• Hiện tại trang web đang trong quá hình chuyển đổi và tái cấu trúc lại chuyên mục nên có thể một vài chức năng chưa hoàn thiện, một số bài viết và chuyên mục sẽ thay đổi. Nếu sự thay đổi này làm bạn phiền lòng, mong bạn thông cảm. Chúng tôi luôn hoan nghênh mọi ý kiến đóng góp để chúng tôi hoàn thiện và phát triển. Cảm ơn

1001 CÂU CHUYỆN CẢM ĐỘNG!!!

Status
Không mở trả lời sau này.
Một ngày trước đám cưới, anh tẩu thoát khỏi cô dâu trẻ, gõ cửa căn hộ của chị với một câu hỏi quyết liệt.

Chị hét lên "Không!". Anh quay đi, mười lăm phút sau quay lại với cái đầu trọc tếu: dù chị nói thế nào, anh cũng không mặc cái bộ veste mới cứng dành cho chú rể. Chị òa lên khóc rồi lau nước mắt, chấp nhận biến mình thành tấm bia chịu đạn.

Hai năm sau đó họ biến thành cái đích của mọi lời chửi rủa. Chị lớn hơn anh mười sáu tuổi, điều đó thách thức một định kiến khó dời chuyển trong tâm trí nhiều người, định kiến về trật tự. Lúc ấy, chị vừa là biên đạo vừa là vai nữ chính của nhiều điệu vũ. Suýt nữa tai tiếng đã làm chị phải chia tay với nhà hát, nếu bà vũ đoàn trưởng không khăng khăng rằng trong vũ đoàn không ai thay được chị.

Sau lễ Giáng sinh, anh đến ở hẳn trong căn hộ tầng hai của chị và lập tức ném hết các tặng vật của những người đàn ông quen chị vào lửa. (Ở đó có một lò sưởi nhỏ kiểu xưa, chị đã cố giữ lại sau nhiều lần sửa chữa căn phòng). Dù phản đối kịch liệt, cuối cùng chị cũng tha thứ.

Chiều cuối năm dương lịch, khi ra phố mua sắm về, chị thấy những bông hoa thạch thảo màu đỏ như một bó lửa cháy rực giữa gian phòng. Chị không tin ở mắt mình, vì ngoài màu vàng, tím và trắng, chị chưa hề biết hoa thạch thảo có thêm màu gì khác. Một tặng vật lãng mạn nhất, anh đem về cho chị sau mươi cây số xa thành phố, từ một hẻm núi mà anh đã khám phá nhờ những chuyến lang thang thời trai trẻ. Tối hôm đó chị pha hai ly cocktail đỏ, họ chúc nhau năm mới hạnh phúc, lặng lẽ, không một ai chứng kiến.

Và họ đã hạnh phúc. Một thứ hạnh phúc đầy thương tích, bởi dường như thế giới xung quanh không bao giờ để cho họ yên. Nhưng họ dần quen với những lời đàm tiếu, giống như dân du mục quen với cuộc sống lều trại. Người ta bảo đó là một cuộc tình không có tương lai. Cả chị cũng thế, khi chạm cốc mừng năm mới với anh, chị đã nghĩ: có thể sang năm, khi ngày đầu năm trở lại, thì anh đã ra đi.

Vì sống trong ý nghĩ sẽ sớm chia tay, những ám ảnh về tương lai đôi khi không khỏi làm chị buồn rầu. Chị hiểu rằng do tính hay xúc động mà mình đã hành động dại dột, rằng những người đàn bà khôn ngoan chỉ bông đùa các chàng trai ít tuổi, chứ không gắn bó cuộc đời với họ. Nhưng sau thời gian sống cùng anh, chị hiểu ra tại sao trước đây không thể hạnh phúc với những người đàn ông lớn hơn mình. Từ trong vô thức hình như chị dị ứng với các biểu hiện của oai quyền, có thể là do những ám ảnh về người cha cay nghiệt. Mấy mươi năm sau khi đã sống tự lập, thỉnh thoảng chị vẫn còn mơ thấy mình ở tuổi lên mười, quỳ trên đất, khóc nức nở trong tiếng quát mắng giận dữ. Khi tỉnh dậy, chị mừng rỡ vì nhớ ra mình đã lớn.

Từ đó, mỗi năm, đến ngày Tết Dương lịch, anh lại hái tặng chị một bó thạch thảo lớn màu đỏ thắm. Họ lại uống cocktail dâu và đến tối sẽ đến câu lạc bộ hội Múa. Họ có cảm giác năm tháng không qua đi: hoa thạch thảo vẫn nở trong khe núi, đêm đầu năm mới sẽ mãi mãi ngọt ngào. Niềm tin đó quả thật cũng có chút sức mạnh phép lạ: Nếp nhăn mờ ở cổ chị như dừng lại, không dài thêm, không sâu hơn, dường như sắp biến mất. Khi người ta hạnh phúc, người ta không cảm thấy mình đang trên đường đi đến cõi chết. Về sau, chị hiểu ra tại sao người xưa cho rằng ở trên trời thời gian trôi rất chậm, đến nỗi dưới trần gian đã ba năm thì trên ấy mới có ba ngày. Ý tưởng ấy khiến chị lao vào thiết kế một điệu vũ mới. Ngày như đêm, chị vùi đầu vào việc tập luyện và dàn dựng, tin chắc rằng khi xem Tìm lại Thiên đường của chị, bà vũ đoàn trưởng sẽ một lần nữa ôm hôn tác giả chùn chụt và nhắc đi nhắc lại: "Tôi đã bảo mà, chưa hề có ai thay được cô".

Sáu năm trôi qua. Chính chị cũng không ngờ, họ đã sống bên nhau chừng ấy năm, chừng ấy tháng, chừng ấy ngày, và giờ đây đã có thể nói là sẽ sống cùng nhau mãi mãi... Cả hai người đều cảm thấy mối quan hệ này rất giòn và dễ vỡ, nhất là khi phải luôn chịu sự va đập của thế giới quanh mình. Nhưng họ cũng dễ nhận ra: đôi khi những món đồ bằng pha lê, rực rỡ và mong manh như bọt nước, lại có tuổi thọ dài lâu hơn những vật cứng hơn nó rất nhiều, bởi chúng luôn được gượng nhẹ nâng niu.

Ngày vừa tẩu thoát khỏi đám cưới, anh bảo chị: từ khi bãi bỏ chế độ nô lệ, không có lệ người sở hữu người. Nhưng giờ đây anh bắt đầu nảy sinh ý muốn xác lập quyền sở hữu của anh. Anh không cho chị múa đôi với ai, không muốn chị về trễ nhiều, không muốn chị đi lưu diễn dài ngày. Anh mong ước chị sinh con, có con chị sẽ ngồi lâu hơn trong tổ ấm. Những dự tính của anh làm chị buồn rầu. Chị hàm ơn anh vì anh đã sống bên chị như một nguồn cảm hứng, chứ không phải là một ông chủ. Nhưng ngày gặp chị, anh là một chàng trai hai bốn tuổi, còn nay anh đã là một người đàn ông ở tuổi ba mươi.

Đêm ấy chị không ngủ được. Anh nằm yên, thở đều và mạnh, trán kê vào dưới vai chị. Khi ngủ mặt anh rất đẹp, không có vẻ cau có thấp thoáng của ban ngày. Nhưng chị không nhìn anh, chị ngoảnh mặt về phía cửa sổ, nhìn vầng trăng trơ trọi trên trời. Trăng đang từ tròn chuyển sang khuyết. Chị nghĩ: Vậy là trên thiên đường thời gian không đứng lại.

Cuối năm ấy, phóng xe về lại khe núi ngày trước, anh ngỡ ngàng. Một con đường thênh thang tráng nhựa chạy dọc sát khe núi. Người ta đã làm đường cao tốc nơi đây, biến một vùng hoang vu thành xa lộ. Nơi khe núi xưa, dãy quán hàng vừa mọc lên. Một cô bé ngồi nướng mực bên chậu than hồng, mùi thơm của biển lan tỏa trong không gian núi. "Hoa đỏ à, còn nhiều lắm bên kia khe". Cô bé dẫn anh đi, luồn lách theo những đường mòn đầy gai sau dãy đồi. Trên đường về, chợt tiếng sấm ầm ì vang lên trong mây. Cô bé kêu: "Mưa giông. Kỳ quá ha, sao mùa xuân mà có giông?". Một tiếng sét dữ dội cắt đứt lời cô bé. Cả hai cúi rạp xuống, chạy thi với cơn mưa. Nhưng cuối cùng mưa vẫn bắt kịp. Về đến quán bên đường, họ ướt sũng. Bà chủ quán cười: "Giông sớm thiệt. Trời đất đảo lộn hết rồi". Cô bé thay áo sau bức màn, nói vọng ra: "Sớm chi nữa?". "Đầu xuân đã có giông, không sớm à?" Tiếng cười giòn tan lẫn trong tiếng áo ướt kéo qua da thịt: "Con đợi giông từ tháng năm tới chừ, trễ quá rồi". Anh cởi áo hơ bên chậu than hồng, tủm tỉm cười vì ý nghĩ ngộ nghĩnh của cô bé. Ừ, nếu đây là cơn giông của mùa hè năm trước thì quả là muộn lắm. Cô bé ngồi trước mặt anh, tóc rối, mảnh dẻ, ướt át. Trong một phút anh liên tưởng đến cô dâu bé bỏng mà anh đã bỏ lại năm xưa trong một cơn đam mê như bão. Ý tưởng của anh nhảy cóc từ kỷ niệm này sang kỷ niệm khác, cuối cùng là kỷ niệm về cái đầu trọc tếu. Anh bật cười. Một kỷ niệm lớn trong đời anh. Mưa đã tạnh, anh vội vã quay về với bó hoa dành cho phút giao thừa.

Chị chờ anh trong căn hộ ấm áp; chiếc áo mặc nhà hở vai lấm tấm hoa tím trắng làm chị có vẻ nhẹ nhõm tươi vui, nhưng nơi đáy mắt chị ẩn núp một nỗi hoang mang. Chiều hôm nay, chị đã bị cơn giông trái mùa cầm chân lại trên thềm nhà hát. Ngồi chờ mưa tạnh, bà vũ đoàn trưởng tâm sự với chị vài nỗi lo âu, rồi cả hai bỗng cao hứng rủ nhau gọi taxi đến thăm một nhà chiêm tinh nổi tiếng mới ghé qua thành phố. Trong không gian âm u của ngôi nhà rường cổ, nhà chiêm tinh nhìn lên khuôn mặt tươi tắn của chị, nói rằng khí sắc của chị đang báo điềm không tốt. "Đâu có!". Chị phản đối. Chị đang cảm thấy rất hạnh phúc, chị làm việc hết sức mình, chị đang yêu và được yêu. Bàn tay gầy khô đưa ngọn nến trên bàn đến sát mặt chị: "Có vết đen mờ hiện ra nơi trán. Những ngôi sao của cô đang bị mây che, nguồn lực của cô đang giảm dần". Chị cười, không mấy tin.

"Một năm sau, tôi sẽ quay lại đây. Khi đó, nếu cô cần tôi giúp...". Ông ta vụt im bặt, những nếp nhăn trên mặt co rúm lại. Đã bảy giờ tối, chị nôn nóng ra về.

Chị trang hoàng lại bàn ăn, treo những chiếc rèm cửa mới, đặt sẵn bộ váy đẹp nhất lên giá áo. Đêm nay, lúc tiếng nhạc Happy New Year vang lên trên đường phố, anh sẽ cùng chị đến Câu lạc bộ hội Múa, như mọi năm. Bỗng nhiên chị hắt hơi dữ dội liền mấy cái. Một linh cảm mơ hồ đè nặng lên tim chị. Nhưng anh đã về, tay ôm bó thạch thảo ướt sũng. Chị cảm động. Dưới ánh nến, những nhánh hoa đọng nước trông rực rỡ hơn bao giờ hết.

Nhưng một năm sau đó đã trôi qua với âm điệu khác. Bà vũ đoàn trưởng vẫn tin yêu chị, những vở múa của chị vẫn được tán thưởng. Mối quan hệ với chàng trẻ tuổi lâu ngày đã thành quen trong mắt người xung quanh, không còn là một thách thức với xã hội nữa. Vũ khúc Tìm lại Thiên đường mỗi năm vẫn được tái hiện trong những chương trình lớn. Nhưng chị đau lòng, chị vốn nhạy cảm, không chịu nổi khi thấy nhiều học trò bỗng nhìn chị với ánh mắt khác đi. Những cô bé học trò ngày nào lúng túng, vụng về, nay đã trở thành những cô gái sắc sảo và xinh đẹp. Chị hiểu: Chị đã cản đường họ. "Chưa đến thời của họ đâu". Lời nói chắc nịch của bà vũ đoàn trưởng làm chị yên tâm, chị nỗ lực nhiều hơn nữa để chứng minh rằng mình xứng đáng. Càng đắm mình vào công việc, chị càng cần dựa vào anh, như cái cây cần tưới nước để đâm hoa trổ lá. Nhưng anh dường như ngấm ngầm bất mãn. Anh cảm thấy tổn thương vì chị không chịu lệ thuộc vào anh. Năm ấy là một năm đầy day dứt, giống như một ngày xấu trời trong mùa thu đẹp.

Cuối năm chị được mời dự lễ hội nơi một thành phố biển. Chị rủ anh cùng đi, nhưng anh từ chối. Thật ngạc nhiên, vì anh chưa bao giờ từ chối chị điều gì. "Anh chỉ muốn đón Tết Dương lịch như mọi năm". Lâu nay anh chuyển cách xưng hô từ gọi tên sang anh, em, chị thấy xưng hô như thế có phần ngược ngạo nhưng cũng chiều anh, như chiều theo sở thích khùng điên của một đứa trẻ.

Ước muốn có một đêm cuối năm mới mẻ với chuyến du lịch nơi xa đã không thành, vậy hãy tìm một cách khác thổi sinh khí vào những thói quen cũ... Ý nghĩ ấy làm chị nhớ tới lời dặn dò của nhà chiêm tinh: "Nguồn lực của chị đang giảm dần... Hãy thu lại những điện năng đã mất". Chiều hôm ấy chị một mình đến ngôi nhà rường trong khu thành cổ.

Có tất cả ba gói nhỏ. Một gói bên ngoài ghi chữ "Gối". Gói này sẽ được đặt vào dưới chỗ kê đầu. Một gói ghi chữ "Tắm". Chất bột trong gói sẽ hòa vào nước tắm mỗi ngày của chị. Một gói ghi chữ "Ngải". Gói này sẽ hòa vào ly của anh. Chất bột trắng này sẽ như một cái xiềng êm ái mãi mãi buộc anh vào với chị. Nhà chiêm tinh dặn: "Không ai đủ mạnh để mãi mãi tin ở mình, chỉ có bùa thiêng là vô địch và vĩnh viễn".

Chiều cuối năm không mưa. Chị thay những chiếc vỏ gối mới rồi đi tắm, ngâm mình trong thứ nước thần kỳ; Anh không phải chỉ là tình yêu, anh là sự sống của chị, không có anh, chị sẽ không có những điệu múa, nghĩa là không còn gì hết: vẻ trẻ trung bên ngoài, sự nể nang của đồng nghiệp, lòng tin cậy của bà vũ đoàn trưởng... Chị muốn làm mọi cách để anh luôn là anh của một mùa đông cách đây bảy năm, chị sẽ có anh không phải chỉ để thương yêu, mà là để sinh tồn. Vì sự khao khát sinh tồn mà chị đã vô tình phản bội lại nguyên tắc của ngày đầu, nguyên tắc của Tự do.

Anh vẫn chưa về. Chị mắc sẵn chiếc áo vũ hội trên vách. Gói bột ngải hòa vào ly nước dâu đỏ óng ánh.

Chị kiên nhẫn chờ, trong khi chiếc đồng hồ "Coucou" treo trên vách cứ vang lên từng tiếng tanh tách, tanh tách phát ra từ chiếc kim giây.

Sau này anh nghe những người hàng xóm kể lại: chị rời căn hộ vào khoảng 6 giờ chiều, tay xách vali, không chào ai cả nhưng đã ghé vào thăm bà bảo vệ nghèo có đứa con đau ốm, cho đứa bé một số tiền, rõ là chị có ý đi xa dài lâu. Đó là chuyện về sau anh mới biết, còn tối hôm ấy, thấy bàn tiệc đã sửa soạn sẵn, anh đoán rằng chị chỉ đi đâu một lát. Anh tự cắm bó hoa thạch thảo đỏ vào chiếc lọ sứ trên bàn rồi tìm cốc nước dâu thường lệ, nhưng cái ly lớn trên bàn rỗng không với chút cặn ở đáy ly, hình như có ai đã uống trước. Anh nhăn mặt, mở tủ lạnh tìm một cốc nước lọc. Trời càng tối anh càng băn khoăn, đây là đêm cuối năm đầu tiên chị bắt anh phải chờ. Cũng như chị, anh muốn thử thổi sinh khí vào những thói quen cũ: thay vì đến câu lạc bộ như mọi năm, anh định cùng chị dự giao thừa ở đại sảnh một khách sạn lớn trong thành phố. Người ta đã gửi anh hai vé với lời mời nhiệt tình. Vì đã lỡ hứa, giờ đây anh quá nóng lòng, chỉ lo đến trễ.

Mười giờ đêm. Anh nhảy bổ vào phòng tắm để thay áo. Chính lúc đó anh nhìn thấy chiếc áo vũ hội hàng năm của chị, cái dáng vắt vẻo như bị ruồng bỏ của nó khiến anh nhận ngay ra có gì đó bất thường. Anh chạy quanh hỏi những người hàng xóm, biết rằng chị đã ra ga.

Chuyện gì xảy ra vậy? Anh định chạy ra ga, nhưng đúng lúc ấy, chiếc đồng hồ Coucou gõ vang lên. Nửa đêm rồi, năm cũ đã giã từ.

Không còn thời gian nữa. Vội vã lên xe, anh đến khách sạn một mình.

Tàu đã rời ga từ lâu. Chị ngồi yên, mắt mở tỉnh táo nhìn ra cửa sổ: những con đường, những ngã tư, những mái nhà. Rồi đồng trống mênh mông và những trụ điện xa xa ven con đường cao tốc chạy song song với đường tàu.

Điện thoại trong túi áo trên ngực chị rung lên.

Tiếng của bà vũ đoàn trưởng. Cuộc giao lưu đầu năm mang lại nhiều cơ hội cho hoạt động vũ đoàn trong năm tới nên bà không muốn vắng chị. Nghe chị trả lời, bà thét lên: "Tôi đã bảo rồi, vẫn chưa ai thay thế cô được!". Chị cười, nước mắt trào ra. Không, đừng chui đầu xuống cát, đã đến lúc tôi phải đi rồi và cả bà, bà cũng phải đi rồi. Ngoài kia, dưới ánh trăng non, những nghĩa trang xa thành phố với những nấm mộ không hàng lối lũ lượt trải dài. Ở dưới đó là những con người đã từng không ai thay thế được. Ý nghĩ ấy làm chị mỉm cười lạnh lẽo, quyết định tắt hẳn máy trước khi cho vào túi. Tối nay, khi chờ anh trở về, chị đã lấy chiếc áo dạ hội ra mặc thử và kinh hoàng nhận ra, chị không thể mặc vừa nó nữa! Chất bột trong nước tắm chẳng giúp được gì ngoài việc làm các vòng của chị bung phá nhanh hơn. Trong chốc lát chị nhận ra sự vô vọng. Cầm lấy ly nước dâu, chị chạy ra hiên, tưới nó xuống chậu cây...
 
Nàng ba Châu Long
Tô Hoài



Giữa tháng giêng, làng Hạ đã gọi phường chèo hát. Cả vùng bảo làng này trốn hội. Bởi vì giêng hai thì đâu cũng còn thong dong hơi hướng đôi chút tết nhất.
Nhưng ở đâu thảnh thơi chứ làng Hạ đã lác đác đeo giỏ xách thuổng ra đồng, xuống gò đào chuột. Vừa Tết ra đã phải đi kiếm miếng thịt trời, đi như người ăn vụng, lủi ra đằng cổng đồng. Không để ai trông thấy, như muốn bay biến trong ngọn gió bấc quất vào mặt. Thì cũng lệ là cố lo tối hát, như ra ngõ gặp trai, ao ước cái may năm mới đến.
Ngoài sân đình, trống gọi trò vừa gióng vài tiếng, đã nghe trong bờ ao, ở ngã ba gốc nhãn trẻ con gọi nhau ơi ới, đã rộn rã ra vui rồi.

Làng Hạ chẳng có nổi cỗ kiệu long đình. Hằng năm, đến kỵ thánh, ông từ ra đình thắp bó hương đen. Họa may mới có năm đi chợ xa tậu được con bò dắt về mổ chia ba giáp rồi ngoài sân đình có tối chèo. Thế đã linh đình rồi.
Các cụ kể: ông thành hoàng làng ta hóa thiêng lắm. Nửa đêm, người đi úp cá trộm, người thò tay khoắng vào chũm, phải con rắn lục cắn, người ngã xuống ngay trên cái nơm. Ðược giờ linh, chỗ ấy mối đùn thành gò đến tận bây giờ. Người thiêng lắm, nhà bị mất trộm, bị lừa, hay ai cầu xin thế nào, hay đem lễ ra đình khấn.
Có được thế nào cũng chỉ nghe vậy. Cái làng Hạ chỉ uống nước lã mà chèo hát suông, ai cũng bĩu môi, ấy thế mà rồi nhiều người kéo đến xem đông thế, vui xem hát nhạt xem bói, bao giờ chả vậy.
Phường về lúc xế trưa. Cả bọn qua chợ đã ngả vào hàng cơm. Gồng gánh lội bộ từ sớm mai bên kia sông sang, đến quá bữa mới được lưng cơm. ấy thế mà mới cạn bát rượu, bác trùm đã ngả nghiêng đứng lên.
- Hôm nay được ngày, làng đương mong, trống gọi đấy.
Ðã có người ra ngóng cổng làng.
- Hát lấy may, hôm nay tốt ngày.
Mấy cô gánh dâu ở ngoài bãi về.
- Còn hát lấy duyên nữa, các cụ ạ.
Tiếng con trai con gái ở đâu cười vang động. Nhưng trong đám chẳng thấy có nữ. Phường Bắc đã được tiếng kép nam đóng nữ khéo đến đỗi tan trò rồi mà trai các làng còn quanh quẩn nhòm ngó đến khi sáng ngày ra, trông vào mái lều trong tam quan chỉ thấy toàn đàn ông còn ngái ngủ ngồi lổm nhổm.
Có chàng ngơ ngác hỏi:
- Cái cô Châu Long tối hôm qua đâu nhỉ?
Bác trùm cười hề hề nói:
- Con ma gốc gạo bắt cô ấy đi từ tan trò tối hôm qua rồi, không biết à?
Ôi chao, chẳng cứ trai làng mê vai Châu Long đêm chèo để thương để nhớ đến cả cho bao nhiêu cô gái trong làng nữa kia.
Tung, tung... Bung nhóc... Bung bung nhóc... Chiếc chiếu mộc thủng giữa đã được nhà mõ trải ra sân cửa đình. Ðôi hòm gỗ nhà phường kê đằng góc che tàu lá dừa. Ðào kép thì đến đằng ấy, ngồi ghé lên mặt hòm cạnh cái đèn hoa kỳ.
Bôi phấn, vẽ râu, kẻ lông mày, thay xống áo xong rồi vào chiếu ra vai.
Nhà mõ cũng đã đóng cọc chăng thừng, kê chiếc ghế dài ra, một ông kỳ mục chít khăn mặc áo dài thâm ngồi bên cái trống cầm chầu. Cũng không ai biết cầm chầu thưởng phạt câu hát, mà chỉ thỉnh thoảng điểm tiếng tùng, tiếng cắc giữ nhịp cho ấm đám, lại còn ra vẻ người bề trên ở chốn đình trung.
Trống và nhị theo tiếng hát vỡ nước đã réo rắt rào rạt nổi. Chung quanh ngoài kia túm tụm người cha tới đám đã biết tối nay tích Lưu Bình, Dương Lễ - tích trò éo le mà có hậu được hát mở hàng.
Trời đã tối hẳn. Một chiếc đèn ba dây treo lên cành nhãn. Người ra vai đứng giữa chiếu mà bốn phía nhìn được, lại thuộc cả tích diễn, cả câu hát. Cái lúc Lưu Bình sang thăm Dương Lễ đỗ được bổ về làm tri huyện sở tại. Này này thằng lính lệ sắp bưng ra cái mâm gỗ có quả cà bát làm bằng nắm đất thó lăn lóc. Thế mà như thật. Lưu Bình cau mặt phủi áo đi. Lưu Bình vừa vào khuất thì nàng ba Châu Long đã khăn gói bước ra, quan Dương Lễ đứng trong hát với ra dặn dò vợ đi nuôi bạn.
Nàng Ba đuổi theo Lưu Bình, đến quán Nghênh Xuân thì gặp Lưu Bình đương đăm đăm nhìn dòng nước chảy, Lưu Bình phẫn chí định trẫm mình chết trôi sao? Châu Long bước vòng qua, hát mấy câu đường trường thì vừa tới kịp.
Châu Long khuyên nhủ rồi đưa Lưu Bình về nhà. Từ đấy, canh cửi và đèn sách bên nhau, hẹn bao giờ đại đăng khoa thì tiểu đăng khoa. Chỉ trên mặt chiếc chiếu, quanh quanh với bước đi và câu hát mà đủ mọi sự tình, đêm hôm và mưa nắng, mùa hạ sang mùa xuân, mấy năm qua. Luống những đầu mày cuối mắt mà ra hờ hững, mà lại dường như đinh ninh một câu thương nhớ ở đâu rơi xuống, đấy là Châu Long tự thán hay là ông trời xanh trong đêm đen kia than thở bỏ lời hộ người.
Những tưởng lúc chiều đông tựa cửa
Ngao ngán thay cho cảnh vợ xa chồng. Ngao ngán thay cho cảnh vợ xa chồng.
ối a... tình bằng... thế mà mê tơi lăn lóc cả cái sân đình. Chị em cái Vối, cái Nụ thương Châu Long quá. Châu Long đẹp thế, mỗi lúc một đẹp hơn, thương hơn. Tấm áo nâu non vạt thắt quả găng, cái khăn thâm mỏ quạ mà như cô tiên, cô tiên giáng trần tu duyên tích đức. Thương quá. Nước mắt cái Vối ứa ra lúc nào, đêm tối chẳng ai trông thấy ai, Vối mặc cho nước mắt chan chứa xuống. Chốc chốc, cái Nụ lại kéo áo chị, nhất là đến những khi đêm hôm Châu Long ngồi trong khung cửi, Dương Lễ nằm ngoài trường kỷ đọc sách, chốc lại buông sách xuống đứng lên những toan bước vào. Nụ lại kéo áo Vối, không biết là nó muốn Lưu Bình bước vào buồng cửi hay nó bảo chàng đừng... Mà sao lúc ấy tiếng hát Châu Long trong vắt, hay thế, yêu thế. Chị em Vối cứ như người thất thần cho đến khi trống tan trò, mọi người gọi nhau tìm đóm làm đuốc về, bấy giờ mới như sực tỉnh ra.
Ðêm mười sáu, trăng tháng giêng, trời mù mịt trăng suông. Ðóm đuốc về các ngả, bỗng rậm rịch bọn người chạy lại.
- Bắt lấy nó! Bắt lấy nó cho ông!
Qua điếm canh, thấy mấy người bị trói giặt cánh khuỷu vào chỗ cái giá cắm đinh ba, câu liêm.
- Kẻ trộm à?
- Ăn trộm người thôi!
- Thiên hạ đến chim gái làng thì cứ việc gô cổ lại.
Một ngời nói to:
- Chúng ông cõng con phường chèo thì bận gì đến nhà chúng mày!
Thì ra lúc tan trò, lũ này háu quá chui vào kéo cô Châu Long. Bọn trai làng xông tới, bắt được trói về đây. Bây giờ không biết thế nào, đâm ra lục đục cãi vã. Người nói chõ vào: "Gái làng chẳng phải, họ hàng cũng không, khéo ghen hão". Cứ thế ầm ĩ, loạn xạ.
- Ðứa nào chửi ông? Ðứa nào?
Như sắp choảng nhau to đến nơi.
Chị em Vối chạy vội vào trong xóm. Nụ cười rinh rích: "Thế mới rỗi hơi, chẳng bận gì đến ai mà cũng nhiễu sự". Vối nói:
- Nhưng mà thấy đẹp quá đâm ra đỏ mắt, tiếc của giời.
Hai chị em tới nhà. Mẹ đã cài cửa liếp. Vách trong, tiếng tằm ăn rỗi trên nong nghe rào rào. Vối và Nụ chui vào cái giường nan vầu không mễ lót lá chuối khô trong bếp. Hai đứa đắp chung cái chiếu đơn, co quắp mãi chưa ngủ đợc.
Vối nói:
- Cái Châu Long đẹp nhỉ, tao cũng mê.
Nụ lặng im rồi thì thào:
- Nó là thằng kép giả gái đấy, thằng kép thế em mới thích.
- Mày chỉ nói nhảm!
Chị em lại quằn quại, trằn trọc. Mỗi người một ý nghĩ cũng nên, cái ngủ khó đến quá.
Chẳng mấy lúc đã mờ sáng. Vối trở dậy đi hái dâu. Vối sắp quang sọt sớm hơn mọi khi, lúc mẹ cha dậy mở then liếp. Nụ để ý. Nụ ngờ phải. Vối không xuống bãi ngay. Vối rón rén vào góc cột tam quan, đến chỗ bọn phường chèo nằm. Cả đêm không chợp mắt, có lúc mơ mơ màng màng ngỡ Nụ là cái Châu Long. Thế mới bơ vơ!
Nhiều người nhà pưhờng còn vùi đầu trong ổ rơm. Một bác đã có tuổi, quấn cái khăn tai chó, nhận ra bác ấy đêm qua ra vai lính hầu quan Dương Lễ bưng cái mâm gỗ với quả cà giả vờ. Tần ngần, không biết hỏi thế nào, cứ đứng một lúc rồi Vối mới xuống bãi dâu.
Ðến bên con đìa cạn trơ bùn, thấy có người lúi húi nhấc cái chũm đơm cá. Sáng sớm còn rét cắt ruột mà anh chàng giơ cái lưng trần trùng trục, có lẽ đêm ngủ cởi trần. Hai con mắt sắc đuôi lá răm, cái môi đỏ như đương ăn miếng trầu cay thế kia, trông đích là cái Châu Long đêm qua. Con Nụ tinh quá. Vối ngây người, buông chiếc đòn gánh xuống mà không biết. Rồi ấp úng:
- Có phải... có phải...
Chàng nọ nhấc cái chũm bê bết bùn lên, nói tự nhiên:
- Phải, cái nàng ba Châu Long ấy mà. Ði đâu sớm thế?
Vối nhác thấy trên mặt người ta còn một mảng phấn hay vôi dính chỗ hàng lông mày rậm. Nhưng miệng nhanh nhảu thì vẫn xinh, vẫn cái duyên đêm qua.
Vối che nón lên.
- Em ra bãi hái dâu.
- ở chỗ này, con chẫu con chạch cũng chẳng được. Ngoài bãi có đìa nước...
- Có đỉa, nhưng chẳng biết có cá không?
- Con nhái cũng được bữa đấy.
Rồi chàng ta xoe quần lên tận bẹn, vẫn cởi trần tơ hơ thế vác cái nơm. Tay đôi bước thong dong, như vẫn xuống bãi thường ngày.
Cả nửa buổi trong cánh dâu chẳng úp được con quái gì. Mà Vối thì lại quang sọt về không.
Khuya hôm ấy, Vối ôm Nụ, cời khẽ: - Nó không phải con gái. ừ...
- Em đã bảo thế rồi mà.
- Sao mày biết, mày là con ma xó à?
- Trông hai cái chân to như bàn cuốc, em biết ngay.
Vối buông Nụ ra. Quả là con bé khôn hơn con ma.
Ðêm nay phường ra chèo Trương Viên, ngày mai rã đám. Vối nói:
- Tích Trương Viên buồn lắm, tao chẳng đi xem nữa đâu.
Nụ đi một mình. Một lúc đã về, lạch cạch cậy liếp. Vối vẫn chưa ngủ. Nhưng hai chị em không nằm ôm nhau như mọi đêm. Nụ lẳng lặng xuống ổ rơm cửa bếp. Một lát, đã nghe tiếng thở rờn rờn. Nó đi cày ải cả buổi, ngủ mệt. Vối cũng xuống bãi hái dâu cả ngày, mỏi bã vai. Nhưng Vối không ngủ. Vối không muốn ngủ. Sớm mai, người ta đi rồi. Ðã hẹn gà gáy tan canh ra cổng làng chờ nhau. Rồi bao giờ mới lại gặp? Tiếng gà xa xa mới tha thướt, còn khuya. Hai mắt Vối cứ chong chong.
Trong bóng tối, Vối chợt nghe không thấy Nụ cựa quậy trong ổ lá, im cả tiếng chập chờn. Vối lạ. Rồi Vối giật mình. Vối nhỏm dậy. Thấy gian bếp như lạnh hẳn. Vối sờ cái thừng vẫn vắt váy áo. Không thấy chiếc thắt lưng tam giang Vối đã để sẵn ra đấy đợi thắt.
Vối quờ tay vào ổ rơm. Chẳng thấy Nụ đâu.
Vối chạy ra ngõ. Qua điếm canh, vẫn thấy mấy người trai làng khác, không biết có bị trói không, chúng nó ngả vào nhau ngủ ngồi rụi đầu vào vách điếm. Ðêm rã đám mà vẫn còn đuổi đánh nhau chuyện ghẹo gái.
Cái cổng tam quan lợp lá tối lù lù như mọc cây rơm. Vừa lúc trong chân tre các xóm, tiếng gà gáy tan canh sôi lên. Trong ổ rơm đã có người lúi húi dậy, ra nhóm lửa.
Ðám chèo gồng gánh đi sớm. Cho đến lúc đi hết người cũng chẳng thấy người ta đâu.
Vối về dựng cửa liếp. Mẹ ngồi trong ổ rơm, hỏi vóng ra:
- Cái Nụ đấy à?
Vối bật khóc nức nở:
- Cái Nụ đi theo thằng phường chèo rồi.
Tháng giêng năm sau, làng Hạ lại chèo hát như mọi khi. Năm nay có phường xứ Ðông lên xin đám, hôm mở đầu cũng ra tích Lưu Bình, Dương Lễ cho làng nước được bói chèo lấy may. Người ta lại cứ việc cười làng Hạ nghèo rớt, năm sớm kỵ thánh chẳng lo nổi con bò chia hàng giáp, chỉ hát chèo uống nước mưa, biết có ma nào đi xem. Thế mà rồi lại cũng như mọi năm, tối nào cũng đông bộn ngời, và nửa đêm còn rình rập đuổi bọn trai lạ ghẹo gái làng, vừa quát chửi nhau, vừa cười hê hê.
Năm nay có cái tò mò, cái khác mọi khi là nhiều cô con gái trong làng, từ lúc bọn phường xứ Ðông vừa ăn uống ở chợ xuống, đã ra nhòm ngó phường này có nàng Châu Long thật hay Châu Long giả.
Câu chuyện cái Nụ đi theo thằng Châu Long năm trước hãy còn râm ran. áp Tết vừa rồi, Nụ cùng chồng ẵm thằng cu con về tạ tội với mẹ. Có chai rượu và một cành cau bỏ trong cái tay nải, chồng đeo trên vai.
Vối vừa quảy đôi sọt lá dâu về đến ngõ. Anh chàng nhác trông đã nhận ra cô này mới phải cô hái dâu cái sáng sớm hôm mình đi đánh chũm ngoài đìa. Có chết không, lúc gà gáy ấy còn tối đất, chỉ nhớ cái thắt lưng nhiễu tam giang, thế là lôi nhau đi.
Nụ bế con ra trước mặt Vối, cầm hai bàn tay thằng cún chưa đầy tuổi tôi đỏ hon hỏn. Nụ cười cười:
- Con lạy bá đi nào!
 
Hồ Xuân Hương

"Giơ tay vời thử trời cao thấp
Xoạc cẳng đo thêm đất vắn dài"

Câu thơ ứng khẩu của Xuân Hương dọc vừa dứt, tiếng cười chế nhạo cũng im bặt trong đám bạn học của cô. Xuân Hương phủi sạch quần áo, ung dung đi thẳng, mặc cho các bạn giương mắt nhìn khâm phục. Một cậu học trò lớn tuổi vẻ lém lỉnh trong bọn, ý chừng chưa chịu thua cô bạn gái hay chữ mà ngỗ nghịch này, còn trêu tiếp:

- Cô em ngã có đau lắm không? Tội nghiệp cho em, chém cha mảnh đất!

Xuân Hương ngoảnh lại, liếc nhìn các bạn, cười duyên dáng:

- Chị ngã em chẳng nâng, lại ăn nói hỗn. Không chị em gì nữa đâu nhé!

Lại một đòn giáng trả kịp thời và mạnh mẽ, văn hoa mà sâu cay của Xuân Hương. Cả bọn cùng cười vang, trong đó nói lên giọng cười trong trẻo và giòn tan của Xuân Hương.

Mũi nhọn chế giễu quay về cậu học trò lớn tuổi, Xuân Hương tủm tỉm cười.

Đến đường rẽ, Xuân Hương ngả nón chào các bạn, Men theo bờ sông Tô Lịch, Xuân Hương rảo bước về nhà, cô nghĩ đến người mẹ đang ngồi trên khung cửi chờ đợi.

Cô gái gần đến tuổi trăng tròn ấy tung tăng trong đám học trò như chim én mùa xuân. Thầy giáo mến Xuân Hương thông minh và chăm chỉ. Thầy vẫn thầm nghĩ giá là con trai thì Xuân Hương sau này sẽ làm rạng rỡ cho thầy, nhưng tiếc thay Xuân Hương lại là con gái... Xuân hương chiếm được tình cảm của các bạn không phải vì cái nết thùy mị dịu dàng thông thường của các bạn gái. Trí thông minh, sắc sảo, nhất là tài đối đáp của Xuân Hương đã để lại cho các bạn nhiều ấn tượng sâu sắc. Giới thư sinh ở kinh thành đã đồn đại nhiều về cô học trò duyên dáng và hay chữ ấy.

Người ta không rõ tông tích của cô lắm, chỉ biết cô thuộc giòng dõi thế gia. Qua giọng nói nằng nặng miền Nghệ Tĩnh của Xuân Hương, người ta biết cô không phải sinh ra ở Thăng Long và thường bảo nhau rằng cô em là gái một ông lớn họ Hồ ở Hoàn Hậu Nghệ An.

Căn nhà gỗ nho nhỏ ở phường Khán Xuân, bên giòng sông Tô Lịch, cạnh hồ Tây, là nơi trú ngụ của cô cùng với người mẹ già làm nghề dệt vải. Cuộc sống thanh bần, gần như cô quạnh của một gia đình gần như neo đơn giữa chốn kinh thành tấp nập không làm cho Xuân Hương kém vẻ hồn nhiên, yêu đời. Ngược lại, người mẹ của Xuân Hương, một người đàn bà tần tảo, hay lam hay làm, rất đỗi thương con lại trầm lặng ít nói.

Thủa xưa bà cũng từng khao khát yêu đương, ước ao có một tấm chồng để được sớm hôm gần gũi, nâng khăn sửa túi. Nhưng điều đó mãi mãi không đến với bà. Thân phận làm hầu thiếp cho một gia đình quyền thế họ Hồ ở làng Hoàn Hậu đã cướp mất hạnh phúc của bà. Suốt đời bà chỉ là một người đi ở không công. Được một mụn con gái, rồi đức ông chồng già và "Xa lạ" qua đời, bà đem con ra ở Thăng Long...

Xuân Hương rất thích nghe kể chuyện. Ngoài thì giờ học ván bài, trong lúc giúp mẹ quay xa, đánh suốt, cô thường hay vòi mẹ kể chuuyện.

Mẹ Xuân Hương biết rất nhiều chuyện. Nào chuyện chúaTrịnh Sâm say mê Đặng Thị Huệ, chuyện loạn kiêu binh ở kinh thành, chuyện vua Quang Trung hành quân ra Bắc tiêu diệt quân Thanh, chuyện Sầm Nghi Đống thắt cổ tự tử, chuyện vua Chiêu Thống và Tôn Sĩ Nghị chạy tháo thân qua sông, cầu gảy, quân bị cuốn theo dòng nước v.v... Rặt những chuyện xảy ra ở kinh thành, mắt thấy tai nghe tự hồi bà còn trẻ. Xuân Hương nghe mẹ kể rất say xưa. Nhưng với cô, hấp dẫn nhất vẫn là những chuyện cổ tích, chuyện vui cười ngộ nghĩnh.

Mỗi khi giọng nói âm ấm của người mẹ cất lên: "Ngày xưa có anh Trương Chi..." hay "Có một người học trò nghèo rớt đi ăn xin tên là Phạm Tài" là lúc Xuân Hương ngồi nghe có khi ngừng cả tay xa để theo dõi nét mặt của mẹ. Mắt Xuân Hương sáng lên khi nghe mẹ đọc:

"...Tóc mây rũ rượi, mực bôi má đào
Trút hài đi đất xem sao
Áo thời xộc xệch vạt cao vạt dài"

Nghe đến chỗ Ngọc Hoa mặc tang phục đến đấu khẩu với tên Trạng Vương tàn bạo, không nén được tình cảm của mình, Xuân Hương thốt nên lời:

- Cô Ngọc Hoa chống chế với tên vua độc ác giỏi quá mẹ nhỉ.

Người kể chuyện, nhân vật trong chuyện và người nghe như có mối tình đồng điệu.

Cuộc sống thanh bạch, êm đềm không giữ được mãi trong gia đình Xuân Hương. Người mẹ sức ngày càng yếu. Sinh kế ngày càng khó khăn. Cuộc sống tươi vui, dễ chịu, dưới triều vua Quang Trung không còn nữa, sau khi nhà vua đột ngột qua đời ở Phú Xuân. Có tiếng đồn chúa Nguyễn ở trong Nam đang lăm le ra Bắc. Số đông cựu thần nhà Lê rục rịch nổi dậy. Một mối lo sợ chụp xuống kinh thành...

Một hôm bà mẹ nói với Xuân Hương:

- Con ạ, bây giờ kiếm ăn ngày càng khó khăn, mẹ thì già yếu. Con là phận gái có học nhiều cũng chẳng công trạng gì. Con ở nhà giúp đỡ mẹ.

Xuân Hương không nói lên lời, đôi mắt đỏ hoe, cô rất thương mẹ. Xuân Hương phải đau lòng từ giã thầy và bạn, từ giã mọi buổi bình văn giảng sách ở nhà trường. Cái thiệt thòi của phận người con gái đã trực tiếp giáng xuống đầu Xuân Hương!

Con sông Tô Lịch nho nhỏ chạy theo bờ phía Nam hồ Tây đưa nước sông Nhị Hà về tây nam kinh thành. Bên kia sông Tô là Tây mênh mông bát ngát. Du khách khắp nơi thường đến đây ngoạn cảnh. Và đây cũng là nơi hò hẹn của giai thanh gái lịch chốn kinh thành.

"Nước sông Tô vừa trong vừa mát
Em ghé thuyền đỗ sát thuyền anh
Dừng chèo muốn tỏ tâm tình
Sông bao nhiêu nước thương tình bấy nhiêu"

Câu hò của ai vang lên từ bên kia sông Tô. Cô thiếu nữ Xuân Hương hay thơ, yêu đời, thả hồn bay bỗng cùng với những ước mơ của tuổi trẻ. Một cuộc sống sôi nổi, tự do và phóng khoáng, mội mối tình chung thủy là niềm hy vọng đẹp đẽ của cô. Hạnh phúc đang chờ đợi... Xuân Hương lao vào cuộc đời và cả sức sống mãnh liệt và với một niềm lạc quan của người con gái đến tuổi dậy thì.

Bè bạn văn chương lui tới nhà Xuân Hương hay chữ lại giao du rộng rãi, họ tìm đến với Xuân Hương. Căn nhà của Xuân Hương tuy không đẹp nhưng có sức hấp dẫn lạ thường đối với những chàng thư sinh thơ phú.

Chiêu Hổ là người bạn tâm đắc của Xuân Hương thời trẻ trung. Họ gặp nhau trong mối tình bồng bột ban đầu, từ lúc trái tim nhiều khi còn loạn nhịp vì những duyên cớ vu vơ. Tài xướng họa, tính vui đùa, đã đưa đôi bạn trẻ xích lại gần nhau.

Có lần Xuân Hương vay Chiêu Hổ năm quan tiền. Chiêu Hổ nhận lời, nhưng đến kh cho vay lại đưa cô ba quan. Nhân dịp đó, Xuân Hương đưa thơ giễu Chiêu Hổ là "Cuội" bằng những lời lẽ hóm hỉnh mà âu yếm:

"Sao nói rằng năm lại có ba.
Trách người quân tử hẹn sai ra
Bao giờ thong thả lên chơi nguyệt
Nhớ hái cho xin nắm lá đa"

Hôm sau, Xuân Hương nhận được bài họa của Chiêu Hổ:

"Rằng gián thì năm, quý có ba
Bởi người thục nữ tính không ra
Bao giờ thong thả lên chơi nguyệt
Cho cả cành đa lẫn củ đa"

Xuân Hương phục tài thơ và đòn văn chương láu lỉnh của Chiêu Hổ. Hai người giao du ngày càng khắng khít. Xuân Hương chờ đợi ở Chiêu Hổ một người bạn tâm đầu ý hợp. Ngược lại Chiêu Hổ cũng phục tài Xuân Hương, cũng tỏ ra trìu mến Xuân Hương, một đôi khi đến sờm sỡ nhưng vẫn còn dè dặt e ngại. Chiêu Hổ vẫn sợ cái "đanh đá" của Xuân Hương. Biết thóp, Xuân Hương làm thơ trêu chọc:

"Những bấy lâu nay luống nhắn nhe
Nhắn nhe toan những sự gùn ghè
Gùn ghè nhưng vẫn còn chưa dám
Chưa dám cho nên phải rụt rè."

Nhận được thơ, hẳn là tức khí vì tự ái, cậu công tử mang tên Hổ đáp lại:

"Hỡi hỡi cô bay, tớ bảo nghe
Bảo nghe không được, gậy ông ghè
Ông ghè chẳng vỡ, ông ghè mãi
Ghè mãi rồi lâu cũng phải rè"

Lời lẽ mới trịch thượng và hách dịch làm sao? Xuân Hương bắt đầu nhận thấy ở Chiêu Hổ một cái gì xa lạ. Hai người vẫn giao du như thường. Chiêu Hổ ngày càng tỏ ra tầm thường. Một bận Chiêu Hổ định giở thói bờm xờm với Xuân Hương trong khi xướng họa. Thấy đến lúc cần phải cho Chiêu Hổ biết rằng người phụ nữ cũng biết quý trọng giá trị và nhân cách của mình, đồng thời để cho anh ta một bài học về đạo đức, Xuân Hương ứng khẩu đọc luôn:

"Anh đồ tỉnh, anh đồ say
Sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày.
Này này chị bảo cho mà biết
Chốn ấy hang hùm chớ mó tay"

Một bảng tuyên bố ly khai về tâm hồn, mặc dù hai người vẫn còn giao du với nhau.

Trong số bạn xướng họa của Xuân Hương, những người như Chiêu Hổ không ít, họ còn dốt nát hơn Chiêu Hổ là khác. Xuân Hương nghi ngờ và khinh bỉ những chàng trai tốt mã rẽ cùi, xanh vỏ đỏ lòng ấy. Đòn bút của Xuân Hương bắt đầu tung ra để chào đón họ.

Đây là một kiểu mời "Khách" xơi trầu của Xuân Hương:

"Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương đã quệt rồi
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá bạc như vôi"

Có chàng công tử tìm đến nhà Xuân Hương. Là con quan nhưng anh ta lại quá dốt nát. Qua vài lần trò chuyện, anh ta tỏ ra tầm thường nhưng lại luôn luôn khoe mẽ cái địa vị sang giàu của mình. Một hôm thấy bóng dáng anh ta đến, Xuân Hương đi vào nhà trong, cho người mang ra một cơi trầu có quả cau bổ đôi, kèm một mảnh giấy hoa tiên đề hai câu thơ:

"Mảnh tình ví xẻ làm đôi được
Nửa để trong nhà, nửa đệ ra"

Xem thơ, cậu công tử tái mặt, không họa lại được, đành tiu nghỉu ra về và từ đó không đến nhà Xuân Hương nữa.

Lại một buổi chiều Xuân Hương đi dạo mát trên bờ hồ Tây, một bày khóa sinh thấy cô thiếu nữ có duyên đang thơ thẩn ngắm ánh nắng chiều trải trên mặt hồ, các thầy đến gần buông lời trêu ghẹo. Có thầy lại còn xổ thơ ra nữa chứ, Xuân Hương mỉm cười, lặng thinh. Họ càng trêu già, tưởng như vớ được món bỏ nên lại thi nhau đọc thơ. Thấy chướng tai gai mắt, Xuân Hương ngoảnh lại đọc dồn một mạch:

"Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ
Lại đây cho chị dạy làm thơ
Ong non ngứa nọc châm hoa rữa
Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa"

Thôi, vớ phải Xuân Hương rồi!Các thầy khóa nghe thơ nhận ra Xuân Hương, liền bảo nhau lui dần, nhường cho Xuân Hương đi thẳng.

Trên đường về Xuân Hương băn lhoăn nghĩ đến thói đời. Bạn bè thì nhiều mà người bạn đời sao khó tìm thế.Rặt những phường ong bướm săn hoa. Họ đến với mình chỉ vì mình là con gái! Có thế thôi ư? Xuân Hương nghĩ đên nàng Ngọc Hoa tài sắc là thế, vì phận gái mà bị đọa đầy. Những tên bạo chúa như Trang Vương, Trịnh Sâm nghe mẹ kể từ bé, nay hiện ra trước mắt Xuân Hương, sau đó là một bầy lau nhau những Chiêu Hồ cho đến các công tử... Mải mê trong suy tưởng, Xuân Hương về đến nhà lúc nào không hay.

Người ta đồn rằng miếu Sầm Công ở phía Nam kinh thành đã mất thiêng từ khi có bài thơ khá đặc sắc đề trên vách. Bài thơ ấy như sau:

Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo
Kìa đền Thái thú đứng cheo leo
Ví đây đổi phận làm trai được
Sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu?

Thơ của ai mà không thấy đề tên? Nhân đó mọi người được dịp kể cho nhau nghe về trận đại phá quân Thanh của vua Quang Trung trước đây và cái chết nhục nhã của tên tướng giặc Sầm Nghi Đống. Cũng nhân đó người ta truyền cho nhau nhiều giai thoại về tài thơ và chí ngang tàng của cô gái họ Hồ và cho rằng tác giả bài thơ ấy là Xuân Hương chứ không phải là ai khác. Trong khi đó Xuân Hương vẫn phòng không lạnh lẽo trong căn nhà mới ở làng Tiên Thị gần hồ Hoàn Kiếm.

"Xuân Hương cũng vì mẹ già, nhà túng nên ăn ở không được yên ổn". Mẹ con Xuân Hương đã dời chỗ ở về khu đông đúc cho tiện việc làm ăn. Với nghề dệt, hai mệ con không đủ nuôi nhau, gia đình Xuân Hương phải mở thêm một ngôi hàng nhỏ. Trong hoàn cảnh mới, Xuân Hương càng có điều kiện để tiếp xúc với nhiều tầng lớp người. Câu chuyện Xuân Hương mở ngôi hàng tiếp khách, thử tài thơ để kén chồng lan ra rất nhanh.

Dêm đã về khuya, Xuân Hương còn trằn trọc vì cái tin đồn đại về mình. Có tiếng trẻ khóc oa oa từ nhà bên đưa lại. Giọng ru con của cô bạn láng giềng cất lên nhẹ nhàng:

Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.

Câu hát quá quen thuộc đối với Xuân Hương. Ngày xưa mẹ cô cũng đã nhiều lần hát lên câu đó. Nhưng hôm nay cô nghe như mới lần đầu. Sao mà thấm thía đến thế! Làm thơ mà ví người con gái với tấm lụa đào thì thật là tài tình. Giá biết người làm nên câu hát đó, Xuân Hương tìm đến xin bái phục, nhưng không quen bảo nhỏ với người ấy rằng phải giữ lấy giá, tìm lấy khách hàng, đừng đem ra giữa chợ cho người ta kén chọn...

Rồi một hôm có cô giái ở phường bên "Chữa hoang" bị cha mẹ, xóm giềng xỉ vả, đến phải bỏ nhà ra đi. Với Xuân Hương, chuyện ấy cũng "Dỡ dang" chẳng hay ho gì. Nhưng nhà thơ lại trách thói đời sao lại quá nghiệt ngã, bất công riêng đối với người đàn bà. Thông cảm với cô gái "Cả nể" ấy, Xuân Hương đã lên tiếng. Nàng viết:

Cà nể cho nên hóa dở dang
Nổi này chàng có biết không chàng.
Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc
Phận liễu sao đà nẩy nét ngang
Cái tội trăm năm chàng chịu gánh
Mảnh tình một khối thiếp xin mang.
Quản bao miệng thế lời chênh lệch
Những kẽ không mà có mới ngoan.

Bài thơ được truyền đi, người khen cũng lắm, kẻ chê cũng nhiều, nhưng ai cũng muốn đọc, muốn nghe. Và cô Xuân Hương làm thơ tài tình, bạo miệng, "Lẳng lơ", còn đang kén chồng, lại được dịp trở thành câu chuyện đầu lưỡi của mọi người.

Gần ba muơi tuổi, còn lận đận về tình duyên, Xuân Hương băn khoăn. Đang lúc thấy lòng trống trải, một khách tình tìm đến với nàng. Nghe tiếng Xuân Hương hay chữ người khách lạ tìm đến làng Tiên Thị hỏi thăm nhà Xuân Hương, theo sau là một chú tiểu đồng cắp tráp theo hầu. Trước lạ sau quen, hai người trở nên thân mật.

Có một bận, người khách lạ lại nhắc lại câu chuyện bài thơ đề miếu Sầm Công mà hỏi đùa Xuân Hương:

- Nữ sĩ muốn đổi phận làm trai, ta sẵn lòng đổi, nữ sĩ nghĩ sao?

Xuân Hương chỉ liếc mắt cười, mà không nói.

Người khách ấy là một chàng thư sinh góa vợ đến dự kỳ thi hương ở Thăng Long. Năm đó chàng thi đậu thủ khoa và được bổ làm tri phủ Phủ Vĩnh Tường. Xuân Hương đã kết nghĩa trăm năm với ông thủ khoa hay chữ và đa tình ấy.

Chuyện kể rằng sau khi đậu thủ khoa, ông tri phủ tương lai cùng với người em đến nhà Xuân Hương để chính thức tỏ tình. Xuân Hương không tiếp, cho người nhà đưa ra một đầu đề bài thơ để thử tài ông tân khoa. Nhận được ba chữ "Thạch liên thiên" ông tân khoa ngồi nhấm bút mãi mới được bốn chữ: "Thiên thạch nguyên lai" rồi tắc tị. Xuân Hương sai người ra bảo với ông tân khoa:

- Nếu không ra thơ thì mời ông về, còn ngồi ngậm bút làm chi nữa?

Ông tân khoa thẹn quá, uất lên, rồi ngất đi, ngã nhào xuống đất. Thấy vậy người em nối hộ cho thành hai câu thơ.

Thiên thạch nguyên lai bản thậm huyền
Nhất triêu vân vũ thạch liên thiên.
 
- Này em ngồi xuống đây.
- Nói gì anh cứ nói, tôi không ngồi đâu.
Gã đàn ông cười nhạt:
- Gớm, làm bộ nhỉ? À, sắp về nhà chồng có khác.
Người con gái im lặng. Nhưng chỉ một lát, cô gái nói, tiếng nho nhỏ.
- Đừng diếc tôi thế. Tôi đã bảo với anh nhiều lần rồi mà.
Gã đàn ông lại cười. Tiếng cười nức nở, như xé ra ở trong cổ họng.
- Emm nói những gì nhỉ? Tôi vô tâm quá! Quên mất rồi đấy.
- Thôi, đừng có giả cách nữa.
- Tôi có giả cách đâu! Thì em cứ ngồi xuống đây.
Bấy giờ người con gái mới ngồi ghé xuống một bên thềm giếng. Mặt trăng đã tới đỉnh đầu, trĩu ra phía cánh đồng. Trăng về khuya, nét sáng gọn lại. Vòng tròn về góc dưới, bợt mất một miếng nhỏ.
Người con gái ngồi xuống, thì gã nhích lại gần. Gã nhìn mặt người yêu, ấm ứ muốn nói một câu, nhưng lại thôi. Gã bần thần nhòm xuống giếng. Lòng giếng tối om. Gã ngẩng mặt lên, cái mặt vênh váo và trơ trẽn một cách vô lý của người say rượu. Gã không nói, nhưng "hừm" một tiếng. Người con gái thấy lành lạnh trên gái. Nàng quay lại đằng sau. Đằng sau là mặt trăng vằng vặc đương ngắm hai người. Dưới đất trước mặt có hai cái bóng. Bàn chân giẫm kề bên bóng chân. Người ta thở cũng nghe tiếng phào. Gã nghiêng má nhìn người yêu. Rồi gã lại thở dài phè phè. Cô nàng xua tay lên mặt.
- Gớm! Mùi rượu ghê quá.
- Làm gì mà ghê! Có một cút rưỡi.
- Thì hãy một cút rưỡi. Thế là hại vợ hại con.
Người con gái nói một câu vô tâm ấy mà gã thấy đau nhói trong ruột, lại ức nghẹn lên cổ. Tiếng ức ức ra tiếng ợ. Gã uống rượu thì hại vợ hại con gã. Gã đã làm gì ra có vợ con. Bấy lâu nay, gã chỉ yêu nó, gã chỉ định lấy nó mà thôi.
Nhưng người ta trong xóm nói mong manh rằng nó sắp lấy chồng. Gã đã gặng hỏi nhiều lần, người con gái chỉ chối, chối bai bải. Gã không làm sao mà biết được sự thực ở lòng người yêu của gã. Nó ngồi trước mặt gã đây. Mặt nó phơn phớt ánh trăng. Hai con mắt nó đưa long lanh. Hai con mắt say quá. Có lẽ gã mê hai con mắt ấy hơn là mê chính nó. Bởi vì, đã canh khuya vắng vẻ, nằm vò võ một mình, gã thường chỉ nhìn thấy đôi mắt. Đôi mắt đăm đắm, đen đen, ngời như nước giữa hai hàng mi. Gã muốn hớp lấy. Nhưng chưa bao giờ gã hớp được. Gã nghĩ đường dài rằng bao giờ nó là vợ mình, thì mình sẽ hớp được hai con mắt ấy. Chao ôi! Bao giờ, bao giờ...
Gã nắm chặt tay người yêu. Gã hỏi một giọng rất buồn:
- Em ơi! Có phải em sắp lấy chồng hử?
Nắm tay nhau để hỏi câu ấy, thực không hợp thời. Bởi vậy, ả rút tay ra. Gã lại dồn thêm:
- Này, này... Đây bảo thực cho mà xem. Đây biết rõ cả rồi. Có lấy chồng cứ việc mà lấy, ai cấm đoán gì nhau đâu mà phải giấu giếm cái cóc gì. Đấy mà biết đi ở riêng, thì rồi đây cũng đi lấy vợ. Ai kém cạnh gì ai đâu.
Ả không nói gì, lé mắt nhìn gã. Gã phồng mép, toan nói nữa, nói thực to. Nhưng lại thôi. Gã ngây ra. Bởi gã vừa bắt gặp cái đuôi mắt rất sắc trong ánh trăng. Cái đuôi mắt chao đi, gã trều làn môi dưới thèm thuồng, môi đẫm màu trăng. Người con gái mủm mỉm cười. Thế là gã cũng cười lây.
Gã lại hỏi dịu dịu:
- Chúng mình yêu nhau mấy năm rồi nhỉ?
- Không biết.
- Từ phiên chợ tết năm kia.
Ả rón rén đứng dậy:
- Anh có nói gì nói ngay đi.
- A... thì em hãy cứ ngồi đấy.
- Khuya rồi.
- Chưa khuya, giăng hãy còn cao chỗ kia.
- Nghe như trống hồi tan chèo? Thôi đích rồi.
- Không phải.
Đằng xa, bên kia vẫn rộn những dịp trống cơm. Vầng trăng sáng lòi lọi ngả dần xuống cuối cánh đồng chiêm, ngát mùi cỏ và mùi lúa thơm. Người con gái thở dài. Không biết cô ta nghĩ gì. Nhưng cô lại ngồi xuống, đưa tay lên miệng và khẽ nói:
- Anh ạ!
- Gì?
- Chúng ta mà không lấy được nhau thì cũng là cái số giời bắt thế!
- Không lấy được nhau thì cùng chết với nhau chứ sao. Giời nào!
- Nhảm!
- Thực đấy.
- Chẳng nên oán trách nhau làm gì.
- Thế ra em sắp đi lấy chồng thật à?
Người con gái tự dưng khóc. Gã ngạc nhiên lạ. Cùng một lúc, gã thấy trong lòng bồi hồi. Không phải gã bồi hồi vì tiếng khóc hay lời thú tội của ả. Mà gã có cảm tưởng như ngày mai gã sẽ đi xa, đi phu phen đâu xa lắm. Người ngồi kia là vợ gã đương khóc đưa tiễn gã đây. Gã giơ tay vuốt vào mắt em. Nước mắt dính ươn ướt trên đầu ngón tay/. Gã chấm lên miệng gã. Gã đương khát nước. Rượu làm cổ họng gã ráo se lại.
Nàng khóc nhẹ như khóc dối cho nên cũng chóng tạnh như mưa bóng mây. Mảnh vạt áo bỏ xuống thì người đã đứng dậy.
- Em về.
- Không.
Bên kia thành tre, một hồi trống rung lên. Gã hơi giật mình.
- Tan chèo à?
- Không phải. Đây mới là trống hết tấn "Nhị Độ Mai". Còn tấn "Kiều Liên Tất Chánh" nữa.
- Em cũng phải về.
- Năm ngoái, em vẫn ngồi với anh đến lúc giăng lặn kia mà.
- Bây giờ khác năm ngoái.
- Cái số chúng ta thế nhỉ?
Chua chát, gã cười khà khà.
Ả quay mặt, nói:
- Em về đây.
Rồi ả đi. Bỏ ông trăng với gã lại phía sau lưng. Gã chạy lên, bíu lấy:
- Em về thì tôi chết ở đây.
Ả cứ đi. Gã chuếch choáng theo. Mặt trăng nhòm vào gáy hai người. Và bước chân đuổi hụt những bóng chân lung lay. Gã bíu lấy cánh tay ả. Chà, cánh tay trần, trắng bạch, chắc nịch như đẵn mía, có thể nhá được. Tim gã đập mạnh, vang lên tận tai. Đầu gã bừng bừng. Nếu bình tĩnh một chút, chắc gã sẽ khóa trái cánh tay ả lại, đưa chân ra ngáng. Ả liền ngã xuống bãi cỏ. Nhưng gã đương cáu. Mà gã lại cáu về việc khác. Gã gào vào tai ả một câu thế này:
- Ông biết thừa ra rồi. Ông hỏi thử chơi đấy thôi. Ông biết đến mười hai tháng sau thì cưới mày. Đồ khốn nạn!
Mắt gã long lên. Người con gái rú lên một tiếng, đẩy gã một cái mạnh, rồi chạy biến về lối xóm.
Gã vốn khỏe. Nhưng rượu làm cho gã loạng choạng, ngã chúi xuống cỏ. Hai tay còn chới với giơ lên.
Đến khi ngồi dậy được thì không còn thấy nó đâu nữa.
Mặt trăng vàng ệch xuống thấp lè tè ngay trên bờ ruộng. Bông lúa mảnh khảnh vươn vào trong trăng. Gã không theo ả vào xóm mà gã bò về thành giếng. Hai tay khoanh lên bờ đá thành giếng, mặt gã gục xuống. Như thế một lúc. Hình như nằm xuống thì người mềm ra và say hơn lúc ngồi. Trong đầu gã lộn xộn đủ những ý nghĩ. Những ý nghĩ hòa với hơi rượu lan man không ra đầu mối nào. Có lúc gã cười khúc khích, thè lưỡi liếm hòn đá, hai tay ôm quờ quạng, xoa nắn như xoa người ai. Gã mê. Nhưng có mỗi một điều gã tỉnh. Gã biết gã khát nước. Cổ gã ráo hoảnh. Nước bọt cũng đặc sít lại.
Gã thò tay vào trong miệng giếng. Lẳng nghe phía dưới, có hai con chẫu đương đuổi nhau trong nước. Chân nó đạp nước kêu tóc tách. À! Dưới kia có nước. Gã thò đầu vào. Gã tuồi đầu xuống. Hơi thở gã vang lên, thấm vào trong vòng tròn của thành đá.
Gã nói làu thàu. Giọng khao khao, khàn khàn. Gã lại cười khúc khích. Lúc ấy là hai tay gã đã vừa với tới nước và lưng gã đã tuồi xuống khỏi thành đá, mà hai bàn chân không thể là hai cái móc nữa.
Thế là gã lăn xuống giếng sâu. Một bàn chân hất rơi theo cả một tảng đá. Hai tiếng, người và đá rơi tũm vào nước, giống như nhau.
Róc rách một cái. RỒi im. Cánh đồng mông mênh ánh trăng.

* * *

Ngày mười hai tháng sau, người con gái nọ về nhà chồng. Gã trẻ tuổi kia chết đuối dưới giếng vào giữa đêm hát chèo nggoài cửa đình. Hai việc ấy không bận gì tới nhau. Người ta chỉ thương gã là một anh con trai hiền lành, vốn ít nói, chăm canh cửi đêm hôm, xưa nay được tiếng là ngoan. Không ai rõ duyên cớ cái chết ấy.
Nhưng, nếu ai chịu khó để ý tất thấy cô gái nọ, mỗi lần khi ở nhà chồng về nhà mình, lại đi vòng cánh đồng vào trong xóm chớ không đi qua bờ giếng như mọi người khác. Sóng nào ai biết đâu mà để ý. Đêm ấy chỉ có mỗi một ông trăng ngồi trên trời là nhìn được tỏ tường từ đầu đến cuối.
Song ả nọ đừng lo. Ông trăng thì ông ấy không biết nói.


H Ế T
 
Văn đẩy tấm cửa kiếng, lách mình ra ngoài lan can. Buổi sáng tịch mịch, không nắng, trời u ám. Căn phòng của anh nằm ở lầu ba của một chung cư dành cho người lớn, xoay lưng ra một khu rừng thưa, chạy dọc theo xa lộ vùng Bethesda. Từ nơi đang đứng, anh có thể nhìn thấy, khuất sau đám rừng thưa ấy, từng đoàn xe nối đuôi nhau trên xa lộ, như một đoàn viễn chinh trên đường ra trận mỗi sáng. Hôm nay dậy trễ, xa lộ đã thưa thớt xe cộ, anh tần ngần đứng nhìn xuống khoảng cỏ úa dưới sân ngập đầy lá vàng. Một cơn gió sớm bỡn cợt thổi đùa những chiếc lá úa,vàng, xanh đỏ, xoáy tròn quanh những gốc cây redwood cao sừng sững, giang những cánh tay khẳng khiu như cố đón bắt lấy những chiếc lá đã lìa cành. Một vài cành cây đong đưa uốn éo như muốn nhặt lấy những chiếc lá khô đó để kết lại lên thân hình khô héo của mình, để trở lại mùa hè rực rỡ, như một người già vân vê những sợi tóc úa, nuối tiếc một thời son trẻ. Nhưng không, mùa hè đã qua, mùa đông sắp đến, còn mùa xuân thì xa mù dịu vợi. Anh mê mải nhìn những chiếc lá vàng nô đùa duỗi nhau khỏi thảm cỏ khô, chạy xuống mặt đường rồi mất dấu dưới chân đồi, cho đến khi những giọt mưa phùn lất phất hắt nhẹ vào mặt. Trời chuyển mưa sang mùa. Văn ngửa mặt nhìn lên bầu trời xám xịt, hứng lấy những giọt nước mưa lấm tấm, nghiêng nghiêng, bám nhẹ lên má, lên tóc, như vỗ về, như thấm mềm những khô cằn trong anh.


Chậm chạp quay vào phòng, Văn nhìn căn phòng ngổn ngang, bừa bãi những sách vở, quần áo, dĩa chén dơ dáy chồng chất, tự thấy mình muốn làm biếng. Muốn bừa bãi, cẩu thả như thời còn sinh viên. Có mấy khi mình được làm học trò lại một lần nữa nhỉ. Những tháng đầu khi mới dọn đến đây, anh cảm thấy thừa thãi, bứt rứt vì những ngày cuối tuần trống rỗng. Bây giờ Văn lại thấy quý cái lê thê, chậm chạp đó. Quý những khoảng thời gian trống rỗng ấy, để được ngồi ì bên khung cửa sổ nhìn mùa thu đi qua. Để tưởng tượng. Để mơ mộng vẩn vơ. Để nhớ nhung lẩn thẩn. Rùng mình, Văn nghĩ đến những ngày quay cuồng trong con lốc của đời sống. Cuộc sống đầy hỉ, nộ ái, ố, tham, sân, si. Sợ người ta dành bên nầy, lấn bên kia, đâm sau lưng, chém đằng trước. Tại sao không? Lấn được thì người ta cứ lấn, chèn được thì cứ chèn, dại gì không làm, đâm chém, chèn ép nhau để mà sống chứ! Ôi, những năm tháng lăn lộn đã biến Văn thành một tên nô lệ giác đấu, đầy vết sẹo của bon chen theo thời gian. Đời sống đã cuốn hút anh vào một dòng thác cheo leo. Nó nhồi anh vất vưởng, lên xuống gập ghềnh. Bây giờ đến khúc sông êm đềm, Văn buông mái chèo, từ từ tận hưởng sự bình yên, như lúc bé thích để dành đồ ăn ngon tận đáy chén cơm, sợ ăn liền sẽ mất. Anh muốn ôm ấp, tận hưởng cái hạnh phúc hiện có, vì Văn hiểu, một khi hạnh phúc đã qua, sẽ không quay trở lại. Hạnh phúc dường như chỉ là một làn khói mong manh, không bao giờ thật. Hạnh phúc bao giờ cũng chỉ là ước mơ, mà có mấy khi ước mơ lại trở thành sự thật?
Văn đun nước nấu cà phê, không dùng lò microwave như mọi khi. Anh muốn ngồi chờ nghe tiếng nước reo, cười thầm khi nghĩ đến mẹ của anh, vẫn nói mỗi khi pha cà phê cho Văn, rằng cà phê nấu bằng nước đun lò uống ngon hơn là nấu bằng microwave oven! Cái ngon ở đây có lẽ do sự chờ đợi, khao khát, ly cà phê đắm thêm hương vị, ngược lại khi con người ta có đủ mọi thứ dễ dàng, tất cả sẽ trở thành lạt lẽo, vô vị. Có rất nhiều thứ, đối với Văn là một trời ước mơ của tuổi nhỏ, giờ đây trên xứ người, đã trở thành nhạt nhẽo. Cái có đến với con người ta quá dễ dàng thì người ta không thấy quý cái không.

Nhấm nháp ly cà phê nóng, Văn ngồi xuống bàn học, bâng quơ nhìn những hạt nước mưa lăn tròn trên khung cửa kính. Anh không vội đi làm bữa nay, nhất là những khi mưa lất phất như thế nầy. Kệ tía chúng nó. Bom nguyên tử nổ nó cũng chưa chết nữa là nhịn đói vài giờ. Chúng nó, là những tế bào ung thư mà Văn cấy trong những ống thí nghiệm để dùng vào việc tìm thuốc chửa trị ung thư. Những tế bào đó sinh sản rất man rợ. Chỉ cần một chút máu bò là chúng có thể sinh sôi nẩy nở. Một thành hai, thành bốn, thành tám trong vòng vài ngày, cho tới khi chật ống nghiệm và hết đồ ăn mới thôi. Có lần Văn thầm nghỉ nếu mình cho chúng ăn nước mắm xem chúng có chịu nổi không nhỉ. Chổ Văn làm, Viện Ung Thư Quốc Gia, là một trung tâm nghiên cứu và chửa trị ung thư nổi tiếng nhất thế giới, nằm trong một khu khá khang trang của tiểu bang Maryland. Hàng ngàn khoa học gia từ khắp nơi trên thế giới đổ về đây làm thí nghiệm. Hàng triệu bệnh nhân đủ mọi chủng tộc đã đến đây mong được chữa trị bằng những phương pháp mới lạ còn trong vòng thí nghiệm. Giờ ăn trưa tíu tít những ngôn ngữ khác nhau làm át cả tiếng chim trong khoảng công viên rợp nắng sau bệnh viện. Phòng thí nghiệm chỗ Văn làm thì nhỏ, mà người làm nghiên cứu thì đông. Vì thế anh phải chia phiên với những người khác. Văn chịu vào trễ, làm trễ, và về trễ.

Khi ly cà phê đã uống cạn thì trời hãy còn mưa rỉ rã. Văn quyết định đi vào thăm các tế bào ung thư của mình. Anh vẫn thích đi lang thang dưới mưa. Cái thú đơn giản gợi nhớ quãng đời thơ ấu, ở truồng chạy rông tắm mưa. Mặc kệ.Văn kéo cao cổ áo ngoài rồi bước thẳng lên đồi. Con đường từ nhà đến chỗ làm non hai cây số, mưa hay nắng, Văn vẫn thích đi bộ xuyên qua cánh rừng thưa hằng ngày, để lòng mình lắng đọng, không âu lo, không vướng bận. Văn thích con đường nầy từ mùa hè vừa qua, khi rừng còn ngập lá, với tiếng ve sầu rộn rã. Với tiếng chim líu lo. Với những chú sóc nhút nhát chạy tung tăng trên cỏ rồi vọt lẹ lên những thân cây cổ thụ mỗi khi Văn đến gần. Có một chú mạnh bạo chạy theo Văn mỗi ngày để được ăn những mẫu bánh mì khô mà Văn để dành mang theo cho chú. Dần quen, chú nhảy phóc vào lòng của Văn với đôi mắt lim dim để Văn được vuốt ve, thủ thỉ. Văn nhận ra chú sóc ấy mỗi ngày rất dễ dàng vì lông chú màu trắng xám. Một con sóc bạch tạng. Anh cũng đã quen với những người đi bộ, chạy bộ để tập thể thao hai buổi sáng chiều. Lúc nào gặp anh họ cũng nhã nhặn gật đầu chào xã giao. Văn cười một mình khi nghĩ đến bà mập, bà ốm. Đó là bà Ann và bà Cathy. Ann tướng người cao dong dỏng, hơi ốm, ít nói, nhưng nét mặt rất hiền và quý phái. Còn Cathy lại mập và lùn, mặt mày chất phát, rất bặt thiệp. Hai bà cao, lùn nầy, Văn đặt tên cho hai bà ngay từ hôm gặp lần đầu, vào khoảng sáu mươi, có lẽ là bạn thân của nhau, ngày ngày, sáng cũng như chiều dắt chó đi dạo. Lần mới gặp, con chó nhỏ chạy lăng quăng tìm chỗ phóng uế, thấy Văn đi qua, nó quấn quýt theo chân anh. Vừa khi đó hai bà thong dong đi bộ lên từ phía bên kia đồi. Sợ chó muốn cắn khác lạ, Cathy xuýt xoa xin lỗi. Hôm nay trời mưa, anh hơi buồn vì không thấy sóc, không thấy chó, không thấy hai bà mập ốm Ann và Cathy.

Văn bước đều trên đám lá vàng dày cộm. Cơn mưa nhỏ chỉ đủ sức làm thấm ướt lớp lá khô trên mặt. Lớp bên dưới vẫn còn khô, rộp rộp theo từng bước chân của anh. Những bước chân đưa anh về những năm tháng ấu thơ không mấy thơ mộng ở làng quê Non Nước. Những đêm nằm nơm nớp sợ, nghe tiếng chân người dẫm lên lá bàng khô xào xạc sau nhà. Tiếng chân của du kích về làng. Tiếng chó sủa. Tiếng súng đì đoàng lẻ tẻ. Để sáng hôm sau thấy cờ sao xanh đỏ tung bay giữa chợ, trên vài xác người đẫm máu tươi lây lất dưới chân cột cờ. Rồi thì lính Mỹ lên làng, bắt dân chúng sắp hàng ngoài giếng nước ngoài đầu đình. Họ đánh đập những người đàn ông bị tình nghi là Việt Cộng. Thảm kịch cứ lập đi lập lại như một đoạn phim kinh dị mà Văn đã coi nhiều lần đến độ nhàm chán cái đoạn kết. Làng của Văn thì nhỏ, nhỏ đến nỗi mọi người dường như là bà con của nhau. Chỉ ban ngày thôi. Khi đêm về, kẻ quốc gia, người cộng sản, giết nhau như một bầy con nít chơi trò đánh giặc. Người dân vô tội bị nghi can cộng tác với bên này, hay bên kia cũng bị giết lây. Đi lang thang sau giờ giới nghiêm cũng có thể mất mạng vì bị bắn lầm bởi bên này, hay bên kia. Làng xóm ngày càng thưa dần, hình như chỉ còn người già và con nít. Đám con nít cũng đổi thay, những mái tóc vàng ngày càng nhiều thêm. Vì lẽ con gái không đi bán bar cho Mỹ, thì theo du kích, chỉ một trong hai con đường lựa chọn, có khi là cả hai. Người lớn thù ghét nhau. Con nít cũng học thù ghét nhau, để tranh sống. Tuổi thơ của Văn dường như quá ngắn ngủi, không đủ cho Văn. Anh lớn quá nhanh theo chiến tranh. Mười tuổi, Văn đã luôn miệng chửi thề tối ngày, đã biết mài một con dao nhọn, nguỵ trang trong cây viết máy, thủ sẵn trong túi quần sọt. Có lần, không nhớ rõ lý do, Văn đánh lộn với một tên nhóc cùng trường, tiểu học cộng đồng An Hải, suýt, lụi nó một dao. May, có đám bạn can kịp. Mười tuổi, Văn đã dẫn gái cho lính Mỹ ở ngã Ba cầu Đà Lách, để được vài chục xu, hay có khi, hên, một đồng đô la đỏ chói có in hình ông mọi da đỏ mặt như người say rượu. Mười một tuổi, bập bẹ hút cần sa. Mười hai tuổi, phi xì ke. Rồi mười ba tuổi...

Khi Văn gần đến khu bệnh viện thì trời chuyển mưa nặng hạt. Không mang dù, anh chạy vội vào trạm xe buýt ven đường để đụt mưa. Nép bên vách tường bằng mica chắn gió, một người đàn ông Á Đông, dáng gầy, xương xẩu, đang co ro vì gió lạnh. Cái dáng mảnh khảnh ấy run lên từng hồi theo cơn gió lộng thổi từ ngoài vào. Bàn tay gầy guộc bám lấy bờ tường trạm xe buýt như sợ gió cuốn bay đi mất. Đôi vai hơi gù trồi lên thụt xuống theo cơn ho sù sụ từ cái lồng phổi lép kẹp. Thấy Văn vào, người đàn ông, gượng gạo cười chào sau một cơn ho húng hắng. Cả hai im lặng cùng đưa mắt nhìn những giọt mưa trĩu nặng trên mái. Thịnh thoảng một cơn gió lùa, tạt từng chuỗi nước mưa vào bên trong. Hạt nước mưa rớt xuống mặt nền, vỡ toang như những bong bóng thuỷ tinh tan ra ngàn mảnh. Người khách lạ lại húng hắng ho. Văn nhìn ông, ái ngại. Ông nhìn Văn, rồi rút trong túi ra một gói thuốc, lịch sự mời. Văn nhè nhẹ lắc đầu. Bây giờ anh mới nhìn rõ nét mặt của người lạ. Một người xấp xỉ lục tuần, khá đẹp trai với cái cằm vuông và làn da sạm nắng thành màu nâu đậm làm cho khuôn mặt chất chồng nét khắc khổ. Tóc của ông đã hói, lưa thưa như những sợi râu mép trên vành môi mỏng ẩn hiện nụ cười thân thiện. So với vành môi như muốn cười ấy, đôi mắt ông đục ngầu, buồn bã. Viền mí mắt dưới đã nhăn nheo, hơi nhíu lại.

Người đàn ông lặng lẽ rít một hơi thuốc, ém khói, nhìn xa xăm ra ngoài trời mưa. Ông có lối cầm thuốc lá kiểu một người nông dân hút thuốc vấn Cẩm Lệ, với hai ngón tay trỏ và tay cái nắm lấy đầu lọc, tàn lửa xoay về phía lòng bàn tay. điếu thuốc ngậm hơi trề xuống môi dưới. Ông khách gợi chuyện, giọng Mỹ rời rạc:

- Anh chờ xe buýt? Chuyến xe 31 dừng chỗ nầy phải không?
Cái âm hưởng khá quen thuộc, đầy dấu nhấn của một người Việt Nam mới đến. Văn trả lời ngập ngừng bằng tiếng Việt. Không hẳn là câu trả lời mà là một câu hỏi:

- Thầy...Thưa thầy...Phò?
- Tôi là Phò đây, xin lỗi anh là ai mà biết tên tôi?
Ngạc nhiên, thầy Phò quay lại. Tròng mắt ông giựt nhanh hơn trước. Vành mi dưới nhăn nheo thêm, cặp lông mày nhướng cao hơn làm đôi mắt như tròn hẳn lại. Điếu thuốc trên môi trề hẳn xuống như gần rớt khỏi cái miệng nhỏ nhỏ nhắn. Đôi vai gù chùn xuống thêm chút đỉnh.

- Con là Văn đây thầy. Thầy dạy con ở trường La San đó thầy.
Văn nhắc tên trường cho thầy nhớ, vì ngày xưa thầy dạy nhiều trường, bán cháo phổi kiếm cơn, như thầy thương nói.

-Văn? Trần Hưng Văn? Lớp bảy phải không?
- Phải thầy.
Văn. Trần Hưng Văn. Lớp bảy. Năm mười ba tuổi, gia đình Văn chạy giặc mùa hè đỏ lửa, từ Đà Nẳng vào Sài Gòn. Năm mười ba tuổi...Ba mẹ biết con mình du côn, nên đã bỏ Văn vào trường dòng La San cho các sư huynh trị. Ôi năm mười ba tuổi, Văn thù mấy ông phe quá. Nhất là frère giám thị Léon, rồi frère giám học Bienvenu. Có lần đi học để tóc dài, Frère Léon dùng tông đơ cạo sạch đầu. Lần khác mặc quần ống voi, Frère Bienvenu cắt cụt ống quần, đuổi ra khỏi trường. Mấy frère cũng chán ngán Văn không ít, cái tên Trần Hưng Văn được đổi thành Trần Hung Hăn mới sau hai tháng học.Văn thù đi học, thích chuồn ra ngoài ăn phở Hiền Vương, ngồi hút thuốc, rồi vù qua Đa Kao coi phim Lý Tiểu Long.

- Anh làm gì ở đây?
- Con qua đây làm nghiên cứu về bịnh ung thư thầy ạ.
- À ra thế. Thầy mừng cho anh. Thầy biết là Văn làm được.
- Còn thầy?
- Thầy mới qua diện H.O. Khi giải phóng vào thầy đi cải tạo vì là giáo sư biệt phái...Hai mươi mấy năm rồi...Văn lớn quá thầy nhìn không ra nữa.

Anh cũng muốn nói là, thầy thay đổi quá nhiều. Nhiều đến nỗi Văn không còn nhận ra thầy nữa. Nhưng sợ thầy buồn. Ngày ấy, thầy rất bảnh trai. Da dẻ trắng trẻo thư sinh. Mái tóc không hói, đen lánh, chải mượt. Văn thường nghịch ngợm đùa, con ruồi trợt patin gãy cẳng. Cũng vành môi mỏng lúc nào cũng muốn cười ấy. Đôi mắt ấy ngày xưa trong sáng, tinh nghịch hơn bây giờ nhiều. Thầy hay diễu cợt, làm nghề bán cháo phổi không khá, vì phổi thầy là phổi Phò, không phải là phổi Fe. Fe là ký hiệu hoá học của chất sắt, ý thầy muốn nói phổi thầy không phải là phổi sắt. Có đứa nghịch nhái lại, phổi bò chứ không phải phổi frère. Thầy dạy toán Đại Số năm lớp bảy. Văn còn nhớ, một hôm phát bài kiểm, thầy nói trước lớp là thầy rất ngạc nhiên về một tài năng mới. TròVăn. Trần Hưng Văn. Văn du đãng. Văn văng tục. Văn được 17 trên 20. Thầy khen Văn giỏi và bão Văn lên bảng giảng lại bài toán cho cả lớp. Bàng hoàng Văn sợ không dám nắm lấy cục phấn trắng thầy chìa cho Văn, cũng như lúc thầy mời Văn điếu thuốc lúc nãy.
 
Bát canh nước trong rau biếc

Phan Hướng Lê (Trung Quốc)

Anh mở cửa rồi nhìn sang phòng khách, không thấy chị ở đó. Anh mỉm cười, đi vào bếp, quả nhiên chị đang đảo cơm trong nồi. Anh ngửi thấy mùi cơm thơm, rất thơm. Điều lạ là ở nơi khác, hầu như anh chưa ngửi thấy mùi cơm thơm như thế bao giờ.

Anh rửa tay, ngồi vào bàn ăn. Chị bưng lên hai đĩa nhỏ có hoa xanh, một đĩa đựng mười mấy con ốc hạt mít, một đĩa đựng rau non mỡ, trong trong. Cuối cùng chị bưng lên một âu sành nhỏ, đây mới chính là món anh mong chờ nhất. Lập tức anh mở nắp âu ra xem, trong đó có trắng có xanh, có đỏ, trông thật vui mắt.

Anh tự múc trong âu ra nửa bát canh. Nước canh trong, không có váng mỡ, xanh là rau cải, trắng là đậu phụ, lại còn dăm ba hạt câu kỷ đỏ. Mùi vị canh tuyệt hảo, bảo chay tịnh thì lại rất đậm đà, bảo đậm đà thì lại rất thanh đạm, bảo thanh đạm thì lại rất ngọt ngào. Bát canh chẳng khác gì có đoá phù dung nổi trên mặt nước trong, đầy vẻ thiên nhiên. Chỉ húp một ngụm thôi đã thấy các giác quan bị tê liệt cả một ngày bỗng dưng thức tỉnh, vẻ mặt anh cũng biến đổi theo. Dường như vỏ bọc mỏng trên mặt đã bị vỡ tan, tất cả các thớ thịt, tất cả các nếp nhăn đều duỗi ra... thật là một món canh ngon tuyệt! Nó khác hẳn các bữa tiệc anh phải thù tiếp - tiệc công việc. Loại tiệc như thế không bao giờ có cơm. Lúc nào cũng quá nhiều chất béo, quá nhiều vị nồng cay làm cháy cả cổ, lưỡi hầu như tê dại.

Anh húp liền hai bát canh rồi mới ăn cơm, cứ một con ốc hạt mít lại một gắp rau, một đằng béo, một đằng giòn, đều là những món trôi cơm. Bát cơm hết veo lúc nào cũng chẳng hay, nhưng anh không xới thêm mà chỉ nhấm nháp một lưng canh nữa, sau đó anh đặt bát xuống, mỉm cười với chị:

- Em nấu sao được món canh này? Ai cũng bảo tiệm ông Vương Già có món canh ngon, nhưng theo anh thì canh ở tiệm ấy cũng không ngon bằng canh nhà nấu.

- Nói ra thì... Kỳ thực rất đơn giản, nhưng phải có lòng kiên trì.

Sau này nhiều lần anh thấy luyến tiếc cuộc sống lúc đó. Cuộc sống thật yên bình. Cảm giác thật tuyệt khi ngồi vào bàn ăn đợi vợ bưng chiếc âu sành lên, màu sắc đẹp mắt khi mở nắp âu ra.

Anh đã kết hôn mười bảy mười tám năm rồi. Vợ anh là bạn thời học đại học, là mối tình đầu. Ra trường hai năm, họ làm lễ cưới và chẳng bao lâu đã có con. Thằng bé chẳng những học vào loại ưu mà còn rất xinh trai, bởi vì chị là hoa khôi của trường, chẳng cần trang điểm cũng đáng yêu. Vì thế nên anh không dễ bị sắc đẹp đàn bà làm kinh động. Vả chăng anh cũng biết sắc đẹp của phụ nữ bây giờ phần lớn nhờ vào mỹ phẩm.

Nhưng sự xuất hiện của Đô Đô là một việc hoàn toàn bất ngờ. Lúc đầu anh thấy đó chỉ là cô bé còn chưa trút bỏ được vẻ ấu trĩ, như một bình hoa thuỷ tinh, đẹp và trong suốt, chỉ để ngắm chứ không dùng được bao lâu. Tới khi nhận ra ý đồ của cô bé, anh còn cảm thấy buồn cười. Nếu không phải là nhân viên của anh, cô bé đáng gọi anh bằng chú. Đương nhiên anh cũng thầm lấy làm thích thú. Cô bé chẳng những xinh đẹp mà gia đình cũng không xoàng. Cha là luật sư nổi danh, mẹ là bác sĩ nổi tiếng, gia đình vốn định cho cô sang Đại học Cambridge du học. Một cô bé như thế mà gần gũi đàn ông thì...

Lúc đầu anh thật sự không hề để ý vì cho rằng Đô Đô chỉ bốc đồng nhất thời, hơn nữa anh không thể phá hoại gia đình của mình. Nhiều năm nay, vợ anh xin nghỉ công việc dạy học ở một trường trung học mà chị đang làm rất tốt, chuyên tâm ở nhà giúp chồng, dạy con. Một phụ nữ ngoài bốn chục tuổi, không có sự nghiệp, cũng không có bạn bè, chị sẽ sống sao đây? Huống hồ rất nhiều đàn ông bây giờ sau khi thành đạt đều tìm thú vui mới, bỏ mặc người vợ kết tóc xe tơ. Anh không muốn mình cũng là hạng đàn ông tầm thường. Nhưng con gái thời nay chỉ thích làm theo ý mình. Các cô muốn gì là vừa khóc vừa gào đòi chết. Bình hoa thuỷ tinh Đô Đô vì yêu anh vô vọng nên đặt mình trên vách đá thẳng đứng. Cuối cùng anh đành phải giơ tay đỡ lấy cô ta.

Anh không về nhà ăn cơm nữa. Sau đó cả đến tối cũng không về. Anh bảo anh quá bận, sau đó lại nói anh muốn ở một mình cho yên tĩnh. Chị im lặng hồi lâu. Cuối cùng chị bảo:

- Thôi thế này vậy, khi nào anh muốn về thì gọi điện.

Anh không thích thuê nhà, bảo phải mua một căn hộ trang bị đầy đủ, đồng bộ, từ đồ đạc đến đồ điện. Đô Đô lại không thích, cô bảo kiểu nhà như thế không có phong cách. Cuối cùng cô đưa anh về ở nhà cô. Đô Đô một mình ở căn hộ hai phòng ở, một phòng khách do cha mẹ mua cho. Cô tự trang trí lấy, một phong cách gọn nhẹ, hiện đại nhưng lại là kiểu còn tốn tiền hơn cả bài trí hoa lệ.

Tình yêu mới, nhà ở mới, không khí mới, điên cuồng mới, cả anh cũng thấy mình như đổi mới. Mấy tháng trời qua đi như có cánh bay. Cũng có lúc cả hai thấy đói. Anh là nhân vật của một nửa công chúng, không thể đi ăn hàng ngày ở tiệm, Đô Đô đành phải gọi các tiệm mang đồ ăn tới nhà. Món ăn đưa đến không có canh, họ có lúc uống thay bằng trà Ô Long đóng hộp và thường xuyên hơn là uống Côca Côla.

Dần dần bữa ăn trở thành công việc khổ sai, bởi các món đưa đến trở nên khó nuốt, hơn nữa anh còn phải che giấu, bởi chỉ cần anh tỏ ra không vừa ý là Đô Đô nói ngay: "Em biết anh lại nhớ cuộc sống trước kia rồi chứ gì? Anh thấy hối thì cứ nói toẹt ra đi!".

Chẳng ngờ một hôm, vừa vào qua cửa, anh đã nhìn thấy khuôn mặt ửng hồng vì hưng phấn của Đô Đô. Đô Đô kéo anh vào bếp. Trong bếp là cảnh một siêu thị thu nhỏ sau cơn động đất. Mọi thứ đều rối loạn, cả đến mái tóc của Đô Đô cũng dính một thứ gì đó vàng vàng như mỡ. Tất bật một lúc lâu rồi Đô Đô cũng làm xong. Anh làm ra vẻ không do dự xúc món xúc xích Viên sốt cà chua thêm mười mấy thứ gia vị khác nữa. Ăn xong, anh nói: "Từ nay không cần phải nhiêu khê đến thế. Người giỏi làm cơm thì cho dù chỉ có canh nước trong cải biếc, ăn vào đã thấy sướng!".

Dứt lời, anh lập tức nhận ra mình đã nói một câu không nên nói.

* * *

Khi tiếng chuông cửa vang lên, trong một giây, chị tưởng anh trở về, nhưng chị hiểu ngay là không phải. Chị mở cửa, một cô gái trẻ đứng ngay trước mặt chị, da trắng nõn nà. Chị thầm hỏi bằng ánh mắt, cô bé nói: "Em là Đô Đô, bạn của chồng chị!".

Chị hiểu ra ngay. Đô Đô muốn tìm một tình cảm nào đó biểu hiện trên nét mặt chị nhưng không hề có. Cô ấy đi vào đề:

- Hôm nay em đến đây, một là muốn thấy chị là người như thế nào, hai là muốn được chị cho ăn cơm chị nấu. Anh thường khen chị nấu món đơn giản nhất cũng thành được món ngon nhất nên em tò mò.

Chị dường như cảm thấy khó nghĩ, lát sau mới nói:

- Thế thì cô ăn tạm bữa cơm xoàng vậy.

Chị dọn ra một bát cơm, hai đĩa thức ăn nhỏ và một cái âu sành. Đô Đô mở âu sành, múc một bát canh, húp một ngụm rồi chẳng cần suy nghĩ đã reo "Oa!". Cô ngờ vực nhìn chị:

- Đây chính là món canh nước trong rau biếc hay sao?

- Anh ấy gọi như thế! - Chị đáp.

- Chị có thể cho em biết canh này nấu như thế nào không?

Chị dường như khẽ trút một tiếng thở dài, sau đó mới nói:

- Phải chuẩn bị nhiều thứ đấy. Sườn ngon, giămbông Kim Hoa, gà cỏ Tô Bắc, tôm tươi Thái Hồ, măng núi Mạc Can, sò tươi, nấm hương, đến mùa cua thì mua cua hồ Dương Trừng, chặt làm đôi, cho tất cả vào âu đun nhỏ lửa chừng ba bốn giờ. Nước một lần phải đổ cho đủ, không cho muối, bột nêm. Hầm xong, vớt tất cả bã ra, cả những vụn bã nhỏ cho nước thật trong. Lúc gần ăn mới thả đậu phụ, rau cải, những thứ này có thể hút hết váng mỡ.

Đô Đô hít vào một hơi dài. Đây chính là món canh được gọi là "nước trong rau biếc" sao? Lòng dạ người phụ nữ này mới sâu lắng làm sao! Còn người đàn ông kia nói mà chẳng hiểu gì hết. Hàng ngày được hưởng thụ món ngon như thế mà anh lại cho rằng đó là món đơn giản nhất, dễ làm nhất? Chính trong giây phút đó, Đô Đô sâu sắc hiểu ra người phụ nữ ấy. Cô cũng hiểu ra trên thế giới này, giữa tình yêu này và tình yêu kia khác xa nhau biết mấy!

Chị nhìn Đô Đô, cười khoan dung rồi hỏi:

- Cô có thể vì anh ấy mà nấu như vậy không?

Đô Đô ngoẹo đầu, nghiêm túc suy nghĩ rồi đáp:

- Em có thể làm như vậy, nhưng không cần nữa rồi.

Một tháng sau. Chiều muộn, như thường lệ chị ở trong bếp. Chuông cửa bỗng reo vang, chị mở cửa, bất ngờ lại là anh. Chị ngẩn ra, buột miệng hỏi:

- Sao thế? Quên không mang chìa khoá à?

Anh cảm thấy như trút được gánh nặng, xác định mình có thể rửa tay ngồi vào bàn ăn được rồi. Chị bưng lên một khay to. Chứ không mang thành nhiều lần như trước. Trên khay có hai bát cơm, hai đĩa nhỏ thức ăn và một cái âu sành. Đó là thứ anh nhớ nhung nhất. Không chờ được, anh mở nắp âu, múc ra lưng bát canh. Vẫn có xanh, đỏ, trắng, vẫn là màu nước trong vắt, không có váng mỡ. Anh hấp tấp hút một ngụm, chỉ một ngụm ấy là đã biến sắc mặt.

- Canh gì thế này? - Anh không dám nhổ ra.

Chị nếm một ngụm rồi nói:

- Nước trong rau biếc thì chỉ có thế này thôi.

Anh đặt thìa xuống xét nét nhìn chị. Chị không nhìn anh, thản nhiên ăn cơm. Anh không ăn, châm một điếu thuốc. Chị không hề nhìn anh lấy một cái. Ăn xong miếng cuối cùng, chị thu hết bát đĩa vào khay, sau đó mới nhìn thẳng vào anh nói:

- Nhà ta sau này có thể phải thuê một người giúp việc theo giờ. Em tìm được việc rồi mà việc nhà lại nhiều như vậy.

- Em đi làm? Làm gì? - Anh kinh ngạc hỏi.

- Anh quên rồi à? Em vốn là một cô giáo.

Ngụm canh khó nuốt vừa nãy dường như cuộn lên trong ruột, anh buột miệng hỏi:

- Việc lớn như thế sao không bàn với tôi? Em bây giờ sao thế? - Vừa hỏi xong, anh đã thấy hối. Người đuối lý là anh.

Nhưng chị không nói gì thêm, chỉ nhìn anh một cái. Cái nhìn ấy khiến anh bắt đầu nhận ra mình thật ngu xuẩn.
(sưu tầm)
 
Một ngày kia, tôi cùng người bạn là ông Kính Trai đi chuyến tàu Phi Long (#1) từ Hà Nội về, đến bến Tân Đệ, đồng hồ vừa đúng 11 giờ, anh em dắt tay lên bến tìm chỗ trú chân. Chợt thấy ở trong hàng chạy ra một người, bả lả chào mời, chúng tôi bỡ ngỡ chưa biết là ai, hỏi ra mới biết là vợ Ông Vân Nham là cựu quán chủ nhân của chúng tôi đó. Một hai khi chúng tôi đi lại, thường vào nhà nghỉ ngơi, nên hôm ấy bà ta nghe tiếng ra mời. Anh em vào quán nghỉ chân, quán trọ làm quay mặt ra sông, rộng rãi và mát mẻ lắm, ngồi trước cửa sổ trông ra ngoài sông, mấy chồi dương liễu xanh um, làn sóng mông mênh in những bóng trăng lóng lánh, hình như trăm nghìn con kim xà (#2) ngoi trên mặt nước, trông thật là ngoạn mục. Bấy giờ tuy đêm đã khuya rồi, nhưng mà đối cảnh sinh tình, muốn ngủ nhưng không sao nhắm mắt đặng, liền bảo pha chè uống; chung quanh lặng ngắt như tờ, chỉ nghe những tiếng sóng vỗ ỳ ùm cùng tiếng lá kêu lắc tắc, nỗi cố hương như chan chứa bên lòng, hai anh em ngồi lặng ngắt nhìn nhau, mỗi người cùng có một cái tâm sự riêng, không gì buồn cho bằng hai người cùng một tâm sự mà ngồi đối nhau trong một cái cảnh lữ khách đêm thanh, bút nào mà tả ra cho hết.

Đang lúc ấy, bỗng nghe có tiếng trống hát xa xa, tôi cùng ông Kính Trai đều có hứng đi hát, bèn gọi chủ quán ra hỏi:

- Gần đây nghe văng vẳng có tiếng trống chầu, hẳn là có nơi vũ quán ca trường chi đó? Nhờ chủ nhân ông dẫn duyến (#3) cho gọi là khiển hứng trong lúc khách huống vô liêu.

Chủ nhân vừa nghe đoạn, lắc đầu quầy quậy mà bảo chúng tôi rằng:

- Dám thưa hai vị tiên sinh, chẳng hay các ngài còn lạ chi những phường liễu ngõ hoa tường, đem màu son phấn đánh lừa con đen, rồi mai hương phai phấn lạt, thì lầu xanh lại bỏ ra phường lầu xanh, thôi những con người ấy thì tiên sinh còn cầu làm chi.

Tôi hỏi:

- Chẳng hay chủ nhân ông có thù gì với bạn hồng lâu, mà đem lòng quá khắc như vậy?

Chủ nhân:

- Thưa tiên sinh, nào có phải tôi ghét gì nghề đi hát đâu, chính tôi đây là người tốt nghiệp ở khoa đi hát mà nhà tôi đây (vợ chủ nhân) cũng là một vị hoa khôi ở trong đám rừng hoa bể phấn ngày xưa. Tôi xin hiến tiên sinh câu chuyện sau này chính là cái hoa nguyệt sử (#4) của chúng tôi trong lúc thanh niên, xin tiên sinh chớ cười.

Nói đoạn gọi vợ đưa ra một hồ rượu cùng các thức ăn, bấy giờ chúng tôi cùng chủ nhân cùng uống rượu.

Bà chủ tôi, tuy người đã nửa mạc (#5), mà cách điệu hãy còn phong nhã, ăn nói hãy còn dịu dàng lắm, trông người rất có thi vị, chắc rằng cái nghề quyến anh rủ yến bà cũng đã vào bậc côi tột trong đám hồng lâu vậy.

Chủ nhân thiên tính rất phóng đạt, rót rượu mời khách rồi cất cốc mà nói rằng:

- Tiên sinh nghe câu chuyện của tôi nhân sau này, chắc có lẽ hãy còn đầm thấm gấp trăm gấp nghìn câu hát nhảm ngâm nga vô vị của các ả hồng lâu.

Tôi nguyên là con nhà gia thế, cũng mạch thư hương, ngày còn bé học hành thông sớm lắm, ông thân tôi tuy bấy giờ chẳng lấy gì làm giàu, song kể cũng vào bậc trung phú. Năm tôi 16 tuổi, cho ra học ở tỉnh, tôi cũng nhờ có giáo dục gia đình, cho nên tính nết thuần cẩn, ai cũng khen là người học trò chín chắn, chỉ ngày đêm làm bạn với ngọn đèn quyển sách, những nơi hoa nguyệt chưa hề để gót đến bao giờ. Cách hai năm nữa, tôi vừa 18 tuổi, khoa thi hương tới nơi.

Ba thu gặp hội mây rồng; Nam nhi trắng nợ tang bồng là đây. Cũng tưởng rằng bằng bay côn nhảy, rộng bước đường mây, chắc nay mai rạng vẻ đèn trời cũng nhấp nhổm ông cống, ông đồ chi đó; ai ngờ đâu học tài thi phận, bản người thì bốn tên mình có ba, thế mới thực là chán! Ôi! Công đăng hoa? (#6) mười năm.

Bấy giờ tôi nghĩ chán quá, cái thói cảm khái của nhà nho như thế là thường, cảm sinh sầu, sầu sinh đãng. Thôi, học chẳng học thì chớ, đỗ chẳng đỗ thì đừng, ngày xuân thấm thoắt, chơi bao nhiêu là lãi bấy nhiêu, tội gì đem cái phù vân phú quý bận lòng làm chi, cứ ngày ngày năm ba anh em, tìm thú vui tửu địa ca trường không chỗ nào là không có cái gót chân phong lưu công tử. Ai ngờ đâu con nhà nề nếp, nhất đán bị cái ma hoa nguyệt nó dun dủi đến thế! Ông thân tôi tính nết rất là nghiêm ngặt, nhiều phen đánh mắng tàn tệ, cấm cửa không cho về nhà, song bấy giờ tôi đã biết nghĩ gì đâu, chỉ ham mê những sự chơi bời; thánh nhân đã dậy: "Nhân dục thắng, thiên lý vong" (#7), cái nhân cách của tôi bấy giờ so với mấy năm trước thành ra khác hẳn.

Bấy giờ ở tỉnh Nam Định có một cô đầu tên gọi đầu Phương, danh giá nhất tỉnh Nam, thực là Nổi danh tài sắc một thì; Xôn xao ngoài cửa thiếu gì yến oanh, tôi nhất định lần mò đến chơi cho được, cái phường ma đói thấy hơi hương chỗ nào là tìm đến được ngay, ấy các cậu thiếu niên công tử đối với cái mối nguyệt hoa, tình cảnh như vậy.

Tôi bắt đầu vào chơi trong viện, thì được lòng bà mỹ nhân yêu mến ngay. Chao ôi! Tiền thì ai bà ấy chả yêu, yêu đâu, yêu lạ lùng, yêu đến nỗi cùng giường cùng chiếu cùng bát cùng mâm, cho đến nỗi trong túi tôi có đồng xu nhỏ nào, bà ấy cũng yêu đương kỳ cho tiệt sạch.

Nguyệt hoa hoa nguyệt não nùng,

Đêm xuân ai dễ cầm lòng được chăng.

Lạ chi thanh khí lẽ hằng,

Một dây một buộc ai giằng cho ra.

Khi rượu sớm, lúc chè trưa, mệt mê trong cuộc truy hoan, nhiều phen thề thốt nặng lời, nàng chỉ quyết cùng tôi một lòng vàng đá.

Yêu nhau quá đỗi nên mê, mình thì trẻ người non dạ, thực bụng tin người, nó coi mình như con nít, nó bảo thế nào mình cũng phải nghe, không hề dám ngang trái. Than ôi! ái tình là một vị thần rất anh linh.

Sớm đào tối mận luẩn quẩn đi về, cùng nàng dan díu, hơn một năm trời. Các ngài tưởng giá có rừng tiền bể bạc rồi cũng phải hết, huống chi nhà tôi của cải có là bao, mà ông thân tôi thì nhất diện không cho nhìn mặt, thì còn có tài gì làm cho nẩy tiền mà đút vào cái hang không đáy cho đầy được.

Nay họ xin cái này, mai họ xin cái khác, đeo cái huy hiệu công tử mà đến nỗi không có tí gì để tặng cho tình nhân, thì đi lại lắm nó cũng mặt dạn mày dày. Sự này biết tính thế nào, đành phải tìm một chỗ mà "dậy hoá", nhưng làm gì có vốn bây giờ, đi vay nợ chăng? Thôi thì một vốn bốn lãi, cũng nhắm mắt vay liều, nợ đời trả trả vay vay.

Bấy giờ đã có tiền rồi, họp nhau năm bảy anh em, chè chè rượu rượu, rủ nhau đi hót của phù vân; ngờ đâu thói đời giáo giở, họ thấy mình non mặt, chưa sõi nghề chơi trăm tên nhằm một đụn, thành ra mình chỉ thua đầu thua đuôi hết cả!

Tiền lưng đã hết, nhân ngãi cũng "phú-la-căng"(#8) tình cảnh cô Phương đối với tôi bấy giờ cũng thấy mỗi ngày một lạt. Một hôm nàng bảo tôi rằng:

- Chàng ơi! Thực vị chàng mà thiếp phải thiếu thốn trăm đường, chàng phải biết cho lòng thiếp ở với tri âm như thế là chí tình vậy, nhưng chàng phải làm thế nào mới được chứ riêng phần thiếp thì...

Tôi hỏi:

- Về phần nàng thì sao?

- Về phần thiếp thì thiếp chỉ một lòng yêu mến chàng...

Đó là một câu nàng nói chữa, chứ thực thì tôi đã biết đến ruột rồi. Bấy giờ tôi không biết nói thế nào, chỉ thở ngắn than dài rồi kết cục lại một câu:

- Lo gì sự ấy, một canh bạc phát tài dăm bảy trăm thì tiêu chán chứ gì, đã yêu nhau thì quản gì sự túng bấn nhất thì ấy.

Mình thực là không trải việc đời quá, mới vỡ lòng học cái nghề chơi mà đã toan tấp tểnh đi đánh bạc để làm giàu thì xuẩn quá! Chơi xái mà không tiền còn mong cho người ta yêu sao được, người ta chỉ yêu vì tiền, ngoại giả còn yêu cái gì nữa? Từ đấy trở đi, cứ thấy lạt dần, một khi lại chơi thấy bà chủ viện bảo tôi rằng:

- Thưa công tử, xin công tử biết cho rằng nhà tôi là nhà bán hàng, chỉ người nào có tiền mới được cái quyền lợi ở trong nhà hàng mà thôi, nếu công tử không mua bán gì, xin đừng đi lại thêm phiền.

Gớm! Mình nghĩ mới bực làm sao, khi mình có tiền trăm bạc nghìn vào chơi, giá bà ấy cũng bảo như thế thì thực phúc bảy mươi đời, cho đến bây giờ rận khô (#9) chẳng còn, giở ngay cái mặt con đĩ già ra được. Nhưng cũng không lẽ nói thế nào được, đành phải nuốt cay ngậm đắng mà ra. Thôi, từ bấy giờ không còn bén mảng đến phố bình khang nữa. Thế mới thực mất tiền mà dại, về nhà không mặt nào trông thấy nghiêm phụ, ra ngoài không mặt nào trông thấy anh em, ngồi nghĩ cách sinh nhai thực là dở dang quá, tôi tính ngay một kế là tìm chỗ ngồi tư lương dạy trẻ (#10), nương náu đợi thì, nhưng mà chẳng ma nào nó nuôi, đi quanh đi quẩn, lên đến Hà Nội, tư tết (#11) đến nơi, định viết thuê. Muốn cho đắt hàng thì chỉ vào những chỗ phấn trang lâu, hoa. chăng cái chữ nghĩa của ông hàn nho mới có giá trị. Một hôm tôi hỏi thăm vào nhà một cô đào kia là người danh giá nhất Hà thành, tên gọi là ái Kiều (ấy chính là nhà tôi bây giờ), mình vào đấy bấy giờ không phải là ông du khách tôn nghiêm như ngày xưa nữa. Quần nâu áo vải ra hình hàn nho, cả tụi thanh lâu trông thấy mình đều khúc khích cười thầm. Tôi thẹn quá, nhưng cũng phải đánh bạo mà thưa rằng:

- Các cô lọ là còn phải cười cợt nhau chi, tôi đây cũng là người trong tụi yên hoa, đã trải cảnh tàn hoa bại liễu, cười người đã nhiều mà khóc người cũng đã lắm, áo xanh quần thắm, một phường thiên nhai; thưa cô, cô cũng như tôi, chẳng thương thì chớ nỡ cười nhau ru!

May sao ái Kiều cũng là người phong nhã, thấy tôi nói vậy, liền rủ lòng thương, mời ngồi nói chuyện, rồi nhờ viết mấy cái câu đối. Tôi còn nhớ mấy câu đối như sau này:



1. Khúc hát Tầm Dương gặp gỡ chan người bốn biển;

- Cung đàn Thúy Dịch, đi về dan díu nợ ba xuân.

2. Trời đất cũng đa tình, xui bác xuân công, cứ phố yên hoa đi lại mãi;

- Phấn son càng tủi phận, hỏi ông nguyệt lão cùng phường khăn yếm ghét ghen chi.

3. Xuân cũng chiều người, sân lý mưa lồng man mát bóng;

- Hoa còn đợi khách, cành lê trắng điểm một vài bông.

4. Xuân đến nhắn cùng hoa cỏ biết;

- Tình riêng giãi với gió trăng thâu.

5. Duyên nợ những sao đây, một giấc hãy còn vơ vẩn bướm;

- Hẹn hò ai đó tá, ba xuân chớ để phụ phàng hoa.
 
Đã tự nhủ trong lòng. Hôm nay phải tập trung tư tưởng để làm một mẻ bánh mì baguette cho thật ngon để thết đãi quan khách của hãng ra thăm giàn khoan, như người đầu bếp căn dặn. Thế mà, Vịnh đã quên, không cho muối vào bột. Bánh mì không nêm muối, giống như ăn bánh bèo mà không có nước mắm vậy. Ăn vào, giống như ăn một tờ giấy trắng, chẳng có hương vị gì. Làm bánh mì baguette cần rất nhiều thời gian để ủ bột, nên Vịnh không thể làm lại mẻ khác. Thôi đành lờ đi như không có chuyện gì xảy ra. Cầu mong cho quan khách dễ tính, đừng có than phiền, kẻo lại bị khiển trách, có khi mất việc.

Ngày mai là mùng một Tết. Đêm nay là đêm Giao Thừa rồi, hỏi làm sao Vịnh có thể an tâm làm việc, trong khi Bích Phương, vợ của chàng, và Mỵ Nương, con gái cưng của chàng, đang mong mỏi, nhớ nhung chàng ở một chân trời xa lắc.

Vịnh vượt thoát sang Mỹ một mình, do một sự tình cờ: Nhờ việc chàng đã liều mạng bước đại lên ghe, khi đưa tiễn một người bạn vượt biên. Bởi vậy, chàng đã không kịp từ giã vợ con. Điều này làm chàng ân hận mãi, và cũng vì lý do đó, vợ chàng nghi ngờ chàng khôn nguôi. Cho đến nay, mặc dù đã sáu năm trôi qua, tốn biết bao nhiêu lời giải thích, nàng vẫn còn nghi ngờ lòng chung thuỷ của chàng qua những bức thư đầy nước mắt. Không nghi ngờ làm sao được, khi Vịnh có tật hay khen các cô gái khác trước mặt vợ mình. Thực ra, chàng chỉ có ý làm như thế để trêu vợ thôi, nhưng Bích Phương thì lại nghĩ khác, vì nàng thường ví chồng như một con dê đực được thả về rừng.

Vịnh đến Mỹ năm 1981. Về thành phố Corpus Christy thuộc tiểu bang Texas nhằm lúc kinh tế Mỹ xuống dốc, nên rất khó kiếm việc làm. Chàng phải đi theo giúp việc trên một tầu đánh tôm. Rong ruổi trên Vịnh Mễ Tây Cơ có khi hàng tháng không vào tới đất liền. Điều kiện làm việc trên tầu rất cực khổ. Đêm làm, ngày ngủ, kèm theo sóng gió bão bùng. Dù còn trai trẻ ở tuổi ba mươi, Vịnh cũng chịu không thấu. Sau vài chuyến ra khơi. " Chí tuy còn mong tiến bước, nhưng sức không kham nổi đoạn đường ". Chàng đã bỏ việc, để xin làm phụ bếp trên một giàn khoan dầu, mà chàng vẫn còn làm cho đến nay.

Làm việc trên các giàn khoan dầu, dọc theo vịnh Mễ Tây Cơ, người ta thường quen miệng gọi là" làm offshore ". Điều kiện làm việc ở đây hơi khác thường, so với các công việc khác trên đất liền: Vì đi lại khó khăn,( phải mất từ hai đến bốn tiếng đồng hồ tàu thủy để ra tới nơi làm việc) nên nhân viên phải ăn, ở luôn trên các phòng ốc được xây dựng trên giàn khoan. Nhân viên offshore phải làm việc liên tục hai tuần ở ngoài khơi, rồi được đưa về đất liền nghỉ ngơi một tuần lễ, trước khi bắt đầu hai tuần kế tiếp. Mỗi ngày được trả lương cho mười hai giờ làm việc, dù rằng, chỉ phải làm việc khoảng tám tiếng. Công việc này thích hợp với những người sống độc thân. Bao gồm những kẻ bỏ vợ, hoặc bị vợ bỏ hay những kẻ lâm vào tình trạng độc thân bất đắc dĩ như trường hợp của Vịnh. Dĩ nhiên, cũng có những người đang ở trong tình trạng " không độc thân "xin vào làm. Nhưng thường, thì họ làm không bền, chỉ vài tháng là thấy biến mất. Hoặc có kẻ nào đó, thấy làm được lâu lâu một chút, hỏi ra, thì chàng mới bị vợ bỏ mất rồi... Biết đi đâu bây chừ, thôi thì đành chọn nơi này làm quê hương.

Vịnh dọn dẹp xong chỗ làm thì trời cũng gần tối. Theo thói quen, mỗi khi nhìn thấy trời im gió, là Vịnh vác cần câu ra một chỗ khuất để câu cá. Chàng chọn môn thể thao nhẹ nhàng này vừa để giết thì giờ, vừa có quà ( Cá ) mang về biếu người bạn, mà chàng thường ở trọ mỗi khi trở về đất liền nghỉ ngơi.

Hôm nay, Vịnh cũng thả câu, nhưng mắt chàng không nhìn theo mồi, mà lại nhìn xa xăm vào chân trời xanh thẳm. Nơi đó, có vợ chàng, có con chàng, có ba mẹ, anh em và bạn bè của chàng. Chàng tự nghĩ, không biết bây giờ họ đang làm gì... Có còn nhớ đến chàng không...

Đang lơ mơ như thế. Bỗng có ai đập nhẹ vào vai. Chàng giật mình quay lại. Trước mặt chàng là một gã đàn ông tuổi trung niên, mặc bộ đồ kaki, tóc đen, đầu hơi hói, tay đang cầm sợi dây, treo tòong teng một cái bánh chưng lớn. Thấy chàng quay lại, ông ta nhếch mép cười, lên tiếng:

- Xin lỗi đã làm anh giật mình. Tôi là Nghi, tôi mới đến đây sáng naỵ Nhìn thấy tên của anh trên bảng danh sách nhân viên, biết có anh là người Việt duy nhất làm ở đây, tôi mừng lắm. Rất hân hạnh được làm quen với anh.

Vịnh bắt tay ông ta và mời ông ngồi xuống cái thùng gỗ kế bên. Nhìn rõ mặt ông Nghi, thấy ông cũng không già lắm, chắc khoảng độ bốn mươi hay ít hơn, nên Vịnh xưng tôi và gọi ông bằng anh cho thân mật:

- Sáng nay, tôi có nhìn thấy anh trong đám nhân viên mới đến, nhưng cứ ngỡ anh là người Tầu, nên tôi không để ý lắm. Nay biết anh là người Việt, tôi rất mừng. Tôi là Vịnh, rất hân hạnh được gặp anh.

ông Nghi đặt cái bánh chưng lên một cái thùng gỗ khác ở trước mặt hai người và nói:

- Hôm qua, tôi có ghé thăm một người bạn, họ biếu tôi chiếc bánh chưng này, gọi là làm quà tiễn chân. Họ nói tôi đem theo chiếc bánh này để ăn Tết cho khỏi nhớ nhà. Nhưng tôi lại cảm thấy ngược lại... Vì cái bánh chưng này, mà tôi thấy nhớ nhà hơn... Tôi định sẽ không đụng đến nó, nhưng may mắn được gặp anh ở đây, tôi mang ra để cùng ăn Tết với anh cho vui.

Vịnh nhổm người, đứng lên và nói :

- Anh ngồi đây chờ tôi một lát, tôi về cất cần câu và lấy ra một bình trà để anh em mình đón Giao thừa.

Vịnh trở ra, mang theo một bình trà nóng, hai cái tách, một hộp bánh biscuit và dao, muỗng, nĩa để dùng ăn bánh chưng. Vịnh vừa dọn các thứ lên chiếc thùng gỗ, thay làm bàn, vừa nói:

- Có lẽ đây là lần đầu tiên tôi được ăn Tết có bánh chưng trên đất Hoa Kỳ... Năm cái Tết trên đất Mỹ, tôi đều có mặt trên giàn khoan này. Ăn Tết một mình, hay là chẳng ăn gì cả.

ông Nghi cười cười, tiếp lời:

- Tôi được may mắn hơn anh. Tôi sang đây năm bảy mươi lăm. Tôi đã lập gia đình ba năm sau đó, nên tôi được hưởng nhiều cái Tết rất đầm ấm, với đầy đủ các lệ bộ. "Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ... ". Nhưng cho đến cái Tết năm ngoái thì mọi sự đã thay đổi.

Vịnh rót đầy hai ly trà, đồng thời tiện tay bóc cái bánh chưng ra. Vịnh quên đem theo cái đĩa để đựng bánh, nên đành dùng lá thay đĩa. Chàng không muốn trở vào để lấy đĩa, vì sợ làm ngắt quãng câu chuyện của ông Nghi, mà chàng cảm thấy sắp đến hồi gay cấn.

Vịnh cầm tách trà đưa cho ông Nghi, đồng thời lên tiếng hỏi dồn:

- Anh nói gì? Thay đổi? Thay đổi cái gì?

ông Nghi nhắp một chút trà, rồi đặt chiếc ly vào lòng bàn tay trái, như muốn sưởi cho ấm cho bàn taỵ Ông nhắm mắt lại một lúc, rồi mở mắt ra và nói:

- Khi người ta đang sống trong hạnh phúc, nhìn ra chung quanh, thấy cái gì cũng đẹp. Trời đất dù đang là mùa thu lạnh lẽo, hay đang là mùa đông giá buốt cũng không làm cho mình buồn. trái lại, càng làm tăng thêm hạnh phúc nữa là khác... Những thân nhân, bạn hữu xung quanh mình, xem ra, người nào cũng tốt, chẳng bao giờ ta nhìn thấy nét xấu của ho... Tôi đã có lúc được sống trong khung cảnh đó.

Vịnh tiếp lời, một cách thông cảm :

- Tôi rất mong được sống lại trong khung cảnh hạnh phúc đó. Tôi mất nó đã sáu năm rồi.

ông Nghi nhìn Vịnh chăm chú, rồi bằng một giọng chân thành, ông nói :

- Tôi không biết hoàn cảnh của anh bây giờ như thế nào, nhưng tôi rất mong anh có lại được cái hạnh phúc đó.

Vịnh bỗng đau nhói trong lòng. Chàng sực nhớ đến tin đồn là vợ chàng đã thay lòng, đổi dạ. Có người quen mới ở Việt Nam qua, nói bóng gió cho chàng biết: "Bích Phương không còn như trước nữa, nay nhờ tiền của anh gửi về, nàng đã biến thành... người khác". Vịnh không tin lắm, vì ăn ở với nhau khá lâu, chàng biết tính tình của vợ. Nàng chưa bao giờ dám nhắc tên một người đàn ông nào khác trước mặt mình, hơn nữa, lại đã có với nhau một đứa con. Thì còn có gì để có thể nghi ngờ lòng chung thủy của nàng được.

Lắc đầu mấy cái, như để xoá tan những áng mây đen trong đầu, Vịnh nói với ông Nghi :

- Hay là chúng ta ăn một ít bánh chưng đi rồi tiếp tục câu chuyện.

- Cậu cứ ăn đi, tôi không đói, tôi vừa mới ăn lúc nãy. (ông Nghi đổi cách xưng hô, và gọi Vịnh bằng cậu vì ông chợt thấy Vịnh trẻ hơn ông ta nhiều ).

- Tôi cũng vậy, bụng còn no lắm. Hay chúng ta cứ tiếp tục câu chuyện đi. Khi nào đói thì ăn.

ông Nghi trầm ngâm một lát, rồi với giọng trầm trầm, ông kể tiếp :

- Vào mùa đông năm ngoái, tôi có một người bạn tên là Tần. Anh ta về thành phố, nơi tôi đang sống để nhận một việc làm. Anh ta là bạn học của tôi trước kia, khi chúng tôi còn ở Việt Nam. Thấy tình cảnh của anh hơi chật vật, tôi đã mời anh ta về tạm trú tại nhà tôi, để chờ cho công việc ổn định, sẽ tìm nhà sau...

Khi mới đem người bạn về cho ở nhờ. Vợ tôi có vẻ không bằng lòng, nên tôi phải trấn an nàng: "Nhà mình có dư phòng, vả lại, anh ta chỉ ở nhờ độ vài tuần thôi, ổn định công việc, anh ta sẽ thuê nhà khác ngay". Vì nể tôi, vợ tôi đành phải nghe theo.

Lúc đó, tôi rất hăng hái làm việc. Vì thương vợ, thương con, khi nào tôi cũng làm hai job, cốt để có đủ tiền cho vợ con tiêu xài. Vợ Ở nhà chỉ có việc trông con và lo cơm nước cho chồng, không cần phải làm lụng gì cả. Tôi quan niệm một gia đình hạnh phúc phải như thế đó...

Bẵng đi một thời gian dài. Bạn tôi vẫn còn ở trọ nhà tôi như một lẽ đương nhiên. Tôi không thắc mắc, mà vợ tôi cũng không thấy than phiền điều gì. Còn tôi thì cứ túi bụi với công việc, mỗi ngày làm việc mười sáu tiếng đồng hồ. Một ngày dài của tôi chỉ có đi làm, ăn, rồi đi ngủ. ngoài ra tôi không để ý đến điều gì khác...

Cho đến khi người bạn của tôi xin ra ở riêng, thì cũng là lúc tôi nhận ra vợ tôi có mập hơn lúc trước, và bụng nàng cũng lớn ra trông thấy... Nàng đã có mang! Một tin sét đánh ngang tai. Tôi không tin ở mắt mình, tôi không tin ở tai mình, nhưng sự thực vẫn là sự thực.

Vịnh nóng nảy, ngắt ngang câu chuyện:

- Tôi hiểu anh muốn nói gì rồi. Nhưng làm sao anh có thể biết được đứa con đó thuộc về ai. Anh là chồng của bà ta kia mà?

ông Nghi nhắp một ngụm nước trà rồi nói :

- Cậu Vịnh à! Hay chúng ta ăn bánh chưng đi. Ăn xong rồi tôi sẽ cho cậu rõ, nhờ vào đâu, mà tôi biết đứa con đó không phải của tôi.

Vịnh nói, giọng sốt ruột:

- Anh cứ nói đi trong khi tôi cắt bánh.

Vịnh dùng dao cắt chiếc bánh chưng ra thành nhiều miếng nhỏ. Trong khi đó, với một giọng đều đều, ông Nghi nói :

- Có gì đâu mà khó đoán cậu. Tôi với nhà tôi, sau khi sanh đứa con đầu lòng. Tôi thì bận bịu làm hai job. Phần vì quá mệt mỏi, phần vì thương vợ, muốn kiêng một vài năm cho đứa nhỏ lớn lên một chút đặng vợ tôi nuôi con cho đỡ vất vả. Bởi thế chúng tôi đâu có gần nhau. Rồi thình lình thấy bà ấy mập ra. Cậu nghĩ...

Bánh chưng đã cắt xong. Vịnh nói như cái máy:

- Ăn bánh chưng đã, anh.

Miệng nói ăn nhưng tay chàng vẫn không buông nổi con dao cắt bánh. Những ngón tay không chỉ nắm mà là đang bấu chặt cán dao. Vịnh chợt thấy cánh chàng tê cứng. Chàng sực nhớ đến tấm ảnh của vợ, mà chàng vừa mới nhận được. Hình như nàng trông cũng có vẻ... mập ra.
 
Chút nắng cuối ngày của chiều tà như tấm khăn choàng phủ hờ trên đường phố. Đâu đây, dưới gốc phượng già đã có những cánh bướm đỏ sẫm, đó là kết quả của cái hoa vội vàng đơm nụ. Và đó cũng là bức thông điệp đầu tiên cảnh tỉnh cho chúng tôi biết, lại chuẩn bị cho mùa thi đầy khó khăn, nan giải.

Huế chơi vơi giữa hai mùa xuân-hạ. Với tôi, giờ này bức thông điệp đó thức tỉnh tôi bước về một ký ức xa xôi: Cái ngày đầu tiên tôi gặp anh, quen anh, yêu anh để rồi lại phải xa anh mãi mãi.

Cái nắng mùa thi năm ấy sao dịu dàng và có sức níu kéo lòng người đến như vậy. Anh-em, cũng như những sinh viên khác đang cố lượm, nhặt cho mình những con chử để bước vào phòng thị Trong phút giây sao lãng, anh nhặt cánh phượng rơi rỗi đi đến bên tôi: - “ Xoè tay ra đi em!” Tôi ngẩng đầu lên mỉm cười, như thể …, bất chợt ánh mắt tôi chạm vào ánh mắt anh - bối rối, nói khẽ “…học đi em…!”

ánh nắng đang lụi dần theo sự di chuyển của ông mặt trời. Nhưng tôi cảm thấy ngột ngạt đến vô cùng: tôi nhớ anh, nhớ đến cháy lòng, kỷ niệm về anh cứ dội về một một trong tôi.

Sau cánh phượng đặt vào lòng tay tôi chiều hôm ấy là cả một chuỗi ngày dài tràn đầy hạnh phúc. Trong cái nắng rạo rực của mùa hè, mùa thi năm ấy, tôi đi bên anh và bên cạnh cuộc đời như thể không có gì chia cách được chúng tôi. Vậy mà …!

Giờ này ở nơi đó, anh còn nhớ không? Tình yêu đến nhẹ nhàng, dịu êm và nhanh chóng như cánh phượng rơi, để rồi ra đi cũng đúng như thế.

Không một lời hứa hẹn, anh im lặng ra đi để lại sau lưng cả một trời dông bão. Với cánh phượng buồn thiu còn nép mình trong trang sách chiều hôm ấy.


Hết
 
Bước xuống sân bay Santa Ana thuộc tiểu bang California, buổi chiều một ngày tháng chín, trời vẩn còn ấm áp. Từ miền đông bắc thu vàng, đến đây theo một hợp đồn g ngắn hạn vừa ký kết với một công ty điện tử trong vùng, tôi khăn gói bước chân đến miền đấ t hứa, như lời ca tụng của đa số dân chúng sống trên giải đất Bắc Mỹ . Theo chương trình, tôi phải lưu lại nơi đây vài tuần để tham dự chương trình thiết kế và thử nghiệm vài bộ phận điện tử; xử dụng trong ngành truyền tin và viển thông. Trời vào chiều, nhưng nắng vẩn còn cao , tôi theo hành khách tiến về cửa ra của phi trường, đây đó nhân viên an ninh phi trường mặc đồng phục và trang bị vủ khí cá nhân qua lại canh gác. Khung cảnh này gợi lại trong tôi quang cảnh của phi trường Tân Sơn Nhất ngày xưa, nơi cha tôi phục vụ ròng rả đến ngày cuối tháng tự Nhưng nơi đây một vùng đất đầy nhân bản sao nay lại trở thành bất an, rồi mai đây sẽ về đâu ?. Không lẻ vận rủi vẩn theo đuổi, vẩn không buông tha những kẻ lưu vong như chúng tôị Không lẻ chỉ vì chúng tôi đã bị đào thảy ngay trên quê hương mình một lần. Không lẻ chỉ vì cha anh chúng tôi đã hy sinh, họ đã gục ngã để chúng tôi được hít thở an lành , dầu là một yên lành không trọn vẹn. Ðể rồi tuổi trẻ chúng tôi cũng phải chịu hất hủi trên chính quê hương mình bởi những người cùng ngôn ngữ màu dạ Hay không lẻ chỉ vì đã được cha anh mặc quân phục vào hàng ngủ để bảo vệ chúng tôi cùng những ai đã sinh sống phía dưới vĩ tuyến mười bảỵ

Rời phi trường , trên đường về khách sạn, tôi cảm thấy an bình hơn. Tuy vậy trên đài phát thanh đâu đó người xướng ngôn viên thông báo tin tức chính trong ngày, vẩn những cảnh giác về an ninh trước sự đe dọa của những phần tử khủng bố. Bất chợt những cảm giác lo âu hiện về trong tâm trí tôi, những cảm giác này tôi ngở đã hoàn toàn ngủ yên từ khi đặt chân lên giải đất nàỵ Nó đã làm tôi sống lại những ngày tết Mậu Thân. Chúng tôi những đứa trẻ đã ngủ không tròn giấc, lòng vẩn phập phòng nghe ngóng những tiếng nổ vọng về từ xạ Chập chờn trong giấc ngủ, chúng tôi đã phải đối diện những quả đạn rình rập rót vào thành phố một cách vô định giửa đêm khuyạ

Tôi đến trình diện công ty sáng sớm hôm sau, người thư ký đưa tôi đến gặp người trưởng phòng kế hoạch. Chúng tôi trao đổi vài câu chào hỏi thường lệ và tôi được đưa đi quan sát cơ sở và phòng thí nghiệm. Trong một khoảnh khắc đầu óc tôi không tài nào nhớ hết tên các nhân viên của chương trình. Nhưng không sao ! Rồi sẽ biết nhau thôi, tôi tự nhủ. Trong phiên họp ngày hôm đó tôi được phân công một số công tác để thiết kế các máy móc điện toán cùng một số máy móc điện tử khác. Công tác đang tiến triển đều đặn thì một hôm tôi khám phá ra rằng có một vài bộ phận bị trục trạc kỷ thuật nên không đáp ứng đòi hỏi của chương trình thử nghiệm. Theo dự đoán của tôi thì chương trình sẽ bị đình trệ , nhưng theo theo khế ước của công ty thì ngày hoàn tất chương trình không thể thay đổị Chúng tôi phải vận dụng hế t mọi kiến thức và làm việc ngày đêm để tìm giải pháp thỏa đáng. Mệ t nhoài vì thiếu ngủ và ăn uống không điều độ . Anh bạn trưởng toán ném cây bút màu lên bàn, ngã người trên ghế buông một câu thòng hằn học

- Thôi ! Bọn mình phải nghỉ ngơi một chút cho đầu óc bớt căng thẳng !
- Ðồng ý ! Tôi cũng hết ý kiến rồi.
Tôi đáp uể oải và ngáp dài
- Uống một ngụm cà phê cho tỉnh nha .
Anh bạn mơì mọc
- Cám ơn tôi không dùng cà phệ... Một cốc nước lạnh sẽ làm tôi dể chịu hơn

Vừa trò chuyện, chúng tôi rời phòng thí nghiệm, khi băng ngang qua hành lang tôi thấy bên ngoài nắng vàng còn đọng trên thềm nên tôi đề nghị
- Hay là tụi mình ra ngoài di dạo một vòng cho thảnh thơi .
- Ðược ! Ý kiến này hay lắm! Anh lấy nước mát đi , mình gặp nhau ngoài ngõ
Anh bạn tán thành ý kiến của tôi ..

Sau một vòng lang thang trong nắng ấm của miền tây nam, chúng tôi dừng bước ngồi nghỉ trên bệ trồng hoa trước cửa công tỵ Buổi chiều dần xuống, chúng tôi trao đổi những mẩu chuyện nhỏ ; bàn về cuộc sống, kinh tế nhưng cũng không quên những mẩu chuyện khôi hàị Nhân viên công ty bắt đầu ra về, một số vội vả đi ngang qua chúng tôi , một số nghiêng đầu chào, một số vẩy taỵ Trong số nhân viên ấy, xuất hiện một dáng người mảnh khảnh nhưng dáng đi mạnh bạo, đầu gối hơi nâng lên trước khi nện gót xuống thềm. Tóc anh đã bạc màu gương mặt hơi xạm với nhiều lớp nhăn, nhưng đôi mắt vẩn sáng nhưng chất chứa một nổi xa xăm. Tất cả tạo cho anh một sự thầm lặng ưu tự Thoạt nhìn tôi thầm nghỉ anh là mẩu người khó tính. Anh dừng bước ngay chúng tôi, vẩy tay chào và nhún vai.
- Chiều rồi, sao mấy anh còn ở đây ? Anh buông câu hỏi .
- Tụi này phải ngủ lại đây đêm nay !!
Tôi đáp nhanh , cười khẩy và hất hàm về phía anh bạn trưởng toán.
- Trời !!!

Người trưởng toán đưa hai bàn tay lên trời như cầu nguyện và cả ba chúng tôi đều cười vuị Qua lời giới thiệu của anh bạn trưởng toán, tôi được biết anh tên Richard Murphy, nhưng bạn bè vẩn thân thiện gọi anh là Rick. Dừng trong giây lát tìm diêm quẹt để châm điếu thuốc lá, Rick kéo một hơi dài và ngửa mặt lên trời thả khóị Anh ngồi lại trò chuyện cùng chúng tôi và được biết tôi đến từ Montreal . Anh càng thích thú hơn khi tôi kể lể về mùa thu lá vàng, mùa đông tuyết ngập đến đầu gốị Bổng Rick chậm rải hỏi bằng một giọng buồn bả
- Hiện giờ thời tiết bên ấy ra sao ?
Tôi chậm rải diển tả mùa thu với mưa phùn, gió lạnh ẩm ướt, bóng dáng cây phong ngã màu . Rick bổng thở dài
- Tôi nhớ những thứ ấy lắm.
Tôi vội hỏi trong ngạc nhiên
- Ah! Anh cũng là dân vùng Montreal sao ?
- Không tôi sinh trưởng trong vùng Minnesota .
Thời tiết 2 vùng không khác nhau mấy

Tiếp theo anh cho tôi biết rằng sau khi giải ngủ anh không tìm được việc làm nơi ấy và không được hưởng quy chế của một cựu chiến binh, vì một lý do nào đó. Anh đã phải bôn ba qua nhiều nơi , sau cùng dừng chân trên miền đất tây nam, và làm việc với công ty này trong nhiều năm quạ Nhìn gương mặt cùng sự chán nản trong lời nóị Tôi đánh bạo hỏi anh.
- Xin lổi, theo tôi doán, có lẽ anh đã tham chiến một thời gian tại Viet Nam ?

Một thoáng ngạc nhiên, nhưng không kém phần rụt rè. Rick nhìn tôi dò hỏị Tôi tiếp lời
- Tôi là người Việt Nam, cha tôi là cựu quân nhân trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Sự mừng rở hiện trên gương mặt Rick. Anh gật gù.
- Ah . Anh là dân miền nam.
- Vâng , tôi sinh trưởng tại Saigon
Tôi đáp .
- Nhưng bây giờ đã bị đổi tên !!
Rick nói trong chán nản

Chúng tôi trao đổi những mẩu chuyện về quê hương tôi, một nơi mà bom đạn đã cày nát đất bằng, đốn ngã rừng xanh, san bằng đồi núị Một nơi mà lủ trẻ chúng tôi biết phân biệt giửa tiếng súng trường AK-47 và súng trường M-16, trước khi chúng tôi biết đến tuyệt phẩm Vịnh Ðèo Ngang của Nử Sỉ Hồ Xuân Hương. Một nơi mà lủ trẻ chúng tôi biết phân biệt vủ khí của hai miền nam bắc, biết phân tích tầm sát hại cùng phương pháp tránh đạn, trước khi biết phân tách niềm u uất của Ðại Thi Hào Nguyễn Dụ Như một cuộn băng ghi âm được dịp phát lại , Rick kể cho tôi nghe một số giai thoại buồn vui của anh trong đời quân ngũ. Câu chuyện thêm phần hào hứng, khi anh thấy tôi có một số hiểu biết nhỏ về vủ khí. Tôi cũng không ngần ngại cho anh biết rằng tôi đã trải qua lớp căn bản vủ khí trong lực lượng Nhân Dân Tự Vệ và khóa quân sự học đường của bậc trung học và nếu ngày tháng tư đến chậm hơn một vài năm, thì giờ đây, có lẻ tôi và anh không có dịp ngồi trò chuyện như hôm nay, vì tôi đã chuẩn bị nhập ngũ vào năm 1976.

Tôi cũng không quên đệm thêm câu đùa
- Giá mà có cây M-16 ở đây thì tôi và anh chắc còn vui hơn !!
Rick lắc đầu, xếp ngón tay trỏ và tay cái theo hình khẩu súng lục, hướng vào ngực tôi và cả hai đều cười đắc ý.
Chiều xuống nhanh, mặt trời xắp khuất bóng nơi chân trờị Chúng tôi đứng lên từ giả, anh phải về sớm để tránh kẹt xe trên xa lộ Chúng tôi bắt tay thân mật, tôi giử tay Rick .
- Rick, tôi thành thật cám ơn anh và đồng đội đã phụ giúp cha anh chúng tôi để cho chúng tôi có được tự do trong một thời gian.

Rick nhìn nơi khác , chớp mắt đưa tay che miệng và khịt mủị Rick đã khóc ! Anh đã khóc cho thận phận mộ t người lính già bị hất hủi trên quê hương của anh, khiến anh mất hẳn niềm hảnh diện của một cựu chiến binh. Tôi không khỏi bùi ngùi, nhưng dầu sao Rick cũng được thảnh thơi đi lại trên quê hương anh, anh vẩn được quyền làm con người trong xứ sở của anh khi so sánh số phận của anh cùng các chiến sỉ trong quân lực miền nam.

Sau vài giây Rick giăng tay và chúng tôi xiết chặt vai nhau, như đôi bạn rất thân. Rick giử vai tôi và nhìn thẳng vào mắt .
- Tôi không ngờ có ngày nàỵ!
Rick từ giã , mỉm cười hạnh phúc và bước nhanh về bải đậu xẹ Rick đã cho xe chạy chậm lại khi ngang qua chổ tôi đứng và vẩy tay chào , tôi đưa tay chào anh theo quân kỷ và anh đáp lại bằng một hồi còi xe.

Trong những ngày kế tiếp của chương trình hoạt động, Rick đã sốt sắng giúp đở tôi trong mọi công việc, có lúc tôi rất ngại ngùng vì Rick không trực thuộc chương trình hoạt động của chúng tôi, nhưng Rick vổ vai tôi và tươi cười.
- Eh..! Anh bạn quên rằng mình là đồng minh sao ?
Chúng tôi cười lớn và vung nắm tay cụng vào nhau.

Ngày cuối cùng của chương trình hoạt động, Rick tìm đến thăm tôi , trong phòng thí nghiệm, anh xiết chặt tay tôi và chúc tôi may mắn trở về bình yên . Sau vài giây nhìn nhau chúng tôi xiết chặt vai như đôi bạn thân, trước sự ngạc nhiên của một số nhân viên.

Trên chuyến bay đưa tôi trở về xứ lạnh miền đông bắc, sực tỉnh sau cơn ngủ chập chờn do tiếng động của người hành khách kế bên. Ông ta gấp vội tờ nhật báo cho vừa tầm. Thoáng nhìn hàng chử lớn, đề cập đến viển ảnh chiến tranh trong vùng Trung Ðông cùng hình ảnh một người chiến binh trong bộ đồ trận,tôi bùi ngùi nhìn qua khung cửa phi cợ Một niềm suy tư trở về trong trí, tôi mường tượng xa xăm. Hơn 25 năm trước, buổi trưa của ngày cuối tháng tư , hớt hải cùng gia đình xuôi ngược lánh nạn. Ngày đó tôi có dịp chứng kiến hình ảnh một người chiến binh lẻ loi ngồi gục đầu bên lề đường Trần Quốc Toản giửa rừng người xuôi ngược. Không còn ai còn tâm trí để quan tâm đến anh. Người chiến binh mình trần , vết thương trên vai băng bó sơ sài, máu còn rịn trên người, đôi bàn tay nắm chặt tấm thẻ bài, đôi giầy trận đã bạc màụ Anh là ai ?. Với màu rằn ri của chiếc quần rách nát vài chổ, tôi nhận ra rằng người chiến binh ấy thuộc binh chủng mủ nâụ Anh đã làm tròn sứ mạng của người trai cho tổ quốc nhưng sao lại bị bỏ rơi trong giờ thứ 25 của đất nước. Tôi thầm nghỉ anh đã bị hất hủi trên chính quê hương anh, bởi những người cùng màu da, ngôn ngữ và giờ đây có lẽ đã bị lảng quên. Phải chăng những huân chương lộng lẩy, những buổi liên hoan tưng bừng hay những lần tuyên dương rầm rộ không đáng giá là bao so với một lời cám ơn chân thành. Dù một lời cám ơn đơn sơ cũng đủ làm ấm lòng người chiến binh, một lời cám ơn chân thành cũng đủ mang lại hạnh phúc cho người lính già trước khi họ bị phai dần theo năm tháng.
 
Truyện Ngắn
Bướm Vàng
Tác giả: Võ Phú


---------------------------------------------------------------------- ----------
Nàng tên Hoàng Điệp. Tôi gặp nàng ở một buổi sinh hoạt trại hè, Trại Kết Đoàn, trong tiết mục đố vui và thả thơ để học. Khoảng một trăm năm mơi trại sinh hôm ấy, nàng là người làm cho tôi để ý nhiều hơn cả. Tôi để ý nàng vì khả năng hiểu biết sâu rộng về thơ, văn, và lịch sử nước Việt. Hầu hết, những câu thơ, hay những câu hỏi lịch sử từ thời xa xưa, nàng cũng đều trả lời đúng. Suốt buổi trưa hôm ấy, tôi cứ nhìn nàng và để ý từng cử chỉ của nàng. Càng nhìn, (để ý), vô tình, tôi bị nàng thu hút. Nàng, như một thỏi nam châm. Còn tôi? Như thể những mẫu sắt vụn, cứ bị nàng hút vào.

Tôi tìm cách làm quen. Suy nghĩ và tìm cách thế nào để được nàng ghé mắt.

− Ừ, tìm ra rồi!

Tôi la lớn, làm một số bạn trong căn cabin nhìn tôi, ngơ ngác. Tôi vừa nghĩ ra là sẽ đem tập thơ "con cóc" của tôi chôm từ những nhà thơ nỗi tiếng tặng nàng để tìm cớ làm quen.

Đến giờ sinh hoạt tự do của trại sinh, tôi tìm đến nàng. Lúc ấy, nàng đang ngồi dưới một gốc thông già. Hình như nàng đang viết gì đó. Tôi đến bên này, trên tay cầm tập thơ do mình sưu tầm/chôm/ và làm bập bẹ. Tập thơ mà lúc nào tôi cũng mang theo mỗi lần đi trại để đọc. Tôi cất tiếng chào:

− Hello...

Nàng ngẩn đầu lên và chào tôi lại:

− Hi.

− Hồi nãy trong mục đố vui để học bạn trả lời nhiều câu hỏi đúng quá. Chắc là bạn thích thơ tiếng Việt lắm?

− Dạ

Chỉ một tiếng 'dạ' của nàng thôi cũng làm cho tim tôi đập loạn. Tôi nhìn nàng, cười. (Nụ cười mà những người bạn của tôi thường bảo đó là nụ cười tán gái). Tôi giới thiệu tên mình với nàng:

− Tôi tên Tuấn. Tuấn cũng thích thơ tiếng Việt lắm.

Đây là tập thơ mà Tuấn...sưu tầm. Nàng cầm tập thơ tôi đưa. Mắt nàng mở to, ngạc nhiên. Khi thấy nàng vậy, mặt tôi hếch lên ra vẻ ta đây là một nhà thơ. Hay ít ra cũng là một người sưu tầm thơ. Nàng nhìn tôị Im lặng. Tôi hỏi nàng:

− Bạn....Ơ...ấy…. tên gì?

− Em tên là Hoàng Điệp.

− Hoàng Điệp. Tên hay ghê nhỉ.

− Anh nói hay, mà hay chổ nào?

− Ờ....ờ thì hay.

− Anh cũng thích viết văn làm thơ ghê nhỉ?

− Ừa, mình thích lắm.

− Anh viết văn, làm thơ, chắc anh rành về Hán Việt lắm phải không?

− Không rành lắm, nhưng cũng biết chút chút.

− Vậy anh biết Hoàng Điệp có nghĩa gì không?

Tôi cố nặng óc suy nghĩ để trả lời người đẹp. Nhưng, không biết sao, tôi lại không tìm được ý nghĩa của hai chữ "Hoàng Điệp". Tôi nhớ có một tuồng cải lương mang tên "Chuyện Tình Lan và Điệp". Mà trong câu chuyện tình này, người con trai tên Điệp cũng đâu liên quan gì đến cái tên Hoàng Điệp. Tôi tự thầm trách mình lỡ dại, bây giờ lại không biết trả lời. Tôi nhìn vào mắt nàng. Ở đôi mắt ấy, tôi thấy, nàng đang nhìn tôi có vẻ chờ đợi. Đánh liều, tôi nói đại.

− Hoàng Điệp là một loài hoa học trò phải không?

− Hoa học trò?

− Ừa! Hoa học trò, hay còn gọi là hoa Phượng. Tiếng Anh gọi là Flamboyant đó.

− Cứ cho là vậy, nhưng tên của em không có nghĩa là một loài hoa. Cho anh suy nghĩ lại.

− Vậy thì là một loài chim..... Phụng Hoàng Điệp?

Hoàng Điệp lại cười. Nhìn nàng cười, tôi biết là mình lại trả lời bậy nữa rồi. Nàng nói với tôi:

− Nhà thơ, nhà văn, gì mà không biết hai chữ Hoàng Điệp. Tôi bí quá, nên nói liều.

− Vậy em nói Hoàng Điệp nghĩa là gì?

− Hết hoa, rồi chim, anh còn thiếu gì nửa, suy nghĩ chút đi.

− Không lẻ là ong, là bướm, là đường, là mật.....

Tôi pha trò.

− Đúng rồi, Hoàng Điệp là một loài bướm. Bướm Vàng!

Tôi nghĩ thầm:

"Bướm Vàng. Coi phim chưởng hoài mà không nhớ "Uyên Ương Hồ Điệp Mộng" thiệt là dỡ."

Và, tôi nói với với nàng:

− Mà bướm, hoa, hay chim thì cũng liên quan với nhau cả.

− Nói với anh....mệt.

Qua hai ngày trại, chúng tôi quen nhau và chóng thân. Từ cái buổi nói về tên nàng, tôi không còn kêu nàng là Hoàng Điệp nữa. Mà, tôi gọi nàng là cô Bướm Vàng.

Mỗi lần tôi gọi nàng là Bướm Vàng là nàng nhìn tôi, rồi trợn mắt. Được thể, tôi cứ gọi hoài. Hôm nay là ngày cuối của kỳ trại. Trong lúc bế mạc trại, nàng khều tôi, rồi bảo:

− Đi trại Kết Đoàn, Tuấn thấy vui không?

− Vui lắm, còn Điệp. Opps! I meant Bướm Vàng…. thì sao? Có tìm được cánh hoa nào để đậu không?

− Cũng vui. Hoa thì không có, chỉ toàn thấy "Ông" không hà.

Nàng pha trò. Rồi, nàng tiếp:

− Điệp công nhận là các bạn trong ban tổ chức, giỏi thật.

Chắc năm tới Điệp sẽ tham gia vào ban tổ chức để được các anh theo giống như chị Lý được các anh quay quanh kìa. Nhìn thấy thích quá.

Tôi cười, rồi trả lời nàng:

− Nếu Điệp xin vào thì cho Tuấn xin theo với.

Những ngày trại chóng qua mau, tôi đã trở lại với những công việc thường nhật. Nhưng, hình ảnh của Hoàng Điệp -Bướm Vàng của tôi, vẫn bay lượn trong đầu. Tôi lại thầm bảo mình rằng:

"Thôi thì, hẹn Bướm Vàng và dịp trại hè năm sau. Bướm Vàng nhé."
 
xộn đó. Tới đoạn gần chợ tôi dừng lại chờ chiếc xích lô đang đi tới:
- Mù à. Mụ già kia quay lại lo đền ngay!
Tôi giật mình ngoảnh lại thì ra một bà già ăn mày bị vấp phải vũng nước làm bắn tung toé vào mấy quả dưa hấu của ả ta.
- Thôi người ta già lão nhỡ ra...
Mấy người ngồi đấy nói vậy. Bà lão nặng tai không nghe rõ lại tưởng ả mời mua dưa. Bà lắc đầu cười móm mém.
- Dưa ngon đấy nhưng lão không có tiền.
- Biến. Biến ngay cho khỏi ngứa mắt.
Tôi quyết định không đi xích lô để lấy tiền biếu bà cụ. Mưa vẫn bay bay điểm trắng đầu tôi nhưng không thể làm bạc thêm tóc bà.
"... Đời thật trớ trêu, ở hiền mà chẳng gặp lành. Đúng là có phúc mà chẳng có phần, biết là vật báu mà dửng dưng đứng nhìn. Biết cô ấy đẹp người đẹp nết mà đành chịu". Bà thao thao kể. Tôi như đang chìm dần trong cuộc đời bà. Chiến tranh khủng khiếp, đứa con trai độc nhất của bà xung phong ra trận. Mỗi khi làng xã có đám báo tử tim bà lại thon thót phần đau cho người phần lo cho con. Những năm tháng ấy bà lùi lũi sống một mình. Hai cô con gái thường xuyên đến chăm sóc giúp đỡ bà. "Bằng này chúng con u duyệt ai cũng được... Con nhận làm con dâu u nhé?". "Con thì sao... ". Sự bông đùa của những cô gái ấy làm bà nguôi ngoai nỗi lòng. Trong mấy cô gái cô nào làm con dâu bà cũng được. Thực lòng mà nói thì bà thích Hà hơn cả. Hà vừa xinh xắn vừa dịu dàng. "Con ơi con tốt quá, mẹ thật phúc đức có một nàng dâu như con. Nếu trời không xe duyên cho các con thì mẹ nhận là con gái út của mẹ". Câu nói của bà đã làm tăng lòng hy vọng trong Hà. Cô thật sung sướng. Trời! Cô đã mang lòng yêu Ân từ bao giờ. Cô không biết.
Sau ngày giải phóng Ân đã trở về. Niềm vui tràn ngập. Tuổi già mong cháu, bà giục Ân cưới vợ.
- Con Hà làng này được người được nết. Nó thường xuyên giúp đỡ mẹ lúc trái nắng trở trời, rồi những công việc đồng áng. Nó yêu con lắm. Mẹ biết mà.
Học tiếp. Được. Bà có mỗi mình nó phải cho nó học tới nơi tới chốn. Hơn nữa có tiêu chuẩn là bộ đội giải phóng. Chẳng tội gì mà không học. Nhưng con Hà nó tốt là vậy, kiếm được người như nó thật hiếm. Phải rồi bà sẽ bảo nó chờ đợi. Nó yêu thằng Ân lắm mà. Bà sẽ vun vào cho chúng nó.
Ân học xa nhà. Năm thứ nhất cậu hay về. Năm thứ hai thưa dần. Đến năm thứ ba thì ít hẳn. Bỗng một hôm có cô gái ăn mặc lịch sự đi xe máy hỏi về nhà:
- Cháu là bạn anh Ân. Anh ấy bận nhờ cháu về thăm bác. Đây là xe của anh ấy gửi biếu bác.
- Thế hả? Cảm ơn cháu... Nó bận học lắm à.
"Bà có khách lịch sự thế. Người thành phố có khác". Cô gái ra về bà chưa hết phân vân thì hàng xóm ùa đến hỏi han. Bà chỉ biết nói đúng sự thật. Bạn bè hay người yêu Ân? Bạn bè thì được chứ nhà con một không nên để nó lấy vợ xạ Con gái bây giờ nhiều đứa ghê lắm, nhất là ở tỉnh thành. Bà không cẩn thận chúng nó dỗ ngon dỗ ngọt là mất con bà như chơi.
Những lần tiếp theo, cô gái ấy khi thì đi một mình khi thì đi với Ân. Đúng là có vấn đề. Bà phải hỏi Ân xem rõ thực hư thế nào.
- Con yêu người ta phải không?
- Da...
- Con ơi, phụ người tìm chẳng thấy người. Cô ấy đi lại chăm sóc đỡ đần mẹ bao ngày tháng vắng con. Hơn nữa mẹ không muốn con lấy vợ xạ Mẹ không muốn thế!
- Mẹ ạ con và cô ấy học cùng một lớp. Cô ấy đem lòng yêu con. Khi về nhà cô ấy chơi, bố cô ấy nói vào mặt con những lời khinh bỉ: "Nghe nói dân vùng anh nghèo lắm. Nhiều người đi ăn xin lắm phải không?". Con điên tiết lắm. Nếu ở giữa đường giữa chợ thì con sẽ thưởng cho ông ấy một quả đấm vào mặt. Ngay tức khắc con chào rút lui. Cô ấy đã đuổi theo giữ lại khóc lóc van xin. Đây là bố em. Còn em. Em yêu anh! Em sẽ chịu tất cả để có anh! Không. Hai hoàn cảnh khác nhau không nên... không thể... Gia đình em gia giáo trí thức. Em có nhà cao cửa rộng, bố mẹ quyền quí. Gia đình anh nghèo hèn, bố mẹ anh là nông dân suốt đời lam mũ. Và anh không thể chịu đựng được sự khinh bỉ của gia đình em. Vậy nên không thể.
Khoan. Em đã chấp nhận tất cả để yêu anh. Nếu anh cố tình... Cố tình bỏ em thì hãy huỷ hoại em trước khi chạy trốn. Anh Ân! Em muốn được chết trong vòng tay anh!
Và con không nỡ để cô ấy phải chết!
- Trời ơi, con tôi.
- Mẹ yên tâm, không bao giờ con để mẹ phải khổ. Con thành đạt mẹ sẽ là người hưởng thu...
Hai người con gái cùng yêu một người. Rõ tội nghiệp. Để cô gái kia chết vì tình yêu thật không đành.
Nhưng con Hà... Nó cũng đau khổ lắm chứ. Bà chẳng biết nghĩ thế nào. Thôi thì mặc kệ cho Ân quyết định lấy cuộc đời mình.
Mãi khi Hà biết rõ Ân có người yêu ở thành phố cô mới quyết định đi lấy chồng.
Trước ngày cưới cô tìm gặp Ân để trao vật kỷ niệm cuối cùng của cô dành cho bà...
- Em cũng sắp đi lấy chồng. Đôi tất tay em cũng vừa đan xong. Mùa đông sắp tới anh mang để mẹ dùng. Tuổi già rét buốt thì khổ lắm.
- Cô Hà... Mẹ tôi thường nói cô đẹp người đẹp nết chẳng sai chút nào.
- Kìa anh. Đừng khen như thế để em ngượng ngùng. Thôi mau cưới vợ để mẹ vui cùng con dâu.
Trước thái độ. Trước con người. Trước tấm lòng của Hà, Ân thực sự xao xuyến và cảm động...
Thời gian sau bà cưới vợ cho Ân. Dâu là con rể là khách. Bà có quan điểm như vậy và tất tần tật thu vén dành dụm cho vợ chồng Ân, kể cả về tình cảm, vườn đất rộng rãi, hoa quả quanh năm mùa nào thức ấy. Từ ngày có con dâu bà ít mang hoa quả ra chợ bán như trước đây mà chỉ để vợ chồng Ân về ăn dần. Lúc đó bà chọn những chùm to nhất, ngon nhất cho Ân biếu bố mẹ vợ rồi mang đến cơ quan làm quà. "ăn bao nhiêu cũng hết hay hái nhiều đem ra phố bán cho khỏi phí phạm". Vợ Ân bảo vậy anh thấy hài lòng. Chúng nó biết cóp nhặt lo cho cuộc sống. Thế là tốt. Mọi thứ đi vào khuôn nếp, bà ở nhà làm lụng công việc đồng áng rồi chăn nuôi lợn gà. Cũng từ ngày có con dâu bà thấy người khoẻ hơn mặc dù bà làm nhiều hơn. ấy là ý thích chứ nào ai bắt bà đâu. Đúng là không có gì sung sướng bằng khi con người ta được sống vô tư, và mãn nguyện. Như thường lệ cứ vào thứ bảy là bà khấp khởi chờ đợi các con về xum họp. Nào gà, nào vịt con nào béo bà thịt trước, gầy thịt sau. Bà không tiếc vợ chồng Ân thứ gì.
Vợ Ân mang thai. "Thế là sắp có cháu đích tôn". Bà mừng lắm. Cái thai mỗi ngày một lớn. Vợ chồng Ân về với bà cũng hạn chế dần. Tháng hai lần, tháng một lần rồi tháng rưỡi về một lần. Bà nhớ con thấp thỏm. Cứ thứ bảy bà lại ngong ngóng chờ đợi. Nhiều khi biết con không về bà vẫn cứ ngóng.
"... Mẹ thì ngày càng già yếu. Vợ con thì bụng mang dạ chửa thế rồi sắp tới cô ấy ở cữ không về với mẹ thường xuyên được. Mà để mẹ Ở nhà một mình thì chúng con không yên tâm. Vợ chồng con muốn mẹ lên đây ở thời gian".
Vợ chồng Ân bàn bạc bà thấy có lý. Đúng là được ăn học, chúng nó nói phải, bà nhớ chúng nó lắm. Bà sẽ đỡ đần chúng nó. Còn khoẻ, còn làm được gì cho chúng bà cứ làm. Khi nào không có sức lực mới thôi. Nhưng còn ruộng nương vườn tược lợn gà? May quá, lợn vừa đến tuổi xuất chuồng. Mấy đàn gà kia bà sẽ mang hết cho vợ chồng nó thịt dần. Còn ruộng nương, vườn tược bà sẽ nhờ bà Nga, bà Đoài bên cạnh nhà trông nom hộ.
"... Mẹ già rồi làm được việc gì thì làm còn cứ để đấy mặc con. Mẹ cố sức mà ốm ra thì khổ cả mẹ cả chúng con". Vợ chồng Ân thường nói với bà như vậy.
Một hôm vợ chồng Ân gọi bà ra thưa chuyện:
- Nên bán cái nhà ở quê đi, mẹ Ở với chúng con chứ về quê làm gì nữa. Nhà để lâu ngày hôi hám mục nát. Càng để càng khó bán. Mẹ nghĩ thế nào?
Bà không tin ở tai mình nữa. Mắt bà trợn lên:
- Mày nói cái gì... hả?
- Mẹ ạ lẽ đời thường là lúc trẻ cậy cha già cậy con. Nên con bàn với mẹ bán quách cái nhà ở quê đi lên đây ở với chúng con. Nhà để không có người ở lâu ngày bị hôi hám mục nát sau này rất khó bán.
- Bán nhà. Bán nhà ư? Trời ơi! Không. Không được. Ở đó còn bàn thờ của cha con. Còn bà con láng giềng nữa chứ. Sau này con phải về đó thờ tổ tiên chứ.
- Mẹ lạc hậu quá. Nay con người ta sống khác xưa nhiềi rồi. Vợ chồng con công tác trên này... nhà cửa trên này... Chúng con đang sống đàng hoàng trên phố xá văn minh, mẹ lại muốn chúng con về cái xó nhà quê nghèo nàn lạc hậu. Mẹ không muốn chúng con sung sướng hay sao? Thế rồi còn tương lai của các cháu sau này nữa chứ. Mẹ có biết là để có một cuộc sống một tương lai như của vợ chồng con có biết bao kẻ nhà quê nằm mơ cũng không thấy. Chính vậy mà con không thể về thờ tổ tiên được. Mẹ yên tâm, bàn thờ của bố con sẽ chuyển lên đây, còn khi mẹ về già mẹ thích ở quê hay ở trên này chúng con chiều hết . Cái nhà ấy không bán bây giờ thì sau khi mẹ chết chúng con cũng bán. Lúc đó chắc chắn là sẽ bị dèm pha rẻ rúng, bán như chọ Mẹ hiểu không?
Quê hương. Bà con xóm giềng... Mồ mả tổ tiên... Phân vân do dự lại phân vân. Cuối cùng thì bà cũng đồng ý. Bà chẳng biết nghĩ thế nào nữa. Chúng nó có ăn có học nghĩ những điều ghê gớm quá. Bà thật không nghĩ tới. Có lẽ bà già rồi không thể sáng suốt bằng lớp trẻ. Thôi thì trẻ theo cha già theo con. "Được cái con vợ thằng Ân là nàng dâu hiền thảo. Thật là tốt phúc". Bà thầm nghĩ vậy.
Cuộc đời vẫn như thế thì đẹp biết bao nhiêu. Ngờ đâu nó lại chẳng thuận buồm xuôi gió nữa. Đúng là sông có khúc người có lúc. Bà không ngờ rằng cuộc đời mình chuyển tới đoạn gian truân.
Khi cháu nhỏ ra đời bà tíu tít bận bịu. Không hiểu sao bà vui vẻ bao nhiêu thì nàng dâu có vẻ ngày càng khó tính bấy nhiêu. Cô hay cáu gắt với chồng kể cả với bà nữa. Đúng là cô dâu thời hiện đại, thật khó chiều. Bà làm cái gì cô ấy cũng chê và hài lòng một cách bất đắc dĩ. Nào là giặt tã không sạch, nấu cơm không ngon, lề mề chậm chạp, không biết sắp xếp công việc...
"Có lẽ mình lẩm cẩm để nàng dâu phải khó chịu". Bà nghĩ vậy và cố gắng làm cho tốt mỗi công việc để con dâu khỏi phàn nàn.
Chuyện của bà người đời chắc ít ai gặp phải. Hẳn là khó tin. Nhưng thực tế đúng như thế. Còn cay đắng hơn thế mà bà không tiện nói ra.
Có một lần bà cầm quả trứng niềm nở đưa con dâu: "Này tôi luộc kỹ cho mẹ thằng cu đấy, ăn ngay cho nóng". Trong giấy lát nàng dâu nhăn mặt ném phắt quả trứng vào sọt rác. "Kỹ gì mà kỹ. Đã bảo không ăn được sống. Đúng là ngu hết chỗ nói. Luộc quả trứng mà không chín". Trời ơi! Các con của bà cũng chưa ai nói bà như vậy. Bà ức phát khóc lên, nhưng im lặng không nói nửa lời. Chờ Ân về bà gọi hai vợ chồng ra nói:
- Tôi có ngu si cũng đẻ ra chồng chị, nuôi chồng chị ăn học thành đạt như bây giờ. Chị không được láo.
Bốp... bốp. Ân không kìm chế được liền tát vợ mấy cái.
- Ối trời ôi là trời... Chồng tôi đánh tôi là tại bà! Bà già mà ác.
Trong lương tâm bà không muốn vợ chồng Ân xô xát. Nhưng do đâu... do đâu. Bà chỉ muốn đại gia đình êm ấm thuận hoà trên kính dưới nhường tất cả đều được vui vẻ. Nhưng khó quá, khó quá. Thôi vì thương con thương cháu bà nín nhịn tất cả cho êm thấm.
Thời gian trôi đi. Thấm thoát đã mười lăm năm. Sức chịu đựng của bà đến lúc cạn kiệt. Bà càng chịu đựng thì nàng dâu càng lấn tới. Chua chát, khinh miệt. Nhất là từ khi có thêm đứa cháu gái nữa ra đời. Bà phải ăn khác chế độ cũng từ đây. Lúc đầu bà phải bế cháu nên ăn sau. Đến khi nó lớn cái nếp đó vẫn duy trì. Vợ chồng Ân sai con bưng vào chứ bà không phải ăn cùng nữa. "ăn riêng như thế để bà được thoa? mái, tự nhiên không phải dè dặt, chờ đợi". Vợ Ân bảo vậy. Đây là lối tôn trọng người già của nàng. Sự đối xử của vợ dần quen và ngấm vào máu thịt Ân từ khi nào không biết.
Có lần vô tình bà nhìn thấy vợ Ân mua rạm về. Những con rạm béo ngon như những con rạm ngày xưa bà bắt ở đồng lúa về nấu cho Ân ăn. Đã lâu bà không được ăn. Ôi ngon. Ngon thật! Tới bữa, Tuấn thằng cháu trai bưng cơm vào cho bà thì chẳng thấy rạm đâu mà chỉ có bát canh xuông với màu xanh nhờn nhợt.
Có lần Ân mua một con ngan về nấu miến. Trông con ngan béo vàng bà thầm nghĩ: "Nay lại được ăn thịt ngan". Khi nhìn bát miến ngan khói nghi ngút mùi thơm. Thơm hấp dẫn! Bà lại nhớ, nhớ những bữa ăn túy lúy đầm ấm của mấy mẹ con vào những ngày thứ bảy chủ nhật.
"Bà ăn cho nóng. Tuấn đặt xuống giường và chạy ta như thể không nhanh sẽ bị mọi người ăn hết. Nhìn bát bún chỉ có lèo tèo vài sợi thịt xé nhỏ lẫn mấy miếng da rắc rất khéo. Bà giàn giụa nước mắt. Bà tham ăn ư? Bà khóc vì miến ngan hay vì cuộc đời đen bạc? có ai hiểu lòng bà.
Bà bàng hoàng nghĩ về quê hương. Ở đó vẫn còn hàng xóm láng giềng. Bà nhớ lại cảnh tượng hôm chia tay đầy ắp tình nghĩa. Nước mắt càng giàn giụa. Những giọt nước mắt mặn chát cứ xô lấn nhau như đè nặng thêm cuộc đời bất hạnh của bà... Nhớ lắm. Bà không thể quên được bờ tre giếng nước gốc đạ Rồi từng gương mặt của bà con lối xóm. Nhưng không. Bà không thể. Đúng hơn là bà không dám về nữa. Dân làng sẽ nghĩ gì về bà?
Bà quyết định về nhà con gái út. Thật không may bà bị từ chối ngay từ đầu. Lý do thật chính đáng, cô ta có mẹ chồng: "Hay là bà lên Hà Nội ở với chị cả. Như thế hay hơn. Các cháu lớn rồi. Chồng chị ấy cũng rộng rãi". Biết làm sao được? Bà lại đội nón ra đi. Chợt bà nhớ Hà. Người con gái ngày xưa bà quyến luyến. Bà tìm đến nhà. Đúng rồi bà không nhầm được. Vẫn đôi mắt ấy. Vẫn dáng vẻ dịu dàng. Tuy thời gian đã làm Hà gày hơn đôi chút. "Kìa me... Mẹ đến chơi với chúng con". Hà cũng nhận ra bà ngaỵ Cô mừng quýnh. Bỗng dưng bà thấy mũi cay sè, nước mắt lại trào ra. Bà không kìm nén được cảm động và dốc hết bầu tâm sự với Hà. "Rõ tội nghiệp! Mẹ chồng con xấu số bỏ chúng con lâu rồi. Nếu hoàn cảnh mẹ vậy thì con mời mẹ về ở với vợ chồng con cho có bà có cháu thêm vui cửa vui nhà. Mẹ đừng ngại. Chồng con anh ấy tốt lắm. Mẹ cứ về đây, đến khi về già con sẽ đưa mẹ về với các con của mẹ". "Cám ơn con. Con tốt quá. Con vẫn như ngày xưa".
Tuổi già như mớ rau ôi. Quăng đi quăng lại bỏ đi không đành. Đúng vậy các con chẳng ai chịu chứa bà. Nhưng cố mà nghĩ thì cũng thấy chúng nó còn trách nhiệm với bà. Có lẽ đây là chút lương tâm rớt lại để chúng nó làm người. Cuối cùng thì bà vẫn phải dấn thân vào cái nhà ấy. Bà còn biết đi đâu nữa. Nghe cô con gái cả tuyên bố hùng hồn mà thỉnh thoảng bà lại giật mình toát mồ hôi hột:
- Bà không phải đi đâu. Cứ ở đây, bao giờ vợ chồng cậu mợ ấy đuổi hãng haỵ Tôi nói cho cậu mợ biết, tài sản của gia đình chị em chúng tôi đi lấy chồng không tơ hào tý gì, thì cũng đừng có lằng nhằng gây chuyện phiền nhiễu bận bịu đến chúng tôi. Vợ chồng cậu sống quá đáng để bà phải bỏ đi. Nhà cửa, đất cát vợ chồng cậu bán bây giờ để bà phải sống thế này đây. Thật quá đáng. Năm nay bà cũng tám tư tuổi rồi. Bà sống chẳng được bao lâu mà phải sốt ruột. Bà không thể ở nhà dì út. Nhà còn mải làm ăn bận bịu, các cháu thì học hành. Hơn nữa chúng con là phận gái còn phải gánh vác trách nhiệm nhà chồng chứ. Còn thì cái nhà cô Hà bà đừng có bao giờ nghĩ đến nữa. Bà đến đây người ta khinh chọ Con cháu không phải. Họ hàng thì không. Bà thật không biết gì cả. Nó nói như thế bà cũng tin à. Con ruột của bà đây này... Nó không hắt đi được thì nó phải chịu chứ...
- Đây, có bà, có em trai chị, em nói chị nghe. Bà ráo rứ đến nhà con gái, con nuôi chơi em không cấm bà. Còn sống để vừa lòng đẹp ý một người già như bà thì quả là khó. Khó lắm. Có lẽ em chịu. Em chỉ biết sống thật thôi. Khéo léo là tính bẩm sinh. Chị nghĩ mà xem. Trong một mái nhà điều va chạm là lẽ đương nhiên ít ai tránh khỏi. Chị cũng làm dâu chắc chị cũng hiểu về mẹ chồng. Đặc biệt là những bà có tuổi, lẩm cẩm lại hay cố chấp hay tự ái...
 
Truyện Ngắn
Bà Chủ Hờ
Tác giả: Phạm Thùy Chi
Cuối cùng, tôi "chịu" gã và nhận chức bà chủ của một khu nhà vườn khá thơ mộng. Một bà chủ chẳng phải vợ Ông chủ vì không có cưới xin, không công khai, mặc ai muốn hiểu sao thì hiểu. Gã có vợ, mấy đứa con đã lớn cả. Chúng vào hùa với mẹ gầm ghè tôi nhưng không làm gì được vì cái "uy" của gã. Từ đó, cứ lãnh thổ của ai người đó quản. Vợ con gã làm chủ một dinh thự lớn ở phố cùng một số cửa hàng kinh doanh đồ điện. Còn tôi chịu trách nhiệm cai quản khu nhà vườn với hơn chục phòng trọ. Gã thích đi đâu thì đi, đến đâu thì đến. Với tôi, điều đó chẳng mấy quan trọng. Tôi theo gã chẳng qua để đánh đổi một cuộc sống vật chất. Cái giá rất sòng phẳng. Trong hợp đồng này không có tình yêu, nhớ nhung và những gì đại loại như thế.

Phòng ngủ của tôi quét vôi màu nắng. Đó là tôi bảo gã sửa sang lại trước khi tôi đến. Những căn phòng còn lại vẫn được giữ nguyên một màu xám nhờ khó gọi tên, khiến căn phòng quét vôi mới trở nên lạc lõng, trơ trọi và có vẻ hơm hĩnh. Ngày trước, cạnh nhà tôi là một ngôi nhà nhỏ màu nắng. Chủ nhân là hai người chẳng giàu có gì nhưng rất yêu nhau. Với tôi, màu của căn nhà người láng giềng kia lại rạng rỡ hơn bất cứ sắc nắng nào trên trần thế, để từ đó ngấm ngầm mơ ước. Nhưng té ra, tôi có thể gọi thợ quét bao nhiêu lớp vôi mầu vàng tùy thích mà không thể khiến nó trở thành căn nhà rạng rỡ trong ký ức.

Cửa sổ phòng ngủ mở ra một khoảng vườn rộng. Một nhánh bàng như thể chia tay tự giới thiệu mình. Cây bàng vươn lên từ đất, vững chãi và trầm tư, làm điểm tựa cho cành lá lòa xòa trong mưa, trong nắng, trong ngày và đêm. Có cảm giác chỉ cần làn gió nhẹ thoảng tới, chiếc lá đỏ rực kia sẽ sà xuống cửa sổ để nói với tôi bằng ngôn ngữ riêng của nó. Điều đó khiến lòng tôi dịu xuống. Chỉ có một điều khó chịu, mỗi khi cánh cửa sổ mở ra, dù muốn hay không tôi cũng phải nhìn thấy dãy phòng cho khách trọ, như một cái gai mà người ta cố quên đi càng không thể quên được. Với tôi, sự hiện diện của những phòng trọ kia không những làm lợn cợn vẻ nên thơ của khu vườn mà còn gợi lên cảm giác lờm lợm chẹn ngang cổ khi tôi quyết định "lên ngôi" bà chủ như thế này. Mỗi ngày mở cửa là mỗi ngày bắt buộc tôi tự nhìn vào tâm can của mình để đối diện với một sự khuất phục.

Những căn phòng trọ được xây dựng kiên cố nhưng vẫn không thể nào che dấu nét tạm bợ. Bởi nó chẳng thuộc về ai. Ai yêu mến chúng? Những người ở trọ rồi sẽ ra đi, còn với kẻ kia chúng chỉ là một phương tiện kiếm tiền.

Khách trọ của tôi phần lớn là sinh viên. Có vài người công nhân và duy nhất một cô gái làm nghề bán bia... Ôm. Những người đến trọ thường ghép hai hoặc ba người để ở một phòng cho đỡ tiền. Riêng cô gái bán bia ôm ở một mình. Cô ta không có bạn cùng ở hay không muốn cùng ở với ai tôi không được rõ. Chỉ thấy cô chọn căn phòng cuối lối đi, cũ kỹ và tồi tàn. Tôi biết chắc là cô chọn nó, bởi vì còn mấy phòng tốt hơn vẫn để trống.

Xem trong sơ đồ và danh sách người thuê nhà, tôi biết cô gái bia ôm tên Vân. Thường mỗi buổi sáng, cô ở nhà. Nếu không giặt giũ gì cô đóng tịt cửa lại, chẳng giao tiếp với ai. Khoảng ba giờ chiều cô "đi làm" và đến tận khuya mới trở về. Tôi để ý đến Vân không vì cô là gái bia ôm mà bởi vì cô là một gái bia ôm lạ lùng. Hôm đến thu tiền nhà, tôi ngạc nhiên bởi cách bài trí căn phòng của cô. Tuy đơn sơ nhưng trang nhã, tự tin. Những bông cẩm chướng xòa xuống gợi một cảm giác cô đơn đau nhói. Không dưng tôi cảm thấy bối rối. Cảm giác không còn tin vào bản thân trở lại khứa vào da thịt khiến tôi bải hoải, rã rời. Chắc là Vân hiểu nhưng không nói gì. Cô nhìn tôi bằng một cái nhìn cảm thông. Thoạt tiên, tôi phản ứng bằng một cơn giận dữ nhưng rồi tôi nhớ lại cái hợp đồng bất thành văn quỷ quái của cuộc đời mình, đôi tay xuôi xuống.

Sao thế nhỉ? Một người dưới đáy xã hội như cô ta mà vẫn còn tin vào bản thân ư? Vậy sao Vân không tự mình thay đổi số phận? Tôi không biết Vân đã học đến lớp mấy, gia cảnh thế nào và vì sao lại làm cái nghề hèn kém, khiến người ta không thể đối xử với cô bình đẳng như với những người khác ngay từ trong ý nghĩ. Coi thường, đó là sự đồng hành với những người đối diện với cô, kể cả những kẻ tiền chùa rửng mỡ đến quán bia của các cô, chịu cái giá cắt cổ để được những cô gái như cô ngồi cạnh, mơn trớn. Những gã đàn ông vỗ ngực tự xưng "thượng đế" đôi lúc cũng làm ra vẻ tìm hiểu thân phận của các cô gái nhưng chẳng cần câu trả lời. Hỏi chỉ để mà hỏi.

Thực ra, các gã kia chẳng có tư cách và lý do gì để có thể hỏi. Những gã đàn ông ấy, mỗi khi đã dùng thân xác phụ nữ làm trò mua vui giải trí bất cứ dưới hình thức nào chăng nữa, cũng là đồi bại lắm.
 
Những gã khốn nạn! Tôi rùng mình nhớ lại bộ mặt nung núc những thịt và mỡ của sếp, đến cuộc giằng co trong phòng lạnh đóng kín và hậu quả là một chiếc cúc áo của tôi văng ra. Chuyện sẽ chẳng ai hay, sếp có thể được bảo toàn danh dự nếu chị tạp vụ không tình cờ vào phòng sếp quét dọn, bắt gặp tôi đâm bổ ra với gương mặt hoảng hốt. Và trong khi quét dọn chị nhặt được chiếc cúc áo. Thế là tôi bị sa thải vì "không đáp ứng được yêu cầu của công việc". Tiếp sau đó là những ngày thất nghiệp, lê chân khắp cái thành phố nhỏ bé kiếm việc làm. Việc gì cũng được, miễn lương thiện. Ở đâu người ta cũng bảo chờ. ủy là một cách tế nhị của câu trả lời "không".

Hy vọng kiếm được việc làm càng mong manh hơn khi người ta không tiền bạc, không cả một "chỗ dựa". Tôi quyết tâm sống tự lập mỗi khi nghĩ đến mẹ vò võ như một chiếc bóng ngay chính trong ngôi nhà mình. Cái hôm ba quát vào mặt mẹ rằng" tao làm ra tiền, tao có quyền đưa gái về nhà... đừng lộn xộn... " Hôm đó mẹ tự tử.

Thế mà nhiều lần mẹ nói với tôi sẽ tự tử, tôi chỉ cười nhạt. Cái kiểu cười có vẻ như ngạo đời nhưng thực ra cũng mang lại cho người ta chút ít niềm an ủi. Và tưởng rằng có thể an ủi được mẹ. Nhưng chẳng hiểu vì sao, cứ mỗi lần mẹ rên rỉ về điều đó, tôi lại liên tưởng đến xác cô gái trong một vụ tự tử mà tôi chứng kiến. Cô gái chấm dứt cuộc sống của mình bằng cách nhảy xuống sông. Người ta bảo, vì uất ức quá mà trầm mình. Xác chết được vớt lên đặt trên bãi cỏ trong cơn nắng gay gắt của một ngày cuối hè. Cô ta nằm đó, thân phận bọt bèo câm lặng một cách thiêng liêng cách biệt với những người tò mò xúm quanh...

May mà mẹ không biết. Người ta kịp đưa mẹ đến bệnh viện "súc" sạch đống thuốc mẹ nuốt vào dạ dày. Nếu không, với cả tôi, mẹ cũng sẽ trở nên bí mật trong cái thể xác câm lặng vĩnh viễn. Mặc kệ tất cả, mặc kệ...

Phải tự lập. Tôi đành xin tiếp thị bia. Cũng may người ta chấp nhận ngay vì tôi có một ngoại hình khá. Thực ra công việc tiếp thị bia bọt trong nhà hàng của các cô gái gặp không ít khó khăn. Họ phải làm sao luôn luôn tươi cười mà không lơi lả, đứng đắn nhưng không nghiêm nghị quá... Nói chung, phải thiết lập một khoảng cách cần thiết để tránh sự sàm sỡ của một số thượng đế... mà vẫn mời được khách mua hàng.

Một hôm, tôi bị thằng choai choai ngật ngưỡng bất ngờ thọc tay bẹo đùi. Tôi giáng cho hắn một cái tát rồi bỏ việc. Sau cú đó, tôi "gật" gã.

Tôi quen gã cũng chính trong nhà hàng. Gã đợi ai đó. Tôi đến mời gã dùng loại bia của hãng tôi tiếp thị. Gã chăm chú nhìn tôi từ đầu đến chân như thể người ta đang đánh giá cân nhắc một món đồ nào đó mà người ta có dự định sẽ mua với bộ mặt lộ vẻ ưng ý. Sau vài lần như thế, gã bảo muốn có tôi làm "vợ lẽ", rằng tôi sẽ là bà chủ một cơ ngơi khá. Gã nói về điều đó một cách chậm rãi chính xác từng chữ, dường như để tôi nhận diện sự việc thật rõ ràng trước khi đồng ý hợp đồng với gã.

Công bằng mà nói, gã chẳng làm gì để tôi phải ghét. Gã chu cấp cho tôi cuộc sống vật chất thừa thãi, giữ lời hứa để tôi làm "bà chủ" khu nhà vườn, hàng tháng thu tiền khách trọ, muốn làm gì tùy thích gã không động tới. Chỉ có điều, mỗi lần lên giường cùng gã, cảm giác như muốn nôn ọe bởi nhơ nhớp tiết ra từ chính bản thân. Tôi tập cho mình có thể đánh mất cảm giác, có thể trơ lỳ ra, nhưng không kết quả, chỉ có thể mím môi nhắm tịt mắt lại, chờ đợi lúc gã kết thúc, với luận điệu tự an ủi, rằng gã đã thẳng thắn và sòng phẳng. Còn tôi, cũng đã tự nguyện chấp nhận trò đổi chác chẳng do ai ép buộc, cũng như tự nguyện gục mặt xuống để họa cho mình một kiểu đi lầm lũi.

Vân thì khác. Vân có dáng đi rất ấn tượng. Lưng, cổ và đầu đều thẳng khiến những bước đi thanh thoát. Cũng như cách bài trí căn phòng, dáng đi của cô toát lên một sự tự tin và cô đơn quá. Tôi lấy làm lạ lùng. Cốt cách kiêu hãnh kia lại có thể chung chạ với cái mà bản thân mà cô khinh bỉ.

Đêm nọ, Vân trở về khá muộn so với thường lệ. Cô có vẻ say, tra mãi chiếc chìa khóa mà không làm được. Lại một sự lạ nữa. Tuy là gái cùng ngồi với khách nhưng chưa bao giờ cô uống. Cô cười nhạt kể: "Đổ cha nó hết xuống gầm bàn để rồi cứ đầu chai mà chém. Đó là công việc của tụi em mà". "Người ta chịu mất tiền dễ dàng thế sao?". "Thì cũng phải hy sinh chút đỉnh, quàng tay qua vai hoặc ôm cổ chẳng hạn, cốt nhất là rót vào tai chúng những lời thật trơn. Còn khoản kia "em" nào đồng ý với khách thì cuốn nhau đến một xó xỉnh nào đó ai mà biết được"...

Tôi giúp Vân vào phòng. Cô bảo tôi ngồi xuống, cô kể điều này. Cô ngước nhìn tôi, miệng cười mà mắt lại đang khóc. Những giọt nước mắt không chịu lăn ra cứ tràn trề trong mắt lấp lánh. Tôi nhận thấy ngay, đó không phải là nỗi đau, trái lại, nó đồng nghĩa với nụ cười và còn cao hơn cả nụ cười, đó là niềm hạnh phúc. Hạnh phúc khiến người ta khóc phải là một hạnh phúc lớn lao lắm.

"Ông ấy đã tin tôi. Có một người đã thực sự đau lòng trước hoàn cảnh và số phận của tôi" - Lúc này, Vân như đang nói với chính mình chứ không phải là kể cho tôi nghe nữa. Nhưng tôi vẫn ngồi đó, như thể bị dán chặt xuống chiếc ghế.

- Lúc ông ấy bước vào cùng những người khác, thằng đại ca rỉ tai em bảo, phải tiếp đón con người chững chạc kia cho chu đáo. Ông ta là nhà văn đấy. Nhà văn đây cũng cóc cần. Đã bước chân vào chốn này thì cùng họ hàng với nhau cả. Ông ta còn là một ông già cơ đấy. Càng già bao nhiêu lại càng đáng khinh bấy nhiêu. Lúc em bắt đầu dùng khăn ướp lạnh lau mặt cho ông ta theo bài bản, ông liền ngăn lại và bảo.

- Con không cần phải làm như thế.

- Thì ông đến đây làm gì?

- Để biết.

Chẳng hiểu sao lúc đó em nổi xung lên, trợn mắt hỏi:

- Vậy ông có biết vì sao tôi lại đi làm cái nghề này không?

- Ta nghe đây - Ông nhìn em như một người cha độ lượng nhìn đứa con.

Và thế là em kể hết, kể cho ông nghe điều kinh khủng mà em đã phải trải qua. Cái điều mà chưa bao giờ em hé răng cho ai biết. Cái nguyên nhân khiến em bán linh hồn cho ma quỷ.

Ông ngồi lặng lẽ. Lúc lâu sau, ông rút trong túi áo ngực đưa cho em một chiếc phong bì bảo đó là tiền nhuận bút của ông vừa nhận sáng nay, thế rồi ông đi. Em chỉ còn biết ngồi trơ ra đó, nhìn theo. Ông cúi đầu đi mải miết. Được một lúc thì rẽ sang phố khác, và em chẳng nhìn thấy ông nữa.

- Thế đám người cùng đến với ông ấy?

- Họ đang say sưa, chỉ bảo kệ Ông ấy. Ông ấy hơi bị gàn gàn đấy.

- Thế ông không khuyên dạy một điều gì sao?

- Không. Ông chỉ bảo, về đi con. Vậy thôi. Nhưng mặt ông ấy lạ lắm, như thể là nỗi đau đớn, em cam đoan với chị đấy, một nỗi đau đớn. Thế là em ngồi đó uống và uống. Chẳng ngon lành gì, đắng lắm, nhưng em vẫn uống".

Một cái gì đó đang vỡ ra. Ngay chính bản thân tôi cũng cảm nhận được. Vân run run mở xách, lấy từ trong đó ra chiếc phong bì, giọng trầm xuống như một lời thì thầm: "Em đã bán linh hồn cho ma quỷ. Và đây, chính là món tiền chuộc".

Mấy hôm sau, Vân trả phòng. Và ra đi...

Không ngờ rằng, một người ở trọ ra đi lại có thể tác động mạnh đến cuộc sống của tôi như thế. Như bị cảm, tôi lên cơn sốt, lúc nóng lúc lạnh, tâm tư thảng thốt. Tôi đóng cửa nằm lì trong phòng, đôi lúc lên cơn mê sảng. Trong cơn mê, tôi thấy mình là một vận động viên trong cuộc thi chạy đường dài. Những người tham dự cuộc thi đang cố gắng để về đích, cái đích dường như ở ngay trước mắt nhưng thực ra vẫn còn xa lắm. Người ta chạy, chạy mãi, kẻ trước người sau. Riêng tôi khó nhọc nhấc những bước chân nặng nề và cuối cùng tôi bỏ cuộc. Vài người chạy qua tôi, nhìn tôi bằng những con mắt xa lạ. Nhưng rồi có một đôi mắt với tôi thân thuộc lắm, đôi mắt với những đường hằn mệt mỏi, đau đáu nhìn tôi. Mẹ! Tôi vùng vẫy, cố tỉnh dậy, nhưng dường như ai đó níu lấy tôi. Gương mặt Vân lòa nhòa. Vân hỏi, bao giờ tôi ra khỏi nhà trọ?

Lần này tôi tỉnh được. Đầu nặng trĩu. Cảm thấy ngột ngạt, tôi mở toang cửa sổ. Chiếc lá đỏ rực hôm nào đã không còn. Thay vào đó là chiếc lá xanh non mơn mởn. Có nghĩa, trong lúc tôi trải qua những cơn mê thì chiếc lá đỏ cũng trải qua thời kỳ sống để giã biệt thân cành. Thì ra, những chiếc lá cũng có cuộc sống riêng của chúng. Còn tôi lại không dám sống bằng chính cuộc sống của mình với bao nỗi đau, hạnh phúc và khát vọng...

Cũng giống như chiếc lá đỏ trước kia, chiếc lá xanh non rung rung theo gió, như tự giới thiệu mình. Chiếc lá hình con mắt như thể nhìn tôi hỏi, tôi là ai?
 
"... Đã là con gái,

"Đến tuổi dậy thì ì..ì..

"Cô nào trông... cũng... đẹp!... "

Tôi vừa nghêu ngao ê a những câu thơ, vừa cảm phục nghĩ rằng không biết những câu thơ này của ai và tôi đã thuộc lòng từ bao giờ. Hôm nay bỗng nhiên tôi chợt nhớ đến, ngâm nga một cách thích thú và cảm thấy nó đúng vô cùng. Càng đúng hơn nữa, khi mà- lúc này tôi lại hay nghĩ đến Kim, cô bé Gia Long có đôi mắt tròn đen ngây thơ vô tội vạ mà tôi mới gặp hai tuần trước trong chiến dịch quyên góp cứu trợ nạn lụt miền Trung. Thích chí quá tôi buột miệng:

- Chí lý! chí lý! đã là con gái thì đẹp là cái chắc. Lại đến tuổi dậy thì nữa thì cô nào mà chả đẹp! Thật là đúng! Đúng không thể chê vào đâu được. Hoan hô nhà ông thi sĩ đại tài!

Nhưng, sau khi thốt ra câu cuối cùng tôi bỗng khựng lại một giây và cảm thấy có một cái gì bất ổn. Vâng, đúng vậy. Ở đời luôn có những cái NHƯNG quái ác, những định luật bất quy tắc vì tôi liên tưởng đến Mai và Tuyết, hai đứa em gái của tôi. Nghĩ đến hai đứa em tôi, tôi mới thấy rằng cái nhà ông thi sĩ nào đó đã có những câu thơ mà mới vài phút trước đây tôi cho là bất hủ, là chí lý, là đúng thật là đúng thì bây giờ, trong trường hợp này nhà thi sĩ ấy lại sai thật là sai!

Thật ra hai đứa em gái tôi không được đẹp cũng chẳng phải là lỗi của chúng nó mà thật sự là lỗi tại tôi. Nghe các cụ nói: khi người mẹ mang thai nếu nghĩ đến hay thương mến ai thì đứa bé trong bụng sẽ giống người đó. Vậy là khi mang thai các em tôi, mẹ tôi chắc phải thương mến tôi ghê gớm nên bọn nó giống tôi như đúc.

Ông bà cụ nhà tôi không chỉ là những người sành tâm lý mà lại còn biết tiên đoán cả chuyện tương lai và rất giàu kinh nghiệm nên đã "trông mặt đặt tên" cho hai đứa em tôi. Các cụ biết trước rằng đứa em lớn của tôi sau này nó sẽ rất đồ sộ nguy nga nên đặt tên cho nó là Mai. Một cái tên thôi, đủ nói lên những kỳ vọng mà cha mẹ đặt để ở con mình. Đặt tên con gái là Mai, cha mẹ tôi đã hy vọng là khi lớn lên, con mình có cốt cách của một cành mai "Mai cốt cách, tuyết tinh thần" hay "mình hạc xương mai".

Nhờ kinh nghiệm của những năm làm cha mẹ nên điều tiên đoán ấy thật quả không sai một tý nào. Mai càng lớn càng... xổ sữa. Đến khi được mười sáu tuổi thì nó đã sổ sữa đến mức tận cùng. Thế là điều mong ước mà ông bà cụ nhà tôi ước mong nơi Mai thì đã bất thành. Chắc là lúc tâm niệm, cha mẹ tôi đã không coi ngày nên chạm phải ngày vía, mất linh. Vì thế, càng lớn, Mai càng không có chút gì là mình hạc xương mai mà ngược lại, nó... vĩ đại đến nỗi có những ngộ nhận rất thường.

Một hôm, Hảo, người bạn cùng lớp lần đầu đến nhà tìm tôi. Mai ra mở cửa, Hảo vội vàng cung kính:

- Chào chị ạ, thưa chị cho em gặp Tường.

Thấy Hảo gọi mình bằng chị một cách kính cẩn và còn tỏ ra khép nép thì Mai lại nghĩ là Hảo chọc quê mình nên nó bực lắm. Mai mở cửa cho Hảo, nguýt dài một cái và xụ cái mặt ra.

Vốn đã mát da mát thịt, mặt Mai lúc bình thường đã không nhỏ nay lại xụ ra nên càng "vĩ đại" hơn. Không thèm nhìn Hảo, Mai nói cụt ngủn:

- Đi vắng rồi!

- Thưa chị, chị có biết bao giờ Tường về không ạ?

- Không biết!

Thấy thái độ của Mai như thế, Hảo lại vụng về luống cuống hơn:

- Vậy... thưa chi... cho em...

Hảo chưa đứt lời thì bỗng nghe Mai hét tướng lên:

- Có gì thì nói đi! Thưa thưa với gởi gởi hoài, phát mệt!

Bị bất ngờ đối xử một cách lạnh lùng tàn nhẫn trong khi cố gắng lễ phép hết mình, Hảo hoang mang và bất nhẫn đứng im chưa biết phải phản ứng ra sao. Thấy vậy, Mai bỏ vào trong nhà để Hảo đứng ngơ ngác một mình với câu hỏi không hiểu là mình đã làm gì lầm lỗi để cho bà chị của Tường giận mình như vậy.

Nghe tiếng Mai hét, bà cụ tôi không hiểu chuyện gì vội từ nhà bếp chạy lên. Thấy nét mặt Mai hầm hầm bực bội đi vào và thấy Hảo đứng bơ vơ ngoài phòng khách, đoán hiểu phần nào, cụ Ôn tồn chữa ngượng cho cả hai:

- Chào cậu, mời cậu ngồi chơi, em Tường đi với ông nhà tôi chắc đến tối mới về, cậu có cần gì, tôi nhắn lại.

Hảo chưa kịp lấy lại hồn vía sau cuộc gặp gỡ với Mai nên nói không có gì nhắn. Hắn vội chào mẹ tôi rồi lỉnh mất.

Hôm sau vào lớp, vừa thấy tôi Hảo đã trả thù:

- Trời đất qủy thần ơi, thằng Tường có bà chị ghê qúa chúng mày à! Bà ấy vĩ đại lắm, lại xấu không chịu được. Đã thế, bà ấy còn có nghề bán mắm tôm. Hôm qua, tao đến tìm thằng Tường, bị bà ấy cho ăn mấy gói mắm tôm. Khiếp qúa! Kinh khủng quá!

Quang thật thà:

- Thằng Tường làm gì có chị? Chắc mày vào lầm nhà thì có!

Lâm chen vào đùa cợt:

- Ông cụ non như mày vào lầm nhà được ăn mắm tôm là phúc lắm đấy con ạ. Ai chứ mày vào lầm nhà tao, tao cho ăn đấm!

Lâm quay lại tôi:

- À, mà bà nào ở nhà mày mà ghê qúa vậy Tường? Sao không báo động cho chúng tao đề phòng với ha?

Tôi ngượng ngùng chậm rãi phân trần:

- Làm gì có bà nào? Con em tao chứ ai. Nó tức mình vì bị thằng Hảo cung kính gọi nó là chị xưng em lại còn khúm núm thưa thưa gởi gởi, nó nghĩ là thằng Hảo thấy nó to con rồi chọc quê nó nên nó nổi sùng!
 
Cả bọn cười ầm lên. Thế là từ đấy tôi có điều gì không ăn ý với lũ bạn là bọn nó lại lôi chuyện "gói mắm tôm" ra để làm áp lực với tôi. Vốn bản tính dĩ hòa vi qúi lại nể bạn, thương em, tôi không muốn tụi bạn mình thêm mắm dậm muối nói những điều oan ức cho Mai nên tôi luôn nhượng bộ. Nhưng tụi nó cũng đâu có để Hảo yên thân, hễ Hảo làm gì không vừa ý thì bọn nó la lên:

- Tường ơi, mày về xin "bà chị" mày gói "mắm tôm" cho thằng Hảo giùm tụi tao được không? Nó có vẻ nghiền món mắm tôm của chị mày nặng rồi Tường à. Không tin, đến đây mà xem nó đang lên cơn nghiền nè!

Lúc đầu chúng tôi còn bò lăn ra cười với nhau mỗi khi có dịp chọc ghẹo nhau như thế. Nhưng sau bị tụi bạn ghẹo trước mặt cả mấy cô nữ sinh trường bạn đến thăm, làm mấy cô này chả hiểu ất giáp gì cả, cứ nhìn Hảo và tôi dò hỏi làm Hảo mắc cở, nổi sùng. Nhất qủi, nhì ma thứ ba học trò, lời các cụ nói thật chẳng sai chỗ nào. Càng thấy Hảo nổi sùng thì tụi bạn càng thấy trò chơi của mình thành công và càng làm tới. Trong đó, chỉ vì là anh của Mai, tôi cũng là nạn nhân của bọn "thứ ba" này. Sau thấy tức giận không giải quyết được thì Hảo đành phải xuống nước:

- Tao van tụi bay, tụi bay muốn làm gì cũng được nhưng đừng đề cập đến vụ "gói mắm tôm" trước mặt bọn con gái, làm tao muốn độn thổ luôn.

Đứa em gái út của tôi là Tuyết. Mẹ tôi sanh nó vào đúng đêm Ba Mười Tết. Thời đó ở ngoại ô chưa có đèn điện nên đêm Ba Mươi đã tối lại tối hơn. Cả nhà chỉ có một cái đèn dầu le lói nên khi bà Mụ nắm đầu nó lôi ra thì chỉ nghe tiếng khóc oe oe chứ chẳng nhìn thấy nó đâu. Mẹ tôi nói ước gì nó trắng như cuộn bông gòn Bạch Tuyết để nhìn cho rõ mặt. Chắc vì nghĩ thế, mẹ tôi bèn bàn với bố tôi đặt tên nó là Tuyết. Ông cụ thấy có lý nên bằng lòng ngaỵ Hôm sau, sáng sớm Mồng một Tết, bố tôi khăn áo chỉnh tề đến chúc tuổi ông Xã trưởng và làm giấy khai sinh ngay cho nó.

Khác với Mai, Tuyết thì gầy ốm tong teo và đen bóng. Vì gầy quá, hai mắt của nó trở nên to thao láo và lộ ra như mắt con cá vàng, hàm răng của nó vêu vẩu trắng toát khoe ra lúc nào trông cũng như cười, nổi bật hẳn trên màu da đen thui của nó. Giá lúc sanh ra mà nó có hàm răng như thế này thì chắc mẹ tôi đã nhìn thấy và sẽ đặt tên nó khác đi. Nhưng Tuyết lại hiền hơn con chị. Nếu có ai gọi nó là "cây sậy" hay "chiếc đũa mun" thì nó cũng chỉ "cười" với "nụ cười hàm tiếu sẵn nở trên môi" chứ không hề giận dỗi ngúng nguẩy như Mai.

Bạn bè Tuyết còn bảo là Tuyết có tài đóng kịch, nhất là môn cải lương. Chỉ nghe nói thế thôi, còn thật sự tôi chưa bao giờ được nghe nó ca hát gì cả. Chỉ có một lần Phúc đến nhà tôi để đi chung xe đạp đến lớp vì xe của Phúc bị hư, Tuyết ra mở cửa, với bản tính vui vẻ cố hữu và "nụ cười trời cho", Tuyết nói một câu rất... cải lương:

- Chào anh Phúc, nghe anh Tường em nhắc anh hoài, khen anh học giỏi vậy mà hôm nay em mới được gặp anh. Thật là hữu xạ tự nhiên hương! Mời anh vào, anh Tường em đang chờ anh ở trong nhà ấy!

Tôi đang bỏ mấy cuốn sách vào cái túi da bỗng phì cười. Tôi có nhắc tên của Phúc ở nhà hồi nào đâu. Hơn nữa, xạ Ở đâu ra mà tự nhiên hương như vậy? Cái con bé này mồm miệng qúa! Giữa trưa tháng Năm oi ả, Phúc như được uống một ly nước dừa xiêm mát lịm, chàng theo chân Tuyết vào nhà ngồi chờ tôi ở chiếc ghế sa lông và lòng thì cứ ngẩn ngơ mãi với "nụ cười muôn thưở" của "chiếc đũa mun". Đến khi tôi bước ra, tằng hắng, Phúc mới tỉnh khỏi cơn mê hồn trận. Tôi cười với Phúc:

- Mình đi thôi, Phúc!

Đến giờ nghỉ chuyển môn, Phúc quảng cáo:

- Thằng Tường có cô em gái dễ thương hết sẩy tụi bay ơi! Đứa nào muốn nộp đơn làm em rể nó thì phải đứng xếp hàng sau lưng tao đấy nhé!

Hảo vội vàng phản đối:

- Mày điên nặng rồi hả? Có điên thì điên một mình mày thôi Phúc ơi!

Rồi Hảo gào lớn hơn cho mấy đứa còn chưa chú ý lắm vào câu chuyện:

- Ê! tụi bay đừng đứa nào nghe thằng Phúc xúi dại nghe. Tao hả, thằng Tường mà tình nguyện gả em gái nó cho tao, tao còn kêu lính bắt và đòi bồi thường thiệt hại nữa kià chứ ở đó mà xếp hàng!

Cảm thấy Tuyết bị tổn thương Phúc cự nự:

- Ê, ăn nói vừa thôi, thời buổi này phát ngôn bừa bãi ở tù đó con ạ! Người ta như thế mà mày chê! Để tao xem bồ mày đẹp đến cỡ nào cho biết!

- Chả đẹp đến cỡ nào cả, nhưng nếu tao có bồ, tao sẽ không bao giờ chọn một bà mập ú, mặt như cái bánh bao chiều lại còn chanh chua kinh khiếp như em thằng Tường cả!

Quang cười cười:

- Đừng mạnh miệng quá Hảo, coi chừng ghét của nào trời trao của nấy đó!

Hảo bĩu môi trả lời Quang trong lúc Phúc nhìn Hảo ngơ ngác hỏi:

- Mày nói cái gì lạ vậy Hảo? Em thằng Tường đâu có ghê gớm như vậy đâu? Cô bé xinh xắn, nước da bánh mật và ngọt như cục đường phèn, dễ thương như chiều chủ nhật! Có mày lúc nào cũng đòi hỏi tuyệt hảo. Hèn chi tên mày là Hảo cũng có lý do.

Hảo phá lên cười:

- Ối giời đất ơi, ối làng xóm ơi, ối tụi bay ơi, em thằng Tường to bằng cái thùng phuy đựng nước. Mỗi bước chân em đi thì rung chuyển cả ngôi trường Nguyễn Trãi này. Em mà lườm cho một cái thì dù đang mùa Xuân hoa cũng héo, phán ra câu nào thì câu ấy sặc mùi mắm tôm thế mà thằng con nhà Phúc khen được là xinh xắn ngọt ngào dễ thương thì có chết không cơ chứ!... Liệu, mày cầm sách vở giùm tao để tao rảnh tay đưa thằng Phúc vào nhà thương Biên Hòa tĩnh dưỡng!

Phúc cảm thấy Tuyết bị xúc phạm một cách nặng nề và chính chàng cũng bị xúc phạm. Chỗ bạn bè với nhau, chàng bị xúc phạm còn có thể châm chế nhưng Tuyết bị xúc phạm thì không thể nào tha thứ được! Nghĩ thế, mặt cậu đỏ gay, vừa toan phản pháo thì giáo sư đã vào lớp và kêu gọi vãn hồi trật tự.

Sau mùa thi tú tài toàn phần năm đó, lũ chúng tôi đứa thì lên đại học tiếp tục dùi mài kinh sử, đứa thì lên đường nhập ngũ để làm người hùng của em gái hậu phương. Có đứa may mắn hơn được cha mẹ gởi đi ngoại quốc du học. Riêng tôi thì sau hai năm học Khoa học, chán qúa thi vào Hải Quân để dệt mộng hải hồ. Chúng tôi, sáu đứa ngồi hai bàn liền nhau trong suốt hai năm dài, từ đó, chỉ còn gặp gỡ nhau qua những bì thư nhỏ.

Lần lượt một vài đứa chúng tôi có vợ, có con. Vì hoàn cảnh phải thay đổi chỗ ở luôn luôn, vì bận rộn của công việc, chúng tôi dần dần mất liên lạc với nhau. Chỉ có Quang và tôi là thỉnh thoảng còn gặp gỡ. Quang phục vụ Ở chi khu Hội An còn tôi sau bốn năm theo Tuần Giang Đỉnh tôi đổi về đất liền, ngay căn cứ Hải Quân Đà Nẵng.

Một buổi chiều vừa ở văn phòng về, Trung, đứa con trai thứ hai vừa lên ba tuổi của tôi cầm một phong thư đưa cho bố. Cu cậu bập bẹ từng tiếng:

- Bố, thợ Ông nội. Bà nội. Mẹ đọc, bố đọc.

Tôi cởi áo ngoài vắt trên thành ghế rồi ẵm bổng Trung lên hôn vào cổ nó làm Trung nhột cười sặc sụa. Sau đó tôi đặt cu cậu ngồi trong lòng tôi và mở thư ra đọc.

“Gia Định ngày... tháng... năm...

Hai con thương yêu của bố mẹ,

Cu Lớn, cu Nhỏ và bé Diễm yêu quý của ông bà nội,

Bố mẹ viết thư thăm vợ chồng con và lũ nhỏ. Gia đình con khỏe mạnh bố mừng. Bố mẹ mới nhận được thư

của vợ chồng con Tuyết hôm kia, sau thư của vợ chồng con hai ngày. Tụi nó báo tin mừng là đứa con thứ hai của chúng nó sẽ chào đời vào khoảng tháng Hai năm tới. Chồng nó, thằng Lộc mới đổi về tiểu khu Long Khánh. Đặc biệt thư này bố mẹ báo cho các con một tin mừng là bố mẹ đã định ngày cho nhà trai làm đám hỏi con Mai. Chú rể tương lai của nhà mình có cái tên đẹp lắm: Hảo, Nguyễn Ngọc Hảo. Hảo tốt nghiệp kỹ sư điện ở Nhật về được mấy năm nay và hiện làm Phó Giám Đốc nhà máy điện Thủ Đức. Kể ra thì cũng là duyên nợ với nhau hay sao ấy chứ con Mai nhà mình từ chối hết đám này đến đám khác, mẹ mày cứ giục giã vì không muốn nó muộn màng. Cho đến hôm nó đi dự đám cưới bạn nó, cô giáo Huệ. Huệ là em họ của Hảo và thế là hai đứa nó gặp nhau. Chúng nó thư từ qua lại đã bảy tám tháng rồi và nhà trai mới đến xin hỏi cưới hôm quạ Nghe nói xưa Hảo cũng học ở Nguyễn Trãi như con, không biết con có biết Hảo không? Vậy nhớ đến ngày... tháng... các con liệu mà thu xếp đem bày nhỏ về ăn đám hỏi cô Mai nó.

Bố mẹ chúc các con khỏe mạnh, may mắn, lũ nhỏ hay ăn chóng lớn và ngoan ngoãn.

Bố me.

T.B. Ông bà nội nhớ Cu Lớn, Cu nhỏ và bé Diễm lắm. Tụi con nhớ về thăm nội nghen!”

Chẳng phải moi móc lâu la trong trí nhớ tôi có thể đoán chắc 99% Hảo, thằng em rể tương lai của tôi chính là Nguyễn Ngọc Hảo, thằng bạn cũ của tôi trong những năm Đệ nhị, Đệ nhất ở Nguyễn Trãi. Là đứa bị con Mai đối xử rất ư là tàn nhẫn vô nhân đạo ngày nào và sự tích "mắm tôm" được khai sanh từ đó. Là đứa mà từng to họng cay cú chê con Mai là thùng phuy, là xấu ghê xấu gớm, xấu không chịu được. Là đứa đòi kêu lính bắt tôi và đòi bồi thường thiệt hại nếu chẳng may tôi lỡ dại tình nguyện gả em gái tôi cho nó.

Trong sáu đứa chúng tôi chỉ có mình Hảo là được đi du học ở Nhật vì nó học rất giỏi lại con nhà giàu. Tôi chợt thấy vui buồn lẫn lộn khi nhớ đến đám bạn ngày xưa. Buồn nhất là khi nghĩ đến Lâm. Cũng như tôi, sau hai năm học Khoa Học, Lâm đi lính tàu baỵ Phi cơ thám thính của nó bị bắn rơi ngay trong phi vụ đầu tiên ở biên giới Việt – Lào. Lâm được ghi là mất tích và đến nay vẫn không ai có tin tức gì về nó. Liệu hiện làm luật sư ở tòa án Saigon. Nghe nói Liệu cưới vợ đã mấy năm nay và đã có một con. Phúc sau khi lấy được bằng Dược sĩ có đi dạm hỏi Tuyết nhưng không hiểu sao chuyện lại chẳng thành. Nghe nói giờ này Phúc vẫn còn độc thân vui tính. Quang thì cưới vợ đã hơn ba năm nhưng chưa có con và từ ngày đổi về chi khu Hội An thì cuộc sống của Quang có vẻ an nhàn hơn tất cả. Nghĩ đến Quang tôi lại nhớ đến lời nó nói với Hảo ngày nào: "Đừng mạnh miệng qúa Hảo. Coi chừng ghét của nào trời trao của nấy đó!" Tôi bỗng phá lên cười. Quang hiền lành ít nói thật nhưng nói câu nào linh câu ấy.

Cũng may cho Hảo, sau lần thấy Mai đối xử không phải với Hảo, các cụ tôi bắt Mai ngồi nghe giảng suốt mấy tiếng đồng hồ. Từ đó, nó đổi tính, chịu khó bơi lội, tập thể thao và đến ngày Mai thành cô giáo thì mọi người mới chợt nhận ra rằng điều ước của ông bà cụ nhà tôi đặt vào nó từ lúc mới sanh đã được bà tiên nào đó dùng đũa thần làm ước mơ biến thành sự thật. Từ lúc nào không ai nhớ được, chỉ biết rằng Mai bây giờ đúng là một thiếu nữ dù đã qua tuổi dậy thì rồi thế mà "trông cũng đẹp", đúng như câu thơ bất hủ Ngày xưa. Không biết rằng sau những tháng thư từ tìm hiểu nhau như thế, Hảo có tìm hiểu được một điều rất quan trọng rằng Mai chính là cái thùng phuy, là "bà chị mắm tôm" năm cũ hay không.
 
Bé Ngoan tháng nào cũng nhận được thư của ba nó. Nhất là tháng nầy, nó nhận được hai lá thư liền, thư trước hỏi tình hình học tập, nó viết gửi đi, rằng năm nay nó được học sinh tiên tiến, lẽ ra phải xuất sắc kia, nhưng thi môn văn chỉ được điểm bốn thôi. Môn văn bốn điểm là tại vì học kỳ nầy cô giáo ra đề biểu tả "ba em và công việc hàng ngày", "mà con đâu có biết mặt ba, đâu có biết hàng ngày ba làm gì đâu", trong dòng chữ nguệch ngoạc dường như giận dỗi. Thư đi thư lại ba nó viết: "Chừng nào bé Ngoan đúng 10 tuổi sẽ được gặp ba". Nó nôn nao chờ đợi cái ngày đó quá trời

Bé luôn luôn chờ đợi cái ngày ba về. Có ba rồi, sẽ có người đánh bé khi bé lì, có người khen bé khi bé được điểm mười. Ba sẽ dạy bé cách làm cho mẹ vui để mẹ không khóc một mình nữa, bé Ngoan luôn luôn nghĩ vậy.

Bé Ngoan dễ thương y như tên của nó. Năm giờ sáng, Ngoan đi chợ mua giá, mua bánh lọt về cho má bán điểm tâm sáng. Tánh sợ ma, chuyến đi bé toàn chạy chuyến về, trời sáng nắng vẫn chạy lụi đụi vì sợ trễ giờ má dọn hàng. Buổi sáng, bé Ngoan vừa bưng bê tiếp má vừa học bài. Buổi chiều đi học về tới nhà là xách cái thùng cũ mèm tí teo xuống nhà ăn huyện đội xin cặn heo. Ngoan không bao giờ vòi vĩnh má đòi đồ chơi, đòi keo bánh. Bé chỉ đòi được gặp ba thôi. Bạn bé ai cũng có ba hết, thiệt đó.

Hồi lớn lên tới giờ, bé Ngoan chưa hề gặp bạ Má kể, ba đi làm ăn lâu lắm, khi nào Ngoan lớn ba sẽ về. Nghe nói vậy, bé chạy lại coi kiếng, bé hỏi má, "Con giống ba phải hôn, má?". Ngoan mặt vuông, nhìn vào thấy ngay đôi mày rậm như hai con sâu róm đậu im lìm, đen như mực tàu. Hai con sau chỉ lọ mọ bò khi bé cười. Bé cũng không giống mẹ Ở cái cổ, cái cổ bé ngắn còn cổ của mẹ thì trắng và cao. "Mình nhât" đinh giống ba", Ngoan quả quyết.

Tư khi về nhà, má cất cái quán bên chân cầu, đằng trước huyện đội nên có nhiều chú bộ đội vào uống café. Ngoan thân nhất là chú Quang. Chú Quang còn trẻ nhưng để hàng rau rậm ơi là rậm cộng với nước da đen bóng nên trông hơi già. Ngoan học toán thì hơi đi... tệ, chú Quang kem cho khá lên. Ngoan học văn cũng không giỏi, chú Quang mua sách biểu Ngoan đọc. Bé Ngoan siêng học nhưng lại không sáng dạ lắm. Có bữa chú Quang đi công tác về, không thấy bé Ngoan nhảy ra lúng tứng, hai vẫy dịu quặt, miệng hò reo như mỗi lần chú bước chân qua cửa. Chú lạ quá, hỏi bé Ngoan đi đâu rùi cà, má chỉ trong buồng. Bé Ngoan đang ngồi khóc. Chú Quang cười, "Con trai ai mà khóc?", Be Ngoan nói trong từng tiếng nất ngắn:

-Thầy con nói năm nay con học yếu hơn năm rồi. Con sợ quá hà. Ba con mà hay được chắc hỏng thương con nữa.

Chú Quang bật cười:

-Sao lại không?

Bé Ngoan cúi mặt giấu đôi mắt ướt nhẹp:

- Thiệt mà, chú.

- Bậy - Chú Quang bảo - không có đâu mà. Làm con trai phải mạnh mẽ, thiệt là mạnh mẽ cho má nương tựa chớ, ai mà khóc.

Vài hôm sau, bé Ngoan nhân được thư ba, ba viết dù Ngoan có học thế nào thì ba cũng thương, nhưng ba lúc nào cũng mong con học giỏi, học giỏi mới thành tài, mới giúp ích cho nhiều người. Bé Ngoan cươi hơn hớn chạy di khoe thư ba với má, với chú Quang. Má nhìn chú Quang. Chú Quang vỗ đâu Ngoan cười. Có thể má cũng cười nhưng má hay cười một mình cũng như hay khóc một mình, má giấu không cho Ngoan biết. Ngoan không thíc vậy, Ngoan thích như chú Quang hơn, phải cười vang như vậy người khác mới biết chớ.

Chú Quang hay đi công tác lâu ngày, những lúc như vậy bé Ngoan mới thấy mình thương chú lắm. Thương mới nhớ chớ. Lúc chú về, bé Ngoan biểu chú mai mốt đừng có đi nữa. Chú bảo đâu có được, chú có nhiệm vụ mà. Bé Ngoan bày ra nói với chú bao nhiêu là chuyẹn, bé muốn chũng câu chuyện ấy sẽ giúp chú đừng đi đâu xa nữa. Trong muôn vàn câu chuyện đó, có chuyện rằm tháng hai này, khi Ngoan tròn 12 tuổi, ba Ngoan sẽ trở về. Bé kể chuyện đó xong, thấy chú Quang buồn, Ngoan ôm cổ chú, lúc lắc cái đầu chú:

-Chú đừng có buồn, dù ba con về, con cũng thương chú như vầy luôn, thương hoài thương huỷ.

Bé Ngoan chờ tới cái ngày đó dữ lắm. Bé lav(' ghế trèo lên lột lịch hoài. Bữa nay mùng mười, mười một, mười hai... ban đêm, bé ra ngoài sân ngó lên trời, đinh ninh rằng, "Ba sẽ về trong cái đêm trăng tròn ủm giống y cái tô". Bây giờ trăng vẫn con méo xẹo. Mẹ nói mẹ sẽ làm sinh nhật cho bé Ngoan, sinh nhật giống y trong phim vậy, có cắt bánh, có thổi đèn, có hái bài ca sinh nhật (nếu không ai thuộc thì có thể bỏ khoản này). Bé chờ tới mức nằm mơ luôn. Chiêm bao cũng thấy bánh, thấy ba, mà khong, chỉ thấy cái lưng ba thôi thì đã giật mình thức dậy, tiếc thiệt.

Tiếc thêm một chuyện nữa, chú Quang lại đi công tác, chú nói không biết kịp về ngày sinh nhat bé ngoan không. Nhưng dù về trễ, thế nào chú cũng tặng Ngoan một món quà đặc biệt. Bé Ngoan hơi buồn một chút rồi thôi, mai nữa là đã rằm.

Sinh nhật bé vui thật là vui, má cho Ngoan mặc bộ đồ mới mặt có một lần hôm tết. Má mời đám trẻ cùng xóm về, tụi nó không hát, không múa, chỉ giỡn với ăn. Nhưng cũng vui. Mấy chú bộ đội xuống, tăng cho Ngoan nào là xe hơi, súng lục (tất nhiên là bằng nhựa) bảnh phải biết. Tiệc tan, mấy chú về, bạn bé Ngoan cũng về. Khuya rồi, phải về nhà ngủ chớ. Má nói:

"Chắc bữa nay chú Quang không về đâu". Ngoan không chịu cho má đóng cửa, "Con chờ ba, má. Ba biên thư nói đúng hôm nay sẽ về. Má đóng cửa, ba vô nhà hỏng được rồi sao?". Lần đầu tiên má bật khóc trước mặt Ngoan, má nghĩ chắc phải nói thật với Ngoan rằng, ba sẽ không bao giờ về được nữa đâu... Ngoan lạ lắm, ba sắp về, má không mừng, không cười thì thôi làm gì phải khóc. Người lớn mà khóc gì.

Ngoan chờ mãi, chờ hoài. Khuya thật là khuya, trăng đã lên ngay trên đỉnh đầu bé, trăng tròn ơi là tròn, sáng ơi là sáng nhưng ba vẫn chưa về. Lúc Ngoan quay lưng vào Ngoan nghe thấy tiếng chân người gấp rãi chạy trên cầu. Rồi bóng chú Quang hiện ra cửa, giày chú đầy bụi, quần chú quệt vào đám cỏ loằn ngoằn nhửng vệt nước. Chú ôm bé Ngoan vào lòng, nâng bé lên bằng đôi tay rắng rỏi, quay bé mấy vòng thiếu điều chóng mặt luon, chú nói to:"Con có thích gọi chú bằng ba không. Ba về rồi nè". Ngoan dụi mũi vào mái tóc dầy, to ấm của chú, mũi nó ướt mù sương. Sau nầy, nó sẽ không bao giờ nhớ tới ba nữa, ba không giữ lời, nó chỉ thương chú Quang thôi. Ngoan khẽ gọi:

-Ba, ba Quang.

-Gì-Chú Quang lật ngửa nó ra-Con vừa nói gì đó, nói lại nghe.

-Ba ơi! Ba!

Ngoan vừa nói vừa cười khanh khách. Chú Quang lại các dốc ngửa Ngoan trên vai quay mòng mòng. Trong cái nhìn chỏng ngược, Ngoan thấy má đứng chổ góc nhà, má cười mà nước mắt má rơi. Ngoan thíc má như vậy hơn, như vậy mới giống chú Quang. Ngoan kêu lớn:

- Má ơi! Ba ơi!

Vậy là mình có gia đình rồi, Ngoan thầm reo lên trong lòng, hồi học lớp hai, cô giáo dạy, nhà có ba, có má, có mình là thành một gia đình. Ô vui quá!
 
Chuyện tình buồn của tôi được bắt đầu từ khi tôi bước lên đại học và đây là một mối tình mang nhiều tính chất lãng mạn của riêng tôi. Với tôi nó là sự lựa chọn đầùu tiên khi mới lớn, lần đầu tiên biết yêu thầm nhớ trộm. Nhưng rồi nó đã kéo dài sự nối tiếp miên viễn trong cuộc sống. Ngày xưa tôi được nghe kể chuyện “ Hòn vọng phu” đề cao vai trò của người vợ hiền, với một mối tình thuỷ chung tuyệt đối của người chinh phụ khi phải chờ đợi người yêu để rồi hóa thành đá. Ngày nay tôi đã nghiệm ra cái lý lẽ thầm kín mà người ta đã thuỷ chung trong tình yêu: Bởi vì người ta đã dành một sự yêu thương tuyệt đối cho sự chọn lựa thiêng liêng của cá nhân mình, cho dù có thể sự chọn lựa đó có tính chất một chiều mà thôi.

Tôi gặp chàng tại ngôi trường dạy về các bộ môn Kinh Tế và Thương Mại thuộc Viện Đại Học Minh Đức ở Sài Gòn ngày xưa. Chàng học trên tôi hai lớp và cũng hơn tôi hai tuổi. Người tôi nói ở đây là Minh Trung, một thanh niên khôi ngô, dễ mến mà tôi đã thần tượng hóa trong lòng và đem lòng nhớ thương âm thầm từ nhiều năm qua rồi. Sự thương nhớ đó giống như một ảo ảnh của cuộc đời đối với cuộc sống có nhiều thăng trầm và khổ sở của tôi. Lớp tôi học được tổ chức thành từng nhóm nhỏ gồm mười hai sinh viên, nhóm của tôi gồm có bảy trai và năm gái. Thông lệ của nhà trường khuyến khích các lớp đàn anh chị Ở lớp trên xuống hướng dẫn các khóa đàn em trong việc học hành, làm bài vở như một hình thức tutoring. Đó là lý do tôi đã gặp và quen chàng. Trong năm cô gái thì có ba người là thân nhau như chị em ruột, đó là Lan Chi, Ngọc Anh và tôi. Cả ba chúng tôi đều học cùng trường Regina Pacis ở Sài Gòn. Khi gặp lại nhau ở trường Kinh Thương Minh Đức thì thật là dễ dàng cho chúng tôi kết thân với nhau, nhất là khi học cùng nhóm nên chúng tôi phải bỏ ra nhiều thì giờ học với nhau hơn. Đó là cái ưu điểm rất lợi trong việc học theo nhóm, mỗi thành viên trong nhóm được nâng đỡ hay đóng góp ý kiến của mình để bổ túc lẫn nhau và từ đó sự học hỏi được thăng tiến mau lẹ. Nhóm tôi được Minh Trung nhận đỡ đầu trong việc tutoring. Riêng ba cô gái chúng tôi là chiếm thì giờ của chàng nhiều nhất vì thường hỏi han bài vở hoặc có thể vì chúng tôi chậm tiến trong việc thấu hiểu những lý thuyết kinh tế tài chánh trong học trình ở bậc đại học này. Tưởng cũng nên ghi nhận rằng Trung là một sinh viên xuất sắc trong nhiều môn học. Những bài vở của chàng ghi chép, trình bày rất rõ ràng, mạch lạc , dễ hiểu và dễ tham khảo. Những bài vở dành cho chúng tôi, chàng luôn luôn giải thích cặn kẽ, kỹ lưỡng. Cũng nhờ đó mà chúng tôi đã quen dần với các môn học dễ dàng hơn. Một dặc điểm khác là Trung rất yêu chuộng thể thao, chàng có một thể lực khỏe mạnh và rất thích chơi hai môn bóng rổ và tennis. Tôi để ý đến khả năng thể thao của chàng từ khi tham dự buổi picnic của trường tại Công ty Đường Biên Hoà. Đây là buổi họp mặt qui tụ tất cả sinh viên các lớp cùng với các thầy, cô của phân khoa. Buổi picnic có nhiều sinh hoạt giải trí và những giải thưởng thi đua về thể thao. Bộ ba chúng tôi đã hậu thuẫn cho đội banh của Trung khi thi đấu với các đội khác. Tôi đã khám phá ra sự nhanh nhẹ với một kỹ thuật vững chắc về môn bóng rổ, cũng như những đường banh tennis lả lướt nhưng rất chính xác của chàng. Từ đó tôi đâm ra yêu thích hai bộ môn này.
 
Lan Chi, Ngọc Anh và tôi thường hẹn nhau học ở thư viện của trường, nhiều lúc học với bạn bè trong nhóm, nhưng có những lúc chỉ có ba đứa chúng tôi mà thôi. Trung rất kiên nhẫn và ít khi nào cau có đối những bài vở mà chúng tôi thường thắc mắc hỏi đi hỏi lại. Trung có người em gái tên Mộng Thu, bằng tuổi chúng tôi, nhưng nàng lại học ở Trường Chính Trị Kinh Doanh Đà Lạt vì Thu thích khung cảnh cao nguyên Đà Lạt. Cũng vì thế mà chàng xem chúng tôi như Mộng Thu. Có vài lần Trung đưa Thu vào trường thăm viếng và đã giới thiệu Mộng Thu với tụi tôi. Ngoài giờ học ở Minh Đức ra, Trung và ba cô gái chúng tôi còn học thêm Anh văn ở Hội Việt Mỹ nằm ở trên đường Mạc Đĩnh Chi. Do đó trong ngày chúng tôi có quá nhiều giờ để gặp nhau. Trung học lớp 16 ở Hội Việt Mỹ nghĩa là cao hơn chúng tôi đến bảy lớp. Vì thế mà chàng còn đóng thêm vai trò thầy giáo Anh ngữ cho chúng tôi. Thỉnh thoảng chàng còn giúp chở chúng tôi đi học hoặc về nhà khi chúng tôi bị trở ngại về phương tiện di chuyển. Nếu Trung là biểu tượng của người anh lớn tuyệt vời, thì cá nhân tôi nhìn chàng xa hơn ước vọng làm người anh cho tôi. Dù chơi thân với Ngọc Anh và Lan Chi, nhưng mỗi khi thấy Trung chở các bạn tôi trên xe, lòng tôi bỗng dâng lên một sự ích kỷ nào đó, tôi nghĩ là tôi đã yêu chàng và được độc quyền về chàng mà thôi. Riêng với Trung thì chàng rất tế nhị và dễ tính. Mỗi khi cần đến sự giúp đỡ, chàng ít khi nào từ chối một ai. Một hôm, tôi đứng trước Hội Việt Mỹ đợi xe nhà đến rước về, nhưng vì xe hư bất ngờ nên chú tài xế đã không đến được đúng hẹn. Trung chạy xe ngang và dừng lại hỏi tôi muốn chàng đưa về dùm không. Tôi đã nhận lời. Cũng ngày hôm đó Trung được Lan Chi cho biết là đúng ngày sinh nhật của tôi nên chàng cũng ngỏ ý mời tôi đi ăn tối ở khu La Cai Chợ Lớn. Tôi nhờ chàng chạy ghé về nhà tôi đễ dặn chị người làm là tôi sẽ về tre,ã vì thường thì mỗi lần đi học về trễ tôi hay bị cha mẹ hạch hỏi đủ điều. Chính trong buổi ăn này tôi có dịp hỏi han về gia đình của chàng nhiều hơn. Tôi được biết bố của chàng là một vị bác sĩ học ở Pháp về và tranh cử vào Quốc Hội làm dân biểu, mẹ của chàng là một dược sĩ hiện làm một chủ tiệm thuốc tây khá lớn. Hai ông bà muốn sau khi chàng học xong ở Minh Đức thì sẽ xuất dương đi du học thêm lên cao. Tôi mang một chút buồn bã trong ý nghĩ, tôi hỏi chàng như vậy cơ hội được chàng giúp chúng tôi chỉ còn ít hơn hai năm mà thôi và chàng xác nhận diều ấy. Nhưng rồi những biến chuyển của thời cuộc miền Nam đến dồn dập và chàng đã xuất dương sớm hơn dự định.
 
Sau tháng tư năm 75 tôi được tin nhiều bạn bè và thầy cô đã ra xứ ngoài, lòng tôi quá chán nản và không còn thiết tha muốn đến trường nữa vì nơi ấy chỉ làm tôi buồn thêm, vì tôi sẽ không còn gặp Lan Chi, Ngọc Anh, các bạn bè, nhất là Minh Trung đã có cơ hội bỏ ra đi. Bố tôi bị gọi đi cải tạo, mẹ tôi cố gắng lo cho từng đứa con ra đi. Anh lớn tôi đã du học tại Pháp và đã kết hôn với một người phụ nữ bản xứ. Chị em chúng tôi còn lại ở Việt Nam cũng đã cố gắng vượt biên ra đi nhiều lần nhưng đều thất bại, có lần tôi và các em bị Ở tù tại Rạch Giá nhưng ước vọng vượt biên vẫn không bao giờ nguôi. Năm 78 tôi và hai cậu em trai đã thành công vượt thoát sang Thái Lan và được anh tôi bảo lãnh sang Pháp. Chúng tôi ở chung với gia đình anh lớn của tôi được vài tháng ngắn ngủi, nhưng vì những tế nhị đối với bà chị dâu người Pháp nên chị em chúng tôi dọn ra ở riêng và tự túc lo lấy cho mình. Tôi phải lo đi làm để nuôi hai cậu em ăn học thay cho bố mẹ tôi vẫn còn kẹt lại nơi quê nhà. Ban ngày tôi đi làm, ban đêm đến trường học thêm về nghề nghiệp. Khởi đầu, tôi làm về data entry và từ đó tìm hiểu và học hỏi thêm về computer và tôi càng thích lãnh vực vi tính điện toán nhiều hơn. Tại Paris đã có nhiều chàng trai địa phương theo đuổi tôi, nhưng cái hình ảnh của Trung vẫn ngự trị trong tim tôi, nên tôi đã từ chối mọi liên hệ tình cảm với họ và tiếp tục trách nhiệm lo cho hai cậu em ăn học để các em có tương lai sau này. Dĩ nhiên tôi vẫn nuôi một hoài bão là ngày nào đó sẽ gặp lại Trung. Một ngày kia, tôi gặp một thanh niên mang nhiều phong cách rất galant và dáng dấp như Minh Trung, chàng tên là Đức Hưng từ Canada được gởi sang hãng tôi để huấn luyện chúng tôi về cách xử dụng những chương trình software mới. Hưng theo đuổi tôi ráo riết, vì Hưng mang một hình ảnh na ná như Trung nên tôi đã xiêu lòng đồng ý làm bạn và tháp tùng chàng đi chơi ở những thắng cảnh du lịch tại Aâu Châu từ Pháp đến Đức, rồi Thụy Sĩ và Ý. Dần dần tôi chấp nhận Hưng trong cuộc sống. Đến năm 83 thì hai cậu em tôi đã hoàn tất đại học và cũng là năm Hưng phải trở về lại Canada vì hợp đồng đã hết hạn và chàng thúc dục tôi theo chàng sang Montréal. Tôi đã lưỡng lự giữa sự lựa chọn phải bỏ lại hai cậu em ở Pháp hoặc theo Hưng về Canada. Cuối cùng tôi chọn quyết định ra đi vì tương lai. Cuộc sống ở Pháp càng ngày càng khó khăn vì kinh tế yếu kém, thất nghiệp nhiều. Vả lại sang Bắc Mỹ tôi sẽ có dịp gặp lại Lan Chi hiện ở Toronto, Ngọc Anh và Trung ở Mỹ. Phần khác nữa thì chị tôi đã được bảo lãnh sang Mỹ theo gia đình chồng nên Bắc Mỹ là vùng đầy hứa hẹn cho tôi.
 
Status
Không mở trả lời sau này.
Back
Top