• Hiện tại trang web đang trong quá hình chuyển đổi và tái cấu trúc lại chuyên mục nên có thể một vài chức năng chưa hoàn thiện, một số bài viết và chuyên mục sẽ thay đổi. Nếu sự thay đổi này làm bạn phiền lòng, mong bạn thông cảm. Chúng tôi luôn hoan nghênh mọi ý kiến đóng góp để chúng tôi hoàn thiện và phát triển. Cảm ơn

1001 CÂU CHUYỆN CẢM ĐỘNG!!!

Status
Không mở trả lời sau này.
Cỗ cưới
Vương Tường Phu (Trung Quốc)



Người thôn Hà Biên trước hết thấy hai cha con đi vào thôn, sau đó mới biết họ đến nấu cỗ cho nhà Bí thư Vũ Quốc Quyền.

Cha con họ là đầu bếp nhà quê, rất thông minh, chưa bao giờ theo học nghề đầu bếp mà tay nghề đều do tự suy nghĩ, tích luỹ mà có, vì thế họ không giống với đầu bếp chính quy. Bảy đĩa tám bát trên mâm cỗ do họ nấu bao giờ cũng có hương vị riêng chả giống ai, dân quê rất thích.

Trông bề ngoài, hai cha con đầu bếp này cứ như hai anh em, đều đẹp trai và cao lớn. Họ rất nổi tiếng ở vùng này, một là vì cỗ họ nấu ra không bao giờ đểnh đoảng; hai là họ bao giờ cũng nghĩ thay cho chủ nhà; ba là vì họ không phụ trách việc mua đồ nấu, nhà chủ có gì họ nấu những thứ đó, hơn nữa bao giờ cũng cố nấu cho ngon. Như thế là đủ không giống những đầu bếp khác rồi, vì thế mà dần dần họ được nhiều nhà mời nấu cỗ.

Tuy vậy, hai cha con vẫn nghèo lắm. Anh con đã từng ba lần có bạn gái, nhưng chỉ vì nghèo mà các cô đều chỉ quan hệ được một thời gian rồi lại rút lui. Người cha rất buồn về chuyện hôn nhân không thành của con nên ông thường trầm lặng. Anh con đương nhiên còn nóng lòng hơn cả cha, cũng ít nói nhưng không buồn bã như cha mà tự trọng và tự cao gần như đến mức bệnh hoạn. Nếu như anh ăn nói sởi lởi thì chuyện vợ con có lẽ cũng thành được rồi, nhưng anh lại không biết (hoặc không chịu) tán tỉnh các cô hoặc giở các trò chim gái ranh mãnh của những anh trai lơ ra... Đó chính là tính thật thà, thẳng thắn của cả hai cha con.

Ba bếp lò thật to được xây trên bãi đất trống ngoài cổng sau nhà Vũ Quốc Quyền, phía sau bãi đất trống này là bờ sông. Dòng sông lặng lẽ, lấp lánh trôi dưới ánh mặt trời. Ngoài ba bếp lò thật to ra, nhà họ Vũ còn cho người vác ba tấm cánh cửa của trường tiểu học về đặt cạnh bếp làm nơi để đồ nấu, thế là cũng đủ phô trương rồi.

Thịt lợn đều mua ngoài lò mổ, tất cả là ba nửa lợn trắng ngồn ngộn bày trên phản, tiết đọng chỗ cổ còn tươi nguyên. Dê có hai con, được dắt về để mổ tại chỗ. Lại còn hơn hai chục con gà nhốt trong lồng tre, hai ngày nay đã được cho ăn ngô nên béo ra trông thấy. Hai cha con người đầu bếp đứng cạnh phản sắp xếp những thứ sẽ đưa lên mâm cỗ. Ba tảng thịt lợn phải lọc xương trước tiên, xương lọc ra còn phải chia đôi, xương chân giò và xương ống bỏ chung vào một thau, còn xương sườn bỏ vào một thau khác. Hai loại xương này dùng để nấu hai món khác nhau. Xương chân giò còn để lại nhiều thịt, nấu một món mà dân làng thường thích ăn là món xương hầm, hầm xong cho khoai sọ, cà rốt vào hầm tiếp cho nhừ. Xương sườn chặt thành từng khúc, món người ta thích ăn hiện nay là sườn xào chua ngọt, lúc sắp đơm ra đĩa thì bỏ thêm dứa vào. Món sườn này trước hết ướp mắm muối gia vị, cho vào nồi đun chín đến tám phần thì vớt ra, để ráo nước, bỏ vào mỡ đảo cho thơm, như thế sườn chín mềm mà lại không nát. Cầu kỳ hơn nữa thì sau khi sườn chín rút xương ra, rồi nhồi trở lại đấy những lát khoai môn đã rán vàng.

Hai cha con đầu bếp là người biết giữ phép tắc, họ chỉ nấu bếp ở phía sau nhà chứ không hề bước chân lên nhà trên. Đó cũng là do cẩn thận, nhà trên sau này có xảy ra việc gì, như mất gì đó hoặc vỡ gì đó thì chẳng liên quan gì tới họ. Tối đến, hai cha con ngủ trong lán dựng tạm bên cạnh bếp.

Lúc này hai cha con đã thái xong thịt thành từng món, thịt ba chỉ thái thành miếng vuông con cờ, bỏ vào nồi xào cho chín để làm món thịt phù nhự; thịt vai và thịt mông đem băm nhỏ, viên lại mà rán hoặc nhồi làm nhân. Sáu miếng thịt nách và gối được anh con lọc ra, trải bằng bặn trên phản, rải đều quế, hồi vào giữa rồi cuộn lại, quấn chặt dây thành hình ống. Món thịt cuốn này chỉ có bó thật chặt thì khi chín mới thành hình, thái ra làm món thịt nguội mới bày cho đẹp được. Làm xong mấy món đó, hai cha con quay sang băm thịt chan chát trên thớt làm nhân bánh bao.

Làm xong gà, hai cha con ngồi xổm trên đất rửa cá. Cá chép này người nơi đây cứ gọi là cá phúc. Ơ đây nhà nào cầu kỳ, khi có đám đều dùng cá chép, còn nhà nào giàu có khi ăn cá chép thì cầu kỳ đòi hỏi món cá chép bọc lá sen bỏ lò, nghĩa là phải nhồi nhân thịt vào bụng cá, gọi là món cá phúc. Chả có lý do gì nhưng người ở đây thích gọi như thế thì ai làm gì được họ?

Cung cách chơi sang của nhà chủ khiến người cha xúc động. Ông vừa nhồi nhân thịt vào bụng cá vừa nghĩ thầm, không biết khi cưới vợ cho con, ông có mời nổi khách ăn món cá phúc bọc lá sen này không? Hay lúc đó chỉ có thể mua cá diếc và nhồi đậu phụ vào bụng cá? Rồi ông lại nghĩ, nhà này cưới con dâu như thế nào mà làm cỗ sang đến thế? Cô dâu mới có phúc làm sao! Còn anh con trai vừa nhồi nhân thịt vào bụng cá vừa nghĩ, không biết chú rể nhà này mặt mũi thế nào? Lớn tuổi hơn hay nhỏ tuổi hơn mình? Hai cha con mải miết theo dòng tâm sự của mỗi người rồi ngay sau đó là đến lúc phải làm thịt dê.

Dê đã giết từ hôm qua, ở đây thịt dê chỉ làm có hai món, một là món thịt dê hấp nhừ. Món này trước hết phải nấu gần nhừ thì lấy ra thái miếng dài bằng ngón tay, sau đó xếp ngay ngắn trên đĩa đem hấp. Thịt dê không được nấu nhừ quá, vì nhừ quá thì không thấy được tài nghệ thái thành miếng đều tăm tắp. Món thứ hai là dê hầm, đầu, cổ và xương dê bỏ cả vào nồi ninh nhừ với nước, buổi sáng hôm đón dâu thì khách khứa và họ hàng đều đến sớm để húp một bát dê hầm. Dê hầm tới lúc múc ra bát còn phải nêm rau thơm thái nhỏ xanh biếc và ớt tươi đỏ chói.

Lúc này, đám phụ nữ trong thôn tới giúp việc đã đến. Nhiệm vụ của họ là giúp nhà Bí thư Vũ Quốc Quyền hấp bánh bao, hấp màn thầu, hấp bánh đường, hấp bánh cuốn táo. Trước hết họ phải nhào kỹ bột cho kịp lên men, tối đem hấp bánh. Còn cơm thì ngày hôm sau mới phải nấu. Các bà các cô giúp việc ở bếp sân trước, nhưng họ đều kéo nhau ra bếp đàng cổng sau như đi tham quan, tham quan hai cha con ông đầu bếp thao tác từng món một, món nào món nấy được nấu đúng trình tự.

Mỗi lần nấu cỗ cưới là hai cha con đều cảm thấy phấn khích, vì là trên đời này lại có một đôi nam nữ cuối cùng đã đi tới hôn nhân. Đến tối tất nhiên là động phòng, động phòng tất nhiên là làm cái chuyện ấy. Anh con không thể nào không nghĩ đến cái chuyện tối hôm động phòng, có lúc cái bên dưới của anh phát cứng, ngỏng lên rõ cao. Lúc ấy anh trở nên bướng bỉnh lạ lùng, cha bảo làm gì thì anh chẳng bao giờ chịu nghe lời. Hầu như lần nào nấu cỗ cưới anh cũng bị kích thích, nhưng sự kích thích trên thân thể ấy qua một hồi rồi cũng xẹp, còn sự kích thích về mặt tinh thần thì không dễ xẹp đi như vậy. Nếu chú rể nhiều tuổi hơn anh thì anh ít bị kích thích hơn, nhưng nếu chú rể lại ít tuổi hơn anh thì sự kích thích ấy tăng lên gấp bội. Do làm cỗ cưới là làm cho người ta nên hai cha con thường có thể đứng riêng ra một bên mà bình tĩnh quan sát, và lúc đó họ hay so sánh bản thân với người ta. Kết quả so sánh hầu như đều nhất trí ở chỗ bất kể giàu hay không thì người ta cũng làm được cỗ cưới, chú rể sắp được động phòng. Kết luận cũng chỉ có một, đó là người ta hơn hẳn mình, hai cha con vì thế mà rất buồn lòng.

- Nhà họ Vũ làm cỗ cưới mới ra cỗ cưới chứ! Nghe nói thiếp mời gửi lên đến tận khu, ngày mai khách trên đó về hẳn là đông lắm!

Khi người đứng bên nói câu ấy, ông đầu bếp lại thầm nghĩ: "Bao giờ làm cỗ cưới cho con trai thì mời được bao nhiêu khách?". Thậm chí ông còn nhớ tới cô gái ở cuối sông. Cô gái có hai bím tóc thật to, vì hai bím tóc ấy mà bỗng dưng ông thấy thích cô, nhưng bây giờ cô đã lấy người khác rồi. Cô gái lấy ai vốn chẳng có gì đáng nói, đáng nói là chính hai cha con ông lại đi làm cỗ cho đám cưới ấy, cũng làm ở bếp dựng tạm lên trong lán đàng sau nhà. Họ nấu cỗ suốt một ngày, một đêm rồi lại một ngày nữa. Sau đó khách dự đùa bỡn, phá đám cô dâu vào động phòng, phá rất dai. Anh con trai bỗng nhiên mất tinh thần, chẳng nói câu nào, chỉ uống rượu, nhưng không thu dọn đồ đạc mà về cho sớm vì còn phải làm món canh cho cô dâu chú rể ăn vào nửa đêm trước khi động phòng. Theo lệ, bát canh cho cô dâu gồm một khúc dồi dài ba tấc kẹp giữa hai viên thịt, bát canh cho chú rể gồm một quả cà nhỏ đặt giữa một cái quẩy cuộn tròn rán vàng. Đấy cũng là trò đùa động phòng.

Trời đã tối. Người cha bưng bát cơm ngồi cạnh bếp mà ăn, vừa ăn vừa thầm tính toán, so sánh. Ông điểm một lượt tất cả những bữa cỗ cưới lớn nhỏ mà hai cha con đã làm trong năm nay và thấy cỗ cưới của nhà họ Vũ là to nhất. Không nói gì khác, vừa mới đây thôi, ông Ba ở trong thôn lại chở đến một xe hoa quả gồm dưa hấu và chuối tiêu. Hai món tráng miệng này càng tỏ ra vẻ sang trọng khác người của nhà họ Vũ.

***

Trời sáng hẳn. Khách lục tục đến. Đến sớm nhất là đám họ hàng của chủ nhà. Nồi canh xương dê trước lúc trời sáng đã được đun sôi lại. Hai cha con đầu bếp đã dậy từ lâu, đang thái rau thơm để vào một bát to, lại bỏ ớt vào chảo dầu sôi chao một bát to nữa. Ơ sân trước, đám phụ nữ giúp việc đã rán gần xong bánh bẻng, rán xong bỏ lên từng chậu một, đợi khách đến sớm ăn. Lệ làng này là ai đến trước ăn trước, dê ninh, bánh bẻng và còn hai món nộm, trộn sẵn trong hai cái chậu giặt quần áo thật to, bóng nhoáng vì trộn nhiều mỡ. Bữa sáng luân phiên ăn, người lần lượt đến, đến thì ngồi xuống mà ăn, ăn xong có thể về, đến trưa lại đến.

Phía sân trước, pháo đã được chuẩn bị sẵn, còn đội kèn trống đến hơi muộn. Đó là đội "Phúc khánh tân thời đại". Họ đến rồi cũng chưa thổi ngay, còn ngồi bên bàn thong thả ăn dê hầm, bánh bẻng. Hai cô gái trong đội chuyên hát những bài hiện đại, ăn mặc rất gợi cảm, khác hẳn lối quê. Áo các cô mặc rất ngắn đến mức sắp hở cả rốn. Bên dưới là váy, cũng rất ngắn, dưới váy ngắn là đôi chân rất dài đi tất nịt làm cho đường nét lồ lộ, mỗi khi các cô bước đi, chẳng những khoe đôi mông thây lẩy mà còn khoe phía trước lùm lùm một đám.

Tới gần trưa hôn lễ mới bắt đầu. Đi trước tiên để đón dâu là đội kèn trống, ai nấy cầm nhạc cụ, thổi một khúc rất nhộn nhịp. Người bên nhà gái khiêng tới một mái che thêu hoa mẫu đơn, dưới mái che là một cái ngai nhỏ.

Nhà họ Vũ cũng khiêng ra một cái ngai có mái che thêu, trong tiếng kèn trống rộn ràng. Hai cái ngai gặp nhau thì cùng được lật vải che ra, bên dưới tấm vải che là hai bài vị nho nhỏ. Hai bài vị này được đưa đặt lên bàn trước cửa buồng ngoảnh hướng nam ở sân trước, rồi lập tức được người ta dùng chỉ đỏ buộc vòng quanh.

Không ai chú ý đến cha con ông đầu bếp cũng có mặt ở sân trước. Họ lên đây vì rất muốn được xem mặt cô dâu chú rể. Cũng chẳng ai để ý thấy cha con ông đầu bếp bỗng tái mặt đi lui về phía sau nhà, vội vội vàng vàng thu dọn những dụng cụ nhà bếp mang đến rồi bỏ đi luôn. Mọi người đang mải dồn cả về sân trước xem hai cái bài vị đang được người ta nâng lên cho vái trời đất, vái cha mẹ. Tất nhiên người làng đều biết nhà Vũ Quốc Quyền làm đám cưới âm cho con trai ốm chết năm mười bốn tuổi, bốn năm trôi qua đến nay đã mười tám, vừa vặn đủ tuổi kết hôn như luật quy định. Vừa hay thôn bên có cô gái cũng mới chết vì bệnh máu trắng, hai nhà bèn kết thông gia. Đám cưới tổ chức vừa rôm rả vừa lịch sự, chỉ có điều tới trưa, khi khách khứa ngồi vào bàn, vợ Vũ Quốc Quyền mới phát hiện hai cha con đầu bếp đã biến mất.

Phạm Tú Châu dịch


H Ế T
 
Đi qua cơn mưa
Lưu Cẩm Vân



Năm ấy nàng 15 và tôi 18 tuổi, hai nhà cách nhau một con sông, mùa hạ dưới nước sông trong vắt, thấy cả đàn cá con tung tăng đuổi nhau thoăn thoắt.

Lòng sông lúc ấy nước vơi chỉ còn một nửa, tôi có thể lội sang giữa dòng nhìn nàng gánh nước tưới rau và chỉ cần một tiếng gọi với là tôi được nhìn thấy nụ cười của nàng làm lộ rõ lúm đồng tiền một bên má trái.

Lần nào cũng vậy, lúm đồng tiền ấy xao xuyến cả lòng tôi. Mỗi ngày đi học, tôi đi qua con đập nhỏ, nàng đợi tôi để cùng đi ngược lại đến trường học. Mùa nước lớn, nước tràn qua đập tôi lại mong muốn khi được đưa tay cho nàng vịn, tay còn lại tôi giữ đôi guốc nhỏ nhắn xinh xinh của nàng.

Lòng con trai mới lớn rộn ràng, tôi tự hứa với lòng là tôi sẽ đưa tay cho nàng vịn suốt đời, không phải chỉ đi qua con đập nhỏ ấy mà đi qua cả một đời người.

Hết mùa hè năm ấy tôi ra tỉnh học, nàng một mình đi qua con đập, không sợ hãi khi nhìn nước sông trôi vì mắt nàng đã đầy ứ nước mắt. Tôi dặn nàng phải cẩn thận mỗi khi đi học, nàng hứa với tôi là sẽ rủ bạn đi cùng mỗi khi nước lớn.

Tôi nói đủ thứ về một tương lai vời vợi khi chúng tôi đã đủ lớn để đến cùng nhau. Tôi xa quê, lòng đầy ắp hình ảnh của người con gái có lúm đồng tiền một bên má và lời nói bất ngờ của cô bé 15 tuổi “Em sẽ tập đi qua đập một mình, vì em chỉ thích tựa vào anh mà thôi”.

Tôi về thăm nhà mỗi năm chỉ đôi lần, mỗi lần được ít ngày, đủ để nhìn nàng đang lớn lên, mái tóc dài quá lưng và nụ cười đằm thắm hơn. Dòng sông vẫn chảy ngang hai nhà lúc đầy lúc vơi.

Một hai năm trôi qua và tôi bắt đầu dám nói tới chuyện tình yêu nhưng cô bé hàng xóm chỉ cười e ấp nhắc tôi “Chúng mình còn trẻ mà anh!”. Mẹ tôi lại nghĩ khác. Năm tôi vừa tốt nghiệp đại học, về nhà nghỉ đợi việc làm, cảm giác của người vừa trả xong nợ sách đèn thật tuyệt vời.

Nhưng tôi không kịp hưởng thụ hết cảm giác của người vừa hoàn thành xong công trình lớn nhất đời mình. Một đêm mẹ gọi tôi lại bảo rằng: “Mẹ đã lo hỏi vợ cho con rồi. Một đứa con gái ở thành phố, làm ăn giỏi giang, con có thể nhờ vả được”.

Tôi không thể cãi lại lời mẹ như bao người anh em khác trong nhà. Sai lầm lớn nhất của đời tôi là không đủ can đảm nói với mẹ về mối tình của mình, cả khi tôi hèn nhát lánh mặt nàng cho đến ngày tôi cưới vợ.

Khi chiếc xe hoa đi ngang con đập, tôi không thể ngăn mình ngoái nhìn lại, nàng đứng bên bụi tre, nón cầm trên tay, đôi mắt sững sờ nhìn theo. Nắng hôm đó vàng rực rỡ, vì cả những thân tre già nghiêng ngả, vì cả những chiếc lá tre nhỏ xíu chao đảo theo cơn gió.

Ngày mùa thu mà nước tràn qua con đập, nhẹ nhàng là thế mà tôi nghe như tất cả đang giận dữ tràn qua lòng tôi, dằn vặt trái tim vô tình, hèn nhát của tôi.

Tôi trốn biệt không dám về quê nhiều năm, tôi sợ phải gặp lại nàng, tôi sợ phải có lúc biện bạch với nàng về sự lỗi hẹn của mình. Tôi sống chỉn chu như bao người đàn ông có vợ khác, vợ tôi đúng là người phụ nữ giỏi giang, siêng năng như mẹ tôi lựa chọn.

Chúng tôi ở cùng gia đình vợ trong một căn nhà không rộng lớn lắm, những năm đầu tôi đi dạy học, vợ tôi trông coi một cửa hàng cung cấp bia, thỉnh thoảng giúp đỡ vợ đôi việc lặt vặt.

Một lần cô ta bảo: “Lương anh ba cọc, ba đồng, chẳng đáng, nghỉ việc về phụ em buôn bán còn hơn…”. Cuộc đời tôi từ đấy được lấp đầy bằng từng ngày đơn điệu, vô vị. Tôi không hiểu tôi đã trải qua nhiều năm tháng như thế bằng cách nào.

2. Tôi gặp lại nàng bất ngờ, không phải bên bờ con đập ở quê cũ mà giữa con phố rộng dập dìu những dòng người vội vã. Nàng ngoan ngoãn theo tôi vào quán cà phê, dịu dàng ngồi xuống chiếc ghế tôi kéo ra.

Vẫn đôi mắt trong veo ngày nào, vẫn còn đó nụ cười với lúm đồng tiền một bên má. Không trách móc cũng không nhắc đến chuyện ngày xưa, nàng hỏi tôi ân cần như một người bạn lâu ngày gặp lại.

- Vợ con anh ra sao rồi?

- Cảm ơn em. Tất cả đều bình thường.

- Hai người yêu nhau nhiều chứ?

Tự nhiên tôi giận nàng, sao lại có thể hỏi tôi một câu như thế. Nhưng tôi làm gì có tư cách để giận nàng, tôi đẩy ly nước cam về phía nàng rồi xoay xoay cái phin cà phê trên ly của mình để tránh câu trả lời.

- Lâu ngày không gặp, em không có gì khác để hỏi anh sao?

- Đáng lẽ chính em là người hỏi anh câu đó.

- Thật tình là anh không dám.

- Vậy thôi.

Nàng đẩy ghế đứng dậy, tôi vội vàng chụp lấy bàn tay nàng. Bàn tay nhỏ nhắn, mềm mại ngày xưa tôi vẫn cầm lấy để đưa nàng đi qua con đập mỗi mùa nước tràn về.

Tôi nhìn những giọt nước mắt lăn dài trên má nàng, nghe như một giọng nói thỉnh thoảng phải ngừng lại vì xúc động nàng càng nói tôi càng thấy mình đáng bị đem ra băm vằm.

Trong lúc tôi an phận với vợ con thì nàng vẫn một mình. Nàng đi học rồi đi làm đúng theo những gì mà ngày xưa chúng tôi đã cùng xếp đặt cho nhau.

Nàng ra thành phố sống thật mạnh mẽ, để chứng tỏ rằng không có tôi thì nàng vẫn sống tốt, không có tôi thì cuộc sống của nàng vẫn đầy ắp hào quang. Thế nhưng… nàng khẽ thở dài quay mặt đi.

- Dẫu giỏi giang tới đâu thì người phụ nữ cũng cần có hạnh phúc gia đình mới thật sự là người thành đạt. Em không bằng vợ anh vì không có được người đàn ông của mình.

Nàng nói rất thật lòng còn tôi cảm thấy chua chát lẫn xấu hổ khi nàng tự so sánh với vợ tôi. Vợ tôi, người đàn bà nhan sắc dưới mức trung bình, học hành khập khểnh nhưng lại giỏi đua đòi và thường tỏ ra tự mãn về chút tài sản mà cô ta ky cóp được nhờ keo kiệt với chồng con.

Đã bao lần tôi không dám sánh đôi với cô ta đến những chỗ hội họp, tiệc tùng. Chẳng đặng đừng nếu không từ chối được những tiệc cưới, giỗ chạp họ hàng thì bao giờ trong lòng tôi cũng chật ních cảm giác xấu hổ.

Bao lần về quê, tôi cứ sợ nàng bắt gặp tôi đi với vợ, người đàn bà cứ làm ra vẻ ta đây, khoe hết sự dốt nát của mình bằng tất cả vòng vàng và trên gương mặt trang điểm vụng về.

Khuôn mặt trắng bệch vì phấn môi tô son tèm lem và hai gò má đỏ au như mặt thằng hề. Tôi chưa bao giờ nói với ai nỗi đau khổ của mình, cứ sợ người ta mắng mình là thứ đàn ông rửng mỡ mê sắc mà bạc bẽo với vợ.

Nàng không làm sao biết được hơn mười năm nay tôi như sống trong địa ngục. Nhiều lần tôi muốn tự giải thoát nhưng thương mẹ già và tội nghiệp hai đứa con còn nhỏ nên tôi không đành. Tôi nói với nàng:

- Em không hiểu gì đâu.

- Em hiểu hết nhưng để làm gì hở anh. Chúng mình đâu còn cơ hội!

Nói vậy nhưng chúng tôi đã lao vào nhau cứ như không thể nào khác hơn. Trong căn phòng nhỏ của nàng ở tầng trên cùng một chung cư sang trọng nhất thành phố.

Ở đây chúng tôi đã có những lần tựa vai nhau nhìn buổi chiều trải chầm chậm trên ngọn núi nằm chặn ngang mặt biển. Những ngày trời mưa suốt hai đứa loanh quanh trong nhà, bỏ tất cả mọi thứ phía bên ngoài cửa kính. Nàng như người vợ hiền chăm sóc cho tôi từng bữa ăn.

Những bữa ăn cũng chỉ với cơm canh nhưng đầy màu sắc chứng tỏ người nấu đã cẩn thận tính toán sao cho ăn ngon miệng mà đầy đủ dinh dưỡng. Tôi lại không tránh khỏi so sánh với bữa cơm ở nhà mình, mỗi khi vợ tôi dọn cơm, tôi hầu như phải nín thở một lúc vì mùi nước mắm rẻ tiền bốc lên.

Tôi không thể nào không so sánh những món ăn dọn ra tươm tất ở nhà nàng với cái đĩa quắt queo vài con cá nhỏ xíu mà mình từng ăn từ năm này qua tháng khác.

Lương tâm bảo tôi dừng lại nhưng lòng tôi thì không thể. Đâu phải vì được ăn ngon hơn, được chăm sóc kỹ hơn mà tôi xử tệ với vợ mình. Đêm nằm cạnh nhau, vợ tôi vắt ngang cánh tay thô ráp qua người là tôi hất ra, tự hỏi là làm sao bấy lâu nay mình chung chạ được với người đàn bà như thế.

Tôi tự hỏi nhiều lần tại sao mà không trả lời được để rồi tôi không thể tha thứ cho thằng đàn ông hèn nhát trong tôi. Tôi cố gắng sống như những ngày chưa gặp lại nàng nhưng rồi lòng lại nhớ.

Tôi nhớ nàng như chưa bao giờ biết nhớ nhung. Không phải chỉ là hình ảnh cô bé hàng xóm nhỏ bé đứng bên hàng tre nhìn theo tôi. Bây giờ lại là mùi hương, là vòng tay, là những nụ hôn, là tất cả những điều kỳ diệu của tình yêu mà cho đến bây giờ tôi mới trải qua.

Tôi cố ghìm mình đừng tìm đến căn phòng ở trên cao kia. Nhưng thật là khó khăn để không nghĩ đến làn da nàng mềm mại, mái tóc nàng êm ái, mái tóc nàng êm ái để tôi ủ mặt mình vào đó mặc kệ cho thế gian này gièm pha, phỉ báng.

Lạ thay là nàng cũng thế, nàng lao vào tôi bất chấp mọi thứ, nàng cho tôi tất cả không nề hà so đo, chẳng thèm tính toán. Tỉnh ra, tôi hối hận nhưng chỉ cần nàng áp môi nàng vào môi tôi là tôi lại quên hết tất cả.

Tôi sống như bị ma ám, cứ làm một người đàn ông đần độn khi ở bên vợ còn với nàng tôi lại là kẻ đĩnh đạc đa tình. Tôi như tỉnh lại sau một giấc ngủ mộng mị, tình yêu nàng là cơn mưa tưới mát cho tâm hồn tôi bấy lâu nay khô cằn.

Rồi tôi lại thấy mình đang mơ một giấc mơ tuyệt đẹp và không hề muốn tỉnh lại. Nàng tỏ ra tỉnh táo hơn khi hỏi tôi sau một lần yêu nhau.

- Rồi chúng ta sẽ như thế nào hở anh?

Tôi trả lời không cần chuẩn bị trước:

- Anh sẽ li dị bà ấy, chúng ta sẽ làm đám cưới. Em cho anh ít thời gian nữa.

3. Trái tim đang đập dồn dập trong ngực tôi chợt thắt lại khi tôi nhìn thấy chiếc ổ khóa to đùng trước cửa nhà nàng. Người hàng xóm trao cho tôi lá thư và bảo: “Cô ta dọn đi rồi”.

Tôi lao xuống cầu thang, chạy ào tới chỗ để xe và phóng vút đi. Đường phố buổi trưa nắng gắt, nắng vàng đổ ập xuống mặt đường rọi hắt lên mặt tôi rát buốt.

Tìm nàng ở đâu bây giờ, tôi quay xe ra khỏi thành phố, trong ý nghĩ của tôi chỉ ở nơi đó tôi mới có thể gặp lại nàng. Nơi đó là quê tôi, chỗ có con đập nhỏ và dòng sông nước chảy trong veo bốn mùa. Tôi vừa chạy xe vừa lạy trời cho tìm lại được nàng.

Vợ tôi bảo: “Anh không tìm được nó đâu”. Tôi không lường trước được cơn ghen ghê gớm của cô ta, bao nhiêu lời thóa mạ thô tục, hạ cấp mà cô ta dùng để mắng chửi nàng đã xóa mất chút do dự cuối cùng trong lòng tôi.

Tôi tông cửa bỏ đi mặc cho cô ta la hét, mặc cho thằng con mà tôi thương yêu nhất khóc mếu máo gọi “ba ơi, ba ơi!”.

Trời bỗng kéo mây vần vũ và mưa rơi xuống, cả ông trời cũng không ủng hộ tôi lúc này. Nhưng tôi bất chấp, tôi phóng xe như điên mặc kệ những sợi mưa quất vào mặt đau điếng.

Con đường chưa bao giờ xa như thế và thật kỳ lạ, mưa cứ chập rơi, chập dừng, tôi cứ như ra khỏi một khoảng nắng rồi chui vào một vùng mưa. Và trong suốt thời gian ông trời đầy đọa thân xác tôi thì đầu óc tôi bị xoắn xít bởi những lời trong thư của nàng - “Đừng tìm em. Chúng mình yêu nhau nhưng vô duyên với nhau. Nếu có kiếp sau nữa, ta lại gặp nhau”.

Tôi không đến được nhà nàng. Trời cứ mưa như trút khi tôi về đến gần nhà, nước trên nguồn đổ xuống, xóa mất đi con đập chỉ còn cuồn cuộn những chỗ xoáy đục ngầu.

Tôi nhìn bụi tre ngà bây giờ trắng bệnh nghiêng ngả trong mưa. Có đúng là chúng tôi vô duyên với nhau không? Tôi quay xe lại lòng buồn rầu, nước mưa chảy qua môi tôi mằn mặn, hay là nước mắt của tôi...

Những cơn mê kéo dài dìm tôi nằm suốt cả tuần lễ với cảm giác đi qua từng cơn nắng rồi lại chui vào vùng mưa lạnh buốt. Rồi tôi cũng khỏi bệnh và sau những ngày tìm kiếm tôi tỉnh táo nhận ra giá mà tôi đừng phải đối diện với sự thật là tôi sẽ không bao giờ gặp lại nàng. Giấc mơ đẹp đã đi qua và sẽ không bao giờ lặp lại.

Tôi quay về với cuộc đời mà mình lựa chọn bấy lâu, can đảm vác cây thập tự một cách cam chịu. Dẫu vậy, từng ngày đi qua tôi vẫn thầm mong cho ở đâu đó nàng vẫn bình an, tìm được hạnh phúc và tha thứ cho tôi đã một lần nữa làm cho nàng đau đớn...


H Ế T
 
Bao giờ cho đến nghỉ hè
Phùng Ngọc Châm


Ngày... Trời bắt đầu chuyển sang hè. Nắng to. Vô cùng mệt mỏi. Mệt vì thời tiết một phần, mệt vì học sinh chín phần.

Hơn 15 năm dạy học, mình thấy học sinh càng ngày càng hư. Sắp thi cử đến nơi mà chúng chẳng học gì cả. Giờ học thì nói chuyện râm ran. Nhoài lên, ngoái xuống, ngọ ngoạy không yên. Mình hết dỗ dành rồi lại quát, đủ kiểu, vậy mà không ăn thua. Vừa dạy bài mới, vừa giữ trật tự, chỉ nửa tiết là đã đuối sức. Mệt quá, thế là đành buông xuôi. Nhiều hôm, xong 3-4 tiết dạy là mình phờ phạc cả người, thở không ra hơi. Mà chẳng riêng gì mình. Ai cũng có vẻ chán nản, gặp nhau là lại buột miệng: "Bao giờ cho đến nghỉ hè?". Chợt nhớ hồi đi thực tập mà phì cười. Sao hồi đó lại hăm hở thế? Tràn đầy lòng nhiệt tình, sinh viên sư phạm nào cũng vẽ ra cho mình một viễn cảnh tươi đẹp về nghề giáo. Chắc bây giờ mà gặp lại nhau thì đứa nào cũng đầy một bồ tâm sự, vui ít buồn nhiều...

Thực ra, cũng không hẳn mình không có những kỷ niệm đẹp với học sinh. Nhớ những ngày này cách đây mấy năm ôn thi cùng 9H, cũng rất mệt, nhưng vui. Hay vì chúng là lớp chọn, nên ngoan hơn, thông minh hơn? Giờ học thêm làm bài tập thật nhanh, rồi xoay ra buôn chuyện. Mình có nhắc thì chúng lại rền rĩ điệp khúc "Không sao đâu cô ạ, có xả được strees thì học mới vào chứ ạ!". Chúng trổ tài hài hước khiến mình cũng cười ngả nghiêng. Lớp trưởng Hà Trần - người đầu têu mọi trò nghịch ngợm, rồi "nhạc sĩ" Hoàng Việt chuyên chế thơ Đường thành bài hát, "hoạ sĩ" Hiệp "gà" chuyên "sáng tác" biếm hoạ... Mình cứ chuẩn bị dạy là chúng lại bày trò chọc cười kéo dài thời gian giải lao. Cũng may, lúc thi cả lớp đều đạt điểm cao. Bọn nó ra trường rồi mà mình nhiều khi nhớ lại cứ nuối tiếc. Người ta hay nói "có mới nới cũ", nhưng với mình thì có mới lại càng nhớ cũ. Lứa học sinh nào ra trường mình cũng nhớ, thầm so sánh với lứa đang học để rồi lại thất vọng vì sao bây giờ học sinh ngày càng hư và dốt hơn xưa. Mình mắc bệnh hoài cổ chăng? Hay tại mệt mỏi của tuổi tác đã khiến mình trở nên khó tính?

Ngày... Vừa buông người ngồi xuống ghế trong phòng hội đồng thì Ngân ló mặt vào, vẫy vẫy: "Chị ơi, ra hàng chè nhớ!". Hàng chè là "tụ điểm" mấy đứa bọn mình thường ngồi chuyện trò cho bớt căng thẳng sau những giờ dạy mệt tưởng đứt hơi. Chị bán chè đâm ra thuộc sở thích ăn uống của mấy đứa bọn mình, thuộc luôn cả những câu chuyện bọn mình hay nói với nhau. Ngân rất hay kể về những câu văn ngô nghê đến tức cười của học sinh, Thi lại hay ca cẩm, than vãn hết về trường lớp lại về gia đình. Hôm nay chắc hẳn Ngân lại có nỗi niềm gì đây...

Quả nhiên, chưa kịp kéo ghế ngồi xuống Ngân đã hỏi, giọng đầy bức xúc: "Chị có tưởng tượng được học sinh bây giờ tệ đến mức nào không?". Mình nhìn Ngân chờ đợi. "Em vừa bước vào lớp, lớp ồn như chợ vỡ. Chưa kịp cho học sinh ngồi xuống sau khi cô trò chào nhau thì nghe thấy một câu chửi rất tục từ phía cuối lớp. Cả lớp lặng phắc. Em hỏi: "Ai vừa chửi?" thì không ngờ lại nghe thấy câu ấy một lần nữa, lần này còn rõ ràng hơn. Cả lớp im lặng. Chắc hẳn chúng cũng bất ngờ. Tức đến phát khóc lên được. Em nhìn những gương mặt im lặng của mấy chục đứa học trò, không hiểu nổi gương mặt nào trong số đó có thể phát ra cái câu tục tĩu đó. Rồi tự dưng thấy mình như bị đẩy tới một hành tinh xa lạ. Suốt tiết học ấy, em không còn tâm trí đâu mà dạy nữa, chỉ ngồi im. Trong lòng thấy đổ vỡ ghê gớm...".

Mình hiểu Ngân. Em là một cô giáo trẻ, mới đi dạy được 2 năm. Những ước mơ đẹp đẽ của em về nghề giờ đây chạm phải sự thật phũ phàng khiến em không chịu nổi. Mình hơn em cả tuổi đời lẫn tuổi nghề mà còn không chịu nổi khi ngày ngày phải chứng kiến sự xuống cấp về đạo đức của lũ trẻ. Nào có phải là chúng không được dạy dỗ? Sinh ra trong những gia đình tử tế, nhiều đứa bố mẹ là giáo viên, tiến sĩ hẳn hoi, thế mà sao chúng vẫn xểnh ra là trốn học, hễ mở miệng là văng tục, hỗn láo với người lớn? Nhiều phen mình loay hoay tìm câu trả lời. Mà chẳng thể nào trả lời được...

Tự dưng mình nhớ đến truyện "Cánh đồng bất tận" của Nguyễn Ngọc Tư (nghe nói hiện giờ tác giả đang gặp rắc rối gì đó). Rõ ràng mình đang sống ở thành phố, được hưởng thụ những tiện nghi của cuộc sống văn minh, thế mà mình lại có tâm trạng gần giống với cô gái chăn vịt rong trong truyện. Nỗi hoang hoải, chán chường ngấm vào tận chân tơ kẽ tóc. Nhiều khi mình thấy mất phương hướng, và rất hoang mang. Có một gia đình yên ấm, một nghề nghiệp ổn định, vậy mà tại sao đôi khi mình vẫn thấy lạc lõng? Vì bây giờ ai cũng quá bận bịu không thể còn thời gian để chia sẻ tâm sự chăng? Vì cuộc sống quá sôi động và gấp gáp cuốn tất cả đi khiến những lo lắng ưu tư của mình trở nên quá xa xỉ và phù phiếm chăng? Con đường dạy học của mình, học trò của mình rồi sẽ đi đến đâu khi ngành giáo dục đang trong tình trạng rối rắm, bùng nhùng, không biết đâu là chuẩn như thế này?

Những khẩu hiệu "tiên học lễ, hậu học văn" treo ở khắp các trường học liệu còn ý nghĩa gì không? Mình lo cho cả hai đứa con. Biết đi lối nào đây?

Ngày... Hôm nay có một chuyện làm mình vui vui. Trên đường từ trường về mình gặp lại Cương. Cương là học trò lứa đầu tiên của mình. Bây giờ trông Cương chững chạc quá, dáng vẻ cao to, rắn rỏi, và rất phong độ. Cậu đi ngay bên cạnh mình và cất tiếng chào làm mình hơi bất ngờ: "Em chào cô! Cô còn nhớ em không?". "Cô nhớ chứ, lớp trưởng lớp 6D ngày xưa phải không?". Cương bật cười: "Vâng, cái lớp nhiều học sinh cá biệt nhất trường ấy ạ". Lũ học trò nghịch ngợm lớp 6D ngày ấy làm cô giáo chủ nhiệm mới ra trường đúng là nhiều phen điêu đứng. Nhưng chúng cũng vô cùng tình cảm. Mình nhớ mãi ngày 20 tháng 11 đầu tiên trong cuộc đời làm giáo viên, cả lớp 6D ầm ầm kéo đến nhà, đem theo quà là một bộ son phấn (ngày đó, phấn "Bông lúa" là xịn nhất rồi, cộng với thỏi son gió và hộp nhũ mắt Sài Gòn) cùng một túi bỏng ngô to tướng. Chúng nhao nhao bảo cô còn trẻ mà chẳng son phấn gì cả, phải "đánh đấm" vào sẽ đẹp hơn. Rồi mấy đứa con gái bôi bôi quét quét thử cho mình (trông lem nhem như hề). Rồi chúng ăn bỏng và ném bỏng vào nhau, nói cười chí choé đến tận hơn 10 giờ khuya, làm hàng xóm phải sang phàn nàn với bố mẹ mình. Chúng về rồi, căn phòng không khác gì bãi chiến trường, mình và cô em gái phải dọn dẹp gần một tiếng mới xong. Nhắc lại cùng Cương kỷ niệm ấy, mình thấy trong lòng xốn xang. Cương cũng kể cho mình nghe về các bạn cùng lớp, nhiều bạn đã lập gia đình, một số bạn đi du học nước ngoài rồi ở lại định cư luôn, liên lạc với nhau toàn qua email.

Còn bản thân Cương giờ đã làm giám đốc một công ty cổ phần ngành bưu chính viễn thông, đã có vợ và có cậu con trai vừa được 1 tuổi. Trước khi chia tay, Cương bảo: "Em thấy cô vẫn trẻ như hồi xưa dạy chúng em, dù có mập hơn chút ít. Khi nào em sẽ tập hợp các bạn lại, làm hội lớp, thế nào cô cũng đến nhé". "Nhất định cô phải đến chứ. Để xem các em trưởng thành như thế nào".

Buổi tối cơm nước xong, mình kể lại với chồng chuyện gặp học sinh cũ. Hai đứa nhỏ cũng dỏng tai nghe. Rồi mình thấy cô con gái vào bàn học hí húi ghi chép gì đó. Có lẽ nó cảm nhận được điều gì mới mẻ về tình thầy trò chăng? Thỉnh thoảng nó vẫn kể với mình chuyện cô giáo với các bạn ở lớp. Nó sợ cô, nhưng không thích cô. "Vì cô giáo con hay mắng quá đáng những bạn học dốt, những bạn con trai nghịch ngợm". Mình chợt nghĩ nếu một lúc nào đó có học sinh của mình cũng kể với gia đình như thế, thì sao nhỉ? Ôi, cái nền giáo dục chạy theo thành tích này khiến những cô giáo khó lòng mà "như mẹ hiền" được nữa rồi! Hình như không chỉ lũ học trò, mà chính mình cũng thay đổi mà không biết...
 
Ngày... Câu nói của cu Tôm làm mình buồn cười suốt quãng đường đến trường. Chả là ông cụ nhà mình bị tai biến mạch máu não, gần như nằm liệt tại chỗ suốt một năm nay. Bây giờ tình trạng trở nên nặng hơn, những vết loét ở lưng bắt đầu xuất hiện. Bởi thế mà chị giúp việc - Tôm gọi là bác Phương - hàng ngày khá mất thời gian vào việc rửa vết thương và bôi thuốc cho ông. Tôm xem bác làm, và thấy trên mình ông nội những đám thuốc khi xanh khi nâu, chạy lại nói với mình: "Mẹ ơi, bác Phương tô màu cho ông kỹ thế? Mà sao ngày nào cũng phải tô lại?". Cả nhà phì cười. Trẻ con thật là dễ thương. Chúng có những câu nói bật ra từ sự liên tưởng vô cùng chính xác mà lại rất ngộ nghĩnh. Giá mà chúng cứ mang cái nhìn trong sáng ấy vào trường học, và giữ được cho ngày càng lớn lên! Giá mà những chuyện chẳng hay ho gì của người lớn không làm vẩn đục được tâm hồn non nớt của trẻ! Mà mình mắc bệnh mất rồi! Tại sao lúc nào cũng liên hệ mọi chuyện đến vấn đề giáo dục thế này? Bệnh nghề nghiệp ư? Đang vui vì sự nhí nhảnh đáng yêu của con lại chuyển sang lo về tương lai của nó. Còn hai năm nữa nó mới vào lớp 1 kia mà. Biết đâu đến lúc ấy tình hình sẽ khác? Hy vọng thế...

Hôm nay mình dạy một trích đoạn của vở chèo "Quan Âm Thị Kính" cho lớp 7A. Giáo án thì đã soạn kĩ, nhưng mình vẫn thấy lo lo. Vở chèo này ngày xưa mình đã xem nhiều lần, và rất thích. Nhưng mình lo là học sinh bây giờ thậm chí chẳng biết "chèo" là gì. Sân khấu, đối với chúng chỉ là những tiếng la hét, những ca từ chẳng đâu vào đâu, những điệu múa giơ chân giơ tay loạn xị...

Làm sao chúng có thể hình dung nổi sân khấu dân gian với những sân đình, mặt ao, những điệu hát sử, bình tiểu... vô cùng điêu luyện của chèo? Đấy là chưa nói đến phần nội dung thường là những mâu thuẫn giai cấp thời phong kiến, đề cao những chuẩn mực đạo đức theo cách nhìn của xã hội phong kiến, rất xa lạ với bọn trẻ bây giờ. Dẫu biết rằng các nhà cải cách có ý đồ tốt đẹp là giáo dục toàn diện cho học sinh, nhưng mình e rằng họ chưa nghiên cứu đến tâm lý lứa tuổi (12-13 tuổi, lớp 7, vẫn có những đứa trẻ thậm chí chẳng phân biệt được đâu là ngan, đâu là vịt, nói gì đến làm quen với sân khấu dân gian; cùng lắm thì biết Xuân Hinh hay diễn hài, chứ chẳng biết Xuân Hinh vốn là một hề chèo xuất sắc), cũng chẳng để ý gì đến không gian văn hoá bao bọc quanh học trò. Thế là giáo viên bọn mình cứ è cổ ra hứng chịu cùng lũ học trò. Cuối chương trình, đánh đùng một cái, đưa một trích đoạn chèo vào, dạy sao thì dạy, học sao thì học, không hề có sự chuẩn bị dần dà gì từ trước (cái mà các nhà giáo dục gọi một cách hay ho là "chuẩn bị tâm thế tiếp nhận và cảm thụ tác phẩm văn học")! Xong, hết chương trình, ôn thi học kì II.

Trẻ con mồ hôi mồ kê nhễ nhại đọc như đánh vật với những câu "Trách lòng ai nỡ phụ lòng/Đang tay nỡ bẻ phím đồng làm đôi/Nhật nguyệt rạng soi/Thấu tình chăng nhẽ..." mà chả hiểu mình đang đọc gì. Nhìn mà thương! Và khi chúng vừa hiểu được chút ít về nỗi oan của Thị Kính, vừa thương cảm chút ít trước số phận bi kịch của người phụ nữ thời phong kiến nói chung thì những tình cảm, hiểu biết mong manh ấy bị dập tắt ngay bởi một lô những văn bản nào là biểu cảm, nào là nghị luận, nào là thơ Đường luật, thơ lục bát... phải ôn trong bài tiếp theo. Thế đấy, hoan hô SGK!

Ngày... Ngẫm ra, thấy mình thật là vô lý khi cứ mua lo vào người. Cuộc sống tươi đẹp ngoài kia, mình đâu đã thưởng thức hết? Kỳ nghỉ 30/4, 1/5 năm nay được những 4 ngày. Người ta háo hức bàn về những chuyến đi, nào Sa Pa, Tam Đảo, nào Trà Cổ, Hạ Long... Còn mình lại chỉ lo phân chia mấy tiết học trước khi thi học kỳ, tiết nào ôn Văn, tiết nào Tiếng Việt, tiết nào Tập làm văn.

Thấy vui vui khi nghĩ đến lời hẹn của lớp 9H cũ: "Sáng 1/5 bọn em sẽ đến rủ cô đi chơi". Chắc là chúng quá hiểu cái tính hay lo của mình - chả gì cô trò cũng đã ở bên nhau 4 năm mà - nên tìm cách lôi mình ra khỏi mớ công việc để xả hơi đây. Mình háo hức mong đến ngày ấy y như học trò nôn nao chờ đợi ngày được đi cắm trại. Xét cho cùng, dù còn không ít điều bất như ý về nghề, mình vẫn thấy một cái được rất lớn, đó là tình cảm thầy trò. Lại nhớ ngày bế giảng năm học trước, sau những thủ tục ở sân trường, học sinh đến chật nhà, chúng chia sẻ với mình bao ước mơ, bao suy nghĩ của tuổi mới lớn. Những dòng lưu bút tươi rói vẫn còn đây, trong số đó có của cả những đứa học lực yếu, khi học làm mình bực suốt, vậy mà giờ đọc lại lại nhắc nhở mình về những năm tháng đẹp đẽ mà chắc chắn mình sẽ lưu giữ mãi.

Một năm học nữa lại sắp kết thúc, những ngày mệt mỏi vì học sinh sắp sửa chấm dứt. "Tạm thời chấm dứt". Bây giờ chỉ mong: "Bao giờ cho đến nghỉ hè?". Nghỉ hè rồi thì lại bụng bảo dạ: "Bao giờ vào năm học mới?"...


H Ế T
 
Núi lở
Nguyễn Danh Lam


Anh rời trạm khi trời vẫn mưa. Cố đạp lên những vạt cỏ, anh né đôi chân khỏi những luống bùn nhão.

Nếu cứ đi vài bước lại phải ngồi xuống cạy bùn bám vào giày, chẳng biết bao giờ mới đến nơi. Bầu trời sũng nặng, mây quết qua những tán cây lướt thướt chỉ cách anh vài bước chân.

Đã mấy ngày nay chưa có một giọt nắng. Một cành củi mục gãy dưới chân anh. Đám mộc nhĩ đã mọc dài từ cành củi ấy, loại sinh vật này ưa ẩm. Nhưng mưa quá, ngay cả đám mộc nhĩ cũng đã mủn ra. Ở trạm đầu tiên anh đã tranh thủ hái một đám mộc nhĩ, định đem xuống núi, nhưng rồi chẳng biết bỏ chúng vào đâu. Chiếc gùi trên vai đã quá chật. Lượng thức ăn mà anh mang theo chỉ đủ cho một người dùng trong mươi ngày. Mà trong khoảng thời gian từ chân núi lên đến đây, anh đã dùng lạm vào đến một ngày khẩu phần ấy.

Nước bắt đầu ngấm qua gáy anh, từ cái cổ áo mưa không thật khít. Gió lại quá mạnh, thốc bạt cây xung quanh. Bước chậm cũng lạnh, mà bước quá nhanh, để mồ hôi túa ra trong lưng lại càng lạnh hơn. Rất may anh đã mua được ở trạm một bao diêm mới. Bao diêm hôm qua đã bị ngấm nước, khiến anh khổ sở đến nửa ngày vì không sao mồi được thuốc hút. Nghĩ thế, anh đốt một điếu thuốc mới, bàn tay khum lại che chắn đầu lửa. Anh rít từng hơi dài. Điếu thuốc ngấm nước nổ lách tách.

Mưa khiến tầm mắt anh không thể nhìn xa hơn hai ngọn đồi. Bầu trời chưa hề có dấu hiệu hửng nắng. Anh thấy những triền đất đỏ ối vừa lở xuống phía bên kia thung lũng. Rừng loang lổ. Những mảnh đồi được khoanh thành từng viền nhỏ, xếp chồng lên nhau. Rời trạm nghĩa là anh không còn hy vọng gặp người. Nếu không bị trượt ngã hay xảy ra một tai nạn nào đó, cây cầu cũng không gãy, chắc đến trưa anh sẽ gặp ba. Nghĩ đến đấy, anh xốc mạnh cái gùi trên vai, bước rảo.

Qua hết ngọn đồi, lại một thung lũng nữa. Đường trơn, bước xuống còn cực hơn bước lên. Anh bẻ được một đoạn cây dùng làm gậy chống. Đã nghe tiếng suối đổ ào ạt dưới chân. Con suối này vào mùa khô nắng trơ ra những tảng đá bạc phếch, thế mà hôm nay ngay cả những tảng đá ấy cũng có cơ bị nước cuốn phăng, lăn xuống tận đáy lũng, phía con suối đổ ra sông lớn. Anh che mắt, nhìn xuyên qua màn mưa, thở ra một hơi dài. Chiếc cầu bắc ngang suối vẫn ánh nhẫy lên dưới tầm nhìn của anh. Nếu nó đã bị nước cuốn trôi anh sẽ không thể nào qua suối, nếu không lần ngược lên tận thượng nguồn, chỗ dòng chảy thắt lại. Mà như thế có thể anh sẽ mất đứt nửa ngày.

Hai thanh gỗ lớn bắc song song, phía trên có thành vịn. Tuy nhiên cái thành vịn đã bị gãy mất một khúc ở giữa. Anh mọp sát xuống, kẹp hai chân qua hai thanh gỗ trơn tuột, đẩy mình lên từng nhịp. Anh không thể cúi lưng xuống mà bò, vì như thế số thức ăn trong gùi sẽ đổ hết xuống dòng nước. Qua hết suối, mình mẩy anh dù mặc áo mưa vẫn ướt sũng.

Bóng chiếc lán nhỏ đã hiện ra trong tầm mắt. Nó đậm đen, như một cái mộc nhĩ đã nở hết cỡ đang bắt đầu mủn rữa. Trong lán không thấy ánh lửa. Anh dấn bước. Cửa lán khép hờ. Có lẽ ba anh chỉ làm cửa để phòng thú dữ vào ban đêm, chứ giữa chốn hoang quạnh này, còn ai để mà trộm cắp.

Ba anh không có trong lều. Mưa thế này ông đi đâu nhỉ? Anh ra cửa lán, bụm tay gọi lớn. Tiếng gọi đập qua mấy ngọn đồi hoang. Ngạt trong màn mưa mù mịt.

Gọi mấy tiếng, anh nghe tiếng cành gãy sau lưng:

- Ba đi đâu mưa gió thế này?

- Vạt đồi bên kia hồi hôm vừa lở mất một mảng. Gần hai sào đậu của ba theo xuống vực rồi con ạ.

Ba anh nói tin xấu, nhưng trong giọng không thấy nhuốm một chút phiền muộn. Anh thở dài. Giũ áo mưa bước vào lều. Căn lều ẩm thấp, tối đen. Anh phải căng mắt một lúc mới thấy được cái ổ nằm của ba. Chiếc mùng chưa cuốn lại. Tấm mền rách loang lổ. Đã mấy lần anh mang lên mền mới nhưng ba bắt phải mang về. Ngay dưới ổ nằm là bếp. Lửa đã tắt, nhưng tro còn khô.

- Con mang đồ mới lên cho ba.

- Rượu được mấy lít?

- Hai thôi ba ạ. Ba không nên uống nhiều. Đêm hôm gió máy một mình.

- Ta chẳng chết được đâu mà lo! Tình hình dưới đó sao rồi?

- Ba nên về ba ạ...

- Ta không hỏi chuyện ấy...

Ba anh lục cái gùi, tìm hũ rượu, mở nút lá, nhấm thử một chút.

- Vẫn lấy rượu chỗ ấy phải không?

- Vâng, vẫn chỗ ấy. Ba đã dặn mà.

- Con nhóm lửa lên đi. Hong cho đồ khô, đứng đó ngấm lạnh.

Anh loay hoay tìm củi. Ba anh hất cằm:

- Dưới giường ấy. Ta đã gom đủ dùng cả mùa mưa.

Thực chất cái giường mà ba anh nằm chính là củi. Ông xếp lên từng lớp, bên trên chải một cái chiếu. Củi gồ ghề, phá thủng cả chiếu chui lên.

Ngọn lửa bén lên từ những mẩu gỗ. Căn lều ấm hẳn. Nhưng khói cuộn lên từng đụn khiến anh cay xè mắt.

- Bay ở lại đêm nay chứ?

- Con định ngồi một chút rồi xuống ngay ba ạ. Dưới nhà còn nhiều việc lắm. Phần nữa sợ cái cầu dưới kia bị nước cuốn mất. Tranh thủ về, mưa thế này chẳng biết nó trụ được đến lúc nào.

- Tùy con...

Ba anh mở hũ rượu, rót ra một cái chén nhỏ. Ông nhấp nháp một chút rồi chuyền qua anh:

- Uống một hơi cho ấm bụng mà về.

Anh nhấp luôn hai ngụm. Mong là rượu mau ngấm để đủ can đảm nói chuyện với ba. Rượu ngấm mau thật, loáng đã nghe bừng bừng nơi vành tai:

- Ba ạ, có người bảo...

- Ta biết rồi, mọi người đều bảo chứ gì?!

- Sao ba không làm thế?

Ông già im lặng. Đôi mắt nhăn nheo dõi thấu màn mưa. Ngọn lửa lay đều trên bếp, hắt bóng ông lên vách liếp. Ông tợp một hơi rượu mới:

- Rồi con sẽ hiểu...

- Dạ, ba...

- Con cứ về đi. Con chưa hiểu...

- Con hiểu rồi mà ba...

- Hiểu gì?

Anh mồi một điếu thuốc. Rít được hai hơi lại gí cái tàn xuống đất. Chợt có tiếng nổ lớn xa đâu đó trong tiếng mưa ràn rạt.

- Gì vậy ba?

- Đất lở đó. Cứ lở dần từng ngày một...

Anh thở dài:

- Năm nay ba làm bao nhiêu đậu ba nhỉ?

- Ta chẳng đong đếm bao giờ. Làm là làm vậy thôi. Làm cho đã rồi đất cũng lở hết. Ta cũng tính trồng cây mà giữ đất. Nhưng cây chưa kịp lớn cũng đã tuột xuống lũng hết cả.

- Vậy ba nên về...

- Về làm gì?

- Vậy ba ở đây làm gì? - Lần đầu tiên anh dám đưa ra một câu hỏi vặn lại ý ba.

- Chẳng làm gì cả. Cũng như là về dưới đó vậy. Chẳng làm gì cả!

Ông già cúi xuống, bẻ thêm mấy cành khô quăng vào ngọn lửa:

- Con có ăn gì với ba không?

- Thôi, con đem lên để ba dùng, chứ ăn vào đó thì còn nói gì nữa!

- Hết mùa này, con không phải đem lên cho ba nữa...

- Vậy làm sao con gặp được ba?!

- Thì mày lên không. Mà không gặp hay gặp cũng chẳng khác gì...

Anh ứa nước mắt:

- Con lấy gạo nấu cơm cho ba nhé.

- Thôi, nếu không ăn thì nấu làm gì. Để đó chút chiều ta tính. Con cứ về đi. Từ đây ra đến trạm là vừa tối đấy. Con nghỉ lại trạm hay về luôn?

- Con có gửi ít đồ ăn lại trạm. Có lẽ sẽ nghỉ lại. Mưa thế này, đêm hôm làm sao xuống núi.

- Vậy con về đi.

Anh giũ cái áo mưa mặc vào. Bộ đồ trên người hong một lúc vẫn còn âm ẩm:

- Ba ở lại giữ gìn sức khỏe ba nhé! Nhớ đừng uống rượu ban đêm.

- Ừ...

Anh nhặt lại đoạn cây gác ngoài cửa lều. Bặm chân xuống lớp bùn nhão:

- Ba cứ ở trong này, đừng tiễn con!

- Ừ...

Gió thốc một vạt mưa tung hổng tà áo anh lên. Mặt trời có lẽ đã ngả đâu đó sau màn mây sũng nặng kia. Anh ngoảnh lại, thấy bóng ba, tay vịn vách liếp nhìn theo. Mồi một điếu thuốc, anh rít liền mấy hơi dài, ngực bỏng rát.

Qua hết con suối, anh nghe một tiếng nổ khủng khiếp phía sau. Có lẽ một vạt núi mới vừa lở xuống đâu đó.


H Ế T
 
Anh chàng cả nể
Vương Tâm



Có người nói về Bản rằng, nếu anh ta là con gái thì mỗi tháng thể nào cũng bị chửa hoang một lần. Bản hay tỏ ra e thẹn, ngượng ngùng với những người mới quen, cứ như một thiếu nữ vậy. Ngay cả với ai đã quen lâu thì vẫn rụt rè khi ăn nói và Bản chỉ sợ mất lòng người ta. Nhất là ai nhờ cậy gì cũng “ừ” và thực hiện ngay chẳng ngại ngần gì. Nhiều việc chưa đâu vào đâu mà Bản cũng nhận lời. Ấy là tính cả nể khó thay đổi của anh ta.

Có lần Bản đang làm việc ở phòng máy của mình thì cô y sĩ ở phòng y tế của nhà máy hớt hải chạy vào. Chưa kịp chào nhau, cô y sĩ đã xòe ra một cuốn sổ trước mặt Bản rồi hổn hển nói:

- Em ơi! Giúp chị với. Ngày mai chị phải báo cáo kết toán những khoản thuốc cho anh em trong nhà máy.

Bản cười rồi nhỏ nhẹ nói:

- Thế em giúp được gì cho chị nào?

- Đây! Quý hóa quá em trai ơi. Em ký vào mấy chỗ trống này. Coi như em đã nhận thuốc trong những lần đi khám trước đây.

Bản ngơ ngác:

- Em đi khám hôm nào nhỉ?

- Thì đấy! Giúp chị mà. Cứ ký vào đây cho đủ mục.

Lúc này Bản vẫn còn nghi ngại:

- Thế em ký vào mục kê thuốc bệnh gì ạ?

Cô y sĩ càng giục cuống lên:

- Bệnh tật gì đâu. Không chết người đâu mà sợ. Cứ ký đi!

Bản gặng hỏi thêm:

- Nhưng mà em cũng phải biết để khi có ai hỏi còn nói cho đúng chứ. Thuốc gì mà những mấy chục hộp hả chị?

Cô y sĩ trợn mắt nói:

- Bao ô kê!

Bản đỏ dừ mặt nói:

- Dưng mà em đã có vợ đâu mà nhận nó.

Cô y sĩ nói to:

- Thực hiện sinh đẻ có kế hoạch là nghĩa vụ của mọi công dân.

Rồi cô ta nói như ra lệnh:

- Ký đi!

Bản giật mình và ngẫm rằng ký nhận cái món này cũng chẳng chết ai và vội vàng ký vào năm cột trống cho xong chuyện. Cô y sĩ hể hả cười khoái trá.

- Thế là xong. Cảm ơn nhé! Bai bai…

Thế là suốt một tuần sau, cả nhà máy đồn rầm rĩ lên cái chuyện tay Bản đã dùng tới 1.200 bao cao su trong một năm. Này nhé, năm chữ ký của anh ta vào năm cột, một cột là 2 hộp. Vị chi là 10 hộp. Mà ai cũng biết mỗi hộp to lại có mười hộp con. Còn mỗi hộp con có 12 bao cao su. Tính ra chả 1.200 bao cao su là gì. Nhẩm đếm rồi họ cười như nắc nẻ. Riêng đám đàn bà con gái mỗi lần gặp Bản là lại đỏ mặt và rúc rích cười rồi đấm lưng nhau thùm thụp. Bản thì cứ ngơ ngác chẳng hiểu chuyện gì xảy ra. Đến khi ban thanh tra mời Bản lên nói rõ mọi chuyện thì anh mới hay rằng mình đã ký nhận một cách tùy tiện vậy. Anh ta cứ ấp úng, đỏ mặt và chỉ biết gãi đầu rồi cười trừ.

Ấy vậy mà chữ ký của Bản đã cứu cô y sĩ một bàn thua trông thấy. Nhiều thì nhiều vẫn là một chữ ký có người nhận. Mặc dù có người mách là cô ta đã tuồn ra cửa hàng của người nhà mình. Không những bao cao su mà còn đủ các loại thuốc khác. Hơn nữa, giá bao cao su cũng chẳng là mấy nên mọi người cũng cho qua. Nhưng cái chuyện anh chàng Bản, chưa có vợ, mà dùng tới 1.200 bao cao su trong một năm thì khiếp thật. Còn anh chàng Bản thỉnh thoảng nghĩ tới chuyện những bao cao su thì cũng phì cười rồi lấy tay che miệng lại. Thật rõ là ngượng.

Thế rồi, mới đây lại còn chuyện cả nể khác nữa mà Bản bị lâm vào cảnh éo le mà không biết. Ấy là chuyện anh ta nhận lời đóng vai làm chồng cho một cô gái chửa hoang. Cô ta bị người yêu lừa có con rồi bỏ trốn biệt tăm. Hôm ấy, một người em họ đến nhà Bản nhờ cậy. Chị ta tâm sự:

- Hoa là bạn em. Nó cả nể mà to bụng. Nó lại hẹn bố mẹ ở nhà quê là sẽ đưa người chồng sắp cưới về trình mặt. Ai dè thằng khốn nạn bỏ chạy. Biết làm sao bây giờ. Hay là anh giúp Hoa cho nó đỡ nhục nhã với bà con làng xóm.

Bản nghe chưa hiểu hết mọi chuyện nên hỏi:

- Tôi giúp được gì cô ta?

- Đóng vai làm chồng và cùng Hoa về trình mặt bố mẹ và bà con ở quê. Chỉ thế thôi.

Bản giật mình:

- Chết! Lừa mọi người sao được.

- Thì cũng như làm phúc cho người thôi mà. Sau một ngày trở lại thành phố, mỗi người lại một ngả. Ai biết đâu.

Bản đắn đo một lúc rồi nói:

- Để tôi còn suy nghĩ cái đã. Không nhờ người khác được sao. Những người thành thạo hơn, tôi đâu có gia đình mà biết mọi chuyện.

Cô em họ cướp lời:

- Thế mới hay. Anh lại là người tốt bụng bọn em mới nhờ đến. Làm phúc cho người mà anh. Mấy hôm nay cái Hoa lo lắm đến phát ốm và có lúc còn đòi uống thuốc ngủ để tự tử nữa. Tội quá anh ạ.

Nghe đến thế Bản thấy thương cô gái ấy và vội vàng nói:

- Ừ thôi thế thì cô dẫn Hoa đến đây xem tôi có thể giúp được gì nào. Và chỉ một ngày thôi đấy nhé. Mà cũng không biết nên nói năng thế nào đây cơ chứ…

Cô em họ vui quá ôm chầm lấy Bản cảm ơn, làm anh cứ nóng rực cả hai tai…


* * *


Mọi chuyện trôi chảy, đúng như hợp đồng đã giao ước. Sau ngày đó, mỗi người một nơi, Bản cảm thấy vui vui vì đã giúp được cô gái đỡ bẽ mặt với làng xóm. Nhưng không hiểu sao bỗng dưng có tin đồn râm ran rằng Bản đã ngầm cưới vợ mà không cho ai hay. Một người trách Bản, hai người trách… rồi tới hàng chục người thân quen và yêu mến Bản đều dồn dập hỏi về chuyện vợ con. Bản thanh minh thế nào cũng không thuyết phục được bạn bè, bởi có người còn nhìn thấy ảnh hẳn hoi, rằng đúng là mặt của Bản chứ không thể lẫn với ai khác ở cặp kính cận tròn xoe.

Thì ra, đúng cái hôm Bản về gia đình nhà Hoa, cô em họ lại đi cùng với người bạn trai. Anh ta có máy ảnh và chụp lia lịa cảnh đồng quê làng xóm, kể cả cảnh bà con họ hàng ra đón “đôi vợ chồng trẻ” mà Bản chỉ là một chú rể hờ. Hơn nữa, cô em họ lại không hề dặn dò kỹ lưỡng người bạn trai. Thế là bộ ảnh rất đẹp gồm đến chục kiểu đã được Hoa gửi về để cho gia đình làm kỷ niệm.

Và cũng chẳng hiểu tại sao có người ở nhà máy đã được xem ảnh và kháo ầm lên. Thế mới chết. Tuy vậy, mọi người chỉ bán tin bán nghi và cũng chả hiểu chuyện như thế nào nữa. Bản gặp ai cũng phải nói rằng mình chưa lấy vợ. Nhưng mọi chuyện trở nên oái oăm ở chỗ, Yến - người bạn gái thân thiết của Bản suốt ngày âm ỉ thầm khóc. Nghe cô em họ của Bản trần tình mãi, thề sống thề chết mà Yến vẫn còn ấm ức. Bản đành kể rành rẽ mọi chuyện mà cô em họ nhờ đóng vai chú rể để an ủi cô bạn kia. Nghe ra mọi điều, Yến đã thấy nguôi cơn giận, nhưng vẫn bực mình lắm vì chính cái hôm ấy cô cũng dự định bố trí kế hoạch đưa Bản về quê, để ra mắt bố mẹ, anh chị em. Cũng may mà Yến chưa nhắn tin chính thức về gia đình. Nghe chừng thấy cơn hờn ghen của bạn gái chưa nguôi, Bản ngon ngọt:

- Thế bây giờ em phạt thế nào anh cũng chấp nhận. Nhưng giận mãi thế này thì anh không thể chịu nổi.

Yến vội nhoẻn cười rồi nói:

- Đấy là anh nói đấy nhé! Chịu phạt không?

- Ừ em tuyên bố đi.

Yến tinh nghịch nói vui:

- Tuần này về quê. Tới cổng làng là anh phải cõng em về tới tận nhà để gặp bố mẹ nhé.

Bản đỏ dừ hai má, ấp úng không biết trả lời thế nào. Nhưng xem chừng, cô ta kiên quyết lắm đấy, trong lòng Bản cũng có vẻ chấp nhận. Nếu phải cõng Yến thật thì sợ gì cơ chứ. Mình cõng vợ tương lai của mình có gì đáng xấu hổ nào. Đúng là cái triết lý của anh chàng cả nể. Không hiểu có phải đúng như thế không mà Bản gật đầu đồng ý liền. Suốt cả tuần, Yến cứ phì cười mỗi khi tưởng tượng ra anh chàng cận lòi mắt kia phải cõng mình suốt đường làng. Nói đùa thế mà anh ta cũng tưởng thật. Đúng là anh chàng cả nể. May mà không phải con gái.


H Ế T
 
Trong bão tuyết
Nguyễn Văn Thọ


Sau Noel, tất cả, cả thời gian, dường như đóng đông lại bởi nhiều ngày lễ và nguyên nhân chính là thời tiết quá tồi tệ.

Trước đó ba tháng, tại vùng hắn ở có đứa bạn bị những người đồng hương đột vòm. Bọn chó hoang tha đi của gia chủ, bạn gái vợ chồng hắn 15.000 euro tiền hàng. Lại cách đây không lâu, tám nhà nữa bị cạy tung cửa.

Hắn bình tĩnh dặn thằng con riêng của vợ: "Tao ở nhà thì không nói gì. Nhưng đi vắng, bọn trộm có lọt vào, cứ cho nó lục. Đừng sợ, đừng chống cự. Chẳng thằng nào trên đời này đẩy cửa là bắn luôn, hay chém phăng đầu chủ nhà. Còn nếu nó đông mà tao ở nhà, con chỉ có trách nhiệm gọi điện thoại cho cảnh sát. Còn lại là việc của tao". Đứa trẻ vừa 18 tuổi, đứng trước hắn, bấy lắm! Nó nhìn bố dượng không chớp và "dạ" nhẹ.

Thật ra, thằng bé cũng từng nếm trải. Năm còn ở Hà Tây với ông cậu, nó cũng từng lang thang trốn nhà đi bụi mấy tháng. Còn khi bà ngoại và ông cậu tống nó ra khỏi nhà, chút xíu nữa nó đã trở thành bụi đời chuyên nghiệp trên sân ga Hàng Cỏ. Nhưng quả thực, nó chưa thấy ai như "lão già" này. Cái gì cũng không lọt khỏi mắt lão, dù một lời nói dối xâu vừa lỗ kim.

Tuy nhiên, ở đời không thể chủ quan được! Đừng khi nào để mình rơi vào cảnh huống bị động! Hắn nghĩ vậy và tìm cách giấu tiền. Tổng số 25.000 euro. Hắn đếm hai lần số tiền trước khi niêm phong chiếc phong bì chống ẩm, lại viết số tiền lên mặt phong bì, cẩn thận ghi ngày tháng. Hắn để tiền trên hốc nóc tủ ngoài hành lang, nơi có hộp công tắc lõm vào. Việc giấu tiền sau ngày bạn hắn bị đột vòm. Ba tháng rồi!


* * *


Hôm ấy là chủ nhật. Gió. Lạnh tới mức hắn và vợ nghỉ hai buổi chợ. Hai buổi chợ mất đứt hai trăm eu là ít. Vợ hắn cứ đi ra lại đi vào. Luôn chép miệng và ngó ra ngoài trời.

- Năm nay việc buôn bán thực quá tồi tệ. Mình đã ăn lẹm vào vốn cái. Tất cả hơn tám ngàn - hắn nói với vợ.

- Vâng, em biết. Từ khi đổi tiền mới, cái gì chẳng tăng giá. Tốn kém!

- Đồng đô lại tụt rồi! - Hắn nhả khói thuốc lên trần nhà. Tách một cái, mẩu thuốc bay lên lọt đúng vào cái gạt tàn để cách hắn hai tầm với.

- Em tính để euro lại sau này có giá đấy - tiếng người vợ nói vọng vào.

- Ừ, sẽ mang tiền đô về. Cô ở lại, khi tuyết gió quá đừng tham mà ra chợ. Bây giờ hai đứa đã có tuổi. Có giàu thì giàu rồi. Ngộ nhỡ cô ốm lăn ra thì chả bõ. Tôi thu xếp xong mọi việc ở Hà Nội sẽ sang ngay với ba mẹ con.

Cái câu có giàu thì giàu rồi mỗi lần gã nói làm người đàn bà đau thót tim. Số tiền hơn 70.000 đô gửi mẹ đẻ của chị ở Hà Tây đã tiêu tan trong một năm. Mẹ chị đã dùng tiền ấy đầu tư cho cô em bà ở Sài Gòn. Bà dì chị phá sản, tiền tan như khói. Dầu khi ấy hắn đã can, chị biết gửi ai giữ tiền hơn mẹ chị. Hai đứa chưa lấy nhau, chia tiền sòng phẳng. Hắn, nam giới, chôn tiền ở đâu chả được. Chị, nữ nhi, chắc nhất là gửi mẹ.

Thôi thì cơ sự đã như vậy, chả nhẽ con lại cắn xé, ăn thịt mẹ trở lại. Chị chỉ biết khóc. Phải rồi, ở quê ai cũng nghĩ chị giàu có, tiền như nước. Về phép, cả họ có quà. Có ai biết cái nỗi tha hương, mặt gục vào tuyết giá, nhịn ăn nhịn tiêu, nhịn cả tình cảm. Đau lắm. Đau quá. Giá như chết được! Khi ấy, chị đã nghĩ, chết mà hai thằng con, đứa khỏi nghiện, đứa không bỏ học thì dám chết. Chết cho nhẹ mình mình, để con cái vơ vất sống như con chị, người ta còn đào mả lên mà nguyền rủa!

Sự ấy diễn ra lâu rồi. Thế mà nhớ lại, đau thắt! Khổ quá, chị biết mẹ tiêu dùng thế nào, vặn hỏi cho rõ từng khoản, lập tức đứa con chị bị đuổi khỏi nhà. "Chị nhiều tiền, nuôi lấy nó, kẻo mang tiếng tôi là ở nhà trông cậy vào tiền ở nước ngoài. Tôi là con ở nuôi anh em chị. Bây giờ lại là vú già nuôi con chị ư?". Anh ấy nghe tin, khẩn cấp bay về. "Gia đình tôi sẽ nuôi nó!". Chị vẫn biết ơn chồng khi hắn đón thằng bé về nhà bố đẻ, rồi lại tìm cách đưa được sang với chị.


* * *


Hắn chợt bật dậy. Thế là chỉ còn hơn tuần nữa hắn lại được trở về Hà Nội. Nghĩ mà khoái. Hắn đi ra hành lang. Chợt nhìn lên nóc tủ nơi hắn giấu tiền. Cuốn sách hơi lòi ra ngoài. Hắn chột dạ, nhảy phắt lên, luồn tay vào. Có đường lạnh chạy dọc sống lưng. Hắn giật tung hai cuốn sách nặng. Cái hốc trơ trọi.

- Mẹ nó cầm tiền ở đây à? - hắn giật giọng hỏi.

- Tiền nào?

- Tiền tôi giấu ở đây này. Đâu?

Gần hai chục phút sau, cái tủ bị tháo vít khênh ra. Nhìn rõ dăm con gián nhỏ xíu chạy hốt hoảng.


* * *


Cả nhà bị lật, rũ tung từng thước thảm. Đã bốn tháng nay hắn có ngó ngàng gì tới số tiền đâu. Công việc làm ăn quá hối thúc hằng ngày cũng chả để hắn và vợ thở nữa là ngó vào cái thứ coi là nguồn vốn dự trữ kia. Trời ơi, đây là toàn bộ số tiền sau hơn 15 năm còn lại từ bàn tay chai cứng như thép của hắn. 15 năm xa quê, lang thang ba bốn nước, bao nhiêu chuyện xảy ra. Bao người thân yêu nhất mất đi mà hắn chẳng thể có mặt để dẫu là chỉ khóc.

Gia đình cũ tan nát. Gặp người đàn bà cũng có sự đau đớn tương tự, gắn bó. Tưởng xây dựng được tổ ấm mới. Hắn đi đi lại lại không nói. Nhưng thực ra trong hắn cồn lên biết bao câu hỏi. Ai? Ai đã lấy số tiền này?

Hắn cố gắng bình tâm. Cách đây hơn hai tháng, hắn có bàn với vợ di chuyển số tiền xuống hầm. Rồi sau đó vì công việc, hình như không làm việc ấy. Nói chính xác hơn là vợ chồng có bàn, rồi sự làm ăn túi bụi của vụ Noel làm cả hai không kịp tiến hành thay nơi cất tiền xuống hầm nhà. Hay là vợ hắn? Hắn hỏi lại vợ lần nữa. Người vợ yên lặng một lát, rồi ngẩng lên nhìn vào đứa con gái đang đứng nép bên cánh cửa: "Không, em hoàn toàn không tự động làm việc ấy".

Họ vẫn kiên nhẫn lục lại lần nữa khắp các phòng. Lại xuống tận tầng hầm, nơi vợ và hắn dự tính chuyển tiền xuống đó, dưới những tấm gỗ đẹp mà hắn nhặt nhạnh để định đóng một giá sách cho thằng con riêng của vợ.

Đứa con gái sáu tuổi đứng tựa vào cánh cửa, giờ bước tới ngả vào lòng mẹ. Nó không hiểu việc gì đã xảy ra. Nó khóc. Hắn lôi tuột đứa trẻ vào phòng ngủ của hai mẹ con, ấn xuống giường. Ngủ đi! Con bé sợ hãi nhìn cha nó. Ôm cổ cha nó mà hôn rối rít. Bình thường chả mấy khi nó làm vậy. Nhưng hôm nay nó sợ. Hắn cắn môi, nhếch mép hé gượng cười, nói với con: "Con đừng sợ. Ngủ đi." Hắn hôn vào má con bé như cắn.

Đêm, không ai chợp mắt tới sáng. Hắn đi đi lại lại, hết bật nhạc lại xem tivi. Rồi yên lặng, rồi hét lên. Chỉ có câu hỏi duy nhất miết xoáy lên trần chạy vang cả ba phòng trong căn hộ: “Tiền! Tiền ấy ai lấy? Trộm? Đứa nào? Ai?”.

Bữa ăn nguội buổi sớm thật yên lặng. Nghe rõ tiếng bánh mì khi bẻ ra thả vào sữa. Tiếng nuốt sữa của đứa trẻ. Một lát, hắn nói chậm, nhưng gằn:

- Một mất mười ngờ. Bây giờ chỉ có ba người. Không ai ngoài chúng ta. Tao? Mẹ mày, hay mày? Chả nhẽ tao lại ăn cắp tiền của tao? Mẹ mày thì không rồi. Mẹ mày không thể phản bội lại tao. Điều ấy mày chắc hiểu.

Hắn nuốt một ngụm Netcafe rồi nhìn vào mặt thằng bé:

- Mày nghĩ kỹ đi. Tao không khẳng định mày lấy. Nhưng tao hỏi mày có vô tình thấy nó mà giấu đi không? Hay là mày tưởng số tiền ấy của khách rơi ra? Mày biết tính tao đấy. Tao căm thù nhất trên đời tính ăn cắp. Nhưng tao thề có tổ tiên tao, nếu mày thú nhận, xin lỗi mẹ và em, tao sẽ tha thứ.

Người vợ ngồi né mặt, với nhìn sang đứa con gái nhỏ. Thằng bé thì cúi gằm mặt xuống.

- Nhưng con không lấy và không biết số tiền ấy. Con thề!

- Thề! Tao thề được như mày. Vậy ai đã lấy tiền? - giọng hắn nhỏ, đanh sắc và cặp mắt sáng tóe lửa như mũi mác phóng vào mắt thằng nhỏ.
 
Con thực không biết! - Thằng bé lé mắt lên yếu ớt nhìn dượng nó. Nó hiểu con người này đã đối xử với nó rất tốt. Tốt hơn cả cha nó. Chả thế nó từng nói với bà giáo Hega trong kỳ nghỉ đông vừa qua: "Dượng em rất được, ông ta biết em ốm. Biết em bất kỳ ở đâu, còn cha đẻ em không bao giờ biết em đang ở đâu từng ngày. Chỉ tội dượng em tính nóng hơn lửa. Ông ta rất thương mẹ con em. Bà hiểu không?". Nó lí nhí:

- Quả thực con mải chơi. Con từng ăn cắp ở nhà. Nhưng từ ngày sang đây con không ăn cắp…

- Bố ơi ! Con xin bố tha cho anh! - đứa bé gái cất tiếng, nó sắp khóc. Tự nhiên người đàn bà nước mắt chảy lã chã. Thằng bé cũng âm thầm khóc.

Hắn dịu giọng:

- Mày nghĩ kỹ đi. Ai cho mày ngày hôm nay? Tao đã quì xuống van nài bố tao, chị tao nuôi tạm mày khi mày đói gầy trên sân ga trở về với mẹ mày. Tao lại chạy ngang chạy dọc đưa mày sang đây cho mày hết cái cảnh có mẹ mà như không. Tao sắm cho mày từ cái áo tới cái quần. Tao cũng từng như van mày hết ngọt tới xẵng rằng là đàn ông thì phải kiêu ngạo mà tự tay mình làm ra tiền. Tao với mày chả ruột thịt gì. Sao tao lại cắn răng nhớ thương con tao ở quê hương để chăm cái đứa chẳng máu mủ như mày? Mày thấy nó rơi ra mà nhặt được thì đưa cho mẹ mày. Tao thề hai thằng đàn ông, thề có hương hồn cha mẹ tao, rằng tao sẽ không trừng phạt...

Hắn nghẹn lại vì xúc cảm thực sự. Không khóc, nhưng giữa ngực hắn có một dòng chì chảy nóng giẫy bò ngoằn ngoèo trong từng đường gân, mạch máu:

- Thôi, tao nói vậy là đủ. Cho mày suy nghĩ từ giờ tới tối. Mày nói đi! Sự thật tao không cần nói tới tiền nữa. Tao sẽ lại làm lại từ đầu. Tao già rồi. Nhưng tao sẽ không sợ. Tao yêu thương tất cả, nhưng tao căm thù sự phản bội - mắt hắn đột nhiên tóe sáng.


* * *


Bóng tối bắt đầu trùm lên thị xã. Ngoài kia, tuyết vẫn trùng trùng rơi. Chỉ còn một ngày nữa là Noel. Con bé bám tay vào thành cửa sổ. Nó nhìn sang dãy nhà bên kia đường. Ở nhà nó đang xảy ra điều gì? Bằng giờ này mà vẫn chưa thấy ông Noel tới. Mọi năm ông già ấy với cái áo đỏ tươi và chiếc mũ cũng đỏ tươi đã tới phát quà cho nó.

Quay lại nơi hai bố mẹ nó đang ngồi bên nhau nói chuyện rất nhỏ, nó hỏi: “Tại sao bây giờ ông già Noel chưa tới, papa?”. Mẹ nó nhìn đứa con cố nói nốt một câu với chồng: "Em nhục lắm rồi. Đã hỏi nó rất kỹ rồi. Em van anh đừng tống nó về Việt Nam. Cho nó tới Muenchen đi vặt lông gà vậy. Nó về nhà chắc nghiện như thằng anh nó. Thế thì em tự vẫn!".

Hắn ôm con gái vào lòng, vuốt tóc đứa con gái. Mọi năm giờ này hắn đã đóng bộ ông già tuyết từ hầm đi lên giả giọng ồm ồm, xì xồ tiếng Đức, phát quà cho con hắn. Bây giờ thì bụng dạ nào mà làm việc ấy.

Tuyết vẫn ù ù đập vào cửa cho tới sáng. Phòng thằng lớn vẫn lom dom cái đèn học, ánh sáng chiếu qua khe cửa hở một vệt như mũi lao đâm sang nơi hắn ngồi hút thuốc suốt đêm. Hắn nhớ lại cả cuộc đời hắn. Khuôn mặt luôn khó đăm đăm của người vợ cũ. Ngôi nhà nhỏ của tổ tiên mà khi chia tay hắn cắt phăng như cắt một khúc ruột, cho đứt con người đáng nguyền rủa kia chỉ vì đứa con gái bệnh tật. Những ngày trôi dạt bên Nga.

Cái phòng nhỏ khói axít lơ lửng, dày đặc quyện che kín cả trần nhà. Hắn chưa khi nào thua ai cả. Vậy mà tại đây hắn mất mát bao nhiêu mà cuối cùng lại bị phản bội. Sự nghi ngờ bao giờ chả là nghi ngờ! Hắn không phải là loại người làm điều không có bằng cớ. Cuộc sống của hắn cũng bao lần chịu oan uổng ở quân ngũ, ở cơ quan, ở đời nên hắn thận trọng. Còn chính xác thằng chó ấy lấy tiền nhỉ! Hắn đau đớn chừng nào bởi như vậy không chỉ là mất tiền! Hắn giận dữ miết tay xuống cạnh bàn. Ngón tay cái hắn ứa máu. Hắn chả thấy đau. Thản nhiên liếm.

Tiếng đồng hồ vẫn tích tắc từng giây đủ cho cả ba con người trong ba phòng nghe rõ. Chỉ có đứa con gái nhỏ là ngủ. Nó mê gì? Môi son hé cười và đôi tay hồng nắm lấy búp bê công chúa tuyết.


* * *


- Tôi đồng ý. Ngay sau tết tây, thằng con bà sẽ đi xuống chỗ bọn thằng Tuấn Tanh nhổ lông gà. Nó không được ở đây nữa. Để cho thằng Tuấn Tanh trị nó, cho nó biết thế nào là lễ độ. Không học hành gì nữa. Khi hai thằng đàn ông phản bội nhau, không tin nhau thì sống cạnh nhau tất có ngày xảy ra hậu họa. Tôi không sợ nó nhưng tôi sợ chính tôi!

Bên ngoài có tiếng chuông. Thằng bé ra mở cửa. Đó là bạn gái của vợ chồng hắn. Một người đàn bà tứ tuần, quắt queo như trái quéo héo.

- Em nghe tin hai bác có việc không may! Có mỗi mình em ngủ lại đêm ấy. Anh chị ơi, em cũng bị đập hộp, mất tiền, sao mà nỡ lòng nào nhặt được tiền của hai bác!

Chưa đặt đít đã đặt mồm - hắn nghĩ - Ai bảo cô nhặt tiền?

Người đàn bà sà tới bên thằng nhỏ:

- Cô mong cháu lên làm, mà nhà có việc, không đi làm sao không báo cô? Cô không gọi điện cho mẹ cháu thì sao cô tìm ngay người khác thế chân cháu. Khổ quá, anh ạ. Quán ế cả năm, bây giờ tụi nó mới đi mua sắm. Thôi, cháu còn nghỉ đông có hai tuần. Việc xảy ra đã rồi. Để cháu lên làm tiếp với em xem sự thể ra sao.

Người đàn bà kéo đứa con trai và vợ hắn vào phòng nhỏ. Từ đó vọng ra tiếng rì rầm. Hắn yên lặng hút thuốc tại phòng khách và nửa tiếng sau, lòng hắn đau thắt, rối bời khi nghe rõ tiếng thét của thằng con vợ trong phòng:

- Con sẽ tự tử, con sẽ chết để chứng minh cho cô và dượng là con không biết gì!

Hắn quay ra ngoài, ôm lấy đầu gục xuống mặt đệm xalông, cái gối úp lấy mặt.

Nửa tiếng sau hắn ra chốt cửa, sau khi người đàn bà và thằng bé lí nhí chào hắn.

Tiếng xe nổ máy êm êm. Hắn hình dung ra chiếc xe của họ bò loằng ngoằng trượt trên con đường còn nhầy nhục giá băng.


* * *


Mười một giờ đêm. Chỉ còn tiếng nữa là hết sang ngày Noel.

Con bé đã ngủ. Người vợ hắn giấu mặt xuống gối, nhưng thật ra không ngủ. Thế là đã ba đêm hắn không ngủ. Hắn tới bên bàn thờ thắp một nén hương cho cha mẹ hắn và bật nhạc. Tiếng nhạc giao hưởng làm thần kinh hắn dịu lại. Hắn uống một cốc vita tổng hợp và dựa lưng vào đivăng.

Bóng người mở cửa rón rén vào hành lang. Bóng đen tới cửa nhìn hắn. Hắn nín thở vẫn giả vờ ngủ. Bóng đen tới bên chỗ hắn giấu tiền và trèo lên bậc gờ tủ. Hắn bật ra nhanh như tia chớp giật tóc bóng đen và tung đầu gối lên. Hắn dang tay chém như máy vào gáy đối thủ cho tới khi chỉ còn là cái xác mềm nhũn. Hắn cười. Rút con dao bấm ấn nút và cứa mạnh, đứt rời bàn tay thằng chó ăn trộm gọn như vết đạn cắt mà hắn nhìn thấy ở đâu. Sợi gân giật giật làm hắn tối mắt. Cái mặt bị lật ngửa và hắn nhận ra khuôn mặt quen thuộc của đứa con vợ. Hắn thét lên, không thể như vậy!

Tiếng thét làm người vợ choàng tỉnh. Chị chạy ra, chồng chị vẫn đang vật vã trên đivăng và nói gì ú ớ.

- Anh! Tỉnh dậy, tỉnh dậy!

Hắn choàng tỉnh. Ngơ ngác ngồi dậy. Mồ hôi đầm đìa trên khuôn mặt phong trần của hắn. Đèn bật sáng trưng. Mười hai giờ kém bốn phút. Bây giờ là sắp sang ngày 25 tháng cuối cùng của năm.

Hắn để vợ quay lại với con. Ra vốc nước lạnh vỗ vào mặt. Tự nhiên sau giấc ngủ hắn thấy nhẹ lòng, dẫu buồn tê tái. Hắn tới bên con trong phòng ngủ. Tự nhiên hắn nhìn vào cái tủ đựng đồ chơi của con. Những ngăn kéo xếp nhiều đôi tất xinh xinh và những con giống xinh xinh. Như có một ma lực xui khiến, hắn mở ngăn kéo sát đất, mò tay vào cái hộc bé dưới thanh gỗ vừa rộng đúng bàn tay dài sáu chục phân.

Bàn tay hắn đụng vào hai tập giấy. Cái sức nóng ở tiền hay cảm giác của máu sói làm hắn giật thột.

- Đây rồi!

Hắn giật ra, ánh điện chiếu sáng hai gói tiền. Mà tại sao hai gói tiền?

Cái gói của hắn, dày hơn, bên trong. Giấy còn nguyên niêm phong và dòng chữ hắn ghi. Cái gói mỏng hơn, bên ngoài. Tung ra một sấp tiền đô và euro. Không hiểu sao hắn bình tĩnh đến thế. Hắn quay người lại giơ hai tập tiền lên:

- Ai giấu tiền vào đây? Lại cả tập tiền này nữa?

Người vợ lật sấp người lại, nhao lên:

- Trời ơi! Tiền à? Thấy rồi à? Trời ơi, con ơi! - chị líu cả lưỡi.

Hắn lạnh lùng:

- Hãy giải thích ngay lập tức vì sao bà phản tôi. Tiền này ở đâu ra? - hắn quẳng tập tiền mỏng một cách khinh bỉ xuống đất!

Người vợ oà khóc. Chị quì xuống thảm.

- Anh hãy giết em đi, nhưng cho em nói lời cuối! Đây là tiền em ăn cắp của hai chúng ta giấu riêng. Hôm qua, chính hôm qua em sợ quá giấu vào đó. Vâng, mỗi ngày em lấy ra năm ba chục và cất riêng. Còn em không biết tại sao số tiền kia ở đấy. Anh và em cũng có lần bảo giấu nó vào đấy, nhưng có ai làm đâu nhỉ? - chị suy nghĩ một lát, rồi trở nên bình tĩnh - Sau đó anh bảo mang xuống hầm!

Vâng, em đã phản bội. Từ ba năm nay, anh luôn cáu mỗi khi em gửi tiền về cho con trai em. Vâng, nó nghiện, nó láo với anh, nó khốn nạn, nhưng nó là con em - Tự nhiên giọng người vợ rất chậm và rành rọt. Chậm cùng với những giọt nước mắt chậm đổ xuống mặt thảm - Nhưng em hi vọng nó sẽ hết nghiện. Anh đã thù nó tới xương tủy khi nó chửi anh. Anh đã nuôi thằng em nó và dạy nên người.

Nhưng chắc anh sẽ chẳng bao giờ cho nó một đồng sau này, nếu nó có vợ và con. Anh là đàn ông, anh tỉnh táo hơn và chỉ ra biết bao điều em lầm lỡ, nhưng anh ơi, anh không biết trái tim của em đau đớn cực khổ ra sao, khi nghĩ, dù thoáng qua thôi, tới hòn máu của em, dẫu nó là hòn máu khốn nạn. Vì thế em quyết định chuẩn bị một chút thôi cho nó... Hãy giết em đi! Em ích kỷ, phản bội anh…

Người đàn bà bò lết tới chân hắn. Nước mắt ngập đầy hốc đôi mắt mà bao lần hắn đã thương xót hôn vào...

Ngay khi đó, con bé gái thức giấc. Nó bật ngay ra lao vào mẹ nó và ôm ghì lấy cổ mẹ. "Mẹ, Ma ma, Ma mi!" - nó rối rít gọi.

Hắn đứng như trời trồng. Khi ấy, từ đâu như có trăm ngàn mũi mác cắm sâu và ngoáy mãi, tàn nhẫn, vào con tim hắn. Không hiểu sao, dẫu là còn mong manh tơ vò điều chưa tỏ, hắn chợt nhớ tới khuôn mặt đẫm máu của thằng con vợ trong mơ. Hắn ngắt lời vợ:

- Thôi, câm đi! Gọi ngay điện cho con. Nó là người đầu tiên phải biết rằng chúng ta đã tìm thấy tiền. Điều ấy quan trọng nhất. Còn tôi và bà sắp chết cả rồi. Hiểu chưa? Đồ... - hắn nghẹn lại.

Nói rồi, hắn quay phắt ra phòng khách, ngồi xuống ghế. Lần đầu tiên sau hơn 15 năm lưu lạc, hắn khóc. Lòng hắn có một điều mênh mang rất buồn mà hắn, và chỉ hắn, biết lý do của nó.

Người vợ chạy từ phòng sang. Đứa con gái lon ton sau mẹ.

- Gọi eng, gọi eng về! - nó nói tiếng Việt ngọng nghịu dễ thương.

- Con nó về từ hơn một tiếng rồi! Cửa hàng đã đóng cửa.

Hắn vơ vội áo lông dày, vọt xuống cầu thang, không nói với vợ nửa lời. Hắn chạy ra ôtô, nổ máy. Trời lạnh, tiếng kin kít của máy đề mãi mới nổ được càng làm cho hắn sốt ruột. Đừng, đừng, mọi sự đừng xấu nhé! Hắn nhấn ga cho xe chồm rẽ tuyết và lao hệt như viên đạn bay xé gió tuyết về con đường rừng vắng tanh. Chiếc xe quay một vòng bên bìa rừng cạnh một bóng nhỏ ngồi im như tạc bằng đá trên một thân cây gỗ nằm ngã xuống bìa rừng từ đầu cơn bão tuyết vụ đông năm ấy.

Hắn hối hả mở cửa xe, hối hả lao như con sói vào đứa con non của sói. Hắn nhìn thấy khuôn mặt thằng bé. Đôi mắt vẫn nhắm. Trên vai áo khoác dạ, những bông tuyết trắng muốt, tinh khiết, sáng rực dưới ánh đèn pha ôtô. Hắn ôm choàng đứa con. Thọc tay vào ngực đứa trẻ, xoa lấy xoa để... Nửa giờ sau, hắn và người vợ ngồi bên thằng con được xoa tuyết toàn thân, rồi ủ chăn ấm đã tỉnh dậy. Nó ngơ ngác nhìn.

- Con ơi, thấy tiền rồi!

Thằng bé nhỏm dậy. Nó ngơ ngác và chợt hiểu. Nó cười. Ba con người, đúng hơn là bốn con người ôm chầm lấy nhau và họ đều im lặng để nước mắt người này quyện với nước mắt người kia.


* * *


Những ngày sau đó không ai lục vấn số tiền lớn kia, hắn hay vợ hắn, hay con hắn, đã cất. Bố ai mà nhớ ra trong mấy ngày tuyết gió có bao nhiêu trận tuyết? Vả lại mọi điều quan trọng nhất đã sáng tỏ.

Cũng thật kỳ lạ, cái lão trời già lắm chuyện. Gió như thế, bão như thế mà thoắt một cái băng lại tan và mặt đất hiện ra. Mặt đất đen tuyền, nhưng không lạnh.


[size] H Ế T[/size]
 
Mồng Năm, Quân đến tìm tôi . Nó còn đứng ngoài cổng, chị Hai đã cằn nhằn :
- Tụi bây chơi từ mồng Một đến mồng Bốn chưa đã hay sao giờ còn tụ tập nữa ? Ngày mai đi học rồi mà không chịu ôn bài !
Tôi ra mở cổng . Thật tình tôi cũng rất khó chịu khi Quân đến . Ngày mai thực hành mổ ếch ở phòng thí nghiệm và kiểm tra một tiết Sử mà tôi chưa chuẩn bị chi cả . Cũng tại mấy ngày cuối năm nôn nao không chịu coi bài trước . Nếu không giờ đâu có vắt giò lên cổ như thế này .
- Tao không đi nữa đâu mày - Tôi lên tiếng trước .
- Đi đâu ? Tao tính hỏi mày kiếm ếch ở đâu nè . Tao rảo khắp chợ rồi . Chẳng ai bán ếch sống cả .
- Mày học bài Sử chưa ? Tao mới thuộc chương hai hà . Bài dài quá, quên hết trơn .
- Thôi lo cái vụ ếch trước đi . Tao với mày không lo tròn là lãnh ngỗng . Thầy có "xi-nhan" trước hôm học cuối năm đó .
Mùa Xuân, đồng khan nước, ít mưa nên biết tìm ếch ở đâu bây giờ . Tôi và Quân là hai tổ trưởng tiết giải phẫu, không thể không lo lắng . Tranh thủ "tụng" xong chiến dịch lịch sử, buổi tối, hai đứa xách đèn pin đi vòng quanh bờ ao, rảo khắp vườn . Tiết trời ấm áp, có lẽ vì thế lũ ếch trốn biệt trong hang, một tiếng kêu cũng không nghe . Trong lúc tôi thiểu não chắp tay sau mông đi lang thang, Quân đề nghị :
- Hay là đi bắt cóc thay thế đi mày ! Tao thấy cóc và ếch cũng giống giống nhau chứ gì .
Cóc là cóc . Ếch là ếch . Làm sao mà giống được . Nhưng bí thế đành liều mạng . Hai đứa vào vườn nhà tôi . Mấy chú cóc gặp ánh đèn pin cứ ngồi hếch mỏ gương mắt nhìn . Làn da sần sùi lốm đốm trắng của "cậu ông trời" khiến đứa này đùn đẩy cho đứa kia, không ai dám đưa tay chộp . Cuối cùng, tôi tìm cái bịch ni lông xỏ vào tay . Bốn năm chú cóc mập ú được cẩn thận bỏ vào giỏ .


- o O o -

Thằng Quân cẩn thận giấu lũ cóc trong hộc bàn . Mấy anh chàng, cô nàng bị giam giữ mà vẫn hăng máu vật nhau khiến cái giỏi vải cứ tung lên . Quân phải một tay viết, một tay thò vào hộc bàn đè xuống . Thật gay go với tiết kiểm tra đầu năm . Bài sử đã thuộc sơ sơ hôm qua, vậy mà bây giờ ngày tháng cứ nhảy lung tung như "cậu ông trời" trong hộc bàn . Nhỏ Hạnh liếc xéo . Tôi bực mình hết sức . Từ ngày được bổ nhiệm làm lớp phó trật tự đến nay, nó vẫn hay theo dõi bọn con trai một cách quá đáng trong những lúc như thế này . Cứ làm như tụi tôi là chuyên viên quay cóp không hơn không kém .
Tiết thực hành môn Sinh đã đến . Nam, cái thằng là vua không thuộc bài, được phân công kẹp chân cậu ông trời lại cho tôi cầm dao phẫu thuật . Tướng tá nó thuộc loại cao lớn nhưng run đến nỗi chẳng dám sờ đến làng da lấm tấm mụn sữa của lũ cóc . Nó cẩn thận mở miệng túi, thọc cây củi vào trong. Con cóc như tìm được lối thoát thân, ôm chặt thanh gỗ . Thằng quỷ liền nảy ra ý định ... quậy . Nó đưa cậu ông trời vào ổ điện . Khờ quá, cây củi ướt nên nó cũng bị giật lây . May sao, con cóc té xuống đất . Nhỏ Hạnh "ra lệnh" trật tự . Nó ngồi trên ghế, chân nọ gác chân kia trong phát ghét . Tôi nổi sùng cúi xuống thật nhanh, lượm cậu ông trời quăng về phía nhỏ . Đám con gái hét toáng, xô cửa chạy khỏi phòng thí nghiệm quên cả mang dép . Riêng nhỏ Hạnh vẫn ngồi đấy im thin thít, mắt trắng như lạc hồn . Trời, con cóc chễm chệ ngồi ... trên đùi nhỏ Hạnh ! Cậu ông trời thản nhiên há miệng rộng vừa thở vừa ngước nhìn cô lớp phó trật tự . Quân tiến về phía nhỏ, đẩy tôi một cái suýt bật ngửa . Cả cái lớp 11A4 này ai mà chẳng biết bấy lâu nay nó âm thầm làm đuôi nàng lớp phó này . Hôm nay, được dịp ra tay nghĩa hiệp, nó chớp ngay thời cơ . Lúc con cóc vừa rời khỏi chân, tức thời nàng phó lớp hét toáng lên, hu hu một tràng dài, nước mắt nước mũi tèm lem .
- Không sao đâu Hạnh, nín đi, hổng có sao đâu - Quân an ủi .
Ai cũng nửa cảm động, nửa mắc cười vì thái độ ân cần quá đáng của Quân . Mải lo cho Hạnh, mọi người quên tạm thời thằng tôi thủ phạm . Đến lúc hạnh bình tỉnh lại, người đầu tiên nhỏ quan tâm không phải là thằng Quân mà là tôi :
- Ông ... tui méc thầy cho coi !
- Mày chơi kỳ quá ! - Quân xen vào . Trời, cái thằng ... chỉ vì con nhỏ đó mà nó đã quên bẵng tình nghĩa bạn bè thân thiệt bấy lâu nay . Lần đầu tiên sau mười mấy năm làm bạn, nó "đá" tôi ! Mới hôm tết nó còn nói nhỏ Hạnh kiêu quá, lại dữ như bà chằn, thứ người như chỉ có ma mới thèm để ý ... Thì ra, nó nói xạo ! Nó thương người ta quên cả tình nghĩa tri kỷ tri âm thế này ! Tôi nổi sùng nhưng không dám lên tiếng vì dù sao mình cũng có lỗi .
- Thôi thôi, thằng Tân đâu có cố ý . Mày xin lỗi Hạnh đi Tân - Thằng Nam sau khi "chết đi sống lại" vì điện giật lên tiếng .
Chết đuối gặp phao, tôi cũng theo lời nó ngay, nhỏ Hạnh cũng có lẽ còn tức tối lắm nhưng không nói gì nữa . Ôi! ai mà chẳng biết, có thằng Quân đứng cạnh dĩ nhiên nhỏ phải giả bộ hiền hậu dễ thương rồi . Quân à, mày té cái lầm rồi nhé . Mai mốt nàng lớp phó có "nắm đầu" thì mày đừng đi tìm tụi tao mà than thở nhé - Tôi điên tiết hét lên trong đầu .
Mấy nhỏ chạy toán loạn lúc nãy giờ bắt đầu lấm lét mò vào phòng . Đứa nào cũng giữ khoảng cách an toàn với tôi . Mặc dù bên ngoài của tôi tỏ vẻ lạnh lùng nhưng trong lòng tôi cảm thấy ấy náy . Tay chân thừa thãi, tôi chẳng biết làm gì, đành giả vờ đến xếp lại trật tự mấy lọ mẫu thí nghiệm giữ từ trước Tết . Có lẽ biết tôi giận nên Quân xớ rớ đến bên phụ dọn dẹp một tay . Cái thằng ! Đúng là tôi chưa bao giờ giận dai với nó được .
Câu chuyện cậu ông trời đến làm bạn nhỏ Hạnh nhanh chóng trôi qua bởi mọi người tranh thủ kể chuyện đi chơi Tết . Ông vua không thuộc bài sua một lúc vòng vo tam quốc đã thú thật Tết nay có tham gia "cào ba lá" với đám em bà con dưới quê . Kết quả, tiền lì xì của nó bị lũ em "rỉ" hết trọi . Cả trăm mấy chục ngàn chứ ít sao ! Già đầu mà còn bị trẻ con dụ khị . Đáng đời mày nhé Nam . Năm mới cứ ráng giữ chức "vua ấy" đi, rồi cuối năm nay thầy chủ nhiệm sẽ thưởng cho vài trăm ngàn đi "cào ba lá " tiếp .
Đứa nào đó lôi ra mấy đòn bánh tét . Cái món này, ngày xuân ngán tận cổ, mới nghe mùi nếp mùi đậu phảng phất đã thấy no . Vậy mà bây giờ bỗng tranh giành nhau ỏm tỏi . Bàn mổ biến thành bàn ăn . Dây nhợ, lá gói tứ tung . Hạnh nhón lấy khoanh bánh đến gần tôi :
- Ông ăn bánh nè . Đừng giỡn vậy nữa nha .
- Thôi thôi, bỏ qua chuyện đo 'đi, đầu năm đầu tháng mà - Tôi đón lấy khoanh bánh và không hiểu sao nói ngon ơ như thế . Cứ như Hạnh là có lỗi và tôi đại trượng phu không ích kỷ nhỏ nhặt vậy . Cũng may cả đám tụi nó mê ... ăn, không đứa nào để ý . Bốn đòn bánh mới đó hết sạch . Bịch mứt hỗn hợp lại được lôi ra . Không biết tại sao bây giờ, thứ nào cũng ngon như vậy . Biết thế, tết năm tới phải cất để dành ra giêng mới thưởng thức .
- Thầy vô tụi bây ơi !
Thằng nào đó hét lên khiến cả lớp quáng quàng, đứa này chạy va sầm vào đứa kia . Mấy đứa con gái hốt hoảng vừa dọn vệ sinh bàn mổ vừa chén nốt vài "món" cuối cùng còn sót lại .
- Thầy đã bước vào khu vực 16 mét 50 . Nguy hiểm quá . Sút ! - Nam vừa hét vừa tung cú sút cực mạnh . Bịch rác bình yên nằm giữa sân trường .
Cả lớp nghiêm chỉnh đứng theo tổ chào thầy . Năm mới, thầy vẫn mặc chiếc áo trắng giản dị đến lớp . Đám con gái thất vọng, vì họ định bụng thế nào cũng phải trêu thầy nếu đầu năm thầy mặc áo mới .
- Chúng ta trể mất năm phút rồi đó . Thôi, tổ trưởng đâu, đem ếch ra tiến hành mổ đi các em .
Tôi và Nam chạy xuống cuối phòng . Giỏ cóc biến mất . Tôi nhìn Nam, Nam sờ tráng . Nó sực nhớ đến bịch rác . Trong lúc hấp tấp, nó độn cả giỏ cóc vào bịch rác rồi còn gì . Cú vô lê của "vua lười" tai hại thật . Chẳng còn cách nào khác, nó trình bày với thầy, xin thầy ra ngoài "lượm" lại . Hai tay lễ phép, Nam trao "giỏ ếch" tận tay thầy .
- Tốt ! Bây giờ chúng ta bắt đầu !
Thầy nhanh nhẹn mở giỏ, nhìn vào . "Ôi, cóc !". Thầy hét lên, hoảng hốt quăng giỏ xuống sàn . Năm chư vị họ hàng nhà trời nhanh nhẩu nhảy ra sân tẩu thoát . Đám con gái nép vào nhau, đứa nào cũng vịn tim, tái mặt .
- Dạ, tụi em không tìm được ếch nên bắt cóc thay, thưa thầy - Tôi và Quân đến bên bàn mổ, lí nhí .
- Sao ... sao hai đứa không nói trước cho thầy chuẩn bị tinh thần ? Thú thật với mấy em, tui ... rất sợ con đó .
Tiết thí nghiệm đầu năm coi như vỡ kế hoạch . Tôi cầm dao mổ trên tay dí dí vào bịch bông gòn . Bây giờ, tôi mới phát hiện đứa nào đó dám lấy dao thí nghiệm xẻ bánh tét . Vài hạt nếp dẻo ngoách lì lợm bám vào lưỡi dao . Khó khăn lắm tôi mới lau rửa sạch được . Trời đất, tôi nghĩ thầm, con dao này trước Tết mổ bụng rắn chưa tẩy lại bằng sài phòng . Vậy mà hôm nay tụi nó dám "mổ bánh" ăn ngon lành . Cầm con dao xoay qua xoay lại, tôi vẫn không biết có nên thông báo "điều ví mật" này cho lũ bạn rõ chăng .
 
Chuyện Dành Cho Con Trai
sáng tác: Phan Đức Thuận

Thằng Hưng tròn mắt lên:
- Ê, nhỏ đó đẹp không ? Mày tả sơ sơ thử coi !
Tôi giả bộ như mình không phải là thằng ... nhiều chuyện :
- Thôi, chuyện cuả người ta nói tới nói lui làm chi !
Lần này cả đám bạn tôi gây áp lực .
- Ai biểu mày úp úp mở mở chi ?
- Nói huỵch toẹt ra hết đi, giả bộ hoài !
Thằng Điền Đô nắm cổ áo tôi:
- Bây giờ mày nói không ?
- Bỏ cổ áo ra đi, đồ tao mới giặt đó - Tôi nói - Không phải tao sợ thằng Điền đâu, tao nể tình tụi bây tao mới kể cho nghe . Ráng ngóng lỗ tai lên nghe đây: nàng có vóc dáng rất mi - nhon, mái tóc mượt mà xõa ngang vai, mũi nàng dọc dừa, môi hình trái tim, đôi mắt tròn đen mà thiên hạ gọi là mắt nai ngơ ngác ....
- Xạo! - Thằng Hải cắt ngang lời tôi một cách rất mất lịch sự .
Tôi đứng phắt dậy, phủi đít :
- Xạo thì thôi, tụi bay năn nỉ tao mới kể, hổng tin bắt tao kể làm chi ?
Nói rồi tôi lôi quần dài trên nóc mùng xuống :
- Tao đi đây, tụi bây hổng tin, chiều ra về tra khoả thằng Dũng thử coi .


- o O o -

Buổi chiều thằng Dũng đi dạy kèm về, thằng Hưng mon men lại gần :
- Ê ! bộ mày mới kết một em đẹp lắm phải không ?
- Em nào ?
- Giả bộ hoài, em mi-nho cuả mày chứ còn ai vô đây ?
- Mi-nhon nào ?
- Mi-nhon mắt nai mũi dọc dừa môi trái tim đó! - Thằng Thắng phụ hoạ .
Thằng Dũng bật cười:
- Nhỏ nào dẹp dữ vậy ? Giới thiệu cho tao đi !
Cả đám tròn mắt nhìn nhau và sau đó tất cả đều hướng về tôi . Cực chẳng đã tôi phải lên tiếng:
- Vậy chứ tối chủ nhật tuần rồi mày chở em nào đi ngang qua nhà thờ Đức Bà ?
Thằng Dũng đỏ mặt :
- Ơ ... tao .
Thái độ thiếu trung thực cuả nó càng làm cả bọn nghi ngờ .
- Ê, tra tấn nó !
Cả đám nhào vô lột thằng Dũng chỉ còn chiếc quần đùi . Chịu không nổi, nó đưa tay lên trời :
- Tao xin thề, nhỏ đó không là cái gì cuả tao hết !
- Khó tin, không là cái gì sao dám chở đi chơi ?
- Tụi bây ép tao quá! - Thằng Dũng tỏ vẽ miễn cưỡng - Vậy thì bồ tao đó !
- Tên gì !
- Lan .
- Gì Lan .
- Ngọc Lan .
- Nhà ở đâu ? Mấy tuổi ? Học trường nào ? Tụi bây quen nhau bao lâu ? ....

- o O o -

Thể theo lời yêu cầu ... bắt buộc, chủ nhật này thằng Dũng phải dẫn nhỏ Lan tới ... ra mắt . Khỏi phải nói, số phòng 412 này nổi tiếng là lịch sự có thừa . Tụi tôi tự phân công nhau dọn vệ sinh và sắp đặt để tiếp đón cô gái đầu tiên đến phòng 412 này .
Đầu tiên là phải đem đống đồ dơ đi gặt cấp tốc . Sau đó xách nước lên lau sàn nhà, rồi sắp xếp chăn màn cho gọn ghẽ để người ta lên khỏi nói mình bê bối .
Thằng Điền đô có nhiệm vụ mướn mấy cái ghế để ... đàm đạo; thằng Thắng có nhiệm vụ sửa soạn bữa cơm thân mật . Còn tôi có trọng trách .. mở cửa mời nàng vào nhà .
Tôi là nhân vật quan trọng thứ hai, sau thằng Dũng . Cho nên tôi tự thấy mình phải ăn mặc chỉnh tề . Tôi lục rương chọn bộ quần áo mới nhất, rồi sai thằng Hưng qua phòng bên cạnh mượn cái bàn ủi . Tôi kêu thằng Hưng đứng ngoài cửa canh dùm mấy cha quản lý ký túc, mấy ổng hay đi lang thang rủi ngó vô thấy đang ủi đó thì rắc rối . Lo canh chừng, đột nhiên tôi thấy khóc bốc lên và nghe mùi khét, tôi hoảng hốt ngó xuống thì thấy nguyên cái mũi bàn ủi in trên áo ! Thằng Hưng chạy vô ngó thấy cảnh tượng đau lòng này, nó không dám trách móc gì chỉ an ủi :
- Thôi lỡ rồi, một lát lúc mở cửa cho nàng vô mày lấy ngón tay che vết cháy lại !
Trong kia thằng Thắng đang sửa soạn bữa cơm, hôm nay nó cho biết làm một món đặc biệt ... chưa từng có để thết khách quý . Tôi tò mò nhìn vô giỏ đi chợ coi nó mua gì: một bó rau muống, một bó rau dền, mấy con khô gì nhỏ xíu cỡ hai ngón tay:
- Mày coi tao chế biến nè - Nó nói rồi bắt nồi nước lên, sau đó mở gói nho nhỏ bỏ vô nồi .
Tôi thắc mắc :
- Cái gì vậy ?
- Súp thịt heo Knor !
- Knor hả ?
Nói xong tôi mới giật mình vì tự dưng mình nói y hệt quảng cáo trong ti vi . Nó không thèm để ý tới điều đó chỉ lẳng lặng trút rau dền và rau muống vô nồi, sau đó nêm muối rồi mút một vá đưa lên miệng nếm . Nó xuýt xoa: "Ngon quá ! Ngon quá! ". Tôi nói : "Cho tao nếm chút coi!" Nó khoát tay: "Không được, đợi một lát nhập tiệc rồi ăn luôn!". Sau đó nó bắt nồi canh xuống rồi đưa mấy con khô lên nướng . Mấy con khô gặp lửa càng khô teo lại thật tội nghiệp . Vậy mà nó hào hứng : "Mấy con khô giòn rụm ăn với canh súp Knor, trời ơi bá chấy !".
Thằng Điền kênh mấy cái ghế về để chỏng chơ giữa nhà, cái sút chân, cái nứt mặt . Tôi than "Mày rinh đồ phế liệu này về làm chi vậỷ". Nó không nói gì, chỉ lôi đinh, búa ra đóng đóng gõ gõ . Trưa nóng nực, mồ hôi đổ ròng ròng, vậy mà nó ra vẻ khoái chí lắm . Sửa được cái nào nó rung rung thử vài cái rồi chạy ra xa ngắm nghiá . Cuối cùng , nó chọn một cái coi được nhất để riêng ra lẩm bẩm: "Cái này dành cho khách quý".
Chuẩn bị xong xuôi, đưá nào cũng mệt phờ người, lại phải xuống lầu xách nước tắm rửa cho sạch sẽ.
Bốn giờ chiều, sắp đến giờ thằng Dũng dẫn nàng tới, cả bọn sốt ruột đứng ngồi không yên . Tụi nói quay qua cắp vấn tôi:
- Nhỏ đó đẹp thiệt hôn mầy ?
Tôi trả lời ậm ừ:
- Thì tao nói rồi : mắt nai, mũi dọc dừa một trái ...
Cửa xịch mở. Tôi vội chạy ra, tay để che lên ngực (che vết cháy), một tay mở cửa theo kiểu quý tộc . Thằng Dũng ló cái đầu bù xù vô, không có ai theo sau nó cả .
- Nàng đâu rồi ?
- Nàng mắc bận, không tới được!
Thằng Thắng với thằng Điền ngã ra giường, mệt mỏi . Tôi ngỡ ngàng buông tay xuống, còn giữ ý tứ gì ở đây nữa !
Thằng Thắng dọn cơm ra, lần đầu tiên từ khi ở ký túc xá bọn tôi mới ăn cơm ngồi bàn ghế đàng hoàng. những tưởng b
 
Trò chơi quên nhớ
Nguyễn Ngọc Tư


“Lam đã đóng vai người đang yêu trong hai năm, dài, dài lắm. Nhiều khi Lam nghĩ, không biết đám cưới xong thì đời dằng dặc đến chừng nào. Hay đến một lúc, Lam đã diễn quen, đến không thể sống thật, không thể trút lớp?”.

Trước bữa đi công viên để chụp hình đám cưới, Lam gặp tai nạn do lái xe chạy quá nhanh khi qua cua. Lồm cồm ngồi dậy, thấy có mấy vết trầy xước nhẹ ở khuỷu tay, phía đầu gối hơi rát, Lam dựng xe lên, chạy một quãng bỗng nghe máu rịn qua chân mày, chảy xuống mắt. Quệt vệt máu, Lam chợt nghĩ ra một trò thiệt vui. Lam giả đò mất trí nhớ.


Hồi nhỏ, Lam hay nghĩ ra nhiều trò chơi lạ. Có lần, Lam trốn dưới gầm giường cả ngày, ngoại hoảng lên nhờ hàng xóm nhảy xuống ao mò táo tác. Không thấy, ngoại mếu máo nhắn đò kêu mẹ Lam về. Khi tàu từ phía chợ gầm gừ ghé bến, Lam không chịu được, nó chạy tung ra mừng "Mẹ, mẹ ơi!". Đang nẫu nuộc, bồn chồn, mẹ Lam bỗng ráo hoảnh, mẹ giận dữ tát mấy cái vào mặt vào vai vào mông Lam. Nó nghe đau rát nhưng chỉ cười nhe ra mấy cái răng sún, Lam thèm được nhìn thấy mẹ biết bao. Sau này, mỗi lần nhớ mẹ, Lam đều chơi lại trò đó, ngoại luôn tìm ra nó dù ở xó xỉnh nào, kẹt lu hay trong nhà củi. Lớn lên, Lam thấy mình dại. Bởi ngoại có nhắn, thì mẹ cũng biết tỏng là mánh khóe của Lam, mẹ cũng không về. Mẹ Lam bận. Mẹ muốn giàu có, thành đạt. "Con nghèo như vậy quá đủ rồi", những lúc ngoại Lam càm ràm này nọ, mẹ hay nói vậy, và cắn môi ngó qua sông. Bên đó, có người lên thành phố, không về, yên phận đời phò mã cho một công chúa nào đó.


Mười hai tuổi, ngoại mất, mẹ rước Lam về chợ. Tối nào mẹ có khách đàn ông là Lam lại lui cui kiếm chuột bắt chơi. Nó hì hụi quanh phòng khách, thọc đầu ngó nghiêng chỗ này, xó nọ, miệng mắng mỏ, con quỷ sứ, mầy trốn đâu rồi, tao đập đầu cho chết cha. Lâu lâu lại chép miệng:


- Trời, mới đây mà khuya lơ khuya lắc rồi.


(Vậy mà thằng cha mày không chịu về phứt cho rồi). Mẹ nhìn Lam thom lom, mắt quắc lên. Sau, hễ chạng vạng, mẹ Lam lại ăn mặc thơm phức, xách xe đi. Chuột bò nhộn nhạo Lam cũng kệ. Một bữa, Lam xin mấy lọ thuốc không về quăng vung vãi quanh mình rồi nằm im lìm như người chết. Khuya xa xắc mẹ mới về, ngang qua Lam, mẹ càm ràm, "bữa nay bày đặt làm trò gì nữa đây ?!" rồi đi thẳng lên lầu. Lam thấy nếu mình chết thật thì uổng quá. Thôi.


Cái trò mất trí nhớ nầy cũng không phải là sáng tạo gì mới, trên phim thiếu gì, ai coi cũng cảm động muốn chết. Lam nghĩ Son Ye Lin diễn đâu phải hay mà vẫn lấy nước mắt của người ta, mình cũng làm được tuốt. Lam bất thần chao đảo rồi dừng lại giữa đường, thụp xuống ôm đầu. Xe cộ ùn lại một cục, có người hỏi cô bị làm sao vậy, Lam ngẩng lên, ngơ ngác, lắc đầu. Hỏi nhà ở đâu, Lam lắc đầu, ngơ ngác. Vết máu trên trán vẫn chưa khô.


Lam được người ta đưa về nhà. Lam bắt đầu sống với những người xa lạ (theo đúng kịch bản). Mẹ nghe báo tin hớt hải chạy về. Lam thấy mẹ nắn tay nắn chân mình bèn rụt rè hỏi, "Chị ơi! Chị là ai?!" bằng vẻ mặt ngây thơ hết biết. Mẹ thảng thốt kêu lên:


- Trời ơi, sao vậy Lam, tuần tới là đám cưới rồi đó.


Lam cười, đờ đẫn nhìn quanh, đám cưới, mà đám cưới ai? Lam thấy trong mắt mẹ sự sụp đổ, tuyệt vọng.


Cuộc chạy chữa bắt đầu, mẹ đưa Lam tới những bệnh viện nổi tiếng nhất, những bác sĩ giỏi nhất. Cuối cùng, người ta đoán, có thể sự va chạm mạnh vào đầu làm xóa đi vùng ký ức, nhưng hiện tượng này chỉ tạm thời thôi. Sẽ phục hồi nhanh nếu những người thân thuộc khơi gợi lại những kỷ niệm sâu sắc, càng nhiều càng tốt.


Đưa Lam về nhà, mẹ nhìn đống thiệp thơm phức thở dài, ủ ê. Ngày cưới sắp tới mà cô dâu không nhận ra chú rể, đúng là thảm kịch. Suốt thời gian đó, Thái chỉ biết nắm tay Lam, đau đáu:


- Anh nè, anh là Thái nè, em nhớ chưa?


Lam khổ sở lặp lại như cái máy, "Dạ, Thái..." nhưng không có vẻ nhớ ra cái người chỉ vài hôm nữa sẽ làm chồng mình. Chiến dịch khơi nguồn ký ức đã bị Thái mở màn thảm bại, Lam mở con mắt ra bộ kinh ngạc khi nghe Thái nhắc hai đứa quen nhau trong bữa tiệc sinh nhật nhỏ bạn, hôm đó Thái hát xong, Lam vỗ tay khen hay, nhớ không? Nhớ không, quán cà-phê "Thiên Đường", chỗ hai đứa thường hò hẹn? Nhớ không, lần Thái dắt Lam về nhà ra mắt cha mẹ, Lam đã làm đổ chén chè lên áo? Noel mới đây, hai đứa bị kẹt xe gần hết đêm, nhớ không? Lòng Lam quặn lại, khi nhận ra những thứ mà Thái gọi là kỷ niệm, chúng ráo hoảnh, tươm tất kỳ cục. Những chi tiết đơn điệu đã làm nên một mối tình đơn điệu, giá mà có thể chỉnh sửa để kỷ niệm sâu sắc hơn, thí dụ như cùng nhau đi tung tăng dưới trời mưa, trên con đường chiều vắng ngắt, ướt ngoi ngóp, tối đó còn kèm thêm một trận sốt nhớ đời. Hay còng lưng chạy xe đạp chở nhau ra ngoại ô, chỉ để đứng trên cầu ngắm mặt trăng biếc ngần mắc vào lưới vó dưới dòng kinh...


Lam cố tỉnh bơ không để ý nghĩ hiện ra mặt. Lạt lẽo tiễn Thái về, còn một mình, Lam vùi đầu trong mền cười ha ha ha, tự khen mình diễn hay tới không ngờ. Có thể cái trò chơi đóng vai không lạ lẫm nữa. Từ sau bữa tiệc sinh nhật hôm đó, Thái đưa Lam về, mẹ cũng vừa trờ tới, thấy Thái, mẹ kêu lên, giọng trách móc nhưng cực kỳ dịu dàng:


- Trời đất, Lam, sao con không mời bạn vô nhà chơi?


Sau, biết Thái đang làm việc ở Sở Tài chính, lại là con trai của phó chủ tịch tỉnh, Lam không ngơ ngác nữa. Lam thấy mình có bổn phận phải yêu người này, như một cách đỡ đần cho công việc kinh doanh của mẹ, dù Lam nói về sông, về đồng, về những sa mưa cá rô lóc trên sân, hay về một người bán vé số mù hôm qua chết dưới dạ cầu, Thái không biết gì hết. Chẳng sao cả, Lam sẽ yêu. Những ngày tháng đó đối với Lam như một giấc mơ. Mẹ nhắc chừng Lam từng chén cơm. Lam đi chơi, mẹ chọn áo, tiễn Lam ra cửa, âu yếm dặn dò:


- Chơi vui nghen, hai đứa.


Lam nũng nịu ôm eo Thái cho đến khi mẹ quay đi, nếu phải sống giả để nhận sự quan tâm, trìu mến của mẹ, cũng đành.


Và Lam đã đóng vai người đang yêu trong hai năm, dài, dài lắm. Nhiều khi Lam nghĩ, không biết đám cưới xong thì đời dằng dặc đến chừng nào. Hay đến một lúc, Lam đã diễn quen, đến không thể sống thật, không thể trút lớp?


Chơi trò quên nhớ này thì vui hơn giả bộ yêu nhiều. Không phải đắm đuối, ngọt ngào nữa, bây giờ chỉ việc đưa cái mặt ngơ ngáo, đờ đẫn ra với đời. Và cứ vậy, vui từ sáng sớm, khi chị bạn cùng cơ quan hối hả chạy lại thăm. Ngồi với nhau, chị cứ chắc lưỡi xuýt xoa (mà không giấu được vẻ hồ hởi):


- Lam quên thiệt sao ? Chị Huê nè, hổng nhớ cái gì hết hả?


Lam ngượng nghịu lắc đầu, mắt trong veo. Nhìn vào cái vẻ hớn hở không chịu được của chị bạn, Lam muốn sặc vì buồn cười, chắc chị nghĩ Lam quên tuốt món nợ bốn triệu mượn tay rồi, nên mới mừng húm như vậy, ra về mà cứ tủm tỉm cười hoài.


Cả anh bảo vệ cũng tới nhà, cũng tỏ mặt đau thương (nhưng trong bụng thì mừng rơn). Cái nhìn xa lạ của Lam đã giúp anh yên tâm hơn, vụ anh dỡ nắp cống và cắt hàng rào gai đi bán chỉ mình Lam biết, chắc chắn được xóa sạch trong vùng ký ức.


Lam thấy mình ứa nước mắt ra. Cười mà như khóc.


Trong nỗ lực tuyệt vọng nhằm cứu vãn ký ức của con gái, mẹ Lam đã cầu cứu gần hết đám bạn bè, đồng nghiệp của Lam. Cả bà cụ bán đậu đỏ bánh lọt ở bến đò mà Lam hay lui tới. Những kỷ niệm lạt nhách lạt nhiểu được xướng lên. Lam vẫn trơ trơ, vẫn xa vời và ngơ ngác.


Thảm họa là mẹ Lam cũng chẳng có kỷ niệm nào hằn sâu thành vết để cùng Lam ôn lại, khơi gợi. Những chuyện Lam nhớ ghê gớm thì mẹ Lam không nhắc. Có thể nhắc làm mẹ đau. Có thể mẹ Lam không biết, hay đã quên mất rồi. Ví như bữa mẹ ném Lam lại cho ngoại, rồi đi, mẹ xuống đò không ngoái lại làm sao biết con - Lam - năm - tuổi đứng trên bến giãy khóc đến tím người. Hôm Lam nhận giấy báo vào Đại học, mẹ bận đi công vụ ở Nhật làm sao biết Lam cuồng lên vì vui.


Lam nghe đau như tim có một vết dằm. Cái ngày (đáng lẽ có đám cưới) đã nặng nhọc trôi qua. Mẹ Lam thôi rầu rĩ, hay ủ ê cũng chán rồi. Mà, dù chưa chính thức làm thông gia với phó chủ tịch thì thâm tình cũng đã sánh như mật, công ty của mẹ Lam cũng kiếm được nhiều hợp đồng lớn nhờ mối quan hệ này.


Lam bắt đầu nghĩ tới việc kết thúc trò chơi, bởi nó không còn gì để chờ đợi, để bất ngờ. Một bữa, vừa mở cửa, con nhỏ bán vé số thò đầu vào thầm thì, "Có ông nào đứng dòm nhà chị hoài, lạ lắm, chị ơi". Lam ngó ra, người nọ quay đi. Chỉ thấy áo jean đã bạc, chiếc nón sùm sụp trên đầu, cũng bạc.


Hôm sau, nép sau rèm cửa, Lam lại thấy người đàn ông chần chừ trước cổng nhà mình. Chẳng làm gì hết, chỉ nhìn vậy thôi. Đôi mắt đau đáu, mênh mông. Rồi lại đi, chậm chạp như đang đeo mang một cái gì đó nặng trĩu.


Ngày thứ ba, Lam ào ra níu tay ông ta lại khi ông định quay người bỏ chạy. Lam hỏi:


- Chú quen ai trong nhà nầy?


Ông không trả lời, nhìn Lam thảng thốt, nước sóng sánh trong mắt.


- Lam hả con ? Trời ơi, con lớn bộn vầy sao?


Rồi đọc trong mắt Lam một tia nhìn kinh ngạc, ông thất thần lùi lại, miệng lẩm bẩm, "Phải rồi, con không nhớ ... đâu". Lam nghe lẫn lộn trong câu nói đó có tiếng "ba". Và cảm giác trò chơi quên nhớ của mình sắp vào đỉnh điểm.


Mãi sau nầy, Lam vẫn không quên được ngày mình gặp lại ba (thì ông ta xưng vậy). Vì Lam không nhớ gì (y theo kịch bản) nên không thể vồ vập mừng nhau, cả hai bối rối vì không khí ngượng ngập đặc quánh. Ba Lam ngồi nắn mãi vành nón, chỉ đôi mắt là nhìn Lam chan chứa thương yêu.


- Hồi nhỏ, con bị cái thẹo trên trán. May thiệt, nó gần tan mất rồi...


Lam bất giác đưa tay lên sờ chỗ bị trầy hôm trước. Bỗng thấy thắt ruột, một tuổi thơ Lam chưa hề biết mở ra từng trang, từng trang, từng trang. Hôm ấy nắng nhiều, ba bắt Lam tập lội. Lúc hai ba con nhảy từ cầu ao xuống, đụng phải cọc ngầm, trán Lam loang máu. Sợ với vết sẹo làm con lớn lên xấu xí, ba đi đào củ nghệ, giã ra, rồi đắp lên. Lần khác, ba dẫn Lam đi công viên xem voi.


- Voi hả ba?


- Ừ, ba Lam cười, con voi đó có ghẻ, tội nghiệp lắm.


Lam bỗng có cảm giác mình từng đi công viên thật, và xót xa đứng nhìn con voi bị xiềng xích đang nhai mía, cái đuôi nó liên tục đuổi bầy ruồi lì lợm đang bu xèo xèo. Lam muốn tin (trọn vẹn) rằng, có lần, ba xin vải vụn may áo cho búp bê cưng bằng nhựa của Lam. Có lần, ba với Lam cùng thả diều trên cánh đồng chiều, ba nắn cho Lam con trâu đất đang ngẳn cổ ngắm mây bay ngời ngợi trên trời. Và ngày đầu tiên đến trường, ba trùm áo mưa, cõng Lam trên con đường trơn tuột...


Như thể mình đã trải qua rồi, cảm giác ấy làm mũi Lam nóng ấm hệt máu cam đang rịn xuống. Như thể Lam chưa từng cun cút đi qua thời thơ ấu, chơi trong nhà củi, nhà xuồng của ngoại, bạn bè chỉ những con ong bầu bay tới bay lui.


Ba đi rồi, Lam lại chui đầu vào mền, cười ha ha ha. Cười cho cái trò chơi oái oăm của mình.


Nhưng sáng sau, khi mẹ Lam ra khỏi nhà, ngó mấy con thằn lằn chạy lăn quoăn trên trần nhà, Lam bỗng thèm người. Lam ngờ ngợ thấy dường như mình thích vai diễn mới, vai đứa con được thương yêu. Lam chạy ra cửa thì thấy người đàn ông hôm qua đứng ở đó, mỉm cười. Lam bảo:


- Mẹ mới vừa đi.


Ông chua xót:


- Ừ, ba thấy... nhưng không thể gặp... Ba có lỗi nhiều lắm...


Dường như không có thứ gì xứng đáng để trả công cho sự nghẹn ngào kia, Lam tự nhủ. Cũng chẳng thứ chi có thể đổi được những ký ức mới mà người đàn ông nầy mang lại cho mình.


Nên một chiếc xe máy và vài triệu đồng trong tủ thì chẳng là bao, ngay khi tỉnh sau cơn mê dài, Lam đã nghĩ vậy. Mà, thằng cha đó giỏi thiệt, biết cả chuyện mình thích ăn kem, loại kem múc nước cốt dừa được kẹp giữa hai cái bánh tráng nhỏ.


Chỉ mẹ Lam thì không được thanh thản như vậy. Mẹ ôm Lam, sững sờ nhận ra Lam tin một kẻ lừa đảo xa lạ hơn mình. Chỉ vì hắn ta mua cho Lam kem...





Đại ca Gấu hay ngồi nhìn sông, uể oải, rã rời. Mấy đứa nhỏ trong băng lừa đảo sống dưới dạ cầu Bơ thấy cảnh đó, hỏi nhau, không biết đại ca Gấu gặp chuyện gì? Chuyện gì là chuyện gì? Chắc tại lừa con nhỏ đó dễ quá nên đại ca mất hứng. Gấu nghe, cười khào, không nói. Rồi những khi Gấu nằm một mình trên băng đá, Gấu rất nhớ một nạn nhân, một đứa con gái hồn hậu, chẳng hề e dè nhận cái kem từ tay Gấu. Và trước khi nó thiu thiu ngủ, nó mỉm cười, nhìn Gấu giễu cợt:


- Tôi biết trong kem có - gì - đó... Nhưng sao lần nào tôi cũng phải trả giá, để được yêu thương?


Mỗi khi nhớ lại, đại ca Gấu lại nghe sống lưng mình lạnh buốt, như thể ánh mắt ấy đau nhói, đắng đót quanh đây. Đại ca buột miệng chửi thề khi phát hiện ra, trình độ lừa đảo của mình còn tệ quá. Đến nỗi không gạt gẫm được người mà còn rước phiền phức vô mình...
 
Đời Như Ý
Nguyễn Ngọc Tư


Ai cũng hỏi, "Làm gì có chuyện đời như ý?". Chú Đời cười, hàng ria mép xoăn tít xồm xoàm quớt lên, tự hào, sao mà không?
Nhìn vẻ mặt này không ai nghĩ chú mù, thấy sao mà tự tin, thanh thản quá chừng. Không ai biết chú khổ còn hơn... cô Lựu. Chú Đời dẫn cả nhà rời Chợ Cũ, Cầu Nhum lang thang lúc con Ý mới bồng nách. Gồng gánh như một gánh hát, chú ca cải lương, bán vé số kiến thiết. Vợ chú nửa điên nửa tỉnh, không biết có phải vui trong bụng lắm không mà suốt ngày cười ngẩn ngợ Hai đứa con gái đứa mười, đứa tám tuổi phụ cha đem vé số tới mời từng sạp chợ. Đứa nào mặt mày cũng xấu xí, lem luốc, đen đúa, nên nghe cha tụi nó kêu con Như con Ý ai cũng cười.
Một ngày của gia đình chú Đời bắt đầu từ sáng sớm, chú buộc vô mình sợi dây điện nối giữa cây đờn với cái loa con Như đang cầm, nó ghịt dây thì chú bước tới, chùng dây thì đứng lại. Con Ý nhỏ con chạy lăng xăng đằng trước, đứng coi búp bê người ta chưng tủ kiếng. Vợ chú vừa đi vừa ca hát đằng sau, nhặt hoa phượng để lên đầu. Cũng giống như những người hát rong khác, nhà chú có cả thảy bốn người nhưng trên con đường tấp nập, trông họ nhỏ nhoi, cô độc làm sao.
Ở thành phố này có chừng đến ba bốn người hát rong, họ dìu dắt từng đôi, ở tận đằng xa, người ta nghe tiếng ca là biết gánh của ai rồi. Có đôi vợ chồng già ca mùi như Thanh Sang, Thanh Nga; có một đôi trẻ hơn, ông chồng đưa hơi như Trọng Hữu. Chú Đời ca dở, giọng hơi giòn, chói, thuộc lòng chỉ mấy bài "Chiếc áo người vợ hiền", "Con gái của mẹ"... nghe mắc chán. Nhưng chú đi đằng đầu phố, gió đàn lại cuối phố nghe tiếng được tiếng mất nhưng người ta biết ông "Đời Như Ý" sắp đi quạ Cái miệng của ông này sao mà lanh dữ vậy, luôn miệng gọi Ý con, con đừng có đi xa, con Như đi chậm một chút, ba theo muốn đứt hơi rồi, coi má con đâu. Mình ơi, mình à, mình lại gần tui nè. Rồi oang oang bảo vé độc đắc chiều nay nằm ngay đây, ngay trân chỗ này nè. Có hai ngàn một vé, ăn gói xôi chưa kịp mắc răng đã hết, mua giúp tờ vé số đặng giúp tui xóa đói giảm nghèo. Mua đi, để tui đi xin bà con cũng mắc... cho hà. Mấy ông chạy xe ôm nói chú rao làm sao mà láu cá quá, không biết mù thiệt hay mù giả mà sao cái miệng leo lẻo vậy. Chú gỡ mắt kiếng đen ra, cười với đôi mắt lạnh lẽo, sâu hút, "Mấy anh nghĩ vậy riết quen, em đui tối thiệt thòi, rên rỉ, than vãn cũng đâu hết thảm. Mà, em đang sung sướng quá chừng đây, kể lể nỗi gì".
Theo chú nói thì chú sung sướng thật. Vợ chú đẹp, vui vẻ (vì cười hoài), có đi nhậu vợ chú cũng không chù ụ như vợ người tạ Không ngã lòng trước sự hào nhoáng xa hoa, chồng người ta sao mà đẹp trai, sao mà giàu hơn chồng mình. Chỉ cần mỗi bữa sáng, chú mua cho vợ hai ngàn đồng cà phê sữa là vợ mừng rưng rưng nước mắt. Chú sung sướng vì còn có hai chị em con Như con Ý, nhỏ xíu mà giỏi, dễ dạy, đẹp đẽ. Nghĩ vậy nên chú Đời phải vui, vui vì vừa lòng với những gì mình đang có.
Những trưa nắng gia đình chú tạt vào hiên chợ Bách Hóa, nghỉ chân. Con Như lãnh tiền, chạy đi mua cơm về ăn. Họ ngồi giữa ngọn gió mát lồng lộng. Chú Đời lúc nào cũng ngồi ăn chậm rãi, nghe ngóng chung quanh như canh chừng, như bảo vệ bữa ăn thiêng liêng của nhà mình. Chú nghe tiếng đũa khua tinh tang, cuống quít lên miệng chén là biết đứa nào đói đứa nào không. Rồi cằn nhằn vợ, "Mình ăn chậm thôi, nghẹn bây giờ, đó, nghe ặc ặc rồi đó. Con Như lấy nước mà uống. Coi gỡ xương cho em Ý với, con". Bữa nào ăn cơm xong, chú cũng ngồi chải đầu cho ba mẹ con họ, ai đi ngang khen chơi, cha, bữa nay hai đứa nhỏ đẹp gái dữ, chú sướng quá cười hích hác. "Nó giống mẹ. Giống vợ em mới đẹp, giống em xấu hì. Mà, ngộ quá, con của mình, xấu mấy cũng thấy đẹp thấy thương".
2. Quẩn quanh mấy chợ, mấy khu phố quen hoài bán không chạy như trước, chú Đời phải ráng đi tới tối mịt mới về. Giọng chú ngày càng khàn, nghe khen khét như nồi cơm quá lửa. Đi qua mấy quán nhậu, có người kêu vô, đưa ly rượu, chú trịnh trọng nâng ngang mày đa tạ, chỉ hít tới hít lui khen "Rượu ngon. Mùi đã thiệt" nhưng không uống, chú bảo lúc này giọng dở quá, hình như nghe không khỏe trong mình.
Nên có lúc giọng ca của chú lật bật như hai hàm răng đánh vào nhau, chú biểu con Như đi mua Anagin về cho chú uống. Mấy cô tiểu thương trong chợ cằn nhằn, thằng cha mầy lúc này ca gì như là sốt rét, "Chiếc áo người vợ hiền" hay vậy mà ca lụm cụm như "chiếc áo bà già". Một bữa đi ngang qua trạm y tế phường, con Như dụ, nó nói trong trạm có khám bệnh miễn phí, nên nó dẫn chú vào. Lát sau, lúc từ phòng siêu âm bước ra, chú Đời giận quá, mặt xanh, tay chân run rẩy, "Ba đã nói có bịnh hoạn gì, làm tốn hết mười lăm ngàn đồng bạc".
Chú Đời mau giận mà cũng mau quên. Bữa sau chú còn sắm đồ cho hai chị em con Nhự Diện quần áo mới, tắm rửa kỳ cọ sạch sẽ, ai cũng bật ngửa, "vậy ra ông này mù mà tinh, ổng đâu có xạo, mấy đứa cũng ngộ gái quá chớ". Dì Liễu cũng khen.
Dì Liễu bán xoong chảo ở trong chợ Bách Hóa, không có con nên thích con nít, hay rờ rờ đầu chị em Như, Ý, nói với mấy bà bạn, "tui khoái chị em con nhỏ này, nghèo vậy mà đàng hoàng, không đá cá lăn dưa". Con Như nghe thích lắm, về nói với ba, chú Đời hỏi, dì Liễu thích con hay thích con Ý. Như bảo thích bằng chang nhau. Cho con cục kẹo thì cũng cho con Ý một cục. Chú Đời thở dài, "Ba già rồi, hát ca hết ra hơi rồi, chắc là nuôi mấy má con con không nổi, hay là ba cho bả một đứa, nghen".
Dì Liễu tính đâu chú nói chơi, con người quý con như mạng mình, nói cho là cho sao. Ai dè chú làm thiệt. Dì Liễu mừng lắm, những bữa chợ vắng có một đứa hủ hỉ, trông đồ cho mình ngủ cũng vui. Dì chọn con Ý vì khuôn mặt nó đẹp, sáng sủa chứ không buồn bã như con Nhự Dì còn đi coi thầy, chọn ngày tốt để rước con Ý về.
Hôm con Ý về với dì Liễu là rằm tháng Hai, chú Đời biểu con Ý mặc đồ mới, kéo nó ngồi vô lòng mình, chú chải tóc cho nó, chú chải lâu vì nó cứ tức tưởi liên hồi. Chú hỏi bữa nay con mặc áo màu gì, nó bảo màu xanh. Chú dặn lòng, mình sẽ nhớ hoài, lúc xa chú, con Ý mặc đồ xanh, mặc dù chú không biết màu xanh ra sao. Chú kêu vợ lại, biểu, "Mình hôn nó một cái đi, mai mốt nó không ở với nhà mình nữa. Mình đẻ ra nó mà tui không nuôi, mình đừng có giận". Vợ chú đâu có giận. Chỉ có con Như giận, nó nức nở, "con thương con Ý nhất nhà mà, ba". Chú không thương à? Thương, nhưng chú chắc dạ lắm, bước đi là đi một nước. Vợ chú rên ti tỉ, ngoái lại nhìn phía chợ hoài. Con Như vẫn khóc. Chú hỏi nó, "Con Ý có nhìn theo không, con". "Có, ba à, tội nghiệp nó quá". Dường như con đường có nhiều ổ gà sao nghe chông chênh quá. Chú Đời cắn môi bước tới.
Nhưng đến chạng vạng, lúc quay về nhà trọ đã thấy con Ý ngồi lù ở cửa. Từ đó không cách gì bứt nó ra được. Chú năn nỉ nó quay lại với dì Liễu, nó không nghe. Chú lấy gậy đánh, nó cắn răng chịu. Chú đưa vợ với con Như trốn khỏi thị xã nó cũng biết cách lần theo. Bảy tuổi, con Ý cũng đã bảy năm lưu lạc giang hồ chớ giỡn. Cuối cùng, một đêm, chú bắt nó ngồi trước mặt mình, ôm lấy đôi vai xương xẩu của nó, chú nói cho con Ý nghe một câu chuyện đau lòng, chú nói nó không phải là con ruột của chú, chú lượm nó ở ngoài đống rác bệnh viện. Chú nuôi nó tới chừng này là để kiếm người bán lại. Dì Liễu cũng trả cho chú hai triệu chớ đâu có ít. Con Ý nhìn tệp tiền chú rút ra từ túi áo, mặt nó lạnh băng. Sáng sau, chú Đời đưa con Ý trở lại với dì Liễu. Lúc quay đi chú hỏi con Như, "Nó có nhìn theo không, con". Con Như nói không. Chú ừ, nấc khan một tiếng rồi cất tiếng ca, "Nuôi con khôn lớn không mong gì con nuôi lại me... ", sao mà nghe nghẹn ngào như đang khóc.
Con Như sợ rồi sẽ tới phiên mình. Nó cuống quýt sống, cuống quýt yêu thương chú Đời. Nó ăn ít, lấy đồ cũ ra mặc như thể chứng minh rằng nuôi nó cũng không tốn kém gì mấy. Chú Đời hiểu lòng nó, hay hôn lên mái đầu khét nắng của nó, lặng lẽ thở dài. Lấy số tiền dì Liễu cho, chú Đời đưa vợ vào bệnh viện. Bác sĩ nói vợ chú bệnh đã quá lâu, không có hy vọng chữa lành, nhưng cứ ở lại điều trị một thời gian xem sao. Chú Đời ôm vợ vào lòng, ngồi ngay chỗ băng đá đằng trước, chú nắn đôi tay, rờ rẫm mãi lên mặt vợ, biểu: "Mình ở đây nghen, ráng mau hết bệnh về nấu cơm cho tôi ăn, nói chuyện với tôi chơi. Hồi cưới mình tới giờ, chưa khi nào mình nói câu nào tử tế với tôi, tôi cũng buồn lắm". Vợ chú cười.
3. Cả gia đình lang thang đó giờ chỉ còn hai người. Đêm khuya trở giấc, chú Đời kéo mền đắp cho con Như, vô tình đôi tay chú quệt trúng hai hàng nước mắt. Chú biết nó thức, chú hỏi "Sao vậy, con đau bụng hả?". Nó tức tưởi, "Bây giờ chỉ còn có mình con, ba đừng bắt con đi đâu hết, để con dẫn đường cho ba, mua thuốc cho ba uống, phụ bán vé số, nghen ba". Chú ừ, bỏ con đi đâu bây giờ.
Chú thường vòng qua chợ Bách Hóa, chú không hát, không dừng lại bán, chỉ kêu con Như tỏ mắt nhìn con Ý coi bữa nay nó mặc áo màu gì, mập ốm ra làm sao, tóc dài bao nhiêu rồi. Đứa con gái lớn buồn bã bảo, "em con mập lắm, trắng hơn hồi nó còn ở nhà mình. Nó cắt tóc tém, coi giống con trai lắm, nó nhìn thấy con mà giả đò như không thấy vậy, ba". Không mặc đồ xanh ba mua à? Không, lâu rồi nó không mặc nữa. Chú nghe vừa mừng vừa đau. Vậy là nó quên chú rồi, nó yên lòng bên người mẹ mới. Vậy là từ nay chú đã xa mãi đứa con này. Lụi hụi hết mùa nắng, giọng chú tắt khèn khẹt trong cổ họng, thậm chí không thể cất lời rao. Chú đờn cho con Như ca, tiếng ca ngọng ngịu và non nớt lắm, vô vọng cổ luôn bị đứt giữa chừng. Tội nghiệp, con nhỏ không có tài, ngáy còn lạc giọng mà ca nỗi gì. Những lúc ngồi bên con, nghe nó ăn giá sống cho họng bớt khan, chú Đời muốn khóc, thấy mình bất lực trước bệnh tật. Chú bảo, "Thôi, bỏ nghề, con".
Đã thấu gần hết cái khổ của kẻ hát rong, đã mỏi đôi chân ròng rã, chú Đời bán cây đờn, cái loa với bộ bình ắc quỵ Chú xin cho con Như đi chạy bàn, rửa chén ở quán hủ tiếu Nam Vang. Mới đầu nó không chịu, nó nói ba ở nhà một mình không được. Hồi đó ba buồn còn đờn lửng tửng chơi, bây giờ đờn cũng không còn. Nhưng rồi đến bữa cơm, nó đổi ý, nó không thể để chú Đời quẹt kho quẹt vầy hoài. Một bữa trưa, nó bưng tô nước thịt có nhúng nắm rau chạy về, chú Đời rầy nó làm vậy chi, ông bà chủ chắc không thích, nó cười, chú thím Sảnh biểu con đem về cho ba đó. Người ta thương con lắm. Chú Đời bảo, cuộc đời này, thiệt nhiều người tốt.
 
Một bữa trưa, chú Đời bắt nó ngồi lâu với chú thêm một chút nữa. Chú lấy lược ra chải đầu cho nó, tóc nó đã dài chấm thắt lưng. Chú nói, không biết chừng nó mười tám hai mươi tuổi tóc dài cỡ nào hen. Con Như cười, chừng đó cho ba chải đầu, thắt bím cho con mệt luôn. Chú Đời bảo, từ đây tới đó còn lâu. Rồi chú than, sao mà chú nhớ vợ với con Ý quá chừng. Con Như bần thần, "Hồi đó, nhà mình vui biết bao nhiêu hén, ba".
Ừ, vui. Trưa vầy, nếu không ở bên hông chợ thì cả nhà chú cũng tụm lại bên một gốc cây nào đó có bóng mát, nghỉ chân, ăn cơm. Hai đứa con nhỏ của chú bữa nào cũng không chịu ngủ lấy sức mà mải mê búng thun. Mở miệng ra rầy, con Ý nịnh, "để con nhổ tóc bạc cho ba". Nó nói đầu ba bạc nhiều lắm, rồi đặt sợi tóc lên bàn tay chú, trời ơi, sợi tóc mỏng tanh, nhẹ te vầy mà nó cũng thấy, con mắt nó sáng ghệ Rồi chú nhớ tới người vợ hay tựa đầu vào vai chú ngủ khì, trong trẻo, vô tư như trẻ con. Tự dưng chú Đời thèm được sống lại những buổi trưa ấy, những buổi trưa đã xa rồi, đã xa mất rồi. Chú biểu, "Mai con chạy ra chợ Bách Hóa, hỏi dì Liễu cho con Ý về, ba gặp một chút, sao... ba nhớ nó quá hà". Nhưng con Ý đâu còn ở chỗ dì Liễu nữa, dì nói nó đi rồi. Con Như tưởng dì giấu, cứ theo năn nỉ hoài, "tội nghiệp ba con mà, dì, cho nó về một chút thôi rồi mai mốt con không lại xin dì nữa". Dì Liễu vốn là người nhân hậu, dì chỉ biết nắm tay nó mà khóc ròng.
Là thật. Con Ý đã bỏ nhà đi bụi đời là thật. Nó đi vì lâu rồi mà không được nhìn thấy người cha tội nghiệp ấy dắt chị nó lặng lẽ qua chợ. Nghĩa là ba nó đã không còn thương nhớ nữa. Vậy thì ở lại làm gì? Con Như quay về, nó phải dừng lại rất lâu, nó không biết phải nói thế nào cho chú Đời đừng đau xót. Nó ngập ngừng đứng chỗ cái hàng ba đầy rêu ướt, chợt nó nghe tiếng hát, trời ơi, là tiếng hát của má nó. "Ầu ợ Đường dài ngựa chạy biệt tăm. Ơ... Phải duyên chồng vợ ngàn năm cũng chờ". Con Như mừng rỡ xô cửa bước vào, má nó đưa tay lên miệng ra hiệu im lặng, rồi thì thào:
- Đừng la lớn. Mệt rồi. Ngủ đi.
Con Như chạy lại ôm má nó, nó nghĩ chắc chú Đời giả bộ đây, trông con Ý thấy mồ mà không chịu dậy. Nó chọc lét vô mấy cái xương sườn của chú, nhưng chọc mãi, chọc mãi, chú không bao giờ thức nữa.
Làm gì có chuyện đời như ý?

Hết
 
Không, không phải thế, anh yêu em
Nguyễn Văn Thiện



Gác máy điện thoại lên, kéo rèm cửa lại, theo lối cửa sau và biến. Đó là cách mà tôi vẫn thường làm để giảm bớt căng thẳng ở cơ quan. Tám giờ vàng ngọc mà không làm được việc gì cho ra việc.

Ngồi với cái máy tính mãi thì cũng chán, hoa mắt, nhức đầu. Tốt nhất là ra quán.

Tôi tốt nghiệp cử nhân ngữ văn bằng khá! Ở quê tôi, những tiếng ấy xướng lên kêu như mõ, đủ làm mát lòng những bậc phụ huynh khó tính nhất.

Thế mà đem ra khỏi làng cũng chỉ là hạng cùng đinh.

Ba năm cấp ba chỉ giỏi mỗi môn thể dục, đăng ký thi khối C vì may ra giở được bài văn mẫu, không ngờ thế rồi đỗ thật, học thật và ra trường thật. Cử nhân ngữ văn chém cả tháng không hết.

Mấy thằng bạn đang còng queo ở nhà ăn hại bố mẹ, thế mà tôi đã xin được việc làm, tuy phải đi miền núi nhưng cũng còn hơn khối đứa. Mẹ ở nhà khoe với hàng xóm:

- Thằng Tuấn bây giờ là cán bộ huyện cơ đấy, cũng may nhờ có bác Hạnh...

Lúc đầu nghe thế tôi đỏ mặt, nhưng không tiện cải chính, nghe lâu rồi thành quen. Ừ, thì cán bộ huyện cũng được mà đọc báo pha trà mời khách thì cũng thế, như nhau cả.

Tất nhiên, công của bác Hạnh là rõ rồi. Bác Hạnh vốn là bạn chiến đấu với bố, hết bom đạn, bố về cày ruộng, bác Hạnh làm ở xã rồi sau đó lên huyện, bây giờ thì đã là chủ tịch huyện, nơi tôi vừa xin vào công tác.

Mỗi lần nhắc đến bác Hạnh, mẹ tỏ ý sùng kính ra mặt, bác Hạnh bảo thế này, bác Hạnh bảo thế kia, đến nỗi bố phải gắt: “Thì nó là Phật sống đấy!”.

Mẹ dài môi dưới: “Thì cũng còn hơn khối người, như ông đấy...”.

Bố đấm bàn cái rầm, tôi nhảy vô làm trọng tài, can mãi mới hạ hỏa.

Trong bụng nghĩ thầm: Mai mốt, mình đi rồi thì không khéo các cụ ở riêng mất, chuyện trò đến câu thứ ba là bất đồng ý kiến, khổ!

Đi làm được hai tháng thì quen khắp lượt các quán nhậu trong thị trấn, từ chủ quán cho đến tiếp viên. Cữ nửa chiều là tót ra quán ngồi. Ngồi thu mình vào một góc, gọi con chim nướng và một cút đầy, nhấm nháp.

Ở rừng có khác, mồi tươi, chất lượng, giá vừa phải. Rừng có cái hay của rừng. Quán Hương Rừng nằm ngay sau lưng ủy ban, rất tiện! Bà chủ quán mắt híp sợi chỉ lúc nào cũng cười:

- Cậu mới tới không biết chứ quán chị đây với ủy ban ta thân nhau như người nhà đấy chứ.

Quán khá sạch, thoáng mát, phía trước treo giàn phong lan rất đẹp. Mấy em tiếp viên ăn mặc theo mốt người rừng dây rợ lằng nhằng hở sau hở trước.

Buồn cười, từng ấy vải trên người gom lại may ra thì đủ may một chiếc quần đùi. à, có một em răng khểnh, khá xinh, nhưng mặt hơi buồn. Làm vài ly tưng tưng, tôi xuất nhạc sến: “Sơn thủy hữu tình cớ sao lại buồn vậy em, là lá la...”.

Răng khểnh cười nhạt đáp trả, nhạt phèo! Tôi nghĩ bụng: Mặt đưa đám, thế nào rồi mày cũng bị đuổi việc cho mà xem. Kể ra, với chị em phụ nữ nói chung, tôi vốn sẵn ác cảm.

Mẹ tôi, chị gái tôi, những người phụ nữ từng khốn khổ vì tôi ấy lại làm cho tôi phát khiếp vì họ. Kể từ lúc tôi biết nghe tiếng người cho đến giờ, tôi chưa nghe được một câu nào mẹ nói với bố cho ra hồn, toàn là tôi khổ vì ông, ông khổ vì ai hay đại loại thế cả.

Còn chị tôi lại cai quản một ông giáo làng nghiện rượu. Ước mơ lớn lao nhất của ông anh rể tôi là chừng nào cầm được quyết định về hưu thì đánh chị tôi một trận cho bõ tức vì tội hay hỗn láo.

Hồi còn học phổ thông tôi cũng có để ý một em ngồi cạnh. Mối tình áo trắng ấy qua mau như một cơn mưa bất chợt. Cái mùi hoi hoi ngầy ngậy của tuổi mới lớn ấy qua lâu lắm rồi. Diễm đã chồng con đề huề từ mấy năm nay.

Bà mắt híp cắt ngang:

- Này, nó là gái nhà lành đấy, cậu xem thế nào, Diễm ơi, ra anh Tuấn hỏi gì này.

Trời ạ, lại Diễm! Chúng nó đang câu tôi đấy mà. Với tôi, bọn nhà hàng chẳng mấy đứa trong sạch. Nhưng thôi, mất mát gì, thử xem.

Hôm ấy, hứng chí thế nào, bà mắt híp đãi tôi món óc khỉ. Một con khỉ lông nâu buộc sẵn vào cột đúng tư thế của một thằng lãnh án tử hình. Con khỉ vẫn còn sống nguyên, mặt nó nhăn thê thảm.

Bà chủ cầm dao, em răng khểnh cầm rượu đứng cạnh. Món óc khỉ phải ăn tươi mới ngon, bà ta bảo thế. Đột nhiên, con khỉ ré lên một hồi dài rồi lịm hẳn, người nhũn ra.

Có lẽ nó đã sợ đến chết khiếp. Bà béo giục: Mau mau, cởi trói, kê đầu lên thớt mà hớt không hỏng mất. Em răng khểnh luýnh quýnh cởi dây. Nhưng dây vừa bung ra thì khỉ ta vùng dậy, nhanh như cắt chạy thẳng vào buồng trong, chui tọt vào gậm giường.

Thì ra nó chơi trò chết giả. Nhưng mà rủi thay, nó đã nhầm đường! Nếu nó nhanh chân phóc lên mái nhà thì còn có đường thoát, nhưng đằng này lại chui vào ngõ cụt. Cuộc vây ráp diễn ra, ba bốn thằng văn minh vây bắt một đứa dã man. Cuối cùng, nó đành chịu tóm.

Bữa rượu hôm ấy rôm rả hẳn. mọi người đều có ý hỏi xem tôi có thấy ngon không. Em răng khểnh phục vụ riêng tôi. Tôi biết, mình đang được hưởng lộc của ông Phật sống.

Giả sử tôi không phải là người nhà của bác Hạnh chủ tịch mà là một thằng dân lao động thử xem, nó chém thẳng vào tay như chém khỉ ấy chứ. Tôi múc một thìa óc đút vào miệng răng khểnh, em nhăn mặt nuốt.

Tối ấy, tôi say không biết đường về. Nửa đêm, miệng đắng ngắt, tỉnh dậy thấy mình đang nằm trong phòng lạ hoắc, bên cạnh em răng khểnh đã cởi hết dây rợ.

Tôi lay dậy, hỏi: “Tại sao thế này?”. Em răng khểnh ngơ ngác dụi mắt: “Lúc đêm anh bảo anh không muốn về, anh bảo anh yêu em...”. Trời ơi, đồ ngu, sao lại tin lời thằng say hả?”.

Diễm ôm mặt khóc: “Vâng, em ngu...”. Biết mình quá lời, tôi nằm xuống, bắt tay qua trán. Diễm nói: “Nhưng mà em yêu anh”. Chậc, yêu thì có sao. Cái nết liều trong tôi trỗi dậy rất nhanh. Mùi da thịt đàn bà, mùi rượu cứ bện chặt lấy tôi cho tới sáng.

Từ hôm ấy, tôi thay đổi hẳn. Phải chăng những khoái lạc xác thịt đã mở mắt cho tôi, hay là tình cảm chân thành của Diễm đã làm cho tôi thay đổi quan điểm về cuộc sống?

Dù sao thì Diễm cũng rất đáng yêu, xinh nữa là đằng khác. Diễm kể cho tôi nghe về gia đình: Diễm mồ côi cha, mẹ rước về một ông ba bị mắt trắng môi thâm chuyên rình xem trộm con gái tắm. Diễm đã hắt cả một chậu nước bẩn vào mặt hắn rồi bỏ đi.

Đã hai năm nay, Diễm không về. Kể đến đấy, Diễm khóc: “Em biết làm cái nghề này chẳng ai tin, nhục lắm, nhưng không phải ai cũng là đồ bỏ đi cả, phải không anh?”.

Thằng bạn cùng văn phòng tròn mắt: “Mày dính vào thật hả, chớ nghe ca ve kể chuyện, đừng nghe con nghiện trình bày, hiểu chưa thằng văn chương cám hấp!”. Tôi qua loa cho xong chuyện: “Tao bị bỏ bùa rồi. Không thể nào thay đổi được đâu”.

Mẹ nghe tin đồn hỏa tốc lên thăm, rên như bị voi giẫm: “Con gái thiếu gì mà lại dính vào mấy đứa nhà hàng hả con, mẹ ăn nói làm sao với chòm xóm đây hả giời...”.

Cha tuyên bố thẳng thừng: “Mày mà lấy con hở rốn ấy là tao từ mặt, đồ khỉ!”. Đến nước này thì tôi phát hoảng, giá như hôm ấy tôi đừng say rượu, giá như...

Ba hôm liền tôi cáo ốm không đến cơ quan, đến hôm thứ tư thì sốt thật. Diễm gọi điện bảo: “Anh sợ rồi phải không, nếu cần em sẽ ra đi, không dám làm phiền anh nhiều hơn nữa. Hóa ra anh cũng hèn thế thôi”.

Tôi quên sốt, hét lên trong máy: Không, không phải thế, anh yêu em, đồ ng... Tôi chưa kịp nhả hết câu chửi bậy quen thuộc thì Diễm đã cúp máy. Tôi hụt hẫng nghe lòng mình đắng ngắt. Nhìn qua cửa sổ thấy những giò phong lan tím ngần vẫn đong đưa như không hề có chuyện gì xảy ra.

Không, tôi không muốn mất không một thứ gì cả, không muốn mất Diễm, mất những người thân thiết nhất, bố mẹ, chị tôi, cả ông anh rể nghiện rượu của tôi nữa. Đã ba mươi tuổi, người ta có quyền giữ lại những thứ mà mình cảm thấy gần gũi nhất, phải thế không, Diễm?

Tôi khóa trái cửa lại và bước ra đường, hôm ấy là đã cuối mùa đông.


H Ế T
 
Nhà trọ
Phan Vân Thanh



“Không”. Cô gái nói, rất khẽ, ngón tay mảnh mai làm động tác như che miệng. Gió đậu bơ phờ trên chiếc lá mướp héo rũ. ở dưới là nước. Ở trên là nắng.

Anh đưa cả hai tay đẩy mạnh cánh cửa. Những thanh gỗ bị bết vào bùn, anh phải vừa ra sức nâng lên vừa đẩy. Rồi bì bõm, anh quay lại. Cô đang ngồi trên yên xe máy, quần xắn quá đầu gối, vẻ vừa lười biếng như quen được cưng chiều, vừa bối rối.

“Ngồi yên nào”, anh nói. Rồi dắt xe qua cổng, vào sân. Trong yên lặng tiếng nước kêu bong bóc. Cô bíu chặt lấy áo anh, cảm giác như mình sắp rơi xuống mặt đất đỏ lòm bê bết nước.

“Đó là một sự nũng nịu thái quá”, cô nghĩ. Thật ra, lội qua một cái cổng ngập nước để vào nhà thì có gì là kinh khủng với cô. Anh dắt xe đến sát bậc thềm, cô nhảy xuống, mở cửa. Mùi ẩm mốc lan nhẹ. Cô bật đèn, bật quạt, anh dội nước rửa chân.

“Em mở cửa sổ cho thoáng nhé!”.

“Thôi, để anh dắt xe vào nhà”.

Hai bánh xe bê bết bùn đỏ. Anh chùi tay vội vào chiếc áo sơ mi trên tường. Họ ôm ghì lấy nhau. Cô kéo anh xuống, không, cô đang rơi xuống giường trong một trạng thái không trọng lượng. Cô bắt đầu cảm thấy nghẹt thở.

“Em chờ anh nhé, một tý thôi”.

“Cánh cửa chết tiệt”, cô nói. Anh cười, bấm khoá tanh tách.

Ngôi nhà nơi cô đang ở cùng gia đình là một ngôi nhà đẹp. Vườn rộng nhiều cây. Buổi sáng, trước khi đi làm cô thường đeo tai nghe, có lúc mở nhạc, có khi không.

Đeo tai nghe vào, cô có cảm giác âm thanh của lũ chim trong vườn trở nên không quá chói tai nữa. Cô không cần sử dụng tai nghe nhạc vào buổi tối, khi đã đi làm về, vì thường khi cô trở về nhà thì lũ chim đã ngủ.

Thật ra trong những chiếc lồng treo lúc lắc trên cây lũ chim luôn gân cổ hót, khi ăn uống no nê chúng hót, khi bị bỏ đói chúng vẫn hót. Chúng hót, mà chẳng hiểu là đang hót gì.

Cô gọi chúng là những con chim điên, những con chim mà chưa một lần cô cho ăn. Người bố ăn rồi cho chim ăn, chẳng bao giờ cần đến tai nghe mà vẫn nghe được chim hót.

Dường như từ lâu ông quên đi thế giới mà ông đã từng sống, từng kiếm tiền, từng tiệc tùng, hoặc từng thất bại, từng oán hận, và từng nuôi những đứa con. Lũ con của ông lớn lên như những con chim, ông cho ăn, ông nghe chúng hót mà chẳng bao giờ ông biết được chúng đang hót điều gì.

Thi thoảng vào buổi tối, cô gõ cửa căn phòng mà ở đó cô đoán mẹ cô có thể đang khóc dù chưa bao giờ cô nhìn thấy. Thi thoảng cô hỏi nhưng mẹ cô cũng không biết trả lời thế nào.

Mẹ cô là người nhạy cảm, cô biết rõ điều này qua ký ức về những câu chuyện cổ tích ngày xưa, bà cũng là người sắc sảo, dù bây giờ bà chẳng có ai để tranh cãi.

Cô thường ngồi lặng lẽ, có khi tay vô thức cầm cái điều khiển tivi của mẹ bấm loạn xạ. Từ lâu rồi, cô đã biết cách để giấu đi sự yếu đuối của mình.

Có đôi khi ánh mắt thất thần của anh trai chạm vào mắt cô trong một buổi chiều đầy mưa, cô run rẩy trong một nỗi đau dễ vỡ. Anh cô đang sống, đang kiếm tiền, đang tiệc tùng, hoặc đang thất bại, hoặc đang oán hận, nhưng không phải nuôi những đứa con.

Vậy mà cặp mắt của anh vằn những tia đỏ. Cô mong anh đừng lấy vợ. Có những ước mơ đã xa xôi lắm rồi, từ khi cả anh trai cô và cô đều biết lăn trên cỏ và cười, giờ họ co mình lại trong đơn độc. Ngay cả khi những ánh mắt chạm vào nhau, họ cũng không hiểu nổi nhau.

“Sáng nay em dậy muộn 5 phút”, cô nói. “Tại sao, em để chuông mà” anh nói, tay ôm chặt hơn vào eo cô, mắt nhắm hờ. “Em không biết”, cô đang cảm nhận sự êm ái mãnh liệt trên cặp đùi săn chắc của anh, không chắc rằng mình đang trả lời anh về chiếc đồng hồ.

Mà có thể đồng hồ chạy sai, hoặc cô đã nghe nhầm. Có thể tiếng con chim điên to cồ ở gần cửa sổ lúc 6 giờ 25 phút, sớm hơn giờ của cô 5 phút đã đánh thức cô sáng nay.

Cô thường dậy rất đúng giờ. Ăn sáng, trang điểm một chút, đi làm. Bỏ lại ngôi nhà phía sau cho đến 8 giờ hoặc 9 giờ tối. Ngày nghỉ, cô luôn có cớ để vắng nhà. Cô không biết cớ của cô có giống cớ của anh không.

Vì anh cũng vậy, khi cô vắng nhà mà không phải ở chỗ làm, có nghĩa là cô đang ở trong ngôi nhà có cánh cổng gỗ cũ kỹ cùng anh.

Cô nhắm mắt mặc anh hôn. Gió miên man lùa về từ một thế giới khác. Mặt đất thì thơm và đầy hoa. Nước ngoài sân dâng lên rất lặng, yên bình. Nắng tràn trên nước, trong veo.

Bờ này nữa, anh ơi… Không phải là bờ, còn xa lắm, không phải em đang chìm… em đang sống phải không anh? Em là gì nhỉ? Em là ai, em là người yêu của anh! Em chỉ biết thế thôi. Và hạnh phúc mới hiện hữu làm sao, phải không anh? Tại sao ngày xưa mẹ để tóc dài rồi sao mẹ lo toan, tại sao mẹ đau khổ tại sao mẹ cô đơn?

Chuyện của bố… không, chẳng còn chuyện của mẹ hay của bố, cũng không có một người anh trai nào hết. Cô đang là cô, là người con gái được sinh ra đời cho anh. Không, cô chẳng có gì để kể cho anh nghe, để nhớ, cô đang yêu anh. Chỉ điều đó mà cô còn nhớ thôi.

Mưa làm nền nhà nhi nhỉ nước. Nền nhà xi măng, nền của một trong những ngôi nhà xấu nhất còn sót lại trong thành phố. Nằm tít trong một ngõ nhỏ ngoằn ngoèo, ở góc một khu vườn rộng mênh mông không có lấy một bụi cây, ngôi nhà có tường loang lổ, trần nhà thấp, có chuột.

Anh tìm thấy nó thật tình cờ. Một trăm năm mươi nghìn một tháng chỉ để họ ghé vào buổi trưa, từ sau giờ trưa đến đầu giờ chiều, buổi tối sau giờ làm chiều đến trước bữa ăn tối lúc 8 giờ, và cả ngày vào ngày nghỉ.

Anh bước từ giường qua chiếc ghế nhựa, rồi đến chiếc ghế bành kiểu cổ đã long đinh, với tay rót cho cô một cốc nước. Tiếng cô cười trong như pha lê. Anh áp môi anh vào môi, vào má, vào mắt cô, tiếng cười cô chìm trong một mùi hương kỳ lạ.

Cô biết, mùi hương đó tỏa ra từ đôi mắt. Không, cô biết nó tỏa ra từ bắp tay. Cô không biết. Vì mùi hương đó là của cô, chỉ mỗi cô được cảm nhận, chỉ là của cô thôi.

“Chiều nay khi ra khỏi cổng công ty, em gặp tay H.”. Cô thì thầm, ngón tay đan vào tóc anh. Anh im lặng nghe, cái kiểu của anh là vậy, có khi đùa giỡn như trẻ con, có lúc im lặng vỗ về nghe cô nói như cô là một bé gái: “Anh à, có lẽ hắn đoán ra được điều gì đó, em không bao giờ ăn trưa ở công ty, em luôn về nhà muộn vào buổi tối, sau giờ làm khoảng nửa tiếng. Hắn là bạn thân của anh trai em. Em sợ là…”, “Hắn có hỏi gì em không” “Không, nhưng hắn nhìn em lạ lắm, em nghĩ hắn đã biết rồi. Anh có nghĩ thằng bé hàng xóm hôm đó là thật, cả mấy bà đứng ngoài ngõ khi chúng mình đi ra nữa?”.

Hôm đó khi nghe tiếng rục rịch trên mái ngói, cả anh và cô đều giật mình, nhìn thấy một đôi mắt trẻ con vẫn còn đen qua một miếng ngói vỡ. Sau định thần lại, họ cho rằng đó chỉ là ảo giác của sự lo lắng quá mà thôi.

Còn mấy bà hàng xóm gặp họ luôn tươi cười chào hỏi, chắc hẳn không đời nào trèo qua cổng để đi qua vườn vào nhà. Cô không muốn ai xâm phạm thế giới riêng của mình. Họ trở về sau những mệt mỏi, yên bình nằm bên nhau.

Rồi cô gỡ túi thức ăn xuống, vừa làm cơm vừa hát như một com chim sẻ. Khu bếp nhỏ tí, chật và thấp, không có gì ngoài một cái bếp củi thô sơ và một cái chạn bát.

Cô thích được thổi lửa má phừng phừng nóng, có khi mặt mũi lem nhem, anh lăng xăng đi lại, nghe cô kể chuyện và kể chuyện cô nghe. Tiếng những con chim điên vừa đuổi cô vào buổi sáng bỗng lùi rất xa, đôi mắt lờ đờ của người anh bỗng dưng biến mất.

Thi thoảng cô chạm vào một vật gì đó, ví như cái điện thoại của anh, tự dưng run rẩy cô nghĩ đến cái điều khiển ti vi của mẹ, nhưng sự sợ hãi nhanh chóng qua đi khi anh đặt lên môi cô những cái hôn nóng bỏng. Họ yêu nhau trong bất kỳ tư thế nào, bất cứ nơi đâu, đang làm gì.

Có khi, bữa cơm của họ không thể xong nổi. Có lúc, họ mớm cho nhau ăn, chăm nhau như câu chuyện về một người mẹ chăm con, rồi cùng ăn cùng cười. Mặt đất nhũn ra, mềm lại, mặt đất trở nên yên bình một cách giản dị, cô nghĩ nó là nơi tồn tại thứ gọi là hạnh phúc.

“Tay H. chẳng nghĩ gì đâu, em ngốc ạ. Yêu nhau đi với nhau, ăn trưa với nhau là chuyện bình thường. Chỉ có những kẻ điên không biết yêu mới phản đối điều đó”. “Tay H., đã từng yêu”. “Anh biết, anh ta từng yêu em, cũng có thể là một vài người nữa”. “Thật đáng sợ, nếu hắn chưa yêu hoặc đang yêu lại là chuyện khác, em thấy kinh sợ những kẻ đã từng yêu. Khi tình yêu mất đi rồi, họ chẳng biết họ đang sống bằng cái gì hoặc cho cái gì. Như thế thật là… mà thôi, ta đừng nói nữa được không anh?”.

Cô với tay lấy chiếc điện thoại xem giờ. ánh sáng xanh chiếu lên ngón tay cô run rẩy: 19 giờ 45 phút. Họ đã không bật điện và bóng tối trùm kín căn phòng.

Cô vịn tay vào tường để đi ra cửa. Anh muốn bật đèn nhưng cô nghĩ không nên. Không thể bật đèn mà không có tiếng xe vào cổng, không thể bật đèn lên lại tắt đèn ngay để ra về. Cô rón rén lần theo anh, bóng tối bao vây họ trong một thứ ánh sáng lâng lâng của dư vị hạnh phúc chưa kịp mất.

Cô ôm chầm lấy anh, ghì chặt vào anh trong một sự hào hứng không kìm nổi. “Em yêu anh!”. Họ lặng đi. Nụ hôn kéo dài trong bóng tối.

“Em sợ phải về nhà ư?” anh khẽ khàng, tay vuốt nhẹ bên trán cô vỗ về. “Anh và em sẽ cưới nhau sớm thôi, em cố gắng chờ thêm một thời gian nữa nhé”.

“Tại sao anh thở dài?”. “Ai bảo?”. “Em nghe thấy thế!”. “Vì anh yêu em!”, “Tại sao anh thở dài vì yêu em?”. “Anh muốn giữ em bên anh cả ngày lẫn đêm, muốn ở bên em 24 tiếng một ngày. Nhưng thời gian của chúng ta còn phải chia ra cho bao việc khác nữa. Hiện giờ, dù sao thì em cũng thuộc về gia đình em, còn anh vẫn đang sống với gia đình anh”.

“Sao anh muốn ở bên em nhiều đến thế? Anh yêu em đến thế ư?”, cô thì thầm. “Không em ạ, không phải chỉ vì anh yêu em nhiều đến thế, còn vì anh thương em nữa, thương em nhiều. Anh không thích em cô đơn hoặc sợ hãi”.

“Em chẳng sợ gì cả”, cô nói rất khẽ, kề sát ngực anh, “Em chỉ sợ mất anh”. Rồi họ cùng ra sân, anh dắt xe, cô đi cạnh, lặng lẽ. Khóa cổng, họ dắt xe một quãng khá xa ngôi nhà rồi mới nổ máy.

Khi đã ngồi sau xe anh, vòng tay ôm chặt anh, cô mới chợt nhớ ra. “Em còn sợ một điều nữa anh ạ, là lũ chim trong vườn nhà em. Nhiều lúc, em muốn chạy trốn”, “à, nữa, em sợ mùi điều hòa, em sợ cả mùi ga, có lẽ em chỉ thích mùi anh thôi”. Rồi cô lại cười trong veo.

Cuối mùa mưa. Trời sáng trong hơn. Đôi mắt trong veo không nói lên một điều gì cả của cô dường như càng trong hơn, anh cảm thấy như mây, như gió, hay như là giọt sương đọng trên chiếc lá.

Anh sợ nó sẽ bốc hơi cùng nắng. Cô mong manh quá, mà đường thì đầy bụi. Anh đón cô sau giờ làm. Cô gọi điện về nhà nói sẽ về trễ, tiếng mẹ cô đều đều không âm sắc, vọng lại tiếng lũ vẹt kêu gào vì đói.

Dùng 3 ngón tay nhón lại gập chiếc điện thoại, cô quẳng vào túi như quẳng một chiếc kẹo quá hạn. Ngồi sau xe anh cô không nhìn thấy đường, người ta đi ngược đi xuôi, giống như khi cô đi làm vào buổi sáng. Bây giờ cô chỉ nhìn thấy lưng anh. Cả một thiên đường ở đó. Cô ngồi yên sau xe, lòng yên ả.

Họ rẽ vào ngõ nhỏ. “Anh à, hôm nay em không phải lội chứ?”, “Không cưng ạ. Nước rút hẳn rồi, nhưng anh chắc là mặt đất còn bết lại vì bùn. Anh cõng em nhé?”. “Không em sẽ tự đi”, cô nói.

“Mà phải đi nhanh đấy nhé, đường đến thiên đàng phải đi qua cánh cổng, một đoạn vườn dài, một cái sân rồi mới đến!”. “Xa quá, làm sao em tới được?”. Họ cùng cười, anh dừng xe.

Không! Đôi mắt màu sương của cô tự dưng u tối lạ thường. Ngơ ngác, cô nhảy xuống xe, hai tay bíu chặt vào cánh cổng. Dàn mướp xiêu vẹo trên từng đống đất đỏ ngổn ngang. Người ta đã đổ đất san bằng khu vườn khiến nó trở lên loang lổ.

Đất nhão đỏ bết dưới những giọt mưa cuối mùa, cánh cổng gỗ oằn trên những ụ đất chưa san hết. Mênh mông lổn nhổn đất đá, ở góc vườn, ngôi nhà đã được dỡ mái nổi bật lên trên nền đất đỏ, trở nên nhỏ bé, xa vời. “Chỉ trong một ngày mà người ta đã san bằng cả khu vườn”, anh nói, “không còn lối đi!”.

Không rõ tiếng thở dài của ai. “Nước anh còn cõng được em vào, vì dẫu sao cũng còn lối để đi”. Vài người hàng xóm đi qua, nhìn họ, anh nhìn cô. “Anh xin lỗi, anh xin lỗi”. “Tại sao?”. Cô nói thảng thốt. “Anh muốn cưới em. Em đồng ý chứ? Tháng này em nhé?”. “Em xin anh, em xin anh!”. Cô run rẩy đan hai tay vào nhau, nhìn anh tuyệt vọng rồi òa khóc.


H Ế T
 
Như một tiếng chuông xa
Dương Bình Nguyên



Tuần sau thì Phiên đi. Tôi đưa Phiên lòng vòng quanh những con đường nhỏ xíu của thị trấn. Những ngày này chẳng có nhiều nữa.

Tôi nhìn về phía dưới chân đèo, dưới ấy đường phẳng hơn. Phiên bảo, cuối cùng thì cũng phải đi với bố mẹ thôi. Bố mẹ ở đâu thì con cái phải ở đấy chứ. Mẹ Phiên bảo, bây giờ hòa bình rồi, chẳng phải như ngày xưa còn chiến tranh. Tôi bảo, Phiên xin ở lại một năm cũng được mà. Phiên cười buồn buồn, chẳng biết làm gì cả. Phiên yếu đuối. Phiên là con gái, nhút nhát lắm và cũng ngây thơ lắm. Tôi lại hỏi, thế về thành phố thì Phiên làm điều gì đầu tiên? Phiên bảo, cũng chẳng biết. Cái đó là ở bố mẹ. Nhà mình trên này còn rộng, đi thì buồn và rất vắng, biết không? - tôi cố níu kéo. Nhưng Phiên thực sự không làm được gì.

Ngày mai Phiên đi rồi.

Tôi mang cảm giác tiếc nuối đạp xe về phía bên này dốc. Ngày mai thì vắng thật vắng, chẳng biết ai sẽ ngồi thế vào chỗ của Phiên. Những bông hoa vàng lẫn lộn bên lề đường, không thật rực rỡ để thèm muốn lại cũng chưa đủ viên mãn cho nhuốm độ phai tàn. Tôi vùng vằng, có lẽ nên quay lại.

Phiên việc gì phải làm cái việc nhọc công ấy chứ. Hừ, thành phố! Thành phố thì có gì nào? Chả có gì ngoài khói và bụi như những người lớn vẫn thường nói. Cô Tịch, chú Mễ chả dóng dả bảo: Bao giờ nghỉ việc thì về quê cho yên bình thôi. Hà Nội ấy à, mệt mỏi lắm, kiếm được một chỗ ngồi yên tĩnh cũng chẳng có. Tôi biết mình vô lý, nhưng tại sao người ta lại cứ phải đưa Phiên về với bụi thị thành?

Ngày Phiên đi.

Tôi đứng nhìn chiếc xe chất đầy những cành hoa màu nắng vàng lừ lừ xuôi đèo. Phiên bên trong những ô cửa kính, những ngón tay thon nhỏ lắc lắc. Những người lái xe ôm đẩy tôi ra ngoài. Về đi, còn gì mà ngóng. Trông chú mày cứ như bị đòn oan ấy nhỉ. Từng tràng cười rộ lên. Tôi ngồi trên thanh chắn barie, chẳng muốn về. Ngày mai thì xa vắng thật rồi. Nhớ, nhớ lắm. Tôi nghĩ đến những gian nhà mênh mông, những đồi nương và cả tiếng bước chân hai đứa chạy lịch bịch sau hiên nhà chơi trò trốn tìm. Nhà bây giờ như một khu bảo tàng kỷ niệm. Ngày mai, ừ, ngày mai mới là một ngày đáng chán. Ai mà lấp được chỗ Phiên trong lớp chứ. Chẳng biết Phiên có viết thư về ngay không.

Phiên đã đi từ ngày hôm qua.

Hôm nay ở lớp nhiều người nhắc đến Phiên, nhắc tiếc nuối nhưng cũng nhiều lời tiếng không vui lắm. Phiên xinh thế, lại học giỏi thế, người ta ghét âu cũng là lẽ thường. Tôi vẫn ngồi bàn cuối, chỗ bàn trống tôi lấp bằng cái cặp to sụ. Mấy cậu bạn nhấp nhỏm nhìn xuống: Mày có bị làm sao không, nó là em gái mày cơ mà. Thì là em gái. Em gái thì mình không có quyền thương nhớ à. Vớ vẩn thật. Cô giáo bảo, Bình có chuyện gì không được bình thường. Hay là cô chuyển em lên bàn trên nhé. Đám con gái hích hích cười, cô ơi, đấy là "dấu ấn kỷ niệm" làm sao nó dám bỏ. Cô bảo, để cô chuyển Hạ xuống ngồi cùng em, hai đứa giúp đỡ nhau nhé. Tôi không đáp, không đồng tình cũng không phản đối, nhưng thực tình chẳng vui vẻ gì. Hạ cũng xinh, cũng học giỏi. Nhưng Hạ thì chỉ là Hạ thôi.

Thế là đã một tuần chiếc xe chở màu nắng vàng đưa Phiên xuôi triền dốc.

Tôi đi học, tôi về nhà. Con đường sao mà dài, nắng đầy và mưa cũng tràn qua rát mặt. Bà bảo, sáng có một đứa con gái tóc dài thật dài đi ngang qua ngõ nhà mình, bà đang quét lá rớt ngỡ con Phiên về thăm. Khi bà chạy ra thì nó đã vụt qua như một chiếc bóng. Nó đi hút mãi về phía rừng già. Tôi bảo, chắc bà nhớ Phiên quá thế thôi. Bà lấy vạt áo chấm nước mắt, không nhớ sao được, có nó căn nhà ấm thêm một tiếng nói. Nó đi bà càng thương mày hơn, đừng bao giờ nghĩ mình là một đứa trẻ được ông bà nhặt về. Cháu và Phiên đều là những đứa cháu đáng quý. Tôi nhìn vòm mắt đầy nắng ấm của bà. Không, bà đừng nghĩ làm gì, cháu đã lớn rồi.

Ông dong đàn bò từ trên núi về, hỏi dóng vào, có nhận được tin gì của con Phiên không. Tin gì được nào, nếu không phải là bức thư nét chữ nghiêng và thuôn dài. Bà lần trong hộp trầu vỏ, đây rồi, nó đem đến từ sáng sớm, nhưng bà không biết mở. Bình, nó viết cái chữ gì, nó có hỏi thăm bà không. Tôi bóc thư, những nét chữ mãi nghiêng nghiêng như thế. Phiên bận lắm, bà ạ, em phải đi học ở trường chuyên, phải đi học thêm, học luyện thi đại học… bà hỏi, đại học là học cái giống gì. Tôi bật cười, thì… học trên lớp mười hai, học làm ông thầy chẳng hạn. Bà lại phóm phém, miệng cười hoen vệt cốt trầu… Phiên lại phải đi học thêm tiếng Anh, phải vào mạng Internet để lấy tin tức từ bè bạn. Bà ạ, Phiên có nhiều bạn mới rồi. Ông rung đùi: Vậy là mừng. Sợ nó quen nếp đồng rừng, về đấy lại chẳng sống được với ai đâm thành con ngố.

Ông cũng có lý. Nhưng mà sao lòng tôi lại chẳng thấy yên. Tôi vào bàn học, nhìn những chùm hoa màu vàng óng treo tràn ngoài cửa sổ. Rồi đặt bút viết: Em gái yêu quý!

Một tháng.

Hạ bảo, cậu có cần tôi giúp gì không. Tôi cười nhẹ, không, có gì đâu nào. Tôi không cần là một nhân vật nổi bật trong lớp. Tôi là một gã trai mắt nâu tóc xoăn nhàn nhạt, thường người ta cần để làm một cái phông hay một điểm tựa không chói lóa. Thế thì cần gì phải giúp chứ. Tôi ngồi trong lớp và nghĩ mình có thể làm thơ. Cuối cùng Hạ bảo, vẻ khinh mạn của cậu thật đáng mến, điều đó làm tôi thấy cậu đáng mặt con trai hơn những người khác. Tôi quay sang: Hạ vừa bảo cái gì nhỉ. Một gương mặt đỏ bừng quay đi. Không, có gì đâu, đùa ấy mà.

Một buổi sáng, ông bưu tá già đưa cho tôi một vuông quà xinh xinh. Một vuông quà có gắn ru băng màu nắng vàng. Tôi nhìn thấy màu mắt nâu hiền từ trong ấy. Những nét chữ nghiêng dài, mềm mại và không một gợn buồn phiền. Anh có còn thích đọc sách như ngày xưa không. Em không phải là nhà văn, nhưng em cũng có thể viết được sách, đúng không nào. Anh đọc nhé, đây là kịch bản của em đấy, nó sẽ được dựng thành phim. Tôi ngồi nhìn những dòng đối thoại trong trang viết của Phiên. Những xưa cũ gần lắm, hiện lại dần dần. Nắng thì cứ nắng, mà mưa thì cứ mưa. Ngày hôm qua là nắng vàng, là lay phay mưa trôi qua lưng đèo. Những đứa con gái tò mò nhìn hộp quà, cái gì thế hả Bình? Cái gì mà chẳng được chứ. Tôi chẳng thích thế chút nào. Cậu cần gì phải giữ khư khư như vậy. Cậu là con trai cơ mà. Mà con trai thì…

Tôi đạp xe xuôi triền dốc. Và chui vào phòng đọc sách, đọc lặng lẽ. Thế là Phiên chẳng quay về nữa rồi. Phiên có quá nhiều niềm vui mà. Niềm vui của Phiên, những niềm vui gắn vào nhiều công việc rất cụ thể. Niềm vui của tôi, những niềm vui bâng khuâng mơ hồ, chẳng có gì rõ rệt, bảng lảng hệt những nỗi buồn. Tôi nhìn lại dòng tít trên đầu kịch bản: Vệt dài ký ức. Ký ức của ai, một thứ kỷ niệm riêng biệt sao Phiên lại đưa lên phim. Anh biết không, bố em sẽ dựng thành phim, bố em đang tìm diễn viên. Bố em bảo, phim bây giờ không khó làm, kịch bản của em được khen là dung dị và dễ thể hiện. Sẽ có nhiều diễn viên nổi tiếng vào vai hai đứa mình. Tôi nghĩ mãi, nghĩ mãi rồi viết: Em cho anh ra khỏi vệt ký ức của em được không.
Tôi không nhận được thư Phiên nữa. Phim đã làm xong, những nhân vật đi lại nói cười như những con rối. Tôi bảo, thôi phim chẳng hay đâu bà ạ.

Phim bây giờ toàn bọn trẻ yêu đương linh tinh. Bà bảo, ừ, phim với chả ảnh. Cháu đi học bài đi, bao giờ thì học xong hả Bình? Tôi cười, chả bao giờ xong được bà ạ. Nhưng cháu học sắp hết lớp 12 rồi. Nếu cháu đi thì bà có buồn không? Mày đi đâu chứ? Cháu về thành phố, đi học ấy mà. Ừ, đi thì đi, thành phố thì nhiều cái lạ lẫm, nó hút những đứa nhiều ảo vọng. Ông cười, bà chẳng hiểu gì đâu. Bà hiểu chứ, tôi biết. Nhưng bà cũng như tôi, bà sợ sự mất mát, sợ sự hiu quạnh trong căn nhà quá rộng. Nhưng cuộc đời là biển rộng, tôi như cát nhỏ trên bờ, gió cuốn đi xào xạc vang nhẹ như một tiếng chuông xa. Tôi ngồi vào bàn học, những con chữ dài dằng dặc. Tôi ngủ gục trong phòng sách.

Buổi sáng, Hạ bảo: "Tôi có một bức thư, chẳng biết cậu có muốn đọc không. Thư của Phiên phải không? Tôi gấp gáp hỏi. Tôi là tôi còn Phiên là Phiên chứ. Tôi cười, thì Hạ chỉ là Hạ thôi. Tôi ngồi trong góc lớp đọc, những màu sắc chói lóa, những điểm nhấn mạnh mẽ trong thư Hạ. Tôi vùng chạy, thế là mất đi một người bạn thân thiết rồi. Tôi chẳng thích thế. Tôi chưa chuẩn bị cho điều này. Tôi lao xe xuôi triền dốc, mặt bỏng rát như có người đuổi theo.

Không có Phiên lâu rồi cũng thành quen. Nhưng nếu thiếu Phiên trong suy nghĩ thì thật là đáng sợ. Ôi, con gái, họ là một khái niệm cực kỳ phức tạp.
Tôi đi dọc ký ức thời học trò cùng với bóng dáng của Phiên ít nhiều bị mờ nhạt do những dư chấn quá mạnh của bộ phim tẻ nhạt ngày trước. Nhưng tôi không làm được gì, hệt như Phiên ngày ra đi. Tôi bảo, cháu cũng chẳng thích thành phố. Học xong cháu sẽ về bà ạ. Bà cười phóm phém, bà già quá rồi. Thôi, mày đi đi, về nhà con Phiên ở tạm. Ông bà sẽ thi thoảng xuống thăm. Tôi mang những đốm nắng vàng cho Phiên xuôi đèo. Nắng thì mãi phải là nắng thôi.

Thành phố là một thứ ký ức riêng biệt trong tâm trí tôi, mà đến bây giờ tôi vẫn không thể hòa vào dòng sống chung của đời mình. Cô Mễ bảo, bây giờ nhà cô bận lắm, Phiên lại chuẩn bị đi du học, nó không có thời gian giúp cháu nhiều. Cháu đừng buồn, một vài ngày sẽ quen ngay thôi. Nhưng mày có một vẻ mặt rất đáng ngờ, nó sẽ làm cho nhiều đứa con gái sẽ tò mò đấy. Mà như thế thì cô không thích. Tôi bảo, cháu cũng không biết nữa, nhưng cháu tin là mình sẽ không để xảy ra điều gì khiến cô phiền lòng. Phiên bây giờ không thích màu nắng vàng nữa. Phiên chỉ thích những chiếc áo màu tuyết lạnh. Tôi ở trên núi, không có tuyết. Tôi đến giảng đường, thấy những ngày xưa xa quá rồi. Có lẽ chỉ còn bà nghĩ vẫn mãi nghĩ về nó vẹn nguyên như những ngày Phiên chưa ra đi. Tôi sợ lắm nếu một ngày bà dồn những hồ nghi thành nỗi buồn già nua nhưng có thật. Như thế thì Phiên sẽ thành người có tội mất. Tôi không muốn thế. Hãy để cho Phiên đi theo giấc mộng của riêng Phiên.

Tôi mang nhiều thất vọng về thành phố vào những trang viết trong suốt những năm đại học. Tôi đã quen, nhưng quen không đồng nghĩa với việc người ta thích nó. Tôi sống một cuộc sống bàng bạc như đã từng sống, một tháng về thăm ông bà một lần, rồi ra đi mang theo nhiều tiếc rẻ của những ngày nghỉ vội vàng. Phiên đi, không có một lời về. Tôi biết thế là xa thật, xa mãi mãi. Thành phố vẫn vậy, nhiều bụi và quá ồn ào.

Một ngày, cô Mễ hớt hải vào trường tìm tôi. Bà đang bệnh nặng lắm, mày về đi cùng cô. Tôi về, bà tóc bạc như một vạt nấm héo. Ông ngồi bó gối nhìn mưa giêng hai giăng ngang gian đọc sách đầy mạng nhện. Bà phều phào, con Phiên không về à? Cô Mễ rưng rức khóc: Bà ơi, cháu nó đi du học cả năm nhưng không thèm liên lạc về. Con trắng tay rồi. Mắt bà thoắt sáng rồi bạc đi như đã cạn vơi hoàn toàn, không năm không tháng. Bà cầm chắc tay tôi. Bà còn một mình mày thôi. Nhưng tiếc bà không còn đủ sức để nhìn mày quay trở về. Ông bám vai tôi, thế là bà đi thật rồi. Bình ơi, bà dành cho con tất cả ở trong chiếc âu đồng kia. Tôi chẳng muốn mở ra xem, ngồi ôm chiếc âu nho nhỏ trong lòng thoang thoảng hương trầu thuốc. Bà đi thật, vĩnh viễn lãng quên màu nắng vàng.

Cô Mễ tóc bạc nhìn chú Tịch dọn đồ đạc từ phòng làm việc về nhà trong ngày nghỉ hưu. Không tin tức của Phiên, chỉ thỉnh thoảng dõi trên Internet, tôi bắt gặp một địa chỉ quen quen với một hình ảnh quen quen, nhưng khi truy cập tôi lại thật sự hồ nghi bởi những thông tin của ai đó về quê hương rất mờ nhạt và buồn cười. Tôi ôm nỗi niềm riêng trong lòng, cất kín chiếc âu đồng trong tủ sắt.

Ngày trôi bất tận không hạn hồi. Ký ức màu gì. Ký ức trôi vèo như một tiếng chuông xa. Tôi gục đầu trên bàn phím giêng hai, nghĩ đến bình nguyên thẳm xanh, thiên đường của ông bà, của tôi và của Phiên ngày thơ bé và thầm nghĩ đến một ban sớm ngày trở về.


H Ế T

_________________
 
Vô cùng xưa cũ
Bảo Ninh



Ngày ấy, hình như cha luôn có điều cần nói với Tâm, nhưng không nói. Là Tâm đoán thế, chẳng chắc lắm. Cha Tâm vốn kiệm lời.

Trong căn phòng chật chội, hai chục thước vuông, không cửa sổ, thừa muỗi và thiếu khí trời, ngày đêm dồn ních cả gia đình lại với nhau, thỉnh thoảng Tâm mới nghe thấy đôi lời của cha, nhưng cũng chỉ là những lời mà tất nhiên ai cũng phải nói mỗi ngày. Mọi sự trong nhà, ông như chẳng can dự. Từ khi về hưu, dường như quanh năm suốt tháng ông chẳng đi đâu, chỉ ngồi. Mình ông một chỗ bên bàn nơi góc phòng, với ấm trà, chẳng nói năng gì, âm thầm tự buông trôi. Đêm, ông trở dậy, bật đèn bàn lên, lặng ngồi, nhiều hôm tận sáng.

- Này, lại cha bảo này... - ông nói - Cha muốn...

Nhưng mà bao giờ ông cũng chỉ mào đầu được có vậy. Từ hôm Tâm có giấy gọi nhập ngũ đã mấy lần cha anh lại chả “cha bảo này” như thế. Tâm chờ. Mãi không thấy cha cho biết cha muốn gì, Tâm chẳng gặng.

Ngày mồng bốn Tết, ngay trước hôm Tâm lên đường, buổi chiều, cha bảo anh đi dạo cùng ông. Thời tiết ẩm thấp dù không mưa. Đúng hơn là mưa bay nên không trông thấy, nhưng mặt đường thì ướt và trơn. Một cuộc đi dạo thẫn thờ. Hai cha con sóng đôi, chẳng nói chẳng rằng, im lìm rời khỏi khu phố nghèo, vá chằng vá đụp của mình để đi vào vùng trung tâm chật chội, khúc khuỷu, sạm màu rêu xế bên bờ Hồ. Tâm có cảm giác như là cha vừa đi vừa lặng đi. Cái áo bạc-đờ-xuy cũ mèm của cha thủng lỗ chỗ. Tâm đỡ khuỷu tay cha, đưa ông sang đường.

Hai cha con vào một quán cafe “chui” nằm ẩn trên tầng áp mái một ngôi nhà cũ nát ở kế rạp Chuông Vàng. Cửa quán là chè đậu đen, nhưng vòng ra sân sau, lên cầu thang thì là cafe phin. Một khoang gác ọp ẹp, lẩn khuất. Dăm bộ bàn ghế tồi tàn, thấp tịt. Khách khứa lặng lờ như những cái bóng, nhoà mờ, không ai nhìn rõ ai. Cafe Định Mệnh, ai đó đã gọi cái quán vô danh này như thế, lâu ngày thành tên.

- Xưa, Hà Nội là một thành phố giàu nữ tính, nồng nàn, nhạy cảm. Bây giờ... - Như thường vẫn thế, cha Tâm bỏ lửng lời mình.

Bàn của hai cha con kê kề một ô cửa sổ hẹp không có khung gỗ, giống như là một lỗ thủng. Trông ra thấy sàn sàn nhấp nhô cả một vùng ướt át những mái nhà phố cũ và những sân thượng, sân sau, những căn gác lửng. Một Hà Nội cũng xưa, tróc lở, nom là lạ, được nhìn thấy từ phía sau lưng.

- Quán cafe này có từ xưa lắm rồi. Xưa sang trọng hơn nhưng cafe cũng như bây giờ thôi - cha Tâm nói - Chắc là con không biết. Quán này vốn của ông bà ngoại con... Hôm 19 tháng Chạp, ông bà đã tản cư, mẹ con vẫn còn ở lại. Cha tới đây, ngồi ở chính chỗ này này. Đèn vụt tắt, súng nổ... Thế là cha và mẹ cùng ở lại trong Liên khu 1. Số phận đã định đoạt cho cha mẹ như thế, và cho cả các con nữa... Mẹ đã bao giờ kể với các con chưa: Cha và mẹ vốn là bên lương bên giáo. Cho nên, nếu không có kháng chiến thì đã không có con và các em con. Kháng chiến thành công, bồng con về thì cả hai gia đình nội ngoại đều đã di cư vào Nam...

Từ khi biết nghĩ, biết nhớ, Tâm nhớ là chưa lần nào được cha gần gụi. Đối với hai đứa em gái của Tâm, cha luôn lặng lẽ bộc lộ sự thương yêu chiều chuộng. Nhưng tình cảm của ông với quý tử đầu lòng thì như có một bức tường chắn. Càng lớn lên Tâm càng nặng mặc cảm rằng mình đã làm cha thất vọng. Dường như cha đã mong mỏi, cha đã đòi hỏi ở Tâm một điều gì đó mà anh không thể hiểu, có hiểu cũng không cáng nổi. Từ cái năm Tâm không vượt qua được lớp tám, phải lưu ban, luôn luôn là mẹ chứ không bao giờ là cha đi họp phụ huynh hay ký sổ liên lạc cho Tâm. Còn nhớ có lần cha quyết định dành thì giờ dạy tiếng Pháp cho Tâm mỗi tối. Nhưng chỉ được một tối, ông ngừng ngay. Ông lộ một vẻ ngao ngán không giấu giếm. Cha coi mình là đồ bỏ, Tâm thường nghĩ thế.

- Năm 54, đã mừng cho tương lai của các con. Ngỡ rằng bao nhiêu nỗi khổ của đất nước, thời cha mẹ đã gánh, các con sẽ lớn lên, vui sống trong hoà bình. Nào ngờ nạn nước chưa dứt. Lại đến lượt thời các con...

Sau ngày mai, trận mạc chờ Tâm. Chiều nay, anh rúc vào xó này nhấm nháp những giọt đắng ngắt và nghe nghiền ngẫm ngậm ngùi những chuyện gì đâu. Anh ngồi, lặng thinh, nhìn cái gạt tàn đã được dụi đầy tràn những đầu mẩu thuốc lá, nhìn tách cafe đã cạn, nhìn những cái bóng ở các bàn bên, nhìn ra trời chiều. Hà Nội xuân sang, ngâm mình trong mưa.

Cha Tâm gọi thêm hai ly cafe. Bao Tam Đảo đã hết, ông lấy trong túi ra một bao khác. Tâm điềm nhiên bóc bao thuốc, rút một điếu. Cha xoè diêm châm lửa cho anh. Xưa giờ đừng nói bia rượu, chỉ một ngụm cafe thôi Tâm cũng không được phép, huống hồ thuốc lá. Nghiêm khắc, nhưng cha Tâm hiếm khi nặng lời, càng không khi nào phạt đòn con cái. Chỉ một lần, ông cho Tâm một bạt tai. Ấy là khi ông bắt gặp Tâm và mấy thằng bạn ngồi phì phèo thuốc lá ở quán nước đầu phố. Ông hầu như không hề biết rằng con trai ông đã 16 tuổi, đã 17 tuổi, và thậm chí đã 18.

Ông từ chối ký đơn tình nguyện nhập ngũ của Tâm. “Học hành cho xong đi. Muốn trở thành một quân nhân thì trước tiên phải có học thức”, ông nói vậy, không buồn nhìn lá đơn. Ông không biết và không hề muốn biết rằng ở phòng tuyển quân của Khu đội người ta đã gần như nhẵn mặt con trai ông. Hết lần đơn này tới lần đơn khác của Tâm đều bị gạt. Cay đắng, tủi phận, song Tâm vẫn nhẫn nại. Lượng người xung phong vào bộ đội không phải là ít, lắm bữa đông nườm nượp, có cả phụ nữ, hầu hết đều được toại nguyện. Chỉ trừ Tâm. Con trai một, lại đang học dở cấp ba. Đơn tình nguyện không có chữ ký của phụ huynh. Thêm nữa... Một cán bộ ở Ban tuyển quân do phải tiếp Tâm quá nhiều lần đã đành thực tình nói thẳng: “Thực tiễn chiến trường chưa cần phải huy động tới học trò con một”. Ông động viên: “Bù lại cậu có tinh thần cao. Thế là tốt, cứ yên tâm. Chẳng chóng thì chầy. Ngay lập tức thì khó, nhưng gì chứ đi đánh Mỹ thì chẳng lo hết lượt”.

Vào lứa tuổi của Tâm, nỗi sầu muộn có thể giúp người ta phát triển dài người ra như là được bón thúc. Chân, tay, tóc tai, cổ và cằm, các đốt xương. Mình mẩy mọc thêm nhiều thứ, thừa thãi, bơ phờ. Và vừa bải hoải. Về đêm thì ngủ mê, nói mớ và rên rỉ, một mình vật vã trên gác xép... Mẹ Tâm mua lá ở hàng thuốc nam, sắc lên, ép anh uống, ngày một bát. Mẹ bảo:

- Chịu khó uống. Cho dịu mộng mị, con ạ. Cho khuây đi...

Như vậy là chẳng những không ký đơn cho Tâm, cha anh còn giấu biệt không để mẹ biết việc anh xin nhập ngũ. Khiến cho mẹ nghĩ rằng vì Loan. Mẹ đã gán cho Tâm nỗi đau tình ái. Mẹ nghĩ rằng anh tương tư cô gái dưới gầm cầu thang.

Gia đình Loan mới chuyển tới phố này được ba năm. Chỉ có mỗi hai cha con, neo đơn, nghèo túng, chỗ ở là một cái hốc thụt sâu vào trong gầm cầu thang, nơi ngày trước chứa than và củi. Cha của Loan, cho tới tận trước hôm ngã bệnh qua đời, vẫn ngày ngày nhẫn nại tha một cái va ly rách nhét đầy những cuốn sách cũ mèm và vô bổ ra bày bán nay chỗ này mai chỗ khác ở những góc vỉa hè. Tuy nhiên, không cần biết rõ quá khứ của ông, thoạt gặp cũng có thể cảm thấy ngay rằng thực ra ông chẳng phải là một người bán sách rong nào cả, và rằng trước kia hai cha con ông đã sống một cuộc sống hoàn toàn khác. Trong sự nghèo khổ của cha con nhà họ rõ ràng có ẩn một cái gì đó không rõ là cái gì, không bình dân, không như người.

Cùng lớp, nhưng Tâm và Loan chẳng phải chỗ bạn bè. Loan không được tập thể ưa. Mà tập thể thế nào thì Tâm thế nấy. Chẳng vì một lý do rõ ràng, Loan luôn bị mọi người để ý. Bản thân Loan chắc cũng khổ tâm và đã cố giữ sao cho khỏi lạc khỏi nếp chung, mà không được. Nhìn Loan người ta thấy rằng ở cô có cái gì đó là lạ khang khác không y hệt mọi người. Cách để tóc, cách ăn mặc chẳng khác ai mà vẫn như có hàm một sự diêm dúa thầm lén. Da dẻ trắng trẻo, mềm dịu. Cách nói và dáng đi đều thiếu vẻ mộc mạc. Tâm nhớ là ngay từ bữa đầu vào lớp, Loan đã vấp phải lời xì xào của những bạn cùng bàn rằng đi học mà rẩy nước hoa đầy người như quân tư sản. Cứ bước đi một bước là Loan liền để lại đằng sau mình cả một vệt dài hương thơm. Nhưng cô một mực thề trước lớp là chưa hề bao giờ xoa xức lên mình dù chỉ là một tỵ ty thôi bất kỳ một thứ xa xỉ phẩm nào. “Mà thực tình là tôi không cảm thấy gì cả, - Loan nói, rân rấn nước mắt

- Có cảm thấy cũng không biết làm thế nào. Tự như vậy chứ tôi không cố tình...”.

Với Loan, Tâm hết sức gìn giữ một dáng vẻ hững hờ và xa cách. Đến nỗi trong suốt bao nhiêu lâu cùng nhà, cùng lớp thế mà hai đứa chưa từng một lần vào chơi nhà nhau. Chạm nhau trong sân, trong bếp, nơi máy nước, nơi cầu thang, thường là Tâm giả tảng chẳng thấy, lờ đi, hoặc không thì cũng chỉ qua quýt nửa vời vài ba lời gì đó trống không. Dửng dưng, lãnh đạm một cách tồi tàn.

Hôm đưa đám cha của Loan, cả lớp Tâm góp tiền mua được một vòng hoa. Một cuộc tang ma lèo tèo. Thân quyến người chết mỗi một mình Loan. Người đến viếng thưa thớt. Tâm cũng chỉ nói được lý nhí vài lời gì đó nhạt thếch, đại khái là để chia buồn. Mai táng cha xong, Loan bỏ học. Cũng rời bỏ luôn căn phòng dưới gậm cầu thang. Người ta bảo rằng cô nhập lực lượng thanh niên xung phong. Vào đâu đó trong khu Bốn, hay là bên Lào. Cô đi chẳng gửi lại một lời nào với bạn bè.

Nhưng từ ngày Loan đi, bỗng dưng tình bạn chưa bao giờ có với Loan lại khiến Tâm chao đảo. Bỗng dưng anh trở thành đa cảm, và vô cớ mà tâm trí anh chùng hẳn xuống trong uỷ mị. Thậm chí có đêm Tâm nằm mộng thấy Loan. Một làn hương mơ hồ như là hương thơm từ giấc mơ cứ mãi vương vấn trên căn gác xép.

Mẹ anh có lẽ đã âm thầm hiểu thấu lòng anh hơn cả bản thân anh. Chính là mẹ đã thuyết phục cha ký vào lá đơn tình nguyện thứ tư. “Đừng nên ngăn nữa mình ạ. Nó mong đi bộ đội cơ mà. Và nó thương nhớ con bé ấy. Yêu nước thì cũng như là yêu nhau, có khác gì đâu mà ngăn. Mà ngăn làm sao được hở mình”. Mặc dù cha mẹ nói chuyện rất khẽ tiếng, nhưng vì nằm ngủ ở gác xép ngay sát bên trên nên vào lúc nửa đêm khi bất chợt thức giấc, Tâm nghe thấy.

Cha mẹ cùng ký. Và cả đêm, Tâm nghe tiếng mẹ khóc khe khẽ. Tiếng cha rầu rầu an ủi mẹ. Thỉnh thoảng lại bật ho.

Sáng hôm sau cha cùng Tâm tới Khu đội. Dọc đường, ông bảo: “Cha mẹ muốn con học lên, vào đại học, với lại thấy sức vóc con yếu ớt, tâm tính cũng còn non dại, nên dùng dằng không ký đơn cho con. Giờ cha thấy lòng con đã quyết... Vậy cũng là phải thôi con ạ. Làm trai sinh ra gặp thời loạn lạc không thể dửng dưng với vận nước. Nước mất thì nhà tan, ấy là châm ngôn truyền đời... Có điều, con ạ, cha không hoàn toàn an tâm. Cha sẽ chỉ an tâm nếu như biết chắc được rằng con quyết ý ra đi là bởi con thật sự thấy con đường mình chọn là đúng với đời con chứ không phải chỉ vì con muốn thoát khỏi tai tiếng gia đình, muốn chạy khỏi những phiền muộn riêng tư...”.

Chiếc đồng hồ treo tường thong thả gõ chuông. Ông chủ quán Định Mệnh bật công tắc đèn. Ngọn đèn đỏ đòng đọc, trông rõ sợi tóc trong bóng. Ngoài trời, màn mưa mờ mỏng như lớp sương vàng nhạt sa phủ trên thành phố, làm nhoà ánh sáng những vệt đèn đường.

- Ta về thôi con nhỉ - cha Tâm nói và vẫn ngồi yên.

Thế là đã qua mất một ngày... Và vậy là mai con đi. Mai con đi rồi...

Cái buổi chiều tối ấy, cái quán cafe ấy và nói chung, tất cả những ngày xưa cũ ấy sống mãi suốt đời Tâm, nhưng chắc chắn là anh sẽ không bao giờ muốn nhớ lại làm gì nếu như không vì muốn có một lần trở về với tình cha con xưa cũ và nhiều đau đớn của một thời.


H Ế T
 
Vách núi
Võ Thị Xuân Hà



Cả sườn núi nín thở, lặng ngắt khi chiếc xe bò chở hai mẹ con người thiếu phụ lăn qua vách đá đầy những chiếc rãnh xẻ dọc và sâu.

Kéo xe là một chú bò đực, ức rộng và có bốn vó như vó ngựa, tên Rộng. Buổi chiều chị đã cho Rộng ăn một bó cỏ mật để dành từ mùa đông năm ngoái (khi ấy chưa có chuyện gì xảy ra). Nó nhai chậm rãi. Nếu không hiểu tính nết nó, ắt sẽ tưởng nó kiếm cớ nấn ná để chiều tối không phải đi qua cái vùng rãnh đáng sợ trên vách núi cao. Chị đã nhẫn nại ngồi chờ con bò trên bãi cỏ, ngắm mặt trời từ từ trôi về hướng hoàng hôn. Phía sau, cậu con trai mười tuổi nhai ngấu nghiến cái bánh mì kẹp ruốc...

Cả hai, con bò và đứa con trai, là tất cả những gì chị còn lại sau mười một năm làm vợ. Bây giờ, chị, con trai và chú bò tên Rộng cùng kéo nhau trở về căn nhà nơi đã sinh ra chị. Nơi ấy giờ đây chỉ còn người mẹ già và một căn nhà cạnh lạch suối. Chị không có cách nào nhắn tin được về cho bà cụ. Vả lại, nhắn cũng chẳng để làm gì. Chị đã đi lấy chồng rồi. Mẹ chắc chẳng vui khi thấy mẹ con chị quay về.

Bánh xe bên trái bắt đầu mớm vào một miệng rãnh, làm chiếc xe nghiêng hẳn về phía vực. Thiếu phụ đẩy bộ phía sau xe. Đôi dép lê bám chặt vào mặt đường lởm chởm đá. Đồ đạc trên xe xô phía này rồi lại xô sang phía khác. Giữa lúc im lặng nhất, như trong rạp xiếc người ta vẫn nín thở khi đến hồi gay cấn thì thằng bé chợt nói toáng lên:

- Nếu xe lăn xuống vực, con cũng không chết đâu. Biết đâu lại gặp được một lão cao thủ dạy con múa kiếm.

Bánh xe vẫn đang nghiến sâu vào ổ rãnh, có cơ trượt ngang. Không thấy mẹ nói gì, thằng bé lại tiếp tục:

- Nếu con đi lâu quá thì ở nhà mẹ cứ việc lấy chồng. Đừng chờ con để hỏi ý kiến làm gì.

Thiếu phụ bắt đầu cáu:

- Mày lảm nhảm cái gì thế?

Thằng bé ôn tồn:

- Con xem phim kiếm hiệp, người ta còn cao thượng với cả kẻ thù cơ, huống chi là mẹ mình. Con quyết rồi đấy. Mẹ không nên ở một mình.

Thiếu phụ quát:

- Có im đi không? Để sức mà học chữ. Còn ối việc phải làm đấy. Ngồi sang bên phải xe đi. Bay xuống vực ráo cả bây giờ.

Thằng bé nhớ ra:

- Mẹ bảo học chữ á? Chỗ nhà bà có chữ cho con học không? Có lớp học với cô giáo thầy giáo không?

- Đâu mà chẳng có. Chỉ sợ không đủ sức học. Chỉ hỏi vớ vẩn.

Thằng bé nhìn quanh. Mênh mông là núi. Chỉ thấy cây rừng và vách đá. Lớp học sẽ ở đâu trong trùng trùng điệp điệp lá xanh kia nhỉ?

Bánh xe ì ạch như chẳng chịu đi qua hết cái rãnh sâu này đến cái rãnh sâu khác. Cứ như thần núi đã vạch sẵn những chướng ngại để cách biệt sự âm u của núi rừng với cuộc sống văn minh bên dưới kia. Chị gắng gỏi dồn sức vào đôi tay và đôi chân. Cả trái tim hao mòn của chị cũng gắng gỏi. Chị muốn bảo vệ đứa con trai thoát khỏi những đam mê đang bủa vây bên dưới kia, những đam mê đã giết chết người đàn ông của chị, giết chết cuộc sống yên bình của hai mẹ con. Giờ đây chị chỉ còn cách vượt qua vách núi với những cái rãnh hiểm nghèo này để trở về với núi rừng, nơi những chuyến hàng buôn, những âm mưu, những đam mê chưa dám vượt qua.

Bỗng chiếc xe nhẹ hẳn, như có một sức mạnh thần kỳ đang nhấc bổng nó lên. Hai mẹ con thiếu phụ hoảng hồn khi thoáng nhìn thấy hai cánh tay đàn ông lông lá, đen như một con khỉ già bám chặt vào mép thùng xe, đang cố sức gồng lên cùng đẩy với chị, rồi nhìn thấy hai bắp vế đàn ông thập thõm trên những vệt rãnh. Thiếu phụ đang lo chỉnh lái đuôi xe cho ăn khớp với con Rộng, không dám nhìn ngang nhìn ngửa đã đành, cả thằng bé cũng không dám ngoái đầu lại, sợ xe mất thăng bằng. Thành thử cả hai mẹ con chỉ nhìn thấy thấp thoáng những gì có thể thấy được. Nhưng chị ngửi rất rõ thứ mùi đàn ông nặng trịch.

Thiếu phụ không ra cảm ơn không ra cằn nhằn:

- Không có ông, chúng tôi cũng có thể qua được chỗ này mà. Thật phiền ông quá.

Mùi mồ hôi rừng già bốc lên đánh lộn với sương mù bảng lảng quanh sườn núi.

Thằng bé góp phần:

- Ông có thể không phải nhọc sức cho mẹ con cháu đâu. Mẹ cháu khắc làm được hết. Mẹ cháu cái gì cũng làm được.

Thiếu phụ mắng con:

- Im đi. Người ta cười cho.

Nó vẫn như một ông cụ non:

- Năm ngoái, con Rộng chạy lồng lên định tháo chạy lên đồi với đám bò hoang, mẹ cháu đuổi theo nhanh như tia chớp. Rồi chộp lấy đuôi nó. Quật cho nó một trận tơi bời. Bây giờ nó không dám làm bậy nữa đâu. Ông có thấy nó ra dáng một chàng bò phi thường rồi không? Đi qua những cái rãnh gớm ghiếc này vào lúc chạng vạng mà không hề run chân nhé.

Người đàn ông khẽ hừm hừm trong cổ họng.

Thằng bé lại tiếp tục câu chuyện năm ngoái năm kia của mình.

- Khi bố cháu bị ốm nặng, mẹ cháu cõng bố cháu chạy bộ mấy cây số đến bệnh viện. Cái gì mẹ cháu cũng làm được hết. Mỗi tội, không cứu được bố cháu... Nếu cứu được thì chẳng đến nỗi bây giờ phải kéo nhau về bà ngoại.

Không gì có thể ngăn được miệng một đứa trẻ. Không thấy tiếng trả lời, nó lại nói tiếp:

- Ông không hiểu vì sao à? Vì bố cháu mắc căn bệnh gì mà kỳ lạ lắm. Bình thường bố cháu rất tốt. Nhưng khi theo đám đàn ông hút cái thứ bột gì cứ sì sụp với nhau thì sợ lắm... Người làng bảo nếu mẹ con cháu mà còn ở lại làng thì họ sẽ rào nhà lại, không cho bước ra khỏi nhà, vì sợ mẹ con cháu mang bệnh cho cả làng.

Nó vô tư không hề giấu diếm. Chuyện đã cả làng cả vùng biết thì sợ gì một người không quen biết. Còn mẹ nó thì đang lo cái bánh xe nếu chẳng may bị trượt...

Nếu những chú chim liếu điếu bay qua bay lại trên bầu trời trùng trùng điệp điệp núi non này, sẽ thấy trên cái con đường mòn vắt qua núi có một hoạt cảnh kịch câm thật vui mắt, mà khúc nhạc nền của nó là tiếng thì thõm đầy hào hứng của một cậu bé.

Thiếu phụ cảm thấy vui khi cái bánh xe đã gần thoát được ra khỏi vệt rãnh đáng sợ nhất. Con Rộng oằn người choãi chân để nhích từng bước thận trọng. Mồ hôi của chị rơi trên mặt đường. Còn mồ hôi của con Rộng thấm vào từng mao mạch li ti chảy trong huyết quản. Những giọt mồ hôi tưới cho máu tươi đỏ hơn, chảy gấp gáp và tràn đầy.

Chiếc xe đã qua được đoạn nguy hiểm nhất, phần lớn là nhờ sức lực siêu phàm của người đàn ông. Mà cũng không hiểu đó có phải là một người đàn ông không nữa. Bởi từ cái thế oằn người bên này xe, chị chỉ nhìn thấy một bộ râu dày phủ kín mép xe.

Thằng bé đã chán nói. Khúc nhạc kịch chuyển sang gam lặng.

Non xanh đang chuyển mình. Những chiếc lá khiêm nhường suốt mùa đông hé mở dần dưới bầu trời. Một cây chuối rừng mọc nghiêng trên vách đá đã vội nở hoa, chẳng cần chờ mùa mới đến. Những bông hoa đỏ lập loè như những bó đuốc trong hơi sương mờ bao phủ khắp núi non.

Thằng bé nghĩ rằng chính bố nó đang dang tay đỡ cho hai mẹ con vượt qua cái vách núi hiểm trở này. Linh hồn bố luôn vạm vỡ, dù khi mất, bố chỉ còn là một thân xác ốm o. Chắc chắn bố đang rất ăn năn vì đã để sểnh mất hai mẹ con nó.

Chiếc xe đã hoàn thành sứ mệnh của mình. Nói đúng hơn là tất cả đã thoát hiểm: con Rộng, thiếu phụ, đứa con trai mười tuổi, người lạ mặt. Chiếc rãnh đáng sợ cuối cùng đã ở phía sau.

Con Rộng kêu ò ò, dừng lại thở và ngó nghiêng tìm những búi cỏ.

Những cái rãnh đáng sợ đã không còn là nỗi đe doạ hai mẹ con chị và con Rộng. Có lẽ chị sẽ không phải đi qua con đường có những cái rãnh thần bí này lần nào nữa. Chị đã về lại nhà mình. Chị sẽ nằm lại mãi trên non cao có những triền núi thoai thoải, những bông hoa rừng hồn hậu, những nếp nhà thưa thớt và lặng lẽ. Chị sẽ ở lại nhà mình mãi mãi cùng với nỗi cô đơn yên bình. Thay chị, thằng bé sẽ xuống núi, khi nó đã thành một chàng trai mạnh mẽ. Nó sẽ lại vượt ngược những cái rãnh này để đi đến những chân trời cao rộng.

Bây giờ trước mặt chị là một người mà mẹ con chị đang phải mang ơn. Họ nhìn nhau. Chị chỉ nhận ra một dáng dấp đàn ông. Nhưng bộ râu dài quá nửa ngực đã che mất thời gian trên gương mặt ông ta. Hai cánh tay lông lá bỗng trở nên thừa thãi. Hai ống chân được che đậy bằng những tấm vải dù cũ và rách nát. Một bên mắt bị ríu lại, giống như người ta cầm kim khâu cách vội vã một đường to thô kệch ngay dưới mi mắt phải.

Thằng bé cứ đứng nhìn trân người đàn ông.

Thiếu phụ cắn cắn mảnh khăn che mặt, lúng búng:

- Chúng tôi... may mà gặp được ông.

Người đàn ông xua xua cánh tay vụng về. Hình như miệng ông ta còn mỉm cười. Nhưng chưa kịp nhận ra nụ cười của ông ta thì hai mẹ con thiếu phụ đã đứng ngây ra tưởng mình ngủ mơ, vì người đàn ông đã lủi đi nhanh một cách bất ngờ sau vạt cây rậm rạp ngang sườn núi. Không để lại chút tiếng động. Như thể ông ta là một con sóc, một con chồn, hay một luồng gió vậy.

Sườn núi rộng mênh mông. Phía dưới là suối trong veo. Phía trên là rừng già và những dãy núi đá lởm chởm. Cả xóm hơn hai chục nóc nhà sống rải rác cách nhau hàng vài quăng dao. Có chuyện gì, người đứng bên này hú gọi, người đứng bên kia hú đáp trả. Đàn ông có người lấy hai vợ. Đàn bà có người không biết thế nào là lấy chồng.

Bà ngoại thản nhiên đứng nhìn hai mẹ con mở cánh liếp bước vào nhà. Phía sau là sợi dây kéo con bò đực khoẻ mạnh có bộ lông vàng ươm. Thằng bé nhảy những bước dài lao về phía bà. Nó rối rít khoe những thằng người máy mà ở đây có lẽ chưa ai nhìn thấy. Nó chia cho bà một thằng người máy nom mặt mũi hiền nhất. Bà run run soi thằng người máy trước ánh lửa. Rồi quàng lên người tấm khăn lụa tơ tằm của con gái tặng, có lẽ là món quà đẹp nhất trong suốt cuộc đời bà. Ngoài sân, con Rộng lạ đất kêu ò ò khó chịu...

Đêm đó gian bếp của nhà họ lửa sáng rực. Những bó đuốc chập chờn đi từ mọi ngả đổ về căn nhà nhỏ. Xóm núi đón chị trở về dè dặt nhưng thân tình.

Chị nhìn thấy những đứa bé trai mới mười sáu mười bảy tuổi đã có con nhỏ vắt trên vai.

- Ôi, chúng nó còi quá.

Mọi người cười:

- Thì thế. Bọn trẻ bây giờ còi quá.

- Dưới kia họ không cho con trai lấy vợ sớm. Sẽ còi cọc bị tiệt giống mất thôi.

Mọi người ồ à. Rồi có người hỏi chị:

- Nhưng ở dưới đó hay hút cái thứ thuốc bột, con trai có to lớn đến mấy cũng bị vật chết thôi.

Chị buồn sũng người. Như là người ta đang giễu cợt chính chị.

- Sao không ai chặn được nhỉ?

Chị lắc đầu:

- Người ta làm mãi rồi đấy. Nhưng bọn đàn ông hay theo nhau làm cái xấu. Chồng tôi cũng bị như thế đấy.

Không khí lặng đi. Rồi mọi người lại ồ à nhìn ngắm những chú người máy, cái tấm khăn lụa tơ tằm, nhìn thằng bé, nhìn thiếu phụ trong cái dáng dấp ngày xưa mà họ còn lưu giữ lại.

Mọi người lại bảo:

- Về nhà rồi thì lại như con gái thôi. Lại đồng ý đi làm vợ người ta cho phải cái lối đạo.

Chị cúi mặt xuống bếp lửa.

Lửa nồng ấm nhảy nhót như những đôi bàn tay ấm áp vỗ về. Thằng bé nhìn mẹ nó qua ánh lửa, mắt hấp háy trêu chọc. Cả bà ngoại cũng nhìn gương mặt người con gái đã nhiều nếp nhăn của mình qua ánh lửa.

Chị ngồi im lặng chẳng nói gì nữa cho đến khi mọi người chào nhau để về ngủ.

Đêm đến, người mẹ già và chị vẫn ngồi mãi bên bếp lửa. Chờ thằng bé ngủ say, bà ngoại quay qua bảo:

- Con ạ, làm thân đàn ông cõng núi cõng non, làm thân đàn bà phải cõng sông cõng suối. Sông không cõng nổi, về đây rồi thì phải cõng suối. Con còn trẻ, không có người đàn ông trong nhà, núi rừng sẽ phạt.

Chị nhìn mẹ.

- Mẹ à. Ngày xưa khi cha con mất...

- Khi ấy ta già rồi. Không còn trẻ như mẹ nó bây giờ. Nhưng con à, ta cũng đã nhắm cho con một người...

Chị thảng thốt:

- Tại sao mẹ lại...

Bà ngoại thản nhiên:

- Con à, ta biết chuyện của con đấy. Ta biết trước mọi sự rồi sẽ ra thế này mà. Con sống với chồng mà như là sống cạnh cửa mả. Chồng con bị bệnh đã nhiều năm. Hắn cũng không còn là một thằng đàn ông cõng núi cõng non nhiều năm. Nay hắn đã đi, để cho hắn đi mà làm lại cái kiếp sau. Ta đã nhắm một người cho con. Cả cái vùng rừng này chỉ còn lại một người đàn ông cho con thôi.

Chị yên lặng nhìn ra rừng đêm. Nhớ những ngày xa xưa, chị cũng đã yên lặng nhìn ra thế này khi mẹ bảo có người dưới xuôi lên trồng rừng nhìn mặt chị mà ưng mắt, muốn cưới chị về làm người giữ lửa trong bếp nhà.

Tiếng mẹ chị xa xót:

- Nhưng con à, cái người mà ta nhắm cho con, nó trông không giống thằng đàn ông nữa. Nó đi cứu gỗ, bị bọn người xấu làm hại. Nó buồn bỏ vào rừng sống như người ma trong đó. Nhưng bụng nó tốt. Nó thương người tốt. Con có nghe thấy lời ta nói không? Con à...

Thằng bé ngủ say, nói mớ. Nó gọi cha, chân quậy như lũ người máy.

Dưới xa kia, chị đã để lại một nấm đất. Chị nhớ hình thù cái nấm đất nhỏ ấy. Trong lòng cứ cuộn lên những nỗi buồn.

Bà ngoại vẫn thủ thỉ:

- Con à...

Chị không còn nghe rõ lời mẹ nói. Đang cố quên đi cái nấm mộ đáng thương.

Lại cứ thấy trước mắt mình cái hình người đàn ông râu ria chờm xuống ngực. Nhưng sức vóc lại như một chàng trai trẻ...


H Ế T
 
Chiếc nhẫn ngọc
Trần Thùy Mai



Đó là chiếc nhẫn có số phận kỳ lạ mà vì ngốc nghếch hoặc tham lam, người ta đã luôn ngộ nhận về giá trị của nó. Một người đàn bà đã phải trả cho nó cái giá quá đắt, và một người đàn ông cũng suýt vì nó mà đánh mất hạnh phúc của mình.

Tuấn bước lên sân thượng khách sạn. Người đàn bà đang ngồi chờ anh. "Tên tôi là Manuelle, người ta thường gọi là Manu".

Làm việc với khách sạn hơn sáu năm, Tuấn đủ kinh nghiệm trong ngành du lịch để nhận biết khá nhanh về nhân thân của người khách lạ. Người đàn bà này lịch lãm, quen tiếp xúc với nhiều người. Tên tuổi như vậy, nói tiếng Pháp chuẩn như vậy, nhất định là dân Pháp. Nhưng mái tóc đen như thế thì người Pháp không có. Cũng không phải người Việt, người Việt không có đôi mắt này. Đôi mắt tỏa sáng huyền bí như mắt người Ấn hay người Mã Lai... Tuấn phân vân, nhưng anh không hỏi. Du khách đến khách sạn giống như đoàn lữ hành qua sa mạc, đến và đi với gió, họ thường không thích lưu lại dấu chân mình trên cát.

"Các bạn gái tôi giới thiệu anh. Họ bảo anh dễ mến lắm. Tôi đến đây chỉ có một mình".

Tuấn hiểu. Anh là một nhân viên khách sạn đẹp trai và khá khôn lanh. Nhiều nữ du khách đã trở nên thân thiết với anh sau một lần lưu trú. Anh luôn tìm hết cách để chiều lòng họ, và anh chẳng thiệt thòi gì. Nhưng hôm nay e phải chối từ: Mai là lễ ăn hỏi của anh. Sáng nay anh đã xin nghỉ, nhưng đúng một phút trước khi rời khách sạn thì nhận được tấm danh thiếp của người đàn bà lạ.

Tuấn nghĩ cách từ chối mà không phải nhắc đến vị hôn thê của mình. Anh là người sành tâm lý phụ nữ. Đàn bà, họ luôn muốn độc tôn, dù là trong mắt một người đàn ông xa lạ. Vả lại, Festival còn kéo dài đến hết tuần, mà đến ngày kia anh đã có thời gian rồi. "Thưa bà...".

Nhưng cũng đúng lúc đó người đàn bà mở miệng nói, nên theo phép lịch sự anh phải nhường lời cho phụ nữ. "Hôm nay tôi muốn đi một chuyến về phía tây. Các bạn tôi bảo anh có xe riêng rất tốt, phải không?".

Đúng vậy, anh đã mua xe để thêm thuận lợi trong công việc, cũng vì chiếc xe mà hiện nay anh còn mắc nợ ít nhiều. Anh rất muốn nhận chuyến đi này, nhưng không thể được. Liên rất hay hờn, vẫn thường giận dỗi bảo anh chỉ biết tham công tiếc việc, chẳng dành đủ thời giờ cho nàng. Anh đã lao đao nhiều lần suýt vuột mất cô bạn gái xinh xắn bé nhỏ, nếu bà mẹ nàng không luôn miệng bênh vực và tán dương ông con rể tương lai.

"Tôi sẽ không quên công anh". Manu nói, bà cử động hai bàn tay đang nắm lấy nhau trên mặt bàn, một cử động hết sức uyển chuyển làm nổi bật lên chiếc nhẫn ngọc xanh biếc. Theo Tuấn, cử chỉ ấy mang một ngụ ý khá rõ rệt. Thấy ánh mắt chàng trai, Manu hỏi rất tự nhiên:

- Anh có thấy chiếc nhẫn này đẹp không?

Tuấn gật đầu. "Ngọc lục bảo phải không?". Anh hỏi. Người đàn bà im lặng mỉm cười. Tuấn buột miệng:

- Phải đến ba nghìn đô-la?

Nói xong Tuấn chợt thấy ngượng, anh nhận ra mình đã có câu nói hớ hênh, không thanh lịch chút nào. Thật tầm thường, mình đã mở miệng hỏi giá tiền trong khi lẽ ra phải tán dương vẻ đẹp của nó. May sao Manu không có vẻ gì phản cảm với anh, bà ta chỉ vỗ vai chàng thanh niên với một vẻ bao dung:

- Anh sành giá cả như thế, nhất định biết rất rõ các thứ ngọc quý.

Tuấn lấy lại tự tin. Không biết tự lúc nào, anh đã quên mất lời cáo từ.

Tuấn cho xe lướt rất êm. Manu ngồi bên cạnh, cặp mắt sâu và đen nhìn đăm đăm về phía núi xanh trước mặt.
 
Điện thoại di động trong túi Tuấn rung nhẹ. Chắc chắn là Liên. Tuấn hơi bối rối, nhưng rồi anh quyết định để nó rung thoải mái cho tới khi tắt. Anh nhủ thầm sẽ cố xong mọi việc với Manu để về sớm, còn lý do để giải thích với Liên thì khi nào cũng sẵn có trong đầu anh, ngại gì. Tự thu xếp với mình như vậy, anh thấy yên tâm, nhận ra Manu đang hướng anh đi theo con đường dẫn lên A Lưới. Không sao, đường này anh cũng đã đưa du khách đi nhiều lần, khách nước ngoài rất thích du ngoạn những vùng đất hẹp trong sơn ao. "Chị muốn xem những vùng có người dân tộc phải không? Mình phải kịp về trước khi trời tối, ban đêm ở vùng cao không an toàn đâu. Tôi đã nhận trách nhiệm với khách sạn phải đưa chị đi về an toàn".

Anh đã nói dối, thói quen nói dối trơn tru không cần suy nghĩ. Đêm vùng cao ở đây chẳng có gì nguy hiểm cả, chỉ có điều anh đang cần về sớm. Manu xem chừng chẳng bận tâm mấy đến lời hăm dọa của anh, bà ta bảo:

- Tôi có bản đồ đây, tôi sẽ chỉ đường cho anh - Thấy Tuấn chưng hửng, Manu mỉm cười giải thích: Tôi là biên đạo múa ở Nhà Hát Trẻ thành phố S... Tôi đang dựng một vũ kịch trong đó nhân vật chính là cô bé Kalang - Nga, người Tà Ôi.

- Sao lại người Tà Ôi?

- Đúng vậy. Ở Pháp không có dân tộc ít người. Những đề tài về các dân tộc miền núi làm người ta quan tâm.

- Làm sao chị biết về người Tà Ôi, từ tít bên kia?
Manu cười, đưa bàn tay có chiếc nhẫn, lật cuốn sổ có một trang ghi chú những con đường núi với những cái tên Tà Ôi đã phiên âm. Viên ngọc trên bàn tay phản chiếu ánh mặt trời, xanh biếc. "Có nhiều cách. Thư viện. Cộng tác viên. Và cả trí tưởng tượng nữa".

Manu quây kính xe lên, lập tức phía bên kia Tuấn cũng quây kín cửa lại cho khỏi gió. Người đàn bà cởi áo khoác. Đôi vai trần nâu mịn hiện ra trước mắt anh trên chiếc áo hai dây. Từ đôi vai anh có thể tưởng tượng ra cơ thể mảnh mai lạ thường mà phụ nữ trung niên thường không có. Có cảm giác như vừa uống một ly bia, anh bốc lên, dận ga cho xe lao rất nhanh trên đường đèo. Manu đặt một tay lên vai anh, như muốn bảo anh chậm lại. Hơi ấm từ bàn tay xuyên qua lần vải áo. Điện thoại đúng lúc ấy lại rung khẽ trong túi anh. Những hồi rung kéo dài, nối tiếp nhau, dai dẳng, như muốn níu giữ anh lại. Nhưng xe đã tiến lên dốc đèo Aco, ra ngoài vùng phủ sóng.


* * *
 
Status
Không mở trả lời sau này.
Back
Top