• Hiện tại trang web đang trong quá hình chuyển đổi và tái cấu trúc lại chuyên mục nên có thể một vài chức năng chưa hoàn thiện, một số bài viết và chuyên mục sẽ thay đổi. Nếu sự thay đổi này làm bạn phiền lòng, mong bạn thông cảm. Chúng tôi luôn hoan nghênh mọi ý kiến đóng góp để chúng tôi hoàn thiện và phát triển. Cảm ơn

1001 CÂU CHUYỆN CẢM ĐỘNG!!!

Status
Không mở trả lời sau này.
Tôi bắt đầu hối hận vì đã cứu chị và mang chị đi cùng. Có cảm giác chúng tôi nắm tay kéo chị lên khỏi một vũng lầy để đẩy chị vào một vũng khác, cũng sâu.

Chị xuất hiện không đúng lúc. Cha tôi có dấu hiệu mệt mỏi. Đàn bà, với cha, càng trải nghiệm càng chán chường. Càng gieo rắc càng đau. Vết thương cũ mở miệng toang hoác, không da thịt nào có thể lấp đầy. Cha không chấp nhận cả những người phụ nữ mà ông kỳ công chiếm đoạt (của người khác), thì sao ông có thể tin tưởng ở sự hiến dâng?

Vậy đó, cuối cùng chị hiểu được tại sao cha tôi lại phớt lờ mình. Tôi và Điền buộc phải kể câu - chuyện - của - chúng - tôi để chị không phải ray rứt gì với thân phận làm đĩ. Những ký ức chắp vá, đứt đoạn được chúng tôi kể khá chậm, một phần vì đã lâu không dùng cách giao tiếp bằng lời, một phần do vài chi tiết khiến chúng tôi phải dừng câu chuyện lại, vì thấy nhói ở đâu đó hay đợi chị thôi khóc. Thí dụ như cái đoạn kể về kỳ kinh nguyệt đầu tiên của tôi. Máu chảy giữa hai đùi không tạnh được, tôi thụp xuống, bụm chỗ ấy lại. Máu từ từ chảy qua kẻ tay, tôi thấy mình rỗng ra, tái nhợt, chết dần. Thằng Điền vói bứt đọt chuối, tọng vào miệng nhai ngốn ngấu, điên dại, để lấy bả rịt lại chỗ máu. Thuốc gò nghe nói cầm máu rất tốt, cũng chẳng ăn thua. Hai đứa nhìn nhau khóc, tôi đã mơ thấy ngôi mộ của mình, như chiếc giường giữa bốn bề đồng nước... Chị mếu máo vít đầu tôi vào lòng, “Trời ơi, tội hôn. Lúc đó cha mấy cưng ở đâu?”. Tôi ngơ ngác, không biết, nhưng dù cha có ở gần ngay đấy thì chúng tôi cũng chẳng thể cầu cứu.

Đã nói là chị em chúng tôi phải tự học đủ thứ rồi mà. Những gì không biết, chúng tôi thử. Những gì không hiểu, chúng tôi chất thành khối trong lòng. Nhiều khi thấu đáo được một điều nào đó, chúng tôi phải trả giá cao.

Có lần chúng tôi thả vịt nghỉ khúc kinh có bóng cây. Bỗng nỗi xấu hổ vì mình là con người xộc lên mũi sặc sụa, khi tôi phát hiện ra chúng chẳng bao giờ cưỡng đoạt và gạt gẫm nhau. Khoảng thời gian trước khi con trống trèo lên con mái rất thật, mềm mại, êm đềm... Tuyệt không có gì là thô tục. Tôi sững sốt. Thằng Điền sững sốt. Trời ơi, khác với những gì chúng tôi biết (qua cha tôi, má tôi), trong sự hoan lạc (của những con vịt) đầy ắp thứ gọi là tình - yêu. Điền chới với, nghi hoặc lan ra như một vòng sóng. Và khi chị xuất hiện, thì trong nó chỉ còn nỗi ân hận giày vò.

Điền yêu chị, nhưng tình yêu đó khiếm khuyết mất rồi. Sau giấc ngủ dài, bản năng nó đã không trở dậy. Trái tim nó chỉ là hòn than nhỏ, không thể hâm nóng lại cơ thể ngã màu tro. Sợi dây xúc cảm như lối đi lâu lắm không người lui tới, cỏ dại mọc bít mất, đường đứt, cầu gãy...

Mà, kiểu yêu tinh thần để nhìn nhau, để nắm tay, vuốt tóc, để nín nhịn và hy sinh chỉ tồn tại trong văn chương. Chị cần nhiều hơn, nhiều hơn, nhiều khủng khiếp, tưởng như chị có thể ngốn ngấu, bào mòn tất cả đàn ông trên thế gian này. Lúc đầu là kiếm sống, nhưng lâu dần, sự chung đụng của thể xác làm chị nghiện. Thằng Điền tuyệt vọng.

Tôi cảm giác sự đổ vỡ khi Điền đuổi theo chị, và chị thì chạy theo cha.

Một cuộc đua rã rượi, chẳng đến đâu. Chúng tôi còn phải dành sức cho cuộc mưu sinh dưới nắng như tát lửa. Cha quyết định bán bầy vịt đi. Ba người, mỗi lần xách vài ba con, chúng tôi chia nhau đi dài xóm để bán lẻ. Nhưng cách ấy chẳng cho kết quả nhiều, nắm con vịt ốm nhằng trong tay, xương ức gò ra bén ngót cũng đã đoán được. Thêm nữa, mùa giáp hạt kéo dài, nhiều nhà chạy gạo còn gay, thịt vịt trở nên xa xỉ. Ti vi thì vẫn đang ra rả về dịch cúm, những người biết chút đỉnh, rụt đầu, “Ăn vịt đặng lây bệnh chết à?”.

Chúng tôi mang lũ vịt trở về, con đường dẫn lên đồng rập rờn hoa mua tím. Cũng theo lối này, vài hôm sau, ông trưởng ấp dẫn theo một cán bộ xã xồng xộc đến chỗ chúng tôi.

Tôi vừa sợ, vừa biết ơn những người như thế này. Họ làm cho chúng tôi cảm thấy bớt hoang dã, làm chúng tôi hiểu rằng, ngay cả trên những cánh đồng hoang liêu nhất thì chúng tôi vẫn bị ràng buộc bằng hàng vạn luật lệ. Nhưng đồng thời họ luôn mang tai họa đến. Dường như sự trừng phạt đang núp sau hai khuôn mặt bị nướng dưới mặt trời, bóng nhẫy, tươm mỡ. Họ phơ phởn nói bằng thứ ngôn ngữ buồn cười (bọn chăn vịt chúng tôi chẳng khi nào dùng những chữ chỉ thị, loại trừ tận gốc hay giải quyết dứt điểm...). Thật đơn giản, khi nói “các người phải huỷ bầy vịt”. Cha tôi cáu kỉnh gật đầu. Tôi và Điền kêu lên một tiếng buốt, ôi, những bạn - bè của chúng tôi sắp bị chôn sống nữa rồi.

Cái nhìn chị chảy theo nước mắt của thằng Điền, chị khẽ bảo, không sao đâu, mấy cưng. Chị đon đả, chèo kéo hai người đàn ông lạ về phía mình, “Mấy anh thương em với, nỡ nào để cả nhà em chết đói”. Một người càu cạu:

- Ở trên lịnh xuống tụi tui cãi sao được.

Nụ cười đong đưa, tung tẩy trên khoé mắt, thì em có bảo mấy anh cãi ai đâu, mấy anh giả đò không biết, không nhìn thấy bầy vịt của em là được rồi. Dễ ợt... Thằng Điền bệu bạo cắn răng, nó tự kìm nén bằng cách siết vai tôi đau nhừ. Cách đó năm bảy bước, giọng nói của chị vẫn lướt như một dòng gió đầy hơi nước, thấm dịu lại hai khuôn mặt (cố tỏ ra) cứng đơ. Một người nuốt nước miếng, ánh nhìn ham muốn như mũi kim thò ra khỏi bọc, lơ láo. Mắt ông ta lột trần chị, và toan tính một thoáng. Người còn lại có vẻ thú vị, háo hức như sắp được xem một vở cải lương hay. Chị thấu hiểu đàn ông đến nỗi, ngay lập tức chị ngó về phía chúng tôi, ngầm báo, cuộc thương lượng (về một sự đổi chác) đã kết thúc rồi.

- Hai anh cứ về trước, chút nữa, em lựa mấy con vịt tơ đem lại cho các anh lai rai. Nhà anh Năm đây em biết chớ sao không, đi tới đâu, em cũng coi mặt thổ địa trước chớ...

Nụ cười chị chợt mỏi mê mỏi nhừ. Có một chút tàn nhẫn, một chút man rợ trong cuộc thương lượng này. Hai người đàn ông quay vào xóm, không quên vói lại một câu, nửa đe nẹt, nửa xuề xòa, “tụi tôi nể vợ anh...”. Cha tôi cười hết sức độ lượng, ôi những thằng trẻ con...

Chị vò đầu thằng Điền, bảo “chuyện nhỏ thôi mà, đi bắt vịt dùm chị, nhỏ cưng”. Và hướng cái nhìn sâu nhói về phía cha tôi, rất chậm rãi, chị thay áo, lấy nón, xỏ dép... Thời gian dằng dặc. Tôi biết chị chờ, hy vọng. Tôi biết, đi một quãng xa, chị vẫn còn dõng tai đợi một tiếng gọi, “quay lại đi, Sương”. Nhưng chỉ gió ngêu ngao xoi mói vào mảng thịt sau tà áo người phụ nữ đang xiên xiên trên bờ cỏ rập rờn.

Chị về khi trăng rạng rỡ trên đầu (mãi sau này, tôi vẫn còn ghê sợ cái màu trăng ấy). Ống quần quệt vào cỏ ướt đẫm sương. Hơi rượu quyện với mùi thuốc lá làm tôi chạo chực. Nhác thấy hai chị em tôi ngồi thù lù, chị kêu lên, trời đất, hai cưng chờ chị chi vậy. "Chị... làm đĩ quen rồi, mấy chuyện này nhằm bà gì mà mấy cưng buồn?". Rồi khom người nhìn vào chòi, chị chắc lưỡi tấm tắc, " Coi nè... Trời ơi, bữa nay bộ gió mát sao mà người ta ngủ ngon dễ sợ". Chao, tiếng ngáy của cha tôi sao mà đều, sao mà thơ thới. Tôi chực khóc, ngay lúc này đây, dường như chị - đang - chết. Chị lẹ làng lấy tay quệt lên mắt, mảng nước nhoè nhoẹt bên màng tang, bết cả vào mớ tóc mai.

Sáng sau, gặp ở quây vịt, cha tôi cười, hơi giễu cợt, "Sao, hồi tối vui không? Chắc họ tưởng cô là vợ tôi nên hứng thú lắm hả? Cứ để họ nghĩ vậy... ". Chị ngó trân vào cha, rồi day qua tôi, chị để rớt từng lời:
- Má cưng ác một, nhưng người cha này của cưng ác tới mười.

Nói rồi, chị quay đi. Chân vướng dấp dúi vào cỏ. Con đường nhỏ dầm chan trong màu hoa mua tím. Tôi đắng đót thầm trong lòng một cái vẫy tay. Bóng người khuất trong vườn. Thằng Điền xách nước về, nó cuồng lên hỏi chị đâu. Tôi chỉ con đường kinh xao xác hoa cỏ dại. Em tôi chạy hồng hộc về phía đó.
Điền, cũng không trở lại.

Tôi đã chờ nó đến khi mùa mưa đổ xuống cánh đồng Chia Cắt (tôi tạm gọi vậy) một trời sao. Chờ chơi vậy, chứ tôi biết Điền chẳng quay về. Tôi nhớ nó (và nhớ chị) không thôi. Những lần dọn cơm tôi hay lấy chén đũa cho cả bốn người. Cha tôi rất khó chịu, ông ngán ngẩm đứng dậy. Tôi ngồi một mình, chan nước vào chén cơm như chan nỗi trống trãi khủng khiếp. Đi qua những xóm kinh chộn rộn ánh đèn, tôi thường ngóng lên bờ mong có thể gặp được thằng Điền và chị. Không biết em tôi có đuổi kịp chị, hay vẫn tiếp tục kiếm tìm. Không biết nó đã đánh thức được bản năng, đã tìm thấy nhục cảm, đã biết thèm muốn chưa. Không biết tối nay thằng Điền có được mệt nhoài úp lên chị, hay vạ vật ở đâu đó, bên vách buồng (hay một tấm ghi-đô bằng vải), đau vật đau vã nghe hoan lạc chảy thành những dòng rên xiết, kêu thét. Không biết nước mắt của nó đã khô chưa hay vẫn rỉ từng giọt như máu tươi.

Tôi nhớ Điền, bao gồm nhớ một đồng - loại (và tôi là đồng - loại còn lại), nhớ một cách trò chuyện (đọc thấu lòng nhau), nhớ một người nghe được tiếng tim mình (điều này thì con vịt mù làm được, nhưng nó đã chết rồi), và nhớ một người che chở (công việc này, đáng lẽ là của cha, má tôi). Tôi biết ơn Điền, từ một gói băng trắng mà Điền mang về hôm tôi mười bốn tuổi, bảo thứ này dùng khi có kinh nguyệt, nó sẽ ngăn không vấy máu ra quần. Điền đi hỏi ai đó, nó nói, máu không cầm được cho đến khi nào tự nó ngưng chảy. Điền xót xa khi thấy tôi trổ mã con gái, "Đẹp làm chi dữ vậy, Hai? Ở cái xó quê này, có đẹp mai mốt cũng phải lấy chồng, đẻ một bầy con nheo nhóc, cũng ra ruộng ra vườn làm lụng đến hết đời, xẹp lép như xác ve. Đẹp, mắc công giữ...". Điền dặn tôi đừng xoắn quần quá cao, đừng mặc áo quá rộng cổ... Với bọn đám thanh niên lúc nào cũng kiếm cớ lãng vảng, Điền giang tay bọc lấy tôi, nó giễu cợt, "Anh kia, lượm con mắt lên, anh nhìn vậy, chị tôi mòn còn gì". Đám người cụt ngòi, tẻn tò dạt ra. Ngay cả khi Điền bỏ đi cùng chị, nó cũng để lại cho tôi một món quà lớn.

Cha bắt đầu có một chút quan tâm với tôi. Dường như chỗ trống của thằng Điền nhắc cha nên quý những gì còn lại. Bắt đầu từ một đêm, cha đứng đằng xa, bảo, "Nương, ngủ sớm đi!", tôi nghe mắt mình cay, ngợp như ai đó tọng một đám khói vào mặt. Mắc cười, câu nói chẳng ý nghĩa gì lớn lao, những người cha người mẹ nói với con họ hàng ngàn lần, đến phát bực mà tôi lại xốn xang.

Tôi ước gì có thể chếnh choáng thật lâu, nhưng nó mau chóng tắt rụi vì một ý nghĩ kỳ lạ. Dường như không còn kịp nữa, để hàn gắn sự đổ nát, để sắp xếp những mảnh vỡ lạo xạo trong lòng.

Chúng tôi tập nhìn nhau, điều đó khó khăn biết bao. Nhất là với cha, tôi cảm nhận được sự cố gắng lớn. Mỗi lần ngó về phía tôi, ông phải trợn trạo nuốt nghẹn những cảm xúc, vì tôi giống má khủng khiếp.

Không cần gương, tôi thấy hình bóng má trong mắt người đối diện. Trước ánh nhìn của cha, tôi cảm giác mình soi xuống dòng nước đêm. Với những người đàn ông khác, tôi bị rực lên như đứng trước mặt trời. Bằng mắt, họ sờ soạng khắp người tôi. Ánh mắt giống bàn tay của ông xẩm mù mà tôi từng gặp, đụng chỗ nào cũng dừng lại, vuốt vuốt bóp bóp (chắc là cho dễ hình dung), rồi lần dò tới một chỗ khác, rờ nắn mê miết. Và tôi đón nhận một cách hằn học, cục cằn.

Hôm bán bầy vịt, cha tôi sắm một chiếc nhẫn vàng, ông đẩy nó về phía tôi, ngượng ngập như sắp chết giấc, "Để dành khi đi lấy chồng...". Tôi sặc ra một bụm cười, trời ơi, tôi biết lấy ai bây giờ?

Suốt những tháng năm sống tù đọng trên đồng, tôi có biết ai ngoài những người đàn ông quê mùa cũ kỹ. Tôi biết lấy ai trong số đó? Lấy một người cắm mặt xuống đất, mệt nhừ với vườn ruộng để mỗi khi giáp hạt, tôi nghe tiếng cạo cháy của con, tiếng muổng dừa vét gạo dưới đáy thạp mà rát bỏng trong lòng? Hay tôi sẽ chọn một người chăn vịt, mê mỏi với chuyến đi xa, sống cuộc sống hờ hững tạm bợ, thấp thỏm với rủi ro, và đến một lúc nào, tôi ôm con nghe đêm của mùa gặt thật dài với tiếng rúc rích của chồng cùng cô điếm già nua. Tôi lấy ai bây giờ, một người thợ gặt? Một anh chạy đò? Ý nghĩ mình là bản sao của má làm tôi sợ. Tôi không chắc mình có đủ kiên nhẫn sống cuộc sống nghèo túng, nhàm chán ấy suốt đời, hay nửa chừng bỏ dỡ. Và bi kịch chất đống lên những người ở lại.

Cha tôi hơi hoảng. Vậy đó, chỉ cần để ý một chút, là có thể nhận ra, xót xa vì sự quái dị, khác thường của tôi. Cha tôi vừa kịp nhìn thấy điều ấy, bối rối đến mức không biết diễn tả sự đau lòng như thế nào, bằng mặt, hay chỉ âm thầm trong lòng. Mà có đau, dường như cũng trễ...

Cái ý nghĩ đã muộn màng, trễ tràng, không còn kịp nữa như một cái rốn nước sây hoáy, điên cuồng hút tôi vào, cảm thấy mọi nỗ lực của cha trở nên vô nghĩa, tôi nghĩ vậy. Tôi nghĩ đến sự trừng phạt, sự báo ứng bất chấp trời im ắng như đã nguôi quên chuyện cũ rồi. Bây giờ, đang vào mùa đẹp nhất trong năm.
 
Bây giờ, gió chướng non xập xoè trên khắp cánh đồng Bất Tận (tên này tôi tự dưng nghĩ ra). Ven các bờ ruộng, bông cỏ mực như những đường viền nhỏ liu riu làm dịu lại mảng rực vàng của lúa. Rất thính nhạy, (như kên kên ngửi được mùi xác chết), đám thợ gặt đánh hơi kéo đến, những người nuôi vịt chạy đồng lục tục ở đằng sau.

Những cánh đồng trở thành đô thị; những cánh đồng ngoa ngoắt thay đổi vị của nước, từ ngọt sang mặn chát; những cánh đồng vắng bóng người, và lúa rày mọc hoang nhớ đau nhớ đớn bàn chân xưa ngẽn trong bùn quánh giờ đang vất vơ kiếm sống ở thị thành. Những cánh đồng đó, đã hất hủi cây lúa (và gián tiếp từ chối đàn vịt). Đất dưới chân chúng tôi bị thu hẹp dần. Nhưng ngay từ đầu, chúng tôi đã tự làm quẩn chân mình, vì không thể quay lại những cánh đồng cũ (với người quen cũ). Tôi đã từng trở ngược về những nơi đó theo cách của tôi, bằng mường tượng. Tôi gặp nhiều đứa trẻ tên Hận, tên Thù mang khuôn mặt rắp tâm của cha tôi, với đôi mắt sâu và chiếc mũi thẳng. Những đứa trẻ nhàu úa, cộc cằn, cắm cẳn, chỉ tiếng chửi thề là tươi rói, nhảy ra xoi xói ở đầu môi. Và hình ảnh đó thật đến nỗi, tôi bất giác lùi lại vì một đứa đang nhìn trân trối vào mình, ngạo nghễ "Tao không thích học, chừng nào lớn, tao đi chăn vịt. Má tao (hoặc ba tao) dặn, phải đánh chết tụi chăn vịt kia".

Tôi giễu cợt, không biết mày có kịp lớn không. Và nó nhăn nhở cười trước khi tan mất vào vũng đêm.

Tôi không mất nhiều thời gian để hiểu được cái cười ấy.

Đơn giản là ngay bây giờ, trên cánh đồng này, cũng đang lảng vảng những thằng Hận, chúng lớn hơn, cũng thất học, hung hãn. Bọn người này cướp vịt ở các bầy khác (trong đó có của chúng tôi) bằng cách lén phết sơn đen lên đầu những con vịt và phơ phởn đến nhận chúng là của mình, hiển nhiên mang đi. Bắt đầu xảy ra vài cuộc xô xát trên đồng, người ta đem hết những bản năng hoang dã của mình ra để giành lại miếng ăn.

Cha biểu tôi đứng ở đằng xa. Chờ đợi. Rốt cuộc, bầy vịt của chúng tôi vẫn mất ngót một nửa. Chúng tôi ra về. Cha tha thểu đằng trước với một thân xác nhừ bùn sau cuộc đánh nhau. Cố đi tụt lại phía sau, tôi giấu nỗi vui đang thổn thức, cồn cào. Sẽ không ra gì nếu một đứa gái tỏ ra mừng rỡ khi cha nó bị đánh tả tơi, nhưng rõ ràng là cha tôi đang thay đổi, đang sống lại những cảm xúc bình thường nhất. Tôi thích ông như thế này.

Sau này, tôi luôn hối tiếc là tại sao ngay lúc ấy không chạy đến và cùng sóng bước cùng ông, tại sao tôi không nhìn ông và mỉm cười. Để khi đám người kia cắt đồng, tôi đã không còn cơ hội.

Ba người họ ập tới từ phía sau, quây lấy tôi, quần áo vẫn đẫm bùn, mặt mũi sưng sỉa. Những thằng con trai hơi ngỡ ngàng, khi nhìn thẳng vào tôi, một đứa gầy gò trạc thằng Điền lau dãi ròng rãi trên khoé miệng, thảng thốt, "con nhỏ đẹp quá, mày".

Tôi coi đó là lời phán quyết cho mình. Giọng điệu của hắn giống như đang tấm tắc trước một món hàng đã mắt.

Và món hàng bị ghì ngửa trên mặt ruộng bì bỏm nước. Tôi ngạc nhiên thấy bầu trời im sẫm. Mênh mông. Không biết đã tắt nắng hay mặt trời không vói được ánh sáng đến nơi này? Hay những khuôn mặt nghèo đói, dốt nát tăm tối đã che khuất nó? Ngoái nhìn về phía cha và thấy ông lầm lũi đằng xa, tôi mong ông đừng quay mặt lại. Sau đó thử chống cự một lần, rồi thôi, sự vùng vẫy chỉ kích thích lòng ham muốn. Tôi không muốn bị đè nghiến, bị vùi nghẽn trong bùn.

Bọn chúng hơi khó chịu trước một đứa con gái yếu ớt và câm lặng. Sự hưng phấn giảm đi ít nhiều, đến nỗi, chúng tỏ ra đờ đẫn, nghi hoặc khi bóc trần tôi ra. Sao đúng lúc vầy nè, tôi buồn nẫu nê, tôi vừa le lói nhìn thấy con đường dẫn đến cuộc - sống - bình - thường, tôi vừa nghĩ, trên con đường đó, sẽ gặp người con trai nào đó để thương yêu... Nhưng cố không để cảm giác đau tiếc làm mình lịm vào chết, tôi cười cợt, “Chúng mày có lột bỏ có trăm có ngàn, tầng tầng lớp lớp những vỏ bọc, cũng chẳng bao giờ thấu đến tận tao”. Ý nghĩ đó làm tôi bớt nhói cho nông nỗi này.

Vậy thì, cha ơi, quay lại làm gì, tôi than thầm khi nghe tiếng chân ông nôn nả, giận dữ lỏm thỏm trên mặt nước. Cha tôi lao vào, gầm gừ nắm cổ một tên bật ngửa ra đằng sau như một người cố cất cái vó sông nặng nề, đẫm nước. Tôi khóc. Vì thấy ông đã kiệt sức, hoàn toàn. Và tôi buộc miệng thất thanh: “Điền! Điền ơi!” trước khi một tên ghí đầu ông dập xuống bùn.

Tiếng gọi ấy làm cha đau đến sững sờ, ông rướn ngước mặt về phía tôi, miệng há hốc. Tôi chực hiểu, ngay lập tức hối hận tràn đầy, trong ý thức cầu cứu, một bản năng đơn giản nhất, đứa con gái đã quên mất người cha.

Thằng Điền thì ở xa. Cánh đồng vắng ngắt, chấp chới vài cánh cò. Tôi biết rằng, không có cái gì làm cho cuộc chiếm đoạt này dừng lại. Cha không chấp nhận điều đó. Ông liên tục vùng vẫy. Một tên côn đồ ối lên một tiếng, bụm lấy mắt, vừa kêu rên vừa chửi bới ngậu xị. Không đánh trả, nó có cách trừng phạt khác, nó đè nghiến, giữ cho mặt ông hướng về phía tôi. Và bọn chúng thay phiên nhau, giữ cho cha chỉ một tư thế đó.

Mắt cha tôi ầng ậc nước, tôi không rõ là phèn hay máu nhoèn nhoẹt. Thôi nghen, ông trời, như thế này là đủ rồi, đừng thêm nữa. Ước gì cha tôi hiểu, để mà thanh thản, xưa rày, cái gì không biết hai chị em cũng đã thử, đó là một cách tự học để sống. Chỉ có sự giao tiếp giữa thân xác là tôi chưa từng trải qua.

Nhưng lúc này, cảm giác thật đơn điệu. Đầu tiên là sự xé toạc, và từ rách nát, đau đớn như lũ kiến cánh được giải thoát, chúng bò rân khắp thân thể, tôi thấy mình đang chết. Rồi ký ức ùa về kinh hãi, vẻ mặt má tôi cái hôm bị người đàn ông bán vải đo lên người hình như không phải là khoái lạc thăng hoa, nó giống như tôi bây giờ, đau ràn rụa, nhói tận chân tóc. Trời ơi, tại sao tôi không nhận ra điều đó, ngay lúc ấy (để giấu kín nỗi ám ảnh trong lòng, giả đò tươi cười với má, xem như không có chuyện gì, để chiều chiều cùng má ra sông, hỏi nhau, không biết chừng nào thì cha về)

... Mặt trời le lói ánh sáng trở lại khi trên đồng chỉ còn hai thân thể nhàu nhừ. Ai đó vãi từng chùm chim én lên cao, chúng cố chao liệng để khỏi phải rơi như lá. Người cha cởi cái áo trên người để đắp lên đứa con gái. Ông ta bò quanh nó, tìm bất cứ cái gì để có thể che cơ thể nó dưới mặt trời. Dường như đứa con gái đang chết, chỉ đôi mắt là rưng rức chớp mở không thôi. Câu đầu tiên nó hỏi:

- Không biết con bị có con không, hả cha?

Nó hơi sợ hãi. Cảm giác một cái gì, nhỏ xíu nhưng lanh lợi như con loăn quăn đang ngụp lặn trong nó. Đứa con gái thoáng nghĩ, rớt nước mắt, trời ơi, có thể mình sẽ sinh con. Nhưng nó chấp nhận việc ấy, dù phũ phàng (với nó, chấp nhận cũng là một thói quen).

Đứa bé đó, nhất định nó sẽ đặt tên là Thương, là Nhớ hay Dịu, Xuyến, Hường... Đứa bé không cha nhưng chắc chắn được đến trường, sẽ tươi tỉnh và vui vẻ sống đến hết đời, vì được mẹ dạy, là trẻ con, đôi khi nên tha thứ lỗi lầm của người lớn.

HẾT
 
Hãy đọc và so sánh coi truyện này & truyện Cánh Đồng Bất Tận của Nguyễn Ngọc Tư có giống nhau không ....

1.

Bây giờ đang là cuối đông, những trận gió mùa tràn về dứt từng chiếc lá cuối cùng trên cây bàng già nua bao năm đứng trân trân chịu trận bên bờ sông. Cây bàng có từ bao giờ tôi cũng không biết, nhưng quanh năm suốt tháng, mỗi khi từ đồng về, người ta lại đem bầy trâu buộc vào mấy cái rễ trót mọc lồi lên trên mặt đất.

Chỗ đất buộc trâu lúc nào cũng nham nhở, nhầy nhụa, lở loét, khai và khăn khẳn mùi phân. Những ngày nắng ráo còn đỡ chứ phải ngày mưa không một ai dám đặt chân vào, đất ở đấy sủi bọt lục bục như lỗ trạch lòng mương nước. Từ những vũng trâu đằm, mùi khắm, khai, thối, bốc lên theo gió loang xa cả một vùng sông nước. Rồi nước từ những vũng trâu đằm ấy chảy xuống sông, hòa vào nước mặc người đôi bờ hì hụi gánh về đổ bể lấy nước ăn. Những ngày như thế, cha thường bắt tôi chèo thuyền ngược lên hướng thượng nguồn mới cho nổi lửa nấu cơm.

Mùa hè, từ mờ sáng cho đến nửa đêm, lũ trẻ trâu tóc cháy đỏ hoe râu ngô, người ngập ngụa mùi bùn tanh nồng trèo đầu cưỡi cổ, vặt lá bẻ hoa, lần theo mấy cái cành đua ra mặt nước, hò nhau nhảy xuống. Đôi khi lũ trẻ nhoai người hái bàng chín, gặp phải cành yếu, rơi từ trên cao xuống, máu mũi, máu miệng chảy đỏ ngoe đỏ ngoét theo nước lẫn vào màu da đen cháy. Đối diện phía bên kia bờ là bến nhà tôi, nơi cha tôi thường neo thuyền lại nghỉ ngơi sau mỗi lần đi xa về.

Nói là bến nhà tôi cho oai chứ thực ra chả của ai cả, chẳng qua là thuyền nhà tôi thường về đậu ở khúc sông này, lâu ngày thành quen rồi tiện mồm cứ gọi thế cho dễ nhớ, dễ hình dung. Tôi không thể nào nhớ nổi tôi đã đi bao nhiêu con sông trong vùng đồng đất mà người ta cứ cho đó là vựa thóc của đồng bằng sông Hồng. Ai muốn gọi thế nào cũng được vì nó chẳng ảnh hưởng gì đến cuộc sống nhà tôi.

Bản thân tôi cũng không có nơi sinh chứ nói gì chỗ cắm sào là của mình. Biết mình không có nhưng ai hỏi vẫn phải nói có. Nhiều khi tôi nghĩ, khổ nhất ở đời này rõ ràng không nhưng cứ tự nhận mình có, nếu không nó thèn thẹn, xâu xấu thế nào ấy. Những chuyện như thế, cha tôi nghe thấy, nếu ông đang ngồi thường nhấc đít lấy tay phủi phủi mông kiểu người ta phủi bụi, còn đang đứng, thế nào ông cũng chạy ra mui thuyền vạch quần đái rồi khạc nhổ quá bằng có cục đờm to đút nút lấy cổ.

Năm nay trời lạnh cá cũng không chịu đi ăn đêm, và khi người khôn của lại hiếm. Cứ như hiện nay, các loại cá sông có đẻ hằng đêm thì cũng khó mà duy trì được giống. Để đánh bắt con người không từ bỏ một thủ đoạn hay phương pháp nào. Trước kia, những gia đình sống bằng nghề sông nước tuy không ai quy định nhưng mọi người đều ngầm thống nhất các loại vó lưới dày mau không dùng vì còn để cá lớn. Nhưng nay thì khác, vó lưới dùng loại dày, rồi kích điện, đánh mìn, hóa chất. Cộng thêm vào tệ đánh bắt không cần biết hậu quả về sau, thuốc sâu từ đồng ruộng chảy xuống, nước thải từ các nhà máy công nghiệp chảy vào, từ các khu dân cư vô tư đổ đến. Một thời sông trong trẻo, thơ mộng cho những ai yêu văn thơ tha hồ sáng tác, còn nay sông một màu đùng đục xam xám đen tang tóc. Hầm cá trong lòng thuyền nhà tôi ngày xưa lúc nào cũng nhung nhúc, chiếc sạp lát sàn đêm đêm cá quẫy nước bắn ướt đầm phải lên mui mới ngủ được, còn bay giờ hôm nào nhiều chục con, ngày ít hai ba con.

Ngày ấy, khi cá còn dễ đánh bắt, kho nấu cá bao giờ cha tôi cũng chặt vứt bỏ khúc đầu, đuôi chỉ lấy khúc giữa. Ông thường bảo tôi rằng, ở đời ăn uống từ đầu chí cuối mất cả phần con cháu, đồ phàm phu tục tử, không đáng sống. Mặc ông nói thế nào tôi cũng kệ, thực ra tôi nghĩ chẳng qua là do ông làm nghề chài lưới, kiếm con cá con tôm không vất vả khó khăn như những người khác nên thế thôi.

Mà lạ lắm, tất cả các món ăn chế biến từ cá ông thích nhất là món kho mể. Món kho mể chẳng có gì cầu kỳ phức tạp, người làm cá chỉ mỗi việc mổ cá, để nguyên cả máu rồi cho vào nồi đất, đổ nước xăm xắp cho lên bếp đun, bao giờ cá chín nhừ là bắc ra ăn, múc cả khúc cá với nước cá kho còn nóng nghi ngút khói. Nước kho cá chan cơm ăn còn ngon gấp mấy lần nước mắm đầu nong đầu nia, nước mắm cất. Thích thế nhưng dẫu có ngon đến mấy, ông chỉ ăn một bữa còn lại đem đổ hết xuống sông, không bao giờ để lại ăn bữa thứ hai. Có một lần tôi thấy cá ngon, tiếc của giời đem cất đi tối lấy ra. Vừa nhìn thấy, ông chẳng nói chẳng rằng quăng luôn cả nồi cá xuống sông, xong chửi, bảo tôi là đồ khốn, giống hệt tính cái con mẹ đẻ ra tôi. Những gì ông không thích, những khi ông bực, ông lại chửi tôi như thế. Lúc ấy tôi rất sợ, nghe giọng ông chửi, tiếng rít qua kẽ răng, người tôi cứ co rúm lại, chân tay tự nhiên run bần bật, không thể nhúc nhắc, chẳng khác gì người ta đem dây trói chân trói tay tôi lại.

Tối qua trước khi đi ngủ cha tôi nói như giao hẹn:

- Sáng mai nhổ neo, liều liệu tính toán cơm nước mà đi sớm - Ông lầm bầm - Cứ thế này rồi không có cả cứt mà đổ vào miệng.

Chả cần biết mọi người có nghe thủng việc không, ông lấy vò rượu, đổ đầy bát tô, uống cạn một hơi rồi chui vào khoang thuyền trải chiếu nằm ngủ.

Nghe ông nói, tôi hãi im thin thít làm theo, không đám ho he gì. Cô Hến cũng thế, cun cút dọn dẹp các thứ cho vào cái hòm đựng đồ bằng sắt tây đã hoen gỉ. Biết tính ông chỉ nói một lần, không nhắc lại, sáng nay mọi người dậy sớm để chuyển thuyền lên khúc sông trên.

Tôi quên không nói, nhà tôi hiện tại có ba người. Tôi, cha tôi và người đàn bà cha nhặt ở bến Trầm, còn người đàn bà sinh ra tôi đã bỏ dòng sông cùng những chuyến phiêu bạt gió sương đi đâu không rõ. Việc bà bỏ tôi và cha ra đi có một phần lỗi thuộc về tôi, còn cha tôi, từ ngày bà bỏ đi, cứ uống rượu là ông chửi mặc dù không hề nhắc đến tên ai nhưng tôi biết, người ông nguyền rủa, thâm thù, cay đắng không ai khác chính là bà, người được ông nhặt lên từ mó bỏ mồi cá ngày nào. Cũng sau ngày bà bỏ đi, đến bến nào, nghỉ ở khúc nào, miễn là nơi chiếc thuyền có thể cắm sào, gặp người đàn bà nào có thể nhặt được là ông nhặt. Rồi như con thuyền, cắm sào một chốc một lát nhổ neo đi, người đàn bà ông nhặt ấy sau một vài ngày cũng bị ông vứt trả lại bờ không thương tiếc.

Mờ sáng tôi dậy thu xếp chài đem buộc lên cái cọc cắm ở đầu thuyền như cây nêu để phơi, công việc này trước đây là của mẹ tôi, còn bây giờ, tất cả những người đàn bà kia, những người ông nhặt sau bà đều không được làm. Khi tôi lụi cụi phơi chài, cô Hến hì hụi nhóm lửa phía cuối thuyền thổi cơn. Tôi đang đứng trên mui giũ chài thì thấy loảng xoảng rồi tùm tũm xoong nồi, rổ rá và cả chiếc kiềng gang ba chân theo nhau rơi xuống sông. Đuổi theo tiếng đồ vật rơi là tiếng chửi của cha tôi, tiếng chửi nhằm nào cô Hến chứ không vô chủ như mọi lần, lời chửi gay gắt và độc địa.

- Đồ ngu, nhóm bếp thế thằng bố mày ngủ được à. Không biết làm sao gì hơn việc cong tưỡn cái mông lên hay sao?

Khốn nạn. Sự khốn nạn đến tận cùng, nhưng người đàn bà cha tôi nhặt trên bến sông Trầm vẫn không hé răng nói lấy một lời, cô nhẫn nhịn chịu đựng, nem nép chui qua khoang nhà thuyền ra phía đầu mũi ngồi lặng lẽ lấy vạt áo chấm chấm mắt. Khổ quá, ở thuyền sáng mai ra đàn bà con gái không bao giờ được ra mũi thuyền ngồi, vừa ăn chửi xong lại ra đấy không chừng vớ cái đạp lộn xuống sông bây giờ. Nghĩ thế tôi bỏ dỡ công việc len lén tụt xuống kéo cô lên mui ẩy về cuối thuyền trong khi cha tôi chui lại khoang trùm chăn ngủ tiếp. Cô Hến không biết rằng, khi ngủ, bao giờ bố tôi cũng cắm hai sào, một phía mũi, một ở cuối để phòng khi đêm trở gió thuyền không xoay ngang xoay dọc làm mất giác. Sáng ra, khi nấu cơm phải nhổ sào tháo dây phía cuối thuyền để cho thuyền ngược hướng gió thì khói mới không vào khoang.

Vì không biết nên cô Hến đã để khói bay vào khoang, mà khoang nhỏ thì có khác gì hun chuột. Bài học vỡ lòng đời thuyền không xong chắc không sớm thì chày cô Hến lại được cha tôi vứt lên bờ như những người đàn bà khác.
 
2.

Những người đàn bà đi qua cuộc đời cha tôi đều là những người ông nhặt được trên sông và trên bờ từ nhữmg chuyến đi kiếm ăn lênh đênh sông nước. Người đàn bà đầu tiên và cũng là người sinh ra tôi là người ông nhặt được từ một mó bỏ mồi cá.

Người làm nghề chài lưới trên sông không phải ai cũng có nghề như nhau mà thực ra mỗi người, mỗi vạn chài có một nghề riêng. Có người cả đời sông nước chỉ sống độc một nghề thả câu, có người buông lưới, có người quăng chài, có người đi te hay đóng đăng, đóng túi. Cũng như cha tôi, cả đời chỉ có một nghề đánh chài mò. Trong các nghề sông nước, nghề chài mò là nghề vất vả nhất.

Người làm nghề chài mò phải có sức khỏe, khả năng lặn sâu, lâu, chịu được sức ép của nước, ai không có sức khỏe làm nghề này rất nguy hiểm đến tính mạng. Đã có một vài người tưởng nghề chài mò dễ kiếm ăn lao vào, hôm trước hôm sau phải bỏ vì không chịu được. Độ sâu để đánh chài mò thường phải từ hai mét trở lên. Mỗi khi quăng chài, người đánh phải lặn xuống, dùng chân dận cho bốn xung quanh mép chân giềng chài ngập sâu vào bùn mà phải làm nhanh nếu không cá sẽ theo mép chân giềng chui ra ngoài. Người chịu được không sao, người nào yếu, khi làm xong việc đó, lúc nổi lên mặt nước ộc máu mồm máu mũi, nếu ai chảy máu tai coi như cầm chắc cái chết.

Trước đó, người đánh phải lặn xuống sông lấy tay hoặc chân gạt lớp bùn non, đào một cái hố sâu (gọi là mó) khoảng hai mươi đến ba mươi phân, rộng bằng cái thúng lồi bỏ mồi vào. Mồi để đánh thường làm bằng cám rang, trộn với thóc, phân người tươi, phân trâu bò và các loại xác giun, cào cào châu chấu. Sau khi đã trộn các loại đó với nhau, người la lại đem trộn với bùn rắn hoặc đất thật cho thịt nhuyễn rồi chia ra thành nhiều phần, mồi phần to bằng cái ấm chuyên pha trà bỏ xuống một mó.

Ngày còn bé, mỗi khi cha tôi làm mồi thường bắt tôi phải ị vào cái vại sành để lấy phân trộn mồi. Hôm nào không muốn đi phải rặn đến đỏ cả mặt nổi gân nổi guốc. Những lần như thế ông thường chửi tôi là đồ toi cơm, vô tích sự rồi đuổi tôi ra và kéo quần ngồi luôn vào đấy làm công việc cung cấp nguồn nguyên liệu làm mồi. Mà cũng lạ, cái giống cá chép sông sao thích loại mồi có phân người tươi thế không biết. Mồi gì thì mồi, có làm thơm đến đâu mà không trộn phân tươi là không hấp dẫn được nó.

Năm ấy mùa đông như kéo dài hơn, rét nhiều hơn, cá mú dường như cũng ít hơn và con người sống cũng ít tốt hơn. Âëy là theo cha tôi nói thế chứ tôi lúc đó còn đang ở bờ tre gốc dứa nào chưa biết. Sau khi đã uống cạn bát nước mắm trước khi xuống nước, ông quăng chài, nhưng chả hiểu sao, đáng lý phải quăng chài bẩy, nghĩa là chài dài sải ba (bẩy thước bắc bộ, mỗi thước bốn mươi phân, chài bẩy chiều dài bằng hai mét tám) ông lại quăng chài chín. Vì chài chín quá dài, cá dễ lặn xuống bùn chui qua giềng ra ngoài nên ông quăng chài xong sực nhớ ra vội vàng xuống sông ngay.

Sau khi lặn dận chân giềng ông có cảm giác không có cá, vì như mỗi lần, khi lặn dận chân giềng là thế nào cũng chạm cá sao ra. Giống ca chép, khi bị động thường tìm một chỗ bùn lõm để ép mình vào đó tránh. Đánh chài mò, quăng chài xong phải xuống dận chân giềng để cá khỏi ra ngoài và cũng là để cho cá rúc xuống chỗ chân vừa đi, chính chỗ đó đã có các túi lưới, cá vào đó rồi thì không thể nào ra được. Đấy cũng chính là thói quen chết người của bầy cá chép sông, cứ tưởng tránh được cái chết ai ngờ tự chui đầu vào chỗ cho người làm thịt.

Linh tính mách bảo thế nào, nếu như mọi lần, sau khi lặn dận chân giềng xong thường phải lên thuyền ngồi chờ mươi mười lăm phút, đợi cho cá rúc chân giềng mới xuống mò thì ông lại xuống mò ngay. Lặn mò hết cả một vòng chân giềng không thấy cá lao ra động chân giềng ông bèn lặn vào kiểm tra mó mồi. Và ông đã thấy người đàn bà sau này sinh ra tôi nằm cuộn tròn trong mó. Chẳng nghĩ ngợi gì, ông để chài đấy đưa bà lên bờ, dốc ngược hai chân vào vai, đầu chúc xuống đó chạy huỳnh huỵch mấy vòng.

Tuổi thơ của tôi là những ngày lênh đênh sông nước, nay đây mai đó, không có điểm dừng. Nơi cha tôi thả mồi và nhặt được bà từ mó cá không bao giờ ông cho thuyền về đó đậu. Đêm đêm ngày ngày tiếng cá quẫy lòng thuyền là niềm vui của gia đình, nhiều khi cái âm thanh tù túng, vây hãm của bầy cá trong khoang làm tôi toét miệng cười. Tiếng cười, nét mặt tôi khi đó như thế nào không rõ nhưng mỗi khi như thế tôi thường nhăn mặt có vẻ khó chịu. Năm tôi lên bảy tuổi, có một lần mẹ rắng với cha.

- Con nó năm nay đến tuổi đi học rồi đấy, ông xem gửi con vào đâu cho nó học kiếm cái chữ kẻo rồi lại vất vả cả đời như cha mẹ, nó lại oán trách sau này.

Vẫn giữ nguyên nét mặt đầy khó chịu, cha bảo, giọng rít qua kẽ răng.

- Thằng bố nó không học có chết đâu, vẫn sống nhăn răng ra đấy thôi. Học vào rồi mà nứt mắt tý tởn. Không ăn mới chết chứ không có chữ chưa thấy ai chết bao giờ.

Nghe ông nói, nét mặt mẹ đang tươi như hoa bỗng xịu xuống chẳng khác gì gặp trận gió quét, rũ xuống, bã bời, tơ tướp. Không phải đi học tôi càng thích. Tôi nhảy cẫng lên, để nguyên cả quần áo tôi lao rầm xuống nước, lặn một hơi bơi ra rõ xa mới ngoi đầu lên. Túm tóc đuôi gà bết nước cuốn chặt lấy cổ. Mẹ tôi thấy thế giấu mặt vào sau tay áo.

Cuộc sống nhà tôi cứ thế, đều đặn diễn ra. Sáng mẹ lấy vợt xúc cá dưới khoang thuyền mang đi chợ bán đong gạo, mua rau dưa, dầu đèn và các thứ linh tinh khác. Chiều cha làm mồi rồi chờ chập choạng mang ra bỏ mó, đợi khi trăng lên hay gió nổi hây hẩy, mẹ chèo thuyền cha đứng đầu mũi nhẹ nhàng lướt đến chỗ chiều cha bỏ mồi. Bao giờ mũi thuyền cách mó bỏ mồi chừng sải tay, mẹ dựng mái chèo cho thuyền đứng lại. Cha trên đầu mũi, hơi xoay, vặn người về sau rồi cũng rất điệu nghệ, ông tung chiếc chài lên nở bồng trên mặt sóng, đường chân giềng đã được kẹp chì bung đều vòng tròn, chụp xuống chỗ đã bỏ mồi.

Tiếng chân giềng chạm mặt nước chỉ nghe cái rụp. Chỉ bằng một cú quăng ấy lũ cá trót dại vào ăn trong mó khó lòng thoát khỏi bàn tay của cha. Trong khi chân giềng chìm dần từ mặt nước xuống chạm lớp bùn dưới đáy, nếu là mùa đông, cha bưng bát nước mắm đặc sánh uống một hơi rồi nhẹ nhàng như con rái cá ông lao xuống sông. Bao giờ đường chân giềng chắc chắn đã được giấu sâu trong bùn khi đó mới thấy ông ngoi lên mặt nước.

Mỗi lần quăng như thế cha thường phải lặn lên lặn xuống từ năm đến sáu lần. Một đêm, cha thường bỏ ít mười mó, hôm nào thấy có nhiều tăm ông làm mười bốn mười lăm mó. Những hôm như thế, tiếng cá tranh phần nước lấp sấp trong lòng khoang thuyền lục cục cả đêm. Và tôi phải lên trên mui ngủ, còn cha tôi sẽ lên trên mũi, mẹ tôi, bà phải xuống ngủ phía đuôi, nơi cạnh bếp để sáng mai cơm nước sớm cho cha và chuẩn bị đi chợ. Chẳng biết có phải vì làm nghề chài mò lặn nhiều hay không mà ngực cha tôi vồng lên, những thớ thịt căng đầy cuồn cuộn những cơ là cơ. Vồng ngực căng đầy của cha tôi theo năm tháng làm nghề chài mò lép dần, lép dần không gì níu giữ được.
 
3.

Đến bây giờ thỉnh thoảng tôi vẫn ước giá không có cái buổi chiều khốn khó đó thì đã không mất mẹ, cuộc sống của cha con tôi cũng có khi vẫn chung niềm vui ăm ắp tiếng cá quẫy hằng đêm trong lòng khoang thuyền rộn rạng. Mẹ tôi sáng sáng vẫn te tái cơm cơm nước nước lo cho cha và tôi cùng lời nhắc nhở trước khi cắp chiếc rổ lên bờ đi chợ. Rằng hai cha con ở nhà chờ bà chợ về cơm nước, đừng sợ muộn mà tự nấu nướng lấy rồi cả nhà lại phải ăn cơm sống. Và tôi, từ lúc mẹ bước lên bờ sẽ leo lên mui ngồi ngóng bà chợ về mua cho bơ bò hạt dưa người ta nhuộm phẩm nhấm nhắt cho đỏ môi.

Còn cha, bà sẽ mua cho lạng thuốc lào. Nhận gói thuốc từ tay bà, ông vân vê, vuốt vuốt từng sợi, viên viên hạt bi đặt nhẹ nhàng vào chiếc nõ đã được lấy mũi dao nhọn khoét, gọt, gạt những bớn khói thuốc bám đen xung quanh, tay gẩy gẩy chiếc đóm ruột tre ngâm phơi khô, hơ hơ trên miệng điếu rồi hút một hơi thật sâu, tiếng nõ nổ tanh tách. Đoạn, ông ngửa cổ, chụm môi nhẹ nhàng nhả từng sợi khói phơ phất bay mỏng mảnh như dây chỉ trắng lên trời. Cha quay ra khen: Hôm nay bà nó mua thuốc lào của ai mà hút có hậu thế.

Nói có khi chưa xong câu, ông đã nằm quay ra sàn thuyền lơ mơ nghĩ những gỉ những gì không biết và bật cười. Mẹ nghe thế nguýt cha một cái rõ dài, tủm tỉm cười theo. Tôi thuộc lòng chẳng hiểu đầu đuôi thế nào cũng lăn xuống sàn, giơ hai chân lên trời giẫy giẫy cười hùa theo. Đêm ấy không có gió, thuyền nhà tôi cũng bồng bềnh, dập dềnh nô giỡn với sóng, trăng và nước.

Ấy là ước giá thế thôi chứ cái cảnh đó bây giờ nó đã quá xa với tôi rồi. Tôi cũng không còn nhớ là đã phải xa nó năm năm hay sáu, bẩy năm gì nữa, xa như tiếng cá quẫy lòng khoang thuyền của cha con tôi bây giờ vậy. Nhiều hôm thấy tôi ngồi bần thần ông chửi.

- Nhớ nhớ nhung nhung cái gì. Cái mặt mày rồi lại như con đẻ mẹ mày, quân ăn cháo đá bát. Loại người gì sống không bằng loài chó. Mà chó nó cũng không bao giờ bỏ con như cái con mẹ mày đâu. Ngồi đấy mà thuỗn cái mặt rặn ỉa ra cho ngứa mắt.

Ông chửi thế tôi phải chịu chứ thực lòng, không phải tôi không có lúc giận mẹ. Cái ngày đầu tiên tôi có tháng, thấy máu tự nhiên chảy ra tôi lo đến thắt gan thắt ruột. Tôi học cách người ta cầm máu, vơ không biết bao nhiêu là lá, nhai rồi đắp đến mỏi cả mồm, căng cả bụng nước mà nó vẫn cứ chảy. Bực mình, tôi phải lấy cả một vạt áo cuộn nút lại mới được. Tháng đầu tiên của người con gái tôi phải mất cả cái áo cánh trắng chĩ chụm chắt bóp mãi mới có được. Cũng may, sau đó hơn tuần cha tôi nhặt được một người đàn bà ở trên bến Sủi, bà đã bảo cho tôi biết. Người đàn bà này cũng chỉ kịp bảo cho tôi biết cách làm thì cha tôi đã lại vứt trả bà lại bờ. Giá tôi có mẹ thì làm sao tôi phải

mất oan cái áo như thế, làm sao phải để một người đàn bà lạ hoắc dạy bảo tôi chuyện đó. Những lần như thế tôi giận mẹ lắm, chỉ có điều, tôi giấu cái giận vào trong lòng. Giận thì giận nhưng tôi vẫn nhớ bà nhiều lắm. Giận mẹ một tôi căm thằng chủ cai thầu thợ đấu gấp mười, thậm chí cả trăm lần. Chính nó đã làm tôi mất mẹ và cũng chẳng biết bây giờ mẹ tôi đang phiêu bạt nơi nào. Sau lần ấy nó đã giũ áo bỏ đi để mặc mẹ tôi gánh chịu. Cũng chính nó làm tôi bây giờ nhìn mặt bất cứ thằng đàn ông nào trên đời cũng thấy gian gian, đểu đểu, không thể tin được. Tôi luôn cảm thấy sự khốn nạn ẩn chứa sau vẻ mỹ miều, ngon ngọt, chả biết có đúng thế không.

Năm ấy khúc sông Ghềnh sao nhiều cá đến thế, cha tôi đánh cả tháng mất tăm vẫn sủi lên như bong bóng mưa. Không mấy khi gặp được nơi như thế cha quyết định dừng thuyền ở đấy chứ không như những lần khác, chỗ nào nhiều nhất cha cũng chỉ cắm sào hai đến ba hôm là cùng rồi lại nhổ neo đưa thuyền sang khúc khác.

Theo ông, đánh bắt mãi một chỗ cá chẳng kịp lớn rồi ra chẳng còn cửa mà làm ăn. Sống nhờ cá mà không biết cho con cá kịp lớn, kịp sinh đàn dài lũ thì cũng là quân vô ơn bạc nghĩa. Những chỗ đã đánh bao giờ cha tôi cũng phải đợi hai ba năm sau mới quay lại. Có nhiều khúc sông, khi thuyền nhà tôi quay lại tôi còn không nhận ra nơi ấy đã từng neo đậu vì cảnh vật thay đổi quá nhiều, mặc dù sự thay đổi thường là chán đi chứ chẳng mấy chỗ đẹp lên. Chỗ thì làng mạc tiêu điều xơ xác, cây cối chẳng còn xanh tốt như ngày đến. Chỗ thì bãi lở vào sâu nhôm nhoam, ghẻ lở. Nơi hàng chục chiếc tàu hút cát hùng hục đào bới, tiếng máy nổ rồi khói, váng dầu xả ra đen đặc cả khúc sông. Cái sự mưu sinh của con người cũng ghê gớm, tham lam vô cùng, chẳng biết thế nào cho đủ. Gặp những cảnh như thế, cha tôi thế nào cũng chửi đổng vài câu rồi mới cho chèo thuyền đi khúc sông khác.

Cũng vì nhiều cá cha tôi cho thuyền neo lại lâu nên việc sáng sáng mẹ tôi đi chợ cũng thành thói quen của nhiều người gần bến. Có một lần mẹ cho tôi theo đi chợ. Từ bến đậu thuyền nhà tôi đến chợ cứ theo con đường nhựa chả biết làm từ bao giờ nhưng đến nay nó đã trốc mặt, những hố là hố, có nhiều cái to hơn cả mó bỏ mồi của cha tôi. Hai bên đường, dọc theo con ngòi, người ta thi nhau đẩy thuyền, những chiếc thuyền nan đầy đất quật thành từng ô vuông vức lấp mấy đoạn ngòi. Mẹ bảo tôi người trên bờ đất chật người đông nên không còn đất để ở phải lấy đất dưới lòng các con ngòi rồi quật cao làm nền nhà. Sống mỗi người mỗi nhà nhưng chết phải chung nghĩa địa, cái lý của người trên bờ là thế. Mẹ thở dài.

- Bao giờ nhà ta mới có tấc đất cắm dùi. Sống không có đất ở, chết không có đất chôn.

Nghe mẹ than thở nhưng thực lòng lúc ấy tôi chả hiểu gì chỉ nghĩ nhà tôi cần gì đất làm nhà. Cả nhà sống trên thuyền, ăn nước sông, uống nước sông, sống nhờ sông. Khúc sông này còn cá thì ở, hết cá thì đi, nhổ con sào đẩy một cái là đến chỗ khác. Ở nhà thuyền, mùa hè thì mát, mùa đông thì ấm, con cá con tôm lúc nào cũng tươi, nhẩy tanh tách chả sướng gấp mấy lần trên bờ phải chen nhúc chật chội hay sao.

Mẹ tôi ước làm gì cho khổ. Nhìn những người lặn ngụp, ngâm mình dưới nước vác từng tảng đất vất lên thuyền rồi lại phải quật cao thành gò thành ụ để làm nhà sung sướng nỗi gì. Mẹ bảo tôi những người ấy là thợ làm đấu. Những người này ăn khỏe lắm, vì thế mới có câu ăn đấu làm khoán. Cả ngày ngâm mình dưới nước nên lúc nào cũng đói. Chả trách cha tôi mỗi bữa ăn bẩy tám bát vẫn kêu đói. Tôi len lén nhìn những người thợ đấu, người nào người nấy vâm váp, bắp tay, cơ ngực cuồn cuộn như dây chão, dây lèo giằng chèo, kéo cột dựng buồm.

Khi hai mẹ con tôi đi qua chiếc lều bạt dựng cạnh đường, nơi có chiếc xe máy mầu đỏ dựng bên cạnh thì có ai đó gọi:

- Này cô chài, có cá tươi bán cho mấy mớ.

Nghe tiếng gọi, mẹ tôi tong tả đến trước cửa lều, đặt rổ cá xuống đon đả:

- Hôm nay em có mấy mớ cá còn tươi lắm. Mấy anh xem mua cả giúp em cho gọn.

Từ trong lều đi ra là một người đàn ông cao ráo, khuôn mặt vuông vức, hàng râu mờ mờ xanh bao kín cả hai bên má xuống cằm. Đi sau anh ta là ba bốn người nữa. Một người trong đám nghe mẹ tôi nói thế cười, sán đến, ngồi xuống bên cạnh.

- Cá của em thì tươi rồi nhưng có lạ không em?

Mấy người đi theo cười hô hố, nhe cả hàm răng to như bàn cuốc, đen thui đít nồi. Mẹ tôi đỏ mặt xấu hổ. Người đàn ông cao ráo có khuôn mặt vuông vức lừ mắt, mấy người kia vội im bặt.

- Cô đừng giận, họ hay đùa tếu táo thế thôi. Hôm nay tôi có nhiều thợ làm. Cô lấy bao nhiêu để tôi mua cả. Cá nhà cô là cá sông, mấy hôm trước tôi mua của cô, kho mặn mà ai ăn cũng khen ngon, thịt thơm lắm.

Giọng người đàn ông nhẹ nhàng, thủ thỉ nghe ấm áp:

- Người xinh thì cá cũng ngon phải không cô. Hôm nào có cá cứ mang đến đây tôi mua cả cho không phải đi chợ bán nữa, vất vả người bán mà cá cũng mất tươi.

Mẹ tôi lại đỏ mặt, lấy tay kéo vành nón giấu khuôn mặt đang hồng lên sau lời khen. Hôm ấy hai mẹ con tôi đi chợ không phải lo bán cá nữa nên có thời gian cho tôi đi chơi, mua sắm các thứ. Mẹ mua cho cha và tôi mỗi người một bộ quần áo mới. Vui quá tí nữa thì hai mẹ con tôi quên đến giờ về nấu cơm trưa. Tôi vui ra mặt, nhảy chân sáo suốt đường về. Còn mẹ, tôi đoán, chắc mẹ cũng vui nên thỉnh thoảng cười tủm, hai má hồng hồng dưới vành nón. Một quãng mẹ lại gỡ nón nhìn nhanh vào chiếc gương nho nhỏ mà người ta khéo léo gài phía trong áp chóp.

Thuyền nhà tôi cắm sào ở lại khúc sông này đã lâu mà nhìn xuống nước vẫn thấy tăm cá nổi lên. Sáng ra, cha bảo mẹ mang hết cá ở khoang chứa đi bán, không cần để dành làm gì, đánh tối nay nữa rồi đi. Mẹ tôi bảo ông đang đánh được tại sao lại đi vội thế. Ông lừ mắt nhìn mẹ giọng chì chiết:

- Cá đánh lắm cũng hết, người ở lâu dễ hư. Ma quỷ yêu quái chẳng qua là ở mãi một chỗ mà thành. Mèo già hóa tinh thành cáo, chó dữ nuôi lâu phát rồ. Đi hay ở cô không phải nói nhiều, tôi khắc biết.

Nói đoạn, ông chui vào khoang lấy bộ quần áo mẹ mua cho hôm có tôi đi cùng mặc vào. Sau khi đã lên bờ ông quay lại nói vọng xuống thông báo ông đi ăn cưới ở vạn chài khúc sông trên trưa nay không về. Ông còn dặn ở nhà hai mẹ con chuẩn bị sẵn mồi chờ ông về để bỏ mó. Mẹ bắt hết chỗ cá đi chợ, còn tôi, mấy đứa trẻ trâu xóm bãi rủ đánh trận giả rồi chơi trò trốn tìm. Tôi lật mấy tấm ván đầu mũi thuyền chui nấp vào trong đó, xong lắp lại như cũ. Tôi nấp ở đây tài thánh cũng không ai có thể tìm được.

Nằm cuộn trong khoang mũi trốn, tụi trẻ xóm bãi rà đi rà lại tìm mấy lần không thấy chúng bỏ đi nhưng tôi nghĩ chúng nó giả vờ để lừa tôi ra bắt nên cứ yên trí nằm trong đó mặc cho chúng nó đi tìm. Đánh trận giả đã thấm mệt bây giờ nằm trốn trong khoang mũi nên tôi lúc đầu chỉ nghĩ lim dim một chút cho đỡ mệt ai ngờ ngủ béng đi mất.

Khi tôi đang ngủ thì thuyền tròng thành làm đầu tôi đập vào khung xương gá ván tỉnh giấc. Tôi chưa kịp lật ván chui ra thì đã nghe thấy tiếng thở dốc của mẹ và giọng nói nhẹ, ấm rất quen thuộc, rằng mẹ làm ông ta mệt quá. Tôi hé mắt qua khe ván, chiếc xe máy mầu đỏ đang dựng bên vệ đê lối xuống bến. Tôi cứ nằm trong khoang mũi chờ cho mẹ mà người đàn ông bước đến chỗ xe máy tôi mới lật ván chui ra, ngồi bệt xuống mặt sàn. Khi mẹ trở lại thuyền thấy tôi ngồi sẵn đó, bà ngồi xuống cạnh hỏi có phải vừa ở trong khoang mũi không. Tôi không trả lời mà tự nhiên òa lên khóc, gạt bà ngồi la xa.

Câu chuyện vỡ lở, tôi tưởng cha sẽ đánh cho mẹ một trận hay phải gầm lên chửi mắng. Nhưng không, cha bắt mẹ đến xin người đàn ông ấy một đồng tiền mà không cần biết tiền to hay nhỏ. Sau khi mẹ mang về đưa cha, ông vuốt cho phẳng phiu rồi cất kỹ vào một chỗ. Cũng từ hôm ấy, ông giặt chài phơi phóng thật khô cho vào chiếc hòm sắt khoá lại, không làm nghề chài mò nữa. Đến bữa, trước khi cả nhà ăn cơm, ông lại lấy tờ tiền ấy ra, đặt lên mâm và bảo tôi, giọng rất nhẹ nhàng nhưng tôi vẫn nhận ra tiếng gió rít nhẹ trong kẽ chân răng:

- Con cứ ăn đi. Từ nay nhà ta không ai phải làm gì nữa, đã có mẹ con đi làm kiếm tiền về nuôi bố con mình rồi.

Một tuần ròng rã, tôi nghe mẹ van xin cha nhưng ông vẫn tịnh như không nghe thấy gì. Mỗi bữa ăn là nước mắt mẹ lưng tròng chan cơm. Rồi một sáng, mẹ cắp rổ đi chợ và không bao giờ trở lại nữa. Đến tối, cha không thấy mẹ quay về, ông chèo thuyền đúng ba ngày ba đêm đưa tôi sang khúc sông khác. Ông làm nghề chài mò trở lại nhưng cũng từ đấy ông đổi tính đổi nết, hay uống rượu và thường đưa những người đàn bà lên thuyền, rồi sau đó một hai hôm ông vứt trả lại bờ. Cá đánh được ông không cho mang lên chợ bán, ai muốn mua xuống bến nói cần con to hay nhỏ, nặng bao nhiêu là ông chui vào khoang, lật tấm ván lát thuyền bắt mang lên.

Bây giờ ngồi nhớ lại, tôi vẫn thấy căm thù mấy đứa trẻ trâu xóm bãi đã rủ tôi chơi trò trốn tìm. Tôi muốn đập nát cái khoang mũi để cho tôi nằm trốn trong đó. Tôi hận với chính tôi đang chơi lại lăn ra ngủ và tại sao lại tỉnh giấc vào lúc ấy. Liệu hôm đó tôi cứ lang thang chơi với lũ trẻ trâu xóm bãi bắt cào cào châu chấu hay trò ném pháo đất thì mẹ có phải bỏ tôi đi như thế không? Và nữa, nếu cha không căn vặn tôi vì sao lại khóc, bỏ cơm không chịu ăn để tôi phải nói cho cha biết? Nếu tôi biết nói dối? Nếu cha không ném đồng tiền năm nghìn xanh lét xuống mâm trước mỗi bữa ăn cùng câu nói mười lần như một thì mẹ có ở lại với cha và tôi không? Mẹ bỏ tôi mà đi có một phần do lỗi của tôi? Mẹ ơi, giờ này mẹ đang phiêu bạt nơi nào. Thương mẹ, nhớ nhẹ, tôi chỉ dám gọi thầm trong bụng.
 
4.

Có một chiều chỉ có hai cha con ngồi ăn cơm trước khi ông đi bỏ mồi, tôi hỏi.

- Tại sao lại có sông hả bố?

Vừa bưng bát cơn lên và, ông nói giọng còn lụng bụng trong miệng.

- Vì đời sinh ra bố.

Nghe ông nói thế tôi không dám hỏi thêm kẻo bát cơm ông đang bưng lên tay có cánh bay sang mặt tôi. Mấy năm trước, cha tôi cũng nhặt được một người đàn bà trên bờ đưa xuống thuyền. Cô này nói luôn mồm, thấy cái gì cũng hỏi mà hỏi đến cu ty tỉ muội. Một lần cũng trong bữa ăn, cô hỏi bố tôi về chuyện tại sao con sông này có tên gọi là Bo, con sông kia có tên là Mã, con sông nọ có tên là Sứ. Sau mấy câu trả lời ậm ừ, cô ấy cứ hỏi mãi. Chẳng nói chẳng rằng, ông ném luôn bát cơm đang bưng trên tay vào mặt, chửi.

- Miệng thối như cứt mà ăn cơm cứ nói lắm. Bọt phun phè phè ra hết mâm còn ai dám ăn. Cô về hỏi thằng bố cô ấy.

Dứt lời, ông đứng lên bế thốc cô ném thẳng lên bờ, nhổ neo đẩy thuyền đi tịnh không thèm ngoái đầu nhìn lại. Tính ông là thế, không thích lằng nhằng, làm chài thì cứ việc giỏi bỏ mồi bắt cá, ông chúa ghét thói lính canh ngó chuyện triều đình, đầu không ra đầu mà cuối cũng chẳng ra cuối, vạ rách chuyện. Ăn cơm mốc nói chuyện tám thơm. Biết tính ông thế nên tôi thôi. Ừ, thì cứ coi ông là dòng sông đi. Sông cũng có khúc lở khúc bồi, khúc trong khúc đục, có tội lỗi, có tật nguyền như con người trên bờ kia, cũng có kẻ này người nọ, nếu không làm sao mẹ bỏ tôi khi mới hơn mười tuổi đầu mà ra đi cho được.

Để giúp cô Hến nhóm lửa nấu cơm, tôi nhẩy xuống sông mò tìm lại mấy thứ cha lôi vừa quăng xuống nước. Với tôi, không nói khoác, là con gái thật đấy nhưng chuyện bơi, lặn khó có thằng trai trên bờ nào thắng nổi. Có một lần duy nhất trong đời cha nói vui với tôi. Ông bảo tôi sau này lấy chồng, nếu nó léng phéng con cứ lôi nó xuống sông mà dần.

Ăn cơm nước xong cả nhà đang chuẩn bị nhổ sào chuyển đi khúc sông khác thì chả hiểu sao, cô Hến múc nước rửa bát ngã xuống sông. Tôi còn đang mải thu dọn các thứ, sắp xếp cho gọn, vì trong ngôi nhà thuyền rộng năm, sáu mét vuông nếu không biết cách sắp xép thì đến chỗ đặt chân cũng chẳng có. Thực ra công việc này là của cô Hến vì dù muốn hay không cô cũng là người phụ nữ nhiều tuổi nhất trong nhà, thương cô nên tôi làm giúp. Mới lại, không biết cô có tồn tại bên cha tôi được lấy ba bẩy hai mốt ngày không hay lại như những người đàn bà trước đây, lâu thì một ngày, nhanh thì một đêm đã bị ông quẳng lại bờ cùng mấy tờ bạc nhàu nhĩ tanh mùi cá.

Dẫu sao, tôi cũng là người biết tính biết nết của cha và đã quen với sự sắp đặt trong khoảng không gian chật chội này rồi. Mải làm nên khi cô ngã xuống sông tôi không để ý và với những người nhà chài như cha con tôi, ngã xuống sông là chuyện vặt. Rơi xuống rồi thì bám vào thành thuyền mà trèo lên. Người nhà chài có ai chết đuối bao giờ. Còn cha tôi, khi cô ngã ông biết nhưng mặc. Với ông, muốn ở nhà chài thì phải biết tất cả những gì của đời chài cần có, cho dù nó vất vả, khốn khó đến mấy, bằng không, quy luật cuộc sống sớm muộn nó cũng đào thải. Con người ăn, uống vào rồi cũng phải thải ra, không thải ra được sẽ chết. Nhìn thấy cô ngã song ông vẫn ngồi điềm nhiên hút thuốc.

Đời chài động một tí là chạm nước, không những thế, tất tần tật những gì gọi là sự khắc nghiệt của thiên nhiên người chài phải chịu hết. Tắt nắng mưa đến bão gió, người làm chài phải hứng chịu nguy hiểm hơn người trên bờ vì không được nương tựa vào đâu. Rồi hơn thế, vào mùa lũ, người trên bờ làm ầm ĩ lên nhưng thực ra cũng chỉ nói cho to, đứng để xem chứ có làm được gì. Người làm chài thì khác, phải trực tiếp đối diện với nó. Lũ, năm nào chả thế. Lũ đến rồi đi, dăm bẩy lần cũng chả nhằm nhò, hề hấn gì. Lũ là việc của trời, còn chúng tôi, đánh chài bắt cá là việc của chúng tôi. Trời có lúc nắng lúc mưa thế thôi. Để tồn tại được những người sống trên sông nước phải tự thích nghi với cuộc sống.

Ngày mới lên hai, để có thể tồn tại được với cuộc sống sông nước, cha ném tôi xuống sông mặc tôi chìm nổi tập bơi, giẫy giụa quẫy đạp trong nước chỉ đến khi nào sắp chìm mới lấy vợt xúc lên. Những ngày đầu tôi uống căng bụng nước, ông cầm hai chân dốc ngược rồi quay vòng tròn cho nước tháo ra ngoài. Mẹ tôi thắt gan thắt ruột nhưng không thể làm trái ý ông. Một ngày, hai ngày rồi ba ngày, cứ chiều chiều là ông quẳng tôi xuống nước. Lúc đầu chân tay còn quềnh quàng như chó, lũm bũm đập nước để ngoi lên, sau rồi quen dần, tôi tự học được cách bơi như thế nào cho nhanh, cho đỡ tốn sức.

Những đứa trẻ dân chài lên hai phải biết bơi, lên ba đã phải tập chèo thuyền, vá lưới, phân biệt chài năm, chài bẩy hay chài chín. Lên bốn tập nhìn sóng biết gió, nhìn nước biết độ nông sâu. Năm tuổi, nhìn tăm biết cá, biết mưa đi đàn tìm nơi sinh sản. Sáu tuổi, đêm nằm ngửa mặt lên trời biết mai nắng mưa hay bão gió, bấm đốt ngón tay tính được ngày con nước. Bảy tuổi đã trở thành dân chài thực thụ, một mình có thể xoay sở tự kiếm sống, xòe bàn tay chai dày như người làm rèn, đánh búa. Cha bảo tôi, chẳng có trường lớp nào bằng cuộc sống đang bày ra trước mắt, để sống con người phải tự biết làm gì. Kẻ ở rừng phải biết cưỡi ngựa bắn cung. Kẻ làm ruộng phải biết cày, bừa, cấy lúa. Kẻ sông nước phải biết bơi lặn, quăng chài.

Khi chợt nhớ ra cô Hến là người trên bờ làm sao biết bơi như tôi thì cô đã chìm dưới nước không còn thấy cánh tay giơ lên quờ quạng cầu cứu. Từ trên mui thuyền tôi lao vội xuống sông, lúc này chắc cha tôi cũng nhận ra cô Hến không phải người chài, ông phóng mình từ trong khoang lao xuống không khác gì con nhái.

Tôi không nghĩ sau sự việc xảy ra cô Hến lại là người chủ động ra đi mà không cần cha tôi quăng trả cô lại bờ như những người đàn bà khác. Trước lúc đi, cô nói với cha giọng thật nhẹ nhàng mà sao nghe tha thiết lạ:

- Em biết rồi anh cũng ném trả em lại bờ như những người đàn bà khác. Để anh làm điều đó anh vừa mang tiếng mà em cũng chẳng sung sướng gì. Thôi thì, một ngày nên ngãi, em xin đi để giữ tròn điều tiếng cho anh. Trước khi xa anh và con, em chỉ xin nói với anh một điều, hận thù chỉ làm cho con người tăm tối. Rồi còn con nữa, nó sẽ sống ra sao khi cuộc đời chỉ một màu đen của lòng căm giận.

Nghe cô nói cha không có phản ứng gì. Ông ngồi bất động, tay xoay xoay chén nước trà mà cô Hến vừa pha cho. Chén trà đặc, nóng khi uống còn đăng đắng trong cổ, uống xong mới thấy vị ngọt và hương thơm của trà, thói quen, ý thích của cha như hút thuốc lào ngon vậy.

Nói xong, cô đưa tay kéo tôi vào lòng, vuốt nhẹ lên tóc. Vô tình, ngón tay cô vướng vào mấy sợi tóc rối. Cô lấy hai tay giẽ giẽ ra rồi khẽ khàng luồn vào như chải thêm một lần nữa. Tự nhiên tôi ép đầu vào ngực cô. Từ ngực cô, tôi nhận thấy có một mùi rất quen mà tôi đã ngửi thấy lâu lắm rồi, không thể nhớ nổi.

5.

Cô Hến bỏ đi chả hiểu sao cha cũng từ bỏ ý định di chuyển sang khúc sông khác như dự kiến ban đầu. Ông cũng nghỉ làm chài mấy hôm, chỉ ngồi hút thuốc lào và uống nước chè mặc tôi làm gì thì làm. Lấy cớ nhà hết gạo, rau ăn tôi xin phép cha đi chợ mua sắm.

Cắt đường tôi tìm về bến Trầm. Cô Hến đón tôi niềm nở trong ngôi nhà ba gian mái ngói nằm khuất sau rặng tre gai cuối xóm. Ngôi nhà quạnh vắng, âm ẩm, vôi trên các bức tường tróc loang lổ để lộ ra những đường mạch xây lở loét. Ngay chiếc bàn gỗ uống nước kê ở gian giữa khi chạm tay tôi có cảm giác lành lạnh. Tất cả các đồ đạc trong nhà được xếp đặt ngăn nắp chứng tỏ chủ nhân của nó là người chỉn chu và rất sạch sẽ.

Ôm tôi trong lòng mà nước mắt cô rơi lã chã. Nép đầu vào ngực cô, tự nhiên tôi lại bắt gặp mùi quen quen mà tôi đã gặp ở đâu đó lâu lắm rồi còn lưu lại trong tiềm thức. Cô luồn tay vào trong tóc tôi, nhẹ nhàng gỡ những chỗ tóc gió làm rối khi tôi đi đường. Nói cái gì, bảo cái gì cô đều gọi tôi là con. Cô hỏi cha tôi mấy hôm nay như thế nào, sức khỏe ra sao rồi tất tần tật các chuyện ăn uống, sinh hoạt hàng ngày từ khi mẹ tôi bỏ đi đến nay. Mới có ba bốn hôm mà cô hỏi cứ như đã xa cả năm cả tháng. Và tôi không thể tin được những điều cô kể, sự thật đấy nhưng sao nó đến nhanh và bất ngờ quá, một sự thật đến phũ phàng, tàn nhẫn.

Nhà cô có hai chị em. Mẹ cô sinh ra cô thì chết do băng huyết. Bố cô một mình làm lụng nuôi hai chị em đến khi cô lên năm thì ông đổ bệnh và cũng mất. Người chị lên bẩy, người em lên năm phải sống dựa vào sự đùm bọc cưu mang của bà con lối xóm. Thời gian cứ trôi đi, cuộc sống cũng dần dần ổn định khi cả hai chị em đã lớn. Để có thời gian lo toan cho người em ăn học mong sao có ngày ngẩng mặt nhìn đời, chị cô đã từ chối tất cả những chàng trai trong xóm đến cầu hôn. Rồi người em cũng học xong trung cấp sư phạm và lên dạy trên vùng cao.

Người chị ở lại nhà, sau thời gian nuôi em ăn học lúc này tuổi cũng đã lớn. Nhà quê, con gái hai lăm hai sáu tuổi đã chẳng có người con trai nào để ý. Rồi một ngày có một người trai làng bên đến ngỏ lời yêu thương, người chị đã dồn tất cả tình cảm của mình cho người đó. Khi biết mình có mang, người chị nói cho chàng trai đó biết. Không ngờ, khi nghe chị cô thông báo, chàng trai đó đã từ chối và tìm cách lảng tránh. Lo lắng cùng quẫn, sợ điều tiếng, người chị đã bỏ nhà đi đến khúc sông làng bên rồi tự tử những mong rửa sạch nỗi nhục nhã mà đời đang lại. May mắn người chị được

một người làm chài trên sông cứu sống. Nghĩ đấy là duyên phận trời định và cũng để trả nghĩa, người chị đã ở lại làm vợ người đó. Bao nhiêu năm người chị đã phải giấu giếm thân phận và sự thật để sống một cuộc sống không phải của mình. Nhưng rồi vì người đàn ông đó tính tình khô khan, cuộc sống sông nước không có hy vọng, gặp quá nhiều khó khăn lại vô tình gặp một người đàn ông khác, nói năng cư xử không như người chồng, kinh tế lại khá giả được người đó chiều chuộng nên đã sa ngã.

Biết đó là nỗi nhục của cuộc đời, người chị đã cố gắng làm mọi việc mà ông yêu cầu để mong cứu vãn gia đình. Nhưng người chồng đã không tha thứ, mỗi khi đến bữa ăn, ông lại đem đồng tiền mà người vợ ông bắt xin của kẻ đối địch về bỏ xuống mâm. Nhục nhã ê chề, người vợ đã dứt ruột bỏ con ở lại để đi tìm cái chết. Trước khi chết, người đàn bà ấy đã viết thư nói toàn bộ sự việc cho người em đang làm giáo viên trên miền ngược và nhờ cậy cô trông nom con gái và người đàn ông đã cứu sống mình. Thương chị, người em đã bỏ dạy về để đi tìm. Một lần ra bến sông, cô vô tình nhìn thấy người con gái con ông thuyền chài đang tắm có cái bớt đỏ bên vai trái như lời người chị dặn lại. Và cô đã trở thành người đàn bà ông nhặt được ở bến Trầm này. Người ấy chính là cô Hến và người chị không ai khác là người đàn bà mà cha đã nhặt được ở mó bỏ mồi cá ngày nào, người đã sinh ra tôi.

Kể xong cô Hến đưa tôi đến trước tấm gương tủ, kéo vai áo trái tôi xuống. Chiếc bớt đỏ tròn như đít bát nằm ngay đầu xương bả vai trái, chiếc bớt đã có bao năm rồi mà tôi không hề biết. Cô đưa tôi đến trước bàn thờ kéo tấm vải che. Trên bàn thờ có ba tấm ảnh, hai người đàn bà và một người đàn ông. Trong hai người đàn bà ấy có một người là mẹ tôi. Nhìn sâu vào tấm ảnh của bà, hình như bà đang khóc, một vệt trắng mờ chảy dài xuống má. Bất giác tôi gào lên: Mẹ ơi. Tôi ngã qụy xuống.

Tôi lao ra ngoài, theo cánh đồng trước mặt cắm đầu chạy. Tôi không biết chạy đi đâu, chỉ biết rằng chạy thật xa, xa thật nhanh sự thật mà cô Hến vừa cho biết. Trên cánh đồng đang chờ đổ ải, những thửa ruộng đất phơi nắng vỡ dưới chân, bàng bạc trắng, bước chân tôi trật truội, xiêu vẹo vô định giữa một khoảng không gian mênh mông... Một toán đánh dậm quây tròn, tru tréo như bầy sói săn vớ được mồi. Chúng dằn tôi xuống triền đê. Tiếng cúc áo đứt, tiếng xé vải áo, tiếng lột quần... Trong ánh sáng nhờ nhờ và tiếng thở đứt quãng, tôi nhận ra có một khuôn mặt đứa trẻ chăn trâu ngày trước chuyên rình, nhìn trộm tôi tắm dưới sông. Có cả mùi máu tanh tanh bọn con trai leo cành bàng ngã rơi xuống sông ngày nào bị gãy tay. Khi tất cả đã mệt nhoài vì no nê, thỏa mãn, chúng hè nhau đứa cầm tay, thằng túm chân ném tôi xuống sông...

Theo dòng chảy tôi trôi xuôi, đôi tay quờ quạng, giật mình nhận ra đang nằm trong mó bỏ mồi cá mà lớp bùn chưa kịp lấp đầy và cứ nằm đó, rất muốn nằm đó thật lâu cho dòng nước xoa dịu nỗi cồn cào như sóng cắn dứt ở trong lòng.
 
6.

Khi tôi tỉnh lại đã thấy nằm trong lòng thuyền, cô Hến đang hì hụi làm gì ở bếp cuối đuôi thuyền. Còn cha, ông ngồi cạnh bậu cửa phía khoang mũi, hai chân buông dưới sạp, tay vê vê điếu thuốc lào, như ngày nào mỗi khi mẹ tôi đi chợ về mua cho ông lạng thuốc, ông quay người lại khen mẹ mua thuốc ngon.

Đêm qua, cha tôi ngồi im phắc, chong chong đèn, thức trắng đêm. Ông nhìn tôi xanh lướt, bấy dậy như cua lột gặp bão. Ngọn đèn chai lù mù hắt bóng ông lên vách cong mui thuyền, chập chờn. Tôi nằm gọn như con mèo vào lòng cô Hến, không còn nước mắt mà khóc nữa. Nhưng cha tôi thì lại khóc, khóc lúc gần sáng. Tôi thấy ông hai lần lén nâng tay áo chùi nước mắt. Những giọt nước mắt hiếm hoi, lần đầu tôi nhìn thấy trên mặt người cha.

Sáng trắng. Cha tôi không đem mồi đi mó đánh chài. Ông rút sào, giọng nói chắc nịch không biết nói với tôi hay với cô Hến:

- Từ nay, nhà ta chuyển thuyền về bến Trầm. Dứt khoát không về đây đậu thuyền nữa.

Có tiếng ai đó gọi phía bờ bên kia, nơi cây bàng già nua có những cái rễ mọc trồi lên làm chỗ buộc trâu:

- Bác chài ơi. Sáng mai có cá để lại cho tôi mấy con nhá.

Tôi nhoài người ra nhìn về phía bên kia bờ, ngước lên cây bàng. Cây bàng đã trút sạch lá, phía đầu chót cành có những chiếc búp nhỏ mầu sâm sẫm nâu. Cây bàng đang vào mùa thay lá mới. Tôi nhìn xuống dòng sông. Trên mặt nước, một vài đám bèo tây trôi lững lờ, thỉnh thoảng lại có vài ba đám rều, rác trôi theo. Những dòng sông cha và tôi đã đi qua có con sông rộng, có đoạn sông hẹp, có lúc nước trong, có mùa nước đục, có nơi nhiều cá, có khúc ít cá. Con sông thưỡn thẹo nằm thườn thườn mệt mỏi, vô hồn. Nếu dòng sông là cuộc đời thì những người làm chài sẽ có hai cuộc đời, một cuộc đời của người và một cuộc đời của sông.

Trong cuộc đời ấy, những căn nhà thuyền, những chiếc máy sùng sục ngày đêm hút bùn, đào bới, khoan khoét, những rều rác phải chăng là vết sẹo năm tháng còn hằn sâu đời sông. Dẫu trong hay đục, dẫu mùa mưa hay mùa khô, dẫu là gì đi chăng nữa thì sông vẫn cứ là sông. Nơi ấy tôi đã sinh ra. Tôi chỉ cần biết thế. Và sông ơi, còn những điều khác nữa, sông hãy giấu giùm tôi sông nhé, những khiếm khuyết tật nguyền của cuộc đời. Đời đã sinh ra cha để cho những dòng sông, còn tôi, sông đã sinh ra để cho những cuộc đời như cha, mẹ và cô Hến.

HẾT
 
Dưới Gốc Liễu
- Quỳnh Dao -
Gốc liễu mọc bên khe suối kia, thân to cả ôm, mành buông dàị Mùa hạ, cây tợ tán dù màu lục, dưới tán, khoảng đất nhỏ được che rợp bóng. Mùa đông, lá vàng rơi rụng phủ đầy mặt đất, cành trơ trọi phất phơ trong mưa bụi bay, dáng vẻ thật buồn bã đìu hiụ Mùa xuân, mầm xanh nhu nhú trên cành, qua thu, sắc lục kia ngả màu vàng úa, lại cũng không có cây nào cảm nhạy thời tiết như cây liễu, biết được hàn ôn ấm lạnh, phân biệt rõ xuân hạ thu đông thế ấỵ Có lẽ, đấy chính là nguyên nhân mà Hà Tiên yêu thích gốc liễu này! Nàng từng nói với Bảo Bội:

- Gốc liễu này có tình cảm, em nói cho anh biết, nó biết khóc, biết cười, biết nói nữa kìạ

Thật vậy, khi mùa đông đến, những mành buông dài kia treo vô số hạt mưa, từng giọt từng giọt rơi xuống, nàng không thể không tin nó đang khóc được chăng? Và sang xuân, từng chiếc lá non mơn mởn nảy mạnh vui mừng đón ánh hồng buổi mai, màu xanh nõn nà, rờn rợn dưới ánh dương chan hòạ Nàng không thể không tin nó đang cười được chăng? Khi hạ tới, cành lá xanh um, một làn gió thoảng qua, càn lá kia khe khẽ lào xào, nàng khép mắt lắng nghe! Nàng không thể không tin cây kia đang nói được chăng? Bảo Bội bảo:

- Em hiểu được cây này, nó là của em đấỵ

Cây này là của nàng ư? Hà Tiên chưa biết, nàng chưa hề biết trên đời này có cái gì là thuộc về của nàng. Song, trong bao nhiêu sớm gió chiều mưa, trong bao nhiêu đêm trăng sáng tỏ, nàng lại có thói quen đến gốc liễu này để thổ lộ tâm tình, nào nỗi buồn đau, nỗi phiền não, nỗi tịch mịch, cũng như niềm vui, cả niềm hy vọng của nàng. Nàng tâm tình thổ lộ ra hết, gốc cây này là sinh vật duy nhất trên cuộc đời, hiểu cặn kẽ mỗi bí mật và những vụn vặt của đáy lòng nàng.

Và bây giờ, nàng lại thẫn thờ ở dưới gốc cây này, đêm đã khuya, ánh trăng mông lung, những vì sao lưa thưa điểm xuyết trong vòm trời đen tốị Nước khe chảy hững hờ, mặt sông phản chiếu lờ mờ ánh saọ Nàng ngồi dựa vào thân cây, mái tóc dài kia thắt thành hai bím, để lòng thòng trước ngực, đôi nhãn châu trần tĩnh kia đăm đắm nhìn mặt sông không chớp động, ánh sao và ánh lệ trong mắt nàng tương ánh phản chiếu trên mặt nước. Nàng ngồi lặng thinh, tư tưởng đắm chìm trong dòng sông ký ức, chầm chậm trôi chảy, trôi chảy, trôi chảy trong ấỵ Thời gian trôi chảy, năm tháng dài trôi chảy, nàng đã trở thành một cô thiếu nữ. Một cô thiếu nữ xinh xinh.

o0o


Tên nàng là Hà Tiên, vì nàng được sanh ra trong mùa hoa sen nở rộ. Mẹ nàng bảo:

- Ồ, một cô bé gái! Mong sao nó đẹp như Hà Hoa Tiên Tử!

Do đó, cha nàng đặt tên nàng là Hà Tiên. Song, sự ra đời của nàng đã mang tới những gì? Nàng còn chưa đủ tháng, mẹ vì sanh non, nên đã chết, cha bồng nàng trong tấm tã lót, mắng mỏ:

- Hà Tiên! con là thứ không may, thật không may!

Nàng lên bốn, cha có kế mẫụ Kế mẫu rất đẹp; người cao ráo, khuôn mặt trái xoan, mi dài, mắt mộng ướt. Bà thường xoi mói ngó Hà Tiên từ đầu đến gót chân. Sau một năm, kế mẫu sanh một đứa em, rồi năm sau lại sanh một đứa em nữạ Nhân khẩu trong gia đình lại tăng; cha nàng làm nghề mộc, bận rộn từ sáng sớm cho đến tối, quần quật hết ngày này sang ngày khác. Lên sáu, nàng cõng em ra bờ sông giặt áo quần, bị sẩy chân, làm té em bị dập dầu, kế mẫu lấy roi đánh, hành phạt nàng những hai tiếng dồng hồ, cha nàng chỉ nàng mắng:

- Hà Tiên! Mày là thứ không may, thật xui xẻo!

Vết thương trên đầu của đứa em đã lành lặn mà dấu roi trên người nàng vẫn còn tím bầm. Có khúc hát xưa còn để lạ, có thể hát ra về tuổi trẻ của nàng:

"Gió đưa lá cải về trời,

Rau răm ở lại chịu đời đắng caỵ

Ba năm sớm tối cùng thầy,

Mẹ dù mất sớm mà ngày cá raụ

theo thầy nào thấy lao đao,

Trọn vui ngày tháng, thỏa bao ý tình.

Hay đâu cô quạnh một mình,

Nên thầy chắp nối người tình thứ haị

Kể từ lúc ấy đến nay,

Ba năm ấm lạnh, tàn phai gót hồng.

Đứa em vừa mới lọt lòng,

Vì chưng chưa mạnh gấp thân con mấy lần?

Em ăn mì bánh ngon lành,

Nước thừa con húp chưa đành nữa ả

Tay bưng chén cháo húp qua,

Mà sao cứ mãi chan hòa lệ rơi!"

Bảy tuổi, bụng kế mẫu lại lớn phình ra nữạ Cha ngồi trên chiếc ghế đẩu trước cửa cau mày, kế mẫu ngồi trên chõng tre bên cạnh lựa đậu nành. Vừa lựa vừa to nhỏ:

- Cái con Hà Tiên tuy số nó không may coi vậy chớ lớn lên không dến nỗi tệ. Ngặt nỗi con gái mà lớn lên rồi cũng là của người khác thôị Lần nọ, nghe cô dâu nhà họ Trương ở đầu thôn nói, trên trấn nọ, nhà họ Phương kia rất giàu có, muốn mua một cô bé gái, chỉ cần bên ngoài gọn ghẽ là được, và nghe đâu họ trả khấm khá lắm! Chỉ sợ họ chẳng vừa ý Hà Tiên đó thôi, chứ không cũng là cái may cho Hà Tiên đấy!

Thế là câu nói ấy đã quyết dịnh số phận của Hà Tiên. Và rồi, trong gió rét căm căm, một buổi chiều nhá nhem mưa bụi lất phất bay, nàng theo cô Trương, sau khi ngồi trên chuyến xe lửa vượt đường dài, đã đến một thôn hoàn toàn xa la, lần đầu tiên nàng bước vô cổng nhà họ Phương.

Nàng còn nhớ mình cặp gói giấy nhật trình nho nhỏ, khép nép và run sợ trong gian phòng khách nhà họ Phương chẳng khác chi một tù phạm đang chờ lãnh án. Người nữ chủ nhà họ Phương (sau này trở thành dưỡng mẫu của nàng, nàng gọi bà ta bằng “má”) với cặp mắt sắc và trong sáng, ngắm kỹ nàng từ trên xuống dưới, từ trước tới saụ Dưỡng mẫu có khuôn mặt hơi dài và đôi mắt sáng, búi tóc đen đong đưa phía sau gáy, mặc áo xường xám và váy màu lam thẫm, có vẻ đoan trang, cởi mở và lanh lẹ. Khoé miệng bà dường như cười mà không phải cười, giọng nói rất rõ ràng, trong trẻo tợ chiếc muỗng đồng nhỏ gõ vào bình pha lê.

- Dáng vẻ này ư? Cũng không đến nỗi nào, ngặt ở chỗ là quá gầy, xem ra không được khỏe cho lắm, tôi muốn đứa khỏe mạnh, rắn rỏi một chút kiạ Bằng không thì ba ngày bệnh hết hai tôi sao chịu nổị

- Bà đừng thấy cháu nó gầy như thế mà lầm, từ nhỏ tới lớn chưa hề biết bệnh là gì. Có phải không Hà Tiên?

Cô Trương ở bên cạnh đẩy mạnh nàng, làm nàng xính vính. Khí trời trở rét, nàng lạnh đến tay chân co quắp, mở miệng thì đã run lập cập, một câu thốt cũng không ra lờị

- Thấy cũng sáng sủa lắm mà, sao không nói đỉ

Bà Phương vẫn nhìn nàng tợ cười mà không phải cười:

- Đầu óc có bệnh hoạn gì không?

- Nào, ngoan đi chớ! Nó còn lạ bà ạ!

Cô Trương lại hẩy nàng một cái nữạ

- Gọi người đi! Hà Tiên, gọi má đi!

Nàng run run mở miệg, khó khăn lắm mới thốt ra:

- Má!

Bà Phương cúi đầu bước lòng vòng trong phòng, còn chưa nói thì cửa phòng bị đẩy, một cậu trai thẳng bước tiến vô, lưng quảy chiếc cặp, mặc quần áo học trò, chợt thấy trong phòng có người, cậu ta bèn khựng bước, cặp mắt mở to ngó láu liêng, lại chăm chú nhìn khuôn mặt Hà Tiên mà lạ lùng ngạc nhiên. Bà Phương cười,đưa tay nắm cậu ấy, bà nói:

- Nay, Bảo Bội, xem kia, con thích đứa em này không? Nếu con thích thì chúng ta giữ lại, sau này sẽ bầu bạn cùng con. (Chú theo tập tục Đài Loan, em nuôi và anh nuôi khi trưởng thành có thể kết thành vợ chồng, tục gọi "bầu bạn"). Con nói đi, con thích hay không thích nàỏ Nói đi! Chúng ta có cần giữ nó lại không? Nói đi chớ Bảo Bội!

Hà Tiên bỗng dưng cúi đầu; tuy nàng chưa hiểu ý nghĩa chữ "bầu bạn" là gì, song lại có nét thẹn thùng tự nhiên khó hiểụ Cúi đầu mà nàng không cách chi kềm hãm sự hiếu kỳ của mình, len lén trộm ngó cậu trai kia qua hàng mi rủ, mắt to trong sáng, mày thẳng đẹp, khuôn mặt thanh tú và lanh lợị Phát hiện cô ta đang ngó mình, cậu há miệng cười hề hề ghẹo, Hà Tiên phải hoảng hồn sụp mi xuống, đầu cúi gầm. Bà Phương còn đang thúc hối hỏi:

- Thích không? Bảo Bộỉ Chớ đứng ù lì ra đó mà cười ngô ngố! Có thích thì má giữ lại cho con, nói đi! Thằng ngốc!

- Ơ ! Con ...con không biết!

Cuối cùng cậu đã thốt ra, theo đó lại cười hề hề với Hà Tiên, đoạn quảy cặp trên lưng dông tuốt.

Bà Phương cười xòạ Kéo tay Hà Tiên, bà bảo:

- Ngoan nhé! Con hãy ở lại đây!

Ấy là lần thứ nhất Hà Tiên gặp Bảo Bội, năm ấy nàng bảy tuổi, cậu ta lên chín.


o0o


Cha mẹ nuôi không có con gái, Bảo Bội là con một duy nhất. Thế nên, Hà Tiên vào nhà họ Phương thành ra cái may mắn cho nàng. Gia cảnh cha mẹ nuôi giàu có, không cần nàng đỡ đần công việc; sau kỳ hè, nàng được đưa đến trường tiểu học Quốc Dân, tiếp tục học hành. Bảo Bội học hơn nàng hai lớp.

Chúng cùng đi học, cùng trở về với nhaụ Bài vở nhà trường, Hà Tiên có điều chi không hiểu, Bảo Bội chỉ dạy cho nàng. Trong trường Bảo Bội đánh lộn với bạn đồng học, Hà Tiên đứng bên cạnh khóc òạ Ngày tháng trôi qua, tình cảm của chúng càng thêm khắng khít, chẳng khác gì anh em ruột thịt. Bảo Bội quí mến đứa em gái bất ngờ này, Hà Tiên thì lại trọng thứ niềm vui chợt đến và sùng bái, tợ chiếc bóng nhỏ quấn quít bên Bảo Bộị Tiếp mấy năm liền, mở đầu câu chuyện với ai Hà Tiên thường bảo:

- Anh Bảo Bội tôi có nóị

Phải, Bảo Bội có nói, ấy là pháp luật! Ấy là chân lý! Ấy là quy tắc mà nàng yên chí nghe theọ Nàng thường ngước khuôn mặt xinh xinh nhìn Bảo Bội với vẻ hâm mộ, thán phục, nghe anh nói, nghe anh ca, nghe anh huýt sáo, ô! Tiếng sáo miệng của anh nghe mà thích thú, say mê chi lạ, trên đời này không ai có thể theo kịp anh hết! Tiếng hát cũng thế, thủ công thì là tay đệ nhất, con diều mà anh làm con ngon gấp mấy đi mua, những hình thú, hình người mà anh nắn bằng đất sét, y như thật, hết sẩỵ Cái gì anh cũng biết, cái gì anh cũng hay, cái gì anh cũng khéo, anh là thượng đế của nàng, là chủ nhân của nàng!

Chín tuổi, nàng theo Bảo Bội đi chơi bên khe suối, gốc liễu bên khe này đã trở thành bạn thân của họ, nhìn họ chơi cút bắt bên khe, trông họ lớn lên từng tí, từng tí. Mùa hè nọ, mặt trời gay gắt, nắng như thiêu như đốt, hai trẻ dang nắng đến mặt đỏ hồng, mồ hôi trên trán nhễ nhạị Bảo Bội ngồi dưới gốc liễu phì phò bảo:

- Nóng quá, anh muống xuống khe bơi cho đã!

- Anh đi đi, em trông chừng áo quần chọ

Hà Tiên nóị Đương nhiên kỹ thuật bơi lội của Bảo Bộicũng là ăn đứt trên đờị

Bảo Bội cởi áo quần và giày vớ, chỉ còn chiếc quần đùi, đi đến bên khe, anh nhảy ùm xuống nước, bơi lặn thỏa thích. Trong nước, anh bơi xuôi bơi ngược, tung tăng tợ một con cá bạc nhỏ. Hà Tiên say sưa nhìn anh, hết sức sùng bái, nể phục, anh lắm tài! Anh lắm dũng cảm! Bảo Bội từ trong nước ngoi đầu lên nói với nàng:

- Nước khe mát, đã quá! Hà Tiên, em cũng xuống đi!

HàTiên có hơi do dự:

- Có điều, em đâu có biết lội!

- Thì anh dạy! Mau xuống đi!

- Có dễ học không?

Hà Tiên hơi nhút nhát có ý ngần ngạị Sợ nỗi gì? Có anh đây!

Chàng trai nhỏ ưỡn ngực, lật người lộn nhào, bắn đi trong nước một cách lẹ làng.

Đúng, sợ nỗi gì? Có anh đây! Có Bảo Bội đây! Sợ nỗi gì? Anh là thần, anh là thượng đế, anh là không gì không thể! Sợ nỗi gì? Anh đang kêu nàng, anh đang ngoắt nàng, anh muốn nàng xuống. Nàng cởi chiếc quần dài, cũng chỉ mặc chiếc quần ngắn, lội tới chỗ nước cạn, nàng réo gọi:

- Bảo Bội, em xuống rồi nè!
 
Đấy chính là nguyên nhân vì sao Hà Tiên ngồi dưới gốc liễu mà sa lệ, nguyên nhân vì sao nhìn dòng suối, nhìn ánh sao trời mà ngẩn ngơ, cuộc đời đã tan vỡ hết rồi, trong bụi cỏ đâu còn đom đóm lập lòe nữa, mà là một mảnh vỡ của giất mộng. Ôi, mộng ấy từng rạng ngời thế nào, mà nay, vỡ tan, vỡ tan trong tay Lamartine! Vỡ tan trong tay Sheley, Byron và Edgar Alan Poe! Ôi, Lamartine đáng chết kia!

Dòng ký ức tuôn chảy, nước mắt Hà Tiên cũng tuôn chảỵ Đứng lên, nàng gục trán trên thân liễụ Lòng nàng khổ sở dường bao, máu nàng bay vọt dường bao, do đó, nàng kêu gào cả chuỗi dài cùng gốc liễu:

- Liễu ơi, người vì sao không nói với em Lamartine là gì ? Sheley là gì? Edgar Alar Poe là gì? Em không hiểu, em không hiểu, em hoàn toàn không hiểu chi cả! Song em hiểu được em yêu chàng, như vậy chưa đủ saỏ Hở liễủ Như vậy chưa đủ saỏ Trong lòng em, trọn lòng, trọn lòng đều yêu chàng, như vậy chưa đủ saỏ Chàng vì sao còn muốn Laartinẻ Sheleỷ Byron? Và Edgar Alan Poẻ Em không hiểu mà! Em có thể vì chàng! Yêu chàng! Yêu chàng! Em có thể vì chàng mà chết, vì chàng mà làm mọi chuyện, ngặt nỗi, em không hiểu Lamartine là gì đó thôi! Liễu ơi, người nói với em, người hãy nói với em, người hãy nói với em đi! Lamartine là gì? Lamartine là gì? Lamartine là gì?

Nàng nức nở khóc, lời nói không thành tiếng. Thân nàng từ bên gốc liễu sụp xuống cỏ. Nàng đưa tay ôm đầu, nghẹn ngào khóc đớn đaụ

Sau đó, bỗng dưng nàng giật ngườị Có ai đó đang quỳ xuống bên cạnh nàng, có đôi vòng tay rắn chắc nào đó đã đỡ nàng ôm nàng vào lòng, người nàng bay bổng, nghe ấm áp làm sao! Nàng hốt hoảng mở bàn tay úp trên khuôn mặt ra; trố đôi mắt ràn rụa lệ nhòa, nàng bắt gặp đôi mắt Bảo Bội chứa chan thâm tình, ngập ngừng, khổ sở và ngập đầy lệ. Nàng bật reo:

- Bảo Bội!

- Ồ, Hà Tiên! Bảo Bội gọi mà đau lòng. - Hà Tiên đáng thương của anh, đáng thương, đáng thương biết bao! Gốc liễu không thể trả lời vấn đề của em được, song anh có thể! Có điều, trước hết em tha thứ cho anh nhé! Tha thứ cho anh cái đầu óc nông nổi chạy theo hư vinh của anh nhé! Tha thứ cho anh, Hà Tiên!

Nhìn Bảo Bội mà Hà Tiên không dám tin, nàng đưa tay lêân vuốt gương mặt Bảo Bội, và rồi nàng khẽ thở dài:

- Em mơ một giấc mơ đáng yêu, liễu ơi! Em mơ được chàng ôm em.

Chàng chăm chú nhìn nàng, sau đó, bỗng chàng cuối xuống hôn lên chiếc môi xinh xinh ấy, chàng hôn nàng đắm đuối, hôn nàng tha thiết, nước mắt chàng rớt bên môi nàng.

- Ôi! Nàng đã có cảm giác thực tạị Có thực là anh đó chăng ? Bảo Bộị

- Đương nhiên là anh, Hà Tiên, anh tới tìm em đâỵ

- Nhưng ... nhưng ...nhưng, nàng ngập ngừng. Cái cô nàng biết được Lamartine đâủ

- Nàng ta đi rồi, đã trở về Đài Bắc.

- Vì saỏ

- Vì sao ư? Không vì sao hết.

Chàng nhún vai:

- Khi em không ra ăn cơm chiều, khi má nói với anh em ngả bệnh suốt ngày, anh đã hiểu ra hết. Anh bảo nàng là, Lamartine để mất Graziela, còn tôi, tôi không thể để mất Graziela của tôi được, cô về đi thôị

Hà Tiên trố mắt hồn nhiên:

- Em chẳng hiểu anh nói chi cả.

- Em cũng không cần phải hiểu làm chị

Chàng nói rồi lại hôn nàng, hôn nàng một cách trìu mến, hôn nàng đắm đuối triền miên.

- Theo như em nói, giữa chúng mình có tình yêu thế là đủ rồi! Vậy thì, mặc cho Lamartine là gì? Byron là gì? Sheley là gì? Và Edgar Alan Poe là gì chăng nữả

- Nhưng ...

Nàng nói một cách đáng thương làm sao:

- Rốt lại Lamartine là ý gì nhỉ?

- Là ... Chàng đắm đuối nhìn nàng. - Là ý "Anh yêu em".

- Còn Byron, Sheley, Edgar Alan Poẻ

Chàng trầm ngâm giây lát:

- Một thứ, đều một thứ hết. Toàn là ý "anh yêu em" cả.

Chàng nói rồi lại tiếp tục hôn nàng.

Do đó, ánh sao rạng ngờị Do đó, bóng nguyệt tràn lan. Do đó, gió đêm tấu nhạc. Do đó nước khe suối ca ngâm. Do đó, gốc liễu cười hỉ hả.


HẾT
 
Mây giăng
Võ Thị Xuân Hà



Tôi không chờ đợi chuyến đi này.

Đầu năm đi xem bói, bà bói cụt một chân nhà ở cạnh bệnh viện Thanh Nhàn phán năm nay cô không có số xuất ngoại. Chuyện tình duyên của cô cũng khác người thật đấy cậu ta rất tốt tôi không chê gì mỗi tội suốt đời không có tiền hiện giờ đang nợ chồng chất mách riêng cho cô đấy là tôi trộm xem số người ta để cho cô biết hở ra thánh phạt chết hiện thời cậu ấy đang quý trọng cô nhưng có một cô gái khác trẻ đẹp hơn cô đang xen vào đây bài tú này hiện lên rất rõ tháng mười ta của cô may ra tốt cả năm không tốt lắm cuối năm tiền về như nước tiền ở đâu về mà nhiều thế không biết nếu thích cậu ta cưới cứ đến đây tôi mách cho chỗ đi mà làm lễ đấy tôi với anh nhà tôi cũng phải làm lễ tôi mới lấy được chồng trẻ hơn mình đến tám tuổi lại chiều hết ý nhé tôi cụt chân thế này mà anh ấy cứ cúc cung tận tuỵ mỗi tội chả làm ra tiền tay tôi nuôi hết tôi sắm cho một quầy sửa di động ngồi đấy cả ngày hí hoáy rồi đi uống bia rồi về nhà chẳng gái mú gì đâu gái gì cũng chẳng bằng gái già này gái gì cũng chỉ làm một bãi là xong tội gì mất tiền.

Tôi chờ bà nói xong bài diễn văn diễm tình thì đút tờ mười ngàn đồng vào tay bà rồi đứng dậy, chen giữa mấy bà mấy chị dang dở, mấy cô có vẻ như cave, xỏ dép rồi băng sang đường.

***

Vậy mà bây giờ tôi lại đang bay sang Seoul.

Máy bay bắt đầu lướt trên đường băng Nội Bài rồi cất cánh lúc một giờ sáng. Ngồi cạnh cửa sổ nhưng chỉ thấy một màu đen huyền bí bên ngoài. Cô gái ngồi cạnh tôi than, lần đầu tiên em đi máy bay đấy chị ạ, em thấy say say rồi. Tôi bảo cô cách bịt tai cho khỏi ù. Cô lôi gói bông ra khoe, đây em có cái này. Tôi hỏi cô đi Hàn Quốc làm gì. Cô bảo em đi sang Nga, chỉ chờ ở Seoul rồi chuyển máy bay. Em có bà dì bên đó làm giấy mời đi du lịch sáu tháng, em sang nếu có công việc bán hàng thuận lợi, kiếm được mỗi tháng bốn năm triệu thì sẽ làm giấy gia hạn để ở lại kiếm ít vốn về lấy chồng. Tôi hỏi nhà cô ở đâu. Cô khoe em ở Côn Sơn Hải Dương đấy. Mùa này đang mùa du lịch, mọi người tứ phương kéo về đông lắm, cứ nườm nượp. Họ mới tu sửa lại cụm di tích đền Nguyễn Trãi, đẹp lắm. Ôi em lo quá, đến Seoul không biết chuyển máy bay như thế nào, trên vé ghi đến tận mười lăm giờ mới bay tiếp. Tôi bảo sẽ chỉ cho cô một nhóm người cũng đi Nga trên chuyến bay này. Họ ngồi mấy người ở ghế dưới. Có cả một bà đi thăm con. Cô có vẻ yên tâm hơn.

Cô và tôi cùng cố ăn bằng hết suất ăn nhà bay đãi.

***

Trời dần sáng. Thứ ánh sáng trên thiên đường. Mây giăng mờ mờ qua ô cửa kính. Đủ thấy những làng mạc thành phố phía dưới mặt đất. Phía dưới kia cũng là những con người những nếp nhà và những số phận.

Tiếng cô gái trôi giữa đám mây màu tro rừng.

"Đôi khi em nghĩ thôi cứ chấp nhận một cuộc sống như mấy đứa bạn ở quê. Ruộng vườn Côn Sơn rộng thênh. Thả cây gì sống cây đó. Đến mùa thu hoạch đôi ba bầu bưởi, đôi ba bầu vải, nhãn, na, khế mang ra chợ phiên cũng đủ đem về gạo, muối, quần áo vải vóc... Em lại còn thêm nghề may. Cũng biết cách may theo mốt ở quê nên có khá khách. Nhưng mà tẻ quá. Sáng nào mở mắt ra cũng thấy ngần ấy thứ quê, ngần ấy gốc bưởi ngần ấy gốc na ngần ấy thửa ruộng, lúa ngần ấy phân gio chăm bón. Bạn ngần ấy đứa nói ngần ấy thứ chuyện...".

Cô khẽ ngáp. Đôi tay đen đen của "ngần ấy thứ quê" vươn ra phía cửa sổ máy bay như thể đó là cánh cửa sổ ở căn nhà thân thuộc, có thể mở ra để mây và gió ào vào.

- Mây mù quá chị nhỉ. Chẳng nhìn thấy gì.

Máy bay hơi xóc mấy cái. Tôi bảo:

- Ừ, mây nhiều quá.

Cô gái lại vui chuyện. Tiếng cô nói vang giữa đám người ngủ vùi trên những khoang ghế:

- Thế rồi bà dì em gọi điện về bảo sang bán hàng với dì. Chỉ sang độ hai năm kiếm chút vốn. Nhưng em không thể nói với dì em là em chỉ muốn đi cho biết đây biết đó. Nói thế dì sẽ bảo em là đồ nhân mã. Đối với dì, chỉ có kiếm tiền là công việc có ý nghĩa. Chuyện muốn biết đây biết đó là thứ phù phiếm không xứng với gái quê...

Đến lượt tôi che tay ngáp.

Mây bọc kín bên ngoài cửa máy bay. Tôi nhớ khi ở cửa búc vé, tôi thì loay hoay với đống vali túi xách, sắp xếp lọc lại những thứ quá cân để mang theo hành lý xách tay, còn cô thì ngất ngưởng một cái va li đang chen ngang vào. Tôi nhắc cô đừng chen ngang kẻo bị họ đuổi xuống tận cuối hàng. Cô bấm vào vai tôi cúi xuống thì thào: "Không phải em chen ngang đâu. Em mới cho con làm vé - cân hàng năm trăm ngàn. Nó trả lại bảo không bõ nhận. Em lại dúi tờ năm mươi đô nên nó nháy em chen lên đấy chị ạ. Chị đừng nói ra đấy nhé. Nom chị trí thức thế, em nói cho mà biết mà đi qua cái cửa này. Chị không thấy nó lơ đi khi em chen lên à? Mà chị có đọc được cái tên của nó không? Bảng tên cũng đeo trước ngực đấy, nhưng cái sợi dây làm dài ra buông thõng xuống gần rốn, ai mà đọc được biết được nó tên là gì? Chị đừng tiếc tiền, để nó cho đi qua. Ra ngoài thiếu các thứ dùng khổ lắm, dì em dặn cẩn thận em mới biết đấy".

Quả thực phải cảm ơn bà dì ở tận nước Nga xa xôi kia. Tôi kẹp đồng năm mươi đôla Mỹ vào tấm vé, nó lập tức trở thành tấm thảm bay diệu kỳ cõng tôi và hành lý quá tải (gồm laptop, sách báo, tiểu thuyết quà tặng ngoại giao, áo quần tránh rét xứ Hàn, chín mươi gói mì tôm và phở khô ăn liền, hàng chục lọ kem mặt, tóc, tay, tăm, thuốc...) sang cho có dùng tại đất nước của chàng thần y HơJun. Bây giờ thì chúng tôi đã bay được hơn ba tiếng. Rồi bốn tiếng. Câu chuyện đi cho biết đây biết đó của cô gái ngồi cạnh tôi cũng chừng tắt. Cô đang mớ ngủ. Mùi đồng quê ngai ngái trộn với mùi thức ăn trong khoang máy bay khiến tôi nôn nao nhớ nhà.

Tôi nhớ hai đứa con gái tôi. Nhớ căn nhà bình dị có anh ở đó.

***

Cô gái lại thủ thỉ.

"Chị có vẻ là người sung sướng nhỉ. Em lúc nào cũng ngưỡng mộ những người như chị. Đàn ông chắc cũng thế. Chắc chị không bao giờ bị họ hắt đi như chúng em. Năm ngoái em cũng yêu một người ở Hà Nội. Anh ấy về Côn Sơn để khảo sát chương trình làm làng văn hoá chị ạ...".

***

Chuyện tình của cô gái:

Trước khi gặp anh ấy, em đã thất tiết với lão Khai rồi.

Lão Khai giàu nhất nhì vùng Côn Sơn Kiếp Bạc. Em là thợ may vườn. Em cũng chẳng phải đứa xinh xắn gì. Chẳng nói thì chị cũng thấy. Nhưng em khoẻ mạnh và dĩ nhiên trẻ hơn mấy con bồ của lão ấy. Nghe nói lão ấy rất hào phóng. Em liền thử.

Lúc đó có cái cuốn truyện "Bandắc và cô thợ may Trung Hoa", em mượn được ở nhà con bạn. Em liền bắt chước cái khí thế của cô gái trong truyện í mang thước đo đến cửa nhà lão Khai. Em gọi:

- Nghe nói trong nhà có người cần may đo?

Một bà nạ dòng - chắc là người giúp việc - chạy ra, mặt mũi vênh váo:

- Hỏi gì?

Sau bà ta, một lũ chó bẹcgiê chầu chực gầm gừ, chỉ đợi hô là lao ra.

Hôm ấy mát trời, lão Khai có vẻ đang vui trong lòng, nghe thấy chộn rộn bên ngoài thì bước ra sân sảnh:

- Chuyện gì vậy?

Bà nạ dòng thưa:

- Một con khùng đến ám ạ.
 
Lão cười. Đưa mắt nhìn chằm chằm vào ngực em. Vòng một của em chín mươi. Vòng hai gần bảy mươi. Vòng ba chín hai. Cao mét năm chín, tóc đen mượt. Cho lão nhìn. Cứ thế phải đến một phút. Rồi em bảo:

- Nghe nói nhà cần người may đo.

Lão hỏi:

- Mày nặng bao nhiêu cân?

Em bảo:

- Năm mươi.

Lão vẫy tay:

- Tao cũng đang thiếu mấy bộ quần áo đi dự lễ hội trên trung ương. Mấy ông trên Hà Nội mời tháng tới.

Em bước vào sảnh nhà. Bà giúp việc bĩu môi:

- Cave thời nào thế không biết? May mà bà chủ đi vắng. Bà ấy mà ở nhà hôm nay thì cứ gọi là móc mắt cả hai.

Em lấy thước ra đo. Người lão Khai toát ra toàn mùi tiền. Lão dùng loại nước hoa đàn ông nào đó em không biết nhưng nó cứ lởn vởn quanh em, thấm đẫm lên từng ngón tay em đang sờ soạng trên mình lão. Rồi lão bùng lên như Hoả Diệm Sơn. Gầm gừ như một con hổ vồ mồi. Em cố tình trượt khỏi tay lão để lão phải thèm rỏ rãi. Thế rồi em và lão trôi lửng lơ giữa những tấm nệm đắt tiền, giống như đang bay giữa vực sâu chín tầng địa ngục.

Nếu trên đời này không có cái thứ gọi là tình yêu thì kể em cũng mãn nguyện với lão già hơn mình hàng bốn chục tuổi. Sức lực lão còn hơn một con trâu cày. Lão cho em rất nhiều tiền, nhưng mỗi khi nghĩ đến chuyện lão phải thực hiện nghĩa vụ làm chồng với con mụ vợ già nua hom hem của lão là em lại thấy lợm giọng.

Em định đi từ năm ngoái cơ. Nhưng mà em lại gặp anh ấy.

Cũng là do anh ấy đến vá cái quần ở chỗ em.

Chị không biết chứ hình như cũng là do số phận thế nào ấy. Em vừa cầm cái quần của anh ấy là lập tức thấy chóng mặt vì cái hơi đàn ông. Em nhận vá quần và hẹn anh ấy qua buổi chiều. Nghĩa là từ lúc hai giờ chiều đến sáng hôm sau, em sống trong cơn mộng du.

Cái quần của anh ấy bị rách một miếng ở đùi do ngã xe máy. Mà cái quần còn mới nên anh ấy tiếc.
Chỉ có thế thôi.

Anh ấy đến lấy quần. Em tần ngần mãi mới dám hỏi thăm một câu:

- Anh về đây có việc ạ?

Anh ấy cười:

- Tôi về khảo sát để lên dự án làm làng văn hoá.

Em đánh liều:

- Anh có thích cuốn truyện "Bandắc và cô thợ may Trung Hoa" không?

Anh ấy ngạc nhiên:

- Chắc bạn làm may như thế này chỉ là làm thêm nhỉ? Bạn là cô giáo dạy văn à?

Em thấy ngượng thay cho thân phận mình, không ra lắc không ra gật.

Rồi sau anh ấy toàn gọi em là cô giáo dạy văn xóm.

Em và anh ấy yêu nhau. Đúng hơn là em yêu anh ấy và cố tìm mọi cách để được gần gũi. Còn anh ấy ban đầu có yêu em hay không thì em không dám chắc. Mà cũng có thể anh ấy chỉ định vui vẻ với em ở chốn quê buồn tẻ. Hình như anh ấy đã có người yêu ở Hà Nội.

Nhưng em quyết giành giật cho mình dù chỉ trong một thời khắc ngắn ngủi để được biết thế nào là tình yêu của chính mình. Mà cũng chỉ được có một thời khắc thôi là anh ấy đã chạy trốn khỏi em.

Anh ấy viện cớ rằng em đã không còn trinh, gái quê mà không còn trinh thì khủng khiếp lắm, giả dối lắm, cô có biết không? Cave trên thành phố rặt những loại gái quê như cô, tôi còn lạ gì. Chỉ mấy đồng, tôi có thể qua ba đêm với một tá gái quê như cô.

Em tiếc là đã không có thai với anh ấy. Nếu có chắc em không thể ra đi như thế này được.

Em là con bé nhà quê. Nhưng những chuyện như "Bandắc và cô thợ may Trung Hoa" đã mở ra cho em những chân trời khác. Thôi thì đi một chuyến. Biết đâu tình yêu của em vẫn đang còn ở đâu đó. Không phải lão Khai. Không phải anh ấy.

Nhưng lão Khai với anh ấy là những con đường đưa lối cho gái quê chúng em. Mà hình như nhờ có lão Khai nên em mới biết đến tận cùng anh ấy. Giả sử em vẫn là một gái trinh, em sẽ không dám thử cơ hội được sờ nắm thực thể trần trụi và linh thiêng nơi anh ấy. Hình như người này dẫn dắt đường đến của người kia. Hình như thế phải không chị? Đến giờ em vẫn thấy thèm khát anh ấy. Vẫn như phảng phất cái mùi đàn ông trên cái quần bị rách vì ngã xe. Vẫn nhớ những đêm cả hai không còn ý niệm thời gian. Những đêm qua đêm cùng người đàn ông không được trả dù chỉ một xu...

***

Mây vẫn nhiều lắm trên bầu trời.

Máy bay bắt đầu hạ độ cao. Dưới kia có một dòng sông ngoằn ngoèo chảy. Hai bên bờ sông là những làng những phố, những nếp nhà. Đâu đó có những cô gái đồng trinh đã tự mình thất tiết. Đâu đó lại có những cô gái buộc thân phận mình vào hai chữ đồng trinh để rồi không bao giờ dám bước chân vào chốn địa đàng.

Cô gái ngồi cạnh tôi không có hơi thở thơm tho, không có tiền, không có gì hết. Cô chỉ có ý nghĩ.

Những ý nghĩ sống động của cô khiến cho người bên cạnh như bị cuốn theo. Những ý nghĩ như không thể ghìm giữ, tràn ra ngoài khoang cửa máy bay, hoà lẫn với những đám mây tầng tầng lớp lớp, làm nên ánh ngũ sắc của buổi ban mai.

***

7 giờ sáng Seoul.

Máy bay bắt đầu lướt trên đường băng sân bay quốc tế Hàn Quốc.

Từ cửa máy bay đi vào sảnh sân bay rất dài. Đi mãi. Con đường dài như vô tận. Chúng tôi không còn gặp lại nhau nữa. Cô gái ngồi cạnh tôi đã mất hút giữa dòng người đang ùn ùn kéo sang Nga và các nước nào đó có thể.

Cô hải quan Hàn còn rất trẻ và khá xinh ngẩng lên nhìn tôi, hỏi bằng thứ tiếng Việt lơ lớ Hà Nội:

- Chị là tác giả à?

- Vâng, tôi là nhà văn!

- Chị đi theo chương trình gì?

- Chương trình giao lưu văn hoá. Mà em nói tiếng Việt giỏi quá.

Cô cười. Thực hiện tiếp nhiệm vụ một cách tế nhị:

- Chị đến Hàn Quốc lần đầu à?

- Đúng rồi! Đất nước của em đẹp lắm!

Cô lại cười. Cộp một cái dấu đồng ý cho nhập cảnh.

Tôi cảm ơn và mỉm cười với cô.

Đó là nụ cười đầu tiên tôi dành cho đất nước Hàn Quốc, nơi cách xa Việt Nam chừng bốn tiếng rưỡi giờ bay, và đi trước Việt Nam hai giờ lịch mặt trời.

Vậy mà bà bói cụt chân nhà ở gần bệnh viện Thanh Nhàn phán năm nay tôi không có số xuất ngoại!


H Ế T
 
---Những cái tên ---

-Em tên gì ?
Thầy xuống chỗ từng đưá hỏi . 56 tuổi, nhỏ hơn cả ba tôi nhưng tóc thầy đã bạc trắng nưả đầu . Những vết nhăn trên mặt thầy - ( bọn chúng tôi thường gọi chúng là những con hẻm cuộc đời ) - lộ rõ khi ông cố rướn mày nhìn qua cặp kiếng dày -( như cái đít chai bia Heniken - dân ăn nhâụ xóm bàn dưới cùng thường nói thế ) - bao quát cả lớp .

- Trung Hiếu
- Hay lắm ! Ông cười khà khà , vỗ vai thằng nhỏ
- Thầy hy vọng bố mẹ em sẽ hài lòng về em nhiều .
- Nó họ Dương đó thầy ơi ! -cả bọn nháo nhào - Cùng họ với họ Dê ! - cả lớp cười rần rần
- Dương Đức Trung Hiếu ! tên hay vậy mà !
Thằng Hiếu gân cổ lên cãi, rồi nó bẽn lẽn nói
- Dương cho nó oai, có đứa nào như tao chưa ??
Thầy tặc lưỡi
-Đúng là bọn nhóc ranh .

- Còn em ? Thầy quay qua hỏi Thiện
-Thiện, Quang Thiện , thưa thầy
Thiện với cái đầu "ix men nì" (mà tôi hay thường gọi là "cái đít vịt ") thong thả trả lời .
- Thiện thì ít, ác thì nhiều, do vậy em là thuộc loại quý hiếm . Thiện nói gọn lỏn khi thầy đang suy nghĩ nên khen gì nó .
Thầy mỉm cười , gật đầu .

-Em tên Lệ Thuỷ
-Chà chà , nước mắt cuộc đời đây ! Cái tròng kính cuả ông lại nhướn lên lần nữa, mắt ông nhìn nó chăm chú . Mặt ông thoáng hiện chút gì đó xa xăm ...
- Mấy anh chàng lớp bên kia đêm nào cũng khóc vì nó đó . Con Nhung ngồi cạnh bên khoe .
Cả lớp khúc khích nháy nhau trề môi ..

-Mai nó mới thành người !
Cả lớp đồng thanh nói to khi thầy vưà rà cái đít chai 6 dps vào bệ phóng cuả Nhân . Nó quen rồi, không còn mắc cở như mới vào lớp 1 nưã
- Mai Thành Nhân ạ !
-Cố gắng , cố gắng hơn nưã ...ông gật gù ...


- Em ? Thầy chỉ vào mặt tôi
-Thầy biết rồi mà còn hỏi em .
-Cứ cho là thầy quên đi, mà cũng già rồi mà , hay đãng trí lắm .
Thầy chép miệng , bắt chước cái chép miệng cuả tôi .

Đó là cái lần tôi nói thầy giải sai bài toán , tôi ra nghiệm rõ ràng, rành rành, thế mà thầy bảo nó vô nghiệm . Tôi một mực không nghĩ mình là sai .
- Cứ cho là thầy đúng đi, chắc em già rồi, đãng trí ...Tôi bực mình chép miệng khi bài kiểm tra được 4 điểm .
- Em xin lỗi, hình như là thầy đúng, em sai . Sau một đêm thở than , tôi mới nhận ra mình thiếu điều kiện .

-Phương , thưa thầy
-Cái gì Phương ?
-Dạ - tôi ngập ngừng - Duy Phương !
-Nghe giống con trai quá nhỉ !
-Đâu có thầy, tên đầy đủ có chữ Ngọc nữa . Đỗ Ngọc Duy Phương . Ba em nói chỉ có 1 cách trở nên hoàn thiện là phải tự duã mình thì mới trở thành ngọc được . Đó là ý nghiã mà thầy .
-Thầy chúc em thành công trong cuộc sống .. dũa mình trước đi nhé !

.........

**

Tôi vẫn nhìn được qua cái cặp mắt kính dày cui ấy tâm hồn của một thầy giáo già , ông đã trải qua hơn 2/3 cuộc đời của mình cho nghề giáo,kinh nghiệm cho ông bíết mỗi cái tên luôn gắn với ý nghiã cuộc sống của mỗi cá nhân , ... cái tên, cái tên ...

Mấy năm sau ra trường, hình như tôi đã quên mất cái buổi học cuối cùng ấy ...

Mẹ Hiếu mất trong tai nạn xe, bọn cướp giựt cái giỏ trong đó chỉ vỏn vẹn 50.000 . Năm chục ngàn - một mạng người, cái giá có lẽ là quá "đắt" .
Bố Hiếu thì nhậu xỉn suốt ngày, đánh đập chị em nó . Và ông cũng sắp bỏ nó vì xơ gan cổ chướng giai đoạn cuối .
Mỗi lần gặp Hiếu vẫn thấy nó vui vẻ
-Tao sung sướng hơn tụi bay nhiều, khỏi phải phụng dưỡng ông bà già .
Hiếu cười, trong giọng cười ấy lẫn cả vị chua chát ...

Thằng THiện đang ngồi trong tù, chúng tôi không biết nó còn bóc bao nhiêu lớp lịch nưã thì mới được thả ra . Trong 1 lần nhậu say, mà cũng chắc là say thuốc , nó cầm dao đâm ngay thằng bạn vì cái tội mỉa mai nó . Sáng hôm sau, người ta thấy xác thằng bạn trong phòng vệ sinh , còn Thiện thì bỏ trốn ........
Ừ, thì đúng là bây giờ nó là người "duy nhất" cô đơn rồi ......

Nhân nghiện hút , người nó đờ đẫn như thằng khùng . Mỗi lần sốc thuốc giống như những con quỷ dữ khát máu, nó sẵn sàng làm bất kì điều gì ...........

Chỉ tội nhất con Thủy " đít đỏ " , bây giờ muốn thì chúng tôi cũng không gặp được nó nưã . Viêm cầu thận , căn bệnh của những nhà "quí xờ tộc" mang nó đi cùng với nước mắt cuả thầy, cuả chúng tôi .. .." nước mắt cuộc đời" đó phải không thầy ........

**

Còn tôi, đang đứng giữa cuộc đời với nhiều cám dỗ , duã mình thế nào đây để trở thành ngọc trong cát ? Cuộc sống có biết bao lựa chọn, có biết bao con đường .
Duy Phương ! Chỉ có một con đường mà tôi phải chọn , chọn thế nào đây ???
 
Người ăn gió



TTCT - Ăn gió? Và cuối cùng, gió là thức ăn duy nhất mà tôi có thể ăn được sau chứng bệnh quái ác kia. Tôi không còn có thể chạm đũa vào cơm, canh, cá, thịt... chứ đừng nói gì đưa chúng vào miệng. Toàn bộ cơ thể của tôi từ lâu rồi dị ứng với các thứ ấy.

Ban đầu tôi thử ăn trái cây. Chỉ được vài ngày thôi. Rồi thì cả hoa quả cũng làm tôi lợm giọng.

Nghĩ người ăn gió... --- Nguyễn Du---

Một đêm kia, trên sân thượng của một trà quán, tôi bất ngờ khám phá ra mình ăn được gió. Một miếng gió bỗng dưng bay nhẹ vào miệng tôi, chạm vào đầu lưỡi và trong đó có lẫn chút hương cà phê.

Lập tức vị giác tôi thức tỉnh và rung động ngây ngất. Miếng gió tan dần trên lưỡi tôi như một loại kem tuyết tuyệt hảo. Khi nó tan hết rồi tôi vẫn còn nhấm nháp cái dư vị phi thường của nó, cái dư vị pha chút hương hoa quỳnh nở gần đấy, trong cái góc lặng lẽ mà tôi đang ngồi.

Cứ thế, tôi chờ gió. Dần dà tôi quen cách đón rước miếng gió nào bay gần, dùng lòng bàn tay hất nhẹ nó vào miệng mình.

Đêm đó tôi ăn một tiệc gió ngon lành. Sau một tháng đói lả, tôi bỗng tươi tỉnh hẳn lên, lấy lại khí sắc xưa. Khi đã no nê, tôi kết thúc cuộc ăn trả bữa bằng một chén trà có vị quế.

Nhưng thức ăn gió ở thành phố lớn này nhanh chóng làm tôi chán. Vì nó không tinh khiết.

Trước ngày ra đi tôi đem Kinh Dịch ra bói. Được quẻ Di

Di (Nuôi nấng): Bói được quẻ này rất tốt, nhận ra cái đạo dinh dưỡng, tự nhờ bản thân mà kiếm cái ăn.

Trời đất sáng tạo, nuôi nấng muôn loài. Nuôi thể chất và nuôi tinh thần. Tự nuôi mình và nuôi tha nhân.

Lời Tượng: Dưới núi có sấm là hình tượng quẻ Di, quân tử thận trọng lời nói và ăn uống tiết độ.

---Kinh Dich--


Thế là tôi ra đi, chọn bờ biển H. làm nơi đổi gió.

Khách sạn mà tôi ở kiến trúc theo một dáng thuyền xưa, có vị trí tuyệt hay. Một bên là bờ biển và một bên là sông. Là nơi con sông đang đến gặp biển. Như vậy, thức ăn của tôi sẽ là gió biển lẫn gió sông.

Khỏi phải nói, chưa bao giờ tôi sung sướng như thế này. Ôi những miếng gió mằn mặn và mát lạnh của đêm nhiệt đới. Gió ở đây nuôi tôi thể chất lẫn tinh thần.

Sau khi no nê giữa trời nước, tôi trở về phòng. Một người phục vụ hỏi tôi đêm nay có cần xoa bóp không. Cô ấy rất đẹp, anh ta nói, và xoa bóp rất khéo. Chỉ xoa bóp thôi. Nhưng cô ấy sẽ hoàn toàn khỏa thân. Có điều quí khách tuyệt đối không được đụng chạm vào mình cô ấy. Nếu cần chuyện kia, anh ta nói rõ, thì sẽ có cô khác thôi. Nhưng dẫu sao đi nữa, không có gì so sánh được với cô ấy, anh ta quả quyết với tôi.

- Thật không? Anh nói như thể cô ấy là một báu vật!

- Thật mà!

Có gì thật hay giả về một cô gái xoa bóp miền biển? Mà tôi thì đang mỏi nhừ sau chuyến hành trình cũng là xa xôi của ngày hôm nay.

Thú vị đấy, tôi nghĩ. Và bảo anh ta gọi “cô ấy” lên.

- Nhưng xin ông đừng hỏi tên cô ấy.

- Tại sao?

- Cô ấy luôn luôn vô danh.

Được, tôi đồng ý với anh ta. Từ sáng đến giờ tôi chỉ gặp những người vô danh, những đóa hoa vô danh, những vì sao vô danh, những áng mây vô danh. Và cát bụi vô danh.

Người phục vụ không nói ngoa. Khi cô gái bước vào, tôi cảm nhận lập tức cái đẹp vô danh này cũng là một ngọn gió vô danh.

Cô gái bảo tôi nằm sấp trên giường. Giọng cô nhỏ nhẹ nhưng tôi cũng làm theo lời cô. Và tôi nghe cô trút bỏ quần áo.

Người trên núi Cô Xạ xa xôi da dẻ trắng trong như băng tuyết, dáng dấp mềm mại như gái trinh.

Họ không dùng ngũ cốc, chỉ ăn gió uống sương mà sống.

----Trang Tử -----



Cô gái quì bên mình tôi, bắt đầu xoa bóp vai tôi. Thỉnh thoảng tôi tìm cách ngắm nhìn vóc thân thanh tú và óng ánh của cô.

Nhưng rồi tôi nhận ra chính là cách nói chuyện của cô mới đặc biệt quyến rũ.

- Làn da anh mềm mại như gái trinh. Em biết anh đã không nếm những thức ăn thông thường từ lâu.

Tôi ngạc nhiên. Ăn gió, dẫu sao đi nữa, vẫn còn là bí mật của tôi.

- Làm sao em biết?

Cô thản nhiên đáp:

- Em tiếp xúc với nhiều người như anh.

- Họ cũng ăn gió ư?

- À, thì ra anh là người ăn gió.

- Em là người đầu tiên biết được bí mật này.

- Ăn gió uống sương mà sống không phải là một bí mật.

- Tên em có phải là một bí mật không?

- Không. Em là vô danh, cô gái vô danh.

- Anh ăn gió. Vậy thì em còn biết những ai cũng ăn gió như anh?

- Không, những người đàn ông mà em biết không có ai ăn gió. Có lẽ anh là độc nhất.

- Vậy thì họ ăn gì?

- Có người ăn chữ.

- Chữ ư?

- Chữ trong sách. Các dòng chữ biến mất khi ông ta nâng sách lên miệng. Các trang sách lần lượt bị ăn mất chữ, chỉ còn lại giấy trắng như chưa bao giờ in.

- Ăn xong, ông ta thế nào?

- Ông ta nói. Nói huyên thuyên. Em còn nhớ câu này: “Khởi đầu là chữ và kết thúc cũng là chữ. Ta là nhà tiên tri cuối cùng”. Nhớ vậy thôi, chứ em có hiểu gì đâu.

- Em là vô danh thì cần gì hiểu chứ. Thiên nhiên là vô danh. Ngoài chữ, còn gì nữa?

- Người khác à? Em biết người ăn cái bóng của mình.

- Cái bóng nào?

- Cái bóng trong gương. Đó là một anh thanh niên gầy gò. Hễ đói là anh ta đến trước gương mà đứng. Rồi bẻ từng miếng bóng của mình trong gương mà ăn. Ăn ngon lành. Em không bao giờ thấy anh ta cười, dù chỉ là mỉm miệng, dù trước gương hay không. Làn da anh ta rất nhợt nhạt.

- Anh ta giống một người sắp tự tử, phải không?

- Em đoán thế. Sao mà biết được? Nhưng em sợ nhất là người ăn lửa. Đó là một nhân vật bí ẩn, gương mặt lạnh như băng. Ông ta có một cái bật lửa màu máu, và khi đói ông ta nuốt hết mảnh lửa này đến mảnh lửa khác. Khi em xoa bóp, đôi bàn tay em gần như bị bỏng vì làn da ông ta nóng ran, nóng khủng khiếp! May mà ông ta cũng biến mất nhanh như khi xuất hiện.

- Và không gặp lại?

- Em chỉ mong thế. Làn da anh thì khác hẳn. Mỏng như giấy, hơi buồn và nhạy cảm.

- Hơi buồn? Làn da mà cũng buồn ư?

Và khi cô gái trả lời, tôi hiểu rằng đối với cô, mỗi làn da đều có sắc thái tình cảm và ngôn ngữ riêng: vui, buồn, giận, thương, ghét, nồng nàn, dửng dưng, mơ mộng... và cả điên rồ nữa.

Sau khi cô gái rời phòng, tôi chợt có ý định đi dạo trên bờ biển.

***

Và tôi biết mình đã chọn đúng thời điểm để dạo chơi.

Trăng.

Trăng bắt đầu lên trong rặng phi lao. Những cành lá nhỏ rung động trong gió, dù vậy vẫn kết được một chiếc tổ huyền bí.

Và loài chim vạn dặm của đêm đã đẻ vào đó quả trứng óng ánh hào quang.

Trăng.

Bãi cát lấm tấm ánh bạc trải dài dưới chân tôi. Dường như không phải tôi bước chân đi. Gió đẩy sau lưng và tôi lướt trên cát mịn như một cọng cỏ may.

Cả miệng ta trăng là trăng!

Cả lòng ta vô số gái hồng nhan;

Ta nhả ra đây một nàng...

----Hàn Mặc Tử -----



Cuối cùng tôi cũng nhận ra có một bóng người trên bãi. Nấp sau một đụn cát, tôi nhìn về hướng cái bóng.

Đó là một thiếu nữ đi lên từ biển.

Hẳn nàng vừa tắm đêm. Mái tóc ngang vai của nàng lấp la lấp lánh những ngấn nước bạc, trông như một tổ đom đóm, gói gọn một gương mặt mê ly, phảng phất một vẻ đẹp u huyền phiêu diêu. Đôi mắt to lóng lánh.

Tơ lụa mỏng đầm đìa dán chặt từ ngực đến đùi nàng, quấn quít quanh phần chính yếu và đẹp nhất của thân hình dong dỏng một tiểu thư. Đó là một chiếc áo ngủ mỏng manh bất ngờ đẫm nước, đẫm trăng. Có lẽ chuyện tắm đêm này ngẫu hứng diễn ra khi nàng dạo chơi trong đêm, trên bãi bờ tịch mịch.

Trăng cũng đi lên từ biển như nàng. Và nó rắc lên tấm thân diễm tuyệt mượt mà ấy một làn phấn ánh sáng rực vàng, làm nổi bật đôi bờ vai đầy, nõn nà tráng lệ và đường lượn trũng mê hồn từ gáy xuống mông.

Nàng đứng yên trên bờ cát như một thân phi lao nhỏ, xinh xắn mà dào dạt nhựa sống, như một cái cây không có thật thì đúng hơn, với bộ ngực đầy như trăng, đầm đìa những giọt nước ma ảo, đầm đìa những hồi quang linh thánh của cái đẹp.

Và đôi bầu vú mọng càng nhô bật ra ngoài cổ áo rộng, rung rinh khi nàng giơ hai cánh tay ngà lên cao trong một không gian hư huyễn.

Nàng làm gì vậy? Hỡi Đêm!

Tôi nhìn thấy rõ trong lòng hai bàn tay nàng hai phiến mỏng của ánh trăng mà nàng vừa bẻ được.

Đoạn lần lượt nàng đưa mỗi phiến ánh trăng ấy vào miệng, nhấm nháp nó một cách khoan khoái.

A ánh trăng, mi là loại dưỡng chất trần gian siêu đẳng! Mi sinh ra cho nàng ư? Hay là nàng sinh ra cho mi?

Tôi biết nàng là người ăn ánh trăng.

Trăng.

Nhìn nàng ăn, tôi lại bắt đầu thấy đói. Trong khi nàng để những phiến ánh trăng mát lạnh tan vào lưỡi, tôi ăn những làn gió thổi qua người nàng, đẫm mùi hương nguyệt quế.

Tôi ăn từng miếng gió một cách tiết độ và thận trọng. Như thể nuôi sống tôi tức là nuôi sống nàng. Như thể chúng tôi tự sáng tạo ra mình bằng gió với trăng.

Bỗng dưng một tiếng gọi ngân dài từ đâu vang về phía chúng tôi, nghe như giọng trẻ thơ:

- Thỏ ơơơi, Thỏ ơơơi...

Người thiếu nữ ôm bầu ngực căng đi nhanh về phía tiếng gọi.

- Thỏ ơơơi...

Và nàng biến mất trong bóng đêm.

Suốt đêm hôm đó tôi lang thang trên bãi cát tìm kiếm người thiếu nữ ăn ánh trăng. Không có ngấn tích nào của Thỏ.

Nếu bạn có nhận ra nàng đâu đó thì hãy làm ơn, xin làm ơn báo cho tôi, người đã nhả ra nàng và để nàng lưu lạc trong cõi người ta.
 
Hồi ký của Khánh Ly
Khánh Ly


Tất cả những sự việc đã xảy ra, đã qua. Tất cả những khuôn mặt đã xa khuất mịt mù. Tất cả những gì gọi là hạnh phúc hay nỗi đau của một thời nào đó. Tôi gọi đó là kỷ niệm. Tôi không có quá khứ, dĩ vãng như mọi người thường đề cập tới. Tôi chỉ có kỷ niệm và đó là tất cả gia tài tôi cưu mang.

Nếu trong cuộc sống có điều gì đó không thể thay đổi được thì đó là kỷ niệm. Những sự việc, những con người, đẹp có, xấu có đã bỏ chúng ta mà đi. Tuổi trẻ đã bỏ chúng ta. Mầu trong của mắt. Mầu xanh của tóc. Mầu hồng của môi. Đã bỏ chúng ta. Lạnh lùng, tàn nhẫn và hồn nhiên.

Ở tuổi ba mươi, bốn mươi hay đã bước qua ranh giới nửa đời người như tôi hiện nay, kỷ niệm không hề phôi pha theo ngày tháng. Mỗi ngày qua, chân bước tới gần cái cõi đi về. Tôi càng thấy gắn bó với kỷ niệm, như chỉ có kỷ niệm bây giờ mới trọn vẹn là của riêng tôi, như chỉ có những người đã xa đời, mới thuộc về tôi mãi mãi. Vì một lẽ nào đó, tôi thường sống với người đã khuất nhiều hơn, trân quý hơn, yêu thương và cảm thấy yên tâm và được an ủi chia sẻ nhiều hơn. Ai từng trải qua nhiều ngang trái nghịch cảnh, cay đắng oan khiên, sẽ hiểu vì sao tôi có nhiều cái... khác người.

Mỗi người một cách sống là điều tự nhiên từ ngàn xưa. Ôi, khi ta đói, kỷ niệm cho ta no. Khi ta lạnh, kỷ niệm làm cho ta ấm. Khi ta nghèo, kỷ niệm làm cho ta khá hơn. Có nhiều người nghĩ như vậy và họ nghĩ đúng. Kỷ niệm không là miếng cơm manh áo hay tiền bạc trong đời sống. Kỷ niệm đẹp đẽ hơn, cao hơn, thiêng liêng hơn. Kỷ niệm làm đời sống chúng ta thăng hoa trong sáng và thánh thiện. Tôi thật tình tiếc cho những ai coi thường kỷ niệm hoặc có mà không biết giữ. Những người đó, tâm hồn mới nghèo nàn làm sao. Chúng ta có thể dời núi, lấp biển nhưng bản tính con người là điều không bao giờ thay đổi. Thật đáng tiếc.

Có nhiều đêm chợt thức giấc nhìn ra vườn, vầng trăng tròn tỏa ánh sáng soi rõ từng ngọn cây, khóm cỏ giống hệt như một đêm trăng quê nhà cũng trong một khu vườn nhỏ, có những kẻ quên đời sống quanh mình, cùng nhau uống rượu, ngâm thơ đàn hát dưới nắng khuya. Những đêm nằm nghe mưa buồn rào rạt, chợt nhớ những chiều mưa xưa cùng theo nhau ra quán ngồi, im lặng bên nhau nghe những giọt cà phê tí tách rơi, im lặng bên nhau nhìn người người, ngựa xe ngược xuôi. Những giây phút im lặng đã nói với nhau biết bao điều không thành tiếng. Buổi sáng cây cỏ còn lấp lánh sương mai, im lặng đi bên nhau dưới hàng thông từ bao năm reo mãi những điệu nhạc vi vu buồn bã bên mặt nước câm nín, chứa đựng bao nhiêu nỗi niềm.

Buổi trưa trời cao xanh thẳm, nắng đuổi nhau theo gió trên thảm cỏ quen, cỏ cây dàn nằm thênh thang lắng nghe bước chân nhẹ nhàng lúc xa, lúc gần của hai kẻ quên đời. Chiều có mưa bụi dăng dăng qua thành phố, quán cà phê vắng, hương cà phê thơm lừng, vẫn chỉ hai người khách quen ngồi đó, im lặng bên nhau. Có gì quan trọng đâu. Không, không có gì cả, có nhau là điều đáng nói và họ đã có nhau trong suốt cuộc đời.

Đà Lạt đẹp. Đà Lạt hiền. Đà Lạt thơ mộng. Đà Lạt bao dung. Đà Lạt thủy chung. Định mệnh khởi đi từ một nơi như thế. Tại sao không là Sài Gòn. Tại sao không là Huế. Không, Sài Gòn và Huế không phải là Đà Lạt. Mọi sự phải khởi đi từ đó. Một sự tình cờ, mà ngẫm lại thì không đúng, không phải. Rõ ràng là sự sắp đặt của cái mà chúng ta gọi là định mệnh. Một người lưu lạc từ sông Hồng, một người rời xa sông Hương để gặp nhau vào một đêm có mưa và gió đầy trời, ở cái thành phố nhỏ bé, nhìn ai cũng là bạn. Cái thành phố đó nếu bạn đến một lần là sẽ nhớ mãi. Đến rồi không muốn rời đi. Đi rồi lại muốn trở lại. Nhưng đó là Đà Lạt của 40 năm về trước, một Đà Lạt hiền lành như ngô khoai, trong sạch đẹp đẽ thơm như hoa hồng nhung, ngọt ngào như chuối La Ba và thủy chung như những hàng thông thẳng đứng suốt đời chỉ reo mãi một khúc nhạc hiền hòa.

Là một người sống đời ca hát, có dăm ba mối tình lớn, chân đã đi mòn mỏi trên quê hương, rồi năm châu bốn biển, đã gặp gỡ cả triệu người. Mưa bão cũng đi. Nắng gió cũng đi. Đi không còn biết mình đi đâu. Không cần biết vì bốn biển là nhà, nhìn đâu cũng thấy quê hương, nhìn ai cũng là anh, chị em, chắc chắn những người cùng một kiếp sống như tôi, phải có nhiều điều để nhớ mà tôi gọi là kỷ niệm. Qua một cánh rừng, ngang qua một cây cầu, dừng lại ở một góc phố, ngồi xuống uống một ly cà phê nơi quán nhỏ ven đường, thậm chí nhìn từng ngọn cây, bụi cỏ bên lề, lòng tôi cũng xao xuyến xót xa. Có lúc bàng hoàng ngẩn ngơ, tưởng chừng như trong một cơn mơ, tưởng chừng một khuôn mặt, một dáng người thương yêu, thấp thoáng đầu phố, tưởng chừng như chỉ cần đưa tay ra những ngón tay tháp bút gầy guộc quen thuộc kia chạm vào tay mình. Nhưng rồi tôi hốt hoảng đến bật khóc vì trong tay tôi, chỉ có bàn tay lạnh giá của chính mình và góc phố kia chỉ là một khúc quanh hiu quạnh.

Nhiều khi ngồi một mình, lòng trống rỗng, đầu trống rỗng. Tôi không thể nghĩ đến bất cứ một điều gì . Dường như trái đất đã sạch trơn, chẳng còn gì, hoặc là tôi ngồi đó nhưng hồn tôi không còn ở trong tôi. Một cái xác, một người chết và đối với người chết, không có vấn đề gì được đặt ra vì sẽ không có câu trả lời. Người chết không biết nói. Nhưng lại có những lúc tôi vùi mặt vào gối khóc nức lên từng hồi. Lòng nặng trĩu những kỷ niệm đớn đau không hề phai nhòa theo thời gian. Nghĩ đến người này, người kia, nghĩ đến đời mình, tim muốn vỡ ra trăm ngàn mảnh. Cũng nhiều đêm tôi nằm chong mắt nhìn bóng đêm vây phủ, nước mắt lặng lẽ rơi. Cứ thế cho đến lúc thiếp đi. Tôi đã hiểu thế nào là khóc lẻ loi một mình.

Tôi cũng có những niềm vui chứ không phải lúc nào cũng ôm mối sầu thiên thu ấy. Gia đình tôi tương đối bình yên về mọi mặt. Không có những nặng nhẹ giận hờn. Cả hai vợ chồng đều đứng trên đỉnh dốc của đời, một cuộc đời quá nặng nhọc mệt mỏi mà cả hai đều nhận thức được, đều nhìn thấy những chịu đựng câm nín của nhau, cùng cố tránh cho nhau những muộn phiền nếu cảm thấy mình có thể gánh vác được. Vợ chồng về già, nếu có thể sống với nhau đến già, có thể trở thành hai người bạn. Đây là một điều tốt vì có nhiều điều, vì là vợ chồng, sẽ không thể chịu đựng nổi, nhưng nếu là bạn, sự việc sẽ đơn giản hơn khi có thể nói với nhau tất cả những điều tưởng không thể nói được, có đôi lúc tôi tâm sự với bạn một vài điều riêng. Song, đó là chuyện của mười năm về trước, giờ đây chúng tôi sống đúng là đôi bạn già, nương tựa nhau lúc chiều tới. Còn cái gì mà phải giấu giếm nhau ở tuổi này. Duy có một điều, kỷ niệm riêng tư của mỗi người dường như vẫn là những điều riêng tư được cả hai tự động tôn trọng. Không thể chia sẻ, không thể an ủi. Rất tôn trọng.

Dĩ nhiên không phải cuộc sống chung 26 năm không có những cay đắng. Phải nói là nhiều đấy, nhưng tôi, phải, chính tôi là người quyết định, không thay đổi làm gì nữa và làm cho cuộc sống chung trở nên có ý nghĩa, trở nên đáng sống. Làm cho người này trở nên sự cần thiết của người kia. Làm cho nơi chốn này là nơi chốn để lúc nào cũng mong trở về mà không có sự sợ hãi hay vì không còn sự chọn lựa nào khác. Những kỷ niệm giữa cuộc sống chung quả có lúc làm tôi buồn tủi. Tôi không hề quên. Không thể quên, thế nhưng tôi xem đó như những thử thách, những chuyện nhỏ đời thường. Bởi cuộc đời, đâu phải lúc nào cũng cho ta sự ngọt ngào, mà nếu tôi là người đòi hỏi như thế, tôi đã tự làm khổ tôi trong 26 năm dài. Thỉnh thoảng hai vợ chồng ngồi ôn lại những vui buồn xa xưa mà tưởng như chuyện của ai đó. Dưới mái nhà này là sự bình yên bởi tôi muốn như thế.

Nếu có điều gì làm tôi đau lòng, ấy là tại tôi. Tôi muốn sống bình yên nhưng tâm tôi chưa yên. Tôi nhạy cảm quá. Tôi dễ vỡ quá, cho dù dưới mắt nhìn và sự nhận xét của nhiều người thì tôi là một người bản lĩnh, can đảm. Điều này thật ra cũng không có gì gọi là sai hay xa sự thật, bởi vì nếu tôi không can đảm, liệu giờ này tôi còn sống nổi với bao nhiêu tang thương chưa giây phút nào nguôi ngoai trong từng hơi thở. Cái gọi là bản lĩnh, can đảm đôi khi chỉ là sự dối lừa, là cái vỏ mầu mè bên ngoài mà nó cũng có thể được xem như thái độ bất cần của một người chẳng mấy tha thiết đến cái gọi là ngày mai, của một người không mấy bình thường nếu không muốn nói là điên. Thấy đời chán quá, chán đời quá, mà vẫn cứ ôm lấy cuộc đời. Là vì sao. Vì còn nhớ đến nhiều người. Vì còn nhiều người, nhiều điều để nhớ. Vì rằng đôi lúc tưởng đã quên nhưng cũng lại chỉ tự lừa dối mình mà thôi. Tôi không hề quên những điều cần phải nhớ và rồi chẳng có gì an ủi cho bằng đến một lúc nào đó như lúc này, tất cả oan khiên sẽ mở ra. Phải được mở ra, nào phải chỉ mười năm, đã 40 năm rồi đó. Nếu không phải là bây giờ, sẽ chẳng còn bao giờ nữa.

1/4/2003


[size]H Ế T[/size]
 
I am đàn bà
Y Ban



... Một thằng bé được mới sinh còn nguyên cả dây rốn nối với bánh rau bị bỏ vào một cái dành lót rơm treo lên nhành cây trong rừng. Thị đi kiếm mật ong nhìn thấy cái dành bèn lấy xuống.

Nhìn thấy thằng bé tím ngắt bị kiến bu đầy người, cắn thủng cả mí mắt thị hét lên rùng rợn. Tiếng hét dội vào rừng cây vọng lại thành tiếng hú thê thảm. Sau sự sợ hãi là sự đau đớn chất cùng phả ra từ bản năng làm mẹ của thị. Thị khóc vật vã. Khóc kiệt cùng. Một lát sau nước mắt thị khô kiệt. Thị cũng không hiểu sao nước mắt thị mau kiệt thế.

Thị lấy con dao phát rừng mang theo đào cái huyệt nhỏ ngay dưới gốc cây treo thằng bé. Xong thị cởi chiếc áo mặc ngoài đã sờn vai bọc thằng bé lại. Thị đặt lại bánh rau lên bụng thằng bé, như cái lúc nó nằm trong bụng mẹ. Tay thị đụng vào chim thằng bé. Bỗng thị giật thột. Cái chim thằng bé cưng cứng. Không tin vào cái cảm giác thoáng qua ấy, thị dùng cả 5 ngón tay phải sờ vào chim thằng bé. Cái chim còn cứng. Cái chim còn cứng thì thằng bé còn sống, thằng bé còn sống. Thị vội cởi nốt chiếc áo lót rồi ôm thằng bé sát vào ngực thị.

Một cuộc luân hồi được nén trong ngực thị. Thị cảm nhận sự ấm dần lên trên cơ thể thằng bé. Và nó đã tìm được vú thị từ lúc nào. Nó mút chùn chụt. Hai bầu vú thị còn sót lại ít sữa của đứa con thứ 3 còi cọc, nó đã hơn 2 tuổi mà thị cũng chưa lỡ cai.

Thị ôm chặt thằng bé vào ngực mang về nhà. Chồng thị tá hoả tam tinh khi nhìn thấy hình hài thằng bé. Rồi gã sầm mặt xuống vì biết chắc rằng nhà gã lại có thêm một miệng ăn nữa. Gã vừa lầu bầu vừa đi đun nước sôi. Gã hò con bé lớn lên 8:

- Còn ngây ra đấy mà xem cái gì. Đi ra trạm xá, bảo bà Miêu đến cắt rốn cho em.

Con bé cười toe toét:

- Cắt rốn cho em hả bố.

Thị cũng cười. Cái nét cười làm mặt thị rạng rỡ vô cùng. Thị lựa đặt thằng bé xuống gường nựng nọt:

- Con nằm xuống đây mẹ đi tìm tã cho con nào.

Con bé lớn vừa chạy vừa hò:

- Mẹ cháu bắt được em cháu ở trên cây. Cây đẻ ra em cháu, còn nguyên cả dây rốn với bánh rau.

Khi bà Miêu chạy từ trạm xá đến nhà thị thì nhà thị đã chặt ních người. Cả làng đổ xô đến xem thằng bé do cây đẻ ra. Bà Miêu rẽ đám người đến chỗ thằng bé, miệng gào to:

- Thời buổi này là thời buổi nào mà còn tin là cây đẻ ra người hử? Không chịu chăm nom dạy dỗ con cái tử tế rồi mới sinh ra cơ sự thế này đây.

- Nào nước sôi chưa, mang lên đây.

Bà Miêu thao tác rất thiện nghệ. Nhoáng cái thằng bé đã được cắt rốn và tắm táp sạch sẽ. Da thằng bé đã đỏ lại, chỉ còn những nốt kiến cắn trên mắt khiến thằng bé không mở được mắt ra. Bà Miêu có vẻ khoái trí với sản phẩm của mình hôn chụt vào má thằng bé một cái rồi quay sang hỏi vợ chồng thị:

- Tính sao? Nhà rách như tổ đỉa, lại thêm miệng ăn nữa rồi lấy gì mà đổ vào mồm? Hay là để tôi bế nó ra trạm xá hỏi xem có nhà nào không có con, cho người ta.

Thị giãy lên như đỉa phải vôi:

- Không có đâu. Trời đã cho nhà chúng tôi rồi, thì nhà tôi phải nuôi nó chứ.

Bà Miêu lại tiếp:

- Đấy là ý ả, còn ý chàng là sao? Không thuận lòng rồi thì đánh nhau.

Chồng thị nhát gừng:

- Mỗi con mỗi của thêm giàu. Nghèo của nhưng giàu con cũng được. Nhà tôi nhặt được nó thì nhà tôi nuôi.

Thằng bé được đặt tên là Đức. Bốn anh em nhà nó có tên là: Sáng, Láng, Nhân, Đức. Nó bú sữa cặn của thằng anh thứ 3 là Nhân nhưng cũng lớn vổng lên.

Thêm một khẩu ăn nhưng nhà thị không được chia thêm mẩu đất nào. Ông chủ tịch xã nói: Không nuôi được thì đem vào rừng mà trả cho cây chứ lấy đâu đất ra nữa mà chia cho nhà chị. Người đẻ được chứ đất có đẻ được đâu. Vợ chồng thị không vì thế mà ghét bỏ thằng bé. Có phần nó được chiều chuộng hơn vì là bé nhất.

Vợ chồng thị tay lam tay làm nổi tiếng trong làng. Trên đất đai nhà thị lúc nào cũng có cây mọc nhưng đất cằn quá không cho năng xuất cao. Thế là chỉ đủ cái bỏ mồm. Bọn trẻ thì đang tuổi lớn ăn rào rào như tằm ăn rỗi. Suốt ngày cúi mặt trên đất kiếm cái ăn mà không biết thiên hạ đã thay đổi quá nhiều.

Khi thằng Đức lên 5 thì làng quê thị ở có một sự đổi thay lớn. Ấy là cái thứ đàn bà bao đời quanh quẩn xó bếp bỗng đâu được xuất ngoại đi ra nước ngoài làm ăn. Nhìn người trong làng trong xóm tiễn đưa nhau đi máy bay, rồi lại đưa nhau ra bưu điện lĩnh tiền. Có tiền thì xây nhà, mua tivi. Vợ chồng thị thi thoảng cũng được mời đến ăn liên hoan. Đêm vợ chồng nằm với nhau cũng có mơ. Mơ con Sáng, con Láng được đi xuất khẩu. Thân con gái ở với cha mẹ nghèo khổ quá rồi, mơ cho con bớt khổ một chút. Còn thằng Nhân, thằng Đức thì thôi, ở lại quê cày ruộng cũng được.

“Con Sáng, con Láng con ơi”. Thị bỗng nức nở hờ con. Phận đàn bà sao khổ quá con ơi. Mẹ những mong đi làm đất khách quê người để có tiền cho các con mẹ ít nhiều. Ai ngờ mẹ lại mắc tội tày đình thế này. Ới các con ơi. Mẹ đã đập đầu mà chết nhưng thương các con đứt ruột nên không đành chết con ơi. Các con hiểu cho mẹ, mà tha tội cho mẹ nhé. Mẹ đập đầu xin các con tha tội.

Ủa, xỉ, xỉ xỉ... Tiếng la ó ầm lên trong phòng giam. Thị biết là họ đang la ó thị. Thị khóc gào lên trong đêm làm mất giấc ngủ của họ. Thị kệ thây. Thị cứ hờ tên con ra mà khóc. Khóc cho tan sự đau đớn chất chứa trong lòng. Sao ông trời lại đầy ải thị khốn khổ đến thế này. Nào thị có ăn ở ác độc với ai đâu. Đời thị khốn khó từ tấm bé nên thị chẳng bao giờ mơ sự sung sướng ở đời. Nhưng cũng chẳng khi nào thị lại nghĩ rằng mình bị vướng vào vòng lao lý như thế này.

- Câm mồm, kẻ nào làm ồn thế. Câm mồm đi không thì chuyển sang biệt giam.
 
Thị ngừng khóc. Người vừa nói với thị là một người đàn ông trung tuổi đi cùng với nhân viên trại giam. Nhân viên trại giam ủa xỉ với người đàn ông một tràng dài rồi bỏ đi. Còn lại mình người đàn ông trung niên, vẫy thị lại gần:

- Tôi là phiên dịch. Hôm trước luật sư đã nói với chị rồi mà chị không chịu hiểu à? Nay tôi nói lại với chị. Chị nên giữ sức khoẻ và sự minh mẫn để mai còn ra toà. Chị cũng nên suy nghĩ xem để nói gì trước toà. Chị phải tự biện minh cho chính mình. Biết đâu đấy chị lại trắng án, được về với con. Nghe lời tôi đừng có kêu khóc nữa.

Thị nằm im để nghe ngóng chính mình. Cơ thể thị mệt rã rời nhưng đầu óc thị lại thật tỉnh táo. Ý nghĩ của thị quay trở về cái làng của thị.

Lại một đợt người ta về làng tuyển phụ nữ sang Đài Loan làm nghề giúp việc. Chồng thị bảo:

- Hay u em cứ đi tuyển xem sao. Xa cách 2 năm nhanh mà. Cái nhà dột quá rồi chẳng trụ nổi mấy mùa mưa giông nữa đâu.

- Ừ, tôi cứ thử đi tuyển xem sao. Nhưng lấy đâu ra tiền đặt cọc cho người ta.

- Thì cứ tuyển đã, rồi tính sau.

Người đàn bà hay lam hay làm, bắp chân to như cây chuối hột, bàn tay to như cái quạt nan, nước da nâu rám, hàng răng hạt na đều tăm tắp, mắt bồ câu đen láy. Ai mà không chọn người đàn bà như thế. Cái khó là ở khoản tiền đặt cọc. Nhà thị mà có khoản tiền to thế thì thị đã sửa được nhà khỏi phải đi Đài Loan. Có một người trong đoàn đi tuyển đến nhà thị ngó xem rồi đưa ra giải pháp, họ cho nhà thị vay tiền đặt cọc rồi hàng tháng thị gửi tiền về trả dần.

Buổi tiễn đưa thị ngập tràn nước mắt. Bốn đứa con thị ôm thị gào khóc. Thị rứt ruột ra đi.

Sang Đài Loan thị làm giúp việc cho một gia đình có người bị liệt. Người bị liệt vốn 1 năm trước là ông chủ tài hoa, giàu có, không may bị tai nạn ô tô. Đã chữa trị hết nước hết cái rồi. Nay nằm im trên gường như một cái thây sống. Nhất cử nhất động phải có người giúp. Bà chủ cũng tầm tầm tuổi thị. Cái tầm tuổi còn tràn đầy sức lực với vốn kinh nghiệm đã khá. Hai đứa con nhà chủ cũng tầm tuổi Sáng, Láng nhà thị. Nhìn thấy chúng, thị nhớ con nấc nghẹn thở. Một tuần đầu thị được bà chủ huấn luyện sử dụng các thiết bị trong nhà. Thị cũng chẳng ngờ mình lại sáng dạ thế. Thị học được hết cách sử dụng các dụng cụ, thiết bị gia đình. Toàn những thứ tối tân chứ có phải thường đâu. Bà chủ còn dạy cách lau dọn nhà, cách nấu ăn. Đặc biệt là cách chăm sóc ông chủ nằm liệt gường, cách thay quần thay áo, cách lau mặt, cách cho ăn... Sau một tuần huấn luyện, thấy thị nhanh nhẹn, bà chủ có vẻ bằng lòng lắm, bèn để thị ở nhà một mình chăm sóc ông chủ.

Thời gian biểu của gia đình bà chủ thế này. Buổi sáng bọn trẻ dậy đi học vào lúc 7 giờ. Bà chủ dậy lúc 8 giờ, tắm và trang điểm đến 9 giờ thì đi làm. Thị và ông chủ được rốt kín ở trong nhà. Bọn trẻ học thông tầm đến 3 giờ chiều về nhà, đứa nào về phòng đứa đấy. Bà chủ về không có ca cữ gì, khi thì 6 giờ tối, khi thì 11 giờ đêm. Thị không hiểu là trước khi thị đến làm giúp việc cho ngôi nhà này thì ông chủ được chăm sóc thế nào? Những đứa con có đến thăm bố thường xuyên không? Chứ từ khi thị đến thị thấy rằng bọn trẻ con chẳng quan tâm gì đến cha chúng đang nằm trên giường bệnh. Thi thoảng mẹ chúng thúc giục lắm thì chúng mới vào phòng cha, nắm cái tay chiếu lệ, hôn cái hôn chiếu lệ, nhìn cái nhìn chiếu lệ. Thị rất ác cảm với cái sự chiếu lệ của chúng.

Còn người vợ thì vẫn còn thương xót chồng lắm. Khi thị mới đến thì thị không phải tắm cho ông chủ. Ngày cuối tuần bà chủ tự tay tắm cho chồng, thị chỉ giúp bà chủ đưa ông chủ vào nhà tắm. Khi thị mới đến thị thấy đêm nào bà chủ cũng vào ngủ với chồng. Khi thị mới đến thị hay bắt gặp bà chủ đứng nhìn ông chủ ngủ rồi lặng lẽ khóc. Khóc rất lâu rồi đi uống rượu say mèm. Thị nhìn bà chủ thương xót vô cùng. Thị muốn an ủi bà chủ nhưng thị chả nói được mấy câu tiếng nước ngoài thành ra lại thôi.

Công việc cuốn thời gian trôi đi vèo vèo. Giờ thì thị thạo việc lắm rồi. Thị làm việc nhà chỉ trong 1 tiếng đồng hồ. Còn thời gian mênh mông đến chiều thị chả biết làm gì. Thị đi lên đi xuống, thị ngó vào phòng nọ phòng kia. Thị bật ti vi để xem hình. Cũng chỉ hết một tiếng. Thị ngáp rồi nằm ườn ra ghế đệm, tận hưởng cái sự sạch sẽ êm ái. Thị muốn ngủ cho thời gian trôi nhanh đi nhưng thị chả bao giờ ngủ ngày thành ra cũng không ngủ được. Chán, thị đi vào phòng ông chủ, là để nhìn thấy người, chứ ngày qua ngày thị với cái bóng của thị giam trong 4 bức tường.

Ông chủ mở mắt mình đăm đăm lên trần nhà. Thôi thì có người rồi, nói đi vậy. Có nói tiếng gì trên đời thì ông chủ cũng có nghe được đâu. Thị mỉm cười nhìn vào mặt ông chủ:

- Có biết gì không? Chả biết gì rồi?

- Sao mà đến cơ sự này? Mới chưa đến 40 mà suốt ngày phải nằm trên gường thế này khó chịu lắm nhẩy?

- Trước đây sao không chịu dạy con cái? Chúng ích kỷ quá, chả chịu chăm nom bố một tí. Chúng mà chịu chăm nom bố thì khéo mà khỏi bệnh chứ nhẩy.

- Nằm nhiều vậy có mỏi lưng lắm không? Tôi bóp chân bóp tay cho nhé.

- Cái khoản này thì chả có trong hợp đồng đâu nhưng thôi tôi cũng chả biết làm gì, tôi bóp chân bóp tay cho anh nhé.

Cái cách xoa bóp này thị đã được mẹ thị truyền cho từ hồi thị còn bé. Thị làm rất bài bản. Xoa bóp từ đầu trước, bấm các huyệt, giật tóc. Rồi từ xương ức toả ra các dẻ xương sườn. Từ các mỏm xương đến các đầu mút ngón tay ngón chân. Thị còn lật xấp ông chủ xuống để xoa bóp lưng, bấm ngón tay vào từng đốt sống. Lại còn nhổ bão kêu sần sật. Xong, thị lật ông chủ nằm ngửa. Thị nhìn vào mắt ông chủ xem nó có biểu hiện gì không?

- Thích không? Chả thích quá đi ấy chứ. Thích thì gật đi để bận sau tôi còn làm cho. Vừa nói thị vừa gật gật cái đầu.

- Chán quá, mắt chẳng còn tí hồn nào thế kia. Thôi nhắm mắt ngủ đi. Thị lấy ngón tay khép mắt ông chủ lại.

Thế là thị có cách giải khuây. Ngày nào thị cũng nói chuyện và xoa bóp cho ông chủ. Thị cũng chẳng nhớ là vào lần thứ bao nhiêu thì thị bỗng nhìn ra mắt ông chủ đã có hồn. Ấy là khi thấy thị bước vào, hai con ngươi trong mắt ông chủ nó hướng về phía thị:

- A thì ra mắt cu cậu có tinh rồi. Nhận ra nhau rồi phải không? Thế để chị xoa bóp cho nhé. Hôm nay chị sẽ xoa kỹ vùng đầu. Cái đầu là quan trọng lắm đấy. Bộ chỉ huy đây. Biết đâu 2 năm chị làm ở đây thì cu cậu đứng dậy đi được đấy. Khi ấy phải thưởng to cho chị để chị xây cái nhà mái bằng nhé.
 
Hôm ấy cái đôi tròng mắt có tinh của ông chủ đã khiến thị vui vẻ lắm. Thị vừa xoa bóp cho ông chủ thị vừa hát. Thị chỉ thuộc mấy bài hát ru con. Thị hát được một tí thì nhớ con quá thế là nước mắt rơi tong tong lên ngực ông chủ. Một lát nguôi ngoai đi thị lại bật cười:

- Này không phải chị thương cu cậu đâu nhé. Chớ tưởng bở. Ấy là chị nhớ chúng quá. Con Sáng 14 tuổi rồi đấy. Khi chị về chị sẽ mua cho nó một đôi vòng tàu, làm của hồi môn cho nó đi lấy chồng. Con Láng 13 rồi, thằng Nhân lên 8, thằng Đức lên 6. Cái thằng Đức ấy chị nhặt được nó trên cây đấy. Chị thương bố cu nhà chị lắm. Chị đi thế này, bố cu nhà chị thèm chị lắm đấy. Bố cu nhà chị khỏe mạnh lắm, chỉ phải tội cứ hùng hục như trâu ấy. Có lần chị bảo rồi đây, cái chuyện tình cảm chứ có phải đi cày đâu mà bố nó cứ phải đổ mồ hôi thế. Bố cu nhà chị bảo: Cái số tôi nó vất vả, thế u nó không thấy đến ăn cơm tôi cũng đổ mồ hôi à? Thôi xong rồi. Chị xoa bóp cho cu xong chị cũng vã mồ hôi ra đây. Chị đi tắm cái đã.

Thị lật người ông chủ nằm ngửa lên, Như mọi bận thị lấy ngón tay trỏ khép hai mi mắt ông chủ lại. Bỗng thị giật mình: Ồ cu khóc à? Cu khóc được rồi à. Khóc được là biết rồi đấy.

Buổi tối thị rất muốn khoe với bà chủ là ông chủ đã biết khóc rồi. Biết khóc rồi là có cảm giác con người rồi, không vô tri vô giác nữa. Vậy mà thị chẳng biết diễn đạt thế nào.

Thời tiết nóng nực, oi ả. Làm xong việc nhà áo thị ướt đẫm mồ hồi. Thị định bụng xoa bóp xong cho ông chủ thì mới đi tắm. Vào phòng ông chủ cái thị gặp trước tiên là đôi mắt của ông chủ như cầu xin thị điều gì.

- Vậy gì cu? Định nói gì? Nóng hả? Biết rồi. Trời nóng lắm nhưng bà chủ bảo không được nằm điều hoà nhiều, không tốt, không tốt.

- Nào, để chị xoa bóp cho nhé. Ối giời ơi người đầy rôm sẩy thế này. Được tắm một cái là nhất đời đấy. Hay là chị bảo bà chủ không đóng bỉm cho cu nữa nhé. Chị sẽ vào xem cu có buồn tiểu không thì chị cho đi.

- Ối giời cái lưng đỏ lựng thế nào. Ngứa lắm hả, để chị gãi cho. Vậy nhé. Chị cũng định tắm cho cu nhưng chị sợ bà chủ không đồng ý rồi lại trừ lương của chị. Mắng chị cũng được, chửi chị cũng được nhưng đừng trừ lương của chị. Chị sợ nhất là bị trừ lương đấy. Số tiền hai năm làm ở nhà cu trừ lãi tiền đặt cọc vay của người ta đi thì cũng chẳng còn được là bao đâu. Thế mà nhà chị ai cũng nghèo, ai chị cũng muốn cho một tí.

- Hai thằng cu nhà chị cứ đến mùa hè là người sặt rôm sẩy. Chị cứ phải vò lá kinh giới với lá đào tắm cho chúng. Tắm hai bận là khỏi sạch rôm. Hay là để chị lấy khăn ướt lau lưng cho cu nhé. Chị hiểu và thương cu lắm nhưng chị không thể làm trái lời bà chủ được.

-Nào, lau cái mặt trước này. Cái mặt này cũng khôi ngô đấy chứ. Chưa bị ốm chắc ối cô mê đây.

Tối đấy bà chủ về muộn nhưng thị cứ một mực chờ. Thị chờ bà chủ về để nói với bà chủ rằng ông chủ nhiều rôm sẩy trên người, phải cần tắm thường xuyên chứ không thì cái sẩy nó nẩy cái ung, khốn đấy.

Bà chủ về, thị đã ra hiệu đủ kiểu mà bà chủ không hiểu gì cả. Thị bèn dẫn bà chủ vào trong phòng ông chủ, vạch áo ông chủ lên cho bà chủ xem. Thị quan sát thấy bà chủ không tỏ vẻ gì cả. Thật bình tĩnh bà chủ còn gỡ luôn cả bỉm của ông chủ tô hô trước mặt thị. Bà chủ nhìn cái đống bùng nhùng trong bỉm nhăn mặt gớm giếc rồi kéo chiếc chăn mỏng phủ lên. Bà chủ ra ngoài gọi điện thoại. Lát sau người của công ty đưa thị sang Đài Loan làm việc gọi điện cho thị:

- Bà chủ nói là bà chủ muốn chị thay bỉm, rửa ráy, tắm táp cho ông chủ. Chị sẽ được trả thêm 50 tệ nữa. Chị có làm được không?

Nghe thấy được trả thêm tiền thị mừng ú. Thị đồng ý luôn. Và thị biết việc thị phải làm ngay là gì. Thị vào trong phòng ông chủ thay bỉm rửa ráy sạch sẽ cho ông chủ.

Sáng hôm sau khi cả nhà bà chủ đã đi làm hết, việc đầu tiên là thị vào phòng ông chủ:

- Cu, hôm nay chị sẽ không đóng bỉm cho cu nữa. Cu hợp tác với chị nhé. Cứ 3 giờ chị cho cu đi tiểu một lần. Còn đi ị? Khó nhỉ. Hay là khi nào buồn cu khóc báo cho chị một tiếng. Ối dào chị lại buồn cười rồi, cu mà biết khóc khi buồn đái, buồn ị thì đã khôn rồi chứ chả dại thế này đâu. Thôi chị sẽ tự tìm cách vậy.

- Cu nằm đây chờ chị dọn dẹp xong nhà cửa rồi chị vào xoa bóp cho, xoa bóp xong thì mình đi tắm.

Thị vui. Thị vui lắm. Một tháng được thêm 50 tệ nữa là được hơn 100 ngàn đồng Việt Nam rồi. Còn bao nhiêu tháng nữa nhỉ. Một, hai, ba, bốn... Mình đã ở được 10 tháng rồi, còn 14 tháng nữa. Thế là được thêm hơn 1 triệu nữa. Mình sẽ mua cho các con mấy bộ quần áo đẹp.

- Xong rồi, chị dọn nhà xong rồi. Chị xoa bóp cho cu nào. À hôm nay chị vui lắm, chị hát cho cu nghe nay. Chị hát bài dân ca quê chị nhé: Con cò là cò bay lả bay la. Bay từ cửa phủ bay qua là qua cánh đồng. Tình tính tang là tang tính tình. Cô mình rằng cô mình ơi rằng có nhớ là nhớ anh không. Hay không cu. Này cu biết không? Chị ít học lắm. Chả được học như người ta đâu nên chị cũng chả thuộc mấy bài hát đâu. Chị toàn thuộc bài con cò thôi. Những bài hát này ngày xưa mẹ chị hay hát nên chị nghe nhiều thành thuộc đấy. Chị lại hát bài con cò nhé: Con cò mà đi ăn đêm. Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao. Ông ơi ông vớt tôi nao. Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng. Có xáo thì xáo nước trong. Chớ xáo nước đục đau lòng cò con.

- Xong rồi nằm chờ chị vào pha nước tắm nhé.

- Nào để chị bế cu vào nhà tắm nào.

- Thế cu ngoan lắm. Mát không? Chị kỳ cọ cho sạch sẽ nhé. Chết nỗi cái chân bé đi rồi này. May mà chị xoa bóp cho thường xuyên đấy.

- Cái lưng nằm nhiều là mỏi lắm đây chị cọ cho mềm ra này. Cái nách không cọ sạch là hăm đây. Còn...

Kỳ đến cái chỗ “con giống con má” thì thị ngập ngừng. Mặt thị đỏ dựng lên. Thì “cu” là cái tên thị tự đặt cho ông chủ để tỏ sự thân thiết và cảm thông với hoàn cảnh của ông chủ, để công việc của thị tốt hơn mà thôi. Thị nghĩ, thị làm công việc chăm sóc người bệnh mà lại không có tình cảm thương mến người ta, thì khó mà chu đáo được. Nhưng “cu” là ông chủ, là người đàn ông thực thụ chứ đâu phải là thằng Đức mới sinh bị treo lên cây, mà thị được phép sờ nắn vào cái chỗ đấy. Người đàn ông thực thụ thì thị chỉ biết mỗi có bố cu nhà thị. Nói thực chứ, làm vợ kém một năm nữa là tròn mười lăm năm, đã có 3 mặt con với nhau mà nào thị dám sờ mó cái chỗ đó của chồng. Thì cũng nhì nhằng vậy thôi, chứ ngượng chết đi được... Nhìn thì chả sao, đằng này tay phải mó vào kỳ cọ. Mà không kỳ cọ thì sao sạch sẽ được. Rồi hăm ra, lở loét tội lắm. Thôi thì... Thị giấu mặt phía sau lưng ông chủ, thò tay vào háng ông chủ kỳ. Thần hồn nát thần tính, tay thị kỳ lia lịa mà chả biết là đang kỳ chỗ nào. Thì chỗ đấy cả, sạch là được.

Thị lau khô nước trên người ông chủ, lấy máy sấy xì tóc ông chủ:

- Tắm sạch sẽ trông cu bảnh bao phết. Chịu khó nóng một tí nhé. Để đầu ướt đi ngủ là hay bị nhức đầu lắm đấy.

- Thôi được rồi, cu ngủ đi. Chị không đóng bỉm cho cu đâu. Thi thoảng chị sẽ vào để cho cu đi tè.

Cái ngày đầu tiên không đóng bỉm cho ông chủ thị chỉ cho ông chủ đi tiểu vào bô được có một lần, còn thì ông chủ cứ “ô tô ma tic” ra quần. Thị phải tất bật lau chùi và giặt rũ.

Cũng cái ngày đầu tiên bà chủ để cho thị tắm cho ông chủ thì tối đến bà chủ kiểm tra cơ thể ông chủ rất kỹ, xem thị tắm rửa có sạch sẽ không? Có nâng niu ông chủ nhẹ nhàng không? Bà chủ kiểm tra rất kỹ chỗ ấy. Thị đứng sau xem bà chủ kiểm tra mà giật mình đến thột: May quá, hôm nay mình đã kỳ chỗ ấy. Vì xấu hổ mà không kỳ thì lại bị trừ tiền mất. Bà chủ vỗ vào vai thị hài lòng.

- Này cu, cu ngoan rồi đấy. Mấy ngày nay không “ô tô ma tíc” ra quần lần nào. Lúc nào buồn quá mà chị chưa kịp vào thì cũng cố nhịn một tí nhé. Không có thì chị khổ hơn đấy. Chị cứ phải giặt rũ nhiều thì chị mệt, chị không xoa bóp cho cu được đâu.

- Chị biết rồi. Khi nào cu “buồn” là cái cu nó săn lại, chỉ săn một tẹo thôi, không như hai cu tí nhà chị đâu, nó săn tít lại cơ.

- Cu ơi, may có cu đấy không có thì chị buồn chết. Mang tiếng là đi nước ngoài mà chị có biết mặt mũi nước ngoài nó thế nào đấy. Đến nhà cu là chị ở luôn tịt trong nhà. Chả bao giờ bà chủ cho chị ra khỏi nhà. Đến bước chân xuống cầu thang chị cũng chưa xuống. Chị cũng chẳng được nói chuyện với bà chủ với bọn trẻ. Hì hì, mà có bảo chị nói thì cũng chả hiểu gì nhau đâu. Ở quê chị bảo, ông nói gà bà nói vịt ấy mà. Có nghĩa là ông nói tiếng gà, bà nói tiếng vịt. Phải nói chung một tiếng mới hiểu nhau chứ. Chị nói cu chả hiểu chị nói gì đúng không? Nhưng mà không sao, miễn là người nói có kẻ nghe. Không có cứ lẩm bẩm nói một mình người ta lại bảo là bị rồ.

- Cu ơi, chị nói cho cu bí mật của chị nhé. Ngày nào chị cũng đứng phơi ra ban công để hít khí giời một tí đấy. Không có thì cớm nắng mà chết đấy. Cái cây không có nắng là chết lăn quay.

- Ôi, sung sướng quá. Sung sướng quá. Hôm nay chị được tặng quà. Con gái cu đấy. Chị không biết tại sao nó lại cho quà chị. Sáng nay lúc nó đi học thì chị đứng trong bếp, nó vào bếp chắp tay cúi chào chị. Nó còn nói cái gì nhưng chị không hiểu, xong nó rút từ trong cặp ra một gói quà được bao giấy hồng và buộc nơ rất đẹp đưa cho chị. Nó ra hiệu là cho chị. Chị chưa mở ra đâu. Chị chưa bao giờ được tặng quà như thế này đâu. Có, có củ khoai mớ rau thì hàng xóm cũng hay cho nhau. Con gái cu cũng tình cảm lắm đấy. Có hôm chị gặp nó cứ đứng nhìn cu ngủ rồi khóc. Chị đã nghĩ không đúng về nó lúc mới đến.

- Nào đi tắm nào. Bà chủ ngày nào cũng kiểm tra chị có tắm cho cu sạch sẽ không? Chị cẩn thận lắm phải không cu.

- Cu...

Thị giật thột khi dưới tay thị có sự khác lạ. Thị đã kịp dừng lại tiếng kêu. Chả lẽ thị lại kêu... ối gượng chết. Thế có nghĩa rằng ông chủ đã có cảm giác. Cảm giác của ông chủ đã sống lại rồi. Cảm giác đã sống lại rồi thì có nghĩa là ông chủ đã sắp khỏi bệnh. ý nghĩ thúc đẩy hành vi. Thị cẩn thật sờ vào con giống của ông chủ. Mềm, vẫn là mềm rồi. Nhưng khi nãy rõ ràng là thị thấy có cảm giác nó động đậy và cưng cứng. Thị nắm tay vào con giống và nín thở để nghe ngóng, như cái cách thầy lang bắt mạch cho con bệnh. Tích tắc tích tắc... Thị nghe rõ tiếng đập thùm thụp của trái tim thị. Và thị cũng cảm nhận thấy sự lớn dần lên của con giống.

- Cứng rồi cu ạ. cứng rồi cu ơi. Con giống của cu cứng lên rồi đấy. Tôi nay chị sẽ nói với bà chủ điều này. Cố lên cu ơi. Cu mà đứng dậy được thì chị được bà chủ thưởng to đấy. Nào thôi ngâm nước lâu rồi.

Con giống con má của mẹ ơi. Mẹ truyền sự yêu thương của mẹ qua làn da con. Con có cảm nhận được điều ấy không. Rồi khi nào lớn khôn con sẽ truyền lại sự yêu thương của mẹ cho một cô gái qua con giống này của con. Con giống con má của mẹ ơi.

Thị đã vừa lấy khăn lau vào con giống con má của ông chủ vừa hát bài hát của quê thị. Bài hát này của các bà mẹ khi tắm cho con trai và ngắm nhìn cái chim của nó.

Thị cũng không hiểu vì sao thị lại vui mừng đến vậy. Cũng chẳng phải vì thị mơ tưởng đến số tiền thưởng mà bà chủ sẽ cho thị khi ông chủ khỏi bệnh. Mà biết đâu khi ông chủ khỏi bệnh thì bà chủ sẽ không thuê thị nữa. Ở với gia đình ông bà chủ này, ngoài việc thị bị dốt trong nhà thì thị chẳng bị ngược đãi gì. Qua nhà khác rồi chẳng biết thế nào. Có lẽ vì thị thấy tội nghiệp cho ông chủ quá. Đàn ông bị ốm trông tội nghiệp lắm. Bố cu nhà thị chỉ mới hu hi sốt, bỏ cơm ăn cháo mà thị đã thấy thương lắm, chăm sóc cho thật chu đáo. Còn người đàn ông xa lạ này, không họ hàng thân thích máu mủ gì nhưng thị đã chăm sóc cho một năm nay rồi. Thế là đã được một năm rồi đấy. Một năm nay người đàn ông được thị cho ăn uống, tắm rửa, hát ru, xoa bóp, nói chuyện... thì có khác gì người thân đâu. Như thằng cu Đức, chỉ có mấy phút ôm nó vào ngực mà nó đã luôn hồi thành kiếp người, để nó thành con thị. Khi nó ốm nó đau thì nỗi lo của thị cũng không hề khác gì ba đứa kia. Khi nó khoẻ mạnh, lúc nó cười thì thị cũng vui chẳng khác gì với ba đứa kia. Nay cái người đàn ông xa lạ kia cũng như người ruột thịt của thị.
 
Thị đã không thể nói cái điều định nói cho bà chủ biết. Một phần vì thị chẳng biết diễn đạt thế nào, phần nữa vì thị cũng thấy xấu hổ. Cái chuyện tế nhị tế tam này.

- Chị kể cho cu nghe con gái quê chị nhé. Con gái quê chị ai cũng chân to, chân to mới bám đất. Tay cũng to, tay to để làm. Con gái quê chị chẳng có đi học cao đâu, biết đọc biết viết rồi thôi. Trồng lúa trồng khoai thì chẳng cần học nhiều làm gì. Ngày xưa con gái quê chị chẳng ai đi xa khỏi làng. Con trai cũng không đi ra khỏi làng. Khi còn chiến tranh thì có nhiều người đi ra khỏi làng. Đi bộ đội ấy mà. Có người không phải đi bộ đội cũng xung phong vì thích đi khỏi làng. Đi nhiều lắm nhưng về ít thôi. Họ hy sinh. Có bà mẹ Gái ở đầu làng có chồng và 5 con trai đi bộ đội cả. Họ hy sinh tất mẹ Gái ở một mình cô quạnh. Mẹ được cả làng đùm bọc. Nhà có bát canh ngon cũng mang biếu mẹ. Khi đất nước hoà bình mẹ Gái được nhà nước phong tặng mẹ anh hùng, được nhà nước xây nhà cho. Có nhiều người đến thăm mẹ lắm. Mẹ còn được lên cả tivi. Mỗi lần lên tivi thì ngực mẹ đeo những cái lấp lánh. Ngưòi làng bảo là vàng đấy. Người làng cũng không hay đến nhà mẹ như xưa. Làng chị người ta cũng khái tính lắm. Người ta hay bảo thấy người sang bắt quàng làm họ. Nhưng cái chính là người ta ngại những cái lấp lánh trên ngực mẹ. Người ta bảo vàng thì phải tránh xa ra. Rồi mẹ Gái chết. Trên ngực mẹ người ta vẫn đeo những cái lấp lánh. Bỗng một hôm mộ của mẹ bị đào lên. Chuyện động giời. Ở làng chị từ xửa xưa không bao giờ có chuyện động giời như vậy. Lâu sau người ta bắt được một tên bán vàng giả. Hỏi cung hắn khai hắn đã đào trộm mộ mẹ Gái để lấy những cái lấp lánh trên ngực mẹ mà hắn tưởng là vàng. Những người bắt hắn cả cười chê hắn ngu dốt quá, không biết thế nào là huân chương thế nào là vàng. Hắn bị bỏ tù mấy năm vì tội ngu dốt đó. À, con gái làng chị cũng có người phải bán xới đấy. Mẹ chị bảo không được dùng từ ra đi, cái ngữ đấy phải dùng từ bán xới, cái giống đàn bà đi hoang. Cái chị đấy hơn chị một tuổi, xinh gái lắm. Chồng chị ấy chết mấy năm rồi mà bỗng dưng lại có chửa đẻ ra thằng cu rất đẹp. Cả làng dè bỉu, chửi bóng chửi gió, thấy mặt chị ấy đâu là gọi con chó hoang. Chị ấy cắn răng chịu đựng chờ người đàn ông của chị ấy nhận vợ nhận con nhưng người đàn ông ấy đã không dám nhận, thế là chị ấy phải bế con đi khỏi làng. Chị ấy cũng gan dạ lắm, chứ mà chị thì có lẽ chị cắn lưỡi mà chết mất.

- Cu, ánh mắt cu nhìn chị sao thế? Cu muốn nói gì với chị à? Hay là cu buồn tiểu.

Thị lấy bô hứng vào nhưng con giống con má nó không tiểu. Nó cất cao đầu gật gù. Thị nhìn đăm đắm vào nó như bị thôi miên. Nó đã lớn bổng lên mập mạp như củ dong giềng. Người thị bỗng nóng bừng. Thị thấy máu trong người thị chảy rào rào. Thị lại thấy hai cái tý thị co tròn lại, phía cửa mình nước đang ào ra. Thị bỏ chạy ra khỏi phòng. Thị ngồi xuống nghế và thấy da mặt mình tê bần.

- Cu, cu tiểu đi. Được rồi. Hôm nay ngoan. Cu đừng trêu chị nhé. Cu làm chị tủi thân lắm đấy. Chị cũng là con người, cũng khao khát nhớ nhung. Hồi chị ở nhà thi thoảng có cán bộ phụ nữ huyện về nói chuyện. Họ bảo con người khác con vật là phải có lý trí. Có lý trí thì sẽ chiến thắng dục vọng. Ban đầu chị cũng tin nhưng sau thì chị chả tin. Chị đẻ 3 con rồi, không muốn đẻ nữa. Chị với chồng chị có lý trí rất cao là không đẻ nữa thì không được chửa nữa. Thế mà chị vẫn bị chửa. Chửa rồi thì phải đi kế hoạch tội lắm. Chị với chồng chị không chiến thắng được dục vọng. Giờ cu cứ trêu chị thế là không được đâu đấy.

Thị nghĩ hay là lại đóng bỉm vào cho ông chủ. Chứ cái cách con giống con má của ông chủ nó cứ cất cao đầu thế kia thì thị không thể chịu đựng được. Thị cũng chả hiểu sao, cứ thấy thị là nó lại cất cao đầu. Ừ thì thị cũng biết là ông chủ đang dần khỏi bệnh. Ông chủ đã có cảm giác ở một số bộ phận. Nhưng sao lại không ở các bộ phận khác mà lại ở cái bộ phận nhạy cảm này cơ chứ. Nó làm cho thị rất khó làm việc. Như hôm trước ấy, khi tắm cho ông chủ, lúc chị kỳ cọ đến cái chỗ nhạy cảm đó, nó cứ phồng to nên rồi cứng nhắc. Thị đã đỏ mặt tía tai chạy ra khỏi nhà tắm. Nhưng đến khi quay lại để tắm tiếp cho ông chủ thì thị đã không cưỡng được cảm xúc của chính thị, khiến thị cứ nắm chặt tay vào cái con giống con má. Cái chết nữa là đêm ngủ thì thị lại mộng mị. Thị nằm mộng có một người đàn ông hôn thị khiến cho cảm xúc thèm khát của thị đang ngủ im bật dậy. Thị nhớ rõ mồn một giấc mơ tối qua là thị đã nắm chặt lấy con giống con má để đưa nó vào người thị mà không được. Thị tỉnh giấc trong ngất ngây của sự khát thèm.

Hay là đóng lại bỉm cho ông chủ? Từ lâu rồi bà chủ đã không còn phải mua bỉm cho ông chủ nhưng vẫn còn một bịch chưa dùng đến. Đóng bỉm thì dễ thôi. Thị đã quá quen với thao tác này rồi. Chỉ có điều khi bà chủ hỏi tại sao thì biết nói thế nào. Còn... cái chính là thị thương ông chủ. Đã tháo bỏ được sự khó chịu bấy nay, giờ lại đeo vào thì khổ quá. À, thị đã có cách. Thị sẽ không xoa bóp cho nữa, có nghĩa là thị sẽ ít tiếp xúc thôi.

Thời gian quả là dài với thị. Bây giờ đã là thu rồi. Việc tắm rửa cho ông chủ cũng không phải ngày nào cũng cần. Lại nhờ có thị huấn luyện nên ông chủ đã đi tiểu đi tiện chủ động. Thành ra thị rỗi việc. Mà cái sự rỗi việc bây giờ nó khác cái lúc thị mới đến, là chỉ nhớ chồng nhớ con rồi khóc. Cái sự rỗi việc bây giờ nó lại làm thị nghĩ đến một cái. Một cái, nó đã như nỗi ám ảnh thị. Nó ám ảnh thị ghê gớm. Nó đẩy cảm giác của thị thành sự thèm khát. Thị thèm khát. Thời gian như kẻ đồng loã với thị. Nó hối thúc thị.

Thị mộng mị đi vào phòng ông chủ. Cái ánh mắt của ông chủ như thúc vào tim thị. Cái ánh mắt mừng rỡ. Thị nhìn sâu vào cái ánh mắt mừng rỡ đấy rồi thị trút bỏ áo quần của thị. Thị lật chiếc khăn mỏng đắp trên người ông chủ. Con giống con má đang cất cao đầu chờ thị. Như giấc mơ đêm hôm nào thị cần lấy nó đưa vào cơ thể thị. Thị đã không phải thức giấc trong sự thèm khát cháy bỏng nữa. Thị đã thoả mãn.

Thị không mộng mị nữa. Thị sợ hãi tột cùng. Thị vội vàng xả nước vào bồn. Thị mang ông chủ vào tắm rửa sạch sẽ, rồi thị cũng tắm rửa. Thị xả nước và xát rất nhiều xà phòng vào thân thị. Thị kỳ cọ thật mạnh. Thị muốn lột da thị. Xong xuôi thị nhìn đồng hồ. Còn phải 4 giờ nữa thì bọn trẻ mới về và bà chủ thì 6 tiếng nữa. Thị suy nghĩ về việc thị vừa làm. Đồi bại, thị rủa mình. Sao lại tệ hại đến vậy, cái thứ đàn bà xấu xa. Thị cũng chỉ biết rủa mình đến thế thôi. Thị ân hận vì mình đã làm cái việc xấu xa ấy, thị khóc. Thị khóc nhiều lắm. Khóc mụ mị cả người. Khóc đến muốn chết thì thị sợ. Thị sợ phải chết nơi đất khách quê người. Thị sợ chết thì không ai mang tiền về cho chồng thị xây nhà và các con thị không có ai chăm sóc. Thế là thị ngưng khóc nhưng tim thị vẫn đau ràn rạt. Thị muốn nói, thị muốn được chia sẻ, thị muốn thanh minh. ở cái đất này thì có ai nghe thị nói đây, vả người ta có nghe thì người ta có hiểu nổi thị nói gì không? Thị đã là người câm suốt từ khi đặt chân đến đất này. Chỉ có một người thị có thể chút bỏ những tâm sự. Người đấy có nghe được thị nói gì không, thị không cần biết. Thị cần phải nói với người ấy để trút bỏ nỗi lòng.

Ông chủ đang thức, ngửa mặt nhìn lên trần nhà. Thấy thị bước vào bèn hướng ánh mắt về phía thị. Lại cái ánh mắt mừng rỡ. Thị nhìn vào mắt ông chủ. Và chị đã nhận thấy mắt ông chủ trong veo như mắt trẻ con. Sao cái sự hớn hở kia nó lại giống cái ánh mắt của thằng Đức khi nó vén áo thị lên để bú thị. Trời ơi, sao mà nó giống vậy. Thị bật khóc nức nở. Thị úp mặt vào ngực ông chủ khóc ồi ồi: Cu ơi, chị có tội với cu quá. Chị còn mặt mũi nào mà nhìn các con chị, nhìn chồng chị nữa đây. Chị không muốn sống nữa, nhưng chị cũng không thể chết. Chị cũng không thể biết được tại sao chị lại hành động như thế. Cu có hiểu được cho chị không? Chị cũng là con người mà. Chị sợ bà chủ biết lắm. Bà chủ mà biết thì bà đuổi chị, không trả chị tiền nữa thì chị chết mất. Chị chỉ còn mấy tháng nữa là được về nhà rồi.

Cu ơi cu đừng khinh chị nhé. Chị đến nhà cu làm việc đã gần 20 tháng, là gần 600 ngày, chị chỉ có cu là bầu bạn. Vui sướng, buồn đau chị chỉ biết thổ lộ cho cu. Chị nói cười cũng là cho cu. Nếu không có cu chị không biết là chị sẽ như thế nào. Chị biết cu đang dần khỏi bệnh rồi đấy. Cứ yêu thương chăm sóc cu như chị đã yêu thương chăm sóc cu thì chỉ ít lâu nữa là cu sẽ khỏi bệnh thôi. Khi nào chị sắp về chị sẽ nói với trung tâm để họ nói lại với bà chủ.

- Cu ơi, cu tha lỗi cho chị nhé, chị lại phải đóng bỉm lại cho cu thôi, chứ cu cứ trêu chị thế thì chị lại khổ mất. Chị...

Đột nhiên thị ắng tạnh. Có cái gì đang bò trên tóc thị. Thị lặng im để nghe ngóng. Cái gì đang bò trên tóc thị. Cái gì? Thị đưa tay lên tóc để tóm con gì đang bò trên tóc thị. Thị đụng vào một bàn tay. Bàn tay đang ngọ nguậy trên tóc thị. Thị nắm chặt lấy bàn tay đó rồi ngửng đầu reo lên:

- Ôi, tay cu à? Tay cu cử động được rồi à? Đấy chị biết ngay mà, cu sẽ khỏi bệnh. Cu khỏi bệnh rồi. Tay cu cử động được rồi mà. Hay quá. Cu giỏi quá. Để chị thơm cu một cái nào.

Thị áp mặt thơm vào má ông chủ. Ông chủ đã cảm nhận được cái hôn của thị, người ông chủ run lên. Và điều kỳ diệu hơn tay ông chủ đã nắm được tay thị.

- Ô, cu nắm được tay chị đấy à? Tuyệt vời quá. Tuyệt vời quá. Thế thì chị thơm cu một cái nữa nào. Sao thế? Sao cu khóc. Nước mắt ướt cả má chị này. Để chị lau nước mắt cho nhé. À, cu cảm động đấy mà. Cu khỏi bệnh nhanh lên rồi về quê chị chơi nhé. Quê chị toàn những người như chị thôi. Nhất mực vì chồng con nhưng cũng biết thương người. Cu khỏi bệnh nhanh lên rồi về quê chị chơi. Tuyệt vời quá. Tuyệt vời quá.

Thị đâu biết rằng sấm sét đổ xuống đầu thị. Cái máy nhỏ, có cái lỗ nhỏ mà mấy hôm trước bà chủ gắn trên tường phía đầu gường của ông chủ, mà thị cứ tưởng là cái máy xua muỗi cho ông chủ, thì ra là một cái cam ra. Nó đã ghi lại trung thực nhất cử nhất động của thị mà thị đâu có biết. Nửa đêm hôm đấy thị đã bị bà chủ túm tóc lôi dậy. Bà chủ vừa khóc vừa hét lên be be và đấm đá thị túi bụi. Đến mờ sáng thì thị bị công an đến giải đi.

Thị bị nhốt vào trại giam mà không hiểu mình đã mắc tội gì? Cho đến một tuần sau có người của công ty đến nói cho thị biết thị đã phạm tội quấy rối tình dục ông chủ. Thị sẽ bị ra toà và có thể bị tù giam đến 5 năm. Thị đã ngất xỉu khi nghe tội danh của mình. Sau đó thì thị đã tìm cách tự tử. Bị canh nghiêm ngặt nên thị đã tự tử không thành. Rồi thị bình tĩnh lại để nghĩ. Thị không thể chết một cách oan uổng như vậy. Nhất là sau khi được một luật sư đến gặp, nói sẽ bào chữa cho thị. Ông luật sư còn nói, chính thị sẽ phải tự bào chữa cho chính thị. Đó là cách tốt nhất.

Ngày mai thị sẽ phải ra toà. Thị đang nghĩ rất nung nấu cách bào chữa cho mình. Thị đã sắp xếp cuộc đời thị thành một câu chuyện có đầu có cuối một cách dễ hiểu. Còn cái làm thị suy nghĩ và cân nhắc là thị có nên yêu cầu gia chủ đưa cuốn băng kia ra không? Nếu đưa cuốn băng đó ra công khai thì hình ảnh thị trần truồng ngồi lên trên ông chủ sẽ bị phơi bày trước thiên hạ. Điều đó thật là khủng khiếp. Nhưng nếu cuốn băng đó được đưa ra thì thiên hạ cũng sẽ thấy được sự yêu thương của thị đã làm cho ông chủ đang dần khỏi bệnh. Thiên hạ sẽ thấy được bàn tay ông chủ vuốt tóc thị, nắm tay thị và nhưng giọt nước mắt của ông chủ như thế nào? Một căn bệnh mà y học đã phải bó tay, vậy mà thị lại làm được. Những giải thưởng cao quí của nhân loại đã được trao cho những người tìm ra cách chữa các bệnh hiểm nghèo là gì? Không, thị không cần giải thưởng cao quí đó. Thị chỉ muốn về với chồng với con. Thị chỉ muốn đừng trừ tiền công lao động mà thị tích cóp được. Thị chỉ muốn thiên hạ hiểu cho được những nỗi thống khổ của những người đàn bà nghèo phải rời bỏ quê hương đi làm ăn. Thị chỉ muốn thiên hạ hiểu cho những nỗi thống khổ của đàn bà. Thị chỉ muốn thiên hạ nhận ra sự tốt đẹp của đàn bà để tha thứ lỗi lầm cho họ.

Thị sẽ làm tất cả những điều thị nghĩ. Thị sẽ yêu cầu gia chủ mang cuốn băng ra toà. Thị biết nếu như vậy thì một lần nữa thị đã mang trọng tội với chồng và hai con gái thị. Lời nói đã rất khủng khiếp rồi, giờ lại là hình ảnh trực diện thế này. Thị đã hiểu được một điều, thế giới mênh mông nhưng có một thứ xuyên suốt truyền đi nhanh lắm. Cái thứ xuyên suốt đó là cái gì thì thị không biết được. Cái làng quê của thị cũng không thể nằm ngoài cái sự xuyên suốt đó. Nhất là cái làng quê nghèo của thị vẫn có những phụ nữ đi ra nước ngoài làm ăn như thị.

Thị lại còn nghĩ được những điều to tát chứ. Trên thế giới mênh mông có nhiều làng quê của các dân tộc khác cũng ra nước ngoài làm ăn như thị. Họ là những phụ nữ nghèo. Thị muốn nói thật to trước toà một câu nói mà mọi người đều có thể hiểu. Thị cố nhớ lại cái câu tiếng Anh cô giáo đã dạy cho thị trước khi ra nước ngoài: I am: Tôi là. I am: Tôi là. I am đàn bà. Đúng rồi I am Đàn bà, thị sẽ nói câu đó thật to trước toà.

Rất thanh thản thị thiếp đi.

8/3/2006


H Ế T
 
Chuyện tình yêu
Nguyên Hương



Giọng Huy thì thào: “Lan Anh”. Hai tay Huy quờ quạng về phía trước trong khi Lan Anh đang ở bên phải. Tay của Lan Anh nắm chặt vạt áo.

Một lần nữa, Huy gọi tên Lan Anh. Và Lan Anh: “Dạ”.

Tay Huy đột ngột giơ cao rồi như rơi xuống vai của Lan Anh. Lan Anh giật mình nín thở khiến bụng áo túm lại và khuôn ngực ưỡn ra, dáng đứng như nhướng cao lên chờ đợi. Vòng tay Huy xuôi xuống hông, chạm vào phần đẹp nhất của dáng người Lan Anh là vòng eo. Cô Gia Linh thấy nhẹ nhõm cả người. Đúng vậy, nhẹ nhõm và hài lòng.
Nếu Lan Anh có làn da trắng hồng và nếu Lan Anh có khuôn mặt công chúa thì những điều đó cũng là không. Nhưng với dáng người thì Huy có thể cảm nhận được toàn bộ nét đẹp của nó. Những ngón tay nổi gân xanh của Huy xoải ra gang quanh vòng eo như muốn đo xem nó thanh tú và cân đối đến nhường nào. Rồi Huy cầm tay Lan Anh đặt lên mặt của mình. Những ngón tay tái trắng dò lần trên khuôn mặt có hai gò má hóp của Huy, hai vành tai vểnh và những cọng tóc dựng lên sau gáy.

Huy giữ ngón tay Lan Anh lại giữa hai vành môi của mình. Rồi đôi môi Huy bắt đầu tìm đến khuôn mặt Lan Anh. Nhẹ nhàng chạm đến vầng trán. Nóng vội lướt xuống sống mũi, trượt qua gò má... Run rẩy, Lan Anh hé miệng, hai cái răng cửa thấp thoáng sáng trắng sau màu hồng của đôi môi căng mịn.

Môi Huy lần tìm giữa hương hoa ngào ngạt.


* * *


Chưa từng có tiền lệ nên hiệu trưởng rất bối rối. Mười năm, bao gian nan để biến từng phần của cái rẫy cà phê thành trường nuôi dạy các em khuyết tật, nay mới mở được vài lớp học nghề cho các em lớn với mục đích là những em này sẽ trở thành trụ cột cho những lứa sau.

Chăm sóc bọn trẻ từ nhỏ, quá hiểu nỗi khổ của khiếm khuyết, bà hiệu trưởng tốt bụng chỉ mong sao cho khi chúng lớn lên có được cái nghề để tự nuôi thân, bà quyết không để học trò của mình trở thành những kẻ ăn bám lòng từ thiện. Mong muốn duy nhất đó choán toàn bộ tâm trí và sức lực của hiệu trưởng, không còn chỗ cho điều nào khác.
Làm sao đây? Lần ngón trỏ đọc hết lá thư tình viết chữ nổi của Huy gửi cho Lan Anh, hiệu trưởng giật mình. Bà lục hồ sơ của hai đứa, tìm tờ phiếu trích ngang lý lịch, “Khi cần thiết, liên lạc số điện thoại...”. Bà phân vân thật lâu.

- Cô Gia Linh.

- Dạ?

- Chuyển thằng Huy từ lớp mátxa của thầy Tường qua lớp nhạc của cô nhé. Nó chơi đàn cũng được phải không?

- Dạ. Tôi từng đề nghị với phụ huynh của Huy cho em học nhạc nhưng họ thích nghề mátxa vì thực tế hơn. Tôi sợ họ sẽ phật ý khi thấy...

- Chỉ là để tạm tách hai đứa xa ra thôi mà.

- Tạm tách?

- Trước mắt là vậy. Thật sự tôi chưa biết nên làm thế nào. Nếu cô là tôi thì cô sẽ làm gì?

- ...

- Tôi giao Lan Anh cho thầy Tường, phần cô là thằng Huy. Cô hiểu ý tôi không?

- Dạ hiểu. Nhưng không phải lúc nào tôi cũng có mặt tại trường.

- Buổi tối tôi sẽ nhờ bảo vệ canh chừng.

- Bà vừa hỏi nếu tôi là bà thì tôi sẽ làm gì.

- Cô sẽ làm gì?

- Tôi sẽ báo cha mẹ chúng biết ngay, còn hơn là để đến lúc quá sâu đậm.

- Tôi tiếc hai đứa đang học nghề dở dang. Một cái nghề với tụi nó là điều rất quan trọng. Cô đồng ý không?

- Quan trọng với bất kỳ ai.


* * *


Tiếng đàn của kẻ đang yêu hào hứng sôi nổi đến nỗi lớp nhạc rộn ràng hẳn lên. Ngọc Huệ, giọng ca số một của lớp nhạc, mấy hôm nay im bặt vì cảm cúm mà cũng tham gia hát hò vui vẻ dù sau mỗi bài hát là ôm ngực ho sù sụ, Huy phải day huyệt trị bệnh nhức đầu cho Ngọc Huệ. Ngọc Huệ hết lời ca ngợi phép chữa bệnh cúm bằng day huyệt khiến ai nấy đều kéo đến phòng mátxa lấy lý do tự nguyện làm người đau ốm cho học viên thực hành!

Mùa hoa cà phê là mùa cảm cúm, chứng bệnh có thuốc tiên cũng phải khật khù vài ngày. Mọi người chê thầy Tường sao không giỏi bằng Huy! Thầy Tường giơ hai tay lên trời và thấp giọng giải thích: “Ngón tay của kẻ đang yêu có điện cho nên...”.
Sức lan tỏa của tình yêu khiến không khí tươi mát những trêu chọc đùa nghịch. Cả cô Gia Linh, người biết rõ đoạn cuối của vở kịch, cũng có lúc bị lây lan không khí phấn chấn mà đâm ra mơ màng một kết thúc khác.

- Hứa hẹn một sự điều trị bệnh yêu không cần biện pháp thô bạo hả Gia Linh? - Thầy Tường nói.

Cô Gia Linh hỏi:

- Lan Anh thế nào?

- Mọi hôm xoa bóp cho một bà hơi nhiều xương là nó đã than thở mỏi tay quá rồi đòi đứa khác phải xoa bóp tay cho mình, bây giờ thì làm không biết mệt, quên cả giờ giấc.

- Chắc con bé tưởng thằng Huy qua đây tập đến lúc diễn văn nghệ xong sẽ về lớp mátxa lại.

- Tôi cũng muốn nghĩ vậy - thầy Tường đốt một điếu thuốc, phả khói xám xịt - Giá như nó đoán biết được chúng ta thật sự đang làm gì, và nó khóc lóc vùng vằng gây gổ. Đằng này ngược lại, nó đang cố gắng để chứng tỏ nó tốt đẹp hơn khi yêu. Mà quả là nó đẹp hơn, lúc nào cũng tươi tắn rạng rỡ. Tôi không chịu được ý nghĩ là mình đang lừa dối nó.

- Sắp xong rồi.

- Sắp xong cái gì?

- Hiệu trưởng nói tiện nhất là dịp tết bọn nhỏ về nhà, bà ấy sẽ báo cho gia đình của hai đứa biết rồi tùy họ quyết định.

- Nếu là cô, cô có cho con của mình tiếp tục trở lại trường không?

- ...

- Hả, Gia Linh? Cô trả lời đi.

- Không. Còn anh?

- Nếu con của tôi là con gái thì tôi cũng không.

- Con trai hay con gái trong trường hợp này là như nhau.

- Hãy đợi qua tết, cô sẽ thấy tôi nói đúng. Bao giờ trường mình nghỉ tết?

- Sáng ngày hai mươi sáu diễn văn nghệ xong là nghỉ luôn.

- Vậy chỉ còn vài ngày. Gia Linh, chúng ta có nên tặng cho hai đứa một món quà trước khi tụi nó chia tay vĩnh viễn không?

- Anh nói bằng giọng như sắp rủ tôi đi ăn trộm.

- Mối tình này có thể là niềm vui duy nhất trong cuộc đời của hai đứa nó.

- Ừ.

- Một cơ hội cho hai đứa gặp nhau, tôi muốn nói là gặp nhau đúng nghĩa tình nhân. Tất nhiên tôi và cô sẽ canh chừng không để xảy ra điều ân hận. Mẹ kiếp, có nên gọi đó là ân hận không? Cô hãy chọn một chỗ nào cho hai đứa suốt đời nhớ. Tôi muốn nói là có thể hình dung ra được chút chút.

- Đang mùa hoa cà phê.

- Đúng rồi, mùi hương.


* * *


Khi môi Huy chạm môi Lan Anh đang hé mở, cô Gia Linh định quay mặt đi nhưng vừa lúc đó cô nhìn thấy con kiến vàng bò lên chân Lan Anh.
Con kiến chui vào quai xăngđan rồi ló ra ở bên trên mu bàn chân. Nó bò chầm chậm, thong thả như đang bò trên một cành cây khô. Rồi chợt nhận ra sự chuyển động của bàn chân khi Lan Anh nhướng người lên, con kiến thay đổi thái độ, nó ngừng lại, hai con mắt màu vàng lửa man dại dụi xuống.

Cô Gia Linh trân trân nhìn những con kiến bò lên chân Huy và Lan Anh, thêm một con nữa, một con nữa... Cô giật mình, con kiến đuôi đen. Nó biến mất ở sau quai xăngđan rồi lổm ngổm hiện ra, bò lên cao hơn..., màu trắng xanh của làn da làm nổi bật cái đuôi đen nhổng lên.

Kiến đuôi đen mà cắn thì pho tượng cũng phải nhảy nhổm lên và phải uống thuốc hạ sốt.

Tiếng hét, hai thân hình buông ra và phủi giũ lia lịa, những cú nhảy khiến cành cây kêu răng rắc.

Mấy con kiến nằm ngoài vùng bị phủi giũ vẫn tiếp tục bò lên cao.


* * *


Mọi người xì xào cái án kỷ luật dành cho cô Gia Linh và thầy Tường. Bà hiệu trưởng không nói gì, chỉ lẳng lặng mỗi khi chạm mặt hai người. Cái án treo lơ lửng đến ngày cuối năm thì hiệu trưởng gọi cô Gia Linh và thầy Tường lên văn phòng.

- Bọn trẻ sắp thêm một tuổi nữa - giọng bà như tiếng thở dài.

Cô Gia Linh “Dạ”.

- Chúng ta phải đối diện với một thực tế là rồi tụi nó sẽ có đứa giống thằng Huy và Lan Anh. Mà mình không thể ngăn cấm. Bằng cách này hay bằng cách khác.

Cô Gia Linh và thầy Tường đỏ mặt.

- Nhưng tự mình không bảo vệ được mình, không bắt nổi con kiến đang bò trên người mình thì làm sao mà tính chuyện xa xôi? - bà hiệu trưởng cao giọng.

Lặng im.

- Các vị có thương học trò của mình thì thương cho trót, có tạo điều kiện cho chúng được biết hương vị yêu đương thì cũng phải giải thích cho chúng hiểu rõ số kiếp của mình để mà... Các vị hiểu ý tôi không? - giọng giận dữ vụt xẹp xuống - Các vị cho tôi là gỗ đá sao?

Đúng như thầy Tường đoán, qua tết chỉ mình Huy trở lại trường. Tất nhiên Huy chưa biết điều gì đang chờ đợi mình. Sau tết, người nhập học trễ là chuyện bình thường.

Bữa ăn đầu năm có cà ri sườn chấm bánh mì. Khi đầu bếp thông báo bàn dành cho những đứa lớn được uống bia thay vì nước ngọt thì tiếng vỗ tay reo vang. Ngồi xen kẽ câm điếc và mù để đứa câm điếc gắp thức ăn cho đứa mù, và khi đứa mù nhè xương ra thì đứa câm điếc giúp hứng vào một cái chén.

Nhưng cụng ly thì mạnh ai nấy cụng. Những đứa mù giơ cao ly đón tiếng “cụp” dội lại. Huy cũng giơ cao cái ly bằng nhựa của mình, tiếng “cụp” dội lại làm ly bia chao đổ tràn ra tay. Huy mỉm cười, hai hốc mắt căng ra:

- Ai đó?

- Là anh Huy hả? - giọng Ngọc Huệ ríu rít.


* * *


Huy trở về lớp mátxa.

Học trò đã đến trường đông đủ trừ Lan Anh.
Thầy Tường nhìn theo Huy thơ thẩn đi ra cổng sáng sáng chiều chiều, hai tai vểnh lên nghe ngóng. Vết cắn của con kiến đuôi đen làm thành một cái sẹo sau gáy Huy.

Đến một ngày Huy không ra cổng nữa. Huy qua lớp nhạc của cô Gia Linh mượn đàn hát bài Nhớ. Ngọc Huệ thường kiếm cớ nhức đầu qua lớp thầy Tường nhờ Huy day huyệt. Rồi Huy dạy Ngọc Huệ day lại cho mình. Ngón tay Ngọc Huệ còn vụng về đụng phải cái sẹo:

- Anh bị sao vậy?

- Hồi nhỏ anh bị té.

Chuyện tình yêu muôn thuở giống nhau là tự dưng mình biết nói dối. Và giống nhau nữa là biết trước phải chia ly mình cũng không thể không yêu.


H Ế T
 
Những mảnh đời ghép lại
Đào Thị Thanh Tuyền



Người ta nói xây nhà là việc lớn, quan trọng của cả một đời người, phải chuẩn bị một thời gian khá dài, phải coi ngày, coi tháng, coi tuổi... Thế nhưng, tất cả đối với tôi như trong một giấc mơ.

Đùng một cái, khi con đường được nâng cấp, láng nhựa và tôi nhận được tờ giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, tôi quyết định cất lại ngôi nhà mình đang ở. Nội cái hành trình để có được tờ giấy sở hữu một căn nhà chưa đến bốn mươi mét vuông của tôi là cả một đoạn đường đầy khó khăn, gian khổ.

Căn nhà tôi ở ngày trước là một căn nhà lụp xụp được tách ra từ một phần ba căn nhà lớn do người chủ cắt bán đi dần, mà bạn bè thân thiết thỉnh thoảng vẫn đùa là cái chái của nhà bên kia. Khi tôi mua ngôi nhà này, người ta điều ra tiếng vào, vì bề ngang của nó quá hẹp chưa đến ba mét và nằm ngay ngã tư đường, nếu có vô đường, nhà tôi chẳng còn gì hết. Tôi sống trong một tâm trạng không thoải mái như vậy mười hai năm trời, với căn nhà ngày càng xuống cấp, trời nắng thì gió bụi bay đầy nhà, trời mưa dầm thì dột, có khi phải chăng áo mưa lên màn mà ngủ. Mưa dứt đã ba bốn ngày mà tôi vẫn còn để thau hứng, do nước bị ngấm no từ sàn đúc phía trước nhỏ xuống. Chật chội vì bề ngang quá hẹp, nhà tôi thoạt nhìn vào trông như một cái kho hàng, đồ đạc sắp đầy hai bên chỉ chừa một lối đi nhỏ xíu...

“Đau bệnh tìm thầy già, làm nhà kiếm thợ trẻ”, tôi quyết định chọn Đạt làm nhà thầu qua lời giới thiệu của mẹ tôi, một người nổi tiếng là kỹ và khó tính: “Mẹ thấy nó hiền”. Ở đời yếu tố hiền đâu phải dễ kiếm. Tôi chỉ nói với Đạt trong hợp đồng miệng: “Chị tin tưởng hết ở em”. Đạt ba mươi tuổi, lúc đó vẫn còn độc thân. Chồng tôi cũng là một người khó tính, thế nhưng khi gặp Đạt anh cũng đồng ý với lý do đơn giản là Đạt cùng tôn giáo với gia đình. Trong đám thợ của Đạt có Cường, chuyên lo về vật tư, là anh em cột chèo sau này với Đạt, cũng là một thầy tu xuất.

Thợ hồ của Đạt đa phần là dân ở quê của tôi, toàn thợ trẻ, nhỏ tuổi hơn tôi nhiều lắm. Tuy nhiên, có một người học cùng lớp với tôi ngày xưa là Châu. Lúc đầu tôi không hề biết, bởi hằng ngày đi làm về, tạt qua ngôi nhà, tôi xem xét một chút rồi đi ngay. Một hôm Đạt nói với tôi: “Có một ông biết chị, ổng nói là bạn của chị, nhưng không dám nhận “bà con”, ổng còn nói ngày xưa chị học giỏi lắm...”. Tôi hỏi tới mới biết. Châu nói: “Bởi nghèo khổ quá, thấy bạn bè mắc cỡ”. Tôi cười thật to, nói một câu có cảm giác như mình nói theo một thói quen: “Thì anh thấy tui giàu gì cho cam, ở đời người ta sống chủ yếu là tình nghĩa...”. Sau đó, thân thiết và chan hòa hơn, Châu kể với tôi về những người bạn ngày xưa và cuộc sống hiện tại: “Bạn bè đa phần thành đạt cũng nhiều, chỉ có mình bởi ngày xưa học dốt, nên giờ phải đi làm thuê, làm mướn... Con bốn đứa, vợ buôn bán...”. Tôi nghe và trách sao đẻ nhiều, Châu cười một nụ cười thật hiền: “Trời cho nhiêu đẻ hết, giờ nuôi ăn học bắt hụt hơi”. Tôi an ủi Châu: “Thôi, dù gì con cái học hành được là ngon rồi, khối nhà giàu có con hư”. Châu cười rạng rỡ: “Nhờ trời thương, con cái không dốt như cha mẹ, ráng lo cho tụi nó sau này sướng, chớ đời mình khổ quá...”.

Trong đám phụ hồ ăn no vác nặng, có Phương mười tám tuổi, nhỏ người, đen đúa có đôi mắt to muốn choán hết cả khuôn mặt, tánh hay tự ái, ai nói động một tiếng là không thèm làm. Tụi phụ vẫn thường nói với nhau sau lưng Phương: “Muốn nó làm thì phải nói nịnh”. Phương kể với tôi cha mẹ nó bỏ nhau, mẹ lấy chồng khác, nó sống với bà ngoại tám mươi tuổi, đi làm phụ hồ nuôi ngoại. Nhìn cái dáng gầy nhỏ vác những bao xi măng oằn cả đôi vai, tôi phải quay đi và nhủ thầm: “Nó phải làm để sống”. Còn có anh Sáu, lớn hơn tôi vài tuổi lần đầu tiên đi làm phụ hồ là làm nhà tôi. Anh Sáu chăm chỉ làm việc, làm đâu dọn sạch sẽ đó, kể chuyện tiếu lâm rất hay, vui nhộn và dí dỏm. Ngày đầu tiên đến làm, anh nói với tôi: “Lần đầu tiên tui đi làm phụ hồ, tụi nhỏ chỉ đâu làm đó, lớn tuổi mà không có thâm niên, phải nghe theo lời tụi nó”.

Trong thời gian làm nhà, sốt ruột vì công trình, có những điều không thuận lợi trong công việc ở cơ quan, bức bối vì ăn ở chật chội ở nhà mẹ, mấy đứa con tôi thay đổi môi trường sống, chúng chưa kịp thích nghi, suốt ngày bị bà ngoại la hoài, tôi cảm thấy mình bị stress, dễ cáu gắt, phiền muộn. Bạn bè thân thiết động viên: “Cất nhà nhiều chuyện dễ bức xúc lắm, bỏ qua việc nhỏ, để tâm trí lo việc lớn”.

Đạt có nhiều công trình, nó phân bổ thợ, phụ đi theo từng cặp, từng nhóm gia đình cho ăn ý làm việc. Trong đám phụ toàn đàn ông ăn no vác nặng, nói năng bỗ bã có hai nữ là Nga và Vân, tuổi chưa đến ba mươi. Nếu xét cho cùng thì chẳng có họ hàng gì, bắt đầu có mối liên hệ bà con khi lấy chồng. Nga là chị dâu của Vân, hai đứa cứ suốt ngày vừa làm vừa tỉ tê. Cặp phụ này đi cùng với cặp thợ hồ là Mến và Phụng. Mến là chồng Vân, Phụng là anh ruột Vân. Tính ra, bốn người này bà con dây mơ rễ má. Nga ít nói, có đôi mắt rất buồn. Một hôm trời mưa, đám thợ hồ nghỉ hết, chỉ có mình Nga đến. Không có thợ thì phụ với ai, thế là Đạt cho Nga về. Nga nhìn tôi với đôi mắt thật buồn, tôi chợt nghĩ không biết, một ngày ở nhà của Nga có điều gì vui hơn khi làm việc ở công trường không. Nhìn chiếc xe đạp Nga khuất dần trên con đường, gió thổi ngược làm chiếc áo mưa bập bùng, lật phật, có cảm giác chiếc xe như muốn chao đi, chực ngã, tôi chợt nhớ đến gô cơm ém chặt thật đầy, chỉ có một chút cà xào, hái thêm vài trái me non của cây me sau nhà tôi, tôi nghĩ đến một ngày công phụ hai mươi hai ngàn, đạp xe mười lăm cây số từ quê ra thành phố, chiếc xe đạp cũng chỉ là một con ngựa sắt già nua cũ kỹ, đạp cọc cà, cọc cạch. Có một hôm, tôi hỏi chồng Nga làm gì, Nga nói chồng làm thợ hồ, nhưng giờ nghỉ rồi, ban ngày ngủ, ban đêm đi soi cá, ngày kiếm vài chục. Tôi hỏi Nga sao không kêu chồng đi làm chung. Nga nói: “Nhà có một chiếc xe đạp, đi xa ảnh chở không nổi”. Tôi liên tưởng đến cặp vợ chồng Mến - Vân, hằng ngày đi làm vợ chở chồng trên chiếc xe đạp cút kít. Vân lý giải: “Em làm việc nhẹ hơn, chở ảnh cho ảnh đỡ mệt. Tụi em đang để dành, phơi lương này, thêm phơi lương nữa là đủ tiền mua chiếc xe cúp 81”.

Có một cặp thợ đi cùng với nhau nữa là Xuân và Tiến. Xuân nhà khá giả, tay nghề cứng, Đạt cho coi ngó công trình. Tiến chưa lập gia đình, đi bộ đội về. Hai người này đều khéo tay, làm ăn cẩn thận, có trách nhiệm, đâu ra đó, chuyên công việc tô chỉ trang trí, lát nền, đóng men... Bởi làm ăn chỉn chu, biết để dành, nên hai người đều có xe máy, tuy không phải là xe đời mới, nhưng hai chiếc xe lúc nào cũng được lau rửa láng coóng.

Đạt cưới vợ khi công trình của tôi bắt đầu giai đoạn hoàn thiện, Cường nói với tôi: “Dự tính là xong công trình của chị, mới làm đám cưới nhưng không hiểu sao hai đứa nó cứ đòi nằng nặc xin bố vợ em cho cưới sớm”. Tôi cười: “Hay là có bầu chăng?”. Cường nói: “Không đâu, vợ thằng Đạt và vợ em hai đứa đều chưa muốn có con”. Tất cả những công trình của Đạt ngưng một ngày để ăn đám cưới, đúng nghĩa là ăn, vì Đạt mời thợ, phụ ngày hôm sau đám cưới. Đạt nói với tôi: “Mời ăn thôi, chớ mời đám cưới, tiền đâu mà họ đi, không có quà cưới thì tụi nó ngại, chị thấy đấy, toàn dân nghèo khổ cả”. Tôi quý Đạt ở tánh thương người, nó ít khi la lối thợ, phụ, nó vẫn thường nói với tôi: “Tụi nó làm mệt lắm, ép nó, nó làm không có chất lượng, đôi khi dễ xảy ra chuyện không hay”. Châu có lần nói với tôi: “Làm cho thằng Đạt, được cái lương đúng kỳ, có những ông thầu khác, nợ lương thợ năm này qua năm khác, nhất là các công trình nhà nước, mấy ổng cứ viện cớ: tiền rút không được, nản lắm”.

Có một bài hát mà tụi thợ hồ vẫn thường hay hát, tôi chỉ thuộc được hai câu: “Nhân gian kia mấy ai được vui. Yêu thương trong giấc mơ lẻ loi”. Mỗi khi có ai đó hát lên, bọn thợ thường đùa: “Con lạy cha, trời đang nắng để con làm, hát kiểu đó cha kêu trời mưa!”, rồi hết người này đến người khác vừa làm vừa trêu nhau. Anh Sáu nói với tôi: “Vậy mà vui chị à, có giỡn mới làm được”. Những bàn tay cầm bay uyển chuyển trát từng lớp xi măng lên tường, che giấu dần đi màu gạch đỏ, thỉnh thoảng lại buột lên câu hát, trên giàn lớp thợ tô, dưới giàn lớp thợ phụ, công trường lúc nào cũng rộn rã và vui, nhất là những câu chuyện tiếu lâm của anh Sáu.

Gần cuối công trình anh Sáu nghỉ với lý do: ở nhà xuống sạ, giống chuẩn bị hết rồi, bắt đầu vào mùa vụ. Tôi tiếc anh Sáu làm giỏi, Đạt cũng nói: “Ông Sáu này mới đi làm mà làm ngon”. Anh Sáu cười: “Đi làm đây cũng vui, nhưng việc nhà nhiều lắm”.

Đạt cưới vợ xong, nhiều chuyện xảy ra cho đám công nhân, ở một công trình khác một đứa phụ đang loay hoay dưới giàn, bỗng từ bên trên một miếng cốp pha rơi xuống, may mắn chỉ xẹt ngang trán, nhưng cũng phải đi bệnh viện cấp cứu. Rồi một ông chủ nhà khác bị giàn giáo ngã trúng đầu phải may mấy mũi. Nhưng có một chuyện rất buồn là trong đám thợ của Đạt có một đứa bị tai nạn giao thông và chết, tên nó là Lý, tuổi chưa đến ba mươi. Hôm đó Lý không đi làm, buổi tối đến nhà Xuân - Tiến chơi, hỏi thăm công việc ngày mai, lúc về bị xe máy tông, người gây tai nạn bỏ chạy mất. Nghe bọn thợ kể chuyện, tôi không hình dung được Lý là ai. Cường nói: “Thằng Lý cũng có xây nhà chị mấy hôm, sau tụi em chuyển nó xuống Hòn Rớ, nó có con vợ tên Loan, làm phụ ở nhà chị mấy ngày, người nhỏ nhỏ mà chị thường khen có hàm răng đẹp đó....”. Tôi nhớ đến Loan với chuyện nó bị mất chiếc xe đạp ở công trình khác. Cường chở tôi đi phúng điếu. Từ thành phố, đi về vùng quê tôi mất mười cây số theo quốc lộ, rồi rẽ, đi mãi, len lỏi trên những con đường đất, qua không biết bao nhiêu cánh đồng, tới sát chân núi mới đến được nhà Loan. Tôi nghĩ đoạn đường này với những ngày mưa gió cả hai vợ chồng phải chở nhau trên một chiếc xe đạp tìm đến thành phố kiếm miếng ăn mà thấy xót xa. Ngôi nhà nhỏ, xây gạch nhưng chẳng được tô trát gì, đời thợ chỉ chuyên đi tô điểm cho nhà người khác. Có ba đứa bé mắt tròn ngơ ngác, xôn xao khi nhà có việc. Loan rưng rưng nước mắt, nghẹn ngào khi thấy tôi đến thăm. Tôi nhìn bức hình trên bàn thờ vẫn không nhớ được Lý xây nhà tôi trong thời điểm nào. Sau này, đám thợ phụ thường nói với nhau: Thằng Lý thế mà sướng, giờ hết phơi đầu ngoài nắng, hết cầm bay, hô hồ, hô cát, xi măng rồi.

Ngôi nhà thành hình dần trong mắt khi lớp sơn mặt ngoài được phủ xong. Nhiều người khen nhà tôi đẹp, có người nói với tôi: “Không ngờ miếng đất nhỏ xíu như vậy mà cô cất được ngôi nhà to và đẹp quá”. Tôi cám ơn về một lời khen chân thành. Đạt nói với tôi khi quyết toán công trình: “Thường cất xong nhà, chủ nhà và thầu hay có mâu thuẫn, em sợ nhất điều này”. Tôi cám ơn Đạt thật lòng: “Tuy có những điều chưa ưng ý lắm, nhưng vợ chồng chị rất biết ơn em, ở đời đâu phải có tiền là có tất cả”.

Thỉnh thoảng Xuân, Tiến hay một vài người thợ nào đó ghé đến nhà tôi chơi, mỗi lần họ ghé chồng tôi lại lôi chai rượu ra. Họ không có việc làm, đang đi tìm việc. Đạt cũng chưa có công trình mới, một vài thợ giỏi, gắn bó lâu năm Đạt phải gởi các công trình bạn để còn sợi dây liên hệ với nhóm thợ cũ. Tôi muốn ví đời thợ như những người hát rong, đi diễn nơi này nơi khác kiếm sống, đem lại cho đời những ngôi nhà đẹp, đem lại hạnh phúc cho mọi người, riêng họ ít oi làm sao: một cái bay, bàn chà và cây thước thêm một gô cơm ém thật đầy, chẳng có chút gì gọi là dinh dưỡng, thế mà họ vẫn vui. Tôi vẫn hình dung được rõ ràng hình ảnh những con người cầm từng viên gạch, xúc từng bay hồ cho bức tường cao dần dưới ánh nắng mặt trời gay gắt, thỉnh thoảng lại buột miệng hát lên: “Nhân gian kia mấy ai được vui..., yêu thương trong giấc mơ lẻ loi...”, tiếng cười đùa, trêu chọc nhau rộn rã công trường...

Mùa xuân đã trở về cùng với những ngày nắng ấm. Có mấy chậu hoa quỳnh và chậu sứ, gần bốn tháng trời cất nhà tôi bỏ mặc chẳng hề tưới trên vuông sân thượng nhà cũ, giờ vẫn còn tươi roi rói như mới vừa có cơn mưa đêm qua, chậu bông sứ còn e thẹn nhú lên một đóa hoa màu hồng nhỏ xíu. Chậu hoa, dù không được chăm sóc, dù chỉ còn một chút sự sống mỏng manh vẫn cố gắng cho đời những cánh hoa đẹp. Tôi muốn cám ơn những người hát rong, những mảnh đời ghép lại làm nên cho tôi một ngôi nhà.


H Ế T
 
Status
Không mở trả lời sau này.
Back
Top