• Hiện tại trang web đang trong quá hình chuyển đổi và tái cấu trúc lại chuyên mục nên có thể một vài chức năng chưa hoàn thiện, một số bài viết và chuyên mục sẽ thay đổi. Nếu sự thay đổi này làm bạn phiền lòng, mong bạn thông cảm. Chúng tôi luôn hoan nghênh mọi ý kiến đóng góp để chúng tôi hoàn thiện và phát triển. Cảm ơn

1001 CÂU CHUYỆN CẢM ĐỘNG!!!

Status
Không mở trả lời sau này.
Nguyễn Thành Tài

Tình Yêu



1. Hè sắp qua chóng vánh, tôi lao vào cuộc sôi kinh nấu sử một còn một mất, và tôi quen Thủy chớp nhoáng sau một tai nạn. Không biết em mơ màng chuyện gì mà vừa đi vừa cười khúc khích quên cả lối về. Tay lái của tôi thuộc loại "siêu" nên không từ chối ...đu.ng em, chỉ lúc đó em mới sực tỉnh thì bộ "Jeans" đã in nguyên vệt bánh xe . Em té xuống thảm cỏ, không sao! Còn tôi thì thấy ...36 ông sao xuất hiện cùng cả đàn đom đóm dù trời chưa tối . Tôi va vào một gốc cây và ngã lăn kềnh cùng chiếc xe cà tàng cà tật, đầu đau ê ẩm! Em hốt hoảng nhìn vết máu loang đỏ cánh tay tôi, xé vội chiếc khăn tay băng lại vết thương. Bắt gặp ánh mắt dịu êm của em, tôi nở nụ cười (méo xệch) và chợt kết luân: em dễ thương nhất trên đời! Em lo sợ hỏi: "Anh có sao không?" Tôi không trả lời vì sắp chết đuối trong đôi mắt thăm thẳm ấy . Em tên Thủy . Còn tôi không biết có họ hàng gì với bà Hỏa không, nhưng tôi vẫn cảm nhận hình như tim tôi đang ...bắt chước nhịp đập của tim em.
Và cũng chớp nhoáng tôi xa em, chỉ mới kịp thân nên tình cảm thật quyến luyến. Thủy tiễn tôi trong nỗi ngậm ngùi, day dứt. Lần đầu tiên tôi lau nước mắt một người con gái . Cũng là lần đầu tiên tôi đặt chân đến chốn đô thành, xa lạ với cái rộn rịp của nhịp sống, xa lạ với cái trơ trụi của những dãy phố, bỏ sau lưng những cánh đồng nên thơ, những vườn cây trĩu quả, những dòng kênh nước ngọt bốn mùa . Tôi tập tành học thói quen chấp nhận tất cả bởi vì tôi lên đây là để bắt đầu tương lai sự nghiệp trong môi trường sư phạm.

Nhà nghèo nên tôi chấp nhận một ngành hợp khả năng gia đình, chấp nhận xa cha mẹ, xa hương vị tình đầu em mang đến tôi . Ddêm. Trăn trở, tôi nhớ em da diết, nhớ tới kỷ niệm lần đầu quen nhau vừa mãnh liệt, vừa êm đềm như những giề lục bình trôi xa . Tôi luôn chập chờn trong giấc mơ về quê nhà dù giờ đây, tôi đang sống êm ấm trong nhà một người bà con tốt bu.ng.

2. Tôi quen Dung trong cái lớp nhốn nháo, xa lạ bởi Dung cũng ...nhốn nháo và xa lạ với cái xa lạ ấy . Dung rất năng động và cũng rất trầm tĩnh, Dung chịu chơi như con trai và mềm mỏng trên cả đám con gái . Nhỏ thường chê tôi "Ông quê mùa như con chó sói và thông minh chẳng thua con cù lần", tôi không hiểu nhỏ muốn khen hay ...xỏ xiên. Lần khác nhỏ bảo tôi một câu mà ngẫm ra cũng rất ...triết lý "Nhìn ông biết có trăm người thương nhưng chẳng ai yêu ông vì họ chê ông không thông minh và chẳng chịu khờ!" Riết rồi tôi cũng quen cái thứ ngôn ngữ "ba rọi" của một cô nhỏ tóc "demi garcon".

Ddêm tôi vẫn còn những nỗi niềm nhưng hình ảnh Dung ban ngày đã khỏa lấp bớt. Trong giấc mơ tôi lúc này có thêm dáng dấp một cô nhỏ ...con trai .

3. Thời gian cuốn theo gió lốc, đã năm trong khung trời đại học. Tôi không hay mình thân thiết với cái thành phố này hồi nào, không hay tình bạn của tôi và Dung đã gắn bó suốt thời gian dài . Giờ đến lúc tốt nghiệp ra trường - đồng nghĩa với chia tay . Tôi chưa bao giờ thấy Dung lạ lùng như bây giờ, Dung cứng rắn hơn bao giờ nhưng ánh mắt yếu mềm đầy nữ tính, giọng nói sỏi đời bảo tôi "Tôi có chuyện quan trọng cả đời người muốn... thổ lộ với ông đây". Tôi bối rối, vò đầu gãi tai hồi hộp. "Tôi có yêu một người, người đó là ...ông!" Như bị một cú "đấm" vào lồng ngực khiến tôi khó thở và câm lă.ng. "Ông trả lời đi! Ông có yêu tôi không?" Tôi rất tiếc cho Dung là tôi đâu có giống nhỏ, tình cảm tôi sâu kín dù yêu hay không cũng chẳng bao giờ dám nói trắng trợn ra như nhỏ.

Tôi lẩn trốn Dung những ngày sau đó, cho đến lúc tôi trở về nhà, đôi mắt Dung vẫn chập chờn vẻ hồi hộp, chờ đợi, khắc khoải và lo âu khác thường... nhỏ vẫn chưa nghĩ ra câu trả lời của tôi!

Trên chuyến xe trở về, gió ru tôi vào mô.ng. Tôi đặt Dung và em cạnh nhau để so sánh: Dung ngông nghênh quá, con trai quá, còn em yếu đuối đầy nữ tính, tóc dài mềm mại ... Tôi lại mơ về em, bao nhiêu năm da diết nhớ, bây giờ khoảng cách về thời gian và không gian giữa tôi và em đang khép lại . Gió nhẹ ru tôi một giấc đầy mộng mơ .

Cái tin em đã lấy chồng như cơn lốc xoáy mạnh và lồng ngực tôi, nghẹt thở. Những phiến băng ảo mộng bị đập tan bởi ánh nắng chói chang, tôi chơi vơi nghe dòng chảy cuồn cuộn không cội nguồn, thế là dòng nước xưa đã đổ bến. Tôi trách mình về muộn, em đâu có thề chờ tôi năm bốn dằng dặc chỉ với những kỷ niệm dễ phai thuở ấy ? Trái tim em đã bị "gỉ" mất rồi!

4. Thư Dung đến đổ một liều thần dược cứu rỗi hồn tôi . Vẫn cái ngữ điệu ba chụp ba giựt thuở nào "Ông còn nợ tôi một món nợ lớn. Sẽ có ngày đòi!" Lại nghĩ nhiều đến Dung, với đầy ắp những kỷ niệm vui vẻ, tinh nghịch và gần gũi, nhớ đến cái tình yêu "điện xẹt" của nhỏ, lại suy tư ...cái ngày đòi nợ - vay trả, trả vay đã đến, luôn luôn là vậy, tim tôi đang treo trên bờ vực thì Dung xuất hiện và dùng phép màu cứu rỗi . Vẫn cái dáng dấp ngang phè như con trai với một trái tim nữ nhi chung thủy sắt đá, Dung trước mặt tôi đấy - hiên ngang đòi nợ: "Ông còn thiếu một câu trả lời, bây giờ thì ông có thể trả ...cả vốn luôn được chứ?". Tôi cũng bắt chước bộ dạng của nhỏ, đáp "Ddược! Tôi nói đây . Vì ta yêu mà người không yêu . Rồi vì người yêu mà ta không yêu, nhưng ta lại có thể ...vì người!" Nhỏ ngớ người ra nhìn tôi "Cái gì mà yêu dữ dằn thế? Ông làm tôi muốn nổ đom đóm... Liệu hồn ông à nha!" Trong mắt nhỏ, tôi đọc được dấu hỏi to như cái móc cần cẩu .

Dung xin về quê tôi dạy theo diện xung phong xóa mù chữ. Ôi! tôi đã có câu trả vốn lẫn trả lời, nhưng khó thốt quá, tôi vẫn lấp lửng: "Thời gian sẽ trả lời, Dung ạ!".

Nguyễn Thành Tài
(21D4 -CÐSP An Giang
 
---Ngôi Biệt Thự ----


--chieuha--


Ngôi biệt thự be bé , nằm ngay giữa góc phố có con đường nhỏ dẫn vào trong . Hai bên đường là những bông hoa dại trắng xoá nở khắp . Cứ mỗi độ gió heo may thổi qua là những cánh hoa mỏng manh rơi vãi xuống những bụi cỏ ..
Ngôi nhà đó trang trí theo kiểu cổ xưa , tường ốp đá , thỉnh thoảng lại có những dây leo quấn quít suốt mặt tường . Mái ngói không biết là đã bao lâu rồi , nhưng hình như những nét rêu xanh vẫn ánh lên trong ánh nắng mặt trời ..
Mưa tháng bảy heo hút , nhưng nặng nề, cô đơn và lặng lẽ .Gió cứ thổi từng cơn, từng cơn làm cho những bông hoa tóc tiên khẽ lung lay nhè nhẹ .
Cô gái có mái tóc màu sương đêm đang cắt những bông hồng cho vào giỏ , cô nhẹ nhàng hơn cả hơi thở của hoa .. Còn cơn gió thì cứ hất tung mái tóc ..Một chiếc gai nhỏ đâm vào tay, máu chảy rớt xuống cánh hoa rồi tự dưng tan biến đi ...tựa hồ như có ai đánh cắp mất .

Cô gái vừa đi vưà hát , cái giọng điệu trong trẻo lan khắp ngôi biệt thự nhỏ , miên man vào những vách tường đá rồi dội ra làm cho thanh âm đó trở nên xa xăm ...

- Không có anh trông coi chắc chỗ này biến thành nơi cho quạ ở quá !

Chàng thanh niên mỉm cười với cô rồi tiếp tục cắt tiả những buị hoa . Không biết tự bao giờ anh đến đây chăm sóc mảnh vườn nho nhỏ này. Chỉ nhớ là từ ngày anh đến , nắng hiền hoà mới ghé thăm ngôi biệt thự và nụ cười cũng đi theo cô gái nhiêù hơn ..

- Trời sắp mưa đấy , anh vô nhà ngồi chơi đi !
Muì hoa nhài thoang thoảng vương khắp gian nhà , cô lấy thêm ít cuỉ bỏ vào cái lò sưởi .
- Tôi thích cảm giác ấm cúng vào những khi mưa !
Anh lại cười, cầm vội tách cacao nóng cô đưa , lặng yên nghe tiếng lửa tí tách cháy ...
Thời gian dường như ngừng lại trong gian nhà nhỏ, không có một tiếng động ngoại trừ tiếng mưa rơi lộp độp trên mái ngói , và tiếng lưả reo ...Còn hương thơm thì vẫn len lỏi bồng bềnh trên mặt anh ...
Chắc là phải lâu lắm ...

Anh thích ngắm khuôn mặt cô gái , cũng như thích ngắm những ánh sao trên trời , lúc ẩn lúc hiện , và chỉ có màn đêm mới làm cho những vì sao ấy sáng lên một cách lạ kì .

Mưa ngoài trời vẫn chưa dứt , cứ âm ỉ và tỉ tê , âm thầm đang kể câu chuyện nghìn lẽ một đêm , nơi đó thời gian cũng là bất tận ...


~*~





Trời tháng tám , nắng oà vào khung cửa sổ , qua những mảnh kiếng trắng, chạy dài thành dãy cầu vồng nhiều màu sắc .
Hoa violet nở đầy hai bên con đường nhỏ dẫn vào ngôi biệt thự . Bức tường đá giờ đã phủ đầy những dây leo . Gió vẫn lồng lộng nơi khu vườn, thổi bay những chiếc lá , chao đảo trong không trung ....
Cái lò sưởi trong gian phòng đó đã tắt ngấm tự bao giờ , muì hoa violet theo gió bay vào mang theo hơi ẩm của không gian chưa kịp nắng .

- Mày có nghe tiếng ai hát không ?
- Tao không biết ! Xung quanh đây đâu có ai !
- Ừ, chắc tao nghe nhầm ! Ngôi biệt thự đẹp quá hả !
- Tiếc là ở đấy đâu có ai sống mấy năm qua đâu ?
- Sao vậy ?
- Nghe đồn ngôi nhà này bỏ hoang lâu rồi ........

**
Cô gái nhìn hai chàng trai, rồi lặng lẽ viết tiếp câu chuyện này trong gian phòng có cửa sổ sáng trắng .
 
Mùa Hạ Không Bình Yên - Huỳnh Diễm Diễm


Ngày cuối tuần, năm giờ chính trị trôi qua một cách chậm chạp, mêt mỏi . Cái oi bức, cái nồng nồng của khí trời cứ quấn chặt lấy khoảng không vốn nhỏ bé, được bao bọc bởi bốn bức tường và thông ra ngoài qua tiếng thở dài, lại những tiếng ve kêu inh ỏi bên tai . Có đứa thì thào: "Ve bắt đầu than vãn rồi đấy!" Một cảm giác chẳng định hình ập đến. Nao nao buồn, nao nao nhớ một cái gì không rõ... Ừ, thì ba năm rồi còn gì. Ba năm kể từ ngày chia tay dưới mái trường phổ thông trung học. Ba năm rát bỏng nỗi nhớ thương, ba năm quay tròn theo quy luật của thời gian và chiều dài của nỗi nhớ. Ddôi lúc tưởng chừng như lãng quên vồn vã nhưng tất cả vẫn còn đó, hiển hiện như vầng trăng mỗi tháng lại một lần tròn...
Anh chàng lớp trưởng ghé tai nó, nói nhỏ: "Này, nghĩ gì mà sượng người ra thế. Bài hôm nay khó lắm đấy!" Nó quay lại định thuyết cho một hồi, nhưng nhìn vẻ mặt "hình sự" được che đậy dước cặp kính cận ngồi bên, nó lại thôi mà mỉm cười ... Một nụ cười không trọn vẹn...

Bên ngoài ve vẫn thi nhau réo rắt. Thoáng một cánh phượng vừa nở. Ắt hẳn nó sẽ tung ra cái sắc đỏ chói chang để đốt cháy những con người như nó. Chẳng chịu được nữa rồi . Nó xin phép cô bước ra ngoài, dạo lòng vòng trên những con đường quen thuộc trong công viên. Thế là, lại một lần nó cúp học, nhưng có ngồi đó cũng chẳng vào được chữ nào . Cố gắng lắm - vô ích thôi . Con người ta đôi lúc nghĩ cũng buồn cười . Có những điều biết rằng không thể thực hiện được, ấy thế mà vẫn cứ đâm đầu vào ...

Vừa nghĩ, nó vừa lang thang cho đến khi nhìn thấy một gốc phượng già đang nằm trơ mình nơi phía góc sân. Nó tìm lại và bắt gặp trên thân cây những dòng tên chồng chất. Cơ hồ như bao con người đi qua để lại những dấu vết cho đời . Nó lấy tay sờ soạng rồi lẩm bẩm: "Ngày xưa, mình cũng thế này!" Rồi ngồi xuống, mắt để vào một khoảng không vô đi.nh. Những dòng chữ trên cây phượng ngày xưa hiển hiện, thương quá đi thôi ... Bốn cái tên không sắp đặt, ấy thế mà cùng chung một chữ đầu là D. Gặp nhau, chơi với nhau rồi thân nhau tự bao giờ chẳng rõ. Bốn đứa lúc nào cũng bảo: "Tụi mình đều là nửa vầng trăng, cố gắng đi tìm nửa phần còn lại để thành một vầng trăng tròn. Rồi cười đùa, chọc ghẹo, vô tư và hồn nhiên lắm lắm.

Thoáng chợt, nó tìm về ngày xưa lúc nào chẳng hay . Người đầu tiên nó nghĩ đến lại là Diệu cô bạn nhỏ nhất nhóm nhưng có vẻ thông minh và hiền lành. Diệu ít nói, chăm học lại ngoan ngoãn. Vì thế những cái đuôi cứ loằng ngoằng tiếp nối - không biết đến một ngày nào đó, họ có phải hóa đá vì cái duyên ngầm vốn có của cô bé này không. Diệu thường hay nói: "Cái gì tồn tại trong cuộc đời cũng bị thời gian làm phai mờ". Nó phản đối một cách quyết liệt và cho rằng: "Cái gì thì có thể chứ tình bạn của tụi mình thì không thể". Chẳng ai có ý kiến gì. "Ừ, thì cứ để thời gian trả lời đi". Duyên xen vào . Duyên lúc nào cũng thế - thẳng thắn, mạnh mẽ cái gì "chướng tai gai mắt là lên tiếng, không sơ mất lòng ai .

Nó đã một hồi để rồi quên. Nhờ có thế mà không ai giận Duyên lâu được. Cô bạn nổi tiếng quậy nhất trường này đã nhiều phen làm nó điêu đứng. Nhưng rồi cái gì cũng qua, nó chẳng trách móc gì được. Duyên cho rằng: cuộc sống này phù phiếm, vô tâm đến chóng mặt. Mọi cái đều giả tạo đến đáng sơ.. Nói cho lắm vậy thôi chứ thật ra, Duyên không nghĩ gì cả. Chẳng qua đọc quá nhiều truyện ngắn Nam Cao nên bị "ảnh hưởng" chút xíu vậy mà. Duyên thường có những câu nói thông minh, hóm hỉnh đột xuất. Vì thế lần đi chơi nào có Duyên là sôi động hẳn lên.

Bù lại cho Duyên, có Dung, cô bạn lúc nào cũng suy nghĩ. Trong bọn, Dung có vẻ chín chắn hơn cả. Vì thế mọi chuyện trong nhóm đều nhường phần cho Dung quyết định - Dung đảm đang mọi việc trong gia đình, từ việc lớn cho đến việc nhỏ nên con người có vẻ già dặn và lớn hẳn ra . Nó thường hay trêu Dung là "bà cụ non" nhưng Dung chẳng giận nó bao giờ. Có lần Dung bảo cả bọn: "Tụi mình chơi thân quá, không biết sau này có hóa ra thù không đây ?". Rồi lại trầm tư . Sao nụ cười của Dung khó đến vậy . Ấy thế mà, anh chàng Cường vẫn cứ lẽo đẽo theo sau, trông thật tội .

Phần nó - lỡ mang cái tên hơi kêu: Kiều Diễm nhưng con người thì chẳng "diễm" chút nào ... Chỉ được cái hay cười nên vẻ mặt lúc nào cũng tươi tắn và có duyên "chút xíu". Ai gặp không đến nỗi phải chạy xa, như Duyên nói "để rồi lấy đà chạy tới". Cả bọn cho rằng nó lãng mạn nên khổ, nhưng nó thì không nghĩ thế. Chẳng qua nó hơi khác người một chút. Ương bướng nhưng dễ xúc động và nhạy cảm.

Nó thầm nghĩ: Hay cả bọn thấy nó có ý mến Lâm - anh chàng lãng tử nhưng là học sinh cá biệt nhất trường. Chao ôi, khi đã nghi ngờ thì có hàng trăm điều để nghĩ. Vì thế nó chẳng cần biện ba.ch. Miễn hiểu nhau và thông cảm cho nhau là được.

Nói như thế nhưng cũng có đôi lần giận nhau, làm mặt lạnh suốt một tuần để rồi chỉ cần một cái cười là huề tất cả... Bốn đứa - bốn cá tính khác nhau, lại chơi thân với nhau, đi đâu cũng bốn, cái gì cũng chia bốn... nhưng có một điều cho đến bây giờ nó vẫn chưa giải thích nổi . Ddó là chẳng bao giờ đề cập đến chuyện riêng tư của nhau . Người ta quả nói không sai: Họ đến với nhau không chỉ đơn thuần là hợp nhau mà họ còn muốn tìm đến những điều họ không có. Không biết tình bạn của nó có như vậy không?

Năm cuối thời phổ thông. Ai cũng ý thức được chuyện tương lai sau này nên đầu tư rất nhiều cho việc học. Những chuyến đi chơi giảm dần, những đêm nói chuyện không còn nữa, những anh chàng hằng ngày thường nhắc đến cũng bị vồn vã lãng quên. Bốn người đều có ý nguyện vào đại học và chung một ngành: Sư phạm!

Ngày cuối, lớp học buồn tênh. Bốn đứa, chẳng ai nói với ai điều gì. Họ lặng im, nhưng trong ánh mắt của mỗi người cùng chung một nỗi niềm sâu kín. Không ai khóc, chỉ nhìn nhau để rồi cùng nhau đến bên gốc phượng già hì hục khắc bốn dòng tên. Rồi mỉm cười . Lại là những nụ cười không trọn vẹn... Cuối cùng, họ chia tay, cái điều không ai muốn nghĩ lại đến. Ấy thế mà có lúc trong dòng suy nghĩ của mỗi người, họ khó có thể rời nhau được.

Một hôm, cái tin bốn đứa trượt đại học lan ra một cách nhanh chóng. Những ánh mắt ngạc nhiên, hững hờ, không kém phần thương hại cứ nhìn nó không ngớt. Thế là hết, ước mơ ... Ngày ấy nó càng hy vọng, tự tin bao nhiêu, thì bây giờ càng thất vọng bấy nhiêu . Buồn, thất vọng, bao nhiêu cảm giác chán chường vây quanh nó. Ddâu còn ai để san sẻ... Sau lần ấy, Diệu theo gia đình vào Sài Gòn. Dung xin vào làm cán bộ huyện. Duyên theo học lớp cao đẳng. Chỉ mình nó là chẳng biết đâm đầu vào đâu . Thế mà bên nó vẫn có Trung - người bạn trai cùng lớp, lúc nào cũng an ủi động viên. Ddôi khi, những lời nói ấy vô tình làm nó tủi thân và khóc một cách ngon lành trước mặt Trung. Lúc này, mọi cái với nó đều vô nghĩa, Trung đâu có thất bại để nếm mùi cay đắng như nó. Trung đâu có trượt đại học để mà hiểu nó. Nó nghĩ thế nên cứ mãi làm Trung buồn. Và cuối cùng, Trung cũng phải xa nó để lên thành phố nhập học. Lần này thì nó không khóc nhưng người khóc lại là Trung. Nó trêu: "Con trai ai lại khóc bao giờ?" Trung bật cười nhưng ánh mắt vẫn không giấu nổi những điều chỉ có Trung mới biết. Rồi, nó hứa với Trung, sẽ làm lại từ đầu ...

Thời gian cuốn trôi mọi thứ. Ngày xưa, Diệu nói thế mà đúng thật. Hôm nay nó đã là sinh viên năm hai trường đại học sư phạm Huế. Diệu vào trường kế toán ở tận Sài Gòn. Duyên và Dung vẫn như ngày nào ... Thỉnh thoảng có liên lạc với nhau nhưng chẳng ai nhắc lại chuyện ngày xưa nữa . Có lẽ ai cũng muốn giữ cho riêng mình để mà nhớ. Quá khứ bao giờ cũng ngọt ngào và cay đắng. Và hiện tại bây giờ, nó cũng có bạn bè, trường lớp, thầy cô nhưng tất cả có vẻ xa lạ quá. Nó muốn tìm lại chút hồn nhiên vô tư của ngày xưa . Tìm lại bốn cái tên như vầng trăng xẻ nửa . Tìm lại nó của những ngày buồn bã - thất vo.ng. Tìm lại ánh mắt xa vời của Trung...

Tất cả vẫn còn đó, nhưng làm sao nắm bắt được. Phải chăng khi con người muốn quay về kỷ niệm của mình, thì cũng là lúc họ nhận ra giá trị đích thực của nó. Những kỷ niệm đẹp bao giờ cũng làm cho người ta nhớ, nhưng kỷ niệm buồn thì quả rất khó quên... Với chuỗi kỷ niệm ấy đã khép lại giữa một mùa ha.. Mùa hạ không bình yên.

Huỳnh Diễm Diễm (ÐHSP Huế)
 
Em và anh và...


Không khó khăn lắm để lập một bảng so sánh giữa anh và em, vì có quá nhiều điểm tương phản. Chỉ ngớ ngẩn ở chỗ là so sánh để làm gì. So sánh làm gì cơ chứ? Chẳng có ai lập một bản so sánh để rồi kết luận có nên yêu nhau hay không cả.

Nhưng em vẫn cứ thích ngớ ngẩn, vì em đã nói rồi, điều đấy dễ dàng quá mà. Thế là em lấy một tờ giấy và chia đôi nó ra. Một cột là anh, một cột là em.

Anh: 27 tuổi. Em: 18 tuổi. Em cười, nhớ có lần nào em bảo, chênh nhau 9 tuổi là đẹp rồi. Anh nhíu mày, ồ, 10 thì đẹp hơn chứ!? Không, 9 có một chữ số, còn 10 thì tận hai chữ số. Thế là nhiều! Nên cảm thấy anh già lắm. Anh vục mặt vào tờ báo cười rinh rích. Em biết hai từ “tủn mủn”, “trẻ con” đang ngọ nguậy trong đầu anh.

Anh: nhà văn – nhà thơ – nhà báo trẻ có tiếng. Em: cũng viết văn – đang học báo. Làm sao mà em quen anh nhỉ? À, anh đã cố làm quen với em sau một truyện ngắn đăng báo chỉ để rồi sau đó nói với em rằng ôi, truyện của em dở tệ đi ấy. Con bé ngơ ngác là em nhìn tay bút trẻ danh tiếng như anh đầy e dè và ngưỡng mộ. Truyện em dở tệ đi ấy! Vâng. Run rẩy, khép nép, rụt rè. Nhưng mà em xinh! Vâng. Vẫn run rẩy, khép nép, rụt rè, giờ thì kèm theo ngớ ngẩn, em trả lời. Mà em con gái học báo làm chi vậy? Mai mốt nhỡ có lấy anh rồi hai đứa mình “báo” nhau thì sao? Vâng, em lại trả lời. Anh nhìn em ngộ nghĩnh rồi phá lên cười. Một phút nào đó cá tính đã đi vắng, giờ thì nó trở lại. Em nhăn mặt. Hắn ta là ai kia chứ?! Việc quái gì mà mình phải run rẩy ngớ ngẩn thế này? Thế là em đanh mặt, vậy rồi sao? Anh cười lớn hơn. Em bực mình. Vậy mà em cũng cười. Không dừng nổi! Cười và cười, quên cả lý do tại sao cười, chỉ biết cười lúc ấy là một nhu cầu bức thiết lắm rồi, vậy thôi.

Truyện của anh: thực đến lạnh lùng. Truyện của em: lãng mạn đến không tưởng. Anh đọc đôi ba truyện ngắn của em trên báo, bảo chán, chả thèm đọc nữa. Cũng là lối văn con gái lơ mơ gà mờ chả lúc nào tỉnh được. Em vùi đầu vào mấy quyển truyện ngắn của anh, toàn nhà xuất bản danh tiếng, mấy đêm liền không ngủ chỉ để đọc từng câu từng chữ. Em kính trọng những gì anh viết ra, nó thể hiện tài hoa và một quá trình trải nghiệm, nhưng em không thích. Anh sống cay đắng quá! Anh lại cười. Luôn vậy, anh dùng nụ cười để khiến em cảm thấy mình thua kém và quá nhỏ bé so với anh. Rồi nhẫn nại, anh nói rằng anh không thích thứ văn chương salon diễm mị. Em biết anh nói về em, nhưng em không giận. Em từ tốn nói tiếp, truyện của anh truyền cho người ta sự đau khổ về những thứ vô hình. Anh nổi giận. Phải, chỉ duy nhất trong quan điểm viết lách, anh nổi giận với em. Nhưng thưa em, cuộc sống ngập ngụa những thứ như thế đấy: sex, tiền, tủi hờn, bất công, khánh kiệt niềm tin, sống ngơ ngác... Nhưng mọi thứ trong thực tế vẫn chấp nhận được, bằng chứng là người ta vẫn sống. Họa hoằn lắm mới có người tự tử. Anh nhếch môi, cười gằn, còn dạng “zombie” thì sao? Sống dở, chết dở ấy?! Hay là sống mà như đang chết ấy? Đừng tự làm khổ mình! Những người sống bằng trái tim không thể tránh điều đó được. Nhưng anh sai rồi, những người khôn ngoan họ biết cứu rỗi bản thân khỏi những cơn đau phung phí... Anh lại mỉm cười. Em im lặng.

Em: hoang mang một cách hồn nhiên. Anh: hồn nhiên một cách hoang mang. Một ngày nào gặp nhau online, em rủ anh chơi trò vẽ tranh “Doodle” trong Yahoo! Messenger. Anh bỏ cả việc đấy, hí húi tô tô vẽ vẽ cùng em. Em vẽ ba vòng tròn ba màu, bên dưới là một hình tam giác.

Do anh cai gi day?

Hum... Khong biet! Em noi di

Hehe, kem ba mau. Mum mum!

Troi dat! Thoi duoc, den luot anh...

Anh chọn màu nâu đất. Rồi màu vàng. Rồi màu đen.

Do em cai gi day?

Thap Cham. Anh trang. Con duong.

Sao em gioi vay?

Muoi diem di!

U, muoi mot diem luon! Anh nguệch hai số một lên màn hình.

Gio den luot em! Em lấy màu vàng quơ chuột thành một tảng xoắn quện. Rồi đến màu đỏ.

Ah, anh biet roi, chien tranh va mau...

Ui, nghe ghe qua! Spaghetti do ong!

Troi dat!

May diem?

Muoi diem!

... Sao anh ve xau vay? Dung co hong, tai vi anh ve bang laptop. Chi gioi nguy bien! Ne, do em cai nay la cai gi? Thoi, em phai search tai lieu, khong choi nua dau. Khong, chi mot lan nay nua thoi. Anh lượn những sợi mỏng. Em biet roi, mua! Sao em gioi qua vay? Choi tiep nghe! Anh dụ khị. Khong la khong ma, anh ve tiep di, em hoc bai... Em chúi đầu vào mấy trang web, bỏ mặc anh với những ô màu. Bẵng hai tiếng sau, em mới nhớ đến anh, click vào window hai đứa đã chat chit. Anh offline tự bao giờ. Trên màn hình là một bức tranh. Con vật đang bay trên trời nói “Ta là chim”. Con đang bơi dưới nước bảo “Ta là cá”. Cái cây xéo xẹo nghênh nghênh mặt “Ta là cây”. Một hình người vẽ dạng que kiểu hình nhân nhảy múa trong Sherlock Holmes, mà quả thật nó đang nhảy múa hân hoan “Còn ta là người! A ha!”. Những message của anh nằm dưới một nụ hôn dài trên cửa sổ chat. Em oi! Em oi! Em oi!

Anh: từng trải. Em: ngô nghê. Điều này liệt kê ra cũng hơi vô lý, tưởng nó đã nói lên qua tuổi tác rồi. Nhưng vẫn cần nói. Chào em xinh đẹp! Anh nói dễ dàng. Đừng có nói như vậy, em không thích! Ôi, nói mòn môi rồi! Khen ai đó là em xinh đẹp dễ dàng quá ha! Anh cười hì. Đó là điểm khác giữa một “ông già” hăm bảy với mấy thằng nhóc lau nhau mới vào đại học cùng lớp em đấy! Em thấy tụi nó dễ thương hơn! Nhưng em thích anh, đúng không em xinh đẹp? Anh buồn buồn nói về những người đã qua. Nhiều người quá! Em chun mũi. Ờ, cái kiểu đa mang nó vậy. Em đỏ mặt khi anh hỏi về mối tình đầu. Ờ, thằng đó nó học lớp mười chung với em đấy. Đêm trại em với nó nắm tay nhau... Anh bảo, dễ thương quá ha. Em nhìn anh hồ nghi, anh lại đang giễu cợt em phải không? Không anh nói thật. Người ta còn hạnh phúc là khi kể về một tình yêu vừa qua với một nụ cười và đôi má ửng. Còn chai sạn, lầm lì, buồn chán, nói về condom và phá thai, về mua nhà góp, rồi chia tay... Đấy là khi khả năng yêu chân thật đã băng hoại lắm rồi! Em vô thức vuốt mái đầu bù xù của anh, bảo là nghe ghê quá. Anh nắm tay em, ghê, rồi mai mốt biết, nhóc con. Em khéo léo gỡ tay lại, nói lảng. Hèn chi mới hăm bảy tuổi đã có nếp nhăn, coi nè, tóc bạc nữa chứ! Em gọi anh bằng bác cho rồi, nha?! Gọi bằng anh đi! Gọi chú chú bác bác nó nhảm nhí và vớ vẩn lắm. Vì dù sao rồi thì... Em lười hỏi thì sao, vì em biết nếu hỏi, anh sẽ nói.

Vợ anh sẽ có đạo và biết ăn thịt chó! Anh tuyên bố. Em có cả hai điều ấy, em nói xong, trăm ngàn lần trách mình vô duyên. Anh cười tinh quái. Vậy làm vợ anh cho rồi. Làm vợ mà “cho rồi” hả? Anh sôi nổi nói tiếp, ờ, mà vợ anh sẽ sinh 9 đứa con. Em buồn cười, nhớ lại thằng nhóc “mối tình đầu”. “Tớ sẽ có 4 đứa con!”. Bọn con trai toàn đưa ra những con số không tưởng. Đủ tiền nuôi không đó? Đủ. Anh đang dành dụm tiền mua nhà, rồi sẽ lo hết chuyện gia đình. Cô ấy chỉ việc làm mẹ và làm những việc mà cô ấy thích. Mỗi chủ nhật, cả gia đình đi nhà thờ cùng nhau... Em lặng nhìn anh. Em ngạc nhiên. Anh đang chân thật hơn bao giờ. Gì mà em nhìn anh ghê vậy? Không, em chỉ thấy... Thấy sao mơ ước một một thằng cha ngông nghênh lang bạt chỉ bình dị đến vậy thôi, đúng không? Anh cười, thôi em ạ, lấy anh cho rồi!...

Em vò tờ so sánh ném vào sọt rác.

Tháng mùa đông, lễ hội hoa ở X. Em nhắn “Anh co len le hoi hoa khong?”. “Co, em cung len ha?”. “Da, em di voi lop”. “Duoc, cang tot, len do hai dua to chuc le cuoi luon the”. Em gập máy, thầm nghĩ chắc trong đầu anh cứ có một người nào đó khác phái thì lập tức hai từ “đám cưới” và “chín đứa con” sẽ hiện ra tức thì.

X, ngày lễ hội. “Anh dang o dau?”. “Minh se gap nhau, luc nao do”. Em tưởng tượng anh đang quan sát em từ phía đằng xa. Và anh đang cười khi thấy em ngoái cổ tìm anh dáo dác.

Lúc nào đó. Anh đây nè em xinh đẹp! Cái giọng của anh không lẫn vào đâu được. Sau màn bất ngờ, hai đứa đi vòng vòng quanh hồ Xuân Hương. Anh nè, em thích đi xe đạp đôi. Một ý tưởng hết sức “ngộ nghĩnh trẻ thơ!” - anh nhận xét. Nhưng rồi anh cũng thuê xe đạp. Em ngồi sau lưng anh, gió đọng đầy mặt. Có một đôi mười tám hai mươi lướt qua, tay cầm cái chong chóng. Hai đứa cười vang. Anh đạp xe lặng lẽ, suy nghĩ nhiều. Thôi trả xe đi anh! Thốt nhiên em nói. Quả thật, lúc ấy em chẳng muốn làm gì nữa. Em chỉ muốn một mình.

Anh đưa em đến một quán cà phê. Quán thắp nến và trong góc anh có một vài người bạn đang chờ. Em nhìn lướt, thấy nhiều tên tuổi trẻ lẫy lừng trong làng văn thành phố. Có những cô gái xinh đẹp nhưng trông bất cần. Họ cùng nhau hút thuốc, khẽ gật đầu chào em, kiểu vô thưởng vô phạt, không quan tâm soi mói, nhưng em cảm thấy khó chịu. Em ngồi không ấm chỗ, nghe bàn gì đó về một tập thơ, một nhân vật, rồi những cảm giác. Em tìm cớ đứng lên. Họ lại gật đầu chào. Một cô dựa vào vai anh, nhả khói. Mùi chán chường nồng nực! Anh cứ ngồi, em gọi taxi được...

Em chạy thật nhanh, chạy điên cuồng trên những con phố. Trung tâm! Mọi người vẫn đang nô nức lễ hội. Một cánh tay tóm lấy em. Nè, nãy giờ bồ đi đâu? Tụi này tìm bồ quá trời! Tối nay “nhậu” overnight nhé! Một cậu bạn trong lớp đưa em que pháo bông, dịu dàng: Của bạn nè!

Em sẽ không kể cho anh nghe những điều em đã nghĩ, dù em biết, anh luôn hiểu thông cảm anh và em khác nhau thế nào, tuổi tác, bạn bè, cách sống... Chỉ có chung một may mắn, đó là em đã gặp anh và anh đã gặp em, em xinh đẹp!

Trên chuyến xe từ X về thành phố, em mượn cuốn sổ tay của cô bạn. Chi vậy? Làm thơ hả nhỏ? Em cười, ờ, viết chơi chơi! Ui, qua khỏi đèo rồi, cởi bớt áo lạnh ra thôi. Nóng gì mà nóng!

Em viết tất cả những gì em đã so sánh, trong tờ giấy em từng quẳng vào sọt rác. Em viết thêm nhiều thứ nữa.

Mơ ước của anh: gia đình hạnh phúc. Mơ ước của em: bay xa. Anh đi mãi rồi, anh đã sống vội vàng quá và bây giờ anh mệt. Anh chỉ muốn cùng ai đó ngồi yên lặng bên nhau, lắng nghe cuộc sống. Em, nhóc con mười tám tuổi. Em chưa đi bộ trên đèo Hải Vân, chưa đứng trên đỉnh Lang Biang, chưa ngắm hoa mơ hoa mận đầu năm hay uống bát rượu ngô Tây Bắc ấm nồng... Rồi chuyến du hành trên tuyến xe đi khắp châu Âu, những chợ phiên Đông Ấn...

Em nhét tờ giấy vào ví. Ngày mai em sẽ gửi nó cho anh. Em biết, anh sẽ cười, lại cười. Và em biết có thể mình nhầm lẫn nữa. Cùng một mối quan hệ, nhưng một gã trai trải đời hăm bảy sẽ nhìn khác cô nhóc mười tám. Có thể anh cười vì em quá ngớ ngẩn. Vì anh nói với tất cả những cô gái anh gặp là em lấy anh đi, mình sẽ có 9 đứa con, cùng đi nhà thờ..., anh gọi họ đều bằng “em xinh đẹp” và mọi thứ, mọi thứ... Thì em cũng sẽ làm như thế!

Lại một điều em khác anh rồi! Chỉ có những cô nhóc mười tám tuổi mới đủ can đảm làm những điều mà chính mình cũng thấy mình ngốc, anh nhỉ?!

Truyện ngắn của Nhã Anh
 
Hãy để phai tàn .....
Tác giả :Hoa Hoàng Lan

Mỹ-Linh cho xe quẹo vào con đường Coverdick. Nàng ngập ngừng xuống xe và đọc kỹ lại những chỉ dẫn trong mảnh giấy nhỏ:

"Mỹ-Linh ơi,
Đi thế này sẽ đến địa điểm gặp nhau:
Candide Ave. quẹo phải vào Coollake
Theo hướng núi, quẹo phải ở Golf.
Quẹo trái ở Coverdisk Dr.
Nhà bên phải số 33711.
Mong gặp nhau. Sẽ nói chuyện nhiều.
Điểu.

Nàng vò nát mảnh giấy trong tay, như muốn trút tất cả bực bội vào đó. Nhìn quanh và tiện tay, nàng ném nhanh mảnh giấy nhàu trên bờ cỏ. Ngập ngừng giây lát, và không biết nghĩ sao, nàng lại cúi xuống nhặt tấm giấy lên, cho vào túi quần. Nàng tìm số nhà và mạnh dạn bấm chuông.
Người ra mở cửa không phải là Điểu. Lẽ dĩ nhiên, vì nàng không báo trước, nên có thể Điểu không biết nàng đến để đón. Nàng muốn gây bất ngờ cho chàng và cũng muốn có một lần gặp cuối cùng để giải quyết cho xong. "Để dứt khoát và không dây dưa". Nàng thầm nhủ và dừng lại trước khung cửa mà người đàn bà vừa hé mở:

"Xin lỗi, tôi muốn gặp ông Điểu."

Giọng người đàn bà ngập ngừng, nhưng âm thanh thoáng chút reo vui:

"Ông Điểu à? Có phải là cô Mỹ-Linh đây không?"

Ngạc nhiên, nàng hỏi lại, kèm theo một lời xác nhận:

"Vâng. Ông Điểu có ở nhà không ạ?"

Người đàn bà mở rộng cánh cửa, giọng thân thiện:

"Mời cô vào nhà. Ông Điểu dặn nếu có việc cần, chỉ gọi một tiếng là ông về ngay."

Mỹ-Linh hơi lúng túng. Nàng ngồi xuống chiếc sofa duy nhất trong phòng, khi người đàn bà vừa khuất sau tấm bình phong bằng tranh lụa tuyệt đẹp.

Mỹ-Linh nhìn quanh. Phòng khách đẹp, rộng và chưng bầy theo kiểu Á-Đông với những tranh sơn mài trên tường. Những đèn treo bằng mây và một bộ bàn ghế thật thấp, thấp sát đất, kiểu Nhật-Bản. "Chủ nhân hẳn phải là một người say mê mỹ thuật lắm". Có tiếng nói rất nhỏ trong phòng bên. Mỹ-Linh lắng nghe, tiếng được tiếng mất:

"Cô Mỹ-Linh đã đến... Mời ông về ngay."

...

"Vâng... Hình như cô ấy đi một mình..."

...

"Vâng... Tôi không hỏi."

...

"Vâng..."

...

"Vâng."

Mắt nàng chợt dừng lại trước một bức ảnh phóng lớn hình của Điểu, chụp chung với vài người nữa. Nàng nhận ra một trong những người ấy. Đấy là giám đốc một đài phát thanh ở miền Đông mà nàng đã có dịp gặp. Một biểu tượng truyền thanh được gắn trên tường, bên cạnh một họa phẩm tuyệt tác của Rembrandt. Hình như có lần Điểu đã kể cho nàng nghe về người họa sĩ tài ba của Hòa-Lan mà chàng rất ngưỡng mộ. Cũng theo lời kể của Điểu thì trước khi theo học Y Khoa, chàng đã từng say mê nghệ thuật hội họa. Và với chàng, Rembrandt là thần tượng về hội họa của chàng. Người đàn bà đi ra với ly nước trên tay, kéo Mỹ-Linh trở lại thực tại. Bà đon đả:

"Mời cô dùng nước trong khi ngồi chờ. Khoảng mười phút nữa, ông Điểu sẽ về. Ông đi đánh tennis với mấy người bạn."

Mỹ-Linh suýt "ồ" thành tiếng. Nàng nhớ lại có lần Điểu đã nói với mọi người rằng chàng không biết chơi môn thể thao này. Hay là chàng đang học làm quen với môn tennis chăng? Nhưng rồi nàng lại thoáng chút băn khoăn, khi cho rằng chàng với công việc, có thể chàng đã từng nói dối. Trong tình cảm, thì nàng chưa biết được.

Điểu giống nàng ở điểm ghét sự dối trá, lừa lọc. Cũng chính vì điều này, mà cuộc tình của hai người chớm nở. Nhưng sau một thời gian quen biết, nàng thấy Điểu đã có những việc làm ăn, và cộng tác mật thiết với những người không cùng chung lý tưởng với nàng. Nàng đã khựng lại trước cuộc tình và bắt buộc phải lựa chọn. Trong lúc còn do dự thì Mỹ Linh gặp Luân, một người mà nàng từng hâm mộ qua sự tương đồng tư tưởng cũng như lý tưởng đấu tranh với nàng.

Cuộc gặp gỡ này đã gây chấn động dữ dội trong tâm trí Mỹ Linh. Và qua thời gian, Điểu dần dần bị đẩy lùi khỏi cuộc tình. Một thoáng ăn năn, một chút ngậm ngùi đến với Mỹ-Linh. Nàng đã quyết định rút lui và đã trực tiếp trình bày với Điểu, nhưng chàng nhất định không nghe, cứ theo đuổi nàng... muốn chiếm đoạt cho bằng được. Điều này gây cho nàng nhiều phiền toái.

Hôm nay, nàng quyết định đến để nói lời chia tay và để gặp chàng một lần cuối. Điều nàng mong ước là Điểu không có phản ứng bất lợi cho nàng. Vì chắc chắn chàng không ngạc nhiên về ý định chia tay của nàng. Rất sòng phẳng và bằng nhiều hình thức, Mỹ-Linh đã báo trước với chàng từ nhiều tháng trước. Nàng không thích che giấu tình cảm. Dẫu cho Điểu thích sự thẳng thắn của nàng, nhưng khi nghe nàng nói rõ ý định, chàng cũng không khỏi tức hận, đau khổ. Trong tuyệt vọng, chàng đã níu kéo bằng tất cả những níu kéo thông thường và bi lụy nhất, mong chiếm lại tình nàng. Nhưng lòng nàng đã có những lý do bất biến, khó lay chuyển.

Tiếng xe thắng rít gấp gáp ngoài sân. Có tiếng chìa khóa tra vào ổ. Và cửa mở, cùng lúc Mỹ-Linh đứng bật dậy trong một tư thế sẵn sàng để đối đầu. Nàng lo sợ cho sự yếu mềm của mình, nên đã tự tạo cho mình một vẻ cứng cỏi khác thường. Điểu đứng như chôn chân trước cửa, đôi tay như muốn vung ra ôm trọn nàng. Nhưng trước sự thủ thế bấtị thường của nàng, chàng tròn mắt kinh ngạc và bốn mắt sững lại nhìn nhau trân trối. Điểu phá tan im lặng bằng tiếng kêu to, nửa như ai oán, nửa như trách móc:

"Mỹ-Linh!"

Mỹ-Linh vẫn đứng im. Đôi mắt nàng nửa như thương xót, nửa như nói lời tạ lỗi. Nàng nhắm hờ đôi mắt, để biết nước mắt ngập bờ mị Nàng vội mở mắt ra để giữ hai giọt nước khỏi lăn dài trên mặt, và để che giấu sự xúc động của nàng. Nhất định không để Điểu biết nàng khóc! Mỹ-Linh tự nhủ và nàng đã nhanh chóng, nuốt ngược những giọt lệ nóng vào tim. Nàng biết nàng rất đa cảm và chưa thể thu tóm gọn gàng tình cảm của nàng với Điểu trong một cuộc chia tay mà nàng nghĩ rằng sẽ rất chóng vánh. Cũng vừa lúc ấy, cả thân hình của Điểu đổ ập xuống ghế sofạ Mỹ-Linh đứng ngay cạnh đấy. Nhanh như cắt, đôi tay của Điểu nắm chặt lấy cánh tay nàng. Giọng chàng hốt hoảng, nửa như van nài, nửa như oán giận:

"Em! Sao nỡ lạnh nhạt với anh quá như thế? Dù sao..."

Giọng chàng nghẹn ngào và như nức lên. Nhẹ gỡ tay chàng ra, Mỹ-Linh nghe lòng rối loạn, nhưng nàng vẫn cố kềm giữ để đóng trọn vai trò một người tình bội bạc:

"Anh ạ! Đừng giận hờn, đừng oán trách em. Em đã nói nhiều lần với anh rồi. Mình không hợp nhau, vấn đề tình cảm không thể kéo dài. Anh không nên nuôi hy vọng là nếu trì chí tán tỉnh thìø có thể thuyết phục để quyến rũ em vào cuộc tình. Đừng ảo vọng nữa!"

"Anh biết, nhưng anh không đầu hàng số phận. Em cho anh phấn đấu."

Hình ảnh của Luân ẩn hiện và lung linh như đang hiện ra trước mặt, nhắc Mỹ Linh nhớ lại ý định của nàng trước khi đến đây. Nàng phải dứt điểm với Điểu, để chàng đừng tơ vương đến nàng và để nàng quên chàng nhanh chóng. Lắc đầu xua đuổi những tình cảm còn vương vấn trong tâm trí, Mỹ-Linh nói nhanh:

"Xin phép Anh, em về. Người nhà đang đợi!"

Như người choàng tỉnh cơn mê, Điểu hốt hoảng, đôi tay chới với, nét mặt ngập tràn đau khổ:

"Em! Khoan đã! Chờ anh. Không thể cho anh gặp một lát nữa hay sao?"

"Anh bình tĩnh lại. Nếu chưa muốn em ra về. Chúng ta có thể ngồi xuống, nói chuyện đàng hoàng trong chốc lát."

Ngập ngừng, nàng tiếp lời:

"Nhưng thôi... Em phải về, vì ngày hôm nay thứ Tư, ngày bận rộn nhất của em."

"Anh biết, vì anh nhắn gọi đã lâu, nhưng hôm nay em mới đến. Anh biết em không còn gì dành cho anh nữa."

"Nếu anh đã biết như thế thì tiện cho em biết bao. Anh nhớ rằng em đã nói rất nhiều lần, van xin và năn nỉ anh rời xa em."

"Nhưng..."

"Em nghĩ anh không nên nói chữ "nhưng" trong trường hợp này. Anh hãy sống thanh thản và giúp cho em có niềm vuị Em sẽ cảm ơn anh vô cùng."

"Anh không thể."

"Em bắt buộc anh. Không có cách nào hơn nữa. Quên em đi và đừng quan tâm đến em nữa."

"Không thể được. Anh biết anh không thể làm được điều em yêu cầu."

Mỹ-Linh chợt gắt lên:

"Anh chưa làm mà đã biết là không làm được? Em biết là anh sẽ quên em được. Điều "không thể" ấy chỉ nằm trong ý tưởng thôi."

Ngẩng phắt lên nhìn nàng. Bốn mắt giao nhau. Mỹ-Linh cố chiếu tia nhìn thẳng vào mắt Điểu và mắt nàng không hề chớp. Như bị khống chế bởi tia nhìn dữ dội của nàng, giọng Điểu chợt dịu lại:

"Em đến thăm anh, chỉ nói có bấy nhiêu hay sao? Anh không ngờ. Em tàn nhẫn quá!"

Đến lượt Mỹ-Linh ngạc nhiên. Nàng gằn giọng:

"Anh còn muốn em nói sao nữa? Em phải nói như thế nào và phải làm những gì mới vừa ý anh?"

"Chỉ cần em nói vẫn yêu anh, vẫn không quên anh, vẫn không cho anh vào viện bảo tàng là anh vui rồi."

Mỹ-Linh nhíu mày. Mặt nàng trở nên cau có, khó chịu khác thường:

"Anh kỳ cục! Cứ nhấm nhẳng mãi câu nói vô nghĩa và không ra gì! Mệt thật!"

"Anh đề nghị cứ giữ tình trạng như thế này. Anh chấp nhận sao cũng được."

Chán chường cực độ, Mỹ-Linh dợm bước:

"Xin phép, em về."

Điểu kêu lên:

"Chưa! Chưa thể bỏ anh mà về được. Chờ anh."

"Em phải về. Đừng cố giữ em, vô ích. Anh đã biết hôm nay thứ Tư, em rất bận rộn, không có thì giờ ."

"Anh biết em không rảnh rang, nhưng em đừng từ chối đi ăn trưa với anh nhé?"

Mỹ-Linh thấy không nên quyết liệt với Điểu quá, nhưng nàng cũng không thể nhận lời đi ăn trưa với chàng. Một bữa ăn trưa, rồi hệ lụy sẽ tới, khó dứt được.

Tin từ bên quê nhà viết sang đã cho nàng biết hết những liên hệ của chàng với đám người bên đó. Lẽ tất nhiên lợi lộc sẽ có từ hai phía. Một bên vì chút danh cuối đời, một bên vì những tư tưởng mù quáng của những kẻ thù. Nhưng theo nàng, như vậy là Điểu đã quay lưng lại với nàng, đã đi ngược lại những gì nàng theo đuổi bấy lâu nay và đã phản lại nàng, để đi tìm chút danh lợi phù phiếm. Vì Điểu không phải người nghèo, trái lại chàng giầu có, sung túc và đầy đủ. Đâu phải vì chàng đã ra đi từ năm 1975 và không thể biết họ là ai, họ như thế nào trong dòng xuôi chẩy của thời cuộc? Chàng phải đọc sách báo, phải có nhận định chứ. Nhưng thôi. Nàng không thể trách chàng, chỉ có một cách duy nhất là xa chàng. Dứt khoát xa chàng và không mảy may tiếc nuối.

Nàng đi nhanh ra cửa. Điểu gọi với:

"Em. Chờ anh!"

"Vĩnh biệt anh!"

Mỹ-Linh bước ra ngoài đường. Nàng lắc mạnh xâu chìa khóa như đánh động tâm thức của nàng. "Tất cả những đổi thay, dù do ý muốn, cũng đều mang lại nỗi buồn."

Hình như ngạn ngữ Tây Phương đã nói như thế. Cơn gió nhẹ mơn man da thịt giúp nàng tỉnh táo. Nàng thở ra thật mạnh như trút đi bao nỗi muộn phiền. Nàng lại hít vào thật sâu. Thay đổi luồng không khí trong buồng phổi cũng quan trọng, vì con tim cũng được nhờ.

oOo
 
Cuộc tình thóang qua
Lê Nguyễn Hiệp

Vào năm thứ hai đại học, mùa hè được nghỉ học hơn hai tháng, lợi dụng thời gian rảnh rỗi này tôi xin đi làm full time ở hãng chế tạo slipper (dép đi trong nhà) mong kiếm thêm tiền để dành khi vào học, công việc không nặng nhọc lắm nên đa số là công nhân nữ tuổi từ 20 đến 26, sức gái bẻ gãy sừng trâu.
Ngày đầu tôi được một ông thợ chừng hơn 30 chục tuổi chỉ dẫn cách làm slipper, quẹt keo vào đế để lên cái khuôn rồi cầm phần dép mềm phía trên đã được cắt và may sẵn úp vào cái khuôn thứ hai, rồi dùng tay kéo cho hai cái khuôn ép sát vào nhau, sức nóng của khuôn sắt làm cho chất keo dính hai phần chắc lại nhau. Chỗ làm việc nơi này chỉ có ép đế và đóng hộp sau đó gởi đi còn phần may cắt thì từ chỗ khác thầu rồi chở đến.

Vì ở tỉnh lẻ nên sinh viên ngoại quốc đến học và lại đi làm công hơi hiếm nên họ có vẻ tò mò, chẳng mấy chốc cả hãng biết tôi là dân nước ngoài đến học. Mà cũng chẳng cần phải nói chỉ cần nghe giọng nói lơ lớ tiếng Nhật kiểu mít là họ biết rồi. Cái mà họ thích thú là nghe tôi nói tiếng Nhật ngọng, giống như mình nghe một người Mỹ nói tiếng Việt.

Buổi trưa ăn chung với các cô gái trong phòng ăn, họ mang hộp "bento" theo còn tôi thì cứ bánh mì kẹp "ham", trước lạ sau quen, riết rồi thỉnh thoảng họ đưa cho tôi ăn thử vài món Nhật, tôi cũng không làm khách, cho thì nhận. Lúc này tôi chưa biết ăn sushi và natto (đậu lên men hơi nhớt ăn trộn với cơm nóng). Trong nhóm có cô gái trạc tuổi tôi, tôi hay thường bắt chuyện với cô ta.

Được một tháng tôi mời cô đi ra phố dạo chơi cho đỡ buồn, tôi chẳng phải tán tỉnh gì cả, nói tình thật với cô ta là sống bên Nhật có một mình hơi buồn nên muốn có người đi chơi chung cho vui. Tôi vốn là hạng nhát gái, nếu nói tán tỉnh thì tôi run lên được, lập bập không nói ra được một câu. Vì không có ý tán tỉnh, mục đích chỉ đi chơi nên tôi mở lời dễ dàng. Tôi nói khơi khơi chẳng mong cô ta nhận lời, thế mà cô ta lại ừ, thế mới chết. Đã lỡ rồi đành phải leo lên lưng cọp, tiền bạc kí ca kí cóp làm được một tháng chắc cũng đủ mua vui một vài trống canh. Nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ vui là chính.

Phương tiện đi chơi không có, xe hơi thì không rồi tiền đâu mà mua, có chiếc xe đạp mà lại cũ ra cũ rích chẳng lẽ lại chở gái trên chiếc xe đạp cũ kỹ thì xệ lưng quần quá thể, dây sên sét rỉ đạp nặng muốn gẫy chân, mà cô ta có nhẹ gì cho cam chắc cũng phải nặng gấp rưỡi tôi, nếu mà có chở cô ta đi nữa thì chắc chiếc xe bị gẫy làm đôi quá, không được! thôi thì đi xe bus lại vừa tiện vừa đỡ quê xệ. Cuối tuần đi ra phố bằng xe bus, nói là đi chơi ngoài việc đi shopping hay đến nhà hàng thì chỉ còn chơi pachinko hoặc thẩy bowling.

Tôi hỏi có chỗ nào đi chơi không, cô ta gật đầu dắt tôi đến tiệm bowling ở gần ga xe điện. Cha mẹ ơi! đời thủa từ cha sinh mẹ đẻ đến giờ có biết cái mặt mũi của môn chơi bowling nó ra làm sao đâu. Cô ta ghi tên mướn từ A đến Z, tôi đứng xớ rớ bên cạnh mặt cứ nghệch ra, cô ta lo chơi thẩy banh thì ít mà lo dạy tôi thì nhiều. Lần đầu không biết chơi nên trái banh cứ chạy được nửa đường là rớt cái đùng xuống rãnh chứ chưa đụng tới được mấy cái chai nhựa. Mỗi lần như thế cô ta cười như nắc nẻ lấy làm thú vị, thì ra tôi làm trò cười mua vui cho cô ta, bố khỉ chán thiệt.

Sau buổi đi chơi đó tôi cũng quên đi, hàng ngày làm việc vẫn gặp cô ta chào hỏi, buổi trưa có món gì lạ cô chia cho tôi một ít ăn lấy thảo. Thời gian trôi nhanh cũng sắp hết hè để vào học tiếp.

Buổi chiều hôm đó, đang ở nhà đọc sách tôi nghe điện thoại gọi.

- Moshi, moshi, atashi wa Taiko desụ... (a lô, Taiko đây, Taiko muốn đến nhà thăm anh có được không?)

Lỗ tai tôi lùng bùng, tôi tưởng tôi nghe lầm, tôi cà lâm nói không ra hơi.

- Được ... được... chứ... chứ.

Nói xong câu này tôi thở hổn hển. Vội vàng hút bụi căn phòng, dọn dẹp lại đống hỗn độn vốn bừa bãi và ngổn ngang sách vở, rửa mặt chải lại mái tóc cho gọn gàng, tôi tỉnh hẳn cơn ngái ngủ không cần phải uống cà phệ

Tôi hẹn cô ta ở bến xe bus gần nhà đi bộ khoảng 10 phút, tôi ra đón cô ta về nhà. Điều đầu tiên đập vào mắt tôi khi gặp cô ở bến xe bus, một chiếc váy mầu hồng nhạt cao hơi quá đầu gối ôm gọn vòng mông chắc nịch của người con gái đang độ xuân phơi phới tình nồng, cặp giò trắng nõn nà mà ngày mới qua Nhật tôi chê là "Daikon" giờ nhìn quen lại hóa ra thật khiêu khích, thường ngày đi làm cô mặc quần dài, bữa nay mặc váy khiến tôi hơi chóa mắt và thắc mắc. Cổ họng tôi bị giật cục lên xuống từng hồi vì phải nuốt nước bọt liên miên.

Vào tới nhà tôi bỏ gói đồ trên bàn kotastu, gói đồ mà tôi thấy cô cầm trên tay khi đi bộ tôi ga lăng xách giùm.

Cô chỉ gói đồ và nói đây là quà bánh cô đưa cho tôi. Tôi mở tivi trắng đen 13 inches để phá tan sự im lặng, thời đầu thập niên 1970 truyền hình mầu và video cassettle của Sony mới ra nặng cồng kềnh và còn mắc kinh khủng, tôi chỉ dán mũi cửa tiệm mà ngó chứ đâu dám rớ. Taiko bầy món bánh để trên bàn, thấy vậy tôi ra bếp đun nước sôi để pha trà. Tôi nghe loáng thoáng người phát ngôn truyền hình nói có trận bão đang kéo đến.

Gần 6 giờ chiều, tôi nói nếu cô ta chịu ở lại ăn với tôi bữa cơm cho vui, thế là chúng tôi ra chợ gần đó mua một ít thức ăn về nấu, trước khi đi tôi lấy nồi cơm điện National ra nấu cơm. Đồ ăn thì chỉ có món cá nướng, rau xào và món miso (không tránh khỏi). Cô ta trổ tài nấu món Nhật, vừa nấu vừa nói huyên thuyên, nửa tiếng sau đồ ăn được bầy lên bàn. Đang ăn bỗng tôi nghe thấy tiếng sấm rồi chớp liên hồi, mưa kéo đến hắt vào cửa kính nghe lộp độp, trời bỗng tối sầm lại.

Taiko lên tiếng giải thích cho tôi biết.

- Taiko sinh đẻ ở vùng này nên không lấy làm lạ, năm nào cũng đến giờ này là có bão kéo đến, riết quen.

Đã xong bữa cơm nhưng mưa bên ngoài càng lúc càng nặng hột, tôi nhìn Taiko ái ngại mở miệng.

- Mưa lớn thế này làm sao Taiko về nhà đây.

Taiko nhìn tôi rất nhanh rồi cúi xuống nói.

- Thôi cho Taiko ở lại đêm nay vậy, nếu anh không phiền.

Tôi lại càng bấn người lập bập.

- Không... không... có... có.. gì mà phiền hết.

Thật ra nếu tôi muốn hay cô ta muốn thì chỉ cần gọi một cú phôn là có chiếc taxi đến ngay, nhưng cả hai đều hình như quên bẵng đi điều này. Tôi nhìn Taiko rồi nghĩ thấy thương cô ta, thôi thì đành chịu nằm chật chội một chút vậy, nhường cho cô ta tấm nệm. Bầu trời đen bên ngoài thỉnh thoảng bị xé tan bởi luồng ánh sáng của sét đánh xuống đất thành lằn vòng vèo. Bên trong căn phòng nhỏ có lẽ sẽ xảy ra một trận bão nhỏ khác chăng, hy vọng là không. Tôi hối hận đã gật đầu để cho cô ta ở lại qua đêm.

Tôi trải tấm nệm ra sàn chiếu tatami, rồi lấy tấm khăn trải giường mới phủ lên trên để che bớt cái mùi hôi ở bẩn của học sinh lười biếng giặt. Tôi trải tấm khăn khác lên sàn, vì sàn bằng chiếu tatami nên cũng không đau lưng như nằm phản. Chúng tôi để nguyên bộ quần áo như vậy nằm ngủ, trời về đêm với cơn bão kéo dài khiến căn phòng trở nên lạnh, chiếc chăn mỏng không đủ ấm khiến tôi rên nhẹ, chiếc chăn dầy tôi đã đưa Taiko đắp. Tiếng rên nhẹ của tôi không lớn nhưng đủ làm cho Taiko thức giấc, có lẽ nàng cũng không chớp mắt được.

- Sao vậy anh!

- Không có chi! trời hơi lạnh khiến tôi hơi khó ngủ một chút.

Một lúc sau tôi lại tỉnh giấc không biết vì lạnh hay vì mùi hương của người con gái tỏa ra trong phòng làm tôi mất ngủ.

- Anh ơi! Hay tới đây nằm chung cho nó ấm áp.

Tôi nửa tỉnh nửa mơ, không tin vào tai mình hỏi lại dò dẫm nếu không dám bị ăn tát tai dễ như chơi.

- Taiko có nằm chật chội được không? (Sao mà ngố đến thế! thằng tôi quả quá thật thà)

- Không sao đâu càng ấm chứ sao anh, sợ anh lạnh bị cảm thì không tốt đâu.

Được lời như cởi tấm lòng. Tôi run rẩy bò tới vì run quá đi không được, rút cục tôi cũng lết đến được và nằm gọn trong chiếc chăn ấm, nàng cầm lấy tay tôi vuốt nhẹ. Tới đây thì tôi không còn tự chủ được nữa, một sức mạnh vô hình vực tôi dậy, tôi chồm lên đặt chiếc hôn mạnh bạo đến rướm máu, nàng cũng chỉ chờ anh chàng ngố làm một cử chỉ ra dáng đàn ông để nàng có thể lẳng lơ ôm chặt lấy buông xuôi tất cả những e dè mắc cỡ. Nụ hôn quyện lẫn "mùi miso và mùi nước mắm" thật nồng nàn, tôi đam mê thụ hưởng và hút lấy vị ngọt mới và lạ lùng.

Cái gì đến đã đến, tôi đã ngủ vùi trong giấc mộng đẹp, và vẫn còn bàng hoàng vì không tin vào chính mắt mình. Cuộc tình đến và đi như cơn gió thoảng, sau ngày mưa bão đó chúng tôi không còn gặp nhau nữa.

Bàn tay năm ngón suông đem vào nhau mộng mau

Ngoài trời mưa, mưa hoài, gió mưa nặng nề ...

Giờ này còn nhìn nhau, nhìn đắm đuối như suối bền

Nhìn suốt kiếp như chết mòn, nhìn hấp hối thương đau

Ngày mai ta không còn thấy nhau.

(Cho Lần Cuối - Lê Uyên Phương)

* Pachinko: game chơi bắn những viên đạn sắt vào lỗ.

* Daikon: củ cải trắng loại nhật, tròn và bự ngang.
_________________
 
ĐI VỀ PHÍA MƯA

1.Lần đầu tiên đi chơi với nhau, anh và em đã gặp mưa. Gọi là "đi chơi với nhau", vừa đúng vừa lại ko đúng. Đúng là vì đang ở nhà thì điện thoại của em bỗng kêu bíp bíp rồi xuất hiện dòng chứ "đi loanh quanh vài vòng ko em". Em phì cười và em đồng ý. Chưa có ai "cưa" em một cách thô lỗ như thế bao giờ. Còn không đúng vì người ta chỉ dùng chữ "đi với nhau" khi hàm ý một mối quan hệ nào đó. Còn em và anh thì không, hoàn toàn không. Anh, theo như em biết, là kiểu người chẳng quan tâm, chính xác hơn là không thiết tha gì tới việc đi tìm một cô bạn gái. Hình như hồi xưa anh cũng đã có một người nào đó nhưng đã xưa lắm rồi. Còn em thì vừa mới chia tay với một người, và chẳng có lý do gì để nghĩ đến bất cứ một chuyện tương tự khác. Hơn nữa mình cũng chỉ vừa mới quen nhau. Có nghĩa anh đúng là một người em cần, một người gần như xa lạ, chẳng biết gì về em, chỉ để em có thể cùng ra đường, cùng đi chơi, tới một nơi nào đó, một người mới quen đủ để chia sẻ nỗi buồn với em mà lại chẳng hiểu gì về nỗi buồn ấy... Và thực sự mình đã đi, rồi giữa đường thì trời đổ mưa. Lúc đó, anh quay sang em, cười : "em có biết ko, anh ko nhớ mình đã đọc ở đâu đấy, người ta bảo 2 người nào mà lần đầu tiên đi chơi với nhau mà gặp mưa là về sau sẽ lấy nhau đấy!". Em lại phì cười, em phải đập lại cái kiểu tán tỉnh "thô" không thể chịu được này mới được. "Thế thì em cứ chọn đúng mùa mưa bão mà làm quen và đi chơi, kiểu gì cũng kiếm được ít nhất một người để lấy phải ko?" Nhưng rồi em lại chạnh lòng nhớ về người con trai em vừa chia tay, em và anh ấy đã có bao lần đi chơi với nhau gặp mưa, nhưng có phải lần đầu tiên ko nhỉ? Chắc là ko rồi, em quen anh ấy vào một ngày mùa đông đầy nắng, lấy đâu ra mưa cơ chứ! Em biết lúc đó anh nhìn sang em thở dài. Còn em chỉ đăm đăm nhìn ra trời mưa. Màn mưa dày đặc, hạt mưa rơi xối xả lên kính xe, cần gạt nước hoạt động liên tục cũng chẳng ăn thua gì. "Anh chẳng thể nhìn thấy gì cả" - anh than phiền. "Thế thì dừng lại đi anh, nhìn trời mưa cũng hay lắm". Anh ngoan ngoãn nghe lời em, đậu xe ở một góc phố. Không ai nói gì, chỉ có tiếng nhạc tràn ngập khắp không gian "...and the world you left behind. In my heart you were the only..." Anh còn nhớ ko, hôm ấy em mặc một chiếc váy trắng, những giọt mưa đạp lên mặt kính trông như rơi xuống chiếc váy của em, chúng to dần lên, rồi trôi tuột đi và biến mất. Lại đến những giọt khác, lại tiếp tục to dần lên rồi trôi tuột đi như thế,đẹp và lãng mạn vô cùng.

2.Nếu như có điều gì khiến em ngần ngại khi đi chơi với anh, thì đó là vì anh không nghèo. Tại sao các nhân vật nam trong các câu chuyện tình cảm lại cứ phải nghèo cơ chứ? Để dễ được bạn đọc thương cảm hơn chăng? Em ko muốn bị hiểu nhầm, khi người ta nhìn vào em và câu chuyện cũ. "Vấn đề của em là nghĩ quá nhiều về cái đã qua, có để làm gì đâu" - anh nói trong một lần khác, khi mình đang đi trên đường về, các loa phát thanh của quận Tây Hồ đang ra rả hết công suất" tin bão khẩn cấp, tin bão khẩn cấp, cơn bão số 1. Hiện bão số 1 đã hình thành ở khu vực biển Đông và đang di chuyển vào khu vực vịnh Bắc bộ, mỗi giờ đi được 20km. Dự báo đêm nay và ngày mai...". Và để minh hoạ cho lời dự báo, trời bắt đầu sấm chớp đùng đùng. Cảm giác mình vẫn cứ ngồi yên trong lúc mọi người đi đường cuống cuồng guồng xe để tránh một cơn mưa đổ tới là điều rất ích kỉ nhưng cũng rất thú vị. Em nhìn bầu trời chằng chịt chớp, nhìn anh châm chọc "thế anh có đọc được ở đâu câu gì tiên đoán về hai người lần nào đi chơi cũng gặp mưa ko?". "Chắc là họ lấy nhau và sống với nhau đến đầu bạc răng long". "Anh nói như trong truyện cổ tích ấy" - em bĩu môi. Em biết là em có cái môi rất xinh, nên rất biết thế mạnh của nó. Nhưng đột nhiên em lại thở dài. Cả cái môi lẫn cổ tích đều khiến em nhớ về người bạn trai cũ. Truyện cổ tích thì bao giờ đẹp và chẳng bao giờ giống cuộc đời. Anh ấy đã từng nói những câu như vậy ,trong một lần mắc mưa cả hai trú lại ở một hiên nhà. Trời cũng mưa to như thế này, hai đứa đứng co ro, xuýt xoa lạnh, nhưng hạnh phúc vì được ở bên nhau. Thế mà rồi cuối cùng cũng chẳng đi đến đâu cả. Có phải lúc đấy anh đang xoay vô_lăng, ngoảnh đầu nhìn sang em ko nhỉ? Em biết mà, nhìn nghiêng trông em rất mềm mại, mỏng manh, và xa xôi, như hư như thực, cảm giác có giơ tay ra cũng ko chạm vào được.-"Đừng buồn nữa em " - anh dịu dàng nói. Em nhìn vào mắt anh, lúc ấy em ko muốn cái nhìn kiểu ấy chút nào, không một chút nào cả. "Anh cứ đi tiếp được ko?". "Được, nhưng vì sao?". "Vì ở phía ấy có mưa, em thích được nhìn mưa". Anh ko nói gì lặng lẽ lái xe đi. Mình lướt qua những luồng xe vội vã, những mái hiên nhà loang loáng nước, những mặt người lo âu... Anh chiều ý em, dù biết là em nhìn mưa chỉ để buồn bã hơn mà thôi.

3."Nắng thế này mà chưa biết có khi tối lại mưa đấy" - đứa bạn thân của em bực dọc dự đoán. "Cái trời này thật oái ăm, ban ngày trời nóng như điên, không thể đi ra đường với cái nóng như đổ lửa ấy được. Tối lại mưa như chút nước, cũng lại chẳng đi đâu được. Nhỡ hết bao nhiêu việc". "Tao vẫn đi đấy chứ có ảnh hưởng gì đâu". "Thế thì mày phải đợi tao kiếm quá xế hộp nào đã nhé". Đấy, em tức điên lên, bạn thân còn nghĩ thế nói gì đến người khác. "Tao đùa đấy chẳng có ý gì hết, mà cũng chẳng ai có ý gì cả, vấn đề chính là ở mày kia. Mày ko dứt bỏ được những chuyện cũ nên cứ ngồi đó mà tưởng tượng ra đủ thứ trở ngại. Tự mày dựng lên hết cả thôi. Cái gì đã qua thì cho qua luôn, cứ ngồi vấn vương với chuyện đó đến bao giờ nữa đây? Một tuần nữa? Một tháng nữa? Một năm nữa? hay cả đời? Và sẽ cứ phải buồn, phải chạm lòng, phải nghĩ mỗi khi bắt gặp một màu nắng ấm áp, màu nắng mùa đông? Ký ức ấy luôn là một vùng sáng, luôn lung linh xao động. Chẳng lẽ lại ước một cơn mưa đến để xoá nhoà tất cả?

4.Rồi đến hôm ấy, hôm anh đợi em ở đầu ngõ ấy. "Tối nay chắc chẳng mưa rồi". "Chẳng ai như anh, đi chơi lại cứ thích gặp mưa. Mà sao hôm nay anh lại đi xe máy?". "Vì anh nghĩ sẽ ko mưa, mà anh muốn được như những người bình thường khác cơ". "Nghĩa là sao cơ?". "Là được đón em và được đưa em về đến tận cửa ko phải ở ngoài ngõ như thế này". "Được sẽ có lúc", em hứa. Em ngồi lên xe, lâu lắm rồi em mới ngồi sau lưng một người con trai như thế, chạy qua những con phố như thế, giữa đông đúc người và xe. Nhưng ko còn một nỗi ám ảnh nữa, chỉ là một cảm giác buồn man mác len lỏi trong lòng khi nghĩ về những chuyện đã qua. Phải có lẽ đã qua hết rồi. "Em có biết tại sao anh lại thích mưa ko?". "Vì lúc mưa anh ko bị ướt như những người khác lại còn thích thú thấy người ta khổ sở nữa. Anh cười "em lúc nào cũng chỉ thích châm chọc thôi. Vì sau cơn mưa trời lại sáng, cứ mỗi lúc có chuyện gì buồn mà gặp mưa là anh lại nghĩ sau đó mọi chuyện sẽ ổn cả thôi. Không thể buồn cả đời được, phải ko em?". Em lặng im có lẽ anh nói đúng, mà đúng là anh nói đúng, chỉ vì em ko chịu nghĩ thế mà thôi...

Anh vẫn chờ em đi giữa dòng người và xe. Giữ một bầu ko khí ngột ngạt các loại mùi, mùi từ khói ống xả, mùi từ thức ăn hàng quán bên đường, mùi nước hoa của các cô gái mặc váy bò áo hai dây ngồi vắt vẻo trên xe máy... em chợt nhận thấy một mùi quen thuộc. Hít một hơi thật sâu, em nheo mắt cười "anh sai rồi, sẽ có mưa đấy. Anh có thấy mùi hơi nước ko?". Rồi ngay lập tức, một ánh chớp loằng ngoằng xuất hiện ngay phía chân trời. "Đấy thấy chưa?". "Mình đi về phía đó nhé?" anh hỏi em. "Anh ko sợ ướt à?". "Mưa thì mình trú, anh thích được bình thường như mọi người mà". Em nhè nhẹ gật đầu, và chếc xe lướt đi. Thế là em biết, em đang đi về phía một ngày mới, đi về phía có mưa.
 
Căn Phòng Ma

Họ bước chầm chậm trên chiếc cầu thang ọp ẹp dẫn lên căn phòng áp mái nhà đầy bụi. Alastair đi từng bước trên lối đi hẹp về phía căn buồng. Anh cẩn thận đẩy hai cánh cửa khép hờ ra. "Hãy tự nhiên như ở nhà", anh nói và đưa tay mời khách qua cửa bên phải. "Cánh cửa kia vào buồng người hầu, nay mẹ tôi dùng chứa đồ phế thải. Nếu cần mời anh vào xem qua".

Bên trong căn buồng ngủ tối mịt, ngoại trừ một ít ánh sáng mùa đông yếu ớt hắt vào từ ô cửa sổ nhỏ xíu duy nhất. Kavin bước về phía đó, sát góc buồng. Alastair cúi xuống bật đèn bàn. "Đây là nguồn sáng duy nhất", anh ta nói. "Tôi hy vọng nó đủ sáng".

Kavin đặt vali xuống giường.

Còn đây là chiếc radio. Nó có thể làm anh thoải mái đôi chút.

Cám ơn. Kavin nhìn chiếc radio cũ xưa, thô kệch.

Dù sao thì chúng ta nên xuống nhà làm vài ly cho ấm bụng, trước khi ăn tối. Mẹ tôi muốn gặp anh lắm. Bà tin rằng anh sẽ bắt được con ma ở Drumkattle này. Hay anh muốn xem trước?

"Tôi xem qua mấy phút thôi". Kavin cẩn thận rà soát cánh cửa và thấy ổ khoá to với chìa khoá cắm bên ngoài. Then cửa cũng khá to nằm bên trong, nó đã gỉ sét. Anh quan sát cái tủ tường ở góc buồng, cao lớn bằng một gã đàn ông. Anh nhìn sau lưng nó, nhận ra những tấm gỗ vẫn còn chắc chắn. Anh ngồi xuống giường, nhún lên nhún xuống rồi nhìn xuống gầm giường. "Tốt lắm", anh nói. "Sẽ xong thôi".

Thế à? Thôi, chúng ta xuống nhà đi.

Tôi quên một món, Kavin nói. "Cái chuông..."

"Đúng rồi". Alastair nhoài người về phía trước chụp lấy sợi dây dài độ vài phân treo từ trên trần. Anh lấy trong túi ra một sợi dây thô và buộc hai cái lại với nhau. "Để báo hiệu, Kavin ạ. Tôi sẽ để đầu dây ngay cạnh giường, nếu anh giật thì chiếc chuông nhỏ kia sẽ kêu. Nó nằm ở đây lâu rồi, nhưng vẫn kêu tốt chán".

"Này", Kavin nói, "tôi chả cần cái chuông đỏ như máu kia".

Được rồi, anh sẽ không cần đến nó.

"Khoan đã", Kavin nói. "Tốt hơn nên cho anh biết điều này". Kavin mở va li lấy ra khẩu súng ngắn. "Khẩu Smith and Wesson này no đạn đấy". Nói xong anh đặt nó xuống bàn. "Con ma nào dám trêu người, nó sẽ được tặng ngay một viên vào bụng. Tôi sẽ nói rõ hơn trước khi chúng ta bắt tay vào việc".

"Mày nghe rõ chưa ma" Alastair ngửa cổ lên trần nhà cười to. Nếu mày ló mặt ra thì lãnh ngay một viên kẹo đồng đấy nhé.

Họ rời căn buồng. Bà mẹ Alastair người nhỏ bé, sắc sảo đang ngồi trong phòng vẽ thiếu ánh sáng.

Mẹ, đây là Kavin. Anh ấy đến từ Australia.

Người đàn bà già tươi cười hỏi han. Trước kia, ngày mà chồng bà còn sống, bà đã từng đến Australia, và bà rất yêu đất nước đó, còn giờ đây, cái mà bà quan tâm nhất là làm sao để bắt được con ma trong ngôi nhà Drumkattle?

Alastair giải thích rằng đây chỉ là sự đánh cuộc. Một trăm năm nay không có ai ngủ trong căn buồng có ma đó, không có ai từ cái đêm người hầu ngủ trên giường bị tấn công dữ dội và bị giết chết. Người ta không rõ hung thủ là ai. Kavin sẽ ngủ - hoặc là cố để ngủ - trong căn buồng đó.

"Năm mươi pao thì nhiều đấy", bà Moncrieff nói.

Nhiều, nhưng với con thôi. Còn Kavin - Anh ấy giàu lắm - chính anh ấy mới là người trả tiền thua cuộc...

Kavin nhún vai cười. "Tôi không tin thế".

Gần mười hai giờ khuya, một mình Kavin ở trong căn buồng áp mái, cửa được khoá trái bên ngoài. Khẩu súng đặt ở vị trí thuận tiện sẽ giúp anh đỡ bị bất ngờ nếu con ma xuất hiện, dù nó ăn mặc quái gở thế nào đi nữa. Đêm tháng mười hai trời không có trăng. Căn buồng sẽ tối tăm nếu anh tắt chiếc đèn bàn trên đầu giường. Chiếc cửa sổ hình chữ nhật, con mắt duy nhất nhìn ra biển Bắc, hắt vào một chút ánh sáng xanh xao yếu ớt.

Anh để nguyên quần áo nằm trên giường, mắt liếc nhìn bìa sách nhưng tâm trí mãi nhớ đến lời hứa với Alastair. Chín tiếng nữa và mọi thứ sẽ qua thôi. Nếu đến tám giờ sáng anh không rung chuông - họ sẽ cảm thấy xấu hổ trước mặt anh, còn chuyện họ đi thông báo cho hàng xóm tin tức về anh nữa chứ - họ sẽ mở cửa cho anh ra và anh lấy về năm mươi pao tiền cược.

Ý nghĩ thứ hai chợt đến, làm gì có người nào đi thông báo; Drumkattle là ngôi làng duy nhất dọc bờ biển hoang vắng này. Chắc chỉ có Alastair, Duncan và bà mẹ già của họ là nghe tiếng chuông. Vậy thì khỏi cần rung chuông nữa. Anh cảm thấy chán quyển sách, bật công tắc chiếc radio bên cạnh, lắng nghe chươn trình "Nhạc đêm khuya" trên sóng đài Home. Anh chuyển sang đài Light đang phát ra bản nhạc Ja

, cuối cùng anh chọn đài Hamburg với loại nhạc Valse. Anh ngồi dậy cởi quần áo mặc ngoài.

Khẩu Smith and Wesson nằm một bên giường, anh kiểm tra hộp đạn lần nữa và thấy yên tâm. Xong xuôi anh thả mình xuống chiếc giường gỗ hẹp và với tay tắt đèn - có thể chiếc giường nằm không thoải mái này sẽ đánh thức anh dậy trước lúc bình minh.

Bản nhạc du dương nhưng được một lúc cơn ngái ngủ ập đến, anh quơ tay tắt chiếc radio.

Không chắc là mình thức giấc thật không nhưng rõ ràng anh nghe có tiếng động lúc một giờ sáng. Ban đầu anh không định hướng được âm thanh đó xuất phát từ đâu, dần dần mái nhà như thủng ra và nước nhỏ giọt xuống sàn. Anh đợi một lúc và bất ngờ bật đèn.

Thật lạ, không còn âm thanh nào. Không có nước trên sàn. Anh tắt đèn.

Lần này, chỉ khoảng nửa tiếng sau, anh lại nghe âm thanh đó, to hơn lần trước, cứ như thể nước đang rỉ xuống ngay giữa phòng.

Anh bực mình vì có tiếng động ngay cạnh đầu giường. Anh quay người sang bên kia, tim bắt đầu đập nhanh và hai bên thái dương giần giật. Tiếng động của chất lỏng đó dường như đang hoà nhịp với sự lưu thông của mạch máu trong người anh, và bất ngờ tiếng nước nhễu thay đổi vị trí như có một lỗ thủng khác trên mái nhà. Anh bật đèn lên, âm thanh nọ lại ngưng bặt.

Anh bật dậy, nhìn qua ô cửa sổ rồi bước đến gần thò tay ra ngoài: trời đâu có mưa? Lạ thật! Anh lui cui đi tìm nhưng vẫn không thấy có vết nước trên sàn. Anh lại gần tủ, mở toang hai cánh ra vì tưởng rằng Alastair hay Duncan nấp trong đó giả vờ làm tiếng động. Chiếc tủ trống rỗng.

Để đèn sáng anh nằm vật xuống giường. Anh liếc nhìn đồng hồ, ba giờ rưỡi. Anh uể oải tắt đèn.

Kavin chợt giật mình vì có tiếng người nói, anh ngồi bật dậy, tim đập mạnh. Đó là tiếng phụ nữ, giọng một cô gái, du dương. Anh căng tai, và từ rất xa, rất nhẹ, dường như có tiếng gọi "Kavin".

Thật vô lý. Anh không thể tự biến thành thằng ngu bằng việc trả lời tiếng gọi nọ. Anh bật đèn - mọi thứ chìm vào im lặng.

Anh nguyền rủa, cảm thấy mệt và bực bội. Bóng đèn bỗng nhiên bị vỡ. Một cục nước miếng chặn ngang cổ họng khiến anh thấy ran rát, và tai nghe rõ nhịp tim đập, anh chụp vội khẩu súng.

"Anh đang nằm", giọng nói lại vang lên. "Giữa vùng máu đỏ còn ấm. Máu của tôi, Kavin ạ".

Anh muốn mở miệng hỏi cái giọng nói kia nhưng không làm sao thốt thành lời. Lát sau, bằng giọng nói hoàn toàn không phải của mình, anh hỏi: "Sao..., sao lại thế..."

Đừng ồn, Kavin. Tôi tới đây để giết anh.

Kavin cười, cố tỏ vẻ can đảm. "Khá lắm thưa cô. Nhưng tại sao?".

Kavin, bởi vì căn buồng này, chiếc giường anh vừa nằm là của tôi. Tôi đã chết trên chiếc giường đó.

Mọi thứ ngưng lặng giây lát, tiếng đập trong tai anh to đến mức không còn chịu được nữa.

Tôi đã chết trên chiếc giường này, Kavin, trong vòng tay của một thằng đàn ông. Hắn ta đã giết tôi, khi tôi đang khóc tức tưởi...

Một ý nghĩ thoáng qua khiến anh chú ý đến chiếc công tắc radio. Nó vẫn ở vị trí tắt.

Giọng cô gái lại cất lên. "Hãy tạo mối quan hệ hoà bình với Người Sáng Tạo ra anh, hỡi Kavin Donaldson, vì anh chỉ còn được sống vài phút nữa thôi. Anh đã nghe thấy tiếng máu của tôi chảy xuống sàn chứ? Chẳng bao lâu nữa sẽ là máu của anh".

Lạ thay - tiếng nhỏ giọt lại vang lên. Phải chăng có thể nhìn được lúc này: anh thầm nguyền rủa chiếc bóng đèn chết tiệt. Và tại sao, tại sao anh không nghĩ đến chuyện mang theo chiếc đèn pin?

Anh nhớ đến chiếc bật lửa. Phải cố gắng lắm, anh nguyền rủa bản thân vì thật ra, anh mới với được chiếc áo khoác. Chiếc bật lửa Ronson toả ánh sáng dầu tù mù, anh không thấy gì cả.

Nhưng giọng nói vang lên gần hơn. Và anh lại chú ý đến chiếc radio lần nữa. Chắc chắn tiếng nói phát ra từ đó, dù công tắc vẫn tắt. Tức quá anh đập vào chiếc radio. Giọng nói vẫn vang lên nhưng lúc này anh đã quá mệt nên không hiểu nó nói gì. Nhưng đúng là chiếc radio rồi. Nghĩ thế anh giật tung dây điện ra.

Như cố tình trêu ngươi, giọng nói lùi ra xa. Nó đang nói gần bức tường. Tiếng nhỏ giọt phát ra từ đấy. Một cơn hốt hoảng ập đến, anh nhận ra nó vẫn ở trong phòng, anh ném chiếc radio xuống sàn làm nó bể ra. Chưa thoả mãn anh lấy giày đạp loạn xạ đến khi nó vỡ thành hàng chục mảnh nhỏ.

Giọng nói lại càng rõ hơn. Có ích gì đâu. Kavin. Anh không thể thay đổi được số phận - Tử thần sẽ đến và anh sẽ chết ngay đêm nay.

Anh bật lửa, trong phòng trống rỗng.

Bỗng nhiên có một tiếng động trong góc phòng khiến anh rùng mình. Tiếng nhỏ giọt đã trở thành tiếng chảy xối, anh đứng bật dậy, hoảng hốt, nhìn chầm chập vào một điểm trong bóng tối.

Anh nhìn không biết bao lâu, như bị hút hồn, chợt một cơn gió thoảng qua. Anh vòng qua giường, đến gần chỗ tiếng động, ở đấy chắc chắn có cái gì đấy. Phát điên lên anh mím môi bật lửa, phải đến bốn lần bật nó mới cháy.

Anh kêu lên kinh hãi, hơi thở dồn dập. Ánh sáng quá yếu nhưng cũng đủ soi rõ một hình người, một hình người đứng gần tủ. Gương mặt - nếu được gọi đó là gương mặt thì nó có màu xanh tái, còn quần áo - nếu có thể coi đó là quần áo thì màu của nó tối lắm, có lẽ là màu máu đỏ. Hình như người ấy đang nói - vẫn cái giọng nữ - nhưng hai môi không hề động đậy. Bóng người mỗi lúc một gần hơn.

Anh quỵ xuống giường, người cứng đơ. "Ai... cút đi...", anh thét lên thảng thốt. "Cô là ai! Sao vào đây được?... Tôi sẽ giết cô đấy. Lời cảnh cáo cuối cùng của tôi"... "Lời cảnh cáo cuối cùng..."

"Đạn không giết được tôi đâu, Kavin. Một người đàn ông đã làm thế với tôi. Giết chết tôi lúc tôi nằm ngay chỗ anh vừa nằm ấy, nhưng sẽ không còn thằng đàn ông nào nữa, và không còn viên đạn nào đâu..."

"Tôi cảnh cáo lần cuối!" - Kavin rít lên.

Anh nổ súng, bắn thẳng vào hình người và kết quả làm anh chết lặng. Khói súng vừa hết anh nhìn thấy cái gương mặt trắng nhợt vẫn ở nguyên chỗ cũ.

Anh thét lên, bắn, bắn tiếp, bắn nữa. Trong đám khói thuốc súng cay xè anh vẫn thấy hình người, đang tiến đến gần hơn. Nguy rồi! Đến nước này thì không thể không tri hô cho mọi người biết. Nghĩ vậy, tay trái rung chuông, tay phải anh vẫn bắn cho đến khi khẩu súng chỉ còn phát ra những tiếng cạch... cạch... khô khốc. Hình người đã đè lên anh, anh thúc mạnh khẩu súng hết đạn nhưng nó rơi xuống như gặp phải lực cản quá mạnh. Da anh ướt đầm, không phải vị ngọt, máu, anh biết đó là máu.

Tay chạm được dây chuông, anh dồn hết sức kéo mạnh. Chiếc chuông nhỏ của nhà thờ xứ Scots kêu lên ở đâu đó trên đầu anh. Hình người rung mạnh rồi đột nhiên mọi thứ đen sẫm lại. Im lặng. Bóng tối phủ trùm.

Mấy tháng sau, Kavin Donaldson được đưa về Australia. Người ta không nhận được tin tức gì về anh. Tầng trên cùng của ngôi nhà Drumkattle từ đó không một bóng người bén mảng đến, không ai dám vào suốt vài chục năm sau - khi cả toà nhà đổ sụp xuống.
 
Nhà bên kia
Tác giả: R.k Narayan



Mỗi khi ông đạo nhìn ra cửa sổ là ông rùng mình. Bên kia đường là nhà của một người đàn bà không biết xấu hổ. Cứ tối tối, mấy anh đàn ông lũ lượt kéo đến gõ cửa nhà chị ta - không chỉ tối, trưa cũng có nếu nhằm vào ngày nghỉ hay lễ lạc. Bọn đàn ông lai rai hút thuốc, nhai thuốc, nhổ phèn phẹt vô cống rãnh -đủ thứ bê bối trên đời dưới mắt ông đạo vốn sống khắc khổ, không gia đình vợ con, không đồ đạc tiền bạc, không chút tiện nghi. Với ông, căn phòng này, với hai cây dừa và cái giếng phía sau,đã đầy đủ lắm. Con đường trước nhà đầy nhóc trẻ con: thỉnh thoảng, ông gọi chúng vô, bảo chúng ngồi quanh ông, rồi ông dạy chúng những bài luân lý thậ tđơn sơ và vài câu thơ trong sách thánh. Dăm ba hình ảnh các đấng thần linh cắt ra từ mấy cuốn lịch cũ, ghim trên tường. Ông đạo bảo bọn con nít sụp đầu quì lạy trước khi cho mỗi đứa một miếng kẹo đường rồi xua chúng ra chơi bên ngoài.

Mỗi ngày của ông đạo là một chuỗi lề thói không thay đổi. Như chim chóc gà vịt, ông đi ngủ khi trời mới tối, nằm ngay trên sàn nhà, không chiếu không nệm, một khúc gỗ làm gối dưới ót. Bốn giờ sáng, ông dậy, trước cả con gà hay gáy ở cuối đường. Ông ra tắm rửa ngoài giếng, rồi vô ngồi thiền định trên một miếng da nai. Sau đó, ông nhóm lửa trong cái lò than, nấu một vài chapattis cho bữa ăn sáng và trưa, cùng một ít rau cỏ thật lành, tránh dùng các thứ kích thích như khoai, hành, cải bắp, v.v...


Ngay cả lúc ông đạo trầm tư sâu lắng nhất, ông cũng không thể không nghe tiếng cửa kèn kẹt bên kia đường khi một khách chơi nào đó ra về sau một đêm truy hoan. Riêng ông, ông quyết tâm triệt bỏ tất cả những thèm thuồng của cái mồm, và ông hành hạ thân xác ông đủ cách. Ông đạo là một con người hoàn toàn trái ngược với anh lực sĩ gồng bắp thịt lên rồi tự ngắm nghía trong gương. Ông săm soi từng chút hao gầy trên thân xác mình, và lấy làm thích thú vì đã đạt được chúng. Ông một mực tuân theo lời dạy của sư phụ xưa kia, và mong rằng một ngày tâm linh ông sẽ được hoàn toàn giải thoát.


Một chiều nọ, mở cửa quét bụi, ông đạo thấy người đàn bà nhà bên kia đứng ở cửa nhìn mông ra đường. Máu dồn lên mặt; thái dương ông giật giật. Ông nhìn kỹ chị đàn bà - những nét sắc, rõ, nhưng chôn vùi trong thịt da đầy mỡ, xếp chồng lên nhau. Tuy nhiên, chị ta có một dáng người quyến rũ: hai cánh tay no đầy, mềm mại như hai cái gối. Hai cánh tay đó mà ôm, mà xiết, bọn đàn ông khoái là phải. Cái nhìn của ông đạo, một khi đã bắt đầu loay hoay loanh quanh thân hình con đĩ hàng xóm, nhất quyết không quay về vị trí đúng đắn của nó nữa - tức là về ở chóp mũi, như sư phụ ông đã nhiều lần nhắc nhở


Chị đàn bà, bờ hông to tướng, đầy ơi là đầy, hai đùi bự như thân chuối... Nói chung, người chi mà như một cái nệm, dày, mềm, khách chơi, không một mảnh vải, có thể lăn qua trở lại suốt đêm -"Con quỉ! Xấu xa hiện thân!" Ông đạo bỗng thấy giận con mẹ quá. Mắc mớ chi nó đứng đó, phá phách đời tu tập của ông, bao nhiêu công đức ông thu lượm được trôi phăng như nướcchảy qua một cái rá. Thật khó mà nói cái gì ở chị đàn bà rù quến và làm tàn đời bọn đàn ông, hai cánh tay, hay đôi vú, hay cặp đùi, cái nào cái nấy bự sư, đầy cả thịt, mềm, và êm... Ông rít thầm: "Đi vô đi, đừng có đứng đó nữa!" Chị đàn bà bỗng quày quả xoay lưng đi vô, đóng cửa lại. Ông đạo có cảm tưởng mình thắng cuộc, mặc dù lệnh ông ban ra và hành động đi vô nhà của chị ta chỉ tình cờ mà trùng nhau thôi. Ông đóng cửa lại thật kỹ, rồi lui vào góc xa nhất trong phòng, ngồi xuống miếng da nai, rồi lẩm nhẩm, " Om, Om, Rama, Jayarama"... Chỉ xướng lên danh hiệu Rama là chận đứng lại được mọi lang thang vất vưởng của niệm lực.


"SriRama...", ông lập lại, nhưng đó chỉ là liều thuốc đã pha loãng, không dứt nổi cơn sốt nặng. Thần chú vô hiệu quả. "Sri Rama, Jayarama..." ông lập đi lập lại với tất cả thành khẩn, nhưng tác dụng có chăng chỉ trong tích tắc. Không biết khi nào tâm trí ông đã lẻn đi hoang, đặt ra cho mình những câu hỏi đại loại: Cái thằng cha mặc áo ca-rô mình thấy bước xuống tam cấp tối qua là ai vậy cà? Thấy nó đâu đó rồi... Ở đâu nhỉ? Khi nào nhỉ?... À, thằng thợ may giàu sụ ở đường Market chứ ai vào đó nữa... mấy ông mấy bà sang trọng lui tới cửa hàng nó nhiều đa!... Thành viên của mấy cái hội du hí đó mà... Chen vai thích cánh với bọn sĩ quan và bọn doanh gia giàu có? và tối đến thì nằm lơi lả phởn phơ trên cái nệm người! Thế mà bọn sang trọng đó để cho nó đụng vào người với cái thước dây của nó! Bệnh hoạn, chỉ có bệnh hoạn; cả đời tội lỗi thê thúi. Ông đạo kêu lên trong căn phòng đơn chiếc, "Rama! Rama!" như thể ông gọi ai đó mà người đó không nghe. Đã đến lúc ông biết rằng việc ông làm không đem lại kết quả gì. Rama là một hiện thân toàn hảo, cố nhiên, nhưng Rama lành thật lành, hiền thật hiền. Rama là thần bao dung, và xướng danh hiệu Ngài lên chỉ đem lại an tịnh trong tâm hồn. Bây giờ đây, ông cần một giải pháp quyết liệt hơn. Chắc là nên đọc thần chú Siva. Siva, vị thần đã mở con Mắt Thứ Ba ra và biến Thần Ái tình thành tro bụi khi thần này nhắm bắn tên vào Siva khi Ngài đang ngồi trầm tư mặc tưởng. Ông đạo hình dung vị thần tóc bện, mắt sáng, và xướng lên: "Om Namasivaya". Căn phòng nhỏ vang lên tiếng khấn khàn đặc. Những tơ tưởng, nãy giờ lang thang đâu đâu, được chận lại một lúc, nhưng rồi bùng lên, rượt theo chị đàn bà bên kia đường. Cứ tối tối là chị nàng mở cửa, đóng cửa ít nhất sáu lần. Nó ngủ với cả mấy thằng cùng một lúc à? Ông đạo nghĩ cái ý này thật tức cười, đồng thời kịp nhận ra rằng công phu chiêm ngưỡng đấng thần linh đã biến đâu mất tiêu. Ông đập hai nắm tay vào thái dương, cảm thấy đau nhưng cũng thấy nội lực trầm tư của ông vững vàng hơn. " Om Namasivaya..." Đâu đó trong tâm trí, ông để ý đến tiếng kèn kẹt của cửa nhà bên kia đường. Con mẹ đàn bà này đúng là một con rắn lớn, quấn lấy ai là nghiền nát người đó? già, trẻ, trung niên, thợ may, sinh viên (hai ba hôm trước đây, ông thấy một cậu cử khoa học, một B.Sc (3), nơi cửa con mẹ), luật sư, quan tòa (tại sao không?)... Thảo nào thế giới bị nạn nhân mãn ?cứ xét cái bản năng tự nhiên nơi mỗi con người! Ô, Siva, đấng thần linh, mụ đàn bà này, phải trừ bỏ mụ đi. Ông sẽ mặt đối mặt với mụ một ngày gần đây, và bảo mụ khôn hồn thì xéo đi. Ông sẽ nói: "Nghe đây, đồ tội lỗi đầy mình, đem bệnh hoạn và dơ dáy trải ra khắp nơi như một cái cống lộ thiên. Mày muốn bức hại cả nhân loại sao? Sám hối đi, cạo đầu phứt đi, lấy vải bố mà che đôi hông đầy đó đi, rồi kiếm cái xó nào ở một cổng đền mà ngồi, xin ông đi qua bà đi lại bố thí cho, và cầu Ơn Trên ban cho mày một cuộc đời sạch sẽ hơn, ít nhất trong kiếp sau..."


Đó là những điều ông đạo định bụng sẽ nói chứ thật ra, đêm nằm vật vã không ngủ được, ông lăn qua trở lại, lúc nào cũng tơ tưởng đến chị đàn bà. Ông trở dậy, trước bình minh, quyết tâm. Ông sẽ ra đi ngay hôm ấy, ông sẽ lặn lội vượt qua vùng Nallappa, đến bờ sông bên kia. Đâu cần một mái nhà; ông sẽ lang thang nơi này chốn nọ, muốn nghỉ ngơi thì dừng chân lại một đền thờ nào đó, không thì bóng mát của một cây đa cũng tốt rồi: ông nhớ lại một chuyện xưa sư phụ đã kể ông nghe... Sau khi chết, một con đượi được lên thượng giới trong khi cái người lâu nay giúp nó hoàn lương thì lại phải xuống âm phủ. Ông được giảng giải cho nghe rằng thì là con đượi chỉ mang tội với thân xác của nó trong khi đầu óc con người kia lại tự hủ hóa đi vì chỉ săm soi vào con đượi, chúi mũi vào chuyện riêng tư của nó, bỏ bê công phu trầm tư mặc tưởng của chính mình.


Ông đạo chỉ mang theo cái giỏ mây đựng mấy thứ nho nhỏ như hình ảnh một vị thần linh bằng đồng đỏ, chuỗi hạt mân côi, miếng da nai, và cái tô nhỏ bằng thau. Giỏ mây trong tay, ông nhẹ bước ra khỏi nhà, khẽ đóng cửa lại. Trong ánh mờ mờ sáng tinh sương, vài bóng người thấp thoáng anh bán sữa xua bò đi đằng kia, mấy người phu phen vác cuốc vác xuổng, vài mụ đàn bà đội thúng ra chợ. Dừng lại nhìn một lần cuối nơi mình giã từ vĩnh viễn, ông đạo bỗng nghe có tiếng người van vỉ: "Ôi, sư phụ,thầy ơi..." Tiếng gọi nghe như thiết tha, như cầu khẩn, phát ra từ nhà bên kia đường. Ông thấy người đàn bà, đúng là chị đĩ đó, tiến đến ông, hai tay bưng một mâm hoa quả. Chị sụp xuống, đặt mâm bên chân ông, rồi chắp hai tay: "Xin Thầy thương mà nhận lấy hoa quả mọn con dâng lên Thầy. Hôm nay là ngày giỗ Mẹ con. Kính lạy Thầy, con xin Thầy mở từ tâm mà ban phép lành cho mẹ con con..." Trong khoảnh khắc, ông đạo quên mất tiêu bao nhiêu điều ông đã chuẩn bị sẵn sàng để nói với con đĩ; bây giờ ông thấy rõ thân hình xồ xề thảm hại của chị ta, thấy rõ hai quầng thâm đen thui dưới mắt chị ta, và lòng ông tràn trề thương xót. Chị đàn bà khom mình xuống lạy và ông đạo nhận ra rằng tóc chị nhuộm bừa bãi, đường ngôi rẽ giữa trên đỉnh đầu lan rộng thành một vạt hói, phô cả da sọ ra. Một cái bông nhài cài lơ lửng trên đầu. Ông đạo đưa tay chạm nhẹ vào mâm hoa quả, cho biết như thế là ông đã nhận lấy cái quà, rồi ông lặng lẽ bước đi, đi xa dần.


Chú thích


1.Narayan (Rasipuram Krishnaswamy) gốc Bà- la- môn, Ần độ,sinh năm 1906. Kể từ cuốn tiểu thuyết đầu tiên được xuất bản, Swami andFriends, ông cho ra đời nhiều sách: tiểu luận, tiểu thuyết, đoản thiên, kể cả một tuyển tập những truyện mới viết, Under theBanyan Tree. Ông chuyển ra văn xuôi Anh ngữ những trường ca cổ đại của Ần như Mahabharata và bản Ramayana của nhà thơ Tamil là Kamban, thế kỷ 13. Ở Tây phương, truyện của ông từng xuất hiện trên The New Yorker.

2.Nguyên tác: "the hermit". Từ này có nghĩa là "người ở ẩn". Người dịch chọn "ông đạo", hợp với câu chuyện hơn.

3.B.Sc., trong nguyên tác Anh ngữ!
_________________
một thời mộng mơ ..
một thời cỏ dại ...
 
Có lần H. - một anh bạn tôi mới quen - đang ngồi trò chuyện vui vẻ bỗng im bặt rồi vội vã cáo từ. Tôi nghĩ chắc anh bận việc phải đi nên cũng không giữ lại . Tôi luôn luôn không thích giữ lại một người muốn ra đi . Hôm sau, một anh bạn khác của tôi cho biết:


- H. nói ông bị bệnh giống Hàn Mặc Tử! Ngón tay trỏ của ông bị cùi sứt móng, đỏ hỏn. H. khuyên tôi không nên gần ông, dễ lây bệnh.


Tôi chỉ biết cười buồn. Từ đó, khi tôi nói chuyện với một người mới quen, tôi thường chủ động bỏ bàn tay trái vào túi quần. Có người lại nhận xét tôi sống "thủ" kỹ quá. Thật oan hơn ông Địa! Không phải vậy đâu . Tôi xin phép được kể rõ nguyên nhân để tránh những hiểu lầm dễ xa nhau .


Mỗi người khi suy nghĩ điều gì quan trọng, người ta thường có thói quen "nhâm nhi" một cái gì đó. Người thì nhâm nhi tách trà, ly cà phê, ly rượu, điếu thuốc... người thì nhâm nhi cán viết. Còn tôi thường đưa ngón tay trỏ bàn tay trái (vì tôi thuận hàm trái) nhâm nhi . Vì vậy, móng tay đó đã bị sứt móng đỏ hỏn. Chớ tôi đâu có triệu chứng bệnh cùi .


Chắc sẽ có bạn hỏi: Vậy ông suy nghĩ chuyện gì mà "lung" giữ vậy ? Xin thưa: Những lúc ăn no (chứ lúc đang đói có thể tôi sẽ nhai luôn ngón tay mình) tôi thường đưa ngón tay trỏ lên nhâm nhi để suy nghĩ trả lời một câu hỏi đã thắc mắc từ lâu:


- Tình đầu là một huyền thoại hay là một trò đùa ?


Theo "Từ điển tiếng Việt" - NXB Khoa Học Xã Hội "Huyền thoại: câu chuyện huyền hoặc hay dũng cảm của thời xa xưa". Định nghĩa có vẻ rất đúng với mối tình đầu của tôi . Khi yêu nàng tôi xem nàng như một nàng tiên. Không cô gái nào ở cõi đời này có thể so sánh được với nàng dù đó là hoa hậu thế giới . Nên câu chuyện có vẻ "huyền hoặc". Ngày ấy chúng tôi học cùng lớp. Nàng là con nhà giàu và học rất giỏi. Còn tôi con nhà nghèo, học dốt mà cũng bày đặt yêu nàng. Đúng là tôi "dũng cảm". Và chuyện tình đó xảy ra cách nay thiếu một ngày thì tròn 20 năm, nên đã thuộc vào "thời xa xưa".


So sánh và đối chiếu kỹ như thế nhưng sao tôi vẫn thấy chưa vừa lòng. Tôi vẫn thấy mối tình đầu của tôi cứ như một trò đùa . Trò đùa là gì? Chắc các bạn đều rành, khỏi cần phải tra từ điển mỏi tay . Nếu bạn chưa rõ, tôi xin được kể tiếp:


Hôm sinh nhật thứ 16 của nàng, tôi nghĩ phải tặng nàng một món quà gì đó thật đặc biệt để nàng sẽ nhớ mãi đến mối tình đầu "vĩnh cửu" của tôi . Cuối cùng, tôi đã đập con heo đất, lấy hết tiền dành dụm đi mua vật dụng về đúc một trái tim bằng xi măng cốt thép, bên trên có khắc rõ nét tên nàng quyện chặt tên tôi . Buổi tối, khi tôi trao món quà vừa to vừa nặng cho nàng, nàng đã chớp chớp đôi mắt tỏ vẻ rất cảm động khiến tôi cũng sung sướng ngất ngây .


Sáng hôm sau, tôi đi học ngang nhà nàng. Trời ơi! Bạn đã bao giờ nhìn thấy lá thư tình của bạn nằm trong sọt rác nhà người yêu của bạn chưa ? Nếu thấy, chắc bạn sẽ đau khổ lắm. Nhưng đã "nhằm nhò" gì so với nỗi đau khổ của tôi, khi tôi thấy trái tim mình nằm trong sọt rác nhà nàng. Tôi ôm ngực lảo đảo bỏ học về nhà. Tôi buồn quá. Tôi chỉ muốn chết. Không phải vì nàng mà vì muốn quên đi mối tình đầu tưởng là "vĩnh cửu" không ngờ chỉ diễn ra trong chốc lát. Thật đáng tiếc nhà tôi ở thành phố nên không có thuốc rầy để tôi uống. Nhà tôi có nuôi hai con mèo nên cũng không có thuốc chuột để tôi uống. Tôi đành phải uống tất cả các loại thuốc có sẵn trong tủ thuốc gia đình. Và tôi đã nhắm mắt "tạm biệt" cõi đời đúng hai ngày . Khi tỉnh dậy, tôi bắt đầu đưa ngón tay trỏ lên nhâm nhi và thầm hỏi ...


Các bạn đã tặng "một bông hồng cho tình đầu". Còn tôi đã tặng nàng một móng tay cho mối tình đầu . Dĩ nhiên những mối tình đầu của các bạn đẹp hơn và thơ mộng hơn mối tình đầu của tôi . Nhưng biết làm sao được! Đâu phải ai cũng là người tốt phước có được mối tình đầu giúp cho trái tim mình to lớn hơn và đập khỏe mạnh hơn.


Dù đã nghe một triệu lần bản nhạc "How you can mend a broken heart" của Bee Gees, âm nhạc cũng không thể giúp tôi hàn gắn được một trái tim đã vỡ. Ngày ấy tôi đã yêu nàng với một trái tim còn nguyên vẹn. Từ đó về sau, tôi đành phải yêu người và yêu mình với một trái tim tan vỡ. Thật thảm thương!


Vậy tình đầu là một huyền thoại hay là một trò đùa ? (Trò đùa của nàng và tôi . Trò đùa của chúng tôi với cuộc đời). Tôi đã tập viết văn để cố gắng trả lời câu hỏi đó. Nhưng loay hoay mãi vẫn chưa trả lời được suông sẻ. Vậy xin các bạn hãy chỉ bảo giúp tôi . Nếu không tôi lại phải đưa ngón tay trỏ (dĩ nhiên của bàn tay trái vì người ta khó mà từ bỏ được một thói quen) vào hàm răng trái, tôi vừa nhâm nhi vừa tự hỏi: - Tình đầu là...?
 
Mưa tối
Nguyễn Thị Ngọc Tú



Tiếng gõ cửa rụt rè.

- Ai đấy? - Tôi hỏi.

- Cháu ạ! - Tiếng đáp rất nhỏ.

- Cháu hỏi ai? Cháu là ai?

Ở khu tập thể lâu năm cho tôi kinh nghiệm chẳng nên quá sốt sắng trước những tiếng gõ cửa. Biết bao thảm hoạ đã xảy ra trong tình huống ngẫu nhiên, bất cẩn. Ít nhất cũng khó chịu vì sự nhầm lẫn nào đó. Tôi chẳng đã nhiều lần tức điên vì một người đàn ông lạ hoắc lao cái xe bết bùn vào nhà, đàng hoàng vào ghế ngồi, oang oang trò chuyện để rồi giật mình choáng choàng đứng lên xin lỗi, xin lỗi rối rít vì sự nhầm lẫn rồi lao xe ra khỏi nhà.

- Cháu là ai? - Vậy nên tôi hỏi lại.

- Cháu là Bình, cái Bình con bố Thân, cô ạ. - Tiếng con gái, giọng mảnh mai, thầm thì.

- Bố Thân ở trên gác năm cơ mà! - Tôi đã nhận ra người ngoài cánh cửa và đồng thời ngạc nhiên vì sự nhầm lẫn. Bình là con gái Thân và đã sống ở đây bao năm sao lại có thể nhầm lẫn?

- Cháu lên gác năm nhé! - Tôi nói to.

- Cháu biết rồi. Cháu muốn gặp cô. Cháu có việc muốn nhờ cô. Cô mở cửa cho cháu vào, nhanh lên không có người ta nhìn thấy. Giọng năn nỉ, vội vã sát bên cánh gỗ. Cả tiếng thở dồn dập giống như vừa chạy gấp lại giống đang bị săn đuổi.

Rồi cửa mở toang khi tôi vừa kéo chốt.

Một cô gái nhỏ nhắn ùa vào nhà tôi như một cơn gió. Người cô ướt đẫm. Bình đứng sát vào cánh cửa vừa đóng lại, bắt đầu vuốt quần áo. Thoáng chốc dưới chân Bình nước đọng vũng.

- Chà, nhà cô thích quá! Vừa ấm vừa sáng. - Bình nói và đứng ngây nhìn căn phòng của tôi. Đồ đạc sơ sài chẳng có gì đáng kể nhưng gọn gàng, yên tĩnh. Hai con tôi chỉ ngẩng lên chào Bình bằng một cái gật đầu rồi lại cúi xuống những cuốn sách. Trên ti vi, một người đàn ông đang hát: Bằng lòng đi em, bằng lòng đi em, anh đón qua cầu…

- Sau cháu không mặc áo mưa hay trú tạm để ướt thế này? - Tôi ái ngại đưa khăn bông cho Bình.

- Cháu có việc cần nhờ cô, cháu phải đi ngay bây giờ.

- Cháu uống chén nước cho ấm người đã - Tôi pha chè đưa Bình một chén.

Bình nhận chén nhưng không uống, hỏi:

- Bố cháu chưa về, hả cô?

Lại một điều lạ. Tôi tròn mắt. Làm sao tôi có thể biết một người ở cách tôi mấy tầng gác đã về nhà hay chưa khi mà cửa nhà nào cũng đóng cả ngày.

- Giờ này chắc bố cháu về nhà rồi. - Tôi nói cầm chừng - Cháu lên đi.

- Cháu nhờ cô lên nói bố cháu xuống đây cho cháu gặp một lúc. Cháu có việc cần lắm, cháu muốn gặp bố cháu. Cháu đã đứng đợi ngoài đường rất lâu chờ bố cháu đi qua mà không thấy.

- Sao cháu không lên nhà gặp bố, sợ gì?

- Không được đâu cô ơi! Dì ấy không muốn nhìn thấy cháu, cháu mà về nhà, bố dì cháu lại cãi nhau. Có khi các em cháu lại bị đánh oan vì chúng nó thích chơi với cháu mà.

- Cháu cứ trốn mãi sao được?

- Được đến bao giờ hay bấy giờ.

Tôi bước một, lên cầu thang. Chậm, nghĩ ngợi. Làm thế nào để gọi ông Thân xuống nhà tôi mà vợ ông không nghi ngờ?

Họ đã lên xuống cầu thang này bao nhiêu lần trong những năm tháng hạnh phúc ấy? Chiếc khăn voan mỏng đỏ che lên mặt đứa con gái ngồi trong chiếc ghế mây bố bên mẹ, bao giờ cũng qua trước cửa nhà tôi để đi hoặc về giống như một cặp đối xứng.
Bẵng một thời gian tôi không thấy họ đi đôi nữa. Qua lại trước cửa nhà tôi chỉ là một người - hoặc chồng, hoặc vợ - Đứa con gái không được ngồi ghế mây, mặt trùm khăn voan đỏ nữa. Nó đi một mình, nép vào các vỉa hè. Thảng hoặc, nó đi theo bố hoặc mẹ, nét mặt lầm lì.

Một lần, tôi giật mình nghe tiếng trẻ khóc trên tầng cao. Tiếng khóc đặc biệt làm tôi phải chạy bổ lên cầu thang. Người mẹ tay dắt xe đạp, vai đeo ba lô, túi vải căng phồng buộc sau xe đạp. Bình nằm lăn dưới đất, tay giữ chặt chân mẹ:

- Mẹ ơi, mẹ đừng bỏ con!

- Mẹ không bao giờ bỏ con - Người mẹ nói, giọng lạnh lùng, mắt hoe đỏ.

- Mẹ đừng đi! Con lạy mẹ!

- Mẹ phải đi. Mẹ không thể ở đây được!

Người mẹ gỡ tay con ra. Gỡ rất lâu giống như giằng xé mới dứt ra khỏi đôi bàn tay nhỏ bé nhưng níu chắc như một loại kìm. Người mẹ dắt xe lao xuống cầu thang. Tôi chỉ kịp nhìn thấy thoáng qua cửa một khuôn mặt còn nhiều nét đẹp của tuổi trẻ và một đôi môi mím chặt giận dữ. Nhìn nét mặt của chị tôi bỗng có cảm giác lẽ phải thuộc về chị và cuộc ra đi của chị là hợp lí mặc dù tôi chẳng hiểu rõ nguyên nhân. Nét mặt ấy ám ảnh tôi mãi cho đến khi tiếng pháo nổ vang dưới chân cầu thang hẹp, một buổi chiều.

- Pháo gì thế? - Tôi giật mình.

- Đám cưới bác Thân! Hoan hô cô dâu chú rể đội rế lên đầu! - Tiếng trẻ con reo hò.

Một khuôn mặt không già không trẻ, tròn trặn và hân hoan mặc áo dài hồng ôm bó hoa trắng đang cúi đầu trong khói pháo. Đi bên cạnh, tay giơ đỡ hờ lưng cô dâu là chú rể. Người cứng nhắc trong bộ complê màu mắm tôm trẻ trung trang trọng bất ngờ. Khác hẳn người đàn ông hàng ngây tôi vẫn gặp. “Vì sao họ bỏ nhau. Vì sao họ lấy nhau? Có đau khổ không? Có hạnh phúc không?”. Những ý nghĩ của tôi không được ai giải đáp.

Thời buổi đổi mới, bỏ nhau dễ ợt. Chỉ cần một bên không còn tình cảm muốn li hôn tòa cũng giải quyết! - Thân nói với hàng xóm vẻ mãn nguyện, một lần đứng hứng nuớc dưới chân cầu thang.

- Còn đứa con?

- Ồ, nó có cuộc đời nó!

Mọi việc đơn giản thế thôi ư? Sao tôi cứ phải nghĩ. Cổ hủ! Bảo thủ! Tôi tự mắng mình.

Rồi lướt qua cửa sổ phòng tôi không phải là một cặp song đôi mà một người đàn ông gò lưng đèo một người đàn bà bụng to phồng như ôm bóng, chậm chạp đi qua. Tôi lẩm nhẩm tính từ ngày nghe pháo nổ đến nay mấy lần trăng tròn.

- Bà rõ cổ hủ, thời đại đổi mới, làm sao cứ phải chín tháng mười ngày trẻ con mới ra đời! - Chồng tôi chép miệng.

Tôi không hiểu anh nói thật hay đùa.

- Em chấp nhận mọi đổi thay, chỉ thương đứa con.

- Tôi thở dài. Rồi cứ phập phồng lo ngại điều gì sắp xảy ra bên cạnh tôi. Mẹ bỏ đi, bố lấy vợ khác. Bình như cái bóng lẩn khuất. Khi rổ thức ăn nặng vẹo sườn, khi chống đòn gánh chờ nước. Khuôn mặt lo âu già sớm.

- Đừng có gánh sớm, vẹo xương sống đấy, cháu ạ!Một bà cụ ở cầu thang một nói. Đầu Bình gật gật.
Rồi người ta thấy nó vung vẩy chiếc cặp lồng nhôm đi mua phở ở chợ.

- Dì cháu đẻ em trai rồi! - Nó cười nhe hàm răng sún. Lâu lắm mới thấy nó cười.

Và sau đó, gần như suốt ngày nó ở dưới máy nước. Người nó ướt đẫm bên cạnh cái chậu to tướng và những cái tã vàng khè.

Rồi một thằng bé bụ bẫm góp mặt với cầu thang trên vai Bình.

À ơi. Cái bống mày ngủ cho ngoan…

Tiếng nó ru. Bàn tay nhỏ gầy teo vỗ vỗ lên cái lưng tròn mát rượi của em.

Ba tháng lẫy, bẩy tháng bò. Khi thằng bé lẫm chẫm chạy đi thì Bình nghỉ học. Dì phải đi làm và còn kiếm thêm mới đủ sống bằng công việc gì đó luôn vắng nhà. Bố cũng vậy. Lưng bố như cong xuống. Ai hỏi thăm sức khỏe, bố cười:

- Có con trai rồi!

Rồi bố không đi làm nữa:

- Thời buổi này phải năng động!

Thân mang về nhà một cái loa, cặp và túi bạt cùng với những chồng báo các loại.

- Báo mới đây! Báo mới đây! Hôm nay tòa trung sơ thẩm xử vụ án ngoại tình giết nhau. Một vụ giết người li kỳ rùng rợn. Mua ngay! Mua ngay không hết…

Tiếng loa vang lên góc chợ, đầu phố, bến tàu, sân ga. Bình tha em đi khắp nơi. Cái bụng của dì chưa kịp nhỏ lại sau sinh nở đã lại phình to.

- Lại ông tướng nữa! - Một buổi sáng, Thân gõ cửa các nhà hàng xóm, khoe.

- Nhanh nhỉ!

- Thôi chứ?

- Để xem đã!

Cũng chẳng ai hiểu Thân xem cái gì, chỉ biết từ ngày có thêm đứa con thứ hai nhà anh rất ồn ào và luôn có tiếng đổ vỡ.

- Chuyện gì thế? - Hàng xóm hỏi khi có dịp gặp anh, lúc bên máy nước, khi buổi chợ chiều.

- Ồ, chuyện đàn bà ấy mà!

Anh đáp qua loa rồi lảng sang chuyện thời sự. Tình hình quốc tế, phe ta, phe nó và giá cả thị trường, đô lên, vàng xuống.

Vẫn tiếng đập vỡ. Tiếng khóc gào, chửi bới, quát hét văng vẳng tầng cao. Bóng cái Bình chập chờn đây đó. Một lần cả cầu thang xô ra khi dì cầm dao phay đuổi theo Bình. Những tờ giấy trong các vở học trò bị xé vụn tung từ trên cao xuống như xác pháo.

Sau đêm ấy, tôi không nhìn thấy Bình. Tôi hỏi, nhân một lần mua báo Phụ nữ của Thân.

- Nó về với mẹ nó để đi học rồi!

Ít lâu sau lại thấy Bình xuất hiện ở cầu thang với những thùng chậu và quần áo cái loại to nhỏ.

- Sao cháu không ở với mẹ mà đi học? - Tôi hỏi trong lúc chờ hứng nước dưới cầu thang.

- Ông ấy uống nhiều rượu, cháu sợ lắm.

- Ông nào?

- Chồng của mẹ cháu ấy.

Tôi câm nín. Tôi luôn tự răn mình phải bỏ tính mau mắn trò chuyện, cố tập thói quen bình thản trước cuộc đời người khác. Nhưng điều ấy sao mà khó.

- Uống rượu say ông ấy đánh cháu à? - Tôi lại hỏi khi nhìn nét mặt buồn bã của con bé.

- Không. Ông ấy rất hiền lành…

- Thế sao mà sợ?

- Cháu sợ lắm! - Con bé nhìn quanh, giọng thấp xuống - Say rượu chẳng hiểu sao ông ấy cứ nhầm cháu với mẹ cháu.


* * *


Cửa phòng Thân mở toang. Mâm cơm tanh bành trên chiếu. Đám trẻ con vừa ăn vừa la hét. Ti vi mở tiếng to hết cỡ. Người vợ đang đếm tiền bên cạnh những tờ báo.

- Anh Thân cho tôi mua tờ Hà Nội mới. - Tôi thu hết can đảm để giọng khỏi run và chìa những tờ tiền lẻ ra.

Thân cầm tờ báo đưa tôi, đon đả:

- Vào uống nước đã, chị.

Tôi ghé gần anh, nói nhanh:

- Cháu Bình đang ở dưới nhà tôi, nó có việc cần gặp anh.

- Nhà chị có bản tin Buổi chiều cho tôi mượn đọc một lúc nhé! - Thân nói sau một lúc đứng thộn ra nghĩ ngợi.

- Vâng, mời anh xuống - Tôi đáp và bước nhanh.

- Tin với chả tức. Hàng chục thứ báo đọc không chán à?

- Nhiều chuyện báo không nói! - Thân đáp yếu ớt.

- Báo không nói thì biết làm gì cho rách việc! - Tiếng người vợ gắt gỏng ở phía sau.

Rồi Thân hiện ra trong nhà tôi trong bộ quần áo nhàu nhò nhem nhuốc, nét mặt lẫn lộn giữa vui và lo.

- Con gái đấy à? Có việc gì đấy con?

- Con đến thăm bố. Bố có khỏe không? - Bình ngồi sát cạnh bố, nắm tay bố, nhìn vào mắt bố - Sao bố gầy thế?

- Bố vẫn vậy. Gầy béo gì đâu. - Thân lúng túng xốc xốc tóc.

- Nghịch như quỷ sứ cả lũ.

Bình lấy gói giấy trong túi ra đặt vào tay bố.

- Con có ít tiền, bố cầm lấy ăn quà cho đỡ mệt.

- Mày lấy tiền ở đâu thế này?

- Con làm ra. Đan, thêu, bố biết đấy. Tháng mười rồi, nhiều người đan may, con chịu khó tí là có tiền thôi mà.

- Bớt thì giờ ra mà học thêm lấy ít chữ, con ạ. - Thân đặt tay lên vai con - Ít chữ sau này khổ lắm.

- Vâng. Con vẫn học ngoại ngữ…

- Ở đấy thế nào?

- Bác ấy là người dưng mà dễ chịu bố ạ. Người ta cần mình, mình cần người ta, hai bên giúp nhau…

- Thế thì bố yên tâm rồi.

- Cũng chỉ ở đấy được đến cuối năm thôi.

- Tại sao vậy?

- Con giai, con dâu với cháu bác ấy ở bên Đức về là con phải đi - Bình nói và thở dài.

- Con yên tâm. Từ nay đến cuối năm bố sẽ tìm được nhà khác cho con ở.

Bình ngồi im, người hơi thu lại. Một giọt nước nhỏ bé rời khỏi mắt thấm nhanh trên vạt áo.

- Bố ơi, suýt nữa con quên mất mới có một tạp chí vừa phát hành, con nghe nói bán chạy lắm vì toàn viết những chuyện cần với người ta, con nhận một trăm đem đến cho bố bán đây!

Bình nói và lấy ở ngoài cửa vào một gói ni lông, mở ra. Nhìn chồng báo tôi mới hiểu vì sao Bình ướt.

- Báo này dễ bán đây, nhưng mà làm thế nào để cầm về? - Thân gãi đầu - Khổ quá, cái con mẹ quái gở, ghen với vợ trước đã đành lại cứ ghen với cả con chồng…

Có tiếng trẻ con léo nhéo trên cầu thang. Thân đứng vụt lên:

- Ơi, bố lên ngay đây. Làm thế nào bây giờ? – Thân nhìn chồng báo.

- Thì anh cứ để đây, sáng mai đem đi bán luôn. – Tôi nói.

- Thế thì hay quá! Cảm ơn chị!

Thân nắm tay con:

- Con về đi! - Rồi nhìn đồng hồ - Chưa nói xong câu chuyện đã mất một giờ, lên nhà tôi nói thế nào bây giờ?

- Anh cứ nói nhà tôi có cãi nhau, anh xuống can nên ngồi lâu.

- Cãi nhau? Ai cãi nhau? - Thân thảng thốt, mặt biến sắc. - Tôi không thích cãi nhau. Chán lắm rồi.

- Ấy là giả vờ thế.

- Tôi không giả vờ được.

Phút chốc, mặt Thân già sọm xuống trong nỗi rầu rĩ lạ lùng.

- Con ơi! - Thân đến gần con giọng như rên.

- Dạ!

- Con về đi. Đi đường cẩn thận nhé. Mọi việc phải cẩn thận. Mai kia cần gì cứ nhắn, bố sẽ đến, đừng về đây làm gì.

- Vâng - Bình cúi đầu không ngẩng lên khi bố bước ra ngoài. Đợi cho tiếng chân bố mất hẳn trên cầu thang, Bình chào tôi rồi ra về.

Nhìn cái bóng nhỏ đi liêu xiêu trong mưa tôi bỗng muốn nói to lên một điều gì mà tôi chắc cũng vì điều đó mà Thân buồn rầu, ấp úng. Nhưng thôi. Tôi là một người ngoài, người dưng thiên hạ của những nỗi đau. Nói ai tin, ai nghe. Rõ chuyện đàn bà! Có khi họ lại nhận xét thế.


H Ế T
 
KỲ NGHỈ HÈ Ở VENICE
"Một tâm hồn không hoàn hảo, hay nghỉ đến những tình yêu không hoàn hảo, và lựa chọn những kết cục không hoàn hảo".

Tôi viết câu chuyện này khi một mùa dài đã qua và Venice dường như chỉ còn ở lại trong kí ức . Người ta không thể xoá đi hình ảnh của bất kì ai trong kí ức; cái gọi là "quên" có lẽ là sự chấp nhận với nụ cười dịu dàng hoặc chua chát . Tôi đang rất nhớ em và tôi cầm bút lên ... Em trở về thật gần, Venice cũng trở về thật gần ...
Năm đó chúng tôi là hai sinh viên của trường Mỹ Thuật sau khi tốt nghiệp được đi thực tập ở Italia . Và chúng tôi chọn Venice làm nơi hoàn thành tác phẩm cho khoá học . Đêm cuối cùng ở Firenze, tôi và em ngồi thật lâu bên cốc cappucino nghi ngút khói:
_ Tại sao em chọn Venice hả Cá Khô ?
_ Vì em chưa biết yêu! Venice sẽ giúp em ... Còn anh ?
_ Anh thì ngược lại . Vì anh yêu rồi!
Cười .

Chúng tôi là anh em họ . Một quan hệ gia phả lằng nhằng mà người ta vẫn gọi đùa là "họ hàng đại bác bắn ba đời không tới". Thế nào nhỉ ? Ba em là anh ruột cô Phương, cô Phương đám cưới với chú Danh vốn là em trai của mẹ tôi . Vậy đấy chúng tôi trở thành anh em . Chúng tôi cùng tuổi, lớn lên cùng nhau, học cùng trường và mơ ước như nhau . Đã có lần tôi và em tự hỏi "không biết từ khi bé đến giờ, đã có gì chúng tôi không gắn chữ "cùng" vào hay chưa ?" Thế giới của em có những gam màu nóng ấm, chủ nghĩa siêu hiện thực của Van Gogh, khúc mùa xuân của Vivaldi, sữa đậu nành và kẹo lạc 2000 đồng một gói to đùng . Thế giới của tôi đa số lại là gam màu lạnh, cảm giác cô quạnh trong tranh của Dali, nhạc Trịnh không tình ca ... và em . Thầy giáo của chúng tôi rất ít khen, nhưng khi đã khen thì thường dùng những lời xa xỉ . Có lần thầy bảo :"Xem tranh của hai đứa xong, mới cảm thấy đủ hai mặt của một tâm hồn". Chúng tôi sướng râm ran . Mỗi lần như thế lại tự thưởng cho mình bằng một buổi ngồi thật lâu trong quán nước trước trường và ... bóc vé số . Chúng tôi chẳng trúng được bao lần, mà cũng may là thầy chẳng mấy khi khen .

Tam Nguyên . Lần đầu tiên tôi nhớ ra em có cái tên ấy là khi chúng tôi vào lớp 1 . Cô giáo gọi :"Nguyễn Tam Nguyên". Cả lớp im lặng . "Nguyễn Tam Nguyên". Cô giáo lập lại . Em ngồi bên cạnh thì thầm :"Hình như cô gọi em anh ạ!"-"Phải là Cá Khô chứ, Nguyên nào ?". Đến khi cô giáo gọi tên hết cả lớp, em mới đưa tay hỏi :"Thưa cô, cô chưa gọi con ạ! Tên con là Cá Khô". Đến tận bây giờ em vẫn luôn yêu thích cái tên ấy . Nó là một phần tuổi thơ trong em, trong tôi . Tôi biết chỉ mỗi tôi gọi em bằng cái tên ấy, chỉ mỗi tôi và em biết cái tên ấy có ý nghĩa thế nào, chỉ mỗi tôi và em biết nó quý giá biết bao nhiêu ...
_ Em ngoan, đừng ốm nữa nhé! Phải ăn nhiều vào! Mẹ anh bảo ai không ăn nhiều sẽ như con cá khô thôi .
_ Thế cá khô xấu lắm hả anh ?
_ Anh chả biết nhưng mà mẹ bảo hôi lắm!! Em mà ốm nhiều thì sẽ ... hôi như cá khô đấy ...

Chúng tôi thuê được một căn phòng áp mái khá rộng rãi đủ kê hai cái giường và ngăn với nhau bằng một bệ gỗ sơn trắng, một góc bếp nhỏ với phòng tắm rất xinh . Thoạt đầu chúng tôi rất phân vân không biết đặt giá vẽ ở đâu . Thế là ý tưởng trải chăn ra đời, như thế có thể quấn lại một góc, tha hồ giăng vật dụng ra nhà . Cũng may lúc chúng tôi đến Venice, trời đã vào mùa xuân ấm áp . Bên dưới tầng trệt là quán cà phê của vợ chồng ông bà chủ . Họ là người Pháp, nói được cả tiếng Anh và Ý . Những khi rỗi việc tôi và em thường xuống phụ giúp làm những việc lặt vặt . Đây là một quán cà phê nhỏ, trang trí mộc mạc và không âm nhạc . Những chiều nắng, khách ngồi đầy trên các "tavolini", họ nói cười, tán gẫu, tiếng bước chân gõ nhịp trên nền đường lát gạch, tiếng guitar của bác Luciano già ... tất cả tạo nên một nét ồn ào rất Venice . Vợ chồng ông bà chủ khá thân thiện . Họ kể cho chúng tôi nghe về quê hương họ, về miền Nam nước Pháp lúc nào cũng tràn ngập nắng, về những cánh đồng cỏ mùa xuân xanh mướt, mùa hè vàng rực rỡ, được cuốn lại thành những lô tròn khổng lồ, đều đặn, nhìn xa như những ổ bánh cuộn phết mật . Tôi hỏi họ "tại sao lại sống ở Venice nhỏ bé mưa rất buồn và nắng thì hiếm hoi ?" Họ nhìn nhau và mỉm cười :"Vì ở đây khiến chúng tôi yêu nhau hơn".
Em vẫn thường hay nói chuyện với bác Luciano bằng vốn tiếng Ý cỏn con của mình . Ông già tóc dài như nghệ sĩ, trắng muốt, đến ngồi bên hông quán cà phê mỗi tuần 3 lần . Ông độc thân, khắc khổ, lúc nào cũng bát đầu chương trình bằng bản Serenade và kết thúc bằng âm điệu rộn rã của Moliendo Café . Tôi rất thích nhìn em và bác Luciano nói chuyện . Cuộc đối thoại giữa họ luôn luôn bắt đầu bằng những câu tiếng Ý ngắn gọn và suôn sẻ, tiếp đó ông già nói gì đó thật dài, em cười ngơ ngác . Ông ấy hỏi :"Comprendi ?"-"No, non comprendo" ... Và thế là đoạn hội thoại tay chân bắt đầu . Có một điều đặc biệt là cả hai đều kiên nhẫn một cách kì lạ . Họ có thể hiểu nhau như thế!
_ Anh hay nhìn trộm em lắm à ?
_ Ai bảo em thế ?
_ Bác Luciano bảo anh cứ hay nhìn em cái kiểu ... không giống anh trai của em chút nào - Em cười, mắt hay háy .
_ Anh có nhìn trộm em đâu . Anh ngắm em đấy chứ!
Cười .
Cá Khô của tôi hiền lắm . Những cuộc tranh luận của chúng tôi thưởng kết thúc bằng nụ cười của em . Em cười, có nghĩa là tôi đúng . Đơn giản như thế . Những người ở đây gọi em là "Angelica", họ bảo em có nụ cười của một thiên thần . Mà đối với người Ý, gọi ai đó là "Angelica" thì có nghĩa là người ấy vô cùng được yêu quý . Tôi cảm thấy cực kì tự hào về em, thậm chí ngay cả khi người ta vỗ vai tôi và bảo :"Cậu có cô em họ thật tuyệt!"

Chúng tôi bắt đầu thời kì gấp rút chuẩn bị cho tác phẩm báo cáo . Nhưng công việc không đơn giản theo những tiến trình nhất định . Cảm hứng, đó là những gì vừa dễ tìm mà cũng vừa kho tìm nhất . Màu vẽ và cọ không phải lúc nào cũng ngoan ngoãn dưới đôi bàn tay .
_ Em bế tắc anh ạ! Venice lãng mạn và đẹp thế, nhưng hình như có ở tất cả trong tranh rồi .
Em đứng hàng giờ trong bảo tàng để ngắm tranh của Canizzo, của Carpaccio, của Jean Luc ... ngồi thẫn thờ nghe bác Luciano chơi khúc Lullaby ... Và tôi thẫn thờ, ngắm em trong im lặng . Có đôi khi nghĩ lại, tôi ghét cái tình yêu kiểu nghệ sĩ của mình, có lẽ nó không hợp thời một chút nào, nó ảo tưởng và trên mây quá chăng ? Nhưng lúc đó, ít ra trong tâm trí tôi em cũng là nghệ sĩ, tôi đã ước em thấu hiểu sự quan tâm đó theo cách của riêng tôi . Nhưng Venice khiến con người ta yêu theo những cách không hoàn toàn giống nhau, ngay cả khi ... chúng tôi cùng có một tâm hồn nghệ sĩ . Mà chúng tôi là anh em họ cơ mà nhỉ ? - Cười .
_ Em gặp anh ấy ở bảo tàng anh ạ! Anh ấy bảo anh ấy thích em cười . Em ... sẽ nhớ anh ấy mất thôi .
_ Anh ta tốt chứ ?
_ Có vẻ là thế!
Venice đã dạy cho em điều em muốn .
Đó là cảm giác yêu một người . Và Venice cũng đã dạy cho tôi cảm giác mất mát rất xa xôi . Tôi đã bào giờ có em, để có cảm giác em vụt bay ra xa đâu nhỉ ? Từ giây phút đó, tôi đã biết thế nào là đi xe đạp ở Torcello không em, thế nào là ăn bữa tối không em, thế nào là tâm trạng ngồi nghe bác Luciano chơi nhạc một mình . Nhạt nhẽo . Thật sự nhạt nhẽo!
_ Anh nghĩ là anh ấy có cảm giác như em chứ ?
_ Anh không biết . Em thử hỏi thẳng anh ta xem .
_ Không đâu - Má em đỏ bừng .
_ Em ... yêu anh ta thật chứ ?
Cười .
Chưa bao giờ tôi không mong chờ nụ cười này của em đến thế! Em cười, có nghĩa là tôi đúng ...
_ Hôm nay bọn em đến Ponticello dei Sighs anh ạ! Anh ấy bảo ở đây nên nói những điều hạnh phúc . Anh ấy đang mong chờ một điều hạnh phúc để thẻ xuống cầu ngày hôm nay . Anh ấy nhờ em giúp ... - Em hào hứng kể . Tôi thấy những tia cười nhảy múa trong mắt em .
_ Rồi sao ? Anh ta đã hỏi em chứ ?
_ Vâng ạ! - Em níu tay tôi - Anh ơi, em đã là của một người ...
Nếu ai đó có thể hiểu ... nếu mây, gió, khoảng trời kia, và Venice có thể hiểu ...

Trái Đất vẫn quay, và chúng tôi vẫn là anh em họ . Venice vẫn đẹp, và chúng tôi vẫn là anh em họ . Con đường dài bất tận, và cho đến cuối con đường, chúng tôi vẫn là anh em họ .
...
_ Anh ước giá như chúng ta là người Trung Quốc .
Em tròn xoe mắt .
_ Khi em buồn, anh ta giúp em vui hơn chứ, Cá Khô ?
Anh ấy ôm em vào lòng và bảo đừng buồn vì em có anh ấy mà . Nhưng tại sao lại là người Trung Quốc hả anh ?
_ Anh ấy giúp em có cảm hứng cho bài tốt nghiệp đấy ah ?
_ Vâng ạ, anh ấy khiến em biết tình yêu ở Venice . Tại sao lại là người Trung Quốc ? - em nhíu mày .
_ Anh ta biết em thích được mua xoài dầm khi em ốm chứ ?
_ Biết ạ, nhưng em hết thích rồi, anh ấy bảo không tốt khi ốm . Anh vẫn chưa trả lời mà . Tại sao lại là người Trung Quốc ?
Tôi trầm ngâm ...
_ Người Trung Quốc, anh em họ được phép yêu nhau ...
Em nhìn tôi không chớp mắt ... Đôi mắt ấy long lanh lắm, hàng mi ấy dường như sắp cụp xuống, khiến thằng đàn ông trong tôi, thậm chí là một thằngnghệ sĩ không thực tế chuẩn bị quay cuồng ...
_ Anh đùa - Tôi cười vang ... nhưng có cảm giác đó giống một tiếng nấc dài hơn ... - Anh ta đúng là của em đấy . Nếu mà em không giữ cho tốt, thì anh sẽ đánh đòn em .
_ Anh thật là ... - Em lại cười, em cười hạnh phúc .
_ Có những người yêu em thế kia mà, phải không em ?

Venice dạy cho con người ta biết yêu, biết yêu nhau hơn, và biết yêu nhau mãi bằng nhiều cách khác nhau ...
Chấm . À không . Chấm cảm chứ nhỉ!
 
Anton Pavlovich Tchekhov

Một câu đùa



Buổi trưa một ngày đông khô sáng...
Trời giá cóng đến xé đá ra; Na đưa tay cho tôi khoác, và Na có những món tóc quăn xòa xuống mang tai và hơi sương làm ánh lên những tơ lông măng nơi môi trên nàng. Hai đưa tôi ở trên một ngọn đồi tuyết cao. Từ chân chúng tôi xuống tới mặt đất, trên một cái mặt bằng thoai thoải xuống, ánh dương hắt lại như từ trong một tấm gương. Kề chỗ chúng tôi, là những xe trượt bằng xinh xắn phủ dạ đỏ ngòm. Tôi liền nằn nì:
- Chúng ta lao dốc đi, Na ơi. Một lần thôi! Anh quả quyết rằng chúng ta không việc gì đâu!
Nhưng Na sợ. Từ chỗ đôi giày xinh đẹp của nàng tới chân ngọn đồi tuyết, đối với nàng, cả cái khoảng rộng đã trở thành một cái vực ghê gớm, thăm thẳm khôn lường. Nàng thất thần, hơi thở ngừng lại mà nhìn xuống phía dưới, khi tôi mới gạn thử nàng là ngồi vào xe trượt băng, và có chỉ là đáng phải ngại ngùng nếu nàng dám mạnh dạn mà lao xuống vực. Nàng sẽ chết mất, nàng phát cuồng mất! Tôi nói:
- Anh van em đi! Không nên sợ sệt! Em phải biết rằng như thế là bạc nhược, là nhút nhát.
Sau cùng nàng cũng chiều theo và trông diện sắc nàng, tôi biết nàng đã làm theo với nỗi e ngại cho tính mệnh. Tôi đặt nàng ngồi vào xe trượt băng, nàng tái mét, run lẩy bẩy, tôi ôm nàng ngang lưng và cùng nhau đổ xuống vực thẳm.
Chiếc xe trượt băng vèo bay như một phát đạn. Khoảng không khí mà chúng tôi xẻ đôi ra đã quất mạnh vào mặt, tru tréo lên, kêu vo vo bên tai, làm nóng da mặt lên, véo mạnh, như muốn ngứt đầu văng ra khỏi đôi vai. áp lực của gió chặn thở. Người ta tưởng như ma quỷ hiện hình tóm lấy hai đứa tôi và gào thé lôi chúng tôi xuống địa ngục. Mọi vật chung quanh tan nhòa thành một vệt dài tẩu thoát cực kỳ nhanh... Thêm một chút nữa thôi, tôi cho rằng hai đứa tôi sẽ hết sống. Tôi cất tiếng khẽ khàng:
- Na ơi, anh yêu em!
Xe trượt băng bắt đầu chậm lại, tiếng rú của gió và tiếng nghiến của đế xe trượt đã đỡ rợn, hơi thở đã đỡ nghẹt, và rốt cục, chúng tôi đã xuống tới nơi. Na sợ khiếp vía tưởng chết được. Nàng tái đi, hơi thở thoi thóp... Tôi đỡ nàng dậy.
- Không đời nào, tôi làm lại nữa, nàng vừa nói vừa nhìn tôi với đôi mắt to đầy kinh hãi. Không khi nào! Tôi hút chết!
Chừng một lúc, nàng hồi lại và trở lại nhìn thẳng vào mắt tôi với cái vẻ dò xét: có phải đích là tôi đã nói lên năm cái tiếng kia hay chỉ là nàng ngờ ngợ bắt nghe được trong cơn cuồng lốc nó rú lên? Tôi, tôi thẳng mình, đứng cạnh nàng, tôi hút thuốc lá và ngắm nghía chiếc bít tất tay một cách chăm chú.
Nàng khoác tay tôi và chúng tôi nhẩn nha hồi lâu quanh đồi tuyết. Thật là hiển nhiên, điều bí ẩn đã làm nàng mất sự yên ổn. Những tiếng phát thanh ra đó là có hay là không có? Có, hay là không? Có, hay không? Đây là một vấn đề của tự ái, của danh dự, của đời sống, của hạnh phúc, một vấn đề rất nghiêm trọng, nghiêm trọng nhất đời. Nàng tia sang tôi những cái liếc mắt bồn chồn, rỉ rầu, những cái nhìn xoi mói, nàng tránh câu hỏi, trông chờ tôi nói lên. Chà! Thật là đầy ý vị, cái khuôn mặt xinh xắn duyên dáng ấy thật là ý nhị! Tôi biết mà, nàng đấu tranh với nàng, nàng thấy cần phải nói, nàng có một câu hỏi muốn đặt ra nhưng mà nàng không tìm được ra chữ, nàng lúng túng, nàng sợ, nỗi vui làm nàng mất tự nhiên...
Nàng nói, không nhìn tôi:
- Anh biết đấy chứ?
- Gì vậy? - tôi hỏi.
- Này... ta lại lao dốc nữa đi.
Chúng tôi leo cấp thang lên tới đỉnh đồi. Lần nữa, tôi đặt Na tái mét lẩy bẩy lên xe trượt băng, lần nữa, chúng tôi lao xuống cái vực hãi hùng, lần nữa gió lại rống lên và đế xe trượt lại nghiến lên và, giữa lúc chúng tôi đổ xuống loang loáng trong tiếng sấm sét, lần nữa, tôi lại bỏ nhỏ:
- Na ơi, anh yêu em!
Lúc xe trượt băng ngừng lại, tầm mắt nàng ôm lấy cả khu đồi tuyết chúng tôi vừa băng qua, rồi nàng dò la nét mặt tôi rất lâu, nghe ngóng cái giọng dửng dưng và lạnh lùng của tôi, và tất cả người nàng, tất cả, kể cả cái mũ lông trùm đầu và cái ống bao tay, tất cả người nàng lộ ra một vẻ ngần ngừ đến cao độ. Và người ta như đọc thấy trên mặt nàng:
- Cái gì đã xảy ra thế hở? Ai đã nói lên những tiếng gọi đó? Chàng, hoặc chỉ là ta chiêm bao thôi?
Nỗi bán tín bán nghi ấy hành hạ nàng, làm nàng mất kiên tâm. Hỏi gì cô gái tội nghiệp đều không trả lời, trở nên nhăn nhó, chỉ còn thiếu khóc. Tôi bảo:
- Hay là ta đi về?
- Ô! Tôi... tôi, tôi thích xe trượt băng, nàng đỏ mặt mà nói. Hay là ta lại lao dốc một lần nữa?
Cái xe trượt băng “hợp ý” nàng, nhưng cũng như những lượt trước, mỗi khi nàng ngồi vào xe, nàng vẫn nhợt tái đi, thoi thóp vì sợ hãi, run cầm cập.
Hai đứa tôi lao dốc lần thứ ba, và tôi thấy Na nhìn đau đáu vào mặt tôi và theo dõi đôi môi tôi. Nhưng tôi lấy mùi-xoa để lên môi tôi, đằng hắng, và lúc chúng tôi tới lưng chừng dốc, tôi cố nói lên được:
- Na ơi, anh yêu em!
Và sự bí ẩn vẫn là bí ẩn! Na lặng lẽ, nghĩ miên man... Tôi đưa nàng từ con đường dốc về nhà nàng, nàng cố ghìm bước đi, kéo lê bước chân và luôn luôn tự hỏi xem tôi có buột miệng mà nói ra không.
Tôi hiểu nàng đau khổ trong tâm khảm, nàng phải cố dằn lòng để khỏi phải thốt ra:
- Cái này không thể do trận gió nói lên được như vậy; và tôi không bằng lòng cho dù chỉ là trận gió!
Hôm sau, tôi nhận được mảnh thư: “Nếu anh chơi xe trượt băng hôm nay, anh đến rủ tôi. N.” Và từ đó, tôi hằng ngày cùng nàng chơi xe trượt băng, và giữa lúc lao dốc, mỗi lần tôi đều nhắc lại vẫn bấy nhiêu tiếng:
- Na ơi, anh yêu em!
Chẳng bao lâu nữa, nàng nhiễm phải câu nói ấy, cũng như người ta nại tính đối với tinh thuốc phiện. Nàng không thể sống mà thiếu được cái thói quen ấy. Thực ra, lao dốc bằng xe trượt băng, nàng vẫn run sợ như trước đây, nhưng bây giờ sợ hãi và lộng hiểm làm tăng thêm hứng thú cho những lời yêu thương, những lời mà trước đây, đã cấu thành một điều bí ẩn, và đã làm rầu héo tâm tư nàng. Nhưng mối ngờ vẫn hướng mãi vào hai nhân và vật ấy: trận gió và tôi... Ai đây trong hai thứ nọ sẽ thú thực tình yêu với nàng, nào nàng có hay, nhưng, cứ bề ngoài mà xét, thì với nàng, điều ấy cũng chẳng có gì đáng bận tâm: có thể chỉ cái bình đựng, cốt sao say được mà thôi!
Một hôm, vào quãng trưa, tôi đi trượt băng một mình; lẫn vào đám đông, tôi nom thấy Na đi gần lại đồi tuyết và đưa mắt ra ngóng tìm tôi... Rồi nàng rụt rè bước lên cấp thang. Sợ thật, lao dốc một mình, chà, dễ sợ thật! Nàng trắng toát như tuyết, nàng run, người ta tưởng đâu như nàng bước ra pháp trường, nhưng với biết bao kiên quyết, nàng đi lên không chút quay nhìn lại. Rõ quá, nàng, rốt cục, đã nhất định thể nghiệm để xem xem: cái lúc mà tôi không có ở đấy, rồi nàng có còn nghe thấy nữa không những chữ êm đềm kỳ diệu? Tôi thấy nàng ngồi lên xe trượt băng, người tái đi, miệng phá ra nỗi sợ hãi, mắt nhắm lại, và lao xuống, sau khi vĩnh biệt trái đất... Rít rít rít... để xe trượt nghiến kêu lên. Nàng có nghe thấy những tiếng gọi không? Tôi không rõ... Tôi chỉ thấy nàng đứng vươn lên khỏi xe trượt, mệt lử, kiệt sức. Nhìn mặt nàng, người ta cũng đoán ngay rằng chính nàng cũng không rõ là có nghe thấy hay không nghe thấy một điều gì. Nỗi khiếp sợ trong cơn lao dốc làm cho nàng mất mất cái năng khiếu nghe ngóng, phân biệt âm thanh, và hiểu biết...
Nhưng đây rồi tháng ba, cái tháng của mùa xuân... Mặt trời trở nên vồn vã hơn. Núi tuyết của hai đứa tôi xẫm lại, mất màu chói sáng, và sau cùng, tan chảy. Hết rồi những cuộc chơi xe trượt băng. Không còn đâu nữa những nơi để cô Na tội nghiệp nghe những tiếng gọi, không còn ai nữa để nói lên những lời gọi ấy, bởi cái lẽ rằng làn gió vốn kín tiếng và tôi thì rồi sẽ đi Xanh Pê-téc-bua thật lâu, có thể là bứt hẳn nơi đây.
Một lần, trước lúc tôi lên đường, ấy là trước hai ngày chi đó, tôi ngồi trong chiều tà giữa khu vườn nhà tôi cách nhà Na một hàng giậu cao lởm chởm ngọn rào... Trời còn lành lạnh, dưới chân đống phân ủ vẫn còn tuyết, cây cối chết còi, nhưng mà tất cả đã chớm bốc lên cái mùi mùa xuân, và những con quạ tìm ngủ đã kêu lên quang quác. Tôi men gần lại phía hàng rào và nhìn một hồi lâu qua khe rào. Tôi thấy Na ra đứng ở bực thềm và ngẩng đưa lên trời cặp mắt ủ rầu khổ não... Như roi da, gió xuân quất mạnh vào khuôn mặt nàng xám bệch võ vàng. Gió gợi nhắc lại với nàng cái thứ gió gào bên tai trên núi mỗi lần nghe thấy năm tiếng gọi, và mặt nàng đượm một vẻ buồn, buồn thật, một giọt nước mắt sa theo gò má... Cô gái tội nghiệp rướn đôi cánh tay lên như là khẩn cầu trận gió hãy đem những lời gọi tới cho mình một lần nữa. Thế rồi tôi, rình chờ một cơn gió thoảng, tôi nói nhè nhẹ:
- Na ơi, anh yêu em!
Trời ơi, cái gì đã vụt xảy đến cho Na? Nàng rú lên một tiếng, một nụ cười hẩng sáng khuôn mặt hân hoan, hả hê, đắm lòng!
Tôi, tôi vào sửa soạn hành trang...
Chuyện này kể ra cũng đã lâu ngày! Na, bây giờ đã là người lập gia đình: người ta gả chồng cho nàng, hay là nàng đã tự nguyện làm vợ một thầy ký văn thư ở phòng hộ khẩu đám quý tộc, cái đó cũng không hề chi, và nàng đã có được ba con. Nàng không quên được cái thời mà hai đứa tôi cùng nhau chơi xe trượt băng, cái thời mà làn gió đã đưa tới cho nàng năm tiếng gọi: “Na ơi, anh yêu em!”; với Na, giờ đây, đó là cái kỷ niệm vui sướng nhất, thống thiết nhất, đẹp sáng nhất trong đời nàng...
Còn tôi, bây giờ đã đứng tuổi, tôi không hiểu tại sao tôi đã thốt ra những tiếng gọi ấy, tại sao tôi đã cười cợt được với việc hú tim ấy.

Nguyễn Tuân dịch
 
Tìm vợ
Tuệ Hải



Ba mẹ mất cũng hơn 5 năm, bây giờ ở nhà chỉ còn hai chị em. Chị Hai đã lấy chồng và có một cháu gái 4 tuổi.

Thân làm giáo viên, giảng dạy môn địa, ngoài mười sáu tiết trên lớp, thời gian còn lại trừ những lúc soạn bài, chấm bài ra, Thân chưa nghĩ ra cách dùng nó vào việc gì cho có lợi nhất. Đang dợm đi chơi với bạn, vừa ra khỏi cửa, Thân đã nghe tiếng chị Hai:

- Chiếc áo chị mới ủi sao không mặc? Ngoài bốn mươi mà còn chưa lấy vợ! Thầy giáo gì mà tóc tai dài thượt!

Tính chị vốn thế, việc quan trọng không phải là chiếc áo nhăn, mái tóc quá lứa hay phòng ngủ thiếu ngăn nắp mà là chuyện vợ con. Từ một lẽ khác, nên chuyện quần áo tóc tai, đồ đạc trong phòng; tất cả chị đều có thể gắn liền với bàn tay phụ nữ. Ba má mất sớm, hiện giờ chỉ còn hai chị em, lúc trước chưa có gia đình, ngoài vai trò làm chị dường như ở chị còn mang sự lo toan của người mẹ. Khi có chồng, gánh nặng trách nhiệm đối với gia đình riêng nên chị không còn có thời gian nghĩ đến em.

Có đôi lúc Thân nghĩ chắc chị Hai tưởng lấy vợ thì lập tức ngày mai tóc sẽ gọn gàng, quần áo sẽ thẳng tắp và phòng ốc tự nhiên sẽ ngăn nắp. Cứ nhìn gia đình chị thì khắc rõ: con cái lễ phép, quần áo tươm tất; chồng chị lịch sự sang trọng; nhà cửa sạch sẽ, gọn gàng. Hàng xóm trông vào cuộc sống gia đình hạnh phúc của chị, ai cũng thèm thuồng. Đặc biệt không mấy khi thấy chị bàn đến chuyện tình cảm, chuyện tình yêu! Ôi tình yêu! Chị Hai lấy chồng không bắt đầu từ tình yêu. Qua mai mối, cảm thấy hợp là tổ chức đám cưới. Nếu cuộc sống vợ chồng chỉ có bấy nhiêu thì nhiều lúc Thân định nói với chị “em đang tìm ô-sin”.

Mỗi lần về nhà Thân hay nựng cháu Bo con chị Hai, con bé bụ bẫm dễ thương, đôi mắt đen láy, cá tính nhanh nhẹn hễ gặp là muốn ngồi xe đòi cậu chở một vòng rồi mới cho cậu hôn, lần nào cũng vậy, không được là nó mè nheo. Chỉ cần nựng cháu là Thân cảm thấy bao mệt nhọc sau những giờ lên lớp như biến đi đâu mất. Hễ thấy cậu cháu đi chơi là chị Hai lại nói trỏng: “Sao, chị sắp có em dâu chưa?”, chẳng biết có nghe hay không chỉ thấy Thân gật đầu, miệng ừ hử rồi lại lảng sang chuyện khác. Chẳng lẽ lại kể: “Ở trường em cũng còn nhiều bạn lớn tuổi hơn vẫn chưa vợ!”. Như thầy Hoàn dạy môn sử, năm nay đã bốn mươi ba cũng đang kiếm người nâng khăn sửa túi. Thầy Đoàn dạy thể dục năm nay ba mươi tám vẫn đang chờ... vợ. Một lần có ai hỏi thầy Hoàn để dành tiền đủ chưa, sao không ưng đại cô nào, kẻo cha già con cọc? Thầy nói ngay: “Tiền thì bao la, nhưng chưa lấy vợ được!”, thầy ghé sát tai người bạn nói câu gì đó, rồi bỗng dưng ai cũng thấy hai người cùng cười to. Thân kém Hoàn một tuổi, nhưng khi trò chuyện đều gọi nhau bằng mày tao.

Thân còn lạ gì câu nói nhỏ “đái còn ướt dép nói gì lấy vợ” của Hoàn, nghĩ đến đó Thân tự cười một mình mà chẳng ai biết Thân cười điều gì? Thân dạy môn địa, học sinh thường gọi là thầy địa, thỉnh thoảng khi các em nói chuyện với nhau có lúc gọi ông địa, nhưng mấy khi nó nói trước mặt thầy, dễ thường có nghe được chắc cũng vui! Chính số lượng giáo viên độc thân nam đếm trên đầu ngón tay nên ở trường các thầy dễ bị gán ghép với cô này cô kia. Chẳng hạn như ghép Thân-Thu, cô dạy môn giáo dục công dân, học sinh nói trại ra là giáo dục “cô dâu”.

***

Đang nằm dựa trên ghế hớt tóc chờ cạo mặt, Thân nghe cô thợ hỏi “anh thích nghe bài gì?”. Hớt tóc buổi trưa trong tiệm máy lạnh lại được nghe nhạc dễ làm cho người ta đi vào giấc ngủ. Thân định chọn bài Một cõi đi về hay Đâu phải bởi mùa thu nhưng lại nói “tùy em muốn cho anh nghe bài gì cũng được”. Lời hát của những bài nhạc ở đây phần lớn nó chia sẻ nỗi cô đơn, nó diễn tả đủ tâm trạng của các cô gái xa quê. Cô thợ vừa cạo mặt vừa nhoài người qua ngực Thân, bàn tay mát mẻ mềm mại vuốt căng da mặt, tay kia nhẹ nhàng lượn lưỡi dao. Thân ngửi được mùi kem thoa mặt, nhìn bộ ngực ẩn dưới làn cổ áo khoét hơi sâu nhấp nhô theo động tác cuối xuống, chỉ cần nhổm người lên một chút là môi đã chạm vào má. Khi hôn vào tình huống bất ngờ, lời đáp có thể nhận được một trong hai thái độ: giận dỗi hoặc đồng tình, khả năng thứ nhất xác suất rất cao.

Nụ hôn phải mang thông điệp của tình yêu; phải có cái gì thương thương, nhớ nhớ thì chất ngọt ngào mới làm tăng ý nghĩa nụ hôn. Sợ sự tưởng tượng của mình đi quá xa, Thân nhắm mắt lại, trong trí hiện ra hình ảnh Thu, cô bạn đồng nghiệp dạy giáo dục công dân ra trường được hơn ba năm. Thu hai mươi bảy tuổi, khá đẹp, nước da trắng, nói năng hoạt bát, dáng người cao hơn Thân một chút. Khi đã yêu, lúc vắng là nhớ lắm, có những hôm không có tiết dạy Thân cũng vào trường cốt chỉ để nhìn Thu và ra về sau vài câu hỏi bâng quơ. Không hiểu hôm nay Thân trò chuyện với cô thợ cắt tóc hơi nhiều là để tự trách mình hay là giận Thu?

Nhớ lại tình cảnh đi ăn kem lần trước, Thu cúi xuống hai tay nâng ly kem, gò má nghiêng nghiêng hây hây mọng đỏ, hy vọng sẽ đặt lên má em nụ hôn ngọt ngào. Ánh mắt em lim dim như sẵn sàng đón nhận nụ hôn đầu đời, trớ trêu thay hạt bụi nào chui vào mắt làm em chớp chớp, vừa khi Thân sắp được toại nguyện với nụ hôn thì Thu đưa tay lên dụi dụi mắt sau làn kính cận, cùng lúc khuỷu tay em thúc vào ngực Thân! Chẳng biết cái hạt bụi bay vào mắt Thu có thực hay không, nhưng cái cảm giác nhoi nhói đau ở vùng ngực Thân chắc không phải là ảo. Ở nhà lúc hôn bé Bo con chị Hai, Thân còn muốn cắn nó một cái vì nó dễ yêu làm sao! Còn sự chờ đợi được hôn Thu bằng tình yêu trai gái nồng nàn là cả một chương trình mà Thân đã lập từ lâu, xem như kịch bản ăn kem đã bị phá sản. Khác với lần trước, lần này Thu chủ động mời Thân lên phố đi dạo bộ. Thân đã sắm đôi giày gót cao model mới, khác với đôi giày thể dục quen với đôi chân đi bộ, lần này phải cao cao mạnh mẽ thể hiện tính cách đàn ông.

Còn Thu thì sao? Không lẽ dặn em đi đôi giày gót thấp để vừa tầm với mình, biết thế nào? Duyên con gái gắn liền với thời trang, cứ trông vào các cô người mẫu thì rõ, người cao cao, mình hạc sương mai, dáng đi uốn lượn nhấp nhô, bước chân nhún nhảy trên đôi giày cao từ sáu phân trở lên phải công nhận là đẹp. Thu đẹp, Thu cao, trang phục phải thích hợp với kiểu người mới tôn lên vẻ đẹp của em. Yêu nhau, người ta cố làm cho vừa lòng nhau, riêng cái khoản sửa soạn cho đôi hia cũng đã chiếm mất nhiều thì giờ, chẳng nhẽ mình thấp mà bắt Thu phải theo mình, mới nghĩ đến đó Thân cứ trù trừ nửa muốn đi, nửa lại thôi. Hẹn đến nhà chở Thu đi, lần hẹn này Thân chẳng mấy hứng thú gì, so với lần trước, nó giả giả, gượng gượng làm sao! Cứ nhớ đi ăn kem mà Thân thấy quê quê, tức tức, may mà Thu vẫn vui vẻ. Ai có tật người đó giật mình, có phải Thân đang giật mình khi nghĩ đến chuyện cũ? Thu càng vô tư bao nhiêu thì Thân càng thấy mình xấu xấu bấy nhiêu, hôn người mình yêu đâu có gì phải lén lút. Phải chi Thu là cô thợ cắt tóc thì chuyện không đến nỗi nặng nề lắm, cùng quá lần sau Thân sẽ không đến, Thu dạy chung trường vào là gặp, ra là thấy bảo sao không ngượng không quê, chỉ cần hé ra một tí là cô giáo đỏ mặt.

Cuối cùng Thân cũng đến nhà chở Thu đi phố, gặp hôm mất điện không khí nóng bức Thân phe phẩy chiếc quạt thế nào làm tuột chiếc cúc áo ngực. Không lẽ để thế mà đi chơi, đâu có áo sẵn để thay, đành để em đứng khâu trực tiếp chiếc cúc trên áo. Càng vội càng lúng túng, tay Thu mất tự nhiên, muốn cho nhanh Thu dúi đầu vào ngực Thân ghé răng cắn sợi chỉ. Hơi ấm luồn lên đầu, Thân cúi xuống hôn lên trán em thì chiếc kẹp tăm nằm im trong tóc bí mật chui ra chọc ngay vào mũi đau điếng! Khi cô thợ hỏi “anh ngủ hay nghe nhạc”, lúc này Thân biết mình đã làm một giấc ngủ trưa say sưa trên chiếc ghế cắt tóc.

***

Đàn ông tuổi hườm hườm, tình yêu thì ít mà lo toan lại nhiều; vợ quá trẻ nhiều nhõng nhẽo, ít kinh nghiệm; chồng thấp vợ cao biết trong đời có mấy lần đi bộ song đôi. Lại thêm chị Hai lại kém mẹ Thu vỏn vẹn sáu tuổi, xưng hô thế nào đây? Cứ nhớ đến hai lần trước: một lần đau ngực, một lần đau mũi, Thân cảm thấy lo lo cho tình yêu mới chớm của mình. Quá tam ba bận, Thân định lần này mời Thu đi hát karaoke rồi nói thẳng ra chứ không chịu cái cảnh ỡm ờ khó chịu, còn chị Hai lần nào cũng khen: “Con nhỏ đó lễ phép, vén khéo, thích bé Bo lắm”. Thân chứ đâu phải bé Bo!

Thời kỳ nào cũng vậy, tình cảm trai gái bao giờ cũng lâm ly nhất, đẹp nhất và nhiều nước mắt nhất. Trên màn hình tivi, người con gái ngước lên nhắm mắt lại, hai tay quàng qua cổ người con trai, gã con trai xoay người cúi xuống hai tay vòng qua lưng đứa con gái và môi chạm môi... Xem đi xem lại trên màn hình cảnh hai ngươi hôn nhau, chợt nhớ tới Thu người Thân như tê đi, không biết đã đến mức độ yêu chưa sao cứ nhớ nhớ, lo lo. Không biết giờ này Thu đang làm gì, đang nghĩ đến ai? Có những tối không hẹn, chỉ vì nhớ mà Thân tìm cách đi chậm chậm ngang qua nhà Thu, thưởng thức mùi hoa hoàng lan. Tuổi tác chênh lệch làm cho dòng suy nghĩ của hai người có khoảng cách: Thu vô tư hồn nhiên, Thân lo xa cả nghĩ. Ai bảo đàn ông không ế vợ, ai bảo đàn ông dễ chọn vợ. Từ khi ý tưởng lấy vợ nhen nhúm trong Thân cũng là lúc mặc cảm chen vào. Thu cao ráo, xinh gái, con một, nhà khá giả, ba mẹ đầy đủ còn Thân mồ côi. Mặc cảm và tự ái là anh em sinh đôi, một khi vô tình chạm vào nỗi đau thì tự ái nổi dậy và sẵn sàng buông bỏ tất cả để còn chỉ giữ lấy một cái “tôi”, cho dù cái tôi ấy thấp bé, hèn mọn. Không lẽ cái tôi của người ta sinh ra chỉ để làm khổ lẫn nhau.

Mắt em nhìn màn hình, gương mặt đăm chiêu, một tay cầm micrô, một tay diễn tả tâm trạng theo lời nhạc, đôi chân nhịp nhịp trên sàn gạch. Nhấp một chút bia Thân có cảm giác như can đảm hơn, đặt nhẹ một tay thăm dò trên vai trần của Thu, em vẫn say sưa theo điệu nhạc “tình yêu đến em không mong đợi gì, tình yêu đi em không hề hối tiếc”. Thân vẫn thường nghĩ: tình yêu không đến và cũng không đi, chỉ có sự thương, ghét hiện diện trong mỗi con người chúng ta. Tay Thân như muốn ghì mạnh hơn và vòng sang phía trái hôn nhẹ vào má em... Thời gian dần trôi, nhạc điệu vẫn còn phát ra trên máy, liếc mắt nhìn màn hình dòng chữ màu vẫn đang tô, sao không có tiếng hát? Thân lịm dần đi và chợt hiểu không phải chỉ có Thân đang hôn em mà còn có ai đó đang hôn mình!

Bây giờ Thân không còn nghe tiếng chị Hai phàn nàn về áo nhăn, tóc dài, phòng thiếu ngăn nắp mà nghe từ một tiếng nói khác, giọng quen thuộc với điệp khúc “giờ này mà anh chưa đi tắm!”.


H Ế T
 
Con kinh nhỏ nằm vắt qua một cánh đồng rộng. Và khi chúng tôi quyết định dừng lại, mùa hạn hung hãn dường như cũng gom hết nắng đổ xuống nơi này. Những cây lúa chết non trên đồng, thân đã khô cong như tàn nhang chưa rụng, nắm vào bàn tay là nát vụn. Cha tôi tháo cái khung tre chắn dưới sàn ghe, bầy vịt lúc nhúc chen ra, cuống quýt, nháo nhào quẫy ngụp xuống mặt nước váng phèn. Một lớp phèn mới, vàng sẫm quánh lại trên bộ lông của những con vịt đói, nhớp nháp bám trên vai Điền khi nó trầm mình bơi đi cặm cọc, giăng lưới rào bầy vịt lại. Tôi bưng cái cà ràng lên bờ, nhóm củi.

Rồi ngọn lửa hoi hót thở dưới nồi cơm đã lên tim, người đàn bà vẫn còn nằm trên ghe. Ngay cả ý định ngồi dậy cũng xao xác tan mau dưới những tiếng rên dài. Môi chị sưng vểu ra, xanh dờn. Và tay, và chân, và dưới cái áo mà tôi đã đắp cho là một cái áo khác đã bị xé tả tơi phơi những mảng thịt người ta cấu nhéo tím ngắt.

Và những chân tóc trên đầu chị cũng đang tụ máu. Người ta đã lòn tay, ngoay chúng để kéo chị lê lết hết một quãng đường xóm, trước khi dừng chân một chút ở nhà máy chà gạo. Họ giằng ném, họ quăng quật chị trên cái nền vương vãi trấu. Vai nữ chính, một người đàn bà xốc xếch đã lạc giọng, đôi lúc lả đi vì ghen tuông và kiệt sức. Nhưng đám đông rạo rực chung quanh đã vực tinh thần chị ta dậy, họ dùng chân đá vói vào cái thân xác tả tơi kia bằng vẻ hằn học, hả hê, quên phứt vụ lúa thất bát cháy khô trên đồng, quên nỗi lo đói no giữa mùa giáp hạt. Cuộc vui hẳn sẽ dài, nếu như không có một ý tưởng mới nảy ra trong cơn phấn khích. Họ dùng dao phay chạt mái tóc dày kia, dục dặc, hì hục như phạt một nắm cỏ cứng và khô. Khi đuôi tóc dứt lìa, được tự do, chị vùng dậy, lao nhanh xuống ghe chúng tôi như một tiếng thét, lăn qua chân tôi, đến chỗ cha, làm đổ những bao trấu cha vừa mới xếp.

Đám người ngơ ngác mấy giây để chấp nhận việc con mồi bỏ chạy. Tôi mất mấy giây để háo hức thấy mình nghĩa hiệp như Lục Vân Tiên, tôi lồm cồm xô ghe dạt khỏi bờ, sợ hãi và sung sướng, tôi cầm sào chống thục mạng ra giữa sông, mắt không rời đám người đang tràn ra mé bờ chực lao xuống, nhảy nhót điên cuồng. Rồi tiếng chửi rủa chói lói chìm đi, tiếng bầy vịt tao tác kêu dưới sạp chìm đi, trong tôi chỉ có âm thanh của chiếc máy Koler4 nổ khan, rung bần bật dưới tay Điền, khạc ra những đám khói khét lẹt, đen ngòm. Khói trôi về phía sau chúng tôi, mờ nhoè những bóng người đang tuyệt vọng ngó theo, bàn tay nào đó cầm nắm tóc của chị vẫy lên phơ phất phơ phất …

Cha tôi không đóng vai trò gì trong cuộc tháo chạy ấy, ông im lặng, khi đã đi khá xa, cha ra đằng mũi cầm sào. Tôi bò vào trong ghe, lấy áo đắp lên người chị, sao cho che được đôi vú rách bươm và khoảng đùi rướm máu. Chị cười mếu máo, nói cảm ơn bằng mắt và thiếp đi.

Suốt một quãng đường, chị không hề thay đổi thế nằm, im lìm, lạnh ngắt như người chết. Trong ghe chỉ trôi mênh mang những tiếng rên khi dài, khi ngắn, khi thiu thỉu buồn xo, lúc nghe như tiếng nấc nghẹn ngào…

Nhờ vậy mà chúng tôi biết chị còn sống, để đi với chúng tôi gần hết con sông Bìm Bịp, đến cánh đồng hoang vắng này. Điền hơi lo lắng khi nghe chị vẫn còn rên rỉ, nghĩ là chị đã đói, nó hối tôi nấu cơm mau. Nó thấy tiếc vì trên ghe chỉ còn mấy con khô sặt mặn chát, “tui nuốt còn không vô, nói chi…”

Nhưng chiều hôm đó và cả ngày sau, chị không ăn. Chị từ chối cả uống nước, đợi đôi môi khô đã bắt đầu nứt ra, chị mới chịu hớp một vài ngụm ít ỏi, dường như chỉ đủ ướt môi. Đói và khát, nhưng chị còn sợ đau hơn. Người ta đã đổ keo dán sắt vào cửa mình của chị…

Tôi nói lại với cha và Điền trong bữa cơm. Tôi nghe hai người lặng đi, tiếng đũa tre khua vào miệng chén ngưng bặt. Điền ngó tôi và tôi thì đọc được sự ghê sợ, kinh tởm cồn lên trong mắt cha. Điền chan nước vào chén, lua vội vàng rồi men theo con đường đất dọc mé kinh, nó đi vào trong xóm. Tôi dặn vói theo, ghé tiệm mua giùm ngàn rưỡi đường cát.

Chắc gió đã bạt mất lời tôi, khi quay về, Điền không mang theo gì, nó lẳng lặng xòe tay trước mặt tôi, tay nó dính một lớp gì đó, bóng mượt, trong suốt, và đang khô quánh lại, khiến những ngón tay đơ ra như đá. Điền bảo, “Keo dán sắt…”. Dường như những người sản xuất ra loại keo này cũng không ngờ nó nhiều công dụng đến thế. Hai chị em tôi tỉ mẩn lột lớp keo ra, mảng da non trên bàn tay nó bỏng đỏ nhừ, tươm máu. Chúng tôi cùng ngó về chỗ khoang ghe, nghe tiếng thở thênh thang cùng gió…
 
Cánh đồng không có tên. Nhưng với tôi và Điền, chẳng có nơi nào là vô danh, chúng tôi nhắc, chúng tôi gọi tên bằng những kỷ niệm mà chúng tôi có trên mỗi cánh đồng. Chỗ chị em tôi trồng cây, chỗ Điền bị rắn cắn, chỗ tôi có kỳ kinh nguyệt đầu tiên… Và mai này khi trôi dạt đến một nơi nào khác, nhắc đến cánh đồng này với cái tên của chị, chắc chúng tôi sẽ xốn xang.

Sáng sớm ngày thứ ba, chị ngồi dậy được, ngó quanh, chị hỏi, “Trời đất ơi, chỗ nào mà vắng tanh vậy nè”. Làng xóm xa xa đằng phía những rặng dừa xanh thẩm. Đồng đất trống trơn, trên đôi bờ kinh chơ vơ những cây gòn. Hai đứa nhỏ đầu mướt sương đang hí húi trộn thức ăn cho vịt, nhìn chị ngạc nhiên đến ngây ngất. Giọng nói chị không bị thương tích gì hết, trong vắt và ngọt ngào.

Chị hỏi “Tắm ở đâu, mấy cưng?”. Tôi chỉ xuống kinh. Chị ngó những váng phèn, ngao ngán. Điền nói, đằng kia có một cái ao.

Đó là một hố bom cũ, bình bát mọc quanh, rau muống chằng chịt phủ kín mặt nước, cọng rau ốm nhằng, đỏ au. Chỗ này, hôm qua, Điền đã câu được những con cá thát lát ú mềm. Chị trầm mình dưới đó rất lâu, chẳng kỳ cọ gì, chỉ để nước lạnh chườm dịu lại những chỗ đau. Lúc chị lên bờ, tôi thấy máu lợn cợn theo những giọt nước nhỏ xuống giữa hai đùi, chắc chị đã làm gì với chỗ keo dán ác nghiệt ấy. Rồi cũng lâu lắc, cũng cà nhắc từng bước ngắn như lúc đi, chị với tôi quay lại bờ kinh. Điền hí hửng khi thấy chị chịu mặc chiếc áo sơ-mi thẫm phèn và cái quần cụt quăn queo của nó.

Chỉ có cha lầm lì dọn cỏ quanh chòi. Chỉ có cha là hờ hững với thành quả của hai chị em tôi. Không chấp thái độ lạt lẽo của cha, chị ngó về phía người đàn ông đang vồng lưng trong nắng sớm, chếnh choáng: “Ba mấy cưng đẹp trai dễ sợ…”.

Vì lẽ đó? Có phải vì cha mà chị ở lại với chúng tôi, trên một cánh đồng vắng ngắt. Những vết thương đã lành rất mau. Chị cười, bị đánh hoài riết cũng quen. Tôi hỏi chị làm gì để bị đánh. Chị cười, “Làm đĩ”. Rồi có lẽ chị áy náy vì quá sỗ sàng với chúng tôi, chị vò đầu Điền “chắc mấy cưng không biết đâu…”.

Điền nhìn tôi cười. Chúng tôi đã gặp nhiều, rất nhiều người phụ nữ giống chị. Cứ mỗi mùa gặt, họ lại dập dìu trên đê, lượn lờ quanh lều của những thợ gặt, những người đàn ông giữ lúa và bọn nuôi vịt chạy đồng. Họ cố làm ra vẻ trẻ trung, tươi tắn nhưng mặt và cổ đã nhão, nhìn kỹ phát ứa nước mắt. Đêm đến, sau các đụn lúa, họ thả tiếng cười chút chít, tiếng thở mơn man… lên trời, làm nhiều người đàn bà đang cắm cúi nấu cơm, cho con bú trong lều thắt lòng lại. Tối nào mua rượu cho cha, chúng tôi cũng đi ngang qua những đôi người. Chúng tôi nhận ra họ ngay, khi không còn mảnh vải nào trên người họ vẫn điềm nhiên cười khúc khích và uốn éo thân mình chứ không trơ ra ngượng nghịu, cam chịu như những người phụ nữ quê. Sáng sau, họ xiêu xiêu biến mất, đem theo mớ tiền công ít ỏi suốt một ngày làm việc quần quật của đám đàn ông.

Chị, cũng giống như họ, chớm tàn tạ, đói rã ruột ở thị thành mới chạy xuống quê, cất cái quán nhỏ, giả đò buôn bán bánh kẹo lặt vặt, thực chất là làm nghề. Ở đó đàn ông dễ tính và thiệt thà. Chị sống nhờ những món tiền họ cắm câu đêm đêm, bằng tiền bán lúa, dừa khô hay những buồng chuối chín. Cũng có lúc thu hoạch bất ngờ, khi chị mồi chài một người đàn ông vào trò chơi giường chiếu, suốt hai ngày đêm, và chị được một triệu hai. Đó là vốn vay xoá đói giảm nghèo, khi về tới nhà, với tám trăm ngàn còn lại trong túi, hẳn người đàn ông ấy não nề biết bao nhiêu, oán chị biết bao nhiêu khi thấy vợ con nheo nhóc bu quanh nồi khoai luộc trong nhập nhoạng nắng chiều.

- Ăn trên mồ hôi nước mắt của người ta nên lâu lâu bị đánh cũng đáng đời, hen mấy cưng?

Chị nói, và ngã nghiêng cười, dường như chị thấy mình trả giá vậy cũng vừa. “Mà hên nghen, nhờ vậy mà gặp được mấy cưng, được ở chung vầy, vui thiệt vui...”.

Cha không vui, vì có thêm một miệng ăn. Bầy vịt cũng không vui, chúng mổ vào chân chị mỗi khi chị bước qua rào, “bà ở đây làm chi để phần ăn của tụi tui bị xén bớt, trong máng độn toàn là trấu ngán thấy ông thấy cha, đã vậy còn bắt tụi tui đẻ trứng để nuôi bà”. Chị nhảy xổm ra, la oai oái, sau lại cười (mà con mắt đung đưa phía cha) “mai mốt mấy con vịt quỷ này sẽ khoái chị, mấy hồi…”.

Nhưng tôi và Điền biết thể nào chị cũng ra đi, trong mỏi mòn. Quãng thời gian chị bên chúng tôi, vì thế cũng mong manh. Nhiều khi lùa vịt ăn mót một đỗi đồng, nghĩ chị bỏ đi, Điền thảng thốt chạy về.

- Mấy cưng thương chị thiệt hả? Tội chưa… !?? ”.

Chị ngạc nhiên, thấy nước mắt ràn rụa trên má thằng Điền (mà chị không biết là nó bị bệnh chảy nước mắt sống từ hồi chín tuổi). Thật cảm động khi đời đánh ta tả tơi bầm dập, vậy mà hai đứa nhỏ này lại trìu mến, quyến luyến lạ lùng. Thêm một lý do nữa để chị ở lại với chúng tôi, trong một mùa hạn nóng bỏng, bất thường.

Mùa đến sớm. Vì vậy mà nắng rất dài. Mới rồi, chúng tôi dừng chân ở một xóm nhỏ bên bờ sông lớn mênh mang. Mỉa mai, người ở đây lại không có nước để dùng (như chúng tôi đi trên đất dằng dặc mà không có cục đất chọi chim). Người họ đầy ghẻ chóc, những đứa trẻ gãi đến bật máu. Họ đi mua nước ngọt bằng xuồng chèo, nín thở để nước khỏi sánh ra ngoài vì đường xa, nước mắc. Buổi chiều đi làm mướn về, họ tụt xuống ao tắm táp thứ nước chua lét vì phèn, rồi xối lại đúng hai gàu. Nước vo cơm dùng để rửa rau, rửa rau xong dành rửa cá. Con nít ba tuổi đã biết quý nước, mắc lắm cũng ráng chạy ra vườn đái vô chậu ớt, chậu hành (báo hại cây rụi lá). Ở đó, có người con trai bảo, “ước làm sao trước lúc má tui chết, bà được tắm một bữa đã đời”. Câu nói này làm tôi thương anh ta quá chừng. Hôm tôi đi, anh tần ngần đứng bên hè, hỏi nhỏ “Không biết em có muốn ở lại với… má tui?!”. Tôi lắc đầu, hai gàu nước ít ỏi của má anh, tôi nỡ nào sẻ nửa?

Tôi giục cha rời khỏi cái xóm tàn tạ đó. Những cánh đồng chúng tôi qua, lúa chết khô khi mới trổ bông. Người ta không thể trồng đậu, trồng dưa vì thiếu nước. Bầy con nít giỡn nhoi trên những con kinh khô trơ lòng.

Chỗ chúng tôi cắm lều cầm vịt, nước đã sắc lại thẫm một màu vàng u ám. Nhưng chúng tôi chẳng có chỗ nào để đi nữa, từ bờ bên kia của sông Bìm Bịp là vùng đệm cho những cánh rừng tràm lớn. Mùa này, người ta lấy nước từ tất cả các dòng sông nhỏ, các con kinh để bơm vào rừng, chống cháy. Chúng tôi cũng không thể ngược sông Bìm Bịp băng qua vùng Kiên Hà, ở đó họ kiểm dịch thú y rất gắt gao. Và dịch cúm gia cầm nghe đâu vẫn còn bùng phát khắp đồng bằng.

Để bầy vịt khỏi bị chôn sống (điều đó đồng nghĩa với việc đứt vốn cho mùa sau), bọn tôi quyết định vẫn cầm chúng ở đây. Chúng được nuôi trong sự mỏi mòn. Ngày ngày, tôi lùa vịt đi ăn mót những bông lúa khô quắt queo trên đồng, không có nước chúng bì bạch, chậm rì và chẳng thể đi xa. Trứng thưa thớt, những quả trứng chúng đẻ ra cũng chai ngắt, dài nhằng, nhẹ tênh, vỏ dày sần sượng. Đòi hỏi gì nữa ở những con vịt đã già, đã đẻ quần quật suốt ba mùa trước, đã vô vọng vì ngày càng khó tìm lúa và cám trong máng thức ăn. Ngay cả nước để chúng tắm táp cũng chua lét vì phèn.

Mà, mùa mưa vẫn còn xa lắm.

Ngày ngày, Điền rủ chị đi giăng lưới, nhắp cá và tát những cái mương cạn. Cá ăn không hết, chị đem vô xóm bán và hãnh diện đưa cho cha vài mươi ngàn thừa sau khi đã sắm ít quần áo. Mắt chị nhìn cha đầy khiêu khích, “Cuộc đeo đuổi vẫn còn dài, cưng à…”.

Chị đổ lì. Chị tìm mọi cách để sà vào cha. Một bữa chị bảo Điền xuống ghe ngủ với tôi, còn chị sẽ lên chòi. Đó là một đêm tối nhờ nhờ, trôi trên trời một mảnh trăng mỏng leo lét. Điền ngọ nguậy, xoay trở liên tục, nó kêu khó ngủ, đòi nghe tôi hát, bài gì cũng được. Nhưng Điền vẫn thao thức, dường như giọng hát tôi không át được tiếng sột soạt rạo rực trong cái chòi nhỏ trên bờ. Điền chê ngủ ghe chòng chành quá chừng. Tôi biết lòng nó đang chao.

Điền có những ngày bối rối. Nó hay hỏi tôi, “người ta thương mẹ ra làm sao?”. Mặt nó dãn ra, khi biết cây kẹp tóc, trái dừa tươi hay con cá thác lác… mà nó dành cho chị cũng giống hệt như người ta vẫn thường cho mẹ. Và niềm nhớ lúc đi xa, nỗi khao khát được nằm gần, được dụi mũi mình vào da thịt người đó… cũng tự nhiên như ý nghĩ bình thường nhất của những đứa con. Nhưng những nghi hoặc vẫn loay hoay trong mắt Điền, và nó quyết định chịu đựng một mình, khám phá một mình. Thí dụ như đêm nay, cái gì khiến tim ta đau nhói, cái gì làm cho ta cảm thấy giận dữ, nặng nề?

Khi tôi thức dậy, Điền đã mệt mỏi thiếp đi, nó nằm co quắp, hai tay kẹp giữa đùi, mặt buồn như phủ một lớp sương giá. Chị bước ra khỏi chòi, khoan khoái vươn vai. Sự ưng ý, mãn nguyện lấp lánh trên khoé mắt. Khuôn mặt chị tràn ngập ánh sánh, như chị vừa mở ra một cánh cửa mặt trời. Có một con đường nào đó trãi dài trước chị. Chị cười, bảo:

- Hồi hôm sương nhiều ghê, nó nhiểu lên mặt chị hoài, nhột gần chết.

Rồi chị giành nấu cơm. Chị xoắn tay áo lên hì hụi thổi lửa, đầu tóc xấp xãi dính đầy vảy cá. Trông chị như bà vợ tảo tần. Hình ảnh ấy làm tôi ứa nước mắt, nhưng cha tôi chỉ lạt lẽo nhếch cười. Vì cái cười đó mà tôi ứa nước mắt thêm lần nữa.

Cha đưa chị một ít tiền ngay trong bữa cơm, khi nhà đủ mặt, “Tôi trả cho hồi hôm…”. Rồi cha điềm nhiên phủi đít đủng đỉnh đứng lên, sự khinh miệt và đắc thắng no nê trong mắt. Chị nhét tiền vào trong áo ngực, cười, “Trời ơi, ba mấy cưng sộp quá chừng”.

Điền và tôi rủ chị đi câu (Chúng tôi cho là chị buồn, dù chuyện đó khá tức cười, làm điếm được trả tiền mà buồn nỗi gì). Suốt buổi, không dính con cá nào, chị nói, “Mắc cười quá, tới mấy con cá quỷ này còn chê chị”. Câu nói nghe tỉnh bơ, bâng quơ mà tủi vô phương. Điền lặng bắt con cá rô lội xuống mương, lặn sâu, móc cá vô lưỡi câu của chị. Lúc nó trồi đầu lên thì đã thấy chị cười.

Trưa ấy chúng tôi trầm nghịch dưới nước rất lâu. Chị cười nôn khi thấy bùn bám dưới mũi tôi xám xanh như bộ râu củ ấu. Tự dưng nét mặt chị bỗng âu yếm lạ, như đang nựng nịu một đứa bé con và thằng em trai mười bảy tuổi của tôi đứng đực ra, chết lặng trong nỗi ngượng ngùng. Nước cồn cào chỗ bụng nó, tôi biết chị đang táo tợn làm gì đó phía dưới. Rồi phát hiện ra một mất mát lớn lao, chị thảng thốt kêu lên:

- Trời đất ơi, sao vầy nè, cưng?

Chị toàn hỏi những câu hỏi khó. Chỉ nghe thôi đã đau, nói chi trả lời. Thí dụ như có lần chị hỏi “Má mấy cưng đâu?”, “Nhà mấy cưng ở chỗ nào?”, thằng Điền đổ quạu:

- Biết chết liền!
 
Những chiều ghe chúng tôi đi ngang qua những người đàn bà ngồi giặt giũ dưới bến sông, tôi hay hỏi lòng, có phải tôi vừa ngang qua má đó không. Tôi cố giữ trong lòng hình ảnh má nhưng rồi ngày càng tuyệt vọng khi thấy nó nhạt nhòa dần, cứ nghĩ mai này gặp lại mà không nhận ra nhau, lòng nghe buồn thiệt buồn.

Má tôi hay mang xoong chảo ra bực sông chùi lọ nghẹ, sẵn đón ghe hàng bông mua ít rau cải tươi và bán lại những quày chuối chín bói trong vườn. Dần dần, buổi chiều, đám thương hồ hay lại neo ghe chỗ mấy cây mấm trước nhà. Một người bảo không sao xa được người đàn bà có cái cười làm lấp lánh cả khúc sông. Má tôi nguýt dài:

- Dóc…

Người đàn ông cười hề hề, thề “Tôi nói láo cô Hai cho xe đụng chết ngắc” (Ngay lập tức, Điền thì thầm, “thằng chả ở dưới ghe kiếm đâu ra chiếc xe, nói dóc…”, và bằng cái vẻ ác cảm lạ lùng, thằng Điền biểu tôi nhìn khuôn mặt và tấm lưng trần chi chít những nốt ruồi của ông ta, bảo “Tại hồi đó má ổng mới sanh ổng ra quên lấy lồng bàn đậy, nên ruồi bu tùm lum”).

Cho dù người đàn ông ấy có quá nhiều nốt ruồi, cho dù chẳng cao ráo, đầu ít tóc… nhưng với chiếc ghe chở đầy vải vóc, những người đàn bà lam lũ quê tôi vẫn thường trông ngóng ông ta. Tất cả họ đều trở thành trẻ thơ khi bước chân lên ghe, họ tíu tít, háo hức, họ thèm muốn đến bồn chồn rồi dùng dằng trở lên bờ với tâm trạng tiếc nuối, ngậm ngùi, thấy mình già khi ngang qua bồ lúa vừa hớt bớt một lỏm, thằng cha bán vải lấy mấy giạ mà như khứa một ít tuổi xuân đi. Cả đời, cái bồ lúa luôn làm lòng họ đau đáu, khi nghĩ tới bệnh tật, chuyện cất lại cái nhà, hay dựng vợ gã chồng cho con cái.

Bồ lúa nhà tôi đã cạn từ sau Tết. Điều đó làm má tôi hơi buồn, nhưng người bán vải xăng xái bảo, “Cô Hai cứ coi đi, không mua cũng được – rồi ông ta sửng sốt khi thấy má rạo rực khi ướm thử những khúc vải rực rỡ lên người – Chèn ơi, coi nó bình thường vậy mà khoác lên mình cô Hai lại thấy sang quá trời”. Má bỗng nhiên thắc thỏm:

- Dóc…

Tôi chưa bao giờ thấy cái màu đỏ lạ lùng ấy. Đỏ hơn bông bụp ngoài sân, đỏ hơn máu. Má ngó chúng tôi, hỏi: “Gì mà nhìn trân trân vậy hai đứa?”. Tôi nói, “Má lạ quá hà, nhìn không ra”. Má mừng quýnh, “Thiệt hả?”. Tôi muốn khóc quá chừng, má con xa lạ với nhau mà sao lại mừng?

Một bữa tôi chiêm bao, chẳng đầu chẳng cuối gì, chỉ thấy vía má giãy dụa trong tấm vải đỏ lạ lùng kia nhưng nó thít chặt, riết lấy, siết dần cho tới khi má thành một con bướm nhỏ, chấp chới bay về phía mặt trời. Giật mình thức dậy mới hay mình ngủ quên trong kẹt bồ lúa, con chó Phèn ngoài hè nôn nóng cào đất rột rẹt chỗ cái lổ chui (Chắc má tưởng hai chị em tôi đi chơi nên chốt cửa trước cửa sau mất rồi). Mà Điền ngồi ém ngay đó, lì ra, không cục cựa, mình nó mướt mồ hôi, không có vẻ gì là nó đang khóc, nhưng nước mắt chảy ròng ròng. Tôi ôm đầu nó, giấu ánh nhìn của nó vào ngực mình.

Đứa mười tuổi quay lưng lại, đứa chín tuổi úp mặt vô áo chị nó, nhưng cả hai vẫn như thấy rõ ràng, trên chiếc giường tre quen thuộc, má oằn uốn người dưới tấm lưng chơm chởm những nốt ruồi. Họ cấu víu. Vật vã. Rên xiết.

Đó là hình ảnh ấn tượng cuối cùng của má tôi trên nền một cái nhà nhỏ, đằng trước có bộ bàn chữ U, bộ vạc tre, rồi đến một cái bồ lúa nhỏ dựng gần giường ngủ, và gian bếp thấp. Quanh hè, dài theo những lối đi ra vườn, ra bến là những cục đá tảng, những thân dừa chẻ hai, cha tôi đã hì hục lót để suốt một mùa mưa, chân má tôi không bị dính sình bùn.

Suốt nhiều năm sau đó, tôi không dám nhớ má, bởi ngay vừa khi nghĩ đến má, ngay lập tức hình ảnh ấy hiện ra. Theo đó là rực rỡ trên da thịt màu vải má tôi vừa đổi được (không phải bằng tiền, hay lúa). Mà, đáng lẽ phải nhớ tới khúc má nằm võng hát đưa mình ngủ ấy, hay đoạn má ngồi giặt áo bên hè, hay má cúi đầu giữa vầng khói mơ màng, thổi lửa bếp ung…

Má có rất nhiều hình ảnh đẹp, và cả khuôn mặt lo lắng của má khi chiều ấy vẫn còn đẹp, nhìn thấy nước mắt không ngừng tuôn rơi trên mặt thằng Điền, má thảng thốt hỏi: “Mèn ơi, mắt con sao vậy?. Tôi trả lời, day day chậm rãi, “Chắc tại nó nhìn thấy chuyện bậy đó, má. Trưa nay nó ngủ kẹt bồ lúa”. Má chết lặng nhìn tôi, cái nhìn như lịm đi trên khuôn mặt đẹp não nề. Không thể giải thích vì sao tôi lại hể hả.

Và tôi luôn nghĩ rằng chính vì câu nói đó mà má tôi ra đi.

Tôi chạy qua nhà hàng xóm, nói với thím Tư rằng má đi mất tiêu rồi. Cả xóm tưng bừng, kẻ mừng vì vợ mình chưa bỏ theo trai, người vui vì con đàn bà đẹp nhất xóm đã đi rồi, khỏi lo ông chồng suốt ngày thòm thèm dòm ngó, cũng có người buồn, ghe vải chắc chẳng quay lại xóm này. Mọi người bàn ra tán vào, xôn xao, bắt tôi nhớ lại coi trước lúc đi má tôi có hành động gì đặc biệt mang tính dự báo không? Chuyện này quan trọng lắm, nó cho người ta tự kiểm tra trình độ trải nghiệm, suy đoán. Thí dụ như nhà nào có người mới mất họ kêu lên, hèn chi đêm trước có nghe chim cú kêu, thê thiết lắm. Thí dụ như nhà nào bị mất trộm, họ bảo nhau, hồi hôm tui nghe tiếng chó sủa thiệt kỳ, là tui nghi rồi… Nhưng chuyện ra đi của má tôi không mấy ly kỳ...

- Hồi chiều má con không nấu cơm…

- Vậy sao?

- Má con nằm trên giường thở dài…

- Vậy hả? Thở ra làm sao?

Tôi hết biết tả. Tiếng thở thườn thượt, nghe buồn mênh mông, chảy từng giọt như nước mắt. Má tôi thở dài khi ghe cha ghé bến vì biết mai mốt cha lại đi. Má tôi thở dài khi tắm, khi nước trôi dài trên làn da trắng như bông bưởi. Lúc ngồi vá những bộ quần áo cũ. Mỗi lần ghe vải ghé trước bến, má cũng thở dài, tay bối rối nắn vào hai túi áo mỏng kẹp lép. Thở dài cả khi thằng Điền bảo cho con xin tiền mua kẹo, má ơi.

Mọi người không thất vọng, họ cho thời gian lùi lại xa xa, thì ra cũng đã có điềm báo trước mối nhân duyên này tan rã, ngay cái bữa đầu tiên, ngay lần gặp đầu tiên. Má tôi ngồi khóc bên bực con sông Dài, cha tôi chèo ghe đi ngang, đã qua khỏi một quãng nhưng vì mủi lòng, cha quay mũi lại. Cha hỏi, cô về đâu tôi cho quá giang. Má tôi ngước lên, mặt ràn rụa nước, “tôi cũng không biết về đâu”. Cha tôi chở người con gái tội nghiệp này về nhà, và trong thời gian suy nghĩ tính coi mình đi đâu, má yêu cha mất rồi, sau đấy thì đẻ hai chị em tôi. Rõ ràng, quá rõ ràng, thấy chưa, má tôi chỉ quá giang một khúc đời rồi đi, ai cũng linh tính vậy, chỉ cha tôi là không, nên bây giờ mới khóc hận, cười đau.

Tới đây thì hết chuyện nói, hàng xóm ra về. Giống hệt như vừa tan đêm hát, họ xì xào đi vào trong đêm, tiếng chó sủa rộ lên dài theo những con đường xóm. Tôi và Điền nằm nhìn trân tráo lên nóc mùng, nghe gió hui hút trên những ngọn tre già bên hè. Một hồi, thím Tư qua, thím kêu hai chị em tôi qua nhà thím ngủ.

Sáng sau, thím đi chợ, tới bến tàu, cho hay “Vợ Út Vũ bỏ nhà. Theo trai” Ông chủ chiếc đò chạy tuyến Hưng Khánh nói lại với mấy bà bạn hàng, và chiều lại cha tôi mới nhận được lời nhắn ấy khi đang lên đòn dong cho một ngôi nhà gần chợ Hội. Nghe nói cha tôi còn cười, giọng ra vẻ giận, “Bộ hết chuyện giỡn rồi sao, cha nội?”. Có vẻ khó tin, khi một người nghĩ rằng, chỉ cần mình hết lòng yêu thương, gánh hết sự kiếm sống nhọc nhằn thì sẽ được đền đáp xứng đáng. Có vẻ buồn cười… Và cha tuột xuống đất, run rẩy…

Quãng hành trình về nhà có vẻ rất dài và khắc nghiệt, nó vắt kiệt cha tôi. Cha cười cay đắng, khi thấy quần áo má còn treo trong nhà, còn cả cái khăn tắm và đôi dép Lào cũ, như thể má đang chơi bên xóm, chỉ cần thằng Điền kêu má sẽ xấp xãi chạy về, mừng húm hỏi “Đi chuyến này nữa là đủ tiền mua ti vi màu, phải hôn anh?”.

Coi kỹ thì má không đem theo gì. Chi tiết đó làm đau lòng người ở lại, nó cho thấy người đi đã chẳng suy nghĩ, đắn đo, đã không một chút trù trừ, chỉ rũ mình cái rột, sạch trơn, vậy thôi.

Cha đem tất cả đồ đạc của má đem đốt. Khói bay mù mịt trong nhà, mùi vải, mùi nhựa cháy khét lẹt, những cái áo hồng áo tím rúm ró lại, chảy thành những giọt tro. Cha nhìn ngọn lửa, mặt đanh lại, rồi mắt bỗng rực lên, ngây ngất vì một ý nghĩ mới lạ.

Chúng tôi dong ghe đi, quặn lòng ngoái lại căn nhà đang quay quắt dãy dụa trong lửa đỏ. Nghe vẳng theo âm thanh lốp bốp rất giòn của những thanh gỗ cháy, và tiếng xóm giềng í ới gọi nhau. Chắc chắn sẽ có người vỗ đùi cái đét, “Hồi hôm qua, ngó cái mặt u ám của Út Vũ, tui nghi thể nào thằng chả cũng đốt nhà. Nghi đâu có đó, thiệt là y như để vậy, các cha”.

Kể nhiều chuyện như vậy là để trả lời chị, nhà tôi, má tôi, rốt cuộc đã trở thành tro bụi mất rồi. Nên khi hết mùa lúa chín, những người nuôi vịt chạy đồng khác đã trở về nhà còn chúng tôi lại tiếp tục lang thang.

Đàn vịt đưa chúng tôi đi hết cánh đồng này đến cánh đồng khác. Đôi khi không hẳn vì cuộc sống, chúng là cái cớ để chúng tôi sống đời du mục, tới những chỗ vắng người. Ở đó, ít ai phát hiện ra sự khác thường của gia đình tôi, và ít hỏi cái câu, “Má mấy đứa nhỏ đâu?”. Để cha phải buột lòng nói “chết rồi!” và cười lạt khi nghe người nào đó kêu lên: “Mèn ơi, tội hai đứa nhỏ hôn”.
 
Lần đầu tiên hai chị em tôi lạc giữa đồng. Cơn mưa buổi xế chiều làm tắt rụi ánh mặt trời, và đêm tối nhanh chóng ập xuống. Mưa giăng bốn bề, những rặng vườn trở nên xa vời, mờ mịt, căn lều và chiếc ghe của mình nằm ở phía nào vậy ta, Điền hoang mang hỏi. Chúng tôi lội xom xom xuống một mé vườn và rã rời tuyệt vọng xua bầy vịt quay ra. Cha tôi đã bỏ về ghe từ giữa trưa, có thể cha đã uống rượu say và ngủ mất tiêu. Có thể cha còn thức nhưng cha không đi tìm. Khóc đã đời, một hồi, thấy trời ngày càng tối, chúng tôi quyết định buông trôi, tha thểu đi theo bầy vịt, biết đâu…

May sao, chúng nhớ đường về. Khi nhìn thấy ánh đèn chong leo lét đầu ghe, chúng tôi mừng như chết đi sống lại, Điền nắm tay tôi chạy như điên, nước đồng văng sáng trắng. Bầy vịt tao tác một phen (báo hại đêm đó tụi nó nín đẻ). Cha tôi ngồi chờ bên cạnh cây roi.

Sau này, đã tự học cách định hướng bằng bằng mặt trời, bằng sao đêm, bằng gió, bằng ngọn cây… nghĩ tới lần lạc đồng, thấy cười quá chừng. Mắc cười hơn là Điền, vốn rất sành sỏi đường đi nước bước, lại bị lạc lần nữa, giữa ban ngày. Nó loay hoay ở giữa một gò đất chùm gọng leo dày mịt, không biết vô đó bằng đường nào nhưng chẳng thể quay ra, có người đàn bà bưng rổ bánh quy lại, biểu nó ăn. Đói quá, thằng Điền ngốn gần chục cái. Lúc tôi tìm được nó nhờ tiếng rên ư ử, bụng nó đã lặc lè, và miệng đầy sình đất. Quay đi quay lại không có bóng người, chỉ có cái mả lạng nằm sát đất, rời rợi cỏ xanh.

Những ngày sau này, tôi một mình trở lại gò đất, nhưng chờ hoài không thấy ma hiện ra. Nghe thằng Điền kể, người đàn bà đó thiệt hiền, chỉ đau đáu vuốt tóc nó và ánh nhìn chan chứa thương yêu. Tôi nghe mà khóc muốn chết, sao con ma đó không chịu giấu tôi giùm cái.

Rồi tôi ngồi quẹt tay lau nước mắt đi, kỹ càng, để gương mặt an nhiên, ráo hoảnh. Tôi quyết không để cha thấy mình buồn, quyết không để cha bật ra cái câu “Chịu hết nổi cái cảnh sống này rồi hả? Chừng nào đi?”.

Cha vẫn thường đánh chị em tôi, thường đánh khi vừa ngủ dậy. Đó là khi người ta thấy hoang hoải, chán chường, sau một giấc dài, mở mắt ra, vẫn gió đìu hiu, vẫn nắng võ vàng trên những cánh đồng hoang lạnh. Và tôi tự nhớ lại coi hồi sáng này, hồi trưa này mình đã làm gì giống má, kho cá bỏ quá nhiều tiêu? Hay vì tôi buộc tóc nhong nhỏng? Hay tại tôi ngồi bắt chí cho thằng Điền?

Hay tại tôi càng lớn càng giống má. Có bữa, nửa đêm thằng Điền thức giấc, nhìn thấy tôi day lưng lại lui cui vá áo, nó thảng thốt kêu “Má ơi!”. Tôi cảm thấy mình thất vọng đến rã rời. Những thói quen, những cái gì liên quan đến má tôi phủi gần sạch rồi, nhưng tôi làm sao có thể từ bỏ hình hài này.

Tôi đành để cha đánh để ông bớt đau chút lòng. Sau này chị em tôi không day dứt chi cho mệt, vì hiểu thấu ra, mình bị đòn chỉ vì là con của má, vậy thôi.

Với chúng tôi, quãng thời gian ấy vẫn còn vui lắm, sau này, cha tôi chán không đánh nữa. Cha ơ thờ, lạt lẽo, chuyện gì cần nói thì nói vài câu nhát gừng. Cha giao bầy vịt cho hai đứa tôi, lúc rảnh ngồi gọt đẽo những cán dao, tấm thớt hay lẳng lặng vác cần câu đi câu cá, vừa bán được tiền, vừa khỏi phải nhìn những đứa con của một bà mẹ bạc lòng. Thành ra, cái ghe thấy nhỏ, lại rộng vô cùng tận, loay hoay chỉ ba con người, nhưng nhiều năm trôi qua, hai chị em tôi vẫn cảm thấy xa cách cha. Có lần, khi đi trên sông, thằng Điền giả đò té chìm ngỉm mất tăm, tôi giả đò kêu la chói lói, cha hơi giật mình hoảng hốt, dợm lao xuống nước, nhưng rồi cha điềm nhiên ngồi lại, tiếp tục gọt đẽo, chắc là nhớ ra thằng Điền đã lặn lội nước sông từ năm bốn tuổi, sức mấy mà chết trôi.

Chúng tôi biết là khó đòi hỏi gì hơn nữa, chỉ một chút xao lòng của cha, là mừng lắm rồi. Cha giống như đồ vật bằng gốm vừa qua cơn lửa lớn, vẫn hình dáng ấy nhưng đã rạn nứt, nên chúng tôi chỉ dám đứng xa mà nhìn, mủ mỉ nâng niu, nếu không thì vỡ mất.

Và chiếc ghe, cánh đồng, dòng sông thênh thang mãi…

Tôi và Điền buộc phải tự học lấy cách sống. Nhiều khi dễ đến không ngờ… Nhờ Điền bị rắn hổ đất cắn mà chúng tôi biết được cách phân biệt vết răng của rắn độc. Nó để lại trên cổ chân Điền một cặp vết răng như hai cái lỗ nhỏ, sâu hoắm. Tất nhiên, phải nhờ người thợ gặt tốt bụng vác thằng Điền chạy một đỗi đồng để tới ông thầy lấy nọc rắn, nó mới giữ được cái mạng để rút… kinh nghiệm. Sau này, một lần băng qua một đám cỏ dày, đến lượt tôi bị rắn cắn, tôi kêu, Điền ơi, chắc Hai chết trước à. Thằng Điền nhìn vết thương nó cười, nói không sao, số Hai sống lâu lắm, hai hàng răng tươm máu giống hệt nhau như vầy, chắc cú là rắn bông súng cắn chơi thôi. Và nhìn bướm bay, nhìn mây trôi tôi biết ngày nắng hay mưa. Nghe bìm bịp kêu chúng tôi biết nước lên. Dừng ghe ở một tuyến kinh nào, thằng Điền trèo lên ngọn cây cao, ngó bao quát cánh đồng và tính toán xem có thể cầm vịt ở đấy bao lâu thì hết thức ăn, đúng chóc. Hay chúng tôi tự phán đoán ở đâu vụ mùa đến sớm, vùng nào lại trễ tràng để rời cánh đồng này, chúng tôi đến ngay một cánh đồng khác, ngay khi lúa vừa chín tới.

Thành ra, mùa du mục của chúng tôi kéo dài liên tục từ mùa mưa sang nắng, rồi lại mưa. Nhiều lúc tôi hơi nhớ con - người. Họ ở trong cái xóm nhỏ kia, chỉ cách chỗ chúng tôi dựng trại vài ba công đất. Họ lúc nhúc trên thị trấn kia, nơi chúng tôi vẫn thường ghé lại mua gạo, cám, mắm muối… dự trữ cho những chuyến chạy đồng xa. Và họ ở gần ngay đây, họ vừa gặt lúa vừa nói chuyện tục tĩu rồi cười vang bên bầy vịt đang rúc rích tìm thức ăn, nhưng tôi vẫn nhớ...

Có lẽ vì cuộc sống của họ ngày càng xa lạ, với chúng tôi. Họ có nhà để về, chúng tôi thì không. Họ sống giữa chòm xóm đông đúc, chúng tôi thì không. Họ ngủ với những giấc mơ đẹp, chúng tôi thì không. Nằm chèo queo, co rúm, chen chúc nhau trên sạp ghe, chúng tôi đánh mất thói quen chiêm bao. Điều này làm tôi và Điền buồn biết bao nhiêu, vì cách duy nhất để được nhìn lại hình bóng má cũng tan rồi. Mà, thí dụ như những cơn chiêm bao quay trở lại, chúng tôi không biết chắc là hình ảnh ấy của má có xuất hiện hay không.
 
Mùa khô năm tôi mười ba tuổi, bầy vịt lăn ra chết gió. Để kiếm sống, cha tôi quay lại với nghề thợ mộc. Cha nhận đóng giường, tủ cho một vài nhà trong xóm Bàu Sen, chúng tôi neo ghe lại đó dài ngày.

Cái cảm giác đang ở xóm cũ (có ngôi nhà cũ) vây riết lấy chúng tôi (chữ “chúng tôi” tôi không kể cha vào). Những trưa xế ngồi ngoài hàng ba một nhà trong xóm, tôi tước lá dừa thắt cào cào châu chấu, Điền ngó nắng rưng rưng ngoài sân, nói “sao gió ở đây giống hệt gió nhà mình”. Hai đứa tôi muốn khóc.

Chị chủ nhà ngần ngại nói với cha, “Ngó mặt hai đứa con anh thấy thương quá, thấy… không bình thường”. Cha tôi cười nhẹ, “Vậy hả? Ờ ờ…”.

Đứa con gái chị chủ nhà trạc tuổi thằng Điền, rủ chúng tôi vào nhà chơi. Nhưng nó luôn nhận được những cái lắc đầu. Chúng tôi sợ quá cái bồ lúa trong nhà, hình ảnh nó làm cả hai chị em ngạt thở. Thật lạ làm sao, khi mà chúng tôi đã quen dần với những - hình - ảnh - giống - mình (tức là bị bỏ giữa đời chơi vơi), thí dụ như nhìn một chiếc đũa gãy, cái nắp nồi vỡ, hay bầy gà con lạc mẹ nhao nhác… Nhưng không quên được, cái bồ lúa ngai ngái mùi cứt trâu, giữa nó và vách nhà là một khoảng hơi tối nhưng rất thu hút trẻ con. Chúng hay giả bộ đó là nhà của riêng chúng, để bày biện, nấu nướng, đóng vai chồng vợ, vai má con. Để lúc bị đòn, chúng cũng chui tọt vào đó, khóc một mình, nhiều khi ngủ quên luôn (và người lớn thì hãi hùng, sao không thấy đứa nhỏ đâu, nó bỏ đi về ngoại, nội? hay đã vô ý trợt chân té xuống đìa?). Cái kẹt bồ lúa, cũng đã từng là thiên đường mơ mộng của hai chị em tôi, bẻ trái trứng cá làm cơm, muỗng dừa là chén, giả đò “ăn” no, giả đò tối rồi, đi ngủ, một bữa kia chơi chán lăn ra ngủ thiệt, thức dậy bỗng thấy cuộc đời mình thay đổi quá trời đất, như đã sống qua một kiếp rồi. Nhưng chín mười tuổi đã đủ để gọi là một kiếp người chưa?

Chúng tôi chẳng phải những đứa trẻ bình thường, cuối cùng nhỏ con chị chủ nhà cũng nhận ra, nó bỏ mặc. Nó là một đứa trẻ xinh đẹp nhưng hỗn hào, cáu kỉnh, nó chẳng khi nào kêu má ơi má à, khi cần, nó chỉ cộc lốc bảo, tui đói bụng quá bà ơi. Người mẹ phân bua với cha tôi, “Tại ba nó mê theo vợ bé nên không ai dạy…”.

Chị cũng bận rộn, te tái cắp nón đi suốt, tìm ông thầy này, bà cốt kia, để thỉnh bùa chú cho ông chồng quay lại. Và mỗi khi thất bại, chị lại quả quyết là bùa của tình địch mạnh hơn. Nói như vậy dường như để cho tâm bớt đau trước sự thay lòng. Chị có cả một kho tàng về chuyện đồng cốt, những người có khả năng thấu đáo cõi âm, cõi trời và cõi người. Họ biết chữa bệnh (có thể lấy từ bụng ta ra một nùi tóc với cái lưỡi dao cạo, hay dùng hột gà luộc lăn trên da thịt ta, sau đó bẻ cái trứng ra cho ta coi một nhúm lông… chó mực), cũng biết dùng những tấm bùa được vẽ bằng máu… lưỡi để ếm chết người và cuối cùng, họ đem được người ta yêu trở lại. Chỗ này khá mắc cười, bởi tấm bùa có linh nghiệm thiệt thì người quay về cũng không phải của - mình. Những săn sóc nâng niu, những lời nói ngọt ngào… tất cả đều không thật (mình biết tỏng tòng tong là nhờ bùa ngãi chớ thương yêu gì). Và cái cười dịu dàng kia, ánh mắt ấm áp kia, nụ hôn ngọt ngào kia, vòng tay nồng nàn kia… cũng vậy. Đó là chưa kể phải thoi thóp lo âu một ngày bùa thiêng hết tác dụng, thằng đàn ông rùng mình một cái, ngơ ngác hỏi ủa, sao hai đứa mình nằm chung giường vậy, xin lổi nghen, chắc tại hồi hôm tui xỉn quá nên chui ẩu vô mùng bà. Rồi ông ta nhìn vẻ mặt đau đớn của mình, kinh hoàng: “Trời đất ơi, bộ tui đã làm gì bậy bạ sao?”. Tất cả sẽ chấm dứt ở đó, ông nọ phủi sạch những ngày tháng mặn nồng. Với ký ức trống trơn, họ phơi phới ra đi, còn mình thì nhớ hoài, đau hoài…

Nhưng chẳng tin vào bùa thì còn biết làm gì nữa, chị cũng đã lặn lội tới nhà tình địch, đã xé quần áo của cô ta, xởn tóc, lôi xểnh ra biêu riếu giữa chợ rồi, chị kể. Bằng cái giọng rộn rã, giòn tan chỗ cao trào, rồi chị hết sức chậm rãi, tỉ mỉ, tả cái đoạn chị dùng dao rạch mặt cô ta và xát muối ớt vào (những người quê mình vẫn thường làm chuyện đó rất bình thường, sẽ buồn cười khi có ai đó nói làm vậy là vi phạm điều X chương Y luật hình sự, họ cãi ngay, “Ủa, nó cướp chồng tui thì tui phải đánh cho tởn chớ”, với vẻ mặt tự hào ngút ngất, tỉnh bơ, ngây thơ, tựa như một người đi qua trận địa cũ và nói với ông bạn mình, hồi năm bảy hai tui bắn thằng lính cộng hòa ở chỗ này, óc nó nát như chao, con mắt văng ra xa cả thước. Ông bạn chẳng ớn, nói tôi cũng cắt cổ thằng Mỹ ở đây chớ đâu)

Sau đận đó, chồng chị bỏ ngay cô nhân tình này và trớ trêu, anh ta chạy theo… cô khác. Ba mùa lúa rồi chị ra đồng một mình. Một mình nuôi con. Một mình nhìn gương, tự ve vuốt và yêu lấy mình…

Cái sàn lãn sau nhà đã ba năm vắng bóng đàn ông. Một chiều chúng tôi đến, xẻ mấy cây đố xong, cha ra đó tắm. Nước chảy re rắt trên khuôn mặt lạnh lùng, nước mỏng tang tràn qua những thớ thịt đỏ au của cha tôi. Chị chợt giật thót người, cài vội chiếc nút áo bung ra vì không chịu nỗi đôi vú căng tức.

Ngay lập tức, tôi có cảm giác câu chuyện về những lá bùa vẽ nhì nhằng chị dấu trong áo gối, ém dưới chiếu, hay kẹt giường… không còn ý nghĩa gì hết. Chị cũng sững sốt khi nhận ra điều đó. Giường đã làm xong, đáng lẽ chúng tôi phải dời đi, nhưng chị chủ nhà muốn đóng thêm hai cái tủ nữa. Chị thuê hàng xóm xuống ao mò lên những thân gỗ đã ngâm lâu và chở tới xưởng cưa. Rõ ràng là chị không chuẩn bị trước, rõ ràng chị muốn giữ cả nhà chúng tôi lại.

Chúng tôi được đối xử rất tử tế, ngoài hai bữa cơm, buổi trưa, chị hay đãi thêm nồi chè, hay khoai luộc. Chị nồng nhiệt bảo chúng tôi lên nhà ngủ, nhà rộng rinh như vầy không cớ gì phải ngủ ghe. Cha tôi trù trừ nhưng rốt cuộc cũng gật đầu (với một thoáng giễu cợt), thật không nỡ chối từ một tấm lòng như thế.

Tôi và Điền ở lại ghe, tôi nói, ngủ ở đây gió mát quen rồi, với lại, tụi tui phải giữ đồ. Nói tới chỗ này tôi mắc cười muốn chết, chiếc ghe tơi tả, đáng giá gì đâu mà giữ. Có mấy ông thống kê gì đó làm chứng, mấy ổng đã ngao ngán như thế nào khi thấy chỗ ở ngang mét hai dài ba mét mốt cho ba nhân khẩu, điều tra thêm thì phương tiện nghe nhìn giải trí chỉ cái radio trị giá mười bốn ngàn, nguồn nước sinh hoạt từ sông, thu nhập ờ thì vài ba triệu một năm, tuỳ vào ông trời, như năm nay, thì trắng tay…

Và ngó lại cái khạp da bò nứt, trong rỗ úp vài cái chén sành, một thùng giấy chứa quần áo cũ… thấy mình lấy cớ giữ đồ hơi vô căn cớ. Nhưng chị chủ nhà không để ý, chị đang ưng bụng, ngây ngất tràn trề trong mắt. Và cha tôi lên đó, một mình.

Tôi ôm quắp thằng Điền nghe những con sóng nhỏ lách tách vỗ vào mũi ghe, nói, Hai nhớ trường học quá à, cưng (Ôi cái trường xiêu dựng trên khu vườn chùa đầy cây thuốc, có ông thầy trẻ tuổi hay vò đầu tôi và xao xuyến hỏi, má khoẻ hôn con?). Thằng Điền hỏi lại, “Mắc gì mà nhớ? Lãng òm…”. Tôi không biết, tôi đã ngưng nhớ nó từ khi sống cuộc sống trên đồng, nhưng đêm nay, sao tôi lại nghĩ tới, cả chuyện kiếm tiền để chữa mắt cho Điền (tôi vẫn nghĩ, sự xuất hiện của nước mắt chỉ có ý nghĩa khi người ta khóc). Đêm nay, tôi sao thế này? Vì nhìn thấy niềm hy vọng ư?

Và tôi ngủ trong nỗi xốn xang.

Lúc thức dậy thì hy vọng cũng thức theo, sáng hôm đó, tôi thấy cha trút bỏ vẻ lầm lũi thường ngày, mắt ông hay rực lên, nói cười rất lạ, dường như cha bừng tỉnh nhận ra giá trị của mình, tìm thấy con đường sẽ đi. Những suy nghĩ cồn cào làm cho vẻ mặt cha lung linh như bầu trời nhiều mây và gió. Thoắt quang đãng thoắt âm u, thoắt khoái trá, thoắt đau đớn…

Chị chủ nhà cũng thất thường, đang tươi hơn hớn bỗng bần thần khi thấy cha đóng xong một cái tủ nữa rồi. Chiếc tủ chén này, cha mất năm ngày mới hoàn thành, nhưng không sớm hơn được, vì chị chủ nhà lúc thì bưng nước ra, lúc lại kêu nghỉ tay ăn bánh, anh thợ à. Nhiều lúc chơi ngoài hàng ba, nghe tiếng bào trượt trên ván ọt ẹt ngừng lại, buổi trưa im phắc. Và đống dăm bào bị dẫm tạo ra âm thanh lạo xạo lao xao lào xào. Chúng tôi biết chị đang ở ngay chỗ cha.

Không hiểu sao tôi lại nghĩ chị chủ nhà chính là hy vọng để chị em tôi trở về cuộc sống bình thường với một người - cha - bình - thường. Chúng tôi luôn tạo cơ hội, khoảng trống cho chị gần gủi với cha. Cực nhất là phải rủ rê lôi kéo nhỏ con chị chơi với chúng tôi, thằng Điền khó chịu, “đồ con nít…”. Tôi cười, “thôi, kệ nó…” mà lòng nghĩ, biết đâu mai mốt con nhỏ này với mình là một gia đình. Biết đâu đó là một mối tình dài.

Nên tôi thấy hơi lo khi cha sắp hoàn thành chiếc tủ áo cuối cùng. Buổi chiều, cha xin những mảnh cây ván vụn đắp vá lại mui ghe. Nghĩa là chúng tôi sẽ tiếp tục đi. Chị chủ nhà ủ ê, suốt buổi chị giằm đũa vào chén cơm nguội ngắt. Cha nhìn chị, cười nhẹ, rồi hỏi khẽ khàng:

- Cô đi với cha con tôi nghen?

Như chờ đợi chỉ có thế, chị gật đầu, mặt tở mở và rạng rỡ, gần như không suy nghĩ gì (Má tôi cũng đã từng chọn lựa nhanh như thế sao?). Tôi bất giác ứa nước mắt, rồi nhận thấy cha đang nhìn mình, tôi bệu bạo cười, “cắn trúng cái lưỡi đau quá trời”.

Chị chủ nhà bắt đầu sống với những giây phút bồn chồn, chị loay hoay, te tái tới lui. Chị kiếm lủ khủ giỏ xách, những muốn gói ghém thật nhiều đồ đạc nhưng nhận ra chiếc ghe chẳng chứa nổi, nên quăng phẹp một bên. Cuối cùng, chị đưa nhỏ con về chơi bên ngoại, và trong lòng chị em tôi bùi ngùi tiễn nó đi như đưa tiễn một cuộc đời. Mai nó vẫn sống, nhưng mà sống khác. Rồi chị quay lại, ra bực sông, ngồi đắm đuối nhìn ngôi nhà của chúng tôi, “những ngày sắp tới của mình ra làm sao, ta?”.

Dễ hình dung lắm. Như chỗ cái sạp xỉn màu tôi đang giặt vải lau đây sẽ là nơi chị sẽ ngủ, sáng ra chị vẫn không phải rời chỗ ấy, vì chỉ cần ngồi dậy, day mặt ra phía sau là đụng bếp, là có thể nhen lên một lọn khói buồn teo. Mấy đêm đầu có lẽ không quen, vì phải nằm chèo queo, ghe thì chao sóng. Mấy đêm đầu chắc chị hơi ngại ngùng, mắc cỡ vì ở ghe không có vách ngăn, vì thế chị em tôi sẽ cố ngủ thật say, ngáy thật to để át những tiếng thở hổn hển, dìu dặt. Chị cũng sẽ mất khá lâu để thích hợp với nhiều hình ảnh mang tính ước lệ, thí dụ như mấy bụi hành ngò trồng trên cái xô bể (thay vì khu vườn cây cỏ hoa trái mênh mông), hay cái lò cà ràng nhỏ (thay vì cả một gian bếp ấm sực mùi củi lửa)… Và nghe cha tôi than, tôi chán cái nhà này quá rồi, thì cũng nên hiểu là không có cái nhà nào cả. Nhà chúng tôi là cái này, là cánh đồng nào đó, con sông nào đó... Riêng chúng tôi thì không cần chị phải yêu thương, chăm sóc, dạy dỗ gì hết. Chúng tôi không hy vọng điều đó (đến con chị còn không hy vọng gì mà). Ngay lúc này đây, cứ nghĩ, một bữa trưa mai trưa mốt nào đó, có nắng hiu hiu và gió hiu hiu, vì muốn chứng minh tấm lòng của mình với cha, muốn tỏ thái độ hoà hợp với hai đứa trẻ lạ lùng này, chị bắt thằng Điền lại, xối nước kỳ cọ những mảng đất đã dính khắn trên làn da mốc meo của nó, miệng cắm cẳn, cằn nhằn hay biểu tôi ngồi để chị thắt bím tóc cho, chắc tôi thấy khó chịu vì xa lạ và buồn cười.

Nhưng tiếc rằng không có ngày mai, mốt đó. Chị bị cha tôi bỏ lại, khi vừa đi được một đoạn đường. Một đoạn đường đầy khó khăn. Chị buộc mình tin rằng sự chọn lựa này là đúng, tình yêu này xứng đáng được đánh đổi. Xóm làng, ngôi nhà, vườn tược trôi tuột lại phía sau. Và đứa con gái… Rất cố gắng, chị mới thôi thảng thốt. Cha ghé một chợ nhỏ đầu xóm kinh, biểu chị lên mua một ít củ cải muối đem theo. Người vừa khuất trong tiệm tạp hóa, cha cười. Chị em chúng tôi mãi mãi không quên cái cười đó, nó vừa dữ dội, đau đớn, hoang dã, cay đắng, nghiệt ngã. Cái cười thật dài, riết lấy khuôn mặt cha, làm mắt cha hơi lồi ra, ánh lên như có nước. Cha quăng đồ đạc của chị lên bờ vung vãi. Và nổ máy cho ghe đi.
Có ai chờ chúng tôi, trên những cánh đồng khơi?
 
Trời đất ủ dột nhìn mưa vào mùa. Thằng Điền kiếm được mấy cây ô môi nhỏ, nó rủ tôi trồng. Chúng tôi dầm mưa, lấy mũi dao đào thành mấy lổ con con, rồi đắp đất ém gốc lại. Cái cảm giác mà cha tôi đã từ bỏ là yêu thương, che chở cho một sinh linh (yếu ớt, nhỏ bé) nào đó thật ngọt ngào. Điền biểu tôi chặt sậy cắm quanh, sợ mấy con vịt ăn trụi lá, với lại, bờ đất này rất nhiều người qua lại, không khéo là bị dẫm bẹp. Hai đứa ngồi nhìn công trình của mình, bỗng buồn, không biết mai này còn có dịp quay lại coi tụi cây này lớn lên, để trèo lên hái trái, để giăng cái võng, ngủ một giấc đã đời.

Chị em chúng tôi nảy ra nỗi thèm muốn, khao khát được trồng cây từ khi rời Bàu Sen, vì biết chẳng bao giờ quay lại sống - bình - thường. Dường như chúng tôi nhớ, nhớ cồn cào. Nỗi nhớ bao gồm được chạy chơi trên cái vuông sân mọc đầy vú sữa đất, được tự mình trồng cây gì đó, có trái, và trái ăn được, ăn rất ngon. Nhưng cái mơ ước nhỏ nhoi là nhìn nó lớn lên cũng mong manh, khi mà đến chưa nóng chỗ đã phải dời đi nơi khác. May là lần này chúng tôi ở Cỏ Úa khá lâu, chăm chút bầy vịt (mới gầy lại) “trơn lông bụng”. Thằng Điền một bữa ra coi cây bén rễ, nó bỗng chép miệng, “Ước gì đây là đất-của-mình…”.

Tôi cười, điều đó thật xa xôi. Có lần, đi qua xóm, trong một buổi chiều, chúng tôi gặp những ông già ngồi chơi với cháu, thằng Điền đứng tần ngần bên hàng rào dâm bụt, bảo, “Phải chi ông này là ông nội mình, thương đỡ chơi, hen Hai?”. Nghe câu đó tôi bỗng thấy mình nghèo rơi nghèo rớt, nghèo đến nỗi không có… ông nội để thương, thèm muốn bên đường. Tôi lắc đầu, bảo thôi, thí dụ như mình lỡ mến người ta, mai mốt dời đi, buồn dữ lắm. Mà, đã ngấm, đã xé lòng toang hoang với nỗi đau chia cắt rồi, chưa sợ sao?

Sống đời mục đồng, chúng tôi buộc mình đừng yêu thương, quyến luyến bất cứ ai, để khỏi ngậm ngùi, để lòng dửng dưng khi cuốn lều, nhổ sào đi sang cánh đồng khác, dòng kinh khác. Chúng tôi vô định hơn bất cứ người nuôi vịt chạy đồng nào. Vì những cuộc tình của cha tôi, ngày càng ngắn ngủi.

Cha tôi đã có-vẻ-bình-thường, hay nói cười, hồ hởi trong những lúc có người (chữ “người” này không tính hai chị em tôi). Nhiều lúc tôi không giấu được thảng thốt, cứ nghĩ mình đã gặp lại cha-của-ngày-xưa. Nhiều lúc tôi ngồi trông người trong xóm đi thăm lúa ghé qua chòi, lúc ấy, cha sẽ kêu, “Nương à, nướng mấy con cá khô, cha lai rai với mấy bác…”. Em tôi cũng sướng ran xách chai ra tiệm mua rượu, nó khoái chí nghe cha gọi, “Điền ơi! Điền…”. Vui được chút đó thôi, khi khuất bóng người, chị em tôi đắng đót nhìn cha hao hao người đóng tuồng vừa trút lớp. Xanh xao, lạnh lẽo đến ngơ ngác và cô đơn.

Không, lúc chỉ một mình, cha tôi đáng sợ hơn thế. Cha giống như con thú trở về tổ sau khi no mồi. Con thú nằm mơ màng nhấm nháp lại hương vị của miếng mồi, và ngẩm ngợi thòm thèm con mồi kế tiếp. Có lúc sự vật lộn làm vết thương cũ của con thú đau, nó liếm láp vết máu, và tôi hãi hùng nhận ra chỗ đau ấy cứ rộng thêm ra. Đôi khi tôi nhớ người đàn bà ở Bàu Sen, nhớ bóng người xấp xãi, ngơ ngác chạy theo chiếc ghe sáng ấy. Chắc chị đã quay lại, đón đứa con gái về, móc quần áo trở vô tủ. Có hề gì, rồi chị sẽ yêu một người khác, nhưng mãi mãi, chị không quên nỗi ê chề bị bỏ lại bên đường (bằng chứng là ba cha con chúng tôi có quên được đâu). Với những đàn bà sau này, cha tôi tính toán rất vừa vặn, sao cho vừa đủ yêu, vừa đủ đau, vừa đủ bẽ bàng, và bỏ rơi họ đúng lúc. Có người vừa bán xong cái quán nhỏ của mình. Có người vừa nói xong những lời dứt tình với chồng, con. Có người vừa phủ phàng chia xong gia sản, có cô gái sắp về nhà chồng, củi to củi nhỏ chất thành giàn ngoài chái... Hết thảy đều cun cút tin và yêu. Cha mang họ đi một quãng đường vừa đủ để người ở lại nhìn rõ chân dung của sự phản bội, sau đó người đàn bà bị hắt lên bờ.

Con đường quay về bị bịt kín.

Cha không tốn nhiều công sức cho việc chinh phục (Những người đàn ông quê mùa đã tự tay đẩy người đàn bà của mình đến với cha, bằng nhiều cách. Họ thích uống say, họ thích dùng tay chân để tỏ rõ uy quyền. Mệt nhọc làm lụng trên đồng, người đàn ông đã trở nên khô cằn, có khi cả đời, họ không nói với phụ nữ một câu yêu thương tử tế. Họ không biết vuốt ve, âu yếm, khi cần, họ lật cạch người phụ nữ ra và thoả mãn, rồi quay lưng ngủ khò). Sẽ còn bao nhiêu người nữa được cha tôi cho nếm thử niềm đau kia, tôi tự hỏi mình khi nhìn người đàn ông vào tuổi bốn mươi, quyến rũ từ cái cười, từ câu nói, ánh nhìn thăm thẳm, ngọt ngào. Trời ơi, trừ chị em tôi, không ai thấy được đằng sau khuôn mặt chữ điền ngời ngợi đó là một hố sâu đen thẳm, bến bờ mờ mịt, chơi vơi, dễ hụt chân.

Nên mỗi lần cha nhìn đăm đắm và mỉm cười với một người đàn bà mới chúng tôi lại thắt thẻo. Thêm mối tình đau trước cả ngày thứ nhất (mà chị em tôi không cách nào ngăn được). Tôi có cảm giác cha quắp lấy người ấy, vùi mặt vào da vào thịt, ngấu ngiến mà lòng cha lạnh ngắt. Thằng Điền cay đắng, “Cha làm chuyện đó thì cũng giống như mấy con vịt đạp mái…”. Tôi nạt, “Đừng nói bậy…”.

Nhưng tận đáy lòng, tôi cũng nghĩ, cha hơi khác con-người. Nhạt nhẻo hơn cả việc quan hệ theo mùa, theo bản năng, trong cha tôi không còn một chút cảm xúc nào, nét mặt tràn ngập những rắp tâm, chưa gặp mặt đã tính chuyện phụ phàng.

Cha đẩy chúng tôi trượt dài vào nỗi thiếu thốn triền miên. Mỗi lần rời khỏi một nơi nào đó, thật khó để phân biệt, chúng tôi bỏ đi hay chạy trốn. Chúng tôi đánh mất cái quyền được đưa tiễn, được xao xuyến nhìn những cái vẫy tay, được nhận vài món quà quê như buồng chuối và hương hay bó rau ngót cắt trong vườn, cùng lời dặn dò quyến luyến, “Đi mạnh giỏi nghen…”.

Chị em tôi hết sức cố gắng để sự giận dữ, chán chường của mình không bùng cháy. Chúng tôi cho vịt ăn thật xa trên đồng, vạ vật ở đó từ sáng tới chiều. Gió hoang liêu trên đồng không làm lòng hai đứa nguội lại. May ra, gió chỉ thổi khô nước mắt lúc nào cũng ri rỉ trên mặt em tôi.

Tôi không còn muốn chữa mắt cho Điền. Bởi Điền khóc suốt (giống hệt tôi), dù vẻ mặt nó rất bình thản (tôi cũng vậy, khác là nước mắt tôi khô rốc trong lòng). Hai đứa tôi đều kỳ dị, đến mức nhiều khi tự giật mình.

Có lần, hai chúng tôi ngồi trên một bờ đất, xung quanh đấy những người thợ gặt đang ăn cơm. Nắng giữa trưa nóng rát. Tôi nói, chỗ khác có nắng dữ dằn vầy không ha. Thằng Điền nói, mùi cá kho quẹt thơm dễ sợ. Ừ, tôi gật đầu, nhưng cái mùi nghèo quá. Vậy mùi gì giàu, thằng Điền hỏi vặn lại. Tôi cười, thịt kho tàu. Rõ ràng hai đứa tôi có cãi qua cãi lại, vậy mà sau đó một người thợ gặt tỏ vẻ ngạc nhiên, “Hai đứa bây ngồi chù ụ cả buổi trời, không nói câu nào, vậy mà cũng chịu nổi sao?”

Thằng Điền cười, “Ủa, tụi mình hỏng nói tiếng-người!?”. Tôi nhận ra nó không hề máy môi, tôi đọc được những ý nghĩ trong Điền. Ở đó, đang có bão tơi bời, gió quất điên cuồng vào trái tim nhỏ chi chít vết đau. Thằng Điền nổi loạn.

Dấu hiệu bắt đầu từ một bữa trong xóm đê, tình cờ ngó đôi chó nhảy nhau, thấy các chị đang phơi lúa kêu ó ré lên, tôi rủ Điền giả đò nhắm mắt (trò này cực kỳ trẻ con, vì ai cũng mường tượng mồn một tư thế động tình của hai con chó). Thằng Điền phì cười, nó kêu lớn, “Hai, coi nè…” rồi cầm đoạn cây xông đến quất đôi chó tới tấp. Hai con chó kêu la thống thiết, hoảng loạn, xà quần trong đám bụi đất. Đau đớn cùng cực, chúng rúc vào chân đống rơm, nhưng không chịu rời nhau. Con đực phục đầu sát đất, rên rỉ, nước dãi chảy ròng. Không chạy hả. Bốp. Không chạy nè. Bốp. Thằng Điền gào lên. Cây trúc giập nát. Tôi giữ tay Điền lại bảo, “Ác với tụi nó chi vậy, cưng”, thấy nước mắt bê bết trên mặt em tôi.

Ngay từ lúc ấy, tôi đã muốn chạy về và nói với cha "Thằng Điền bị sao rồi, cha ơi...". Tôi sợ, hoảng loạn khi phải chứng kiến một mình.

Thằng Điền biết là tôi đã nhìn-thấy-cái-gì-đó, nó chua chát cúi đầu. Điền chối bỏ niềm vui được trở thành một người đàn ông thực thụ. Nó tự kìm hảm bản năng trổi dậy mạnh mẽ ở tuổi dậy thì bằng sự tất cả sự miệt thị, giận dữ, căm thù. Nó phản kháng bằng cách trút sạch những gì cha tôi có, cha tôi làm. Giãy dụa đến rã rời, nhiều bữa, nó dầm mình dưới ao đến khi người tái nhợt. Nó chạy như điên trong đêm, trên những bờ ruộng mướt cỏ đến khi mỏi nhừ, gục xuống. Rồi nằm xoãi trên đồng, tả tơi.

Không phải vậy, không phải vậy Điền ơi, tôi muốn kêu lên, tiếc là sự thất học khiến tôi không diễn đạt được bằng lời. Tôi không chắc lắm, nhưng dục tình và xác thịt không xấu xa, không đáng bị khinh bỉ, không phải là nguyên nhân đẩy chị em tôi đến cuộc sống này với những đổ vỡ này…

Điền mười sáu tuổi, nó có thể mãn nguyện nằm bên tôi, dái tai để mặc tôi mân mê. Điền đã lạnh ngắt. Nó dửng dưng nhìn những đứa con gái làm cỏ lúa, quần xoắn cao, đùi non mởn. Đôi lúc bắt gặp những đôi người quấn nhau giữa các chòi ruộng hay lùm cây, nó khinh khỉnh cười khào. Nó điềm nhiên nói cái giọng hơi run rẩy nhưng rất mỏng và dịu dàng, “Hai, thôi đi. Em đâu có sao, buồn làm chi...”.

Tôi cười, nói ờ. Nhưng muốn nghỉ buồn cũng không đơn giản. Phải rất lâu, tôi mới nhìn Điền một cách bình thường, tôi cố quên chuyện của nó, tưởng tượng bây giờ nó mới chín mười tuổi gì đó (cái hồi hai đứa như cây kiểng còi, thẳng đuột như nhau, thằng Điền hay bắt chước đái ngồi).

Và tôi chợt nghĩ, sự bất thường của Điền, chẳng qua nằm trong chuỗi rất dài của sự trừng phạt. Điều đó lý giải cho việc thiên nhiên ngày càng trở nên hung dữ hơn, khắc nghiệt hơn. Bằng những sấm chớp, gầm gừ, dường như trời đất đã nín nhịn nhiều, cuồng nộ bắt đầu rồi đây. Có lần, tôi lấy cao su gói lại mớ mùng chiếu, nhìn mưa thè cái lưỡi ướt nhão nhớt vào lều, khoái trá nếm từng tấc đất, tôi tự hỏi, không biết chỗ khác (chỗ không có chúng tôi) có mưa nhiều như vầy không. Ý nghĩ đó xuất hiện triền miên trong đầu tôi, rằng trời chỉ trút mưa, trút nắng ở nơi chúng tôi dừng chân lại. Nỗi bẽ bàng của những người đàn bà bị cha tôi bỏ rơi (và cộng thêm niềm đau vỡ của những người quây quanh họ) đã thấu qua những tầng mây.

Và dường như cách giao tiếp ngấm ngầm của tôi và Điền cũng trong chuỗi bất thường, nó làm cho mối quan hệ với cha thêm rời rạc. Những bữa ăn nối tiếp nhau trong im lặng. Lúc và cơm, tôi hay bị ảo giác, tưởng mình đang ngồi trên cánh đồng của chín năm trước. Một cánh đồng miên viễn với gió lắt lay những khói nắng héo xèo, một nhúm mây rất mỏng và rời rạc bay tha thểu trên cao. Đường chân trời mờ mờ xa ngái. Một vài gò mả loang lổ dưới chòm trâm bầu. Tiếng chim kêu nhỏ từng giọt thiu thỉu. Mùi rạ mới quyện với bùn tanh tanh. Bầy vịt rúc đầu vào nách, ngủ ơ hờ dưới bóng cây tra treo từng chùm bông vàng tuyệt vọng lay như những chiếc chuông câm. Cảnh không đổi, người cũng không, cứ ngồi ngoáy mãi vết thương cũ, nhỏ nước mắt.

Giống như mấy cái mả ngồi, thằng Điền nhận xét. Vừa may, một bữa trưa nắng rập rờn trên nách rạ, chúng tôi cảm nhận được những tiếng nói lao xao. Thằng Điền thảng thốt, "Tụi mình ba trợn thiệt sao, Hai?" khi nhận ra đó là tiếng của... vịt. Tôi cười, hớn hở. Thế giới của vịt mở ra. Không ghen tuông, hờn giận, chắc tại cái đầu vịt nhỏ quá nên chỉ đủ cho yêu thương. Tôi thôi thắc mắc vì sao cả bầy trăm con chỉ cần mười, mười lăm con vịt trống.

Đắm đuối với loại ngôn ngữ mới, chúng tôi chấp nhận để cho người ta nhìn mình như những kẻ điên (miễn là tạm quên nỗi buồn của cõi - người). Chị em tôi học cách yêu thương đàn vịt (hy vọng sẽ không bị đau như yêu thương một - con - người nào đó). Nhưng nhiều khi nhìn thằng Điền dõng tai coi mấy con vịt nói cái gì, tôi giật mình, nuốt một họng đắng, tự hỏi đã đến nỗi này sao, đến nỗi chơi với người thấy buồn, nên chuyển qua chơi cùng vịt. Đêm nào cũng vậy, cũng rón rén, từ tốn, hai chị em thắp một ngọn đèn giữa chuồng, để lúc bọn tôi ra, chúng nhìn, biết không phải người lạ, không xao động. Vừa nhỏ nhẻ lấy trứng, tôi vừa hát một bài hát bâng quơ, đôi chỗ vì hạ giọng thấp mà hụt hơi. Bầy vịt nhạy cảm khủng khiếp, sau này, tôi cố sửa lại những chỗ hụt hơi ấy, chúng nhận ra ngay, và nhìn tôi với vẻ ngờ vực, "Ủa, phải con - người hôm trước không ta?". Một con vịt đui khịt mũi, cười, "Nó chớ ai, giọng có khác, nhưng rõ ràng là tiếng trái tim nó. Quen lắm. Chập chờn, thút thít, đòng đưa như sắp rụng... "". " Có nổ hôn đó, cha nội?" "Sao không, mấy người thử đui đi rồi biết". Bất giác, tôi nhắm mắt để nghe lại tiếng tim mình.

Nhưng sự trừng phạt tính toán cũng vừa vặn, vừa đủ vui, vừa đủ thương, quấn quýt, nó lại đứng sau lưng và cười nhạo chúng tôi.

Gió chướng trở ngọn, trên những cánh đồng ủ ê tin buồn. Chúng tôi nghe được một cụm từ lạ, dịch cúm gia cầm. Những người nuôi vịt chạy đồng cười khào, “Chậc, mấy con vịt chết gió, mấy ông nhà nước nói cho quá…”. Hôm chính quyền thông báo tiêu huỷ tất cả các bầy đàn, họ xửng vửng kêu lên, “Trời trời, bộ hết chuyện giỡn sao, mấy cha?”

Chẳng ai giỡn cả. Người ta dùng ý tưởng của Tào Tháo thời Tam Quốc, “thà giết lầm còn hơn tha lầm”, dồn tất cả vịt trên cánh đồng lại và đào hố chôn. Thằng Điền mếu máo:

- Mấy ông ơi, vịt tui sân sẩn, có bệnh tật gì đâu…

Một người càu cạu:

- Sao cậu biết?

- Rõ ràng tụi vịt nói với tui.

Mọi người cười ha ha, bữa nay vui quá chừng. Họ bắt đầu trùm kín mình bằng những bộ đồ đi mưa. Họ rải vôi trên những hố chôn lớn bằng mấy khẩu đìa cộng lại. Họ tọng những con vịt còn sống, còn giãy dụa, còn gào thét vào bao tải, buộc miệng và quăng xuống đó.

Đám nuôi vịt chạy đồng tụm lại ở một chỗ, cúi mặt vào lưng nhau. Họ xót của, tiếc tiền, họ cảm nhận được sự kiệt quệ, đói nghèo đang vây bủa. Lần rủi ro này (của cái nghề lắm rủi ro) thật khốc liệt.

Cha tôi ngồi riêng biệt ở một bờ đất và đốt thuốc ngó trời, điệu bộ hơi dửng dưng. Với nỗi đau sâu hoắm sẵn trong lòng, thì những biến cố khác chẳng qua như một vết xước nhỏ ngoài da, nhằm nhò gì.

Hình ảnh đó, nét mặt đó làm cho tôi tuyệt vọng. Mà, lúc đó, tôi đang chết điếng, sao tôi lại nhìn về phía cha? Vì tôi muốn cầu cứu (như những đứa trẻ con gặp chuyện giật mình, hay buột miệng gọi má ơi hoặc cha ơi!)? Vì tôi thấy mình không thể chịu đựng được tiếng gào khóc thê thiết của những con vịt bị vùi sâu dưới lòng đất?

Mất nửa ngày những cái hố mới được lấp đất đầy. Xuyên qua những lớp đất bầy nhầy, tôi nghe vịt - của - tôi vẫn còn thoi thóp, chúng đau đớn vì những cái cổ gãy, rối quặt quẹo, chúng hỏi nhau vì sao tụi - người - ta lại ác. Rồi thinh lặng. Trong cái im ắng đến rợn người, tôi nhận ra tiếng của con vịt mù, có lẽ vì không sợ tối, nên sự sống kéo dài.

Rồi ánh sáng nhập nhoạng cuối ngày loang lổ đổ xuống, tôi và Điền khóc hức, cảm nhận được cái thở hướt ngắn dần, ngắn dần của con vịt sau cùng. Và nín bặt. Và tan hết. Chỉ còn gió cười từng tràng dài... Tôi tiếc thôi là tiếc sinh linh nhỏ bé đã thấu được tim mình.

Sáng sau, người ta tìm được một người chăn vịt nằm sát mép hố, mắt chong chong ngó trời không chớp, miệng sủi ra thứ bọt, trong vắt như bọt cua nhưng hôi nồng nặc. Chai thuốc trừ sâu lăn lóc cạnh đó đã cạn tới giọt cuối cùng. Sống thì khó chứ chết sao mà dễ.

Tôi đứng nhìn, tiếc rẻ, ủa, cái người nằm sóng xoài kia, sao không phải là chúng tôi?

Sự báo ứng dường như đang ở rất gần.
 
Status
Không mở trả lời sau này.
Back
Top