. Tôi sốc. Tôi cảm thấy mình sắp ngất.
Một dáng người đang đi về phía cô gái, tay cầm một bông hồng nhung đỏ thắm.
Một gương mặt quen thuộc. Phải, gương mặt tôi vẫn thấy khi soi gương.
Tôi…
Bình tĩnh, bình tĩnh, phải giữ bình tĩnh.
Cuối cùng thì tôi cũng không ngất. Tôi đã lấy lại bình tĩnh và nhận ra hoàn cảnh của mình bây giờ.
Bất giác, tôi nâng cây đàn lên.
“Những đắm say vội vã
Ta đã trao nhau để rồi lãng quên
Những năm tháng trôi
Để lòng mang bao vết thương thật sâu
Vì ta đã trót yêu…”
 
Đường chân trời

Phước An




"Cô đã chết rồi, tất nhiên thế. Mới chín tuổi và cô đã chết. Đó là một khối u trong não. Cô sống qua mùa hè
và đến đầu tháng chín thì chết."
Tim O’Brien – "Những cuộc đời sau khi chết"



Tôi cũng có một khối u trong não. Và ngày lại ngày tôi cố đoán xem tôi sẽ sống qua bao nhiêu mùa hè nữa. Tôi còn cố đoán xem có ai tặng cho tôi một cuộc đời sau khi chết không, có ai đó còn yêu tôi cả sau khi tôi chết, có ai đó vì tôi mà tự sáng chế ra những giấc mơ, có ai tự cứu rỗi đời mình bằng một câu chuyện mà tôi là nhân vật chính trong câu chuyện đó?
Đầu tháng chín khi tôi từ Paris trở về mang theo một khối u mà tôi không biết nó vốn đã ở trong đầu từ lúc nào, giống như Linda của Timmy, tôi nghĩ đến một cuốn sách nằm mốc meo trên giá thư viện, chẳng bao giờ được mở ra, chẳng có ai đọc. Thay vì hy vọng có ai đó sẽ cầm cuốn sách lên và bắt đầu đọc thì tôi lại sợ có ai đó giở nó ra vì trong đó chẳng có gì để đọc, và tôi nghĩ đến chuyện lấp đầy ruột cuốn sách đó.
Cuốn sách bắt đầu bằng cái ngày người phụ nữ mang trong đầu một khối u có thai. Thông báo của cô làm bùng nổ niềm hạnh phúc kịch phát của mọi thành viên trong gia đình. Bên nội hân hoan chờ kẻ nối dõi tông đường, bên ngoại tự hào chờ một người kế tục ưu tú của giòng họ. Còn cô gái, cô chờ đợi cái sinh thể sẽ làm thay đổi bản chất của cô, sẽ biến cô từ một cô gái thành một bà mẹ.
Tháng mười, phố sâu hơn. Đường chân trời, trong thành phố không có đường chân trời, như xa hơn nếu cô có thể nhìn thấy nó. Vì cô không nhìn thấy nó nên có thể coi như cô không nhìn thấy ranh giới giữa cõi tục và cõi tiên, giữa thiên đường và hạ giới. Cô không nhìn thấy chỗ tiếp giáp giữa nơi kết thúc và bắt đầu. Trong đầu cô không có những băn khoăn, những câu hỏi siêu hình. Cái đó có cần cho ai đâu. Khi người ta cứ phải vục mặt (vục mặt, một nhà văn đã viết như vậy) vào bát cơm của mình thì thế giới chỉ còn nằm gọn trong bát cơm đó, những gì bên ngoài bát cơm là vô nghĩa. Nếu có ai đó nói với cô như vậy hẳn cô sẽ phì cười, sắc thái của cái cười này cũng chẳng khác chi mấy với cái cười cũng là của cô nếu có ai đó nói với cô về siêu hình học. Đối với cô, một kẻ suốt đời chỉ biết vục mặt vào bát cơm, dưới hình thức này hay hình thức khác, và một kẻ suốt đời phóng Spacy lượn qua các phố, tiêu thời gian ở những chốn sang trọng nhất trong cái thủ đô này, về bản chất chẳng khác gì nhau. Họ cũng giống cô, không quan tâm đến siêu hình học.
Nhưng cô muốn nhìn thấy đường chân trời. Từ khi có thai đường chân trời trở thành một thứ tiếng gọi không nguôi trong cô. Cô sống ở một nơi bụi bặm và chật hẹp trong thành phố, xung quanh là nhà, nhà và nhà, trời cũng như đất được chia theo khẩu phần và cô nhận được, cùng với các thành viên trong gia đình, cái khẩu phần năm mươi mét vuông ngay trên đầu ứng với năm mươi mét vuông dưới chân cô. Ở đây mọi thứ phân chia quá rành rọt chính xác, không có một milimét nào dành cho sự mơ mộng hão huyền. Mọi thứ mơ mộng đều bị coi là hão huyền và một khi đã bị coi là hão huyền thì người ta thôi không mơ mộng nữa.
Kể từ khi có thai cô không còn sợ phải nghe từ hão huyền như một lời ca thán trách cứ nữa. Nhưng sự mơ mộng lớn nhất của cô cũng chỉ hướng về một đường chân trời mà thôi. Cô muốn nhìn thấy nó, cô muốn sở hữu nó nhưng cô chưa bao giờ tự hỏi mình tại sao lại là đường chân trời chứ không phải là một cái gì khác. Cô tiếp tục nghĩ về nơi kết thúc của đất và khởi đầu của bầu trời. Cô biết đó là một hư ảo. Đường chân trời là một ảo giác lừa mị vì không bao giờ chạm được vào điểm giao nối đó. Nó sẽ mãi ở đó, phía trước, lùi xa và phía trước. Cũng có lúc cô thấy nó nằm vắt ngang như một que củi, một que củi khô queo dưới ánh nắng mặt trời. Và cô nằm vắt ngang qua cành củi đó để rồi thấy rõ chẳng có cành củi nào cả. Cô đã tin rằng chỉ cần vượt qua nhánh củi khô nọ là cô sẽ đến được một thế giới khác hẳn với thế giới cô đang sống. Vậy mà thậm chí cả một nhánh củi khô cũng là điều không thật.
Mơ mộng về đường chân trời lớn dần cùng với bầu thai. Có lẽ đứa con của cô sau này sẽ là người lữ hành không ngừng dấn thân vào những phương trời xa lạ. Tương lai của con cô sẽ là những chuyến đi, những chuyến đi không bao giờ tới đích. Sự vẫy gọi (từ này có vẻ đẹp đẽ vì cô không rõ đã lúc nào nghe thấy một sự vẫy gọi chưa) của một sức mạnh vô hình cuốn nó đi. Cô thử nghĩ xem liệu cô có muốn giữ nó lại bên mình không, tất nhiên việc cô muốn hay không muốn đối với nó không quan trọng, vì không gì có thể ngăn cản ý thích phiêu du của nó, nhưng với cô mong muốn đó hẳn có một ý nghĩa nhất định. Nhưng rồi cô, trong một giây phút loé sáng của nhận thức, lại thấy rằng nó càng xa cô càng gần cô. Khoảng cách địa lý mở rộng sẽ thu hẹp khoảng cách tâm linh giữa cô và nó. Nói cách khác nó sẽ đưa cô đi cùng với nó đến những chân trời bất định kia. Cô lúc đó sẽ nhẹ như một lông ngỗng và nó là gió mang cô đi đó đây trong không trung. Nhưng rồi một giây phút loé sáng của nhận thức khác, cô chợt hiểu rằng gió sẽ không chịu trách nhiệm gì về chiếc lông ngỗng cả, nó có thể rơi rụng bất cứ chỗ nào trong lúc gió vẫn tiếp tục đi.
Rồi cô về quê để có thể đối diện trực tiếp với đường chân trời. Cô ngồi sau luỹ và nhìn nó hàng giờ. Cô muốn đi về phía nó nhưng giờ đây cô đã quá nặng nề với cái thai ở tháng thứ bảy. Suốt bảy tháng qua cô đã cùng con cô đẩy lùi chân trời không biết bao nhiêu dặm. Giờ đây chính thức nhìn thấy nó trước mắt, cô không có thêm được ý tưởng mới mẻ nào cũng không đẩy nó đi được một ly nào. Cô dùng mắt ôm lấy nó, lưu lại đó cái nhìn cuối cùng của cô, rồi trở về thành phố không một lời tạm biệt.
Ngày sinh hạ đã đến. Cho tới tận lúc đó, cô hoàn toàn lãng quên cái u, mặc cho bác sĩ liên tục nhắc nhở về tính chất nguy hiểm. Sự phát triển đột biến của nó trong thời kỳ mang thai và những rối loạn do nó gây ra đã bị cô đồng nhất với mộng mơ về đường chân trời. Phương pháp ấy đạt được hiệu quả không ngờ vì cô hầu như trút bỏ mọi lo âu không cần thiết, hơn nữa còn có hại, cho một sản phụ.
Bác sĩ bảo rằng cô là một ca đặc biệt, sẽ phải thực hiện một phẫu thuật kép, đứa trẻ và khối u sẽ được mổ để lấy ra cái này liền sau cái kia. Thực ra người ta đã đề nghị cô phẫu thuật khối u từ trước nhưng cô không muốn bất kỳ một rủi ro nào cho con cô. Vì không ai có thể biết chắc điều gì sẽ xảy ra với cái phương pháp mổ thủ công, là phương pháp duy nhất áp dụng ở nước cô hiện nay. Mỗi lần lên cơn đau đầu dữ dội cô lại thấy giông bão xuất hiện trên con đường mà con cô đang dấn bước. Nó kiên quyết không chịu lùi, cho đến khi trời quang mây tạnh và đường chân trời lại xuất hiện trước mặt. Cứ thế cô và con cô đã ở bên nhau để vượt qua cơn đau đầu kịch phát đó. Rồi một hôm bầu trời trong đầu cô vỡ tung. Những mảnh vỡ tan tác nhào lộn trong khối hỗn mang và cuối cùng rơi xuống xếp thành một đường chân trời ngoằn ngoèo. Cô đứng giữa đống đổ nát, chân dẫm lên những mảnh vụn, tóc xoã tung bay khắp mọi hướng. Cô dang rộng vòng tay muốn ôm trọn cả khối hỗn độn tan nát ấy. Cô muốn ghép những mảnh vụn để tạo dựng lại vòm trời, nhưng cô biết công việc đó đòi hỏi quãng thời gian của một đời người. Cô nhìn thấy đời người phía trước, cái cuộc đời lẽ ra sẽ thuộc về cô giờ đây vĩnh viễn ở phía trước, nơi cô không đến được. Cô nằm duỗi dài theo đường chân trời, tóc xếp gọn quanh thân hình cô, lúc này cô cũng là một đường thẳng. Cô nằm im chờ đợi giây phút lao qua phía bên kia chân trời, chờ đợi cảm giác nhẹ nhõm của sự giải thoát, nhưng cơn đau ghì cô xuống sát mặt đất, cô đã gắng không cảm nhận sự tồn tại của nó. Cô nhìn vào cơn đau như nhìn vào một ống kính vạn hoa, những sắc màu liên tục xáo trộn. Từ màu đỏ chuyển sang màu xanh rồi màu tím, một hỗn hợp các màu di động không ngừng. Và những sắc màu ấy nhạt dần nhạt dần cho đến lúc tất cả hoà vào nhau trong một màu trắng, trắng tinh, lạnh và khô. Cơn đau phủ lên cô màu trắng của tấm vải liệm. Nếu cô có thể đứng lên được thì cô sẽ rũ bỏ tấm vải liệm kia và lao vào khoảng không nơi tự do đang chờ đón cô. Nhưng cô vẫn nằm lại đó, bị cầm tù trong nỗi đau.
Cô đã sẵn sàng đối diện với ca mổ, đó là cách duy nhất để cứu cô. Nhưng cuối cùng người ta đã không cần phải mổ não cho cô, vì sau khi nhìn thấy cậu bé đỏ hỏn trong tay bác sĩ đang gào khóc như gió trong một cơn giông bão, sau khi bác sĩ mang cậu ra khỏi phòng thì cô toại nguyện vì đã chạm được vào đường chân trời của cô, một đường chân trời có thực, không hề là ảo giác lừa mị, nó là điểm giao nối giữa nơi kết thúc sự sống và khởi đầu cái chết. Cô băng qua cành củi khô, dấn mình vào một thế giới khác hẳn cái thế giới cô đang sống, ở đó thời gian chỉ dành cho những cuộc viễn du.
Phút đầu tiên của cuộc hành trình cô nhận thấy mình rất nhẹ. Dễ hiểu thôi vì cô không còn trọng lượng nữa, trọng lượng là sự ràng buộc giữa các sinh vật và trái đất, giờ đây cô đã thoát khỏi mọi ràng buộc. Nơi cô đang đứng chính là đường chân trời, hoá ra không phải là một đường thẳng như cô vẫn nhìn thấy, chỉ là một điểm , một điểm hết sức mong manh, khi cô nhấc chân lên khỏi mặt đất thì nó cũng tiêu tan. Cô lao vào khoảng không vô tận không có ranh giới, không có gì chắn tầm mắt cô, mọi thứ trôi tuột trong một mặt phẳng trơn trống trải. Bất kỳ một hành trình nào cũng vô nghĩa lý nếu thiếu cả đích đến lẫn những cản trở, vậy mà cô đang lao vào một hành trình như thế, lao vùn vụt nhưng cô cảm thấy chẳng hề tiến lên phía trước , không có mốc và mọi điểm trên hành trình đều giống hệt nhau thì làm sao đo được quãng đường đã di chuyển. Cô quyết định quay trở lại ngôi nhà nơi cô đã từng có khẩu phần năm mươi mét vuông bầu trời. Cậu bé của cô giờ đã gọi một người phụ nữ khác là mẹ.
Cô nghe thấy con cô nói với mẹ nó:
-Mẹ ơi đường chân trời là gì? Ở đó người ta có thể lên trời phải không mẹ?
-Không con ạ, vì đó là một đường thẳng không có thật.
-Con muốn nhìn thấy đường chân trời.
-Được, nếu con ngoan.
Chủ nhật bố mẹ đưa cậu bé ra ngoại thành, chỉ cho cậu cái vạch màu xanh xa tít tắp ở phía cuối cánh đồng. Họ ngả lưng xuống cỏ và quay sang nhìn nhau. Ngày thường họ ít có dịp nhìn vào mắt nhau. Người đàn ông dịu dàng hơn và người đàn bà ngay thẳng hơn. Họ để cậu bé một mình với vạch màu xanh đang dần dần trở nên tím thẫm. Với họ đó chỉ là một cái vạch màu xanh không hơn không kém.
-Bố ơi con có đến đó được không?
-Không được đâu con ạ, mẹ cậu trả lời.
-Nếu đến được đó người ta có lên trời được không bố?
-Không bao giờ và không ai có thể đến đó đâu, con ơi nằm xuống đi nào. Lại là mẹ cậu trả lời.
-Người ta có thể tới đó trong tưởng tượng, bố cậu thêm vào.
-Nhưng nó kia kìa, bố, con nhìn thấy nó rồi, lúc nào lớn lên con sẽ tìm được nó.
-Ừ, chờ lúc nào lớn lên...
Bố cậu nhìn cậu ngạc nhiên và hy vọng. Người bố không biết gì về nỗi ám ảnh của người mẹ thực sự của cậu bé. Cô vẫn không ngừng nhìn họ, cả ba người bọn họ. Cậu bé được bảo vệ trong vòng ôm của bà mẹ, nằm nghiêng trên cỏ, mặt hướng về phía cô. Cô dang tay vẫy nó. Giờ đây nó vẫn chưa biết gì về sự tồn tại của cô. Mọi người đều thống nhất rằng lúc này chưa thích hợp để cho nó biết sự thật. Với nó chỉ có một người mẹ duy nhất vẫn hàng ngày kề cận chăm sóc. Khoảng cách giữa cô và nó chính là khoảng cách giữa nó và đường chân trời.
Cô đứng lại ở điểm giao nối giữa trời và đất để chờ cậu bé lớn lên, vì nếu cô lao lên trên kia, thì khi quay lại cậu bé đã trở thành cụ già mất rồi. Nhưng đến chín tuổi cậu không lớn nữa. Cậu cũng có một khối u trong não.
 
Con chim Hòang Yến
Peter Robertson


Cuộc họp bàn công việc đã kéo dài hơn so với tưởng tượng của tôi. Mệt mỏi, tôi nhắm mắt lại và bỗng nhận ra vòm miệng tôi đã biến thành gian giữa của một giáo đường tự bao giờ. Tôi đẩy răng hàm ra khỏi lợi, những khoảng trống hai bên hàm biến thành hai nhà nguyện nằm ở hai bên gian giữa. Cái lưỡi của tôi khô rang bởi hút thuốc quá nhiều, biến thành một sàn nhà thờ tuyệt đẹp. Những bà lão nhỏ như những con sâu róm ngồi trên ghế băng cầu nguyện hoặc dâng những cây nến tạ ơn lên những vị thánh tôn kính. Rồi bất chợt xuất hiện một đoàn thầy trợ tế đi ra từ phòng lễ phục trong bộ đồ màu đỏ. Đó là dấu hiệu để vị giám mục bắt đầu bài giảng đạo của mình.

Đúng lúc đó người ngồi bên cạnh tôi châm điếu thuốc. Tôi đưa tay lên bịt miệng để chặn cơn ho, đồng thời nhận ra có một vật thể lạ lùng nào đấy đã tìm cách đột nhập vào trong miệng tôi. Cố gắng hết sức để khỏi bị ai chú ý, tôi len lén liếc nhìn và phát hiện ra lúc này miệng tôi đang nhung nhúc một đám những bà lão bé xíu, váy xống nát nhàu. Một cách bí mật, tôi dồn tất cả bọn họ lại, đem nhét vào túi áo khoác.Bỗng nhiên muốn hắt xì hơi, tôi lại lấy tay lên che miệng, lần này từ miệng tôi phụt ra các thầy trợ tế, vị giám mục cùng mấy khách du lịch người Nhật. Tôi lại nhặt họ lại, đặt họ bên cạnh những bà lão rồi trong khi giả đò đang chăm chú vào đống giấy tờ công việc buồn tẻ đầy những chi tiết vặt vãnh, tôi mân mê ngón tay để khám phá những sinh thể kỳ quặc này. Đến lúc ấy, trong túi áo tôi là cả một lũ côn trùng đang loay hoay một cách tuyệt vọng để bò lên tay tôi. Về đến nhà, tôi lên ngay chỗ treo lồng con chim hoàng yến và vứt tất cả lũ côn trùng vào đó. Đầu tiên, tôi thấy thất vọng vì con chim chỉ mổ nhát gừng mấy con côn trùng. Nhưng rồi chẳng mất nhiều thời gian, nó đã kết liễu cả lũ con trùng này, không sót một con và tôi nghĩ hẳn đó phải là món khoái khẩu đối với nó.

Ngày hôm sau, bị giày vò bởi sự hối hận, tôi quyết định đi xưng tội. Tôi vừa mới kịp quỳ xuống thì bỗng đâu nổi một trận cuồng phong, thổi tung tôi cùng vị mục sư và những giáo dân khác đi. Chân gãy; lúc đầu tôi trú ẩn trong một chiếc bao tay da, rồi sau, ở dưới đáy một bao tải mà từ chỗ đó, tôi có thể nghe thấy tiếng đập cánh nghe rờn rợn của một con chim khổng lồ nào đấy. Tôi đang viết những dòng này trong nhật ký của mình, càng nhanh càng tốt, trước khi bị xơi tái. Tôi chỉ dám hy vọng là những lời tôi viết sẽ rơi vào tay một người nào đó có thể hiểu nổi chuyện quái quỷ gì đang diễn ra.
 
Hy Vọng Ở Tình yêu


Sáng nay Liên gặp Bảo, vất vả bao nhiêu cô mới gặp được anh, thế mà gặp Bảo, Liên cứ run lên, cảm giác những vết thương ở chân như bị đau trở lại. Lòng dạ Liên bồn chồn khó tả. Sợ sệt và bối rối, Bảo thì ngược lại, anh như người vừa mới bắt được một tài sản lớn. Như người vừa trúng số độc đắc. Anh hồ hởi nói cười, thậm chí còn hơi thái quá.

Đã rất lâu, Bảo không quan tâm đến người con gái nào, thú thực cũng chẳng ai quan tâm đến anh nhiều trừ thằng con. Thế mà sáng nay gặp Liên bỗng dưng Bảo có một cảm giác kỳ lạ, nó như đánh thức các giác quan của Bảo.

Bảo thấy mùi nước hoa Liên dùng, hương thơm ngọt ngào, dịu nhẹ. Khi Liên bắt tay, Bảo cảm giác được sự rụt rè đan xen nhiều tình cảm khác lạ. Bảo như thấy có một sức hút từ lòng bàn tay cô. Đôi bàn tay ấy không mấy kiêu sa, không quá đẹp nhưng có một điểm đặc biệt là các ngón mềm và ấm.

Liên có nụ cười tươi, đôi môi đỏ tự nhiên, miệng cười, mắt cười, hàm răng như những hạt bắp non còn thơm mùi nắng và gió, mùi đất đai, thảo mộc, mùi tươi nguyên của thiên nhiên mới mẻ và bền vững. Khi Liên cười với Bảo, anh tự nhủ: “Tiêu đời rồi, cô ấy chỉ dành nụ cười này cho riêng mình thôi”. Bỗng nhiên Bảo thấy anh như một tù binh bị dẫn giải đến nơi giam giữ, đó là trái tim Liên.

Sáng nay, Liên mặc một cái áo cổ sâu màu tím than để lộ “khu vực giải tỏa” hơi bị rộng, da Liên màu nâu sáng, mịn màng và gợi cảm. Ngay lúc ấy, Bảo đã lên kế hoạch để có cớ được gặp Liên.

***

Liên sống một mình, công việc của cô là phụ bán cà phê cho một quán nho nhỏ, kín đáo. Bảo không hỏi về quá khứ, song Liên kể cho anh nghe về hoàn cảnh của mình.

Tất nhiên, anh đã biết Liên chỉ có một mình. Điều đó càng làm anh thấy cần có Liên hơn ai hết. Khi gặp Bảo và cảm nhận được tình thương của anh, bao lần Liên định chạy trốn, cô không xứng đáng với anh. Trình độ, gia đình, địa vị xã hội... tất cả đều khập khiễng...Nhưng càng nghĩ đến điều đó cô càng không đủ ý trí để xa Bảo.

Gặp anh cô thấy mình thật sự biết yêu, y như lần đầu được yêu, bởi vì cô đã bao giờ yêu ai và đã có ai yêu cô thật sự ngoài việc một người được và một người mất... hay khắt khe hơn cả hai người cùng được.

Từ khi quen Bảo, Liên như biến thành con người khác, bỗng nhiên cô dữ dằn tới mức ai đó động vào cô là cô nổi đoá lên. Khi biết mình nhiễm HIV nghĩa là mang cái án tử hình còn treo Liên đã định tự tử, cô luôn luôn bắt khách phải sử dụng dụng cụ mà không mấy ai thích dùng.

Liên bảo “Muốn sống thì đeo vào” thằng nào cũng sợ xanh mắt mèo. Có thằng yếu bóng vía quẳng tiền lại rồi chạy thẳng, giống như bỏ của chạy lấy người. Dạo này, Bảo hay lui tới nhà Liên vào buổi tối vì Bảo chỉ biết Liên là người bán cà phê đơn thuần. Hay nói cách khác anh biết quá ít về Liên.

Anh cố tình đến nhà Liên buổi tối để cô phải xin nghỉ làm. Bảo nói “Anh không có thành kiến gì về nghề nghiệp của em. Nghề nào cũng quý. Nhưng anh muốn tìm cho em một công việc khác, chí ít em cũng phải làm chủ quán”.

Liên bảo “Em mới học hết cấp II làm bà chủ sao nổi, để em làm thuê là ăn chắc”. Bảo ngồi ngắm Liên cắm những bông hoa màu trắng, anh hay theo dõi những cử chỉ của Liên, cử chỉ nào cũng đẹp, cũng đáng yêu, duy chỉ có những bông hoa màu trắng đôi khi làm cho Bảo thấy rờn rợn. Liên thanh minh “Em thích màu trắng vì màu trắng có vẻ đẹp riêng của nó, vẻ đẹp trong veo, thanh khiết, dịu dàng nhưng cũng rất mong manh”

***

Từ hôm Liên bị ngã xe được Bảo đưa đến viện, rồi Liên đến toà soạn đăng tin cảm ơn và tìm người cứu mình thì lại gặp được người cần tìm. Thật là một sự ngẫu nhiên thú vị. Nhưng còn một điều bí mật đó là Liên đến toà soạn đăng tin tìm người để muốn cảnh báo cho người đó cô có HIV nhỡ đâu người cứu cô có vết trầy xước gì thì coi như người đó lĩnh án tử hình.

Nhưng khi nhìn thấy Bảo, cô không thể nói gì được, nhỡ đâu anh ta không làm sao, nói ra chẳng phải là đường đột hoặc bất tiện? Rồi Liên lại nghĩ: nếu không nói mình bị thế, biết đâu anh ta lây nhiễm rồi lại truyền cho người khác thì phải tội. Cứ dằn vặt trong ý nghĩ ấy suốt, Liên đến mất ăn mất ngủ.

Liên quen Bảo đã 6 tháng trời, Bảo chưa được gần gũi Liên. Có lúc anh phát điên lên vì Liên ăn mặc khêu gợi quá, da thịt Liên thơm tho quá, Liên cười xinh xẻo quá, đáng yêu quá. Bảo cứ định đụng vào Liên là cô giẫy nảy như đỉa phải vôi, có lúc Bảo nghi ngờ tình yêu của Liên. Yêu nhau sao giữ gìn khiếp thế, Liên đã nói từng yêu mấy người rồi là gì.

Còn Bảo, anh đâu phải là trai tân? Nhiều đêm, Liên nằm khóc một mình, đời người mấy ai không nếm trải khổ đau, nhưng Liên thì nhiều quá, tới mức Liên không nghĩ đến nỗi đau của ai khác được nữa.

Bố mất từ khi Liên 8 tuổi, bảy năm sau mẹ đi lấy chồng. Liên có thai với ông bố dượng và bỏ đi biệt tích tới giờ. Thằng chó đểu, nó rủ Liên chơi trò chơi hay lắm. Nếu ngoan không nói với ai thì sẽ có quần áo đẹp, bánh kẹo ăn suốt ngày. Đồ lừa đảo, Liên chẳng biết gì cả, cho tới khi... Thế là từ đó, Liên thù đàn ông. Nếu chưa gặp được Bảo, Liên cứ nghĩ đàn ông rặt một lũ chỉ biết húc cái của nợ ấy của người khác giới.

Nhiều đêm nằm một mình, Bảo lại nghĩ giá mà gặp được Liên sớm hơn. Cũng từ khi gặp Liên, Bảo mới nghĩ lại rằng cần phải có một mái ấm gia đình. Ngày xưa Bảo hô “ Độc thân muôn năm” thì bây giờ Bảo nghĩ “Độc thân là dại dột”.

Mười một rưỡi đêm, thường thì giờ này, Liên hay gọi điện cho anh. Nhưng hôm nay cu Bin gọi điện nói muốn mua tặng bố một đôi giày và hỏi bố đi giày size bao nhiêu. Bảo à ừ rồi nói “Thực ra, bố cũng không nhớ nữa, ước gì có người phụ nữ nhớ cho bố những điều đó”.

Lát sau, nó lại nhắn tin “Bố lấy vợ đi, con không buồn đâu, cô Liên cũng xinh đấy chứ?”. Lúc đó, Bảo chỉ muốn gào lên cho cả thành phố biết anh yêu Liên đến nhường nào.

Bảo đâu biết lúc đó, Liên đang khóc, những giọt nước mắt trong như pha lê nhỏ từ khoé mắt bên này chảy sang khoé mắt bên kia rồi chảy xuống thái dương, xuống tóc và gối.

Liên ít khóc trước mặt Bảo, Liên sợ Bảo buồn, sợ mình không tỉnh táo và nói ra sự thật khủng khiếp ấy với Bảo. Có lần, Bảo nhắn tin “Ước gì anh đổi cả trái đất này để có được em”. Liên đau đớn tới mức nếu Bảo ở bên cô, cô có thể chết đi được.

Liên nhắn lại “Anh đã có sổ đỏ chưa?”. Lần nào nhắn tin cho Liên, Bảo cũng để điện thoại trên ngực. Một lần, Bảo nói với Liên “Anh thấy em như một phần cơ thể của anh, thật đấy”.

Liên sà vào lòng Bảo và nói “Kỳ lạ thế, em cũng vậy, ước gì cuộc đời có anh”. Bảo giật mình “Sao em nói gì lạ thế, có em là mong ước lớn nhất của anh mà, chỉ cần em gật đầu đồng ý là anh làm đủ thủ tục pháp lý để cưới em làm vợ”.

Liên mân mê ngón tay Bảo và nói “ Em biết rồi, cho em thời gian”. Chỉ cần Liên nói vậy là Bảo đã tràn đầy hy vọng. Tình yêu của Liên ập đến với Bảo y như một trận sóng thần, nó xoá đi những tình cảm trong quá khứ để làm mới lại tất cả.

Bảo cứ nghĩ trong cuộc đời ai cũng bị những tai nạn trong tình yêu như vậy, có chăng là nó đến sớm hay muộn, đến vào thời điểm nào, độ tuổi nào trong cuộc đời mà thôi.

Có lần, Bảo nhắn tin, khi đó anh vừa về đến nhà sau một chuyến công tác xa: “Chúng ta phải xứng đáng với tình yêu, biết đâu chỉ có một lần trong đời”. Liên nhắn lại “Đừng làm đau lòng em, anh ơi. Em yêu anh hơn hết thảy mọi thứ trên cuộc đời này”. Bảo nhắn lại: “Với em, anh thấy mình thực sự biết yêu, vững vàng hơn trong tình yêu, có thể xả thân cho tình yêu. Anh thấy mình đang nhỏ bé bỗng chợt lớn lên trong tình yêu vĩ đại”.

Nhắn tin xong, Bảo đến nhà Liên. Ví von theo kiểu Nam Cao thì khi đó Bảo như Chí Phèo vác dao đến nhà Bá Kiến. Căn hộ của Liên nhỏ, chỉ chừng hơn 20m2, tối om. Bảo khẽ nhấn chuông, không một tiếng động nào báo hiệu là Liên có nhà, Bảo lại bấm chuông lần nữa, cánh cửa vẫn lặng im. Không biết Liên đi đâu vào giờ này, Bảo gọi điện, Liên nói “Em đang ở trong nhà”. Liên bật đèn ở phòng ngoài, ánh sáng vàng nhạt làm Liên đẹp lên bội phần, Liên mặc chiếc váy ngủ màu trắng cổ rộng đến nửa ngực, Liên không mặc áo lót, tóc buông ngang lưng, từng lọn tóc xoăn lơi lả ôm lấy vai cô làm Bảo không thể đừng được.

Anh đến bên Liên và ôm ngang người cô rồi hôn lên cổ, lên trán. Liên bình tĩnh nói: “Anh chờ em một chút được không?” rồi Liên đẩy Bảo ra và đi vào buồng ngủ. Liên bật đèn ngủ, đèn ngủ có hình bông sen bọc bằng lụa màu phớt hồng “Anh vào đây với em”.

Đêm đó, Bảo ở bên Liên, anh được ngắm cái eo lưng như thể lần đầu tiên anh biết thế nào là “thắt đáy lưng ong” như các cụ thường nói. Anh hạnh phúc như một nhà thám hiểm, vừa khám phá và chinh phục được một vùng đất màu mỡ và mới mẻ.

Khi đó, Bảo thấy mình như người được chèo thuyền trên mặt hồ vào mùa thu êm đềm và dịu mát, từng đợt sóng lan tỏa đến tận cùng các giác quan của Bảo. Bảo nghe được tiếng thì thầm từ làn da, từ mùi hương của cơ thể Liên, từng lời thì thầm ngọt ngào và cháy bỏng.

Liên vẫn bắt Bảo dùng cái thứ của khỉ ấy ngay từ đầu. Anh có vẻ tự ái, nhưng rồi Bảo cũng làm theo. Liên khóc, nước mắt Liên rơi lã chã xuống vai anh, Bảo bỗng thấy mình vụng về y như lần đầu. Anh lấy tay lau nước mắt cho Liên và nói “Nín đi em, em sẽ là tình yêu lớn nhất của cuộc đời anh được không nào? Chúng mình sẽ cưới nhau, anh sẽ không làm em thất vọng”.

Liên càng khóc to hơn, cô cảm thấy từng hồng cầu trong cô đang bị hủy hoại. Cô nhìn thấy mình nằm trong quan tài, nhìn thấy vài người đến viếng nhưng không thấy mặt Bảo.

Đêm đó, Bảo tỉnh dậy, Liên nằm chéo chiếm gần hết giường, gương mặt đẹp như tranh. Bảo thấy mình nửa như chết chìm trong hạnh phúc, nửa như đang từ từ rơi xuống vực. Bảo thơm ngón chân cái của Liên, anh thấy ngón chân Liên đẹp như nụ hoa nhài.

Bảo bắt đầu nghĩ về tương lai, đúng hơn là Bảo lo cho tương lai chu đáo và kỹ càng hơn trước. Anh nghĩ là mình phải sửa lại nhà, mua thêm một ít đồ đạc, đóng cho Liên một cái giá sách đàng hoàng, đặc biệt là mua chiếc lò vi sóng rồi tìm việc làm cho Liên.

Bảo nói với Liên kế hoạch của mình. Liên nói: “Từ từ, em thấy ngôi nhà anh chưa cần phải sửa, thôi để tiền lo cho cu Bin vào đại học. Em chỉ cần một cái giá sách thôi. Em thích đọc sách”... Bảo nói: “Em đừng lo, anh đã gửi ở ngân hàng cho nó 20.000 USD. Việc trước mắt là lo cho chuyện chúng mình”. Liên lại nói: “Từ từ thôi anh ạ”.

Liên thấy Bảo già hẳn đi khi lo chuyện cưới xin. Liên không biết phải thoái thác lời đề nghị đó thế nào, ba chữ “Từ từ thôi” Liên đã nói đến hàng trăm lần rồi, bây giờ biết nói như thế nào cho Bảo hiểu. Từ khi được gần gũi Liên, Bảo như trở thành người khác, anh vui vẻ hẳn lên, làm gì Bảo cũng nhớ đến Liên, nghĩ đến tương lai của hai người. Lúc nào Bảo cũng chỉ muốn được nhìn thấy Liên trong tầm mắt của anh. Liên nấu nướng, đọc sách, cắm hoa hay dọn dẹp nhà cửa, hễ không nhìn thấy Liên là Bảo không yên tâm.

Chưa bao giờ, Liên cảm giác ham sống đến như thế, chưa bao giờ Liên thấy cuộc sống có ý nghĩa đến thế, chưa bao giờ cô thấy yêu đời và yêu người đến thế. Trái đất có thêm một tình yêu là bớt đi một bất hạnh, nghĩa là càng nhiều tình yêu thì niềm tin và ước mơ càng nhiều. Liên nghĩ vậy và nghĩ cho thân phận mình.
 
Nhưng cuộc sống của Liên giờ đây mong manh quá, biết bao giờ dừng lại, biết bao giờ lịm tắt. Liên không dám nghĩ đến chuyện Bảo biết cô nhiễm căn bệnh này thì anh sẽ xử sự như thế nào, chắc chắn là anh sẽ ra đi. Đây đâu phải thời Romeo và Juliet. Liên đọc ở đâu đó câu thơ. “Đâu phải thời Romeo và Juliet/Nên chẳng có đứa nào dám chết/ Đành lòng thôi mỗi đứa một phương...”.

Tuy câu thơ này không liên quan gì đến hoàn cảnh của cô, nhưng cô cứ nghĩ thời buổi này chết vì nhau thật hiếm, vì cuộc đời nhiều cám dỗ quá. Liên nghĩ đến hôm cô bị tai nạn, Liên sợ, chân tay cô bê bết máu, Bảo bế cô lên taxi và đưa cô vào bệnh viện, không may anh bị lây cô từ hôm đó… ý nghĩ Bảo bị lây cô cứ lởn vởn quanh đầu Liên. Còn Liên thì đang như kẻ tội phạm mà án treo đối với cô còn khổ sở hơn án tử hình.

Chiều nay, Bảo ngồi thử cắt nghĩa chuyện tình cảm của anh và Liên, anh thấy đó như là một ơn huệ mà cuộc đời ưu ái dành cho anh. Liên cũng vậy, nhưng cô không biết diễn đạt tình cảm của cô bằng từ ngữ. Bảo như hiểu được điều đó, anh nói: “Anh cảm thấy trái đất này nhỏ tới mức không đủ chỗ cho tình yêu, không gian này không đủ không khí cho tình yêu, chỉ có một con đường đi đến tình yêu thôi em ơi, đó chính là tình yêu. Bọn mình phải cưới nhau thôi, em có ràng buộc gì đâu, anh cũng vậy”. Liên lại nói: “Từ từ, có cần vội vã vậy không anh ?”

Liên nấu cho Bảo bát chè long nhãn hạt sen, Bảo xúc động lắm:

- Ngoài em, lâu rồi, anh không được ai nấu cho ăn cái gì, hình như những người thân của anh họ chỉ nghĩ đến việc anh cần cho họ như thế nào chứ không nghĩ rằng họ cần phải hiểu và chia sẻ cho anh. Gặp em, anh thấy đời anh đầy đủ ý nghĩa lắm rồi.

***

Bảo đổ vật xuống cửa nhà Liên, thân hình như một cây to vừa bị một cơn bão lớn quật ngã, Liên hốt hoảng dìu anh vào nhà “Trời ơi, anh làm sao thế này?”. Liên lấy dầu gió bôi vào thái dương, lòng bàn chân, bàn tay Bảo rồi đi pha cho anh cốc nước cam nóng.

- Anh nói cho em xem có chuyện gì với anh vậy ?

- Ừ, anh bị nhiễm nước mưa đêm qua.

Liên ôm Bảo thật chặt

- Anh nói đi, chắc chắn là có chuyện nghiêm trọng, đúng không?

Bảo lấy cái ví đưa cho Liên, cái ví vẫn còn ẩm.

- Em xem đi, cơ quan anh mới kiểm tra sức khoẻ cho cán bộ

Liên đã hiểu tất cả, cô để ví xuống bên cạnh anh, nước mắt lại rơi, sao nhiều nước mắt thế. Đêm nào Liên cũng khóc, thế mà sáng ra Liên lại khóc ngay được. Liên cảm thấy có một tảng đá lớn đè lên ngực cô khiến cô không thể nói được. Tự dưng Liên có cảm tưởng Bảo đã nhìn thấu được quá khứ khổ sở, cùng cực, thiếu thốn và tối tăm của Liên. Cô hổ thẹn vô cùng, vì cô là thủ phạm đã đem đến những đau đớn lớn lao nhất đến với Bảo. Ngược lại thì cô vẫn thấy những ngày có anh trong cuộc đời cô là một sự kiên trọng đại, là một niềm vinh hạnh cho trái tim cô. Bỗng Bảo hốt hoảng

- Em ơi, anh là kẻ tồi tệ.

- Không, em mới xứng đáng với câu nói ấy.

- Tại anh mà, trước khi gặp em, anh có đi chơi đêm mà không dùng dụng cụ gì... Anh xin lỗi. Anh có lỗi với tình yêu của chúng ta. Đúng là tại anh rồi.

Liên đã hiểu tất cả, anh không thể nghĩ Liên là người truyền bệnh cho anh khi cô bị ngã xe, những khi gần gũi nhau, cô thường bắt anh dùng “dụng cụ bảo vệ” cho nên anh không nghĩ chính Liên lại là người truyền bệnh cho anh.

Liên nói: “Anh cứ bình tĩnh, bây giờ, anh nằm đây, em đi mua thuốc cảm cho anh uống đã, biết đâu họ nhầm”. Nói vậy nhưng cô biết họ không nhầm, cái điều mà cô sợ nhất đã đến. Thế là những hy vọng của Liên vỡ tan, cô đã hy vọng, biết đâu anh không lây cô, biết đâu cô nghĩ đến việc đó là thừa.

Những hy vọng đã được Liên xây lên như lâu đài nay đã bị một cơn động đất làm biến mất. Liên chạy ra ngoài và một ý nghĩ chợt đến, hay là Liên trốn đi thật xa để không ai còn biết Liên là ai, không ai biết căn bệnh ấy hình thù thế nào, thế là cuộc đời bằng con số không, tình yêu là con số không...

Cô mua thuốc, trong lòng xáo trộn những ý nghĩ đầy mâu thuẫn. Chần chừ một lát rồi cô lại quay về nhà. Cô dằn vặt với ý nghĩ phải giành giật lấy Bảo, cô sẽ nói sự thật, nhưng cô không thể đánh mất Bảo, đó là một thách thức lớn, một phút còn sống cô cũng không để mất anh.

Những ngày sống với anh quả là những ngày trọng đại. Đối với cô, hai từ tình yêu dường như chưa đủ cho tình cảm của mình. Lẽ ra nhân loại phải tìm được từ gì đó vĩ đại hơn... Nghĩ cho cùng cuộc sống là một hành trình tìm kiếm tình yêu và hạnh phúc, cô đã tìm thấy hạnh phúc và cô phải giữ lấy nó bằng bất cứ giá nào. Cô phải quay về với Bảo, không thể hèn nhát mà bỏ trốn. Cô biết anh đang chờ cô trong một tình cảm nâng niu, trân trọng, cảm thông và những ước mơ bình dị. Bảo và Liên vẫn có quyền hy vọng vào tình yêu. Cô nghĩ thế và cũng tin như thế.
 
Màu hoa phượng thắm
Nguyễn Xuân Hải



Khi chiếc xe Nissan của Tấn hút dần, nhìn hoa, tôi bàng hoàng. Những cánh đỏ mỏng manh đã bị bánh xe của Tấn nghiền nát. Từ những cánh hoa ấy rỉ ra những giọt li ti như máu. Trong tâm thức của tôi bỗng trỗi dậy một linh cảm rất lạ.


Tháng Tám. Cây phượng đầu phố chỉ còn sót lại vài bông héo hắt cuối mùa. Đêm trước, một cơn mưa giông giật nốt những cánh hoa đỏ ra khỏi vòm xanh ném đi khắp nơi. Một bông bay về đậu trước cửa nhà tôi. Khi mở cổng cho Tấn đi làm, tôi bỗng nhận ra nó. Một làn gió sớm lướt đến. Những cánh hoa như đang run rẩy lo sợ.


Tôi khóa cổng, trở lại phòng khách gieo mình xuống ghế. Những bông hoa màu máu như gọi tôi về một thuở học trò…


***


Đám học sinh lớp 12C đã leo đến đỉnh đồi thông. Tấn giơ cao cây đàn ghita, xoay người lại nhìn mọi người rồi nói như ra lệnh:


- Hạ trại!


Tất cả dừng chân. Mấy cậu con trai leo lên cây buộc dây, căng bạt. Bọn con gái chúng trôi trải nilon dọn đồ ăn, thức uống. Tấn đứng tựa vào một gốc cây lớn so lại dây đàn rồi cất tiếng:


- Thưa các bạn. Hôm nay chúng ta lên đỉnh đồi này là để chia tay tuổi học trò mộng mơ và tinh nghịch. Từ ngày mai đường đời mỗi người mỗi ngả. Số phận mỗi đứa mỗi riêng. Ai biết được rồi đây người nào trong chúng ta sẽ thành đạt, giàu sang; người nào chịu cảnh nghèo khó… Chỉ mong các bạn luôn nhớ rằng lớp 12C đã là một tập thể đoàn kết, thương yêu nhau, mãi mãi gắn bó với nhau.


Tiếng vỗ tay của chúng tôi cắt ngang lời của Tấn. Tấn là lớp trưởng, học giỏi, có tài diễn thuyết và có ngón đàn ghita khá mùi mẫn. Những cuộc hội họp, những buổi đi chơi của lớp, Tấn thường đóng vai người dẫn chương trình với những lời văn hoa như thế.


Đợi cho tiếng vỗ tay dứt hắn, Tấn đưa cả bàn tay chỉ xuống chân đồi, tiếp lời:


-Thưa các bạn, các bạn hãy nhìn xuống dưới thung lũng kia. Những cánh hoa phượng cuối mùa… Những cánh hoa màu máu ấy đang gieo vào lòng tôi những nỗi buồn chia xa khó tả.


Rồi Tấn lướt nhẹ phím đàn và cất giọng trầm buồn theo giai điệu của bài hát… Khi Tấn hát đến câu “Màu hoa phượng thắm như máu con tim, mỗi lần hè sang kỷ niệm, người xưa biết đâu mà tìm…”, thì trong đám con gái đã có đứa trào nước mắt. Câu hát đã dứt, nhưng nỗi buồn mênh mang còn đó. Chúng tôi không thể vỗ tay. Dường như không ai nỡ phá đi những phút giây đầy kỷ niệm ấy.


Bỗng, trong đám con trai, một người đứng dậy bước đến bên Tấn, giọng rắn rỏi:


- Cám ơn lớp trưởng đưa chúng tôi vào cõi mộng. Nhưng chúng ta không thể cứ ủy mị mãi thế này. Đề nghị lớp trưởng đệm đàn cho tôi bài hát “Thành phố hoa phượng đỏ”.


Bọn con trai như bừng tỉnh, ùa lên:


- Hoan hô Tường “khốt”! Nào, lớp trưởng đàn đi!


Lần đầu tiên lớp tôi được nghe Tường “khốt” hát. Chất giọng của Tường đẹp lạ lùng. Không ai nghĩ rằng anh chàng Tường ba năm nay âm thầm như một cái bóng mờ, giờ đây lại tỏa sáng bằng tiếng hát du dương bay bổng đến thế. Nghe Tường hát, hầu như chúng tôi quên bẵng giọng hát của Tấn với ca từ buồn não ruột mới trước đó ít phút … Và có lẽ từ sau giây phút đó, không chỉ riêng tôi, mà cả bọn con gái lớp 12C đều nhìn Tường với con mắt khác.


***


Chuông điện thoại reo. Cuộc điện thoại mà tôi và Tấn chờ suốt đêm qua đây chăng? Từ đầu dây bên kia không phải là giọng của thằng Đạt mà là Tấn. Vẫn cái giọng điềm tĩnh và trịch thượng như mọi khi, Tấn hỏi:


- Nó đã về chưa? Chưa hả? Thì gọi điện đến tất cả nhà bạn bè của nó hỏi xem.


- Em đâu có biết số điện thoại của đứa nào. Hay là anh bớt chút thời gian đến nhờ anh Tường xem sao… Em nghĩ…


Tấn cắt ngang lời tôi, giọng bực dọc:


- Sao lại Tường. Lúc nào cũng Tường. Phải rồi, anh ta đã từng là Trương Chi, từng là Lục Vân Tiên trong lòng các cô mà.


- Ý em là… hôm nay em linh cảm thấy…


Tôi chưa kip phân bua thì Tấn đã dập máy.


***


Đám cựu học sinh lớp 12C của tôi lại có mặt ở đồi thông năm trước. Nhưng hôm nay số người cũ đã vắng quá nửa. Thêm dăm người mới. Đó là vợ, là chồng và cả con nhỏ của một vài bạn đã yên bề gia thất. Cuộc gặp gỡ này cũng là sáng kiến của Tấn. Sau khi tốt nghiệp đại học vào loại xuất sắc, được phân công về một công ty vận tải biển, cuộc đời của Tấn là một chuỗi những chuyến viễn dương đến khắp năm châu.


Hè này, được lên bờ một tháng, Tấn đã chắp nối cả tuần mới có cuộc tái ngộ này. Đúng như lời của Tấn, từ sau mùa hè cuối cùng của tuổi học trò, số phận của chúng tôi mỗi đứa mỗi khác. Hầu hết những bạn không thi đỗ vào trường nào đã trở về với công việc đồng áng hay vật lộn trong những cuộc mưu sinh vất vả. Số thành đạt được như Tấn chỉ đếm trên đầu ngón tay. Trên đồi thông lộng gió, lại tấm bạt buộc trên những cây thông che nắng, lại những tấm nilon trải trên thảm cỏ mượt như nhung để bày biện đồ ăn thức uống do tôi và Hằng chuẩn bị. Chiều hôm trước, Tấn đưa cho tôi một xấp tiền với lời đề nghị:


- Em và Hằng chịu khó đi chợ giúp anh.


Chúng tôi ngồi hàng giờ trên đồi thông ăn uống trò chuyện, nghe nhạc từ chiếc cát-xét của Tấn mang theo. Chán nghe nhạc lại nghe Tấn kể chuyện đại dương, chuyện những hải cảng xa xôi mà anh đã đặt chân đến. Rồi đến tiết mục hát. Tấn so dây đàn và lần này anh bắt đầu bằng bài “Chiều hải cảng”.


Sau Tấn, đến lượt chúng tôi. Nhưng tất cả chỉ là những câu hát vô hồn, vô cảm. Bất giác một người thốt lên:


- Giá hôm nay có cậu Tường, chắc sẽ vui lắm.


Tấn nhíu mày, buông phím đàn, giọng xa xôi:


- Mình không thể nào liên lạc được với cậu ấy. Có ai biết tin gì về Tường không?


Tôi quay sang phía Hằng và nói:


- Muốn có thông tin về chàng Trương Chi thì phải hỏi nàng Mỵ Nương này.


Mọi người đều dồn mắt về phía Hằng. Hằng là hoa khôi, là người kín đáo nhất lớp tôi. Hằng cúi đầu, thoáng buồn, giọng nho nhỏ:


- Tường đang nằm trong bệnh viện của Bộ Công an. Một tuần rồi.


Mọi người đổ dồn mắt về phía Hằng. Một bạn gái hỏi:


- Nghe nói cậu ấy đang công tác ở biên giới phải không Hằng?


Một bạn khác:


- Hôm trước mình đọc báo thấy có một anh thượng sĩ công an tên là Tường bị thương trong khi làm nhiệm vụ. Có phải là Tường của lớp mình không?


Hằng ấp súng:


- Đúng là có bài báo viết về anh ấy.


Một bạn trai tỏ ra hiểu biết về sự kiện này:


- Thế thì anh chàng Trương Chi của chúng ta vừa lập công to. Tớ đọc kỹ bài ấy nhưng xem ra ông nhà báo viết úp úp mở mở như còn giấu điều gì đó. Nào là Thượng sĩ Tường đang làm một nhiệm vụ đặc biệt. Nào là một mình tấn công lại nhóm tội phạm nguy hiểm có trang bị hung khí. Rồi cả chuyện người yêu anh, một cô gái rất xinh đẹp suốt đêm ngày có mặt bên giường bệnh là một trong những phương thuốc hiệu nghiệm nhất giúp anh vượt qua hiểm nghèo…


Cả lớp ùa lên:


- Thế còn đợi gì nữa. Chúng ta tạm dừng cuộc vui ở đây, kéo nhau lên bệnh viện để thăm anh chàng “Lục Vân Tiên” đã...


Hằng:


- Không được đâu. Bên Công an chưa cho ai vào thăm Tường, trừ một số người trong gia đình anh ấy.


Tôi cầm tay Hằng giơ lên và nói:


- Trong số người được vào thăm Tường, có cả cô gái rất xinh đẹp lớp 12C mà báo đã viết.
 
Từ lúc ấy cuộc picnic của chúng tôi dường như chuyển hẳn sang những bí hiểm xung quanh cuộc tình ly kỳ của Tường “Trương Chi” và Hằng “Mỵ Nương”. Hằng trở thành trung tâm của các câu phỏng vấn và tôi trở thành “phát ngôn viên” bất đắc dĩ của cô nàng. Đến khi tôi không thể thỏa mãn được cuộc tìm kiếm thông tin của các bạn cũng là lúc Tấn tuyên bố kết thúc cuộc vui. Nhìn gương mặt và ánh mắt của Tấn, tôi hiểu anh đang bị hẫng hụt. Tất cả những cuộc vui do Tấn khởi xướng cũng còn nhằm mục đích lấy lòng Hằng, cô bé có đôi mắt hút hồn của nàng La Giôcông, cái mũi của Đức mẹ Maria, đôi môi của “Người đàn bà xa lạ” trong tranh của Ivan Kramskôi… theo cách tả của Tấn. Tấn đang tìm mọi cách để chinh phục người đẹp.


Chuông điện thoại lại reo. Tôi như vồ lấy máy. Giọng nói đầy vẻ sợ sệt của bạn thằng Đạt. Nó thông báo tin dữ xảy ra đêm qua liên quan đến con tôi. Tôi ngồi lặng đi một lát rồi mới nhấc máy gọi cho Tấn. Chuông điện thoại phòng Tấn đổ rất đều nhưng không có người nghe. Tôi bấm số di động của anh. Câu trả lời quen thuộc “Số máy quý khách đang gọi, tạm thời không liên lạc được… ”. Vậy là tôi chỉ còn biết chờ đợi cho đến khi Tấn ra khỏi vùng không phủ sóng.


Hai mươi năm về sống với Tấn, dưới con mắt bạn bè, tôi là người sung sướng nhất. Tấn đẹp trai, tài giỏi, giàu có và thành đạt. Trong khi nhiều bạn cùng lớp chưa lo đủ tiền mua một chiếc xe máy thì Tấn đã đổi tới 6 đời xe ôtô. Nhưng với tôi, nỗi buồn luôn đồng hành với sự giàu có và sang trọng của Tấn. Tấn lấy tôi không phải vì tình yêu mà chỉ cốt để chứng minh cho mọi người biết sự lựa chọn của Hằng là sai lầm.


Chúng tôi tổ chức đám cưới sau đám cưới của Hằng và Tường một tháng. Tiệc cưới đặt tại một khách sạn sang trọng. Cả lớp 12C, trong đó có cả vợ chồng Hằng đến dự đám cưới chỉ dám ngồi vào một góc khuất để nhường chỗ cho các thực khách sang trọng, giàu có là bạn bè của Tấn. Hai mươi năm qua, cuộc đời tôi tựa như con chim nhốt trong lồng vàng. Tôi học xong Cao đẳng Sư phạm nhưng Tấn không cho đi làm mà bắt ở nhà trông con. Con trai tôi là tấm gương phản chiếu của bố nó. Đẹp trai, thông minh và đã từng làm lớp trưởng 9 năm liền. Nhưng từ khi nó học lên lớp 10 thì tôi không thể bảo ban được nữa. Thói quen quát nạt người trong cơ quan, quát mắng vợ con ở nhà của Tấn đã thấm vào giọng nói của thằng bé. Những câu nịnh bợ và nhận những phong bì tiền biếu xén dày cộp của Tấn dường như đã đọng vào mắt nó. Cái cách vung tiền tổ chức các cuộc pícníc chỉ để tỏ ra mình là người sành điệu, thời thượng của Tấn dường như đã ngấm vào máu nó…


Và năm ngoái, Tấn phải nhờ người này, cậy người kia nó mới có được tấm bằng tốt nghiệp phổ thông trung học. Đến kỳ thi đại học, tổng 3 môn thi của nó chỉ đạt 5 điểm. Năm nay, sau mười tháng vào các “lò luyện” đặc biệt, nó lại đi thi. Tấn thuê ôtô hạng sang và nhờ một người em họ đưa nó lên Hà Nội. Nhưng buông bút môn thi thứ ba vào buổi trưa thì buổi chiều nó biến mất khỏi khách sạn với vài dòng nguệch ngoạc để lại nơi lễ tân: “Cháu đi chơi với bạn, chú cứ về trước đi…”.


***


Tiếng chuông điện thoại khiến tôi giật thót người. Lần này là cuộc gọi của Tấn, giọng như gào lên trong máy:


- Cô đã biết tin gì chưa? Bọn rao báo đang ầm ĩ cả thành phố lên rồi kia kìa. Nhục ơi là nhục. Cô thay quần áo đi. Tôi về đón cô ngay bây giờ.


Tôi vừa thay xong quần áo thì có tiếng của Tấn ngoài cổng. Tấn quẳng cho tôi tờ báo tỉnh mới ra hồi sáng. Một dòng tít lớn ở trang nhất: “Một chiến sĩ công an bị trọng thương khi chặn tay hai nhóm côn đồ hung hãn”. Đọc đến những dòng viết về thằng Đạt, mắt tôi như hoa lên. Nó cầm đầu một nhóm côn đồ có kiếm. Nó đã đâm một đối thủ trọng thương. Một người công an cũng có tên là Tường đã kịp xông vào tước kiếm của nó. Và nếu người chiến sĩ công an không lao lên nhận về mình một vết thương ở ngực thì đường kiếm của kẻ cầm đầu nhóm đối thủ đã đâm trúng tim nó.


Giọng Tấn lạnh lùng cắt ngang những suy nghĩ đang bấn loạn của tôi:


- Tôi vừa ở trụ sở công an về đây. Họ không cho gặp thằng bé.


- Vậy anh chở em đi đâu bây giờ?


- Còn đi đâu nữa. Đến bệnh viện thăm ông công an đã...


***


Chúng tôi hỏi thăm vào khu vực bệnh nhân số 2, nơi người công an bị thương đêm qua đang được các y bác sĩ cứu chữa... Ngoài hành lang có hàng chục người đang vây quanh một người phụ nữ. Tôi sững người lại. Người phụ nữ ấy chính là Hằng. Vậy thì người công an bị thương kia lại chính là anh Tường của lớp tôi rồi. Hằng đang trả lời phỏng vấn của mấy anh chị nhà báo. Đứng bên cạnh Hằng là một số bạn lớp tôi. Họ đều lam lũ, nhếch nhác và già hơn cái tuổi ngoài bốn mươi. Giọng Hằng vẫn nhỏ nhẹ như ngày nào:


- Vâng, tối qua anh Tường về sớm hơn mọi ngày. Chúng tôi định sáng sớm nay cả nhà sẽ đi tham quan đồi thông trước khi cháu đi học xa. Anh Tường còn hứa sẽ lên đến đỉnh đồi sẽ hát cho mẹ con tôi nghe lại bài “Thành phố hoa phượng đỏ”. Đến mười hai giờ đêm hôm qua bỗng có điện thoại. Anh gỡ tay tôi ra khỏi vai, nói rằng có việc phải đi gấp. Đã quen với cảnh chia tay như thế này rồi nên tôi chỉ còn biết nằm thao thức chờ anh. Nào ngờ…


Một nữ phóng viên trẻ ngắt lời Hằng:


- Cô vừa nói em nhà mình sắp đi học xa. Xin hỏi em sẽ đi học ở đâu ạ?


- Em nhận được học bổng của một trường đại học bên nước Anh. Người ta đặt vé máy bay cho em đi vào chiều mai … Vậy mà bây giờ … Em cứ nhất quyết hoãn chuyến đi chờ cho đến khi nào bố bình phục. Em nói với cô rằng việc học là cả đời, con sẽ cố gắng phấn đấu để tìm cơ hội khác.


Một phóng viên chĩa chiếc máy ghi âm nhỏ xíu về phía Hằng hỏi tiếp:


- Theo nguồn tin mà tôi nắm bắt được, đồng chí Tường đã lao lên trước mũi kiếm của một tên côn đồ là để cứu đứa con nghịch tử của một đại gia rất giàu và có thế lực phải không ạ?


Hằng trả lời một cách rắn rỏi:


- Không đúng. Anh ấy chỉ cứu một đứa trẻ. Nhưng có một sự trùng hợp ngẫu nhiên, đứa trẻ này là con của hai người bạn học phổ thông của chúng tôi. Gần sáng nay, trong khoảnh khắc tỉnh lại ngắn ngủi, anh nói với tôi rằng khi nhận ra thằng bé, anh đã sẵn sàng chấp nhận hiểm nguy.


Hằng nhìn sang xung quanh và nói tiếp:


- Và giờ này các bạn lớp 12C đang ở xung quanh tôi đây.


Tất cả các nhà báo đều ồ lên vì chớp được một chi tiết khá đắt giá. Họ nhất loạt giơ máy ảnh và bấm lia lịa.


Không ai bảo ai, tôi và Tấn đều lùi lại phía sau rồi lặng lẽ quay gót ra xe.


Từ bệnh viện về nhà, chúng tôi không nói với nhau một nửa lời. Một vài cánh phượng cuối mùa vương vất trên đường. Tôi như đang nghe được tiếng lép bép của những cánh hoa bị bánh xe của Tấn lướt qua. Những cánh hoa ấy đang rỉ ra những giọt li ti như máu.

---------------------------------
_________________
 
Trưa vắng
Trần Hòang Thiên Kim


Tôi phóng xe đi như điên trên con đường dài dặc nắng. Đói và khát, tôi rẽ ngay vào quán cà phê quen thuộc “Mây Hồng” đã ở ngay trước mặt để tránh cái gay gắt đang thiêu đốt dần từng tế bào trên thịt da.


Quán trưa, không máy lạnh nên vắng khách. Tôi chợt nghĩ không biết mình có nên thay đổi không khí bằng cách gọi một vài người bạn đến đây không nhỉ? Tôi lục tung khắp trí nhớ dai dẳng của mình. Mà thôi có lẽ chẳng có ai có thể ngồi nghe mình trút bầu tâm sự vào giữa trưa nắng gắt như thế này.

Xét cho cùng thì tôi chẳng có một người bạn thân sống chết có nhau nào cả. Những đứa bạn cùng quê học xong thi nhau vào Nam lập nghiệp. Những đứa ở tại Hà Nội cũng nay đây mai đó, chuyển hết công việc này đến công việc khác. Vài đứa lấy chồng, có con, cùi cũi ở nhà lo cho tổ ấm. Còn hơn tôi, một đứa con gái đỏng đảnh, lãng đãng, sớm nắng, chiều mưa, chẳng kiếm nổi cho mình một ngày bình yên. Hình như tôi không chịu nổi nếu một ngày quần áo tôi không dính vài hại bụi đường. Đôi khi đó là cái số.


Anh vẫn bảo, con cái là quan trọng số một. Ôi anh, mỗi lần nhắc đến anh là trái tim tôi như vỡ tung từng mảnh. Tôi là một kẻ khốn cùng cứ rượt đuổi theo cái bóng của anh mà không bao giờ với tới. Tôi chẳng đòi hỏi gì. Chỉ cần được bên anh đã cảm thấy hạnh phúc lắm rồi.

Anh là người đàn ông trời sinh ra để không bao giờ thuộc về tôi. Tôi nhớ anh, nhớ quắt quay, nhớ có thể chết đi được. Thì ai khiến xui cho tôi gặp anh, rồi chuyện trò, rồi hẹn hò, rồi kết cục ai lại về nhà nấy. Anh về với gia đình, với vợ con. Còn tôi lủi thủi một mình về trên gác trọ, đìu hiu gặm nhấm nỗi cô đơn. Ai bảo tôi ngu đần đi phải lòng một người đàn ông đã có vợ.

Anh bảo: Tình yêu dần dần rồi cũng phai nhạt thôi em ạ. Em cứ yêu, cứ lấy chồng khắc biết. Cả một quãng thời gian sau đó người ta sống vì con cái, vì cái nghĩa vợ chồng. Đã đành là thế, cuộc sống này người ta tôn thờ những gì không thuộc về mình. Anh nói vậy là anh không bỏ vợ. Không lấy tôi. Thì tôi đâu có cần. Tôi chỉ cần anh thỉnh thoảng có mặt cạnh cuộc đời tôi. Thế là đủ. Thật là một ý nghĩ mù quáng. Đôi khi người ta cố lý giải sự mù quáng của mình nhưng không bao giờ tìm ra được giải pháp, trừ phi cái sự mù quáng ấy tự nói ra.

Tôi nhắn tin cho Sơn. Có lẽ tôi cần có một ai đó để vứt những ý nghĩ về anh ra khỏi đầu. Sơn đang thất tình, cứ bấu vào tôi như một định mệnh oan nghiệt. Sơn cần quên, nhưng không thể quên. Còn tôi cần có một người san sẻ những ý nghĩ điên loạn của mình. Để không được phép nhớ đến anh. Anh đang ở nhà. Và vợ anh, một người đàn bà yêu anh, không bao giờ thoang thoảng nghĩ rằng chồng mình có bồ, sẽ im lặng đầy khổ đau, hoặc sẽ lồng lộn lên tìm tôi để hỏi tội. Sao chị không chịu hiểu rằng, đàn ông ở tuổi anh, ông nào chẳng đeo lủng lẳng bên hông mình vài mối tình vụng trộm. Tôi thương chị. Và thương tôi.

Sơn hẹn 10 phút nữa sẽ có mặt. Sơn cao 1,80 m, nặng 75 kg. Trắng trẻo và hào hoa. Kiếm tiền và tiêu tiền như nước. Toàn cặp với các em chân dài, váy ngắn. Vậy mà hắn theo đuổi một cô bé học năm thứ hai một trường đại học danh tiếng mãi không xong. Đời lắm lúc không ngờ. Những kẻ ăn chơi và bất cần như Sơn lại có lúc đau khổ vật vã vì một cô gái chân quê trắng trong như thiên thần. Mà Sơn yêu thật. Đau thật. Rồi khóc thật.

- Bà biết không, tôi vẫn còn sống tử tế được là nhờ cô bé ấy. Sao nó không chịu tin tôi. Nó không yêu tôi.

- Một kẻ chơi bời trác táng như ông không phù hợp với nó đâu. Ông lấy nó về rồi ông để đời nó thành góa phụ trẻ chắc. Trong khi các cô gái mắt xanh mỏ đỏ cứ bám lấy ông như đỉa ấy. Rồi nó cũng đến đau tim mà chết!

Câu chuyện của tôi và Sơn bắt đầu và kết thúc chỉ xoay quanh cái vòng tròn luẩn quẩn của câu chuyện tình yêu không bao giờ có lối thoát. Đôi khi Sơn lắng nghe những lời khuyên của tôi như một định lý bất di bất dịch. Đôi khi Sơn phỉ nhổ vào sự cổ hủ và sáo rỗng của tôi. Thật khó để tin rằng tôi và Sơn lại có thể hợp nhau trong những câu chuyện hàng giờ trong một góc quán cà phê ở một xó xỉnh Hà Nội. Một gã trai bụi bặm, bất cần, quen với ánh sáng hào nhoáng của đèn, của nhạc, của những vũ điệu bốc lửa từ đêm đến sáng, cạnh các cô gái đẹp mê hồn, khêu gợi trên vũ trường, lại ngồi nghe tôi thở than về cuộc tình bi ai của mình.

Sơn đã đi qua hàng chục mối tình. Hắn nhớ hết và thỉnh thoảng nhắc tại như một kỷ niệm đẹp. Tôi hay mơ hồ kể cho Sơn nghe về anh. Rồi tại gạt phắt đi như thể mình đang bịa ra một câu chuyện cho đề tài sắp tới của bài phóng sự. Sơn cáu giận, bảo tôi là con người của những lý thuyết suông, không dám sống, không dám yêu, không dám vấp ngã...

Sơn không phải là con người của những đa mang. Tặc lưỡi một cái là xong hết mọi chuyện. Sơn trông vậy mà yếu mềm. Khi say, hắn lắc lư tâm hồn theo những điệu ghi ta trầm bổng, mắt đỏ ngầu nhìn tôi như thôi miên. Có lúc tôi tưởng tượng nếu Sơn là người yêu của tôi, tôi sẽ an ủi hắn, vuốt ve, âu yếm hắn. Để hắn quên đi những nỗi muộn phiền. Đôi khi tôi thấy tôi là chị hắn. Là mẹ hắn.

Rồi tôi nhớ anh quắt quay. Anh chẳng có những giờ phút lãng du quên hết mọi chuyện vì tôi. Anh hẹn tôi trong một quán nước, ngồi nhâm nhi ly trà Lipton, hay một cốc kem tê buốt cả ruột gan, xong rồi ai lại về nhà nấy. Anh trở về ngôi nhà sang trọng có người vợ đảm đang chờ cơm, với tiếng bi bô hỏi chuyện của đứa con gái bé bỏng. Tôi thì ẩm ương nghĩ đến gác trọ tối tăm ẩm thấp đầy ánh hoàng hôn còn sót lại của một buổi chiều tà. Rồi thu lu như một chú mèo mướp cô độc, xung quanh là đống giấy tờ ngổn ngang, bừa bộn...

Ngoài Sơn ra, những người bạn của tôi không đủ dũng cảm để tin rằng một đứa con gái khôn ngoan như tôi lại đi phải lòng một người đàn ông đã có vợ. Tôi đã giấu mình quá lâu trong cái vỏ bọc của mình. Tôi âm thầm khổ đau, âm thầm nỗ lực khẳng định mình. Tất cả vẫn vẹn nguyên nếu anh không xuất hiện và khơi nó lên, đổ cho nó thêm một ít dầu và nhen nhóm một ngọn lửa. Anh đốt tiêu tan những ước mơ cao siêu của tôi về sự mẫu mực của cuộc sống. Một công việc tốt. Một sự thăng tiến. Một người chồng của riêng mình. Những đứa con ngoan, giỏi giang và sợ mẹ... Anh đến và tôi cứ lao theo tình yêu của anh. Tôi nghĩ mọi điều tôi đang làm, tất cả có ý nghĩa gì khi không thể có anh. Sơn hiểu, mà đôi khi cũng chẳng hiểu. Nhưng ít nhất lúc tôi thất vọng nhất Sơn đã ở cạnh tôi. Có lẽ hắn không biết điều đó. Hắn lại thương tôi vì hắn mà nhiệt tình đến vậy.

Lúc say tôi tức tưởi khóc, Sơn kéo tôi dựa vào lòng hắn. Lau những giọt nước mắt tủi hờn trên mắt tôi, những giọt nước mắt mà hiếm hoi lắm hắn mới có cơ hội chứng kiến. Giọng hắn kề sát bên tai tôi:

- Khóc đi em. Anh sẽ sưởi ấm cho em cô bé ạ!

Tôi đã muốn vùng dậy và tát cho Sơn vài cái cho hắn tỉnh ra. Hắn là quái quỷ gì chứ. Hắn lại còn dám gọi tôi là em nữa ư? Khỉ thật, hắn đang nghĩ gì đấy nhỉ?

Sáng hôm sau tỉnh dậy, tôi thấy mình nằm cạnh Sơn trong một căn phòng trắng toát. Tôi đã không tin nổi mình đã mê man đến mức không biết gì. Tôi choàng dậy ngơ ngác như con gà lạc mẹ. Tôi thở dài. Vậy đấy! Cuối cùng thì cái gì đến nó đã đến. Tất cả là tại anh. Tại anh hững hờ nên tôi đã tìm đến rượu. Rồi rượu dẫn tôi đi đến những sai lầm mà có nằm mơ tôi cũng không bao giờ dám nghĩ.

Sơn ngủ say như một con cún. Gương mặt của hắn thánh thiện đến lạ. Ngỡ như con người của những cuộc chơi, của những toan tính không phải là hắn. Căn phòng của hắn được bài trí bởi một bàn tay tài hoa. Hắn có một tủ sách đồ sộ. Những bức họa nổi tiếng. Và một cây đàn ghi ta đã cũ. Chẳng lẽ con người của hắn mà cũng có tâm hồn thơ thế này ư. Hay hắn là người có đầu óc sắp xếp và trí tưởng tượng phong phú. Tôi nhớ căn phòng của mình. Tôi đã chẳng bao giờ mời Sơn đến chơi mặc dù có đôi lần hắn có nhã ý viếng thăm. Trời vẫn chưa hửng sáng. Tôi phải về trước khi Sơn thức dậy.

Tôi lê bước trên con đường đầy sương. Những người nông dân chở đầy ụ những xe hàng về chợ. Những người đi thể dục sáng tất tưởi những bước chân. Lâu lắm rồi tôi mới có cảm giác thư thái với không khí trong lành như thế này. Tôi nhìn những hàng cây ngậm sương loang loáng. Tôi nghĩ về anh. Giờ này anh đang ngủ ngon bên vòng tay vợ con. Ấm áp và hạnh phúc. Tôi là một kẻ thừa thãi duy nhất của thế gian này.

Có lẽ cần phải xem tất cả mọi chuyện bình thường hơn, giản đơn hơn. Cũng như vài phút trước đây tôi đã thản nhiên trong vòng tay Sơn. Tôi đã cảm thấy có lỗi với anh. Tôi không yêu Sơn, nhưng ít ra Sơn đã cho tôi một cảm giác ấm áp mà anh chưa đem lại cho tôi. Lúc buồn, lúc cô đơn Sơn kiếm những câu chuyện tiếu lâm nói qua điện thoại cùng với tôi. Đôi lúc tôi chán ngấy những câu chuyện tẻ nhạt xung quanh các đề tài cũ rích và giọng nói hằng hặc mùi rượu Tây lẫn mùi gái của hắn. Để rồi sau tiếng tút tút điện thoại là một nỗi buồn như thể vắt kiệt sức lực xâm chiếm lấy thể xác và linh hồn tôi.

Tôi nghĩ về anh. Rồi tôi so sánh. Anh đang yên ấm bên vợ, đang nồng nàn bên con. Đang mát lạnh trong ngôi nhà có máy điều hòa, có những ánh đèn nhiều màu trên bức tường sáng loáng. Không có tôi trong một phút giây nào của ý nghĩ. Không có những kỷ niệm. Không có những thói quen. Cái tuổi lãng mạn hai mươi êm dịu như một bản đàn của anh cũng đã đi qua không có sự hiện diện của tôi. Sáng sáng, trưa trưa, tối tối lãng xẹt bao ý nghĩ rồ dại của tôi anh cũng không biết. Tôi luôn là người đến muộn và không được chào đón trong cuộc đời anh. Tôi chỉ có ý nghĩa cho những ngày nắng gắt không bao giờ nghỉ trưa của những gã trai như Sơn. Để đón chiều đến nhanh hơn. Để kết thúc một ngày nắng trải lòng mình ra nuôi những hy vọng.

Tôi trở về căn phòng của mình. Trời bắt đầu hắt những tia nắng bình minh vào nhà. Tôi sắp xếp giấy tờ đến công sở. Tôi nghĩ đến những giờ nghỉ trưa. Ngày nào đến công sở cũng có từng ấy thời gian để nghỉ trưa? Có lẽ tôi phải từ bỏ thói quen đốt ruột mình trong một góc quán toàn những kẻ độc thân hay lui tới. Mọi người biết nhau, nhớ mặt nhau mà chẳng bao giờ hỏi thăm nhau. Chỉ bà chủ lúi húi pha
 
1. Mỗi chiều, thím Hai thường qua nhà tôi ngồi bắt chí cho mấy đứa nhỏ. Thím có một sở thích kỳ dị là bắt những con chí thả xuống nền ximăng cho chúng ngo ngoe bò một hồi rồi dùng móng tay cái đè lên từng con, từng con kêu bụp bụp.

Tụi nhỏ con thím khoái chí cười khé lên trong khi tôi sợ hãi lánh đi nơi khác. Con Chấm, con của thím, lớn hơn tôi hai tuổi, rất thích đọc truyện với tôi nhưng nó không tự hiểu được câu chuyện mà phải nhờ tôi giải thích. Mỗi khi má nó bắt chí cho em nó, biết tôi không thích nên con Chấm thường rủ tôi đọc truyện.

Đôi khi, trong lúc chúng tôi chụm đầu đọc sách, chí từ đầu nó bò sang đầu tôi và mẹ tôi phải cực khổ mua thuốc về diệt chí cho tôi. Lúc đó tôi ngạc nhiên hỏi mẹ tại sao thím Hai không mua thuốc về trị cho tụi nhỏ mà cứ ngồi bắt chí mỗi chiều làm chi cho cực vậy. Mẹ tôi bặm môi nói con nít biết gì mà nhiều chuyện. Mãi sau này tôi mới hiểu, thím nghèo quá, tiền mua một bịch thuốc trị chí gần bằng ba lít gạo - một ngày ăn của tụi nhỏ.

2. Rạch Cái Tôm nằm giữa hai xã Hòa An và Tân Thuận Đông. Mỗi khi nước ròng thì con rạch cũng là nơi chúng tôi tụ họp bắt hến, xúc tép hoặc tát cá. Con rạch Cái Tôm đổ ra ngoài sông Tiền nhờ một con kênh nhỏ. Trường học nằm bên bờ sông Tiền, mỗi ngày chúng tôi men theo con kênh nhỏ để tới trường. Sông Tiền từng làm chúng tôi tranh cãi hàng tuần.

Thằng Láy nói đó là sông Cái, con Chấm nói đó là sông Cửu Long, thằng Minh nói đó là sông Mêkông, tôi thì nói đó là sông Tiền. Đứa nào cũng có cái lý của mình. Tôi là đứa cãi hăng nhất bởi vì bữa nọ cô Thanh có nhờ tôi đọc thơ của chú Lói, đầu thơ chú viết “Sông Tiền đêm trăng” rõ ràng. Chú Lói đã học lớp 12, hổng lẽ chú viết sai? Mà cũng khổ, tôi đã hứa với cô Thanh là sẽ không kể cho ai biết chuyện chú Lói viết thơ cho cô, thành ra tôi không có cách gì làm cho tụi nó tin tôi. Tới khi hỏi bà tôi thì bà cười: đứa nào cũng đúng hết.

Cao Lãnh là nơi trồng thuốc rê ngon nổi tiếng, ở xóm rạch Cái Tôm nhà nào cũng trồng thuốc rê. Hết mùa thuốc, người ta chỉ bán thuốc cái, thuốc chồi, còn thuốc kèo thì ai cũng cố giữ lại. Có thuốc kèo trong nhà như có con gái đẹp, bà nội tôi thường nói như vậy. Mà đúng như vậy thật, có thuốc kèo ngon trong nhà vừa mừng vừa lo, lúc được giá thì mấy người lái thuốc cứ tới lui nườm nượp, chủ nhà tha hồ làm giá, tới lúc nó mất giá thì ai cũng than vắn thở dài vì tiếc.

Tuổi thơ tôi trôi dần cùng những ngày đi vét lá chưn khô - lá thuốc khô ở tầng thấp nhất của cây thuốc lá. Người ta thường cho con nít vét lá chưn khô để bán lấy tiền ăn bánh khi tới trường. Những đêm xắt thuốc thật sự thu hút tụi nhóc con chúng tôi. Bao nhiêu là câu đố tục giảng thanh rồi thanh giảng tục.

Bao nhiêu câu chuyện đời xưa được kể, và bao nhiêu câu chuyện tình đã nảy sinh từ những đêm xắt thuốc mà tôi còn quá nhỏ để biết những chuyện đó. Mẹ tôi vốn không phải dân xứ này nên cũng không đậm đà mấy với những đêm xắt thuốc, mẹ chỉ phụ bà nội những công việc trong bếp và mẹ còn sợ bị làm thợ phơi bất đắc dĩ những lúc thiếu người. Mẹ là cô giáo chứ không phải là nông dân như phần lớn các cô, thím ở đây.Tôi thỉnh thoảng lén mẹ chạy ra tập làm thợ phơi với mấy cô, mấy chị. Mẹ tôi khó chịu về chuyện này lắm, mẹ sợ tôi mê làm thợ phơi hơn làm cô giáo.

3. Tháng ngày trôi qua nhanh chóng, tôi ra nhà ngoại ở để học lớp sáu ngoài thị xã, cuối tuần mới về thăm nhà một lần. Rồi tôi lên cấp ba, vào lớp chuyên toán. Đây là một sự kiện to tát ở quê tôi vì suốt cả con đường gần chục cây số có mỗi mình tôi được học lớp chuyên. Tôi học như điên để theo kịp mấy đứa bạn ngoài đó. Tôi không còn thời gian đi “dan thuốc” - rải những cây thuốc con lên liếp cho người lớn trồng, “măng thuốc” - vô chưn cây thuốc, hoặc lẩy chồi...

Tôi ít ca vọng cổ hơn và bắt đầu tập tành vài bài tân nhạc, đặc biệt hơn là tôi còn biết mấy bài hát tiếng Anh do ông ngoại dạy. Thỉnh thoảng tôi về nhà và dạy cho tụi nhỏ vài câu tiếng Anh giả cầy khiến chúng mê tít. Thuốc rê ngày càng mất giá, người ta không còn trồng thuốc rê nữa, tôi cũng không thường về quê để coi người ta xắt thuốc như trước, tôi xa dần tụi nhỏ trong xóm, và tôi cũng quên mất là thím Hai đã không còn qua nhà tôi bắt chí cho tụi nhỏ nữa. Tôi đi học đại học.

4. Đám cưới con Chấm, nó viết cho tôi mấy hàng “chị ráng về ăn đám cưới em, hổng có vui đâu, nhưng mà em muốn chị về”. Hổng vui thì cưới làm gì, chú rể có phải là thằng Đơ con chú Bảy Tre không hổng biết. Tôi vội vã về. Hóa ra chú rể là một thằng cha lạ hoắc ở ngoài chợ Cao Lãnh, già hơn con Chấm chừng mười mấy tuổi. Tôi chưng hửng, còn thằng Đơ? Nó rưng rưng nước mắt, thôi chị ơi, người ta cũng nghèo như mình mà chảnh lắm. Em sẽ giàu, giàu nhanh nữa cho họ biết. Trời ơi, chỉ vậy thôi mà nó dám quyết định một chuyện quan trọng cả đời, quá muộn rồi làm sao tôi can nó?

Con Chấm cho tôi coi những đồ sính lễ của nhà trai. Nhiều quá, vòng vàng đỏ ối, áo quần toàn bằng vải xoa xít bóng. Tôi yên lặng không nói gì thêm, còn nói gì khi nó đã quyết định xong hết rồi, còn đâu mối tình quê chân chất ngày xưa đó? Tôi ra sau hè nhìn rẫy thuốc lá mà lòng buồn rười rượi, nơi tụi nó hẹn hò mỗi ngày vẫn còn đây.

Tôi nhớ như in cái lần thằng Đơ ngân nga: Thuốc rê Cao Lãnh thơm nồng, con gái Cao Lãnh má hồng thấy thương, rồi con Chấm mắc cỡ không lẩy chồi mà bẻ trụi cả cây thuốc lá, rồi tôi và mấy đứa nhóc nữa đứng núp sau hàng thuốc cười hí hí...

Rồi những đêm xắt thuốc vui nhộn, con Chấm làm thợ phơi còn thằng Đơ làm thợ xắt, ai ai cũng khen hai đứa nó xứng đôi. Mỗi đêm xắt thuốc, sau khi ăn cơm khuya xong, mọi người lại nghe hai đứa nó hát bài Hoa tím bằng lăng trước khi trở lại làm việc. Con Chấm thường sửa lời bài hát, thay vì hát con rạch Cái Thia chảy dìa Tắc Cậu, nó lại hát con rạch Cái Tôm chảy xuôi dìa Tân Thuận. Mà giờ này tụi nó có đang nhớ những kỷ niệm đó không?

Tối. Con Chấm lạy xuất giá. Nó khóc như mưa. Người ta hay nói khóc như con gái sắp về nhà chồng. Nó khóc vì thương cha mẹ già và đàn em thơ dại hay là nó đang khóc cho mối tình đầu dang dở của mình? Như những đám cưới nhà quê khác, hàng xóm cùng tới hát giúp vui. Mà kìa, thằng Đơ đang đóng vai anh chàng Áo Vũ Cơ Hàn, nó hát, lời hát nghe buồn da diết Loan cô nương ơi, trả áo em là trả luôn tình đầu tiên, đường đôi ngả ly tan, tình mộng vẫn vương mang, đang xúc động âm thầm, rồi em đi lấy chồng, ta ngậm ngùi trông theo áo ai, xác pháo rơi đỏ trên đường đi...

Ông Ba Trái đang ngồi đờn say mê, ông không biết có nhiều người đang đau lòng. Tôi đi vô buồng con Chấm. Mắt nó đỏ hoe. Tôi hối nó đi ngủ sớm để khuya còn đi chải tóc. Thím Hai đang ngồi đếm tiền với chú Hai sau bếp. Con Nốt ngồi mơ màng bên bếp lửa, nó nghĩ gì? Thằng Út Mót cười hăng hắc, nó vui vì nhà đông người và nó được ăn thịt đã đời.

5. Tới cô Thanh lấy chồng, cô không biết viết thơ nên biểu thằng Láy viết cho tôi: “Cô đi lấy chồng, mày có rảnh về chơi, cô cho đưa dâu lên thành phố”. Tôi suýt nhảy dựng. Trời, còn chú Lói? Vậy là rã đám thêm một cặp nữa. Tôi không về được vì bận thi học kỳ. Hè về, tụi nhóc kể lại cô Thanh khóc còn nhiều hơn chị Chấm. Chú Lói không về ăn cưới cô Thanh, chú ở luôn trên Xuân Lộc. Nghe nói chú mua đất lập nghiệp ở trển luôn.

Cô Thanh mua cho ông bà Ba cái truyền hình hai mươi bốn inh, cái truyền hình bự nhứt xóm. Cô không muốn thấy tụi em, cháu của cô chiều chiều qua nhà hàng xóm giành chỗ với mấy đứa nhỏ trong xóm. Tôi không biết mặt chồng cô nhưng nghe nói dượng bị thọt một chân, trắng hơn cô Thanh mà buôn bán giỏi lắm.

6. Tôi tốt nghiệp ra trường, cũng muốn ra đi làm giàu nơi đất lạ. Có một việc làm tốt ở thành phố và tôi đã phỏng vấn xong. Tôi định về nhà chơi vài bữa rồi đi. Tối hôm đó tôi qua nhà thím Hai chơi với tụi nhỏ. Ông Ba Trái đang ngồi đờn bên nhà, ông hát điệu Lưu thủy hành vân, giọng ông sao mà buồn da diết, y như thằng Đơ hát hồi đám cưới con Chấm. Sương trắng nhuộm rừng phong vấn vương, đưa tiễn em lên đường, Nam Sơn đây chốn chia tay phản hồi gia trung, hoa lá bay rơi rụng theo dòng... Tôi đâu có chia tay ai để về nhà, tôi sắp xa nhà kia mà, vậy mà sao tôi buồn quá.

Tôi ra chợ thăm con Chấm. Nó mập ú ù u, có ba đứa con rồi. Nó để chồng coi tiệm, còn nó dẫn tôi về nhà. Chồng nó coi bộ cũng hiền. Nó khoe tôi hàng chục đôi bông tai đủ kiểu. Tôi mới nhớ hồi xưa nó ngồi hàng giờ ngắm nghía những đôi bông của chị Lộc bên nhà bác Tư. Bây giờ mọi việc dường như tạm ổn với nó.

Những ước mơ thời con gái giờ đã thực hiện xong, nó cười một nụ cười mãn nguyện. Chuyện thằng Đơ giờ coi như không có và chưa bao giờ xảy ra trong ký ức của nó. Người ta có thể quên quá khứ mau vậy sao? Tôi lặng nhìn nó yên ấm hạnh phúc mà không báo cho nó biết là thằng Đơ vừa bị tai nạn lao động ngoài công trường xây dựng.

7. Bao đứa trẻ ngày xưa giờ thành người lớn và đi tới xứ người lập nghiệp. Ai nghèo, ai giàu, ai nên danh nên phận? Tôi không biết, có điều là sao tôi nghe trong lòng nhớ tiếc. Xóm rạch giờ mọc lên nhiều nhiều ngôi nhà mới. Nhà thím Hai mới xây khang trang, lót gạch Đồng Tâm láng coóng. Thím Hai cũng không còn qua nhà tôi bắt chí cho tụi nhỏ.

Thím Hai cười móm mém “giờ có thuốc trị chí Oshin rồi con ơi!”. Những thợ phơi, thợ xắt ngày xưa rồi cũng chìm sâu vào quên lãng trong ký ức của nhiều người. Thuốc rê Cao Lãnh giờ chắc chỉ còn trong nỗi nhớ của vài người trong số chúng tôi.

Rồi đây tôi cũng sẽ hòa vào dòng người nhộn nhịp nơi thành phố, có ngày nào đó chợt nhớ về quê cũ, tôi sẽ lại nhớ mùi thuốc lá chưn hăng hăng trong những sáng tinh sương ngoài rẫy thuốc.
_________________
Có khi nào trên đường đời tấp nập.
Ta vô tình đã đi lướt qua nhau ...
 
Trời mưa có hai người che chung một chiếc dù
Trịnh Lan Thương





Tôi thường đi bộ đến công ty và từ công ty đi bộ về nhà. Mỗi lượt như thế mất hơn nửa tiếng. Không phải tôi thích ngắm cảnh hay vì nhàn rỗi quá. Thật sự thì sau tám tiếng đồng hồ làm việc, tôi chỉ muốn ngả lưng xuống giường ngủ ngay lập tức. Vấn đề là tôi không có xe.
Đơn giản thôi, không có xe thì đi bộ. Trong những ngày nắng đẹp thì đi bộ cũng ổn thôi. Quái quỉ, hôm nay trời lại mưa, mưa nặng hạt. Từng hạt dày ken đầy không gian. Tưởng như không gian được dệt bằng triệu triệu sợi chỉ mảnh trong suốt.


* * *


Tôi không mang áo mưa mà mang theo dù. Cây dù này tôi mua khi mới vào năm thứ nhất đại học. Khi xúc động quá đồng thời trẻ quá, người ta hay có những quyết định dại dột. Một trong những quyết định dại dột đó là cây dù này đây. Tôi có thể mua được đến hai cái áo mưa loại trung, có thể đỡ ướt hơn nếu tôi không mua nó. Những ngày đi học tôi đã cho nó nghỉ phép dài hạn trong kẹt tủ. Thật không ngờ bốn năm sau tôi lại nhìn thấy nó trong một cuộc tổng vệ sinh phòng trọ.
Tôi mới ra trường, vừa được nhận thử việc vì vậy tôi vui (những niềm vui bồng bột và tội nghiệp!). Kết quả là tôi lặp lại sai lầm cũ khi mang nó theo. Cái dù che mưa cho tôi một cách hết sức vô trách nhiệm! Dù sao thì tôi cũng còn có một niềm an ủi duy nhất qua sai lầm này: tôi vẫn còn… trẻ! Hai mươi hai! Tôi vẫn có thể tha hồ rét run trong mưa, dưới một cây dù màu mè làm dáng. (Nhưng dứt khoát là chỉ hôm nay thôi đấy, thêm một ngày nào nữa thì đừng hòng!). Hắt xì! Ối trời ơi!
Tôi liếc nhìn mọi người với cặp mắt ghen tị. Người ta ai cũng phóng xe ào ào, khoác trên mình một cái áo mưa đáng thèm muốn. Ơ hay, sao tôi không ở lại công ty để nhờ ai đó chở về nhỉ? Bình thường thì tôi ngại (mới vào làm mà) nhưng hôm nay trời mưa to như thế này, nhất định sẽ có người tốt bụng cho tôi quá giang chứ. Tôi sẵn sàng đổi một ngàn lần tuổi trẻ ngốc nghếch và bướng bỉnh của mình lấy sự trưởng thành. Người ta nói sự trưởng thành sẽ giúp chúng ta nhiều thứ, đem lại nhiều kết quả tốt đẹp. Còn tôi, ngay bây giờ tôi chỉ mong mình trưởng thành để có thể yên ổn ngồi trên xe một vị nào đó ở công ty và tót vào phòng trọ sau hơn mười phút!
Một phụ nữ lớn tuổi đi một mình trong mưa sẽ nghĩ gì nhỉ? Nghĩ về rau thịt, về công việc, về con cái, về chồng và về nhân tình (nếu có)? Chà, rắc rối đây! Chồng con hay nhân tình? Nhân tình hay chồng con? Chồng thì thô lỗ này, vụng về này, chè chén này hoặc kiểu cách, tẻ ngắt, thiếu quan tâm; nhưng chồng có “ưu điểm” không thể phủ nhận được là đã có với mình một (hay vài) đứa con.
Ưu điểm của chồng còn là một quá khứ êm đềm khi anh ấy chờ ta mà không nhăn mặt này, khi anh ấy thường xuyên tặng ta những bó hoa mà trong khi tươi cười đón nhận, ta nghĩ: “Tốt hơn thì anh ấy nên gom tất cả tiền mua hoa lại để tặng mình một chiếc áo đầm!”. Còn nhân tình thì sao? Nhân tình là quá khứ của chồng, hoặc quá khứ của một cuộc tình trước đây không trọn vẹn, hoặc là bản thân của quá khứ (tức tình cũ, không rủ cũng tới). Chọn ai đây? Chồng hay nhân tình? Trong cơn mưa này, ta có thể tạm trú ở đâu đó suốt dọc đường, lúc thì ở mái hiên một ngôi nhà tồi tàn, lúc thì ở mái hiên một ngôi nhà sang trọng. Nhưng có trú ở đâu đi chăng nữa, thậm chí dù mưa có hết hay không, ta cũng trở về nhà. Chồng là ngôi nhà ấy. Có thể khi trở về nhà mình, ta sẽ ca cẩm, rầu rĩ, nhưng không thể không về.
Còn tôi, một cô gái hai mươi hai tuổi, sẽ nghĩ gì khi cầm dù đi dưới mưa như thế này? Tôi chả nghĩ gì. Tôi tìm xem có ai cầm dù đi như mình không. Dù màu gì nhỉ? Sọc carô nam tính này, màu đen mạnh mẽ này, màu xám bí ẩn này. Hừm, thôi đi! Tôi long trọng tuyên bố rằng tôi chưa từng thấy một anh chàng nam tính, mạnh mẽ, bí ẩn nào lại cầm dù đi bộ dưới mưa trong thời buổi này. Mà này, sao lại phải cần đến hai chiếc dù nhỉ? Chiếc dù của tôi màu gì? Màu đỏ. Màu đỏ cháy bỏng! Tôi nhớ có một bộ phim tựa là Cánh buồm đỏ thắm. Chiếc dù của tôi sẽ là cánh buồm, cơn mưa này sẽ là đại dương. Và một chàng hoàng tử sẽ xuất hiện, anh ấy sẽ nói cái câu mà Philip trong tác phẩm Kiếp người của Maugham đã nói: “Anh đã chờ em từ lâu lắm rồi!”.
Chàng hoàng tử của tôi sẽ là ai nhỉ? Là anh chàng đồng nghiệp của tôi ư? Phòng tôi mười lăm người, trong đó có ba nam. Hai người được cả phòng gọi là chú, người còn lại là anh. Công ty tôi làm việc đến 11 giờ rưỡi, chiều bắt đầu lúc 13 giờ, trễ giờ sẽ bị trừ lương. Hai chú đã làm việc lâu năm, cái “lâu năm” đã tỏ ra có giá trị trong trường hợp này: có quyền đi trễ mà không phải tiếc nuối khi lãnh lương. Mười ba trên tổng số mười lăm nhân viên đều ở lại phòng buổi trưa.
Các chị lót những miếng giấy cứng lên nền nằm nghỉ lưng. Các chị bảo tôi nằm cùng nhưng tôi từ chối: “Em không quen ngủ trưa”. Thật ra tôi không tin rằng chỗ ấy có thể đủ cho ba người, dù tôi bé như một đứa trẻ. Tôi ngồi nghỉ ngay trên ghế của mình. Anh cũng thế. Những lúc ấy, ánh mắt anh nhìn tôi, ái ngại. Tôi biết ơn vô cùng ánh mắt đó. Ở đời, hiếm khi người ta cho không nhau cái gì. Thành ra chỉ với một ánh mắt ấm áp cũng nên biết ơn đi là vừa. Khi tôi hỏi anh về công việc, anh chỉ dẫn tôi, nhìn chung cũng tận tình. Thế rồi một lần, đáp lại tiếng quát của sếp, anh đã vội vàng nói rằng: “T. làm đấy, không phải tại em!”. Tôi giật mình ngẩng lên nhìn anh. Anh quay đi, bối rối…
Những giọt nước trong suốt rơi xuống thành cầu, vỡ ra muôn nghìn mảnh li ti rồi tan biến. Thủy tinh cũng vỡ. Chẳng lẽ cái gì trong suốt cũng vỡ sao? Nhưng không phải cái gì vỡ, cũng tan đi như thế. Những mảnh thủy tinh đâu có dễ dàng tan được. Mưa cứ hồn nhiên rơi. Từng giọt biếc ngời hòa thành dòng, rồi cứ thế mà trôi.
Nếu như bây giờ anh xuất hiện tôi sẽ quên đi câu nói đó. Giá mà giữ lại những chuyện đã qua trong lòng có thể cải thiện được số ký rất đáng buồn của tôi - chưa đầy 29kg - tôi cũng đã giữ rồi. Anh, thay vì phóng xe đi, sẽ dắt bộ theo tôi. Và tôi sẽ giơ cao “cánh buồm đỏ thắm” để che cho hai người. Không còn mưa, không còn công việc, không còn nỗi lo bị trừ lương, không còn căn phòng chật hẹp. Tất cả đều trôi đi, chỉ còn tôi và anh. Chỉ còn anh và tôi. Lúc ấy, tôi sẽ hỏi rằng:
- Em sẽ che mưa cho anh suốt đời như thế này, anh có đồng ý không?
Hắt xì! Thôi, thôi, không được rồi! Thực tế chút đi! Bây giờ nếu gặp anh ấy, tôi sẽ gọi anh ấy ngay lập tức, sẽ xin quá giang và tốt nhất là leo luôn lên xe, cho dù anh ấy có đồng ý hay không! Tôi đưa mắt nhìn con đường trắng xóa, cố tìm xem chàng hoàng tử của tôi đâu rồi. Lúc này, hoàng tử xuất hiện một mình cũng thật sự không cần thiết. Phải là bạch mã hoàng tử cơ! À không, hồng mã hay hắc mã gì cũng được, Dream hay Wave gì cũng được, vấn đề là phải phóng cho nhanh.
Chàng hoàng tử của tôi sẽ là ai? Hay sẽ là anh? Gần một năm nay chúng tôi không gặp nhau. Anh ở cách tôi nửa vòng trái đất. Ngày sinh nhật của anh, tôi tạm quên đi những bộn bề thi cử, cho cô bé tôi dạy kèm nghỉ xả hơi. Tôi mua tặng anh một món quà xinh xắn và tự tay vẽ một cái thiệp, gửi đi. Hình như món quà ấy bị thất lạc. Tôi gửi đi đã lâu mà sao chẳng thấy anh nhắc tới.
Tôi hỏi anh có nhận được cái gì đặc biệt không, anh bảo không. Bảo “không” thì tôi phải hỏi lần thứ hai chứ biết sao bây giờ, anh gửi tôi một cái email, nói rằng: “Em gửi cái gì cho anh thì cứ nói ra, đừng chơi trò úp mở như trẻ con thế! Anh đang bận lắm, anh không rảnh, em biết không?”. Tôi dỗi. Anh gửi tiếp cho tôi hai cái thư. Tôi không trả lời. Thế rồi thôi. Thôi hẳn. Cũng không đáng ngạc nhiên lắm, vì không có những lời hẹn hò. Tình cảm mảnh như sợi chỉ đã mục, căng nhẹ mà cũng đứt. Trong trường hợp này cũng chẳng cần nghiên cứu lỗi tại ai. Con đường dẫn tới “nhà tôi” đây rồi. Đi hết con đường này, rẽ vào một hẻm nhỏ nữa là tới phòng trọ. Anh sẽ chẳng thể chờ tôi cuối con đường. Hoàng tử của tôi là ai tôi không biết, nhưng chắc chắn không phải là anh.
Mưa vẫn rơi, ồn ã và tất bật. Sao đến cả mưa cũng nhọc nhằn trong từng giọt buốt?


* * *


Cuối cùng thì người che chung dù với tôi cũng xuất hiện. Người ấy đầu trần, đi dưới mưa. Người ấy chào tôi và mỉm cười với tôi. Người ấy là thằng bé gõ mì.
“Hoàng tử bé” đi cùng đường với tôi. Và tôi giơ “cánh buồm đỏ thắm” che cho cả hai. Thằng bé nhảy nhót dưới chiếc dù. Tôi hỏi nó có đi học không. Nó nói nó học dang dở lớp ba, vừa mới nghỉ. Trời đất! Nhìn nó, tôi cứ tưởng nó sáu tuổi là cùng! Tôi hỏi nó nghỉ học có buồn không. Nó lắc đầu, nói không. Tôi thì thấy ngược lại. Nó còn nhỏ quá. Nhỏ đến nỗi chưa biết tiếc cái điều sau này sẽ làm nó khổ. Nó kể nó đã thấy tôi mấy lần rồi. Nó còn mời tôi ăn mì nữa nhưng lúc đó mặt tôi ngầu quá, ngôn ngữ như một thứ hàng xa xỉ, không chịu dùng. Sao lâu nay tôi không để ý đến nó nhỉ? Nhà trọ đây rồi. Thằng bé nhanh nhảu chạy vụt đi:
- Chị vô nhà, em đi đây!
“Hoàng tử bé” giơ cao hai thanh tre qua đầu, lách cách gõ vào nhau. A ha, thằng bé này không xem như mình đang làm việc. Nó đang chơi một trò chơi! “Bạn” của nó là những thanh tre bé nhỏ. Một trò chơi có âm thanh và có những người cùng chơi một cách vô tình. Đó là những ai lên tiếng: “Mì gõ!”. “Hoàng tử bé” mất hút. Tiếng gọi của tôi rớt giữa tiếng mưa. Sao tôi không mua một tô mì nhỉ? Mà sao nó cũng không nhớ đến việc nên mời tôi? Tự dưng tôi nghĩ đến những vì sao, những vì sao reo lanh canh như tiếng chuông mà Exupery đã từng miêu tả. Hai thanh tre, khi đùa giỡn cùng nhau, cũng reo lên như thế… Tối nay, thế nào tôi cũng ngắm sao (nếu như trời có sao!).
Những giọt mưa rơi xuống, vỡ ra thành muôn nghìn bụi sáng, rồi hồn nhiên tan đi. Thủy tinh cũng vỡ. Cái gì trong suốt cũng dễ vỡ. Nhưng không phải cái gì cũng có thể tan đi...
[/center]
_________________
một thời mộng mơ ..
một thời cỏ dại ...

Back to top
 
Ngang qua đời ------
Nhiên luí huí suốt đêm ngồi gói món quà tặng anh . Nhiên là thế , thích cái gì làm cho bằng được , quên ăn quên ngủ . Chẳng phải là 1 dịp gì đặc biệt , chỉ là bạn cuả anh về lại Hà Nội, Nhiên muốn làm anh bất ngờ với món quà bé nhỏ cô tự làm .
Sáng hôm sau thì nó đã hoàn tất , Nhiên mang lên lớp cho tuị bạn coi và thêm ý kiến .

- Tao phải ganh tị với mày đấy Nhiên à ! Nhìn cái này là tao không muốn mở ra, nếu mày tặng tao thì tao sẽ cất nó mãi làm kỉ niệm .
- Mày tặng cái gì cho anh vậy ?
-Không có gì là vật chất trong đó cả, toàn là tâm hồn thôi !
-Con nhỏ này , mày sến vưà vưà thôi .
Rồi cả đám ôm bụng cười hixhix

**

9 giờ 30 phút sáng , chuông reo đổi tiết . Nhiên chạy xuống lầu , cô đã hẹn gặp Quang ở dưới và đưa Quang món quà

-Em không có gì tặng anh à ?

Nhiên sững người, nhưng khuôn mặt không lộ vẻ gì . Nhiên đóng kịch rất giỏi, đã từng đóng vai bà hàng xóm bị mất gà chửi đông đổng làm cả khoá cười ồ vì cái nét đanh đá chanh chua pha chút hài hước cuả cô .

-Aha, món quà sau bao giờ cũng cho người quan trọng nhất, mà bây giờ trước mặt em là anh .

Nhiên vưà cười vưà thò tay trong tuí quần lấy ra 1 khỉ xinh xinh . Nhiên định gưỉ kèm con này trong món quà cuả cô .

-Nó xấu xí thật, nhưng nó thích anh, em đành phải dứt ruột cho nó theo anh .
Nhiên cười cười, ánh mắt trong veo lung linh trong nắng .

-Em yên tâm, anh sẽ đưa tận tay cho Khoa, àh không ,phải bắt nó qua nhà anh lấy !
Quang nhìn Nhiên với ánh mắt tiếc nuối, anh đã từng thích cô ...
-Thôi, anh đi đi, coi chừng trễ tàu, em vô học đây, chúc anh đi đường không bị lọt ổ gà .
-Xe lưả mà cũng bị lọt ổ gà à .

Quang cười cốc vào đầu Nhiên, anh nhấn ga rồi chạy đi . Nhiên đứng đó, vẫn thấy ánh mắt anh nhìn cô qua kính chiếu hậu .

**

Cuối tháng 6, trời lúc mưa lúc nắng . Nhiên đã thi xong hết học kì , nhưng cô và nhỏ bạn vẫn đang học thêm tiếng Nhật . Buổi tối trời mưa tầm tã , Nhiên vưà đi học về , lau người rồi leo lên giường coi phim .
Chuông điện thoại rung lên, cái bản nhạc Romance duị dàng khe khẽ
-Em đang ở đâu đó , anh đang ở rất gần nhà em .
Nhiên giật mình .
-Anh vô Sài Gòn hồi nào vậy ?
-Mới hồi chiều, bây giờ anh đang ở nhà anh anh .
Nhiên cười, cô không dễ hốt hoảng lâu .
-Mà anh đang ở đâu mà nói rất gần nhà em ?
-Anh đang đứng trước sân nhà có giàn bông giấy và cái cổng cao cao , à, và có cả con chó dữ nưã .

Nhiên lại giật mình, cô nhìn qua cưã sổ phòng xuống cái cổng, đâu có ai ...
- Vậy thì anh trèo tường vô luôn đi , em đang đợi nè
Cô cười mỉm chi, Khoa bật rồi cười lớn trong phone
-Anh sợ con chó nhà em lắm, hôm qua anh cố trèo nó cắn mất cái quần cuả anh , bây giờ thành 2 ống rồi ...
-Ngày mai anh gặp em nhé, được không cô bé ?
..
..Nhiên cảm thấy gì đó trong lòng ..se lại , hơi bối rồi và bất ngờ . Quen anh nhưng chưa bao giờ cô thấy mặt anh ...
-Daaaa ... được , khoảng 10 giờ sáng , eeemm học xong rồi em nhắn tin cho anh . Có gì em sẽ nhắn cho anh điạ chỉ trường em ....
-Vậy mai gặp em . Ngủ ngon , mơ càng nhiều ác mộng càng tốt .
-Anh cẩn thận đêm nay nhớ đừng leo cổng mà rách quần nưã hen

..
..Khoa đợi Nhiên tắt máy trước rồi anh tắt máy sau

**
Không biết đêm qua cô có ngủ ngon không , nhưng sáng hôm sau cô dậy sớm .
-Lần đầu tiên tao thấy mày đi học sớm ghê ha !
Nhỏ Liễu nhỉn Nhiên với con mắt tò mò
-Ngủ sớm dạy sớm chứ sao ! À, mà chúc nưã mày đi với tao nha !
-Đi đâu?
-Xiú nưã thì biết !

10 giờ, lớp học tan sớm . Cô cố nhìn qua lớp cưả kính mỏng phòng học .
Lại điệu nhạc Romance mơ mộng cất lên
-Anh đang ở dưới, em xuống liền nhé !
...Emmm xuống liền

Nhiên đứng trên ban công lớp học , nhìn xuống dưới đường ...
Cô lững thững đi xuống cầu thang, bây giờ cô chỉ muốn có cái hố trước mặt để nhảy xuống mà không phải gặp anh . Lồng ngực nhảy tưng tưng ...
Những bông hoa nắng chạy nhảy trên mái tóc dài , phản chiếu ánh sáng lên mặt anh .
Khoa nhìn Nhiên bỡ ngỡ và cô cũng vậy , nhưng nét bỡ ngỡ cuả Nhiên được thay bằng nụ cười cuả cô . Còn anh, hai con mắt sâu như ẩn giấu bao điều ...
-Sao em lại đoán ra anh, hay vậy ?
-Cảm giác thôi anh !
-Đi , anh chở em đi một vòng ...
-Anh không sợ em bắt cóc àh ?
-Thế em không sợ anh bắt cóc à ?
...
... Gió ở đâu chạy lại, thổi tung mái tóc Nhiên
-Anh đợi em 1 lát , em đi lấy áo khoác
Nhiên chạy vô lại trong trường , Liễu vẫn đứng đó
-Đi không mày ?
-Mày nghĩ ảnh chở thêm tao làm gì ?
-haha, tao nói vậy thui, chứ mày đi làm gì !
Liễu nhìn Nhiên với hai con mắt hình viên đạn
-Biết vậy tao ừ ban đầu, thôi đi đi nhóc ... Liễu cười tinh quái

**

Nắng vẫn hắt sau lưng hè , hoa nắng vẫn nhảy trên tóc Nhiên , ánh mắt cô vẫn trong veo như sương sớm ....
Đã từ lâu Nhiên không liên lạc với anh,kể từ cái ngày đó !
Cô giận anh ra đi mà không nói một lời .. Mãi về sau cô mới biết anh qua Đức , ngày anh gặp cô cũng là ngày anh lên máy bay ....

-Hồi đó mày gói cái gì tặng anh đó vậy ? Liễu thắc mắc hỏi Nhiên
-Sỏi, hoa hồng khô và hoa cỏ may khô ....


**
---Đến tận bây giờ cô vẫn không biết rằng anh còn giữ món quà đó không ........
 
Bên bờ hư ảo

Nguyễn Đình Tú



Khanh bảo Hương: “Em học thêm ngoại ngữ đi, cả ngày đọc rồi, tối về lại chúi mũi vào đống sách báo ấy làm gì, dễ strees lắm!”

Câu nói ấy thể hiện sự quan tâm, lo lắng của Khanh đối với người yêu. Có thể hiểu như thế và nên hiểu như thế. Cũng chẳng thể trách Khanh được. Khanh đang theo công trình lắp đặt đường dây thông tin ở một tỉnh cực Nam. Những lúc nhớ nhau, Hương chỉ còn biết gọi vào số máy di động cho Khanh. Làm như thế rất tốn tiền. Với đồng lương hợp đồng như của Hương, bày tỏ tình cảm bằng cách ấy là ngoài khả năng cho phép. Cả hai đứa đều là dân tỉnh lẻ, đều quyết chí lập nghiệp ở Hà Nội. Căn nhà thuê từ hồi còn là sinh viên vẫn tiếp tục được gia hạn hợp đồng để chờ đến cuối năm sẽ làm phòng tân hôn luôn. Hương làm ở một nhà xuất bản, giữ chân biên tập viên sách văn học, còn Khanh vào làm ở chi nhánh của tổng công ty xây lắp. Khanh phải bám theo các công trình nên đi suốt. Hương, ngoài việc đọc bản thảo ở cơ quan, đọc sách báo ở nhà, những lúc nhớ Khanh mà không đủ tiền gọi điện thoại thì chẳng biết làm gì! Chính vì thế Khanh đã tỏ sự quan tâm, lo lắng đến người yêu bằng lời khuyên đi học thêm ngoại ngữ buổi tối. Lúc đầu Hương thấy giận cho cái sự thật thà đến độ thực tế của Khanh. Đáng lẽ phải bàn đến chuyện mua ti vi, mua đài, mua máy vi tính có gắn ổ VCD để có cái giải khuây vào những đêm dài, đằng này Khanh lại muốn Hương thay đổi sự mệt mỏi này bằng một sự mệt mỏi khác. Đáng lẽ phải bàn đến chuyện mua một cái máy di động nữa để nhớ thì nhắn tin cho nhau (dịch vụ này rẻ hơn gọi nhiều), đằng này Khanh lại muốn đẩy Hương đến một trung tâm ngoại ngữ để chỉ phải tiêu tốn mỗi tháng từ ba đến năm mươi ngàn đồng cho việc nhồi nhét thêm một thứ tiếng nước ngoài nữa vào đầu. Đáng lẽ... Mà thôi! Khi xa Khanh rồi Hương lại không thấy giận Khanh nữa. Khanh đang quắt người lại để lo cho cuộc sống của hai đứa sau này. Bây giờ là lúc phải thực tế chứ không thể cứ mây mây gió gió như cái thời mới yêu nhau được. Và Hương thấy những điều Khanh nói hình như cũng có lý. Nhưng vấn đề là Hương sẽ học thứ tiếng gì đây? Nhất định là không học tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nhật hay tiếng Đức. Vài ba thứ tiếng thực dụng ấy chẳng giúp được gì cho công việc biên tập sách văn học của Hương. Mà thời sinh viên Hương cũng đã học chán mấy thứ tiếng đó rồi. Có học thế chứ học nữa cũng chỉ để làm bồi chứ chẳng thể làm phiên dịch hay biên dịch như đám chuyên ngữ được. Chỉ còn một thứ tiếng Hương thấy có thể giúp ích ít nhiều cho vốn kiến văn còn mỏng mảnh của mình, ấy là Hán Nôm. Thế là Hương đăng ký học Hán Nôm. Lớp học cách chỗ Hương làm không xa. Học ở đấy Hương thấy tiện nhiều bề.

Buổi học đầu tiên Hương hơi ngạc nhiên vì trong số ba mươi hai học viên của lớp có tới ba mươi vị là ni cô, chú tiểu của các chùa xung quanh khu vực Hà Nội. Họ đều là những người rất trẻ, đều cạo đầu hoặc cắt tóc ngắn, đều mặc áo nâu sòng và đều...học hành rất chăm chỉ. Hương ngồi cùng bàn với một cậu thiếu niên chạc mười sáu, mười bảy tuổi. Cậu cũng mặc áo nâu sòng, chân đi dép xăng đan da, vai khoác túi vải kiểu sinh viên đại học vẫn thường dùng. Cậu có một khuôn mặt rất đẹp. Bất kỳ ai có lòng trắc ẩn một chút khi nhìn vào khuôn mặt ấy, lại liên tưởng với bộ áo nâu sòng kia, nhất định có sự xáo động. Đôi mắt sáng, vầng trán cao, cánh mũi thẳng, hàm răng trắng, da mặt hồng, tóc để lúp xúp, đúng là một cậu trai đang bắt đầu trổ mã, mà sẽ là một mã đẹp, mã đa tình và hào hoa! Hương chưa kịp làm quen thì cậu ta đã quay sang hỏi:
- Chị học lần đầu hay học lại?

Hương bảo:
- Mình học lần đầu. Thế còn...?
- Em tên là Tuấn. Em đang học dở chương trình B nhưng muốn quay lại học từ đầu cho chắc. Học Hán Nôm cứ phải vài ba lần. Học đi học lại mới nhớ, không giống như học tiếng Anh đâu.

Hương cũng đã nghe nhiều người nói học Hán Nôm rất khó, học chữ nào biết chữ ấy, lại là thứ học để biết, để làm giàu thêm vốn kiến thức cho mình chứ không phải để đi du lịch hay đọc sách báo nước ngoài. Nếu để đọc và nghe người Trung Quốc viết và nói thì phải học tiếng Trung hiện đại. Học Hán Nôm chỉ giúp đọc văn tự cổ. Nhưng đọc được văn tự cổ, như văn bia ở các đình chùa chẳng hạn, thì cũng phải mất một phần ba cuộc đời. Chẳng ai bỏ ra một phần ba cuộc đời chỉ để làm cái việc tìm lại ngôn ngữ của cha ông, hay nói như cách của các nhà nghiên cứu là nối lại phần văn hóa bị đứt gẫy. Nghĩa là đừng đặt yếu tố thực dụng khi chọn học Hán Nôm. Cứ nhìn vào lớp học thì rõ! Ngoài các vị thầy chùa ra, chỉ có Hương và một bác già chuyên viết sớ ở đền Cổ Loa. Tất nhiên sau này Hương mới chiêm nghiệm ra điều ấy. Còn khi nghe Tuấn nói đến cái sự học đi học lại Hương cứ nghĩ rằng cậu ấy hơi quan trọng hoá vấn đề. Có thể nền của cậu ấy thấp nên học khó vào, còn Hương, Hương tin là mình không phải học đến lần thứ hai. Sự tự tin ấy theo Hương cho đến hết tuần học đầu tiên. Kiểm tra bài cũ Hương đã nói vanh vách trước thầy về lục thư tức sáu cách cấu tạo chữ Hán, nào là tượng hình, chỉ sự, hội ý, hình thanh, giả tá, chuyển chú. Rồi tám nét cơ bản của chữ Hán, nào là chấm, sổ, mác, gập, ngang, phẩy, hất, móc. Lại cả bảy nguyên tắc thư pháp, cái gì trước, cái gì sau, cứ thông làu làu, được thầy biểu dương trước cả lớp. Hương phấn khởi lắm. Nhưng sự tự tin ấy không tồn tại được lâu. Sang đến tháng học thứ hai với việc ghi nhớ khoảng gần một trăm chữ thì Hương bắt đầu thấy loạn. Thầy yêu cầu học viên đến lớp phải mang mực tàu và viết bằng bút lông. Hương tập mãi mà chữ vẫn cứ cứng quèo. Nhìn sang Tuấn, thấy nét nào ra nét ấy Hương thầm ghen tỵ. Việc học Hán Nôm quả là rất mất thời gian. Mà cái đích của việc học, dù là rất khiêm tốn, cũng trở nên mông lung, xa mờ. May là Tuấn luôn động viên Hương. Thấy Hương không viết được nét phẩy và nét mác, Tuấn đã tặng Hương một chiếc bút lông “chuyên dụng”. Tuấn bảo: “Bút này của thầy em mua ở bên Nhật, lông rất tốt, ấn không bị tõe ngòi, chị cố gắng luyện cách cầm bút nữa, chữ sẽ đẹp”
 
Càng ngày Hương càng thấy Tuấn giống cậu em trai đang học lớp mười một của mình ở dưới quê. Tuấn hồn nhiên và không giấu diếm những suy nghĩ của mình. Tuấn không quá câu nệ trong đi đứng, nói năng, hành động, cử chỉ như những tăng ni sinh khác. Thậm chí Hương còn thấy Tuấn “đời” chẳng kém gì cậu em trai mình. Có lần Tuấn hỏi: “Sinh nhật bạn gái thì nên tặng cái gì hả chị?”. Hương ngạc nhiên: “Tuấn cũng có bạn gái à?” Tuấn bảo: “Bạn cùng lớp ấy mà, sinh nhật em các bạn đều có quà cả, đến ngày sinh của các bạn ấy em cũng phải có quà chứ”. Hương không giấu được tò mò: “Thế sinh nhật Tuấn thì tổ chức như thế nào?” Tuấn bảo: “Thì cũng bình thường như các bạn ấy thôi. Thầy em cũng tặng quà cho em kia mà. Thầy bảo Phật còn có ngày sinh, việc nhớ đến ngày sinh của mình là điều nên làm”. Hương lại hỏi: “Thế tổ chức sinh nhật ở ngay trong chùa à?” Tuấn bảo: “Vâng. Cả bạn đời lẫn bạn đồng đạo đều đến. Sao chị có vẻ ngạc nhiên thế?”. Hương bảo: “Ừ thì mình cứ nghĩ là người nhà chùa sống khác bọn mình ngoài đời. Thế các bạn tặng Tuấn những thứ gì?” Tuấn cười: “Bạn đời thì tặng nhiều thứ lắm, chủ yếu là sách vở, còn bạn đồng đạo thì tặng vải may áo nhà chùa và kinh sách”. Hương gật gù: “ Thì ra vậy! Qua Tuấn mình biết thêm được nhiều chuyện của người xuất gia”

Hôm khác Tuấn lại bảo: “Chị cho em xin số điện thoại của cơ quan chị?”. Hương đọc cho Tuấn ghi xong, hỏi: “Em có đến chỗ chị chơi được không?” . Tuấn bảo: “Sao không? Chiều mai học võ, em sẽ đi sớm rồi qua chị chơi”

Tuấn học võ ở công viên Thủ Lệ vào những ngày lẻ trong tuần. Chùa Tuấn ở bên Gia Lâm nên Tuấn thường đi học bằng xe máy của thầy. Hôm đó trước khi đến chơi Tuấn điện cho Hương trước. Hương nhận đón Tuấn nhưng trong lòng thấy hơi e ngại vì không biết mọi người trong cơ quan sẽ nhìn Hương như thế nào khi thấy khách là một vị sư nam? Nhưng Hương đã không phải quá lo lắng vì hôm ấy Tuấn mặc một bộ đồ võ sinh màu trắng. Tuấn rủ Hương: “Chị em mình đi ăn kem đi?” Hương dẫn Tuấn ra vườn hoa. Tuấn luôn tỏ ra xăng xái và chủ động, cứ y như một cậu trai mới lớn đang xử sự trước bạn gái vậy. “Chị thích kem hay sữa chua? Chị ăn loại kem nào? Ly to hay ly nhỏ? Chị có ăn kèm theo quế không?” Ngay cả đến Khanh cũng chỉ chăm sóc Hương được đến như thế này. Nhưng Khanh không có được sự hồn nhiên như Tuấn. Lúc nào Khanh cũng mang khuôn mặt của một người đàn ông sắp phải làm chủ gia đình trong tương lai. Tự tin và hơi cao đạo. Bận rộn và thực tế. Mệt mỏi và đòi hỏi. Chưa có thật nhiều tiền nhưng rất biết tiêu tiền kiểu ông chủ. Chưa thành đạt nhưng rất quan tâm đến cung cách hành xử của người thành đạt. Với Hương, đằng sau sự chăm sóc của Khanh là một động cơ đã thấy rõ. Còn Tuấn, Tuấn quý Hương như một người chị gái. Sự chăm sóc kia là nhu cầu tự thân, là không động cơ, là chân tình, và ánh mắt của Tuấn dường như còn chứa cả tình thương của một người em trai dành cho chị gái nữa. Hương hỏi:
- Chị tưởng người nhà chùa không được sinh hoạt thoải mái như thế này? Nếu biết em đi chơi với chị thầy em có mắng không?
Tuấn đáp:
- Thầy em nuôi em từ năm em mới lên bảy. Em làm cái gì thầy cũng biết. Thầy chỉ không cho phép em làm những gì ảnh hưởng đến nhà chùa thôi. Em lại chưa làm lễ thế phát, cho nên em chưa phải tuân theo giới luật. Sau thế phát chắc em không còn được ngồi thoải mái với chị như thế này.
- Lễ thế phát là gì?
- Là lễ xuống tóc. Sau khi xuống tóc em mới chính thức là tiểu.
- Làm tiểu xong rồi làm gì?
- Khi nào thầy cho phép thì được thụ giới sa di.
- Nghĩa là sao?
- Nghĩa là làm sư đấy. Mà thôi, chị hỏi làm gì, chị không hình dung ra đâu. Thầy em bảo đạo Phật là thứ đạo có đi mới đến. Chị không đi không đến được đâu.
- Thế bây giờ công việc hàng ngày của em là gì?
- Là học, gồm có học phổ thông, học ngoại ngữ, học võ, ngoài ra giúp thầy những việc lặt vặt như thỉnh chuông, dọn dẹp quanh chùa, viết sớ vào ngày lễ...
Hương bỗng hỏi:
- Thầy em bao nhiêu tuổi?
Tuấn đáp:
- Thầy em ngoài ba mươi.

Hương tò mò:
- Thầy em có đẹp trai không?
Tuấn cười:
- Em không biết. Hôm nào chị sang chùa em chơi. Nói chuyện với thầy em vui lắm. Cái gì thầy cũng biết, thầy em hiền và tốt lắm. Thầy viết chữ Hán rất đẹp. Trước thầy em học Đại học sư phạm ngoại ngữ, khoa Trung văn.

Những điều Tuấn nói đã kích thích trí tò mò của Hương. Hương hẹn: “Chủ nhật này mình sang Tuấn chơi đựơc không?”. Tuấn bảo: “Để em sang đón chị nhá?”. Hương bảo: “Không cần đâu, hẹn nhau ở chỗ chân cầu Chương Dương cho Tuấn đỡ vất vả”. Tuấn bảo: “Được rồi, em sẽ ra đón chị ở chân cầu”

Đúng hẹn, Tuấn ra đón Hương rồi đưa về chùa. Chùa nằm ở trong một khu đất rộng. Trước cổng chùa có một cây si và một cây đa nên người dân ở đây gọi là Chùa Si Đa. Sau này khi căn bệnh thế kỷ xuất hiện và được nói đến ra rả trên đài báo thì cái tên si đa bỗng trở nên thô thiển, uế tạp, người ta không gọi tên chùa như cũ nữa mà gọi ngắn lại thành Chùa Si. Tiền cung, hậu cung, hồ vọng nguyệt, trai phòng, nhà bếp...Tuấn dẫn Hương đi thăm hết một lượt. Qua phòng thầy thì thấy đóng cửa. Tuấn bảo: “Thầy em đi giảng ở chùa trong, đến trưa sẽ về”. Lúc đầu Hương có ý chờ nhưng trưa hôm ấy thầy không về. Tuấn bảo: “Có lẽ chiều tối thầy mới về, chị cố ở lại chờ thầy về nhé?”. Hương lắc đầu, bảo: “Thôi, nhìn qua ảnh cũng đã hình dung ra thầy rồi”.

Thầy không đẹp trai bằng Tuấn mặc dù có thể uyên bác hơn, Hương thầm nhận xét thế. Chữ thầy được treo ở nhiều nơi trong chùa. Nói chung đó là nét chữ của người đã đạt đến một trình độ Hán Nôm nhất định, không dễ gì mà có được. Chữ của Tuấn cũng treo khắp phòng. Nhìn chung, có thấy sự tài hoa nhưng phối trí còn chưa khéo. “Thầy toàn kêu em viết lung tung lên giấy dó, chết tiền, thầy bảo em tập viết lên giấy thường đã, khi nào đẹp rồi mới được viết vào giấy khung. Nhưng em thấy chữ em cũng đẹp rồi đấy chứ?”, Tuấn hồn nhiên kể với Hương.
- Nhà em ở cách đây có xa không? - Hương hỏi.
- Gần thôi, trưa nay chị về nhà em ăn cơm nhé? - Tuấn mời rất chân thành.
- Ừ, nhưng em không phải xin phép thầy à?
- Thì thầy đi vắng đấy thôi. Em có đi lâu đâu, chiều lại về chùa kia mà!

Buổi trưa hôm ấy Hương ăn cơm ở nhà Tuấn. Mẹ Tuấn có một cửa hàng xén nho nhỏ, bày ngay trước cửa nhà, chủ yếu bán cho người trong làng, trong xã. Mẹ Tuấn độ năm mươi tuổi, hiền hậu, cởi mở, hay chuyện. Bà là người tín tâm, khi kể về việc cậu con trai xuất gia bà cho đó như là một cái duyên hạnh ngộ. Năm ấy chú mất, cô mời thầy tới đọc kinh hộ để chú đi cho nhẹ. Mấy ngày hôm đó thằng Tuấn cứ quấn lấy thầy. Sau đám, nó chỉ thích lên chùa chơi với thầy. Hễ đi học về là nó lại chạy qua với thầy, có hôm ngủ lại đó không về nhà. Rồi nó cứ xin cô cho lên chùa ở với thầy. Nghĩ cũng là cái duyên của hai thầy trò, thế là cô lên chùa xin với thầy cho nó ở nhờ cửa Phật. Thấm thoát cũng đã mười năm rồi đấy. Thầy nuôi cho ăn học hết năm nay nữa là xong cấp ba. Chả phải làm gì. Chỉ ăn với học thôi. Có khi ở nhà cô chẳng nuôi được như thế.

Hương hỏi:
- Em vào chùa khi còn nhỏ thế mà không nhớ mẹ, đòi về hả bác?

Mẹ Tuấn bảo:
- Cũng khóc, mếu máo đòi về, lại đòi cả thầy về ở cùng nữa. Về nhà được mấy hôm lại te tái lên với thầy. Vài ba bận như vậy thì thôi, không đòi về nữa.

Hương thấy trong lòng bỗng trở nên nhẹ nhõm khi biết Tuấn còn một đứa em trai nữa, độ mười lăm tuổi. Hiểu theo cái nghĩa thực dụng của người đời thì bố mẹ Tuấn vẫn còn người để nối dõi. Trong thâm tâm Hương không muốn Tuấn vào chùa, không muốn Tuấn xuất gia, không muốn Tuấn bỏ đời theo đạo. Giải thích theo mẹ Tuấn thì đó là cái duyên. Còn Tuấn tự giải thích là: “Em thấy hợp với cảnh chùa, rồi ngộ ra rằng, theo thầy để diệt khổ”. Hương có lần bảo: “Em đã biết khổ là gì mà vội đi diệt khổ”. Tuấn bảo: “Làm người là khổ”. Hương bảo: “Thế thì diệt làm sao được? Chẳng lẽ lại diệt sự sống?”. Tuấn bảo: “Người là cái cây, khổ là con sâu, chỉ diệt con sâu thôi chứ không diệt cái cây”. Hương bảo: “Nhưng đời cây ấy không ra trái, không tái sinh. Như vậy có khác gì diệt sự sống?”. Tuấn lắc đầu: “Thôi, chị khắc đi khắc đến, ngồi một chỗ không nhìn thấy cuối con đường có gì đâu. Em đang đi mà chưa đến. Cũng chẳng biết nói với chị thế nào”

Sau hôm sang nhà Tuấn về, tự nhiên Hương hay nghĩ về Tuấn. Rồi một ý nghĩ loé lên, càng lúc càng thôi thúc mãnh liệt. Phải rồi, Hương sẽ tìm cách nào đó để lôi Tuấn ra khỏi chùa. Người như Tuấn mà đi tu thì oan uổng lắm. Tuấn đã hiểu gì về đời đâu mà vội bỏ phí đời đi như thế? Chờ dịp Tuấn thi xong cấp ba, Hương hỏi: “Tuấn có thích học nghề sửa xe máy không?”. Tuấn hỏi lại: “Để làm gì?”. Hương bảo: “Mình có một người bạn sửa xe máy tay nghề rất cao, có thể nhận dạy Tuấn mà không thu học phí. Tuấn muốn học mình sẽ xin cho?”. Tuấn lắc đầu: “Em sẽ thi Đại học, vào học khoa triết, khoa sử hay khoa Hán Nôm gì đó, rồi em học thêm trường Trung cấp Phật giáo nữa, chị bảo học nghề sửa xe máy để làm gì?”. Hương thuyết phục: “Để về mở cửa hàng cùng với mẹ, chỗ ấy sửa xe máy rất đông khách, lại có thể dậy cho cả cậu em trai nữa, Tuấn đi tu làm gì, buồn lắm, cuộc sống ngoài đời vui hơn nhiều, Tuấn nghe lời mình đi?”

Tuấn bảo:
- Những điều chị nói em đã bỏ ngoài tai từ mười năm nay rồi. Mỗi người mỗi phận, em không có sự lựa chọn nào khác nữa đâu.

Hương nói thế nào cũng không thuyết phục được Tuấn. Thời gian sau này hai người không còn gặp nhau thường xuyên nữa. Hương mỗi ngày một thưa vắng đến lớp Hán Nôm. Công việc biên tập làm Hương bù đầu, mớ chữ Hán kia trở nên quá tải, không nhét vào đâu được nữa. Rồi Hương bỏ lớp. Thỉnh thoảng Hương gặp Tuấn qua điện thoại. Sau này khi máy tính ở chùa Tuấn nối mạng thì Tuấn thường xuyên i meo cho Hương. Cũng có lần Tuấn đến nhà trọ chơi với Hương. Lần thì Tuấn hỏi Hương cách ôn thi đại học? Lần thì Tuấn mang cho hương một vốc hoa ngọc lan. Có lần Tuấn lại đưa cho Hương xem cả một lá thư của một cô bạn học cùng lớp cấp ba nữa. Cuối năm ấy Hương thông báo cho Tuấn biết tin Hương sắp cưới. Mấy ngày hôm nay Khanh đang đi hỏi mua giường, tủ, đặt thiếp, chọn khách sạn và lên danh sách khách mời. Hương bảo: “Nhất định Tuấn phải sang đấy nhé. Hôm đón dâu Tuấn phải về quê chị chơi”. Tuấn hỏi kỹ ngày giờ rồi bảo: “Nhất định em sẽ đi dự đám cưới chị”

Nhưng trước hôm cưới một ngày, Hương đang ngồi bàn tính cùng Khanh về danh sách khách mời thì Tuấn đến. Trông Tuấn khác hẳn mọi lần. Tuấn không mặc bộ võ phục trắng nữa mà mặc bộ áo nâu nhà chùa. Điều Hương đặc biệt chú ý là đầu Tuấn không còn sợi tóc nào. Khuôn mặt Tuấn rực hồng dưới ánh đèn nê ông. Lớp da trên đầu Tuấn bóng nhẵn, nổi những vệt xanh mờ. Cặp mày Tuấn như xếch lên và sống mũi nhô cao hơn. Khi Tuấn cười, hàm răng trắng như ngà. Tuấn bảo:
- Hôm nay đẹp ngày, thầy làm lễ thế phát cho em. Từ giờ phút này trở đi em mang chân tiểu. Em bắt đầu học hai mươi tư chương uy nghi tức những điều luật đầu tiên của người xuất gia. Ngày mai em không đi dự lễ cưới của chị được. Tối nay em sang chơi với chị, tặng chị món quà này.

Tuấn đặt quà vào tay Hương. Quà của Tuấn là một cuộn giấy nhỏ. Khi Tuấn về rồi, Hương mới mở ra xem. Đó là một bức đại tự viết theo lối thảo. Chỉ có một chữ duy nhất, Hương nhận ngay ra đó là chữ Chấp. Chữ Chấp thuộc bộ thổ, cấu tạo theo nguyên tắc hội ý, gồm chữ Hạnh và chữ Hoàn ghép lại. Hạnh nghĩa là hạnh phúc, Hoàn nghĩa là trọn vẹn. Tuấn muốn chúc Hương Hạnh phúc trọn vẹn! Nhưng Hương hiểu Tuấn còn có ý khác nữa. Trước đây đã có lần Tuấn bảo: “Sống trong chữ Chấp là đời, còn vượt ra khỏi chữ Chấp sẽ là đạo”. Thế là Tuấn đã tỏ rõ chí của mình cho Hương hiểu. Tuấn đã bước sang bên bờ kia của cuộc đời rồi. Đó là chốn gì Hương không sao hiểu, chỉ thấy nó hư ảo thế nào đấy. Tự dưng Hương có cảm giác như đánh mất Tuấn. Khanh hỏi: “Em là thế nào với cái cậu sư ấy?”. Hương đáp bằng một giọng buồn buồn: “Chị em quen nhau thôi”. Khanh bảo: “Cũng đẹp trai đấy nhỉ?”. Hương đáp: “Đẹp! Nhưng chẳng để làm gì”

Hôm sau trên đường đưa dâu về nhà trai, Hương nhìn thấy Tuấn đứng ở chân cầu. Hương nhìn sang Khanh tự hỏi: Khi mười tám tuổi Khanh thế nào nhỉ? Rồi Hương lại tự trả lời: Khanh mơ vào Đại học và mong có ngày rước một cô dâu xinh đẹp về nhà như hôm nay.

Dưới chân cầu nước chảy mà như đứng im.
_________________
 
Gương vỡ - Mỹ Hiệp


Qua khung cửa sổ Dư lặng lẽ ngắm nhìn cảnh vật, mọi loại cây trong vườn dường như chết đứng, ủ ê não nuột. Bầu trời xám đục. Tiếng chim líu lo hàng ngày cũng biến đâu biền biệt. Dư cũng bất động trong song cửa, chàng đợi chờ một cơn gió nhẹ chỉ đủ lay động chiếc lá trên cành cam trước mặt để biết quả đất còn quay, ... ... sự sinh hoạt của nhân thế vẫn còn. Ô kìa! Một con chim vừa bay lướt nhanh, chỉ một con - lẻ loi đơn độc.
Màu sắc đất trời nơi đây hôm nay sao giống những tháng ngày vào độ tháng chín tháng mười ở quê hương chàng. Nhìn trời, mẹ chàng bảo: Trời ngưng mưa, nước nguồn đang xuống lớn, phải chuẩn bị thức ăn cho vài ngày vì trời lụt. Mấy chị em chàng vui mừng la lớn: - Ồ! vui quá là vui, lụt hả má! Duy chỉ có mẹ chàng là lo lắng thu dọn thóc lúa kê lên những bàn cao,lo cho gà vào chuồng ăn uống rồi cài then khóa cửa.

Sao hôm nay Dư nhớ mẹ vô vàn. Tiến dần đến tủ rượu, chọn chai cognac, chàng rót đầy cốc, không cần soda pha chế, cũng chẳng đòi hỏi món đậu hạt điều dùng làm mồi. Nâng ly ngang mũi chàng hít hơi dài, vị nồng cay của rượu làm chàng đê mê ngây ngất. Phải! Dư cần một giấc ngủ dài... dài và để không nhận ra nỗi buồn tê tái. Ngoài trời kia dù lạnh thế nào có lẽ cũng không bằng cái buốt gía trong tim chàng. Gia đình - tình yêu - tiền tài bỗng phút giây trắng tay. Đầu óc chàng thật tỉnh táo để cân nhắc hơn thiệt và những gì phải làm cho ngày mai. Dù té ngã Dư vẫn đứng lên vững vàng tiến bước. Mẹ à! con xin hứa với mẹ, con không thể chết, con không thể là đứa con hèn hạ...

Tiếng chuông nhà thờ ngân vang; tiếng nhạc mở quá lớn, tiếng reo cười của những đứa bé nhà hàng xóm, Dư đứng lên mở cửa đi về hướng đó. Qua khe cửa, chàng nhìn vào, các chú bé đang qùi dưới gốc cây thông trang hoàng đầy những hoa đèn rực rỡ. Chúng lần lượt mở những món quà. Dư không nhìn rõ những món quà gì mà cả ba giành nhau cười nắc nẻ. Cách đó không xa, trên bộ xô pha màu cam sang trọng, cặp vợ chồng trẻ đang nâng ly cùng chung một cốc rượu... Khung cảnh của mọi gia đình trong đêm giáng sinh...

Con tôi, con tôi - giờ nầy chúng đang làm gì và chúng có quà giáng sinh không? đã hơn mười năm, chúng cũng đã được hưởng cái hạnh phúc ngày giáng sinh như mọi đứa trẻ khác. Tôi phải đến với con tôi. Không ai có quyền ngăn cấm tôi, cái quyền săn sóc con là của tôi. Người mẹ đó mang danh tốt đẹp, còn thực tế thì sao? Tôi không phê phán, không hận thù chàng tư nhủ!

Mở cửa garage và chàng vội vả cho khoá vào xe mở máy. Tôi phải đến với con tôi gấp bây giờ, tôi sẽ cùng với chúng mở quà như mọi năm. Đầu óc chàng như bay bổng trong ảo giác khó tả. Nó như những vì sao lung linh trước mặt. Con đường hàng ngày đi về thẳng tắp. Sao hôm nay bỗng ngoằn ngoèo uốn khúc. chàng tự bảo sao nó giống như con đường trên Biển Hồ Pleikụ.. Bốn bánh xe nhẹ lướt trên bùn đất đỏ và trơn trợt đến lạnh người! Bỗng thoáng có bóng người xuất hiện giữa đường, chàng nhận còi xe inh ỏi mà người đó vẫn cứ nhăn răng cười thong thả bước, bỗng chốc biến mất. Đường phố như có một lỗ hổng chính giữa và một con dốc cực kỳ nguy hiểm. Chàng thắng gấp trước miệng hố nhưng sao, hình như tai chàng nghe đánh rầm chát chúa. Ầm! Ầm! Một màu trắng toàn thể phủ ập lấy người, nhẹ nhàng và êm êm vào cõi hư vô! Chàng không còn biết gì nữa...!

*

Hạnh dùng nửa ngày để trang điểm, tỉ mỉ chải cong từng lọn tóc. Đứng trước tủ áo quần nàng phân vân chọn lựa. Cuối cùng Hạnh mặc chiếc áo màu đỏ rực rỡ, hở cổ. Màu đỏ biểu hiện tình yêu nồng cháy và bộ ngực căng tròn của nàng phải được phô trương trong đêm dạ vũ nầy. Nàng nhíu mày cắn mạnh môi. Thằng chồng quê mùa của mình mà gặp, chắc nó sẽ lên lớp bài đức dục, mẫu người đó thật chán ngấy! Hôm nay ta đã được tự do, ta đã không phải nhìn cái bản mặt lầm lầm lì lì, nghiêm hơn cả ông thầy đồ thế kỷ 19. Thật hài lòng với thân hình thon gọn của mình, qua mấy bận soi ngắm bóng hình, nàng ngước nhìn đồng hồ. Chỉ còn mười phút nữa là đến giờ hẹn với người yêu. Lòng nàng rạo rực như tuổi mười sáu. Tình yêu dù đến muộn. Tưởng như oái ăm, nào ngờ ông Tơ bà Nguyệt lại sắp xếp thuận buồm xuôi gió. Trong một buổi tiệc tại nhà người bạn gái cùng sở, Hạnh đã gặp Denie. Những ngày chồng nàng về quê thăm gia đình, nàng cảm thấy như mình được thóat xích xiềng. Sau giờ tan sở, Nàng cùng Denie chạy xe lòng vòng hay vào quán nhạc tâm tình thoải mái. Nàng đã yêu và lén chồng đến với Denie. Nhờ sự cố vấn tiếp tay của luật sư L. , hôm nay nàng đã giải tỏa hết mọi ràng buộc vướng víu... Hạnh phúc luôn chào đón nàng. Cám ơn cha mẹ đã đặt cho con cái tên nầy!

- Ô! hôm nay em đẹp quá! sáng chói hơn vì tinh tú trên trời!

- Cám ơn anh, anh đợi em lâu chưa!

- Không sao, anh muốn thưởng thức cảm giác đợi chờ, Denie nhẹ nhàng dìu nàng vào phòng trà. Chọn một chiếc bàn trong góc phòng, Denie kéo ghế mời nàng.

- Xin mời người đẹp nhất đêm nay, nữ hoàng của anh!

- Cám ơn hoàng tử của em!

Đôi mắt Denie nhìn nàng say đắm, đôi mắt đó đã cuốn hút hết nghị lực của nàng. Nàng buông thả cho cuộc đời trôi trong những đam mê không thể nào thỏa mản và cuốn hút xác thân bừng bừng khát vọng. Nàng đã quên ba đứa con ngày giáng sinh trong căn nhà vắng bóng cả mẹ lẫn chạ Nàng đã không còn thấy máu mình luân lưu từ dòng sữa mẹ. Những cuốn hút yêu đương, những vòng tay âu yếm đã không còn thời gian cho những trăn trở của nàng... Một bản nhạc slow tình tứ trổi lên. Denie đứng dậy, đưa tay cho nàng nắm. Hai kẻ yêu nhau như hai con rắn lượn, uốn mình theo điệu nhạc tình du dương. Từng cốc rồi từng cốc rượu mạnh đã hâm nóng thân xác hai người. Họ muốn tìm đến với nhau trong căn phòng hạnh phúc. Đêm nay là đêm họ đã được chính thức tự do làm tình nhân mà không có luật pháp hay một ai có quyền chê khen...

Chung quanh hai người bây giờ là vô nghĩa. Chỉ còn đôi uyên ương ghì chặt nhau dìu ra khỏi phòng trà, loạng choạng mở của chiếc xe hơi sang trọng, bánh xe rít lên phóng ra đường phố...

*

Trên một điểm báo về những tai nạn lưu thông đêm giáng sinh, người ta đặc biệt chú ý đến hai bản tin vắn kề nhau. Đó là hai tai nạn uống rượu lái xe của một gia đình vừa ra toà ly dị. Hai kẻ yêu nhau thì đã vĩnh viễn có nhau trong cỏi vĩnh hằng. Ở đó có thể chỉ có tình yêu cho những kẻ chỉ biết yêu nhưng không cần có bổn phận và trách nhiệm...

... Người cha đau khổ khi mở mắt ra, màu trắng bệnh viện làm anh ngỡ ngàng hỏang hốt. Màu trắng! Tại sao là màu trắng, lúc tôi đang lái xe, màu trắng đã phủ chụp vào người tôi và lịm tắt không gian! Giờ đây lại là khung trời bênh viện!

- Ba! ba! ba đã tỉnh rồi...

Chàng quay qua, mấy đứa con đang hân hoan nhìn chàng chan hòa nước mắt. Chúng lặng lẽ đưa cho chàng xem bản tin trên báo. Những dòng chữ định mệnh như tan chảy thành những dòng nước mắt, hoà với những tiếng nấc từ ba đứa con như nhắc nhở chàng trở về bổn phận...
 
Chiếc Phong cầm trong nhà thờ cổ



Nơi tôi ở trọ gần một nhà thờ. Mỗi buổi chiều, sau khi ăn cơm xong, tôi thường ngồi ở ghế xích đu trước hiên nhà, nhìn thiên hạ đi lễ và chờ đợi tiếng chuông vang lên báo hiệu buổi lễ tối bắt đầu. Không hiểu sao tiếng chuông kia quyến rũ tôi rất nhiều. Như con chó của Pavlov đã có phản ứng ứa nước miếng mỗi khi nghe tiếng chuông rung dù không có miếng thịt trước mặt, tâm hồn tôi cũng có phản ứng khát khao mãnh liệt một đức tin mỗi khi nghe chuông nhà thờ đổ, dù tôi không phải là một tín đồ Thiên Chúa giáo.

Buổi chiều nay trời quá nóng. Bữa ăn chiều xong đã lâu. Ngồi đợi mãi vẫn chẳng thấy các con chiên đi lễ và cũng chẳng nghe tiếng chuông đổ, tôi uể oải đi ra biển hóng gió. Con đường dẫn ra biển phải đi vòng phía sau nhà thờ và ngang qua những dãy nhà lá chất đầy những chiếc rổ nhỏ được người lớn, trẻ em đua nhau đan, để bán cho các nhà thầu buôn cá hấp đem lên các tỉnh ở miền cao nguyên. Vượt qua một cồn cát đầy những cây xương rồng hoa nở đỏ ối, tôi đối diện ngay với mặt biển xanh thẩm. Lẫn trong ngọn gió mát từ ngoài khơi thổi vào, thỉnh thoảng có mùi tanh nồng của những con cá óc nóc nằm chết trên bờ gần mé nước. Tôi tiếp tục đi bộ thẳng xuống nơi có miếu thờ cá ông, nơi đó không khí trong lành hơn, vì xa khu dân chài đông đúc.

Trên bãi cát phẳng mịn có nhiều chiếc ghe được kéo lên nằm chờ con nước. Tôi đến ngồi trên một lưng ghe đen bóng, che gió châm thuốc hút, rồi nhìn chăm chăm mặt biển êm. Tôi thầm mong mình sẽ gặp con K. như nhà văn Ý Dino Buzzati đã mô tả. Theo truyền thuyết, con K. là một loài quái vật sống ở biển, nó luôn luôn sát hại kẻ nào đã lỡ nhìn thấy đó, dù cho kẻ đó có tìm mọi cách để chạy trốn. Tôi tưởng tượng con K. có đôi mắt thật lớn (tôi luôn luôn thích những đôi mắt lớn) và rồi chúng tôi sẽ im lặng nhìn nhau trong suốt đêm nay. Phải có một cái gì theo đuổi mình suốt đời dù là kẻ thù (như con K.) tôi thấy đời sống cũng đỡ tẻ nhạt.

- Chị xem ông kia tức cười không?

- Um, để người ta ngồi suy nghĩ.

Chắc tôi không quay lại nếu tôi không nghe tiếng "Um" lạ tai đó. Có hai chị em gái đang đi vòng phía sau chiếc ghe tôi đang ngồi. Tôi cười hỏi cô em nhỏ:

- Trông tôi tức cười lắm sao?

Cô nhỏ giơ tay chỉ.

- Tóc ông bay trông giống như con gái.

Cô chị cú lên đầu em nhỏ rồi nhìn tôi.

- Nó liếng lắm, xin ông đừng chấp.

Lúc này tôi mới nhận ra cô chị chính là người thường mặc áo dài trắng đi lễ ngang qua chỗ tôi ăn cơm. Em là một con chiên ngoan đạo và tôi thường nói với bạn bè : trông khuôn mặt dịu hiền của em, chắc lớn lên em phải đi tu, vì đời sống trần tục này không có chỗ nào dung chứa khuôn mặt đó mà không làm nó hư hỏng đi. Tôi hỏi cô chị:

- Chiều nay em không đi nhà thờ?

- Dạ em đã đi lễ buổi sáng. Ông thường đi chầu buổi chiều?

- Không. Tôi thường thấy em đi ngang qua nơi tôi ở trọ.

- Vậy ông là người ở xa đến đây?

- Phải.

- Nơi đây buồn quá trời, ông đến đây làm gì?

- Tôi đến để "bắt ốc hái rau" sống qua ngày.

- "Bắt ốc hái rau", nghề gì kỳ vậy?

- Tôi cũng không hiểu nữa. Một ông bạn người Huế nói việc làm của tôi như vậy và tôi cũng chỉ biết vậy. Có lẽ ông ấy muốn ám chỉ việc làm của tôi rất nhàn và chẳng kiếm được bao nhiêu tiền.

Cô bé cười:

- Làm công việc nhàn thật khỏe. Em cũng mong được đi "bắt ốc hái rau" như ông.

Tôi lắc đầu cười.

- Chẳng khỏe gì đâu. Ðói lắm!

Những nụ cười đã giúp chúng tôi nói chuyện với nhau cởi mở hơn. Cô bé hỏi tôi đã thấy thích quận lỵ nhỏ bé này chưa. Tôi nói: "Người ở đây nhiều tình nghĩa lắm !" Em nói: "Ông định "mọc rễ" luôn ở đây không ?". Tôi cười đáp: "Nếu nhà em còn đất, tôi sẵn sàng "mọc rễ" ở đó". Cô bé vội cúi đầu, tóc xõa che lấp khuôn mặt. Một lúc sau ngẩng mặt lên, em hỏi lảng sang chuyện khác.

- Khi nãy gặp ông, em thấy ông nhìn chăm chăm như muốn tìm kiếm cái gì ở biển vậy?

Tôi không biết nói với em tôi đã tìm kiếm cái gì. Tôi chẳng thể nói ra ý định muốn gặp con K. kỳ quặc. Nhưng sợ hết chuyện nói, cô bé sẽ đòi đi về, nên tôi đã bịa ra tôi đã đánh rơi một vật quí giá xuống biển và tôi tin biển sẽ đem trả lại tôi. Nghe xong câu chuyện, cô bé ngạc nhiên hỏi:

- Ông đánh rơi cái gì vậy?

Tôi đáp gọn lỏn.

- Ðức tin.

Cô bé trố mắt nhìn tôi.

- Người ta có thể tìm thấy "đức tin" ở biển?

- Chứ em nói tôi phải tìm ở đâu bây giờ?

- Theo em, ông chỉ có thể tìm thấy ở nhà thờ.

- Chắc không?

- Chắc chắn. Ông cứ đến nhà thờ rồi ông sẽ tìm thấy đức tin.

- Vậy ngay chiều mai tôi sẽ đến nhà thờ dù cho tôi là một người ngoại đạo.

- Chúa ơi ! Ông là người ngoại đạo?

- Vậy chắc tôi không thể tìm thấy đức tin ở nhà thờ phải không?

Cô bé nhíu mày suy nghĩ một lát, rồi đáp:

- Chúa đã dạy "Hãy tìm sẽ thấy". Ông cứ đến nhà thờ đi. Bây giờ trời tối rồi, em xin phép ông dẫn em nhỏ về kẻo ba má trông.

Hai chị em cô bé chậm rãi đi về phía có dốc cát cao để vào phố. Dốc cát đầy những bụi xương rồng rậm rạp che khuất cô em và tôi chỉ nhìn thấy đôi vai của cô chị nhô lên in rõ trên bầu trời tím hồng. Trước khi em xuống dốc, tôi thấy em quay lại nhìn về phía tôi. Ðôi mắt em đen, mở lớn và mặc dù cách một khoảng xa, tôi vẫn tin mình đã tìm thấy đôi mắt kia khẽ chớp. Ngay buổi chiều hôm sau tôi đi đến nhà thờ. Ðây là một nhà thờ cổ có màu vôi trắng, nhưng từ lâu lớp vôi chưa được quét lại nên biến thành màu xám nhạt. Trên gác chuông cao nhô lên từ phía sân sau, tôi thấy còn có treo một chiếc trống lớn, tôi rất ưa thích nhà thờ này bởi vẻ đơn giản và cổ kính của nó. Tôi không ưa được những nhà thờ tân tạo với kiến trúc đồ sộ và trang hoàng rắc rối. Tôi có cảm tưởng người ta khó mà tìm thấy đức tin ở một nơi đồ sộ và rắc rối như thế.

Bên trong nhà thờ không rộng lắm, chỉ vừa đủ kê hai dãy ghế dành riêng cho nam và nữ tín đồ. Trên tường có treo những bức tranh tả lại cuộc đời của Chúa, lồng trong những khung kính cũ mờ. Cha cả đang giảng kinh ở bục cao. Cha nói về sự hy sinh của Chúa để cứu vớt nhân loại và cha mong các tín đồ hay cố gắng noi theo gương sáng của ngài, để giúp con người bớt đau thương. Khi cha giảng xong, mọi người quỳ gối xuống và bắt đầu đọc kinh. Tôi không thuộc kinh, không biết làm dấu thánh, nên lẳng lặng ngồi im nhìn tượng Chúa đóng đinh trên thập giá bằng gỗ nâu bóng.

Ðiện trong nhà thờ không quá sáng. Bóng tối còn ẩn nấp ở gầm ghé và lảng vảng ở khung cửa sổ mở ra một khu vườn rộng. Chúa đã phán "Ta là ánh sáng". Nhưng cũng may, các tín đồ của Ngài không để nơi thờ phụng sáng rực, như một ngọn đèn néon cực mạnh. Người ta đã biết giữ lại bóng tối để giúp con người dễ tạo đức tin và dễ cảm thấy khát khao ánh sáng.

Bài kinh chấm dứt, các tín đồ ngồi lại ngay ngắn trên ghế. Tiếng phong cầm đột nhiên vang lên cùng lúc với tiếng đồng ca của các em gái mặc áo dài trắng. Tiếng đàn nghe thánh thót như những giọt mưa đầu mùa và đôi lúc trầm ấm như ngọn gió mùa Xuân. Chiếc phong cầm thực sự đã mê hoặc tôi và tôi quay lại nhìn nó bằng đôi mắt trìu mến.

Nó nằm đó, sát một góc nhà thờ, phía bên trái cửa ra vào, lẫn trong bóng tối, nhưng tôi vẫn nhìn thấy nó rõ ràng. Toàn thân nó tỏa ra một thứ ánh sáng kỳ lạ như hào quang ở đầu các thiên thần và có lẽ chỉ mình tôi nhìn thấy điều đó. "Hãy tìm sẽ thấy". Tôi tin rồi Chúa sẽ mặc khải cho tôi, đức tin sẽ đến với tôi từ chiếc phong cầm cũ kỹ kia chứ không phải từ lời giảng dạy của cha cả đã vang lên đều đều qua máy phóng thanh.

Tiếng phong cầm ngưng. Buổi lễ đã xong và mọi người lặng lẽ ra về. Ðiện trong nhà thờ tắt hết, chỉ còn hai bóng đèn nhỏ màu vàng đục cháy sáng ở đầu hai cây nến đặt trên bệ thờ. Tôi nghe có tiếng cửa đóng nhẹ, nhưng vẫn ngồi im trên ghế. Tự nhiên tôi linh cảm hãy kiên nhẫn đợi chờ thêm chút nữa, rồi tôi sẽ thấy điều tôi bằng khát khao tìm kiếm. Tôi nhìn chăm chăm vào tượng Chúa như bị thôi miên và miệng lẩm bẩm : "Lạy Chúa ! Ngài đã nói "Ta là ánh sáng" nhưng sao mắt Ngài lại đầy bóng tối ? Ôi ! Nếu Ngài còn nói thêm "Ta cũng là bóng tối", chắc con đã quì gối phủ phục dưới chân Ngài".

Cơn mệt mỏi ùa chiếm thân thể, tôi uể oải đứng dậy, tôi ngạc nhiên thấy vị sư huynh trẻ tuổi vẫn còn ngồi bên chiếc phong cầm. Tôi gật đầu chào anh. Anh chào lại và mỉm cười.

- Ông đã cảm thấy mệt mỏi?

Tôi e thẹn đáp.

- Vâng, nhưng anh cũng biết tôi chẳng thể ngồi một mình ở đây lâu hơn nữa.

- Không sao, nếu thích, ông vẫn có thể ngồi lại. Người coi nhà thờ đã đi nghỉ, tôi sẽ đợi ông và đóng cửa sau.

- Như thế thật phiền. Chắc anh cũng có nhiều việc cần làm sau buổi lễ.

- Tôi làm việc rất khuya. Chúng ta có thể nói chuyện với nhau được chứ?

Thấy sư huynh trẻ chuyện trò cởi mở, tôi vui vẻ nói cho anh biết tôi là một người ngoại đạo và đang đi tìm đức tin. Tôi cũng xin lỗi không biết gọi anh bằng gì, gọi "ông" như thế khó nghe quá. Anh nói: "Thôi chúng ta cứ gọi nhau bằng "anh" cho tiện". Rồi anh kể anh là người Bùi Chu đi tu từ nhỏ, di cư vào Nam sống ở Biên Hòa và ra đây ở đã được ba năm.

Con chiên ở đây rất ít nên anh đều quen mặt. Ngay khi tôi bước vào nhà thờ lúng túng tìm một chỗ ngồi, anh đã nhận ra tôi mới tới đây lần đầu và không phải là tín đồ Thiên Chúa giáo. Anh cũng đoán được tôi là người đang đi tìm đức tin. Ðức tin thật khó đến với một người ở tuổi tôi, nếu không có ai hướng dẫn.

Tôi nói, tôi muốn tự mình tìm kiếm đức tin dù có khó khăn. Tôi không thích nhờ vả bất cứ ai, ngay cả giáo lý. Tôi đã chán nghe lời giảng của các cha và cũng chán đọc những quyển sách kinh. Tôi tin một ngày nào đó Chúa sẽ nhắn nhủ tôi không phải qua một pháp lạ kỳ bí, mà có thể qua tiếng chuông nhà thờ đổ mỗi chiều hay qua tiếng đàn phong cầm mà anh đánh mỗi tối.

Vị sư huynh cười đáp:

- Anh đừng tin vào tiếng đàn của tôi. Tôi không phải là người đánh đàn giỏi.

Tôi cười nói:

- Ðánh đàn hay hoặc dở, điều đó đâu quan trọng. Ðiều quan trọng là tiếng đàn của anh đã vang lên đúng lúc. Chắc anh cũng đồng ý với tôi. Chúa không phải chỉ lựa chọn phát ngôn qua những người miệng lưỡi trôi chảy, có thể Ngài lựa chọn một người nói ngọng.

Vị sư huynh vỗ nhẹ lên chiếc phong cầm.

- Nghe anh nói, tôi nghĩ chắc anh mê chiếc đàn này lắm.

- Vâng. Bề ngoài trông có vẻ cũ kỹ nhưng thanh âm của nó nghe thật tươi mát và quyến rũ.

- Anh có thể đánh thử một bản nhạc anh thích.

Tôi lắc đầu.

- Tôi chưa đánh Harmonium lần nào.

- Không sao, anh đã nói : điều quan trọng không ở chỗ đánh đàn hay hoặc dở mà ta là đánh đúng lúc.

- Nhưng tôi không biết nhạc thánh ca.

- Anh có thể đánh một bản nhạc tình cảm.

Tôi ngạc nhiên hỏi:

- Tôi có thể đánh một bản nhạc tình cảm ở đây?

Vị sư huynh mỉm cười:

- Tại sao không ? Biết đâu anh chẳng đánh đúng lúc.

Lạy Chúa, tôi thật xúc động. Ngồi xuống ghế, tôi mân mê nắp đàn đen bóng và không dám chạm tay xuống những phím đàn trắng ngà. Ðột nhiên như bị đồng nhập, tôi đã vội vàng đánh một đoạn nhạc nào đó tôi không biết tên, tôi cũng chẳng rõ mình đánh có đúng phím nhạc không. Tôi chỉ biết tôi tay tôi lướt đi thành thạo trên những phím ngà cho đến khi đột nhiên nó chấm dứt như lúc đó mới bắt đầu. Tiếng đàn còn âm vang trong nhà thờ run rẩy như hai bàn tay tôi một lúc lâu. Tôi gục đầu xuống mặt bàn và đã nhận ra điều tôi hằng tìm kiếm.

Tôi cảm thấy có bàn tay ai đặt lên vai mình, tôi ngẩng mặt lên bắt gặp khuôn mặt nghiêm trang của sư huynh trẻ. Giọng anh nói thì thầm:

- Tôi không tin anh đã đánh được đoạn nhạc đó.

Tôi đã khóc, nên mọi việc đều trở nên sáng sủa. Tôi đáp:

- Anh nói đúng. Tôi không đánh được đoạn nhạc đó. Chính chiếc đàn tự nó đã vang lên.

- Tôi nghĩ khác. Anh đã đánh đúng lúc và có người đã giúp anh.

- Không, chẳng ai giúp tôi. Chỉ có chiếc đàn đã giúp tôi đánh lên tiếng nhạc của lòng mình.

- Anh có tin đấy là một phép lạ?

- Nếu tin vào phép lạ, anh sẽ cho là Chúa đã giúp tôi đánh đoạn nhạc kia, vậy tôi chỉ tin vào chiếc đàn.

Vị sư huynh gằn giọng:

- Anh thật cứng đầu. Suốt đời, anh sẽ chẳng bao giờ tìm thấy đức tin.

- Vâng, suốt đời tôi sẽ chẳng tìm thấy đức tin nếu tôi cứ tiếp tục tìm kiếm ở những nơi thờ phụng Chúa. Cám ơn anh đã cho tôi có dịp đánh đàn. Tôi hứa sẽ không bao giờ đến đây làm phiền anh nữa.

Tôi biết vị sư huynh đang giận nên không bắt tay chào anh. Tôi không thích làm những điệu bộ thân thiện khi lòng thân thiện chẳng còn. Tôi lặng lẽ bước ra khỏi nhà thờ. Bầu trời cao xanh biếc không một đám mây. Sao lấp lánh như những mảnh kính vỡ vụn và mặt trăng non màu vàng nhợt không chiếu xuống chút ánh sáng nào. Gió từ biển thổi vào từng đợt mát lạnh. Những chòm dương trong sân nhà thờ phát ra tiếng kêu vo vo như tiếng gió thổi những sợi tóc bay qua tai. Ở đây mười giờ đêm đã là khuya. Mọi nhà đều đóng cửa và ngay cả những quá chè bán đêm dọc lề đường cũng đã dọn dẹp hết. Ði ngang qua căn nhà nằm sát mặt đường, cách nhà thờ một khoảng ngắn, tôi nhìn thấy bóng một người đang ngồi trên bậc tam cấp. Khi tôi đến gần, người đó đứng dậy.

- Ông vừa đánh một đoạn nhạc trong nhà thờ phải không?

Vì người đó đứng trong bóng tối, nên khi nghe nói xong, tôi mới nhận ra em là cô bé, tôi đã gặp ngoài bãi biển. Tôi nói:

- Nhà em ở đây à?

- Không, đây là nhà bà dì của em.

- Sao em biết tôi đã đánh một đoạn nhạc trong nhà thờ?

- Em ở trong ban hợp ca của nhà thờ nên rất dễ nhận ra tiếng đàn của vị sư huynh, vả lại, đoạn nhạc vừa rồi không phải là thánh ca. Ông đã tìm thấy điều ông muốn tìm không?

Tôi lắc đầu, nói:

- Tôi đã sai lầm khi đi tìm điều ấy ở nhà thờ.

- Sai lầm ? Vị sư huynh cũng không giúp gì cho ông?

- Chẳng ai giúp được tôi, trừ chiếc phong cầm.

- Chiếc phong cầm? Ông không nói đùa chứ?

Tôi kể lại trường hợp đánh đàn vừa qua. Tôi cố diễn tả thật giản dị để cho cô bé hiểu. Em gật đầu tỏ vẻ đã hiểu và còn hiểu hơn tôi nữa là khác.
 
Lòng bão
Sông Biếc


Tiếng ngáy đều đều nhả ra, chậm, rền và có chút gì đó khó nhọc. Bàn tay trái vẫn lướt nhẹ, mân mê. Những cử động vô thức đầy bản năng của anh khiến Nguyên lâng lâng pha lẫn cảm giác rờn rợn.

Anh yêu cô ngay cả trong giấc ngủ hay chỉ là kẻ tham lam? Nguyên không đủ kinh nghiệm để lý giải nhưng điều đó khiến cô an lòng. Anh cần cô!

Nguyên đã quen với sự hoang dại, hoang dại từ trong suy nghĩ. Cô như đóa hoa rừng mọc lạc giữa chốn phố phường. Lẻ loi và cô độc nhưng có một sức hút kỳ lạ với đám đàn ông. Có lần anh bảo: “Đàn ông chốn này si mê em vì họ quen xài nước máy, thấy một dòng nước suối tinh khôi thì... thèm!”. “Anh cũng có cảm giác đó chứ gì?”. Anh gật đầu. Nguyên giận! Cô cứ ngỡ anh sẽ dỗ dành hay phân bua gì đó nhưng anh im lặng. Sự thẳng thắn đầy bí ẩn của anh đã khuất phục cô. Lời tỏ tình của anh cũng rất lạ, nó khiến dòng máu hoang dại, kiêu hãnh trong huyết quản cô sôi lên: “Phụ nữ thành phố yêu hay không khó mà đoán được. Còn em, mọi cảm xúc đều lồ lộ trong đáy mắt! Anh trân trọng nó!”. Cô khóc, gật đầu rồi mỉm cười. Có nghĩa là anh cảm nhận được cô! Hoang dại và cô độc!

Và cô theo anh, ngoan ngoãn như chú ngựa bướng bị chàng kỵ sĩ dũng cảm thắng cương. Đôi khi chững lại, Nguyên tự dằn vặt mình bằng ý nghĩ: Dù mang danh gì đi nữa, mình vẫn là kẻ tội đồ, không có quyền làm điều đó trong lúc này và có chết đến hai lần cũng chưa hết tội! Trong khi anh là kẻ hoàn toàn tự do. Anh có thể đến và cũng có thể ra đi bất cứ lúc nào. Không mất mát! Có chăng chỉ thêm một vết thương trong vô vàn những vết khác mà anh từng chịu đựng. Nguyên thở dài. Lồng ngực cô căng ra. Nguyên nghe rõ từng tế bào đang cựa quậy, đớn đau. Phải chi cô có thể nói được với anh điều đó. Nhưng anh vẫn ngủ!

Nguyên không dám trở mình, chỉ he hé mở mắt và len lén nhìn. Khuôn mặt anh cách cô nửa làn hơi đang căng tràn sự thỏa mãn. Khuôn mặt không có cặp mắt kính dày cộp, trông thân thiện hơn. Đã mấy lần Nguyên gỡ nhẹ cánh tay phải nhưng vòng ôm càng siết chặt. Giọng anh ngai ngái lẫn trong tiếng ngáy “Ngoan nào! Ngủ đi em!”. Cô lại nằm im và đưa mắt quan sát căn phòng, bàn tay quờ quạng trên tấm drap trải giường rin rít. Da thịt cô cũng rít và nồng nặc mùi anh.

Lần này, mặc sự chèo kéo và dỗ dành, Nguyên vùng dậy đi vào phòng tắm. Nước dội sạch mọi thứ! Dội sạch cả cảm giác tê dại cô từng có khi ở bên anh. Sự trống rỗng ùa về, ngập ngụa đến mức khó thở. Nguyên đặt tay lên ngực, thở hắt ra rồi chậm rãi ngắm mình trong gương. Cô nhìn đi rồi nhìn lại, gương mặt trong gương xa lạ. Từ mái tóc, ánh mắt, đôi gò má, nó không phải của cô. Nhất là nụ cười như lấy từ xác chết nào đó lắp vào, rệu rạc. Nguyên đưa tay dụi mắt, người đàn bà trong gương cũng dụi mắt. Cô thấy người đàn bà lạ lẫm đó cười-nụ cười lấy từ xác chết nào đó. Còn mắt cô thì cay sè, người đàn bà trong gương vẫn cười nhưng nụ cười nhòe đi ít nhiều.

Nguyên tắt đèn và trở ra trong tấm chăn choàng kín người. Anh không còn ở trên giường. Căn phòng tối om. Chiếc đèn ngủ đã tắt. Và Nguyên mơ hồ sợ trước ý nghĩ anh để cô lại một mình giữa đất nước xa lạ này thoáng qua trong đầu. Nhưng đóm lửa lập loè cuối căn phòng, nơi đặt chiếc bàn nhỏ đã cứu giúp cô. Anh đang ngồi ở đó và đốt thuốc. Nguyên bình tâm trở lại. Cô không đi về phía anh, chỉ ngồi cạnh mép giường và dõi theo mọi cử động của anh qua chút ánh sáng nhỏ bằng đầu ngón tay. Và cô linh cảm anh cũng đang quan sát mình.

Chút ánh sáng nhỏ nhoi ấy lóe lên lần cuối rồi tắt ngúm, căn phòng tối om và im ắng đến rợn ngợp. Nguyên lần về phía đầu giường, nơi đặt chiếc đèn ngủ, vật duy nhất cô nhớ được trong căn phòng lạ lẫm này. Khi ánh sáng dìu dịu tỏa ra thì anh đã ở bên cô. Anh ôm cô từ phía sau và với tay tắt đèn. Tay anh không với tới công tắc. Nguyên quay lại và thảng thốt giật mình. Anh nhận ra điều đó và đưa tay che miệng, che đi vết máu đang tứa ra trên vành môi dày và đầy.

* * *


Nguyên nằm im trong vòng tay anh, cố nghĩ về một thứ gì đó để ngăn dòng nước mắt đang chực trào ra. Anh cũng im lặng và đưa bàn tay to bè vỗ vỗ lên bờ vai cô như người bố đang ru con gái ngủ. Cử chỉ đó chẳng an ủi cô được gì. Ngược lại nó khiến cô bị tổn thương. Anh chỉ xem cô như một đứa trẻ! Cái khoảng trống sâu hun hút trong lòng anh, cô không thể nào lấp đầy được! Mà, có khác gì nhau, những dằn vặt nặng đến nghìn cân trong lòng cô khi ở bên anh cũng có vơi đi được phần nào đâu. Nó chất chứa thêm và đầy dông gió.

Dường như anh đọc được tất cả những ý nghĩ đang chảy trong đầu cô. Anh biết cô khóc ở trong phòng tắm, anh biết cô day dứt. Và anh đã cắn môi mình đến bật máu... Cuối cùng, sự im lặng mà có lẽ cả anh và cô không ai còn sức để chịu đựng bị phá vỡ.

- Nếu em cảm thấy hối hận thì hãy quay lại. Những gì chúng ta có là nghĩa tình. Anh trân trọng quyết định của em!

- Có em cuộc sống anh cũng thế, không có cũng chẳng sao. Cô đáp lí nhí và không dám nhìn anh bởi cảm xúc không hiện hữu trên nét mặt ấy. Dường như mọi thứ biến ảo khôn lường, ngay cả ánh mắt, nụ cười cũng không nói lên điều gì.

- Em còn quá trẻ, chưa hiểu hết được đâu!

Tim cô thắt lại. Nguyên muốn khóc mà không khóc được. Sao anh không bảo cô quay lại khi mọi thứ mới bắt đầu. Nguyên không trách anh, mà có trách cũng không trách được. Tim cô lại nhói lên, tâm thất và tâm nhĩ hoạt động liên hồi. Nó vận hành không phải để chuyển máu đi mà chuyên chở nỗi đau đến tận từng mô tế bào.

Nguyên quay lưng về phía anh như một phản xạ tự nhiên và nằm co rút người lại. Đêm trước cô đã gọi điện về và cho bố biết tất cả mọi chuyện, trừ mối quan hệ với anh. Bố không trách cứ, nhưng những gì ông nói cứ lảng vảng mãi trong đầu cô. Và giờ đây nó trở thành tiếng vọng lớn dần, lớn dần... “Con đã ra khỏi vòng tay bố nhưng chưa bao giờ con dùng lý trí để phán xét mọi chuyện. Con sống bằng cảm xúc và gánh hết rắc rối này đến rắc rối khác. Bố đến chết cũng không yên lòng về con đâu...”.

Anh cắt ngang dòng suy nghĩ của cô bằng cánh tay rắn chắc siết chặt.

- Đừng suy nghĩ lung tung nữa! Khó khăn lắm chúng mình mới có được một chuyến đi như thế này. Anh đền em ha! Và trận mưa hôn ồ ạt trút xuống cơ thể cô. Nguyên co quắp người lại và cố giãy giụa. Sự phản đối của cô không khiến anh dừng lại. Dường như, lúc này, đó là cách duy nhất anh thể hiện tình cảm của mình. Đôi tay và làn môi anh lướt qua mọi ngõ ngách, vẫy gọi con đàn bà trong cô. Một sự cổ xúy dữ dội và điêu luyện. Nhưng Nguyên vẫn trơ ra. Và khi nhận thấy phần cơ thể anh trong cơ thể mình, cô mở trừng mắt nhìn anh. Khuôn mặt anh dại đi... Nguyên quờ tay tìm chiếc gối và đặt lên mặt. Cô sợ anh nhìn thấy cô khóc!


* * *


Anh cười cười nhìn cô trước khi bước vào phòng tắm. Nguyên vẫn nằm trên giường, lõa lồ và trống rỗng. Mặc mọi thứ nhầy nhụa vương vãi xung quanh, cô dõi theo phía sau lưng anh. Tấm lưng phẳng, bờ vai rộng, đầu hơi ngả về phía sau. Dáng đi hiên ngang, sự hiên ngang giả tạo! Đằng sau cái vẻ ung dung tự tại kia là một tấn bi kịch không ai biết được, trừ cô! Ừ, Nguyên biết để làm gì chứ? Đồng cảm, sẻ chia hay bi kịch đời anh chồng lên bi kịch cuộc đời cô? Cuộc đời này còn bao nhiêu tấn bi hài? Tại sao cô có thể ngồi hàng giờ nghe anh nói về cuộc đời mình? Và tại sao anh lại nói những điều đó với cô?

Anh trở ra, nhanh hơn cô tưởng. Nguyên vội vàng kéo tấm chăn phủ lên người. Anh nằm xuống bên cạnh. Và cô có cảm giác anh sẽ ngủ, ngáy ngay lúc này. Nhưng anh lại cười cười, nheo mắt:

- Anh được chứ?

- Không! Điều đó không quan trọng với em! Nguyên nói nhanh như sợ cơn buồn ngủ cướp anh đi mất. Anh đặt hai tay lên bầu má, quay đầu Nguyên lại gần và nhìn sâu vào mắt cô.

- Em là một người đàn bà lạ, lạ hơn anh tưởng! Cả tiền và tình, em đều không cần!

Nguyên cười chua chát. Làm sao anh biết được cô cần gì? Những bữa cơm, những món ăn mà cô cất công chế biến cho một người đàn ông nguội dần theo những cuộc rong chơi. Cô bỏ bữa thường xuyên. Và sống vật vờ như một chiếc bóng dưới ánh hào quang hạnh phúc mà cô tự điểm tô. Bạn bè, đồng nghiệp và ngay cả người thân đều thấy nụ cười hiện hữu trên môi cô.

Trong khi những người đàn bà qua tay anh như nhau, đẹp hay xấu, đồng tiền định giá được tất, đều là sự đổi chác sòng phẳng. Không ai nợ nần, ràng buộc ai, thích và cần thì đến! Những người đàn ông ngoài luồng và những người đàn bà đi hoang! Nguyên chu miệng, cố đẩy luồng hơi đang ứ lên tận cổ để tránh một tiếng thở dài. Anh lại cười cười và nheo mắt.

- Lạ thiệt! Lúc nào anh cũng cười được! - Nguyên buột miệng

- Anh đâu có cười! Đó là động tác xua đuổi sự cô độc em ạ!

- Anh cô độc ngay cả lúc có em?

- Không phải! Nhưng đã thành thói quen!

Lần này thì Nguyên thở dài và im lặng. Cô không muốn nói gì thêm.

- Nguyên này! Anh gọi cô. Buồn cười thật, chỉ cách nhau nửa làn hơi, anh muốn nói gì cứ nói, dù cô có muốn nghe hay không thì thông tin đó cũng không thể bay đi nơi nào khác. Cô thầm nghĩ.

- Dạ! Anh cứ nói đi!

- Anh quá mệt mỏi vì lang thang. Người đàn ông đến với người đàn bà dù có thỏa mãn thân xác đến tột đỉnh vẫn chỉ là những cảm xúc thoáng qua. Điều cần thiết nhất là một chốn bình yên để trở về, được ăn những món ưa thích, đọc sách và trò chuyện...

Tai Nguyên ù đi. Cô khóc, mọi uẩn ức trong lòng đều tan thành nước! Anh cần những thứ mà cô cần! Và khi nước mắt bớt nhòe đi, Nguyên chợt nhận ra ánh đèn đã tắt tự bao giờ. Cô quờ quạng tìm và hốt hoảng gọi anh nhưng căn phòng vẫn im ắng. Tiếng cô gọi rơi vào khoảng trống mênh mang rồi vọng trở lại thành thứ âm thanh kỳ quái. Nguyên dáo dác không biết đi về hướng nào. Và trong lúc cô hoảng loạn đến mức tuyệt vọng thì cánh cửa mở ra, luồng ánh sáng chói chang tràn vào. Cô nhìn thấy anh với đôi cánh rộng lớn. Anh cắp lấy cô và bay đi...


* * *


Nguyên vùng vẫy và thức giấc, đầu đau như búa bổ, tiếng nấc nghẹn vẫn còn nghe văng vẳng đâu đó. Cô dụi mắt! Thằng bé ôm cứng lấy mẹ vì sợ hãi! Tiếng thút thít rất gần, phía ngực cô, nơi con áp mặt vào. Dưới ánh đèn ngủ xanh dịu, Nguyên nhìn thấy những giọt nước mắt trong veo lăn dài trên đôi má bầu bĩnh. Cô run rẩy đưa tay lên vuốt nhẹ gương mặt con. Thằng bé vẫn ngủ trong tiếng nấc với gương mặt của một thiên thần. Nguyên với lên phía đầu giường tìm chiếc đồng hồ. Mới 3 giờ sáng!



H Ế T​
 
Gia đình cãi cọ
Châu Diên



Ông Trường Xuân nghe tiếng dưới nhà ồn ào thì thầm nghĩ: lại thằng Bi rồi... Và ông cười thầm một mình. Thằng bé con, thằng cún con, thằng Bi...

Chắc là nó đang giở trò cười nhạt... "Cười nhạt đi nào", thằng bé nhe hàm răng tám chiếc, và nó "cười nhạt", cả nhà vỗ tay cười theo nó, như dàn đồng ca hoà theo cây gậy vàng của một nhạc trưởng bé tí hin.

Thằng Bi là cháu đích tôn của ông, nhưng là con của anh con trai thứ nhì. Anh con trai cả là kỹ sư, có biệt danh từ bé là anh Ba Ba, bây giờ đã nhớn tướng, phải thời xưa thì đã sắp lên lão, nhưng anh chàng đến giờ vẫn chưa lập gia đình. Rồi còn anh thứ ba biệt danh là Cún lớn, vì cái tật thích nuôi chó, vợ con cũng chưa có. Và giời thương cho ông Trường Xuân một cô út, ông lấy hẳn một mảnh tên mình đặt cho con gái là Xuân Lan, nhưng vợ ông thì đoán ý, xem chừng ông còn nhăm nhe một Thu Cúc nữa biết đâu...

Ông lắng nghe tiếng ồn dưới nhà. Tối nay hình như không phải mọi người đang cười vui với thằng Bi. Có tiếng gì ồn ào như cãi nhau. Ông đang định gọi to xuống dưới nhà để can thiệp, thì chuông điện thoại reo. Ông Trường Xuân nhấc ống nghe. Nhưng ông không tài nào nghe nổi người trong máy nói gì. Ông bảo người đầu dây đằng kia: "Chờ tôi tí nhé, để tôi dẹp loạn gia đình đã, ồn quá nghe không được, năm phút nữa gọi lại nhé...". Rồi ông thò đầu ra khỏi cửa phòng mình, gọi vọng xuống nhà dưới, nơi đang có loạn: "Quái đản... quái đản... gì thế chúng mày?".

Không ai trả lời ông. Chỉ thấy loáng thoáng: Con Lan... Một người nào đó quát to lên cho ông như để báo cáo vắn tắt tình hình: Con Lan lại nhắn không về ngủ nhà... Ông thở dài, quay vào. Rồi chuông cũng reo. Ông nhấc ống nghe, chậm rãi, trang trọng. Chắc là bọn nó lại hỏi ý kiến... "Bọn nó" thật. Đầu dây đằng kia: "Bác Xuân... Báo cáo bác, số báo đặc biệt đã ra...". "Ơ, giỏi lắm...".

"Chúng em làm đúng như bác chỉ đạo". "Tớ chỉ đạo cái mách gì!". "Không ạ, ý kiến bác vô cùng quan trọng. Chúng em ra đúng hẹn, theo đúng ý bác là cứ làm như năm ngoái...". "Ơ, thế là an toàn hả?"... Rồi ông đặt máy xuống. Ông thở dài. Dạo này khi chỉ có một mình, ông hay thở dài. Biết vậy, nhưng ông lại thở dài, ngồi thừ ra một lát. Rồi ông lục trong đống sổ tay đã ghi đều đặn bốn chục năm qua, nhặt bất chợt những trang ghi chép, và ông ngồi thưởng thức văn chương của chính mình...

Một thời nào đó... Ông đọc... Và ông nhớ lại...

2. Ngôi nhà được dựng lên dần dần. Nhà nằm cạnh một cái ao to của một làng ven đô thành. Mái nhà khi đó lợp bằng những lớp caosu xẻ mỏng từ lốp ôtô. Vách là bùn trộn rơm. Nhân công là bạn bè, có cả một hoạ sĩ cả đời kêu đói, có hẳn một nhà thơ cả đời say chỉ một chén nhỏ cũng bằng người ta uống một hũ, có thêm một nhân công nữa là một anh nhà văn cả đời nghĩ không ra một cách viết đúng với lòng mình... Chủ nhà cùng người vợ xăng xái nấu cơm thợ, gồm một nồi cơm to đùng và một nồi dưa chua nấu với cá, sẽ ăn kèm với rau ghém đựng trong một rổ xề. Thế rồi cũng xong cái nhà... Đêm đầu tiên chàng nằm cạnh vợ trên chiếc giường kê sát vách, ngay bên cạnh có tiếng cá quẫy mặt ao. Chàng nhỏm dậy, ghi vào sổ tay "... 1960..., ta đang nằm trên một chiếc thuyền bềnh bồng".

Đến một hồi, ngôi nhà bị coi là không xứng đáng với tình hình mới, vì nhân khẩu của gia đình đã tăng thành sáu bảy mống, ngoài hai vợ chồng và một mẹ già còn có hẳn ba cậu con trai và một cô út, hoặc cũng có thể vì chủ nhân đã tiết kiệm được vài ba chục đồng, nên có thể nghĩ đến chuyện bành trướng. Ngôi nhà được kéo dài thêm một gian nữa về phía cái ao làng, chiếm lấy cái mảnh đất mười năm qua đã hào phóng cho bà con đổ rác. Vả chăng ngôi nhà cũng to tát gì! Vẫn cái mái kéo dài thêm và vẫn lợp lốp caosu xé mỏng, vẫn cái vách bên trong được kéo dãn chiều dài ra... Bữa cơm thợ cũng vẫn như xưa, có thêm nồi ba ba nấu chuối, con ba ba đêm qua thằng con trai lớn đang học bài bên trong liếp, nghe tiếng tăm sủi, đã kịp bước ra và nhảy xuống ao làng hụp xuống lôi cu cậu lên. Thế rồi, đêm đầu tiên chàng lại nằm cạnh vợ trên chiếc giường kê sát vách, ngay bên cạnh vẫn là tiếng cá quẫy trên mặt nước ao. Chàng nhỏm dậy, tìm cuốn sổ tay mới, viết thêm ở một trang mới, "... 1970 ... ta vẫn đang nằm trên một chiếc thuyền bềnh bồng".

Rồi lại đến một hồi... Nó là cái nhà bây giờ... Tầng dưới tầng trên, mái bằng, mỗi tầng có hẳn ba gian, đủ cho các con hôm nay và mai sau... Chưa hết... Bây giờ ông Trường Xuân đã thành một nhà văn hoá có tên tuổi. Ba cuốn tiểu thuyết đã in, thì hai cuốn được giải thưởng. Lại còn vài ba bản thảo còn găm trong tủ. Cũng bõ cái công những ngày đêm vợ nằm một bên và cá quẫy dưới ao một bên.

3. Khi ở nhà dưới có tiếng ồn rần rần thì ông Trường Xuân khó chịu. Bây giờ nhà vắng lặng thì ông lại thấy lo lo bồn chồn trong ruột ra sao ấy. Ông lò dò xuống thang gác. Dưới nhà, thấy vợ và hai đứa con trai ngồi im. Anh cả Ba Ba thì đọc sách. Anh Cún lớn thì ôm con chó ngồi thu lu trên chiếc ghế đệm bọc da. Ông hỏi mọi người: "Sao không bật tivi cho vui nhà?". Bà vợ ông phán lại: "Hỏi thăm hỏi nom mà cứ như quát tháo ấy! Ngày mai đi bệnh viện khám cái tai đi. Nghễnh ngãng quá rồi đấy ông lão ạ". "Thế thằng Bi đâu?". "Lại quát!... Thằng Bi bố mẹ nó bế ra ngoài để ba mẹ con tôi còn cãi nhau". "Sao không cãi nhau tiếp đi cho vui nhà?". "Cãi chán rồi! Con giai ông lại bỏ việc ạ!". "Không thích làm thì thôi, nghỉ nhà ít lâu, có việc lại đi làm".

"Nhưng ba năm đi làm thì ba lần không thích làm rồi ông lão ạ! Làm ở đâu cũng chóng chán!". Đó là hai vợ chồng ông Trường Xuân đang bàn đến chuyện của anh cả. Bây giờ anh cả ngồi đó, đọc sách một mình, chẳng nói chẳng rằng. Ông Trường Xuân ghé mắt như thể xem con trai đọc sách gì, rồi ông nói, cố nhẹ giọng để khỏi bị phê phán là anh điếc hay quát tháo: "Lần này lại bỏ việc vì chuyện gì vậy hả con?".

"Chuyện làm việc dưới quyền đứa ngu". "Lần trước thì tham nhũng...". "Lần này thì ngu...". "Cũng phải quen với tham nhũng và ngu thôi con ạ". "Bố khuyên thêm con câu nữa đi, rồi bố lên gác ghi nhật ký".

Ông Trường Xuân cười khơ khớ một mình. Ông có một tiếng cười đôn hậu, như thể chỉ để mình cười với mình, mình ngẫm nghĩ một mình, không cần chia sẻ với ai. Một tiếng cười không buồn không vui. Một tiếng cười như để đánh dấu chấm cho việc chợt tỉnh ngộ ra một điều gì đó cho riêng mình. Nhưng cả nhà ai ai cũng nói rằng thằng Bi được nhận di truyền tiếng cười của ông. Mọi người đặt tên đó là cười nhạt, nhạt thế thôi nhưng lại làm cho mọi người vui.

Ông Trường Xuân nhìn kỹ một lần nữa xem anh cả Ba Ba đọc gì. Mắt không có kính, chịu! Chỉ thấy tập giấy dày cộp. Ông đành hỏi con trai vậy: "Con đang đọc gì thế?". Anh con trai úp tập tài liệu vào ngực, ngập ngừng một lát, rồi nói với nhà văn Trường Xuân: "Thơ con làm". "Thơ á?". Ông Trường Xuân trợn tròn mắt lên. Hoá ra con trai đầu lòng của mình lại làm thơ! Mình quan liêu thật! "Con định xuất bản à?". "Không, xuất bản làm gì? Làm thơ không phải là để xuất bản". "Ơ... có thể lắm... Thế tại sao bây giờ ta lại có thơ Đường mà đọc?". "Bọn thơ Đường nó làm thơ xong thì ghi lại như vẽ tranh. Chữ của nó đẹp như tranh. Đó là vô tình mà xuất bản. Không cố tình". "Thế bọn Tây? Cũng có xuất bản đấy chứ?". "Tây nó có truyền thống làm thơ và phổ nhạc, đó là xuất bản mồm lối du ca". "Không phải tất cả đều là nhạc sĩ...". "Thì khi đói quá đem bán thơ, và có khi chết được bạn bè vợ con đem in lấy tiền trả nợ". "Có thể lắm... Thế bố có nên in sách nữa không?". "Sao lại không? Tiểu thuyết của bố một nửa là ngọn lửa một nửa là lý lẽ. Cái đó thì cần phơi bày".

"Bố cảm ơn ý tưởng của con". "Bảy mươi lăm tuổi bố mới biết nói cảm ơn chúng con à? Bố đẻ chúng con ra, bố điên điên khùng khùng chỉ thích viết văn, bố để chúng con ăn thiếu mặc rách, bố tưởng tự nhiên mà con thành thằng Ba Ba à? Không đói thì làm sao biết chỗ nào có tăm ba ba đang sủi? Rồi những bận bố sắp vào tù nữa... bố còn nhớ không?".

Nhà văn Trường Xuân ngồi lim dim mắt. Nếu bây giờ ông đang ở trên gác, ông sẽ mở ngay nhật ký để ghi lại những ý tưởng của thằng con trai mình. Có thể ông còn bồi thêm những ý nghĩ của riêng ông nữa. Thế nhỉ? Làm thơ là lộn trái tấm lòng mình ra... Lộn ra cho ai coi?... Chả cho ai coi hết... Cho riêng mình thôi... Chỉ cho riêng mình thôi... Anh Dần đã nói gì nhỉ? A, "mưa rơi không cần phiên dịch". Mình có quyền thêm không nhỉ? Mây bay không cần biểu diễn... Tiếng gà trưa không cần dàn nhạc đệm... Và biết lấy gì minh hoạ cho những giọt nước mắt lặn vào trong lòng từng con người riêng rẽ?

Ông bỗng thấy thương anh chàng kỹ sư nhà mình. Đời nó rồi sẽ ra sao?

4. Đang mải nghĩ, ông Trường Xuân giật mình vì Cún lớn lẳng lặng đem đặt con chó vào lòng ông. Rồi anh ta ra mở chốt cửa, kéo toang hai cảnh cửa và dang rộng hai cánh tay để đón thằng Bi vào lòng. Bà nội, vợ nhà văn Trường Xuân, định tranh bế thằng bé. Nó quẫy ra ôm chặt lấy cổ chú Cún lớn. Bác cả Ba Ba vỗ hai bàn tay vào nhau để thằng Bi chú ý, rồi ra lệnh: "Cười nhạt nào!". Thằng bé quay ngoắt đầu đi, không chịu cười nhạt. Bác cả ra lệnh tiếp: "Cười nhạt đi, Cún con!". Bà nội cũng tham gia vào trò chơi buổi tối của gia đình: "Cười nhạt đi, Cún con! Cười nhạt đi rồi bà bế!". Thằng bé vẫn không chịu cười nhạt. Thế mới tức! Có phải cười nhạt là chuyện dễ đâu? Thế nhưng đến khi cả nhà đã chịu thua nó, thôi không ra lệnh cười nhạt nữa, đúng lúc đó nó lại nhe tám chiếc răng ra và cười rất nhạt "hơ hơ... hơ hơ...". Thế là cả nhà lại được dịp bò lăn ra mà thi nhau cười.

Trận cười kéo dài không lâu vì bị tiếng chuông điện thoại ngắt quãng. Chú Cún lớn nghe rồi thông báo cho cả nhà: "Con Lan...". Ông Trường Xuân ngắt lời Cún lớn: "Em có tên đàng hoàng tử tế mà anh lại cứ gọi em con nọ con kia... Gọi em là Xuân Lan!". "Vâng, con Xuân Lan...". "Em Xuân Lan" - ông Trường Xuân nhấn mạnh ra lệnh. "Gọi em cho tử tế, không cả nhà lại cãi nhau ầm lên bây giờ" - bà nội nhắc nhở. "Vâng, thì em Xuân Lan, em gọi điện về đề nghị cả nhà cho nó dẫn bạn giai về chào gia đình và cho thằng ấy nghỉ nhờ nhà ta đêm nay...".

Bây giờ thì dù có gọi đầy đủ cả tên lẫn họ lẫn đệm lẫn huý thì cũng không sao ngăn nổi chiến tranh bằng lời bùng phát. Lời lẽ như đặc quánh lại trong ngôi nhà bêtông mái bằng xây trên nền của cái ao xưa oạp oạp tiếng người vớt bèo về nuôi lợn và tiếng cá đớp nước téc téc. Anh hai, bố của thằng Bi: "Cho chúng nó về, rồi đuổi thằng kia đi, giữ con này ở nhà...". Anh cả Ba Ba: "Mày là thằng dã man mang cái vỏ bọc văn minh".

Chú Cún lớn: "Việc của chúng nó chứ việc của mình à?". Vợ anh hai, mẹ của thằng cu Bi: "Thì cứ để cô chú ấy về, xem người ngợm ra sao đã nào...". Thế là không ai chịu ai nữa, mỗi người một ý, cứ nói văng tê: "Rồi ễnh bụng ra nữa thì người ngợm ra sao cũng đành chịu à?". "Mình can thiệp sao nổi?". "Không can thiệp, nhưng phải xem nó người Hà Nội hay người nhà quê...". "Thế là can thiệp chứ còn gì nữa?". "Khối nhà quê còn hơn Hà Nội...". "Thanh niên bây giờ...". "Bây giờ cái gì?".

Phải đợi nhà văn Trường Xuân lên tiếng thì cuộc tranh cãi mới đến hồi bỏ phiếu. Ông nhà văn già giơ tay, không phải để xin có ý kiến, nhưng để ra hiệu mọi người im lặng. Cả nhà chờ ông lên tiếng. Nhưng đúng lúc đó tiếng thằng Bi khóc thét lên. Ông nhà văn già nhảy chồm một cái đã tới bên chiếc máng ở đó thằng Bi đang bò bốn chân lồm ngồm bị con chó của chú Cún lớn nghi nó tới ăn tranh. Đúng tầm mõm nó, con chó hặc luôn vào má thằng Bi. Ông Trường Xuân ôm chặt thằng Bi vào lòng, ông xé vạt áo mình đắp vào chỗ má đang chảy máu, hệt như ngày xưa khi ông làm y tá đại đội ông cũng từng phải dùng vạt áo thay băng như thế chùi máu cho bạn mình. Rồi ông dùng nước muối rửa má cho thằng cháu nội. Ông xem xét kỹ một hồi rồi nói làm cả nhà thở phào: "Không có vết răng, nó chỉ hặc vào má thằng bé thôi...". "Hặc là gì hả bố?". "Hặc là hặc chứ còn là gì nữa...". "Bố là nhà văn, rồ chữ!".

Ông Trường Xuân chỉ cười, ông không giận con cái nói hỗn với mình bao giờ. Đúng lúc ấy lại có tiếng chuông điện thoại reo. Chú Cún lớn lại nghe điện. Rồi chú đặt máy xuống, giọng trịnh trọng: "Em Xuân Lan con gái út xinh đẹp của nhà văn nổi tiếng Trường Xuân lại xin phép đêm nay không về. Báo cáo hết!". Ông Trường Xuân nói để giải tán cả nhà: "Thằng Bi với con chó đã giải quyết xong vụ gia đình cãi cọ. Cả nhà đi ngủ thôi. Bố buồn ngủ lắm rồi. Ông thơm thằng Bi một cái, ông đi ngủ đây, hết đau chưa con?". Thằng Bi không nói gì, vì nó chưa biết nói, nó chỉ đáp lại ông nội nhà văn già nổi tiếng bằng tiếng cười nhạt "hơ hơ... hơ hơ... hơ hơ...".

Kỳ này nó "hơ hơ" những ba lần.

Thế mà chẳng ai còn bụng dạ nào mà cười theo nó nữa. Nhưng bây giờ thì gia đình hết cãi cọ thật!
Cho đến tối mai...


H Ế T
 
Anh yêu em khác mọi người
Yi Ming



Em bảo anh: “Xe đạp của em hỏng rồi, em phải đi bộ nửa tiếng đồng hồ mới đến nhà ga”. Em cứ tưởng là anh sẽ tỏ ra quan tâm và nói: Sao em không đi taxi? Em có mệt không? Thế nhưng anh lại bảo: Dù sao thì đường cũng gần thôi, và em cũng có dịp để giảm béo.

Em bực mình, cảm thấy anh chẳng yêu em, chẳng quan tâm em. Hôm sau khi ngủ dậy, em thấy trên bàn có chiếc chìa khóa xe đạp của anh và thức ăn bữa sáng thịnh soạn anh đã chuẩn bị sẵn cho em. Bấy giờ em mới phát hiện: Thì ra anh yêu em, chỉ có điều anh chẳng nói gì cả - đây là cách yêu của anh, khác với mọi người.

Em bảo anh: “Em muốn đi thăm Osaka và Hà Lan để thưởng thức biển hoa tươi ở đấy”. Em cứ tưởng anh sẽ tỏ ra quan tâm và nói: Em muốn đi đâu cơ? Nào, chúng mình lên kế hoạch nhé. Dù là anh nói vài câu đãi bôi cũng được. Thế nhưng anh lại bảo: Thật vô vị, bỏ ra một núi tiền đi thăm những nơi chán ngấy ấy để làm gì nhỉ? Em tức lắm, cảm thấy anh không yêu em, không hiểu em. Về sau em thấy các tạp chí du lịch trong nhà mình dù là du lịch trong nước hay ngoài nước, cứ trang nào có giới thiệu về thưởng thức hoa, góc cuối trang ấy đều có vết gấp, trên trang ấy đều có ghi chú của anh. Lúc ấy em mới phát hiện thì ra anh vẫn yêu em, chỉ có điều anh chẳng nói gì - đây là cách yêu của anh, khác với mọi người.

Em bảo anh: “Tóc em rụng nhiều quá, thế mà bác sĩ bảo chẳng sao cả. Em thật sợ có ngày em sẽ trở thành một con hói”. Em cứ đinh ninh là anh sẽ an ủi em và nói: Tóc em trông vẫn còn khá nhiều đấy chứ. Nhưng anh lại bảo: Thế đấy, bây giờ mới biết tóc em rụng lung tung khắp nơi, sàn nhà chỗ nào cũng thấy tóc em, bẩn ơi là bẩn. Em thấy đau nhói trong lòng, nghĩ rằng anh chẳng yêu em, chẳng để ý đến em. Về sau, em thấy trên sàn nhà càng ngày càng có ít tóc rụng của mình, em nghĩ là mình hết rụng tóc rồi, vì thế cũng chẳng lo lắng chuyện em sẽ trở thành một con hói nữa. Thế nhưng mấy hôm anh đi công tác vắng, em mới thấy trên sàn nhà có nhiều tóc hơn, trong thùng rác cũng thấy có một đống tóc bọc giấy báo. Bấy giờ em mới phát hiện, thì ra anh vẫn yêu em, chỉ có điều anh chẳng nói gì - đây là cách yêu của anh, khác với mọi người.

Em bảo anh: “Hôm nay em đi chơi với mấy đứa bạn, tối nay về muộn đấy”. Cứ tưởng anh sẽ quan tâm hỏi em: Đi chơi với ai thế? Đi đường cẩn thận nhé, nhớ gọi điện về nhà, hoặc về sớm một chút... đại loại những câu như vậy. Thế nhưng anh lại bảo: Tùy em, chỉ cần em vui là tốt rồi. Em rất bực mình, cảm thấy anh chẳng yêu em, chẳng quan tâm em. Đêm hôm ấy em giận dỗi 3 giờ sáng mới về, lúc vào nhà em trông thấy nét mặt buồn ngủ bơ phờ của anh. Bấy giờ em mới phát hiện là anh vẫn yêu em, chỉ có điều anh chẳng nói gì - đây là cách yêu của anh, khác với mọi người.

Em bảo anh: “Đây là cái áo khoác em chọn cho anh, mua từ hồi đổi mùa năm ngoái, cất trong tủ đã một năm. Bây giờ mùa đông mới sắp đến, em tặng anh sự ấm áp này”. Cứ tưởng anh sẽ xúc động trả lời: Cảm ơn em yêu của anh. Đây là sự ấm áp trong một mùa và cũng là kỷ niệm khó quên trong suốt đời anh. Thế nhưng anh lại nói: Chắc là em mua trong dịp các cửa hàng đại hạ giá chứ gì? Em bực mình lắm, cảm thấy anh chẳng yêu em, chẳng hiểu em. Về sau khi đến cuối tháng 5, hết rét, mùa xuân bắt đầu trở về, em vẫn thường xuyên trông thấy anh mặc cái em gọi là áo khoác tình yêu, anh cho là áo hạ giá ấy. Em nghĩ đi nghĩ lại, đếm đi đếm lại mới kinh ngạc nhận thấy là hầu như ngày nào anh cũng mặc cái áo ấy đi làm. Bấy giờ em mới phát hiện ra là anh vẫn yêu em, chỉ có điều anh chẳng nói gì - đây là cách yêu của anh, khác với mọi người.

Em bảo anh: “Em thích ăn món mì nguội của nhà hàng ở góc phố bên kia”. Mới đầu em cứ tưởng là anh sẽ nói với em: Thế thì ngày mai chúng mình cùng đi ăn nhé! Thế nhưng anh lại bảo: Suốt ngày chỉ nghĩ chuyện ăn uống, sao em chẳng nghĩ xem hồi này mình có béo ra không. Em xót xa trong lòng, cảm thấy anh chẳng yêu em, chẳng quan tâm em. Về sau em thấy anh hay mua nhiều loại tương vừng, tương lạc, lọ này hộp nọ, pha hết bát tương này đến bát tương khác cho em ăn. Bấy giờ em mới phát hiện, thì ra anh vẫn yêu em, chỉ có điều anh chẳng nói gì - đây là cách yêu của anh, khác với mọi người.

Em bảo anh: “Em thật mừng là đã lấy anh, anh đúng là người chồng tốt nhất”. Cứ tưởng anh sẽ vui vẻ đáp: Anh cũng thấy em là người vợ tốt nhất. Thế nhưng anh lại bảo: Lấy nhau rồi chứ nếu chưa lấy thì em sẽ nghĩ thế nào nhỉ? Em tức lắm, cảm thấy anh chẳng yêu em, chẳng hiểu em. Về sau em vô tình phát hiện thấy tối nào anh cũng lấy giấy vệ sinh lau chùi tấm ảnh cưới của chúng mình để ở đầu giường, lau xong rồi ngẩn người ra mỉm cười ngắm tấm ảnh ấy khá lâu. Bấy giờ em mới phát hiện thì ra anh vẫn yêu em, chỉ có điều anh chẳng nói gì - đây là cách yêu của anh, khác với mọi người.

Em nghĩ cuối cùng em đã hiểu ra, dưới vẻ ngoài không quan tâm của anh có một trái tim khó diễn tả bằng lời nói, một trái tim yêu em. Thì ra anh vẫn yêu em, chỉ có điều anh chẳng nói gì - đây là cách yêu của anh, khác với mọi người.

Có người nói, khi bạn ra đời thì đã có một mối nhân duyên thiên định sinh ra dành riêng cho bạn. Song biển người mênh mông, thế giới rộng bao la, đời người đau khổ mà ngắn ngủi, làm thế nào mới có thể tìm được mối nhân duyên thiên định dành riêng cho mình ấy? Làm cách nào để có thể tìm được người bạn đời hoàn mỹ đó? Con người hiện đại chẳng bao giờ có thể cố chờ đến cùng mối nhân duyên trời cho ấy, chẳng thể dùng tuổi thanh xuân chóng tàn lụi và tâm trạng lo lắng để nín thở chờ đợi, và thế là anh (chị) thường rất miễn cưỡng chấp nhận chị (anh) theo gió mà bay đến với mình, nhưng sau đó lại luôn luôn so sánh người ấy với người bạn đời hoàn mỹ để rồi thất vọng hết lần này đến lần khác. Họ không biết rằng, thực ra hiểu được cách quý trọng con người ở bên mình và mình đã sở hữu - đấy mới là niềm hạnh phúc lớn nhất, tình yêu chân thật nhất.

Nếu có một tình cảm bền vững lâu dài và một tình cảm vẻ ngoài hào nhoáng nhưng lại chóng phai tàn thì bạn muốn lựa chọn tình cảm nào? Thế gian này có vô vàn đàn ông xuất sắc và đàn bà xinh đẹp, song tình cảm thật sự thuộc về bạn lại chỉ có một mà thôi. Dù thế nào đi nữa cũng chớ có vì ánh mắt của người khác mà thay lòng đổi dạ, bỏ mất tình yêu chân thành. Nhất thiết không được sống trong ánh mắt của kẻ khác mà đánh mất chính mình. Cũng mãi mãi đừng có tham lam quá. Tình yêu không phải là giấc mơ, như một truyện hài kể: Nếu ai đó cho rằng trên thế gian này có tình yêu mười phân vẹn mười thì người ấy chẳng phải là nhà thơ thì cũng là kẻ ngớ ngẩn. Cho nên chúng ta hãy để tâm gìn giữ, chăm sóc tình yêu bình thường không có gì là ghê gớm của mình.

Các nhà triết học nói: Tình yêu tức là khi bạn biết người ấy không phải là người bạn sùng bái, hơn nữa rõ ràng còn có các khiếm khuyết này nọ, nhưng bạn vẫn cứ chọn người ấy, không vì các khiếm khuyết đó mà chối bỏ toàn bộ con người ấy. Đúng thế, không có một người yêu nào mười phân vẹn mười cả, cũng không có tình cảm nào không có chút tì vết, đó chính là người yêu và tình yêu đích thực. Đến bao giờ ta mới có thể bình tâm suy ngẫm về những lời nói ấy, nghĩ một chút về sự nực cười và ngây thơ của ta năm nào cố công theo đuổi một người tình hoàn mỹ?

Nếu có một người mà trong mắt bạn, người ấy không có khiếm khuyết gì hết, bạn kính sợ người đó nhưng lại khát khao muốn được gần gũi người đó, tình cảm ấy không gọi là “tình yêu” mà gọi là “sùng bái”. Khi đã sùng bái thì phải tạo ra một thần tượng, giống như loại tô-tem, một thứ không máu không thịt. Tình yêu không cần thứ đó. Tình yêu là cái rành rành trước mắt có thể lấy tay chạm vào, dùng con tim để lĩnh hội.

Yêu là khi biết rõ ràng người ấy ăn mặc luộm thuộm mà bạn vẫn bằng lòng cùng người đó xuất hiện trước đám đông; là khi bạn coi khinh nghề buôn bán mà người ấy lại vẫn cứ là một tiểu thương đáng yêu của bạn; là khi bạn vốn có tính quá ưa sạch sẽ mà lại cam chịu rửa hộp cơm nhầy nhụa mỡ hoặc giặt đôi giày thể thao hôi hám của người ấy.

“Anh (em) không phải là người xuất sắc nhất, nhưng em (anh) chỉ yêu một mình anh (em) mà thôi!”. Khi đọc câu ấy, ta có cảm giác như mường tượng thấy một đôi bạn đời từng trải qua muôn vàn sóng gió của cuộc sống đang nắm tay nhau thong thả dạo bước dưới ánh nắng ấm áp, nét mặt tràn trề hạnh phúc ôn lại quãng đời đã qua. Chuyện cũ đã xa rồi mà kỷ niệm xưa vẫn còn đấy mãi mãi...

Nguyễn Hải Hoành dịch



H Ế T
 
Đêm Ấy Hình Như Mưa


Hạ Thy

Đêm Ấy Hình Như Mưa



Mưa . Lại mưa rồi . Sao tôi chán những giọt tơ trời này kinh khủng. Nó làm cho tôi thấy nhớ quê, nhớ bạn cũ trường xưa và nhớ nhất là từ sáng tới giờ chưa có gì vào bu.ng. Cái dạ dày khó thương của tôi èo uột lên tiếng. Phải chi nó đòi cao lương mỹ vị gì cho cam, chỉ cần một chén cơm nguội là đủ, nhưng cả như vậy cũng là một ảo vọng mất thôi . Thùng gạo của tôi đã vét tới hạt cuối cùng từ tuần trước mà túi tôi bây giờ còn đúng hai trăm đồng, nói theo ngôn ngữ sinh viên là không đủ để gởi xe chứ đừng nói tới ăn. Chán thật! Cũng may vừa lúc đó thằng Phương bước vào: "Ăn sáng, anh!".
Cái tô mì bốc khói sao mà thơm thế! Lúc ấy mà có thằng bạn ngớ ngẩn hỏi tôi mùi gì quyến rũ nhất, tôi chả cần suy nghĩ lâu la gì để đáp: mùi mì ăn liền như một tay quảng cáo thượng thă.ng. Thằng Phương nhìn tôi dò hỏi, có lẽ nó ngại nói khi thấy tôi trợn mắt "tọng" mì. Tôi ngồm ngoàm: "Có gì nói đi - trừ mượn tiền - tao cháy túi rồi". Nó gãi gãi đầu: "Dạ không. Em mới lên, còn nhiều, em có chuyện này muốn nói với anh, mình đi uống cà phê đi". Cái thằng! Sang trọng sớm. Mới năm nhất, lại là con một của nhà khá giả, chắc chắn nó không kẹt "đạn" như tôi, thì đi .

Nó đưa tay khuyấy đều ly sữa nóng, ngón tay run run. Chà chắc có chuyện gì ghê gớm lắm. Thôi kệ, ăn nó lại có ly cà phê, tôi bình tĩnh hẳn: "Chuyện gì vậy nhóc".

Nó cúi mặt trả lời: "Phượng giận em rồi". Suýt chút nữa, nếu tôi không ghìm được, có lẽ tôi đã cười phá lên. Vậy mà nhìn bộ mặt thảm hại của nó tôi tưởng rằng trời sắp sập hay chí ít cũng là một trận đói meo kéo dài cả tuần. Có lẽ trông tôi lúc ấy khôi hài quá nên nó vội vàng cảnh tỉnh: "Phượng là cô bạn thân duy nhất của em, mất Phượng em không biết mình sẽ học hành ra sao nữa". Chuyện lớn rồi đây . Tôi biết những đứa con trai một khi đặt người con gái xa lạ nào đó vào động cơ học tập của cả đời mình thì dứt khoát thằng đó phải đau khổ lắm, trăm lần như một không sai, chuyện này tôi có kinh nghiệm xương máu rồi . Tôi từ tốn:

"Chuyện gì bình tĩnh kể tao nghe ..." Và nó nói, đại khái là hai đứa quen nhau từ năm lớp mười, rất thân, cùng hẹn nhau lên Ddại học sư phạm. Tốt nghiệp, cả hai đứa cùng thi, nó đỗ hai trường - Sư Phạm và Kinh Tế. Phượng đậu Sư Phạm, tưởng vậy là rồi, ai ngờ mẹ nó bắt phải học Kinh Tế. Phượng nghĩ nó thất hứa nên "cấm vận" tình cảm không cho nó gặp mặt.

Tôi cười xòa: "Chuyện có vậy thôi à? Sao em không viết thư cho Phượng?".
- "Em viết rồi mà không dám đưa . Em định nhờ anh..." Thế đấy, của ăn là của lo, của cho là của nợ, lỡ ăn của nó rồi lẽ nào tôi làm ngơ . Thôi thì làm kẻ đưa thư một lần cho biết...
Tôi đứng trước dãy nhà cho thuê nằm gần trường Ddại Học Sư Phạm, giàn tóc tiên đây rồi, tôi gọi to: "Phòng có ai tên Phượng ra nhận thư ..." Một chiếc áo vàng chạy ra .

Trời ơi! Sao lại là em?...
(Cổng trường Nguyễn Ddình Chiểu, ngày đầu thu, một chiếc áo dài tha thướt cúi mặt đi bên gã con trai khù khờ mang cặp kính dày cộp, tôi và em của thời học trò đấy - Ngày tôi mơ biết bao nhiêu mộng đẹp. Ai cũng chọc: "Trai tài gái sắc đấy" và tôi hãnh diện về điều đó vô cùng. Ddi bên em tôi thực sự mang linh hồn một gã con trai, yêu và được yêu .)

Tôi được mời vào trong phòng để thực hiện vai trò "sứ giả" của mình. Thì ra Phượng cũng nương vào em như Phương nương vào tôi . Có lẽ em cũng nghe Phượng kể và khuyên Phượng rất nhiều nên sứ mạng của tôi trở nên thừa thãi . Tôi ngồi đó lặng im nhìn em. Hai năm trôi qua, em có vẻ đã trưởng thành, những lời nói có vẻ chững chạc hơn, không như ngày xưa . Nhưng hình như tôi vẫn thấy trong em cô bé của ngày nào, ngày cuối cùng của tình yêu .

(Ddêm mùa thu trời cao, vầng trăng nhạt nhòa rơi trên mắt và trên tóc. Chia tay, chia tay thôi ...mùa hạ không còn ở lại . Chia tay thôi, đôi mắt em không còn đợi chờ. Sao tôi có thể ích kỷ tìm trong đó nỗi đau vô bờ, sao tôi hoài công níu kéo một tình yêu không còn hy vo.ng. Em là một vầng trăng huyễn hoặc, chỉ được nhìn từ phía xa xa ...Không tại ai cả khi tan vỡ mối tình đầu, chúng ta đều yêu như nhau, nhớ như nhau và ...vu.ng dại như nhau . Chúng ta dễ dàng đánh mất khối thủy tinh lóng lánh màu sắc đó trong bất kỳ trường hợp nào, bởi vì chúng ta còn quá trẻ. Hạnh phúc đích thực lúc ấy nằm đâu đó trong một cõi xa vời, ảo giác và vĩnh hằng mà nỗi đau là tận cùng của cái đẹp. Không phải tại trời, không phải tại ai, chỉ tại tôi và em cách nhau một con sông mà những chuyến đò quốc doanh thường làm ta trễ hẹn. Giá mà như bây giờ năm phút lại có một chuyến đò sang thì có lẽ chúng mình vẫn còn yêu nhau . Biết đâu ...Mà thôi có nuối tiếc để làm gì. Em đã đi về và tôi cũng đã không gọi . Những kiêu ngạo của một thời đã đánh vòng nỗi đau . Ngoài trời, đêm ấy hình như mưa ...phải không em...)

Ddã đến lúc tôi phải ra về. Suốt khoảng thời gian ấy, tôi và em chỉ nói về chuyện của chúng nó, những đứa mà bây giờ chúng ta cho rằng nó còn quá bé. Có thể chúng ta vì một chút nông nổi mà đánh mất tình cảm đẹp đẽ ban đầu . Chúng ta vô tình trở thành những người đi trước, những kẻ có thừa kinh nghiệm mà khuyên giải chúng.

Tôi biết đêm nay, thằng Phương sẽ cười, sẽ nói và tôi vì thế cũng không bị cơn đói hành hạ nữa . Nhưng tôi cũng biết rằng tôi chưa kịp quên em, nhưng cũng chưa đủ kinh nghiệm để có thể nói cho em nghe tôi đã nhớ em như thế nào, tôi đã viết bao nhiêu bài thơ về những đêm trăng thuở chúng ta còn có nhau mà em thì cũng không đủ bản lĩnh để tưởng tượng ra điều đó. Một chân lý hết sức vô lý. Và chúng ta vẫn sẽ là: "Một người về vực sâu, một người về đỉnh cao ..." Cho ngàn đời khao khát... "như bờ xa nước cạn, đã chìm vào cơn mưa ...

Hạ Thy (Mỹ Tho)
 
Status
Không mở trả lời sau này.
Back
Top