• Hiện tại trang web đang trong quá hình chuyển đổi và tái cấu trúc lại chuyên mục nên có thể một vài chức năng chưa hoàn thiện, một số bài viết và chuyên mục sẽ thay đổi. Nếu sự thay đổi này làm bạn phiền lòng, mong bạn thông cảm. Chúng tôi luôn hoan nghênh mọi ý kiến đóng góp để chúng tôi hoàn thiện và phát triển. Cảm ơn

1001 CÂU CHUYỆN CẢM ĐỘNG!!!

Status
Không mở trả lời sau này.
Anh ra đòn và hụt - Algren, Nelson

Chính cô Donahue ở Trường công lập số 24 đã thúc Rocco, lúc đó 15 tuổi, học hết lớp 8, bước vào cuộc đời. Cô đã thấy anh ta đánh trong những giờ ra chơi từ năm lớp 6. Cô đã đích thân chăm sóc anh suốt bốn học kỳ và viết vào lưu bút của anh vào buổi chiều ngày tốt nghiệp, “Tin rằng Rocco sẽ thành công.”

Sau cùng, Rocco đã làm được như thế, theo kiểu của anh. Anh đi thẳng từ trường học vào võ đài nằm phía sau quán rượu Happy Hour để đấu một trận, kẻ thắng được 8 đôla. Rocco đã thắng trận đó.

Bác Mike Adler, ông bầu địa phương, gọi anh là Rocco Trẻ sau trận đấu đó và nó trở thành biệt danh cho anh luôn. Anh leo lên hạng trung, rồi bán nặng và tiền thưởng của anh cũng lên tới 60 đôla kèm các chi phí khác. Năm 19 tuổi, anh không lên kí nữa, tiền thưởng cũng ngừng tăng, và anh cưới Lili.

Sau đó không phải trận nào anh cũng thắng, và năm 22 tuổi, số trận thắng cũng bằng số trận thua. Anh cứ đấu. Đó là tất cả những gì anh có thể làm. Anh chẳng bao giờ bán độ thua, anh chẳng bao giờ dàn xếp hay nhượng bộ, không uống rượu và cờ bạc, đi ngủ sớm trước mỗi trận đấu và anh rất yêu vợ. Anh đấu ở mọi võ đài trong thành phố theo chỉ đạo của năm sáu ông bầu, đấu với bất kỳ ai vào bất cứ lúc nào. Anh có thể thay thế một võ sĩ khác, thường là sáng giá hơn, mà chỉ cần báo trước hai tiếng. Anh chưa từng bỏ cuộc hay để bị đếm tới mười dù anh từng lãnh đòn của những tay giỏi nhất trong nghề.

Trong một trận đấu vào đêm nọ, anh bị đánh tơi tả chưa từng có nhưng vẫn đứng vững, kết quả là xương hàm vỡ ba chỗ. Sau vụ này, anh nằm nhà thương ba tháng và Lili phải đi làm. Cô không được mạnh khoẻ lắm và anh không thích để cô phải đi làm. Và anh đã lên đài trở lại trước khi xương hàm lành hẳn, và đã thua.

Tuy vậy, công chúng vẫn thích anh. Họ huýt sáo khi anh được giới thiệu với tên Rocco Trẻ, vì trông anh như 34 khi chưa đầy 26 tuổi. Tóc rụng sớm và những vết sẹo khiến anh càng già hơn. Bạn bè cũng như tiền bạc, cứ đến rồi đi. Mọi sự đều thay đổi trừ trọng lượng của anh, 85 ký, và cô vợ, Lili. Thành tích của anh là chưa từng bị đo ván, và điều đó gắn liền với anh như cái tên Rocco Trẻ vậy.

Sau cùng, khi anh 29 tuổi, anh cũng chỉ còn lại thành tích ấy và cô vợ. Một trong hai người phải đi làm thôi. Anh lang thang suốt 6 tuần mà không kiếm ra một xu trước khi nhận ra thực tế ấy. Khi anh thấy cô vợ phải đi chiếc giày thể thao cũ của anh trong nhà để khỏi phải dùng tới đôi giày duy nhất còn coi được của cô, anh đã đi đến một quyết định.

Anh đến văn phòng của Bác Mike để xin đấu. Ông ta hỏi anh muốn trận đấu kiểu gì. Ông ta đang nuôi một con gà tơ tên Solly Classki, biệt danh Kid Class, có triển vọng nhưng chưa thành tích. Nếu chịu bán độ thì anh sẽ được đấu trận này. Mike không ép Rocco và có hai tay khác trong phòng tập sẵn sàng nhảy vào bán độ thua cho Solly. Bác Mike chỉ cần Rocco nói OK, và anh đã nói. Anh ra về với khoản thù lao lớn nhất trong đời, anh chưa từng được ứng trước kiểu này: bốn tờ hai mươi và hai tờ mười.

Anh đưa hết cho Lili và hiểu mình đang làm điều tốt cho vợ. Anh có tên tuổi đủ để bán và anh đã bán. Võ đài nợ anh hơn con số 100 đôla này nhiều, anh thầm nghĩ, và nói cho vợ an tâm “Anh sẽ chặn cổ thằng nhóc đó lại.”

Cả hai đều sung sướng tối hôm đó. Kể từ ngày tốt nghiệp, Rocco chưa từng được sung sướng hơn.


° ° °

Tối hôm đó, anh thấy hơi nhức đầu khi bước lên đài, ánh đèn trông có vẻ như chao đảo. Anh chạm găng với Kid Class mà không nhìn cậu ta trong khi Ryan, trọng tài, nhắc lại vài qui định của môn quyền Anh. Anh trở về góc của mình, cảm thấy ai đó gỡ áo khoác trên lưng ra, cảm thấy mệt mỏi chưa từng thấy, rồi nghe tiếng chuông báo vào hiệp. Anh lom khom tiến ra, có tiếng người la “Hạ nó đi, Solly.”

Anh lui để cậu trai tấn công nhưng cũng sấn tới đủ nhanh để tung hai cú thăm dò vào răng cậu ta rồi lùi ra. Khán giả ồ lên, bắt đầu kích động. Anh sẽ cho họ thưởng thức đáng đồng tiền bát gạo trong vài hiệp. Làm tệ quá coi không nên.

Giữa hiệp hai anh thấy cậu trai nhấp vai trái để tung cú đấm phải nên bước tới để chặn lại. Cú đấm trái của cậu tới quá nhanh và anh biết mình trúng đòn khi nghe khán giả ồ lên. Anh quên mất lúc này mình có thể gục xuống thua luôn. Anh chỉ thấy cậu tung cú phải và vai trái hơi hạ xuống, nhưng nó không hạ xuống hẳn, thế là không phải cú tay phải. Cái găng trái của cậu đập vào giữa hai mắt anh như một tảng đá và anh ôm đại lấy tay cậu ta, tì cằm vào vai cậu và bực bội khi thấy mình bị đau nhanh như vậy. Anh xô cậu ta ra, tung hai đòn vào mặt cậu và khiến cậu lui vào dây đài. Và tiếng chuông vang lên.

Rocco vào hiệp ba, đấu tận tình, theo dõi đôi găng của Solly chập chờn trong ánh đèn rồi tông vào ngực anh khiến anh nhớ mình đã lãnh tiền trận này rồi. Anh điều hoà hơi thở trong khi nhìn đôi găng địch thủ mà vẫn nghĩ tới bàn chân Lili trong đôi giày quá khổ. Lại một cú đấm nữa và anh bật rên lên. Cậu trai chỉ cao tới cằm anh nhưng lẹ làng hơn cái dáng lù đù của cậu. Cơn nhức đầu bây giờ thay bằng cảm giác giật giật giữa hai mắt.

Lòng kiêu hãnh chính là sức mạnh to lớn của một võ sĩ và cũng là sức mạnh của Rocco trong những hiệp kế đó. Kid Class không đo ván anh được. Anh té một lần ở hiệp bốn, hai lần ở hiệp năm, rồi lần nữa ở hiệp bảy. Trong hiệp đó anh chỉ dựa vào dây đài và dùng tay trái cố ngăn không cho cậu bé sáp lại gần cho đến hết hiệp.

Trong giờ nghỉ, Bác Mike leo lên đài đứng bên cạnh Rocco, ông chẳng nói gì mà chỉ đứng nhìn, ông nghĩ chắc anh đã quên và bỏ lỡ tới bốn cơ hội bị đo ván. Rocco nhìn lên “Tôi còn tỉnh lắm,” anh nói. Anh không hề quên gì cả. Bác Mike về chỗ ngồi. Ông hiểu Rocco sẽ không chịu gục cho đến khi thực sự đứng không nổi. Ông thở dài và thấy mến Rocco hơn, ông không còn thấy tội nghiệp Rocco như khi gặp nhau ở phòng tập.

Khán giả thì khác. Họ từng thấy Rocco hạ gục người khác cả hai chục lần trước đây tuy những người đó cũng cố gắng đừng gục như anh hiện nay. Giờ họ thấy sắp tới lượt anh và họ đứng cả lên để nhìn cho rõ. Rồi tiếng chuông vang lên.

Nhưng Solly không tấn công mạnh nữa, Rocco ôm địch thủ và cố tranh thủ tung đòn trước khi ôm lại. Hiệp tám trôi qua như thế. Anh thấy vui vì giữ được hào hứng cho khán giả. Cả đời anh chẳng hề được trả thù lao đúng công sức nhưng tối nay anh đã kiếm được 100 đôla, đã xin được việc làm ở một gara và rồi sẽ quên đi tất cả khán giả.

Mãi đến hiệp mười và hiệp cuối anh mới thấy muốn hạ đo ván cậu trai vì anh thấy mình có thể làm được điều đó. Tại sao không làm cho ra trò nhỉ? Anh thấy sung sức trở lại. Đây là trận của anh, anh sẽ kết thúc như anh đã bắt đầu, như một võ sĩ đích thực. Anh phòng thủ tỉnh táo và thừa cơ cho Solly một hai đòn. Nhưng rồi Solly bình tĩnh lại, tung một cú móc trái hất cằm anh bật lên trên. Rồi thêm một cú tay phải.

Rocco quay nửa vòng và nhìn đờ đẫn vào những hàng ghế. Anh trượt theo dây đài và thấy những phóng viên ngồi bên dưới. Solly nhìn trọng tài, ông này gật đầu về phía Rocco. Kid Class bước tới móc thêm một cú tay trái vào cằm anh. Rocco ngã sấp vào dây đài, cằm anh vướng vào sợi dây thứ hai, bên dưới, và máng ở đó, như một người bị chặt đầu.


° ° °

Anh vào phòng thay đồ bên dưới khán đài. Bác Mike ở đâu gần đó, khen anh đã làm rất ngon. Sau cùng chỉ còn lại mình anh. Mọi người đều đã ra về. Anh nặng nề đứng dậy và mặc quần áo, cảm thấy nhẹ nhõm là mình đã tới chỗ kết thúc. Anh đã phải gian khổ nhiều, nhưng cũng đã làm xong. Cứ để mọi người đi.

Anh rềnh rang thắt cà vạt và nghe vợ gõ cửa. Anh kêu cô vào. Cô chưa bao giờ xem anh đấu nhưng anh biết hẳn cô đã nghe tường thuật trực tiếp trên radio, nếu không thì cô đã chẳng tới đây.

Cô xem xét miếng băng dán trên mắt phải của anh, rụt rè sợ làm anh đau.

“Anh ổn thôi,” anh thoải mái trấn an cô. “Tụi mình sẽ ăn mừng chút đỉnh rồi quên nghề này đi.”

Cho đến khi anh hôn cô thì mới thấy cô tránh nhìn vào mắt anh và cố nén tiếng khóc. Anh vỗ vai cô.

“Đâu có gì đâu, Lil. Nghỉ vài ngày là anh khoẻ lại liền.”

Rồi anh thấy vấn đề không phải chuyện đó.

“Anh nói là anh sẽ thắng,” cô nói.”Em đã lấy hết tiền anh đưa để bắt cá tám ăn một. Em muốn làm anh ngạc nhiên, bây giờ thì mình chẳng còn một xu dính túi.”

Anh không hề nổi cáu lên, chỉ thấy hơi mệt mỏi. Mệt mỏi đến chưa từng thấy trong đời. Anh bước tới ngồi xuống bên cái bàn đấm bóp, nhìn xuống sàn. Cô vợ hiểu đừng nên quấy rầy anh cho đến khi anh hiểu rõ mọi chuyện ra sao. Rồi anh ngẩng lên, nhìn cô từ chân lên đầu. Đôi mắt anh không dừng ở khuôn mặt cô, mà nhìn xuống đôi chân. Nhìn vào đầu mũi đã sờn của đôi giày duy nhất còn coi được của cô, một bóng tối phủ lên hồn anh.

“Em đánh cá đúng đấy,” anh trầm ngâm nói với cô. “Em làm đúng đấy. Cả đêm nay mình đã làm bọn bắt cá với em lo sốt vó.” rồi anh nhìn lên nhăn răng cười, một nụ cười hết cỡ.

Cô chỉ mong sau cùng mọi chuyện sẽ ổn như thế. Cô bước tới bên anh để nghe anh nói rằng mọi chuyện đều thực sự ổn cả.

Đúng là kiểu của Rocco, từ ngày tốt nghiệp. Anh luôn gặp đủ thứ gian nan, nhưng rồi cũng làm được.

Cô Donahue hẳn sẽ rất tự hào.
 
ĐÊM LOBO
Đoàn Thạch Biền


18 giờ, tôi đã có mặt ở sân khấu ca nhạc quận 10. Chẳng phải tôi có hẹn với một cô gái nào ở đó mà vì đêm nay có buổi trình diễn của ca sĩ Lobo mới từ Mỹ qua. Tôi chỉ có khả năng mua vé đứng 100.000 đồng nên phải đến sớm để dành chỗ tốt. Tôi nhẩm tính trong đầu. Nếu ta đến sớm, rờ được lưng hàng ghế cuối hạng 150.000 đồng, kể như ta đã lời 50.000 đồng. Vì đối với kẻ ngồi ở hàng ghế cuối và kẻ đứng ở hàng đầu, khoảng cách sân khấu đều bằng nhau.
Tôi cứ tưởng mình là người đến sớm nhất, đâu ngờ cũng có quá nhiều người cùng sở thích rờ hàng ghế cuối, để được lời 50.000 đồng như tôi. Ðang đứng rung đùi (không phải theo điệu nhạc máy đang phát ra oang oang mà để đỡ tê cẳng) tôi nghe có tiếng ở phía sau lưng :

- Xin lỗi nhích ra cho tôi vào với.

Tôi đáp mà không thèm quay đầu lại.

- Hết chỗ rồi.

Một bàn tay thò vào nắm ngay lưng chiếc ghế tôi đang nắm rồi tôi cảm thấy "phần mềm" của một người (chứ không phải của máy vi tính) trườn ngang be sườn của tôi. Xong. Một cô gái đã đứng bên tôi. Em đưa bàn tay hình cái lược chải lại mái tóc rối bù trước trán. Em nói như đang nói với hàng ghế trước mặt.

- Luôn luôn còn chỗ cho một người không nản lòng chen lấn.

Tôi đã nhìn thấy khuôn mặt "hết ý" của em rồi nên tôi không ngu gì nói chuyện với hàng ghế trước mặt, tôi quay qua nói với cô gái :

- Nếu biết trước em là người muốn vào đứng, tôi sẵn sàng nhích nhường chỗ cho em.

- Nếu biết trước Lobo đêm nay hát rất dở, ông có bỏ về ngay bây giờ ?

- Ồ, đã chắc đâu !

- Cũng vậy. Ðã chắc đâu ông nhường chỗ cho tôi, nếu tôi không chịu khó chen lấn.

Tôi thở dài :

- Thật đáng tiếc, ngó vậy mà em yểu tướng !

Cô gái giật mình, nhìn tôi.

- Sao, ông định trù ẻo tôi chuyện gì ?

- Ở tuổi em mà xưng "tôi" chứng tỏ em đã già. Mà người già thì chết trước người trẻ lẽ đương nhiên.

Cô gái bật cười :

- Thôi được rồi. Tôi là... em, còn ông là...?

- A simple man.

- Một người đàn ông đơn giản ! Chà, ông cũng thuộc tựa nhạc của Lobo ghê nhỉ !

- Còn phải nói. Tôi là fan của ông ấy cách đây 20 năm.

- Standing at the end of the line. Ðứng ở hàng ghế cuối thế này mà gọi là fan.

- Tôi đủ khả năng mua vé hạng nhất 200.000 đồng. Nhưng như vậy tôi sẽ không còn may mắn được gặp em.

- Ông đúng là người "đàn ông đơn giản". Thay đổi thật mau lẹ. Mới đó đã thành fan của em.

Cô gái nhìn đồng hồ đeo tay rồi nói :

- 20 giờ rồi. "Con sói" vẫn chưa chịu xuất hiện.

Tôi ngạc nhiên thấy cô gái đây rất rành về tựa nhạc và còn biết biệt hiệu "con sói" cùa Lobo. Những người yêu thích nhạc Lobo đều ở hàng "băm", còn em mới xấp xỉ ở hàng "hai" chứ mấy. Tôi hỏi :

- Ai chỉ cho em nghe nhạc Lobo vậy ? Vì Lobo đã nổi tiếng trước khi em chào đời.

- Ông có thích nghe nhạc cổ điển không ?

- Thích chứ.

- Ông thích nhất nhạc sĩ nào ?

- Chopin.

- Vậy ông sinh cùng thời Chopin à ?

Chẳng có cơn gió độc nào thổi ngang qua nhưng tôi cảm thấy cứng họng và đứng im. Cũng may em lại tiếp tục bắt chuyện trước :

- Ông đứng giữ chỗ giùm để em đi mua một ổ bánh mì thịt.

Tôi cũng cảm thấy "kiến bò bụng" nên nói :

- Em mua giúp tôi một ổ bánh mì chả nghe.

Cô bé xòe một bàn tay ra trước mặt tôi. Tôi hiểu ý, móc túi lấy tờ giấy 5.000 đồng đưa cho em. cô gái biến đi lẹ làng như lúc đến. Ðèn sân vụt tắt. Một luồng ánh sáng xanh vụt chiếu trên sân khấu và Lobo ôm đàn guitar bước ra chào khán giả. Mọi người đứng dậy vỗ tay vang rần. Tôi sợ cô gái sẽ đi lạc vì trời tối hù và người xem đứng hỗn độn. Như thế tôi sẽ mất em, và mất tiêu luôn... ổ bánh mì kẹp chả !

Lobo bắt đầu hát bài Don't except me to be your friend. Tâm hồn tôi "lắc lư" theo tiếng đàn thùng và giọng ca trầm ấm của ông. Chợt có một bàn tay thô nhám cào vào cánh tay tôi. Tôi vội hất ra và không thèm ngó qua người bên cạnh, tôi nói :

- Xin lỗi, chỗ này có người rồi.

Bàn tay thô nhám lại tiếp tục cà vào cánh tay tôi. Tôi nhăn mặt ngó qua. Một ổ bánh mì đang nằm ở cánh tay tôi và cô gái đang chờ tôi thu gọn tay chân để em có chỗ bước vào. Tôi cầm ổ bánh mì cắn một miếng rồi cười nói :

- Xin lỗi, tôi đang mãi nghe một ca khúc mình ưa thích : "Ðừng loại trừ anh là bạn của em".

Cô gái cũng cắn một miếng bánh mì và nói :

- Em thì chỉ muốn "loại trừ".

Tôi vội giảng giải :

- Ðây là một top hit của Lobo, em không thể "loại trừ" ca khúc này được.

- Em đâu có muốn "loại trừ" ca khúc đó. Em chỉ muốn "loại trừ" ông.

"Cộp". Tôi ê cả hàm răng không phải vì đã nhai nhằm một cục sạn trong bánh mì, mà tôi đã nhai nhằm "lời nói có đá cục" của em.

Trên sân khấu, Lobo đang hát bài : Me and you and a dog named Boo. Cô gái hỏi :

- Ông thích ca khúc này không ?

Tôi lắc đầu :

- Không. Khi không giữa hai người đang yêu lại có một con chó. Thật vô duyên !

Cô gái cười nói :

- Nếu Lobo đổi con chó tên Boo thành tên B. chắc ông thích lắm phải không ?

Tôi nổi quạu định bợp tai em vì đã dám lấy tên tôi đặt tên cho con chó. Nhưng em đã vội thanh minh :

- Nhờ có tên trong bản nhạc đó, ông sẽ nổi tiếng khắp thế giới.

Nghe được "nổi tiếng khắp thế giới", tôi vui vẻ gật đầu đồng ý ngay.

Ring Ring. Tiếng chuông điện thoại reo vang trong lời ca của Lobo. Tôi vội tranh thủ hỏi cô gái :

- Em có thể cho tôi biết số phone để liên lạc ?

- Ông cứ gọi số 15 và nhắn họ gọi cho em.

- Cái gì ? Số 15 là điện thoại cấp cứu y tế mà !

- Ðúng rồi. Vì chỉ khi nào cần "cấp cứu" ông mới gọi cho em.

Baby, I love you to want me...

Ðứng riết mỏi chân nên em bắt đầu dựa vai em vào vai tôi. Tôi sung sướng nói nhỏ vào tai em :

- Tôi đã yêu cầu Lobo hát tặng em ca khúc đó.

Em lắc lắc mái tóc chạm vào má tôi :

- Cám ơn ông. It sure took a long, long time. Chắc phải mất nhiều thời gian đấy.

- Ồ nhằm nhò gì. Tôi đợi được mà. Cũng như tôi đã đợi được nghe Lobo hát từ hơn 20 năm nay.

Rồi buổi trình diễn của Lobo cũng kết thúc. Tôi buồn rầu nói với cô gái : Good night !

Em cười nói :

- Mới đó ông đã quên ca khúc Don't tell me Good night mà Lobo vừa hát.

Tôi mỉm cười, lòng tràn đầy hy vọng. Tôi nói khi em đang dắt xe ra về :

- Chắc chắn, tôi sẽ gọi điện thoại số 15.

- Ðược thôi. Nếu ông cần cấp cứu, em sẽ là một y tá.

Chúa ơi ! chưa bao giờ tôi muốn được "cấp cứu" ngay như lúc này !
 
Con Ma Trong Hồ Tắm, Tám Tàng

Chúng tôi quen nhau khi còn học chung ở một trường đại học tại tiểu bang Massachusetts! Sau khi ra trường tuy làm việc ở khác thành phố nhưng chúng tôi vẫn liên lạc và đi lại với nhau! Ba năm sau chúng tôi làm lễ cưới, rồi tính đến chuyện mua một căn nhà để ở! Sau một tháng tìm kiếm, chúng tôi đã tìm được một căn nhà vừa ý, giá lại rẻ ! Đó là một căn nhà Cape, có rào chung quanh, ba phòng ngủ, hai phòng tắm, finished basement, và đặc biệt là có một hồ tắm chìm (underground swimming pool) rất rộng! Tôi thích cái hồ tắm lắm vì đã chán ngấy cái cảnh chen chúc ở các bờ hồ, bờ biển vào mỗi mùa Hè! Nay vợ chồng tôi có thể thoải mái ngâm mình trong nước mát lạnh mà không phải đi đâu xa nữa!

Chúng tôi mua nhà vào mùa Đông nên cái hồ vẫn được che phủ bằng tấm bạt! Tôi ước mong cho mùa Hè chóng tới để tha hồ bơi lội trong đó! Rồi thì mùa Hè cũng tới, chồng tôi gở tấm bạt phủ và cọ rửa đáy hồ trước khi xả nước vào! Anh ấy làm theo lời chỉ dẫn của một người bạn Mỹ để chúng tôi không còn phải lo lắng gì khi tắm! Số là tôi sinh trưởng ở một tỉnh miền Tây tại VN nên bơi lội là nghề của tôi từ hồi còn bé! Chồng tôi sinh quán tại Nha Trang nên bơi lội với anh chỉ là trò đùa!

Trưa thứ Bảy đầu tiên sau khi hoàn tất việc sửa soạn cho hồ, tôi thích thú nhảy ngay xuống và bơi thoải mái qua lại từ đầu hồ tới cuối hồ! Bơi được chừng 15 phút, tôi nhoài lại gần cái thang và giữ lấy nó cho đỡ mệt! Bổng tôi có cái cảm giác là có một bàn nào đó nắm lấy cổ chân tôi! Nhìn qua làn nước trong suốt tận đáy hồ, tôi không thấy ai cả! Nhưng chân tôi vẫn như bị ai nắm lấy! Tuy chồng tôi nằm đọc báo trên ghế ở cái deck ngay bờ hồ, tôi không gọi anh ấy vì sợ cho là nhát nhúa! Nhưng tôi cũng không giám ngâm mình lâu hơn! Tay đang nắm cái thang nhôm lên xuống hồ, tôi leo vội lên ngồi cạnh chồng! Một lúc sau anh ấy nhảy xuống bơi, tôi đợi xem có sự gì lạ xảy ra cho anh ấy không! Chẳng có gì cả ! Chồng tôi ngoắc tôi xuống, tôi ngần ngừ một lúc rồi nhảy xuống cạnh chồng! Tôi cẩn thận chỉ bơi theo chồng mà chẳng giám rời xa vì cái cảm giác lúc nãy vẫn còn ám ảnh tôi! Mọi việc tốt đẹp, tôi không thấy có cảm giác bị nắm chân nữa! Chắc là do tôi tưởng tượng ra thôi!

Hôm sau chúng tôi lại xuống tắm, vừa nhảy xuống bơi được một vòng thì cái cảm giác bị nắm chân lại đến với tôi! Lạ một điều là cái bàn tay vô hình đó chỉ nắm lấy chân tôi chứ không kéo ghị gì cả nên tôi vẫn bơi lội thoải mái! Chỉ thấy như chân mình bị nắm thôi! Tôi cố đập chân thật mạnh để xem cái cảm giác đó có biến đi không! Không, nó như bám chặt lấy chân tôi! Đâm sợ tôi bơi vào bờ và leo lên ngồi cạnh chồng trên deck! Một lúc sau tôi làm như vô tình hỏi:

_ Anh có cảm thấy bị vướng víu gì trong khi bơi không hả ?

_ Đâu có gì đâu em! Rất thoải mái, nước trong mát anh rất thích! Mình cùng bơi nghe em!

Rồi anh ấy nhảy xuống bơi mấy vòng và ra hiệu cho tôi nhảy xuống hồ! Bất đắc dĩ tôi phải làm theo! Lạ thay tôi không có cái cảm giác bị nắm như khi tôi bơi một mình trong hồ! Tôi suy ra có lẽ do tôi sợ vẫn vơ vì hồi bé hay nghe kể chuyện "ma da" mà ra thôi! Mà ma da thì ở sông, ở hồ chứ đâu có khi nào tôi nghe nói là có nó trong hồ tắm đâu! Đúng là tôi sợ vẩn vơ rồi! Tuy tự nhủ như vậy, nhưng sau này mỗi khi ra tắm là tôi đợi chồng tôi nhảy xuống rồi mới nhảy theo! Mọi việc êm đẹp và tôi cứ theo đó mà theo để khỏi bị cái cảm giác kia làm sợ hãi và khó chịu!

Gần cuối mùa Hè năm đó là sinh nhật thứ 26 của tôi! Vợ chồng tôi tổ chức tiệc sinh nhật tại nhà và mời anh em, họ hàng, cùng bạn bè đến dự! Chồng tôi không uống rượu, chỉ khi nào đi dự tiệc tùng thì anh ấy mới uống một lon bia cho vui thôi! Còn tôi thì chỉ cần một ngụm rượu cũng đủ làm cho say rồi! Nhưng vì là tiệc sinh nhật của tôi, nên họ bắt tôi uống mấy ly rượu nhỏ, và để tiệc được vui tôi không thể từ chối được! Xong tiệc, mọi người xúm nhau nói chuyện một lúc rồi từ giả ra về! Vợ chồng tôi dọn dẹp và bỏ chén dĩa vào máy rửa! Thấy mặt tôi đỏ bừng vì rượu chồng tôi bảo là hãy nằm trên sofa nghĩ cho tỉnh rượu đi! Anh ấy xuống basement dọn dẹp dưới đó một chút vì mấy đứa nhỏ con của bạn bè, họ hàng xuống chơi bày bừa bộn dưới đó!

Đang nằm thiu thiu bổng có một ma lực nào đó bảo tôi đứng dậy và đi ra hồ tắm! Tôi nghe theo như một kẻ mất hồn! Chân tôi bước ra hồ rồi tự nhảy xuống đó! Cái cảm giác bị ai nắm chân lại đến với tôi! Lần này cả hai chân tôi bị nắm và tệ hại hơn là chúng kéo tôi xuống đáy hồ! Tôi vùng vẫy mà không sao thoát được hai bàn tay đó! Mở miệng ra thì bị nước vào, tôi uống mất mấy ngụm vào bụng! Nhưng khi tới đáy hồ thì bản tính tự mhiên tìm cái sống thúc đẩy làm tôi trở lên mạnh mẻ! Tôi đạp thật mạnh để trồi lên mặt nước, vừa cố ngáp thở được hai hơi, đôi tay đó đã kéo ngược tôi xuống đáy trở lại! Không, tôi không thể chết như thế này được! Tôi mới có 26 cái xuân xanh, tôi còn quá trẻ để mà chết! Bản năng sinh tồn cho tôi sức mạnh và tôi vùng lên mặt nước một lần nữa! Đôi bàn tay đó chẳng để cho tôi thở lâu lấy sức, chúng kéo mạnh tôi trở xuống đáy hồ! Tôi cố mở miệng kêu cứu nhưng nước tràn vào miệng làm tôi sặc sụa! Bụng tôi đã chứa khá nhiều nước rồi! Tôi cảm nhận được điều đó! Trong cơn nguy ngập, tôi nghĩ đến chồng, đến cha mẹ, đến anh chị em tôi! Không! Không, tôi chưa muốn chết! Chúng tôi mới cưới nhau được một năm thôi! Tôi mới chỉ hưởng được cái hạnh phúc vợ chồng này chưa đầy một năm, tôi chưa sinh cho chồng tôi một đứa con trai và một cô con gái như chúng tôi đã ước mong mà! Tôi chưa trả được tí gì cho công ơn dưỡng dục của cha mẹ tôi! Tôi không thể chết được! Nhưng ai cứu được tôi bây giờ! Trong cái giờ phút cuối cùng này, tôi cố nhoài người lên một lần cuối! Tôi vẫn cảm nhận là đôi bàn tay kia đang kéo tôi trở xuống, trước lúc ngất đi tôi cảm thấy có đôi tay quàng qua người mình! Tôi chỉ còn một thoáng nghĩ trước lúc hôn mê là đôi tay kia tới mang tôi về cỏi chết!

Khi tôi tỉnh dậy thấy mình trong bệnh viện, bên giường là gương mặt lo lắng của chồng và bố mẹ tôi! Tôi mừng rở mặt dàn dụa nước mắt! Tôi không biết tại sao mình còn sống và ở trong đây! Ai đã cứu tôi khỏi đôi bàn tay quái quỷ đó! Đợi tôi định tỉnh một hồi, chồng tôi mới nhỏ nhẹ nói:

_ Anh vừa ở basement lên, không thấy em đâu cả! Anh gọi nhưng không ai trả lời, vào phòng ngủ cũng không thấy em! Anh chạy ra sau thì thấy tay em thò vẫy vùng trên mặt nước và đang chìm dần! Anh hoảng quá nhảy xuống vớt em lên rồi kêu 911 ! Họ đến làm hô hấp nhân tạo và chở em vào đây! Cũng may em chưa chìm lâu nên không nguy đến tính mạng!

Tôi còn mệt nên chẳng nói gì hết! Hôm sau, họ cho tôi xuất viện! Về nhà tôi mới kể cho chồng nghe về việc tôi đã trải qua! Tôi giám chắc là trong hồ tắm có "ma da" vì nó đã cầm chân tôi từ ngày đầu tiên rồi! Việc này không phải do tôi tưởng tượng ra đâu! Chồng tôi bán tín bán nghi vì anh ấy là người sùng đạo lắm và không tin có ma quỷ hiện hình trên thế gian này! Nhưng thấy tôi quá khẳng định nên anh ấy chiều lòng và cùng tôi ghé qua nhà hàng xóm hỏi thăm! Ông bà hàng xóm là một cặp vợ chồng Mỹ già, họ không có con cái! Thấy chồng tôi hỏi thăm về cái hồ tắm phía sau nhà, bà già tái mặt không giám hở lời! Ông già mời vợ chồng tôi vào nhà chơi rồi thủng thẳng nói:

_ Thấy cô còn sống chúng tôi mừng cho cô lắm!! Ba người đàn bà trước kia ở căn nhà đó không được may như cô đâu!! Mà tôi nghe nói phụ nữ Á Đông các cô ít ai uống rượu lắm, phải không? Sao mà cô lại bị chìm trong hồ kìa! Tôi thấy hơi lạ đó!

_ Đúng đó bác ạ! Chúng tôi không uống rượu, nhưng hôm đó là sinh nhật của cháu nên bạn bè ép uống một hai ly nhỏ, nhưng vì không quen nên cháu bị say đó!

_ Thảo nào! Con ma trong hồ tắm đó chỉ kéo phụ nữ say rượu thôi!

_ Sao lại có chuyện đó hả bác ? Bác nói là con ma trong hồ tắm! Vậy ra hồ nhà cháu có ma thật sao ?

_ Vâng cô ạ! Nhiều người không tin, nhưng tôi ở đây đã 15 năm rồi, và đã chứng kiến cái chết của ba phụ nữ tại hồ nhà cô rồi đó! Bộ các cháu không hay biết gì về lịch sử của cái nhà đó sao ?!?!

_ Tụi cháu lần đầu mua nhà nên có biết gì đâu ! Ông realtor có nói gì về điều này đâu ! Thấy nhà rẻ lại ở địa điểm tốt nên tụi cháu mua ngay thôi!

_ Thôi để tôi kể cho cô chú nghe về chuyện này: "Nạn nhân đầu tiên là vợ của người chủ đầu của căn nhà đó, một hôm chồng đi vắng bà ta uống rượu quá độ rồi lạng quạng sao đó mà té xuống hồ chết! Chiều tối khi chồng về khám phá ra vợ mình chìm dưới hồ, liền kêu cảnh sát, nhưng bà ta đã chết lâu rồi! Bác sĩ giảo nghiệm và quy cái chết của bà ta là do tai nạn _ Say rượu rồi té xuống hồ chết đuối_ Ông ta buồn lắm và bán nhà đi nơi khác để quên đi nỗi đau mất vợ! Gia đình thứ hai mua căn nhà này được chừng 1 năm, một ngày kia khi người chồng đi làm về không thấy vợ đâu, chạy ra sau tìm, và thấy vợ bị chết chìm trong hồ! Ông ta kêu 911 và họ cũng không cứu được bà ta! Bác sĩ giảo nghiệm đưa đến cùng một kết quả như cái chết của người đầu tiên! Do tai nạn vì say rượu!! Ông chồng ở thêm một thời gian rồi cũng bán căn nhà cho người khác! Vợ chồng chủ mới này đã trung niên, và có 2 người gái con tuổi choai choai đang học trung học! Họ sống yên ổn được chừng hai năm thì sự việc lại xảy ra! Đứa con gái lớn bị bồ ruồng rẩy, một bữa kia cô ta một mình ở nhà lấy rượu uống giải sầu! Khi cha mẹ cô ta về nhà đã thấy cô ấy chết dưới đáy hồ rồi! Bác sĩ và cảnh sát đưa ra kết luận như những lần trước ! Họ làm việc theo khoa học và không tin vào thế giới vô hình nên các giả thuyết khác về sự trùng hợp của ba cái chết này đều bị họ gạt đi! Nhưng vợ chồng tôi thì tin là có cái gì đó đằng sau ba cái chết này! Chúng tôi đoán là cái hồ tắm đó có quỷ, và nó chỉ lựa phụ nữ say rượu để kéo xuống đáy hồ thôi! Hôm thấy xe cứu thương tới nhà anh chị, vợ chồng tôi đã bảo nhau là lại thêm một nạn nhân nữa của cái hồ quái quỷ kia! May mắn là cô không chết! Cô có thấy điều gì khác lạ không ?
 
Trái Tim Con Rắn Tác giả: Nguyễn Đông Thức

Ịch ình, ịch ình, ịch ình...

Thuật nín thở, lắng nghe. Nín thở, nhưng ông vẫn nghe thấy nó đang đập ở đâu đó trong người mình ồn ào, hối hả.

Ịch ình, ịch ình, ịch ình...

Càng nín thở, tiếng đập nghe càng rền rĩ. Bên cạnh Thuật, Trinh đã ngủ say, vẫn kiểu ngủ nằm sấp "thấy ghét", nhưng hôm nay Thuật đành bất lực nằm nhìn.

Ịch ình, ịch ình, ịch ình...

Vẫn nín thở, Thuật đè chặt bàn tay lên ngực trái.

Lồng ngực ông lặng thinh. Vậy thì cái gì đang đập, nếu không phải là nó, trái tim con rắn mà ông đã nuốt sống hồi chiều?

Lưỡi dao phập xuống, cái đầu con rắn bị đóng đinh xuống mặt thớt nằm lại với hai con mắt trợn trừng. Thân hình vặn vẹo những co giật cuối cùng trong đôi tay của lão nhà bếp, phun những tia máu đỏ tươi xuống chiếc phễu cắm vào cổ chai rượu thuốc. Mũi dao nhọn rạch một đường nhỏ điệu nghệ, và ngón tay thành thạo thọc vào moi ra một quả tim nhỏ bằng ngón tay, còn thoi thóp thở. Nó dường như vẫn còn co bóp, khi đã yên vị trong chiếc ly nhỏ. Người ta đổ rượu thuốc đã trộn đều với máu vào ngập miệng lỵ Đó sẽ là ly rượu bắt đầu cho buổi tiệc, và theo thông lệ, luôn được dành cho nhân vật quan trọng nhất.

Hôm nay, đó là Thuật.

Với Thuật, trái tim rắn ấy phải kể ở đơn vị hàng chục. Ngay từ trái tim đầu tiên được thưởng thức, thường thì mọi người đều cảm thấy cái gì đó nhờn nhợn, nuốt vội cho trôi, thậm chí còn có người từ chối cái quyền .tiên chỉ. (ưu tiên), Thuật đã chứng tỏ sự lì lợm khác người của mình: Ông thò hai ngón tay vào ly rượu, nhón lấy trái tim rắn và cho vào miệng nhai chóp chép ngon lành, rồi mới chiêu cạn ly rượu để đưa tiễn nó vào dạ dày mình. Đặt ly xuống, Thuật há miệng cười, khoe hàm răng còn lem nhem máu. Hành động đó được tái lập từ trái tim thứu hai trở đi, và đã làm sáng thêm cái danh .chịu chơi. của Thuật.

Nhưng chiều nay...

Thuật đã có cảm giác là lạ lúc kẹp lấy nó ở đáy lỵ Dường như nó quẫy nhẹ như muốn tuột khỏi tay ông. Cảm giác chưa từng có ấy thoáng qua rất mau, và Thuật cho rằng có lẽ vì hai độ nhậu dữ dằn ở hai điểm khác kéo dài từ mười giờ sáng cho đến giờ, đã làm ông run taỵ Nhưng vừa cho nó vào miệng, thì rõ ràng nó lăn lên lưỡi của ông và tuột vào yếu hầu, rồi dường như dừng lại ở thực quản. Ngay lúc đó, ông đã nghẹn thở mất mấy giây. Ly rượu tống tiễn nó vẫn không làm ông thấy cổ họng mình thông suốt, như có gì cứ nghèn nghẹn trong đó.

- Ủa sao anh Hai không nhai nó? Một tên đàn em vọt miệng hỏi.

Thuật trấn tĩnh rất nhanh, giả lả:

Thôi mày, cho lẹ đặng nhậu cho rồi. Dô đi!

Bữa tiệc hào hứng với đám chiến hữu thân thiết và các em nhân viên mặc quần sọc, áo thun lỗ tận tình phục vụ, đã làm Thuật quên ngay cảm giác khác thường ấy. Cái quán này vốn có biệt tài đó. Vào đến đây, chuyện quốc gia trọng đại gì nữa, người ta cũng quên hết, nói chi đến cái chuyện cỏn con không nhai được tim rắn! Em nào cũng thơm như múi mít, ngồi sát rạt trong vòng tay, nân từng ly bia, đút từng miếng mồi cho mình, còn hai tay mình thì cứ tự do như chưa bao giờ được tự do như vậy. Rồi kết thúc bữa tiệc, anh thích thì em chiều, phòng riêng tại chỗ, có máy lạnh, giường đệm... Hố hố, có thằng chó nào mà chẳng mê tít mắt!

Thuật thường kết thúc hành trình một ngày nhậu của mình tại cái quán hẻo lánh này, chính là vì vậy. Để cho đầu óc nó thoải mái, đặng hôm sau mới làm việc tốt được. Chiêu đãi người ta nhân vừa "trúng" lớn, Thuật cũng dẫn lên đây. Mà được trả ơn, Thuật cũng gợi ý đến điểm "vui vẻ" này. Ai theo Thuật đến lần đầu, sau đó thảy đều giơ một ngón tay cái: Ông anh đúng là số một! Ngay chính vợ Thuật, Thuật cũng đã đưa lên đây. Từ lâu bà đã sợ Thuật như sợ cọp, vậy mà gần đây, chịu hết nỗi, dám sinh chuyện cự nự:

Ông đi đâu mà đi hoài, đêm nào cũng một hai giờ sáng mới về? Vừa vừa thôi, ít ra ông cũng phải tôn trọng tôi phần nào chớ! Rồi uy tín làm việc của ông nữa. Cái ghế ông ngồi không phải là muôn đời đâu.

Lúc đó là năm sáu giờ chiều, Thuật ghé về nhà tắm rửa và thay quần áo lịch sự, ngồi chờ một thằng bạn đến kéo đi "tham quan" nhà hàng nổi một lần cho biết. Cú điện thoại hẹn lại giờ chót của thằng bạn, cộng với lời cằn nhằn của vợ con, bất ngờ làm Thuật nổi điên. Ông kéo tay vợ ra xe:

Bà muốn biết tôi thường đi đâu phải không? Được rồi xin mời bà đi theo tôi!

Ban đầu, các em thấy Thuật đi với vợ, chỉ dám thập thò sau quầy ngó ra. Thuật ngang nhiên gọi một lúc sáu em ra ngồi cùng bàn, ôm hôn mỗi em một cái ngay trước mặt vợ. Bà chủ quán đi ra, chào Thuật bằng kiểu chào thường lệ; đứng sau lưng, đặt hai bàn tay lên vai Thuật, cúi xuống cọ má với Thuật. Vợ Thuật xanh mét cả mặt mày, muốn ngất xỉu. Thuật rút tiền bo cho mấy em, rồi đuổi hết cả đám đi, xong mới nói với vợ:

Bà thấy chưa, ở đây chúng nó đẹp như vầy, trẻ như vầy còn bà già còm, lép kẹp như vậy, có biết mắc cỡ hay không mà đi ghen với tụi nó? Biết điều thì cứ ngậm miệng, mỗi tháng tôi phát tiền cho dư xài. Tôi còn ở với bà là phúc đức lắm rồi. Lộn xộn tôi dẹp luôn, cho treo mỏ cả lũ. Còn cái ghế tôi ngồi hả? Chắc hay không thì tôi tự biết, nhưng bà ráng mà cúng bái hàng ngày cho nó. Nghe chưa?

Thuật điềm nhiên ngồi ăn cho hết bữa, trong lúc bà vợ chạy ra ngoài vường nôn thốc nôn tháo những miếng ăn vừa nuốt. Lần "giáo dục" kiểu đó đã có hiệu quả thấy rõ. Một tuần sau, vợ Thuật đến cơ quan tìm ông giữa trưa. Cửa phòng giám đốc chỉ đóng chứ không có khóa, vì đố thằng nào dám gnang nhiên bước vào! Thuật và một cô nhân viên đang ôm nhau trên chiếc đi văng dành cho giám đốc nghỉ trưa. Thấy vợ Thuật, cô gái sợ hã toan vùng dậy. Thuật ghì cô ta lại, nói cứ bình tĩnh, không việc gì phải sợ. Rồi ông quay qua đuổi vợ về, mắng vợ là bất lịch sự, vào phòng không biết gõ cửa. Vợ Thuật chỉ nói được một câu: "Rồi trời sẽ tru đất sẽ diệt ông!", rồi run lập cập đi ra. Thuật cười hô hố.

Bữa tiệc vẫn tiến hành náo nhiệt, mới đó mà đã qua thùng bia thứ bạ Hai tay Thuật giang ra ôm hai cộ Miệng Thuật thỉnh htoảng há ra để ực bia, để táp mồi, để cười khùng khục, để quay qua quay lại hôn hít trên mấy cái má hồng mịn màng thơm phức. Cứ mỗi lần đến đây. Thuật lại có cảm giác mình đang làm vuạ Có đêm, Thuật kéo luôn năm em vào một phòng, quần nhau cho tới sáng. "Nhất dạ đế vương" cũng sướng đến đó là cùng! Hôm nay là ngày Thuật trúng lớn, vừa đẩy được mấy tấn nguyên liệu còn tốt mà Thuật chạy được quy thành phế liệu, nhậu hết cái nhà hàng này còn được, nói gì đến cái bàn tiệc chục thằng này. Dzô đi, dzô nữa đi! Còn bao nhiêu bia, nhà hàng cứ đem hết ra, cho tụi này tắm bia một bữa nhớ đời! Thằng Thuật này đã từng chi ba triệu cho một bữa tiệc ở đây, bằng lương một tháng của cả văn phòng xí nghiệp cơ mà! Tên kế toán trưởng hơi chợn, nhắc Thuật nên giữ lại một tấn cho bọn công nhân có việc làm, chứ hổm rày chúng nghỉ việc ăn 70 phần trăm lương, kêu trời như bọng rồi! Thuật trợn mắt, nói đồ ngu, ai có phần nấy. Người nào đã chịu nhiều gian khổ, sống chết, thì bây giờ phải được hưởng. Còn số thằng nào mạt thì ráng mà chịu. Đời này, ai ăn được thì cứ ăn. Đã chấp nhận cuộc chơi mà còn bày đặt chuyện lương tâm!

Nỗi lo gợn lên, vào đúng lúc Thuật kê miệng húp chén cháo rắn được em Trinh bưng lên mời. Giữa ngực ông bất chợt nhói một cái đau đến nín thở. Kẹt cả hai tay, Thuật lắc đầu dùng cằm đẩy chén cháo ra. Cái gì mà đau như vậy? Thuật đổ mồ hôi khi cảm nhận dường như nó đang cựa quậy. Nãy giờ, bao nhiêu là bia là mồi tống xuống, vậy mà nó vẫn kẹt lại ở khoảng giữa ngực sao? Thuật bỗng thấy nhợn nhạo trong họng. Ông cố trấn tĩnh, từ từ đứng dậy, gạt hai em, bước ra vườn. Đến sau một gốc cây khuất, ông đưa mấy ngón tay vào miệng, móc họng cho ói ra hết những gì vừa ăn uống. Đó là một động tác quen thuộc mỗi khi Thuật muốn hồi phục để có thể ngồi tiếp tục chiến đấu trong những độ nhậu kéo dài. Nhưng lần này không phải do ông thấy mệt, mà là để tống cái của nợ đáng sợ kia.

Hoàn toàn yên tâm, Thuật bước vào bàn nhậu đầy khí thế trở lại. Mọi việc tiếp tục diễn biến bình thường. thuật nói nhỏ vào tai Trinh, tối nay, anh chọn em làm hoàng hậu đó nghe. Trinh giả bộ trợn mắt, rụt vai, lè lưỡi. Cái lưỡi hồng dẻo quẹo đầy hứa hẹn, vậy mà làm Thuật liên tưởng đến cái lưỡi thở phì phì giận dữ của con rắn khi nãy, lúc nó đang bị lão đầu bếp lôi vào trò đùa trước khi chết.

Cái nhói đau thứ hai xảy ra khi Thuật đã nằm trên giường, nhìn Trinh đang uốn éo cởi quần áo dưới ánh đèn hồng. Ông thánh cũng phải chào thua trước thân hình tuyệt mỹ của cô gái được phong làm hoa hậu ở quán này, vậy mà Thuật vẫn nằm yên, tay đè lên ngực. Máy lạnh chạy rì rì mà mồ hôi Thuật vẫn vã ra, ướt cả mặt đệm.

Ịch ình, ịch ình, ịch ình...

Đó là lần đầu tiên trong đời, Thuật nghe thấy những âm thanh quái đản ấy. Nó dội lên trên đỉnh đầu, rồi cứ thế bục ra.

Ịch ình, ịch ình, ịch ình...

Rồi Thuật nhìn xuống bụng, chợt ré lên một tiếng, lồm cồm ngồi dậy. Ông vừa trông thấy đầu con rắn quặc qua quặc lại giữa hai đùi mình. Thuật đưa tay bật đèn nê- Ông, lúc đó con rắn biến mất. Ông nhìn quanh quất. Còn Trinh thì co rúm người, nhìn ông bằng con mắt sợ hãi.

Gì vậy anh?

Ịch ình, ịch ình, ịch ình...

Thuật thở dài, tắt đèn, ôm lấy Trinh:

Không có gì.

Khoảng vài phút sau, Thuật thở dài, xô Trinh ra, nằm vật xuống.

Thôi, hôm nay cho em nghỉ. Ngủ đi.

Trinh nằm xuống bên Thuật, và chỉ vài phút sau, cô đã ngủ ngon lành. Trong khi đó, tiếng đập ồn ào trong ngực Thuật vẫn cứ vang lên đều đặn.

Ịch ình, ịch ình, ịch ình...

Ở chỗ giữa ngực ông, có cái gì đó chư nhô lên thụt xuống. Thuật úp hai bàn tay đè mạnh lên chỗ đó. Nó vẫn cứ phập phồng dưới tay ông.

Ịch ình, ịch ình, ịch ình...

Thở hổn hể, Thuật ngồi bật dậy, kinh hoàng khi nhìn rất rõ giữa ngực mình nổi hẳn lên một khối u nhỏ. Thật nhanh, Thuật chộp lấy nó, nghiến răng bóp mạnh. Ông cảm thấy như nó đang vỡ ra bên trong lồng ngực mình. Một cảm giác đau chết người ập đến. Thuật lăn ra giường cố gắng lết đến bên Trinh, ông cố gắng vươn tay ra định chạm vào người Trinh để gọi cô dậy nhưng đã kiệt sức...

Sáng hôm sau, Trinh thức dậy thấy Thuật đã chết cứng đơ từ hồi nào. Khi đem xác của Thuật đến bác sĩ pháp y thử nghiệm thì các bác sĩ đều kết luận rằng Thuật chết vì nhồi máu cơ tim (heart attact). Ngực ông bị tím bầm, nổi hằn những vệt móng tay của chính ông cào cấu.

Nhưng khi giải phẫu tử thi, mọi người chứng kiến đều rởn tóc gáy khi thấy ở giữa lồng ngực trái tim của Thuật là một trái tim nhỏ xíu, chỉ bằng đầu ngón tay, đã bị bóp bể ra làm hai.
 
Tiếng Động Dị Thường
Viết theo lời kể của một cô sinh viên trường Đại Học Duke, North Carolina !



Mùa Hè năm 1996, gia đình tôi dọn tới thành phố Durham, North Carolinạ Gia đình tôi dọn về một căn nhà trệt (range) nằm trên đường "Broad," gần trường Đại Học Dukẹ Tôi đã được giấy chấp nhận vào khoa Computer Science của trường này từ mùa Xuân. Đội bóng rổ "Blue Devils" của trường là đội mà tôi ái mộ từ lâu! Hai em trai tôi ghi danh học ở Senior High School của thành phố.




Mấy ngày đầu mới dọn tới chúng tôi phải khiêng dọn, xếp đặt đồ đạc trong nhà nên ai nấy mệt đừ. Tối chúng tôi lên giường là ngủ say chẳng biết trời đất gì nữa! Tuần sau đó thì mọi việc đã ổn định; vẫn còn là mùa Hè nên đến 9 giờ đêm trời cũng còn sáng. Chúng tôi thường thức coi TV đến 11 PM mới chịu đi ngủ ! Một đêm kia sau khi đã lên giường nằm được cả tiếng, tôi buồn tiểu nên dậy mò ra cầu tiêu, vì lười nên tôi không bật đèn ở hành lang! Khi tới gần cửa phòng tắm tai tôi nghe có tiếng động ở phòng khách rồi tiếng lịch kịch như ai đặt vật gì xuống bàn! Tôi mò mẩm trong bóng đêm lại chổ công tắc điện định bật sáng đèn lên để xem, nhưng khi tay tôi đụng vào chổ công tắc thì tôi cảm thấy như có bàn tay ai cầm chận lấy tay tôi không cho bật đèn ! Tôi sợ quá thét lên một cách khủng khiếp ! Bố mẹ và các em tôi bật đèn chạy ra hỏi dồn dập có chuyện gì xảy ra vậy! Tôi nói là có ai cầm tay tôi! Mọi người chỉ lắc đầu hay cười ra vẻ không tin! Tôi đi ra phòng khách xem thử , không có ai cả, chỉ thấy một cái ly có hình con chuột Micky để trên bàn! Bố tôi rất khó tính và ngăn nắp nên chúng tôi luôn giữ mọi thứ đâu vào đấy! Mà sao lại có cái ly để trên bàn kìa! Tôi không biết có ai dùng rồi quên cất đi hay không, nhưng để khỏi bị bố mắng, tôi cầm cái ly cất vào tủ bếp rồi trở về phòng tiểu!




Sáng hôm sau khi chúng tôi đang ngồi ăn sáng trong bếp, bố tôi bước vào hỏi:

_ Tối qua đứa nào ăn uống mà không dọn dẹp bày bừa ly ở trên bàn thế ?!

Không đứa nào nhận cả ! Bố tôi tức vì chẳng đứa nào nhận, liền lấy cái ly ra nói:

_ Đây này, đứa nào xài cái ly này đêm qua ?!?!

Tôi hơi đổi sắc mặt, vì đó chính là cái ly có hình con Micky mà tôi đã cất vào tủ lúc nửa đêm hôm qua! Tôi trả lời bố:

_ Tối qua khi đi tiểu, con thấy nó trên bàn và con đã cất nó vào tủ rồi mà!

_ Thôi đi con ơi! Xài rồi bày bừa ra đó còn chối hả ! Lần sau thì nhớ cất đi nhé cô nương !! _ Bố tôi đổi ra giọng diễu cợt tôi!



Tôi im không cải lại vì chỉ gây thêm phiền phức mà thôi! Nhưng trong lòng tôi lấy làm lạ lắm! Rỏ ràng là chính tay tôi đã cất nó mà!





Đêm hôm sau tôi cũng lại nghe tiếng động ở phòng khách vọng về, lần này tôi hơi run nên chẳng dám mò ra xem! Nằm nghe tiếng lịch kịch mà chẳng dám nhúc nhích hay thở mạnh nữa! Trưa sau tôi nói chuyện này với mẹ, bà gạt đi:

_ Mấy con chuột đi mò ăn thôi! Nó lịch kịch suốt đêm mẹ cũng có nghe nhưng mặc kệ chúng! Để vài bữa nói ba con xem coi có kẻ hở nào bít lại là yên thôi! Mà đứa nào lại bày cái ly có con Micky trên bàn nữa vậy ? May là mẹ dậy sớm nên cất đi chứ để bố mày thấy thì lại bị chửi nữa rồi !




Tôi không đồng ý với câu trả lời của mẹ! Nhưng có cãi lý cũng bằng thừa! Tôi ra ngoài sân chổ hai đứa em trai tôi đang chơi đá banh . Tôi gọi chúng lại và hỏi có nghe thấy gì trong đêm không . Hai đứa đều không biết gì cả . Chẳng trách chúng được bọn con trai ngày đi chơi tối về lăn ra ngủ như chết, có trời rầm chúng cũng chẳng nghe thấy! Tôi mới kể cho chúng về tiếng lịch kịch vào ban đêm ở phòng khách và việc đồ đạc bày bừa bãi trên bàn! Đứa em kế tôi lên tiếng:

_ Chị để tụi em lo chuyện này cho! Tối nay tụi em sẽ rình xem có phải là chuột hay không!



Tối đó chúng sửa soạn sẳn sàng, ngồi nép ở cánh cửa của tủ treo quần áo khoác gần phòng khách, với đèn pin trong tay chúng ngồi chờ nghe động tịnh! Tôi nằm lì trong phòng cũng hồi hộp chờ! Khoảng nửa đêm tôi nghe tiếng lịch kịch bên ngoài, rồi thì tiếng hét hoảng sợ của đứa em trai út của tôi! Tiếng bố mẹ tôi chạy ra bật điện và lo lắng hỏi có chuyện gì! Tôi cũng chạy ra xem! Hai đứa em tôi miệng há hốc mắt vẫn còn lộ sự sợ hãi ngồi co rúm ở phía ngoài cửa tủ ! Hai đứa chỉ ú ớ:

_ Bà già, bà già ngồi ở ghế sopha uống nước kìa!

Chúng tôi chẳng thấy ai cả! Chỉ có cái ly Micky lăn trên thảm mà thôi! Bố tôi gạt đi:

_ Tào lao nè, có ai đâu nào!

Xong ông kéo hai đứa về phòng rồi bảo mọi người đi ngủ ! Tôi có tánh sợ ma nên nào dám nhắm mắt! Miệng lẩm bẩm niệm Phật chờ sáng!



Hôm sau đợi bố tôi đi làm rồi. Tôi và mẹ mới hỏi mấy đứa em là cái gì làm tụi nó la hoảng tối qua vậy! Đứa em kế tôi trả lời:

_ Tụi em núp ở cửa tủ, đến nửa đêm thì nghe có tiếng mở cửa tủ bếp rồi tiếng chạm lách cách của ly ! Tiếng mở tủ lạnh và sau đó là tiếng bước chân về chổ sopha! Tụi em nhào ra bật đèn pin lên! Trời đất quỷthần ơi! Một bà già cú đế mặt nhăn nheo tay cầm cái ly, quắc cặp mắt đỏ lòm nhìn tụi em! Thằng út nó sợ quá phải thét lên! Rồi mọi người chạy ra và bà già cũng biến mất tiêu! Tụi em sợ quá có đứa nào dám ngủ đâu!




Mẹ và tôi liền qua gỏ cửa người hàng xóm đối diện bên kia đường để hỏi chuyện! Bà Mỹ đen hàng xóm này cũng vui vẻ, sau khi chào hỏi chúng tôi bắt chuyện hỏi về căn nhà chúng tôi đang mướn, bà ấy nghiêm giọng nói:

_ Nhà đó có ma lâu rồi! Bà già chủ nhà ở đó một mình và chết trong đó khoảng 3 năm trước! Con bà ta cho sơn sửa lại rồi cho thuê! Nhưng không có ai ở lâu được vì bà ta cứ đêm đến là lại lịch kịch trong bếp và phòng khách! Có người còn thấy bà ta mở TV xem nữa kìa!




Mẹ con tôi nghe rợn cả da gà, sau đó cám ơn bà ta rồi ra về! Mẹ con chúng tôi bàn luận cách thuyết phục bố tôi dời đi nhà khác! Sau vài lần thuyết phục bố, mẹ con tôi thành công! Thế là chỉ chưa đầy một tháng chúng tôi lại phải dọn nhà một lần nữa! Lần này chúng tôi dọn về một appartment ở đường Carver cũng gần đó. Dù có hơi tiếc là mất tiền cọc cho căn nhà trước, nh
 
Thầy vuốt Tác giả: Tám Tàng

Mỗi khi nghe nói đến buôn thượng người ta thường nghĩ đến những vùng xa xôi hẻo lánh tuốt trong rừng rú ! Nhưng không hẳn là như vậy! Thành phố Ban Mê Thuột có nhiều buôn làng nằm ngay ở ngoại ô của nó ! Buôn Alê A là một trong số các buôn thượng ấy! Buôn này nằm dọc theo QL 14 và chỉ cách trung tâm TP/BMT có một cây số thôi . Chung quanh buôn dầy dặc nhà của dân Kinh! Đối diện bên kia đường là một nhà thờ Tin Lành do các nhà truyền giáo Mỹ dựng lên để làm nơi thờ phượng và truyền giáo! Nửa số dân trong buôn theo đạo Tin Lành, số còn lại vẫn theo truyền thống cũ thờ các Thần của buôn! Vì thế dân chúng quanh buôn vẫn nghe tiếng chiêng cồng trong các dịp cúng Giàng của dân thượng trong đó!


Sau năm 1975, Cộng Sản chiếm lấy nhà thờ làm cơ quan của họ, bắt vị mục sư đi cải tạo và đẩy gia đình ông ta đi kinh tế mới! Dân trong buôn không còn chổ thờ phượng Chúa trong các ngày Chúa Nhật . CS theo chủ nghĩa vô thần nên họ không tin vào bất cứ thần thánh nào cả ! Trong mấy năm đầu sau 75, các tôn giáo gặp rất nhiều khó khăn trong việc phụng thờ và truyền giáo! CS tìm mọi cách gây khó khăn và ngăn cấm! Nhưng dù làm cách nào đi nữa chúng vẫn không dập tắt được lòng tin vào tín ngưỡng của dân trong nước!


Trong khoảng những năm gay go đó bổng có tin loan ra là tại buôn Alê A có một em bé với đôi bàn tay mầu nhiệm! Em bé trai đó chỉ chừng 9 tuổi, con của một gia đình người Thượng trong buôn. Họ đồn rằng nếu ai bị bệnh chỉ cần em rờ vuốt vào người thì bệnh sẽ được tiêu trừ! Tin này làm xao động dân chúng trong vùng và làm điên đầu bọn công an thành phố! Tin đồn lan rất nhanh, chỉ mới có vài ngày mà ta thấy lúc nào cũng có vài ngàn người tụ tập chung quanh cái nhà sàn nơi em bé ở ! Không chỉ riêng dân ở Ban Mê Thuột (BMT) đến mà cả những người từ Nha Trang, Saigon và các tỉnh khác tới! Họ tràn ngập cả buôn khiến người trong đó phải bắt xếp hàng để đợi vào nhà cho em bé vuốt! Nhưng cũng chẳng giữ được trật tự lâu! Ai cũng giành được vào trước để gặp "Thầy Vuốt" _ Tên mà họ đặt cho em bé trai đó _ Công an đến cả mấy chục mạng để canh chừng! Sở dĩ họ không mạnh tay đàn áp như các nơi khác, hay giải tán và bắt bớ như các trường hợp tương tự vì một lý do: "Thầy Vuốt" là bà con rất gần của ông Chủ Tịch Tỉnh Ủy _ Y Ngông _ Người có chân trong Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng CSVN ! Cũng vì lý do này mà dù muốn cấm bọn công an vẫn phải nới tay! Tuy không chống đối , đàn áp thẳng thừng nhưng họ dùng các bác sĩ trong bệnh viện Tỉnh để lên tiếng thách đố tài của "Thầy Vuốt" ! Các bác sĩ lên tiếng là nếu "Thầy Vuốt" có giỏi thì vào bệnh viện để họ đưa các người sắp chết vì ung thư hay đang hấp hối vì các bệnh khác hay tai nạn ra cho chữa! Nếu chữa được thì họ sẽ phục và tin! Nhưng gia đình em bé không để ý đến những sự thách thức này!


Rất nhiều người được vào cho "Thầy vuốt" rờ trong khoảng thời gian chừng một tháng! Không có ai theo dõi hay làm thống kê là bao nhiêu người đã được rờ và số phần trăm được khỏi bệnh! Người ta chỉ loan truyền là rất nhiều người được khỏi bệnh mà thôi! Họ kể cho nhau câu chuyện về "Thầy Vuốt" này! Theo lời kể thì cha mẹ của Thầy vuốt khám phá ra tài năng này và hỏi em có biết do đâu mà có được nó. Câu chuyện đại khái như sau:



"Một đêm nọ sau buổi cúng Giàng về, em bé năm ngủ và mơ thấy thần Y Ruth (Thần Rừng) hiện ra và bảo em giơ hai bàn tay lên, xong Thần áp hai bàn tay của ông ta vào hai lòng bàn tay em bé rồi biến mất! Em bé còn nhỏ nên chẳng biết đó là sự việc gì! Em vẫn đi học và đi chơi với các bạn như thường lệ! Tháng sau đó một bạn của em bị sốt xuất huyết, và các bác sĩ ở bệnh viện tỉnh cho về chờ chết vì quá nặng và họ không có thuốc chữa! Cha em dẫn em lại thăm, và em vuốt lên trán bạn mình như để trấn an! Lạ thay hôm sau em đó dần dần bình phục! Không ai biết là do đâu mà em khỏi bệnh nhanh chóng như vậy !


Tuần sau nữa, bạn của cha em bé được chở về từ công trường thuỷ lợi ở buôn Hô _ Thời đó ai còn trong tuổi lao động (dưới 65 cho đàn ông, dưới 60 cho phụ nũ) đều phải đi nghĩa vụ lao động 3 tháng/ năm cho nhà nước _ Ông ta bị sốt rét cấp tính thời kỳ thứ 3 rồi! Không có thuốc chữa, họ chở ông ta về nhà chờ chết! Cha con em bé đến thăm, em rờ rờ chân ông ta! Chỉ tối đó ông ta đã thấy lui cơn sốt rét, và vài ngày sau thì khỏi hẳn ! Tuy vậy cũng chưa ai thấy sự trùng hợp này! Cho đến một hôm, các em bé đang chơi giỡn ngoài nắng

thì có một em bé gái bị say cảm nắng té ngất đi giữa sân buôn! Em bé chạy tới cầm tay em gái này, lập tức em này tỉnh lại như không hề bị gì cả ! Cha em trông thấy và nhớ lại sự bình phục của mấy người bệnh trước, ông bèn tìm cách thử coi điều ông đoán có đúng không! Ông dẫn em tới nhà vài người bị bệnh va bảo em rờ lên thân thể họ! Thật đúng như điều ông đoán, tất cả mấy người này đều bình phục mau chóng trong một hai ngày!


Cha em nói chuyện này cho cả nhà nghe (người Thượng trong cùng giòng tộc thường sống chung với nhau trong một nhà sàn rất dài và do một bà già làm chủ gia đình vì họ theo chế độ mẫu hệ!) Rồi họ đồn ra ngoài! Thế là từ đó buôn lúc nào cũng đông nghịt người từ các nơi đổ đến! "Thầy Vuốt" chữa bệnh miễn phí nhưng những người trong buôn để một thùng đựng tiền cúng dường , ai cho bao nhiêu tùy hỉ, không có cũng chẳng sao! Tiền này để lo việc phục vụ như cơm nước v.v.. Nhưng một điều không may xảy đến là bà ngoại của "Thầy Vuốt" bị đau nặng, có lẽ là ung thư phổi! Người ta đã đưa "Thầy Vuốt" tới rờ, nhưng ba hôm sau bà ấy qua đời ! Thế là bọn công an có cớ để tuyên truyền là "Thầy Vuốt" chỉ là kẻ lừa bịp được cha mẹ giòng tộc em đưa ra để phỉnh gạt tiền bạc của kẻ dễ tin! Họ giải tán mọi người và hăm dọa rằng nếu ai còn bén mảng đến buôn sẽ bị bắt đi cải tạo tư tưởng! Mọi người sợ hãi ra về, tuy vậy để đề phòng dân trở lại, họ cho du kích canh gác trước buôn và công an lúc nào cũng lởn vởn để rình bắt những kẻ vi phạm luật cấm! Cha mẹ em cũng bị kêu lên đồn công an làm kiểm điểm và bắt hứa không được tái phạm nữa !


Rồi chuyện "Thầy Vuốt" cũng dần dần bị lảng quên, em bé lại đi học và vui chơi với bạn bè như cũ ! Năm sau đó em bé bị chết một cách đột ngột! Các bác sĩ trong bệnh viện Tỉnh và bọn cán bộ rất hả hê tung ra tin nói là bây giờ mọi người có thể tin chắc "Thầy Vuốt" chỉ là một trò bịp bợm! Vì Thầy Vuốt đâu có cứu được bà ngoại và chính bản thân của mình đâu! Dân chúng cũng không còn mấy ai để tâm đến chuyện này nữa! Thời gian trôi đi và xóa mờ đi câu chuyện chữa bệnh này!


Khoảng 15 năm sau người ở BMT lại kháo nhau một chuyện lạ liên quan tới tên của "Thầy Vuốt" lúc trước! Các bạn bè thân cùng buôn, hay cùng lớp của "Thầy Vuốt" khi xưa nay đều thành danh phận! Họ đều rất thành công theo các nghành nghề mà họ theo đuổi! Kẻ là bác sĩ danh tiếng, người là kỷ sư có nhiều sáng kiến, người thành luật sư tiếng tăm, vài kẻ thành người có thế lực trong chính quyền! Những người không theo đuổi học hành thì thành doanh gia giàu có, có kẻ trúng số độc đắc mấy

lần và trở thành tỉ phú! Nói tóm lại bất cứ việc gì mà họ theo đuổi, họ đều thành công rực rở ! So với ngôi trường nhỏ bé ở buôn Alê A, và ngay cả dân tại cái phường mà buôn này trực thuộc thì tỉ số người thành đạt quá cao nếu so với nơi khác trên toàn quốc! Tuy những người bạn của "Thầy Vuốt" không nói nửa lời về sự thành công của họ! Nhưng tin hở ra từ gia đình, hay từ vợ chồng họ là sở dĩ những người này thành công dễ dàng một cách vượt bực như vậy là vì khi xưa còn học, chơi chung với Thầy Vuốt, họ đã được Thầy vô tình hay cố ý rờ vuốt phải! Vì thế cái linh diệu từ bàn tay Thầy luôn chiêu đãi họ trong suốt cuộc đời! Dù nhiều người chỉ coi đây là sự trùng hợp, hoặc không tin! Nhưng những người bạn thành danh của Thầy (dù một số thành đảng viên có thế lực của đảng CSVN) thì tin chắc là Thầy Vuốt có đôi bàn tay mầu nhiệm! Đôi bàn tay này có thể chữa lành kẻ bệnh hoạn và mang vận hên cho những ai được Thầy rờ ! Chính bản thân họ là những chứng cớ hiển nhiên nhất, không thể chối cãi được! Còn về việc tại sao Thầy không thể cứu được bà ngoại và chính bản thân mình thì họ cho là Thần Y Ruth chỉ cho Thầy cái mãnh lực cứu giúp người khác mà không cho Thầy làm cái việc mầu nhiệm này với người thân của mình!


Dù tin hay không, cái chuyện chữa bệnh của Thầy Vuốt và sự thành công của những người bạn Thầy cũng đã là một đề tài nóng bỏng một thời! Một số người tiếc rẻ nói nếu biết vậy họ có hy sinh hết tất cả những gì họ có để đổi lấy một cái vuốt của Thầy thì họ cũng sẳn sàng làm!



Chú thích:

Viết theo lời kể của một người bạn tại Massachusetts, trước kia có sống tại BMT, Vietnam! Chị ấy nói chuyện này là có thật 100%, nhưng tôi không biết là nó thật là 100% không nữa!

Tin hay không là tùy bạn, tôi chỉ ghi lại như một chuyện kỳ lạ để giúp vui mọi người thôi!
_________________
 
Hồn Ma Báo Oán, Vida Derby

Có lẽ những người ít bị gây ấn tượng nhất đôi lúc cũng cảm thấy những hiện tượng không nhìn thấy, đặc biệt là tại một thời điểm xác định, dường như có thế lực vô hình nào đấy tồn tại chung quanh.

Phải người chết vĩnh viễn rời xa chúng ta, hay họ vẫn ám ảnh cuộc sống chúng ta? Lý giải điều này là không tưởng, nhưng hồn ma người chết có thể lởn vởn quanh ta, và còn hiện hình làm cho chúng ta cảm tưởng như bị bắt quả tang. Họ xuất hiện với mục đích rõ ràng, để phù hộ hoặc đe doạta.

Vợ của Arthur Noakes là Edith, người hay ghen một cách ảo giác. Do chồng cô rất yếu đuối trước phụ nữ nên nàng thường ghen và phải chịu nhiều cay đắng, nhục nhã với những cơn đau tim khi còn sống.

Trước lúc lâm chung nàng thề độc rằng nếu Arthur cứ tiếp tục tán tỉnh phụ nữ và quan hệ chăn gối với họ, nàng sẽ trở về ám ảnh để ông không còn dám nhìn mặt bất cứ một phụ nữ nào. Những gì chưa thực hiện được khi sống cô hy vọng sẽ làm được từ cõi âm.

Arthur Noakes không quan tâm tới lời đe doạ của người vợ quá cố, ông nhanh chóng tìm kiếm một người đàn bà hấp dẫn. Arthur nghĩ rằng lúc này ông đã là người tự do và có thể hưởng thụ cuộc sống tự do đó đến khi cạn sinh lực. Có lẽ ông sẽ cưới vợ lần nữa. Vợ thì có ích, nhưng không kém những giờ phút buồn chán.

Là chủ cửa hàng vải và đồ tạp hoá duy nhất ở thị trấn nhỏ Sussex, Arthur có điều kiện lựa chọn rộng rãi trong số phụ nữ khách hàng, thế nhưng hầu hết người đẹp đều dửng dưng đối với đàn ông. Là người goá vợ nhưng đẹp mã, ông hy vọng sẽ có ngày thành công.

Chẳng bao lâu sau, con mắt thèm khát của ông chạm vào một quả phụ trẻ thường xuyên đến cửa hàng đăng ten và dải lụa, tuy sống cảnh sống goá bụa song nàng không làm mất nét đẹp tự nhiên và niềm tin yêu cuộc sống. Thế nhưng, khi Arthur tìm cách tán tỉnh thì nàng hơi lưỡng lự, nhưng đôi mắt xanh tuyệt đẹp lại cho thấy lời thúc giục chào mời.

"Ông Noakes, việc ông kiếm người đàn bà khác trong khi người vợ tội nghiệp của ông mồ chưa xanh cỏ, ông thấy có vội vã quá không?"

Arthur rùng mình lưỡng lự, nhưng sự nòng lòng chiếm hữu người đẹp đoan trang giả tạo này nhanh chóng xâm chiếm lòng ông. Arthur cũng nhận ra Mabel, nàng vốn xuất thân từ một gia đình nghèo túng điển hình, đơn giản là nàng đang đắn đo trước danh tiết của mình.

"Thưa cô yêu quý, tôi cảm thấy đã yêu cô từ lâu lắm rồi. Tình cảm của tôi lớn đến nổi tôi phải bộc phát, nghĩa là phải nói cho cô biết được. Nếu cô ngại dạo phố bên cạnh tôi - thật ra tôi đánh giá cao sự dè dặt đó - nhưng sao chúng ta không thể hẹn gặp nhau ở một nơi nào đó ngoài thị trấn để không ai nhìn thấy?"

Lúc này Mabel đang ngắm vẻ tao nhã của mình, đôi giày bấm khuy, chân phải đung đưa làm đỏm. Hy vọng càng tăng khiến ông càng sốt ruột khi dán chặt vào hai cổ chân mảnh mai, vào sự run rẩy của đôi gò má và sự bẽn lẽn trong nụ cười của người đàn bà goá.

Nàng ngước mắt nhìn ông. "Thế chúng ta có thể gặp nhau ở đâu để không bị phát hiện?" Nàng giả vờ xấu hổ khi hỏi ông câu ấy.

Arthur đã biết một nơi mà trước đây ông đã từng đến. Sống giữa cộng đồng dân cư ít ỏi này, sự bí mật đôi khi thật hữu ích để việc riêng thành công. Ông kể với Mabel về địa điểm ấy bằng giọng nói mơ màng và nàng đồng ý gặp ông tối hôm sau.

Nơi đấy quả là địa điểm thơ mộng, lý tưởng cho những đôi tình nhân, bên cạnh một chiếc cầu bắt ngang con suối chảy yên bình. Arthur đến trước và người tình mới không để ông phải đợi lâu. Niềm vui của ông được trọn vẹn ngay khi ông nhìn thấy cô gái qua cầu. Trước nay không mấy ai đi bộ qua đây, ngay cả vào những đêm hè mát mẻ này. Họ gặp nhau nhiều lần, hôn nhau, làm tình và không ngại bị quấy rầy.

Tối nọ Mabel đến muộn. Arthur sốt ruột, liên tục nhìn cây cầu chập chờn ánh đèn pha ô tô. Chuyện gì xảy ra nhỉ? Chẳng lẽ nàng cố tình bắt ông chờ để ông hăng hái hơn, hay nàng không đến được tối nay? Vừa lúc ông định đi về thì thấy bóng Mabel vội vã băng qua cầu.

Chợt nghĩ hay là cho cô ta một bài học, Arthur nấp sau gốc cây chờ đến tận khi cô tới nơi hẹn quen thuộc, ông nhẹ nhàng lại gần và đột ngột ôm gọn eo lưng thon thả của người yêu.

Arthur chợt rùng mình. Dường như Mabel tan ra hư ảo, đúng lúc đó cô quay mặt về phía ông. Kinh khủng qua - Arthur không tài nào hình dung được. Thay vì gương mặt tươi cười xinh đẹp, đôi mắt nhí nhảnh, đôi má hồng của Mabel, ông lại thấy gương mặt đã chết của vợ ông - trắng bệt như phấn, đôi mắt đờ đẫn đầy tử khí đang đe doạ ông khiến ông vô cùng sợ hãi. Arthur nhảy bật về phía sau, thét lên khiếp đảm.

Bóng ma chỉ một ngón tay cảnh cáo về phía ông rồi biến mất ngay trước mắt ông. Arthur bỗng nhớ lại lời nguyền trước phút lâm chung của vợ và ông vội vã bỏ chạy khỏi chỗ hẹn bằng đôi chân run rẩy.

Lên đến chân cầu, chạy được quãng ngắn, ông thấy Mabel đang đi về phía mình. Nhưng đó có phải cô gái goá trẻ đẹp hay hồn ma kinh dị giả dạng Mabel? Ông đợi trong nỗi sợ hãi, run lẩy bẩy, thở hổn hển sau cơn vận động quá sức vừa qua. Trong đời chưa bao giờ Arthur chạy nhanh như thế, và giữa bóng tối nhập nhoà ông không dám chắc thật giả cho đến khi cô gái đến gần.

"Anh sốt ruột quá phải không anh yêu?" Mabel cười nhẹ nhàng, hai tay ôm choàng lấy cổ ông, hôn nồng nàn.

Arthur thở phào nhẹ cả người vì thân thể cô gái có ấm ấp và ông ngửi thấy mùi nước hoa huệ quen thuộc của Mabel. Arthur run rẩy gỡ tay cô gái ra, ông chợt nhớ đến mùi mộ người chết và ngón tay cảnh cáo của hồn ma.

"Có chuyện gì thế anh Arthur? Người anh run quá. Anh giận em đến muộn phải không? Hay cái gì đó chụp vồ anh từ sau bụi rậm?"

Arthur cố lùi người ra xa, tránh né câu hỏi bằng cách tỏ vẻ khó chịu vì sự chậm trễ của người yêu. Ông hỏi việc gì đã khiến cô đến muộn.

"Em xin lỗi, Arthur ạ. Bà mẹ nuôi tới thăm nên em không thể nào bỏ bà một mình. Nhưng có gì đâu, giờ em đang ở đây. Chúng ta đến chỗ cũ ngồi đi rồi em sẽ kể cho."

Cử chỉ của người đẹp đầy quyến rũ. Nàng âu yếm ông đến nỗi nếu là ngày thường máu trong người ông sôi lên rồi. Nhưng tối nay ông run rẩy sợ hãi vì phải trở lại nơi đã gặp hồn ma của người vợ quá cố vừa hiện về đe doạ. Arthur đề nghị tối nay họ nên đi nghe hoà nhạc. Ông thích nơi vui vẻ, giải trí và nhất là vài giọt Scotch giúp ông quên đi cơn ác mộng vừa qua.

Nhưng Mabel nhất quyết từ chối đến bất cứ nơi công cộng nào với ông và khi ông không muốn thay đổi ý kiến thì cô nói rằng ông không còn yêu cô nữa. "Nếu anh tới nơi đó anh sẽ gặp bọn đàn bà cũng chỉ lăm le tới đó để tìm bạn tình, Arthur ạ."

Arthur giải thích rằng ông vẫn yêu cô nhưng Mabel mặc cảm và cố chấp, cảnh cáo nếu ông bỏ cô để đến lúc này thì cô sẽ không còn gặp ông nữa, điều này có nghĩa là tình yêu và sự âu yếm của cô không giữ nỗi khát khao và sự cần thiết đối với ông. Thế thì họ nên chấm dứt từ đây.

Nhưng Arthur vẫn sợ hãi, ông không tin là cô sẽ từ chối gặp lại nếu có lời đề nghị. Một việc mà ông chắc chắn nhất - ông sẽ không bao giờ dùng địa điểm trữ tình cạnh bờ sông để làm nơi hẹn hò nữa.

Arthur đến phòng hoà nhạc một mình và sau vài cốc rượu, trong không khí sôi động của âm nhạc, ông chỉ còn nghĩ chuyện vừa qua chỉ là tưởng tượng. Làm sao một người chết có thể hiện về như thế?

Sáng hôm sau Arthur thấy Mabel đến cửa hàng, nhưng lần này bên cạnh nàng là một chàng trai mới và nàng phớt lờ ông. Ồ, thưa bà quả phụ trẻ, nếu bà làm như thế thì tôi cũng sớm tìm người khác, một người hấp dẫn hơn và không sợ bị nhìn thấy ở nơi công cộng như bà.

Sau đó Arthur chọn một cô chồng còn sống nhưng ở trong hải quân, phải xa nhà quanh năm. Tên cô ấy là Alice. Nàng không đẹp nhưng dễ nhìn, có trái tim nồng cháy và thân thể rất khêu gợi. Alice thường mời ông đến nhà chơi.

Alice nấu một bữa ăn ngon, có cả bia và rượu gin. Nàng còn mời ông hút xì gà, có lẽ của chồng nàng, Arthur nghĩ thầm. Alice tự tay châm cho ông hút rất ân cần. Arthur ngã người xuống ghế, cảm thấy rất dễ chịu, khoan khoái. Alice ngồi bên ông, họ vuốt ve, âu yếm và hôn nhau. Lát sau nàng đứng dậy.

"Anh hút nốt điếu xì gà đi, còn em đi thay quần áo đây, Arthur." Mắt nàng nhìn ông khêu gợi, mời mọc. "Lúc nào xong em gọi anh lên nhé. Em biết là anh nóng lòng mà," ông đáp lại, "đừng lâu quá nhé em yêu."

Vài phút sau, Alice quay xuống, quần áo vẫn mặc trên người, nhưng là bộ quần áo khác, xung quanh nàng nhuốm bầu không khí lành lạnh, ghê rợn. Arthur đứng chồm dậy, điếu xì gà rơi xuống thảm, không còn tâm trí đâu để thấy nó đã bắt lửa cháy âm ỉ.

Một nỗi sợ hãi ập đến, không phải Alice đang đứng trước mặt ông, mà là hồn ma của Edith, gương mặt người chết nhợt nhạt nhìn ông. Mới vài phút trước Arthur còn đứng đây lòng tràn ngập hạnh phúc và thèm khát, còn giờ đây hai chân ông chôn chặt xuống sàn, cứng người vì sợ. Chợt hai cánh tay khô khốc, xương xẩu và lạnh lẽo ôm lấy cổ ông, hai con mắt nguyền rủa ông, từ hai vành môi xám xịt phun ra luồng hơi thối của cơ thể người chết đang phân huỷ.

Đúng lúc đó giọng nói nhẹ nhàng từ trên gác vọng xuống: "Anh lên được rồi đấy, Arthur yêu dấu." Bóng ma lại biến mất. Nhưng cảm giác hai cánh tay toàn xương vẫn đè trên cổ Arthur, mùi xì gà không át nổi mùi mộ và cơ thể người chết.

Arthur bị kích động. Ông chạy thoát ra ngoài mặc bóng người mời gọi ông đã xuất hiện trên cầu thang. Alice hốt hoảng thấy ông lao vụt ra, không kịp đóng cửa lại. Arthur chạy như bị ma đuổi sau lưng.

Cuộc tình ngắn ngủi với Alice chấm dứt ở đấy. Suốt cả tuần sau đó Arthur nằm nhà và tự an ủi bằng rượu Scotch. Cửa hàng gặp khó khăn vì ông bỏ bê công việc. Arthur nhận thấy không thể tiếp tục sống ở nơi này được nữa. Ông quyết định đóng cửa hàng và chuyển tới London. Ở thành phố lớn ấy, bóng ma Edith không còn ám ảnh ông và ông có thể bắt đầu cuộc sống mới. Công việc tiến hành thuận lợi khiến Arthur cảm thấy hạnh phúc và thoải mái hơn.
 
Tên Trộm Vô Hình - Tám Tàng

Nam là một sinh viên năm thứ tư ngành hóa học của đại học kỷ thuật

Phú Thọ Saigon. Chàng rất giỏi về việc nghiên cứu và điều chế các

hợp chất hóa học . Một buổi tối trong khi pha chế các chất hóa học theo một công thức mà do tự chàng tìm ra, một chất kết tủa màu vàng óng ánh hiện ra dưới đáy của ống nghiệm . Trời đã về khuya và cũng không biết đó là chất gì chàng cất cái lọ vào tủ và ra về. Bù đầu trong các việc nghiên cứu khác, chàng quên bẳng cái lọ đó đi ! Một buổi tối, chàng ở lại để làm thí nghiệm trên con chuột bạch, Nam tìm kiếm các vật dụng trong tủ thì vô tình thấy cái lọ chứa chất màu vàng kia ! Tiện tay chàng lắc lắc rồi đặt vào trong cái khung chuồng có con chuột và tiếp tục tìm kiếm vật cần dùng.

Khi quay lại chổ làm việc thì cái lọ đã bị đổ, chất hóa học vàng kia văng vãi trong khung và bóng con chuột thì biến mất dạng ! Tìm quanh quẩn cũng chẳng thấy nó đâu cả !

Buồn rầu Nam dọn dẹp chuồng cho sạch để đi về, bổng chàng nghe có tiếng chuột kêu chút chít ngay trong khung! Nhưng bóng hình chuột thì vẫn bặt tăm ! Có lẽ ta nghe lầm _ Nam tự nhủ rồi ra về! Tối hôm sau trở lại phòng thí nghiệm thì lạ thay con chuột đang chạy loang quanh trong khung chuồng. Nam rất ngạc nhiên, nhưng là một người theo khoa học chàng luôn suy luận sự kiện một cách khoa học! Nam suy rằng có thể vì lý do gì đó mà con chuột đã trở nên vô hình chăng !? Chợt nhớ tới lọ có chất kết tủa màu vàng bị đổ văng vãi ra chuồng hôm qua ! Có thể đây là đầu mối chăng . Nghĩ là làm, Nam bèn lấy một ít chất đó cho con chuột ăn thử. Kỳ diệu thay con chuột từ từ biến mất ngay dưới mắt chàng ! Qúa mừng rỡ vì vô tình chàng đã chế ra được thuốc tàng hình !!! Nam ngồi đợi chừng một giờ sau, con chuột lại từ từ hiện ra lại nguyên hình. Nắm được bí quyết của loại chất siêu việt này,

Nam nghiên cứu liều lượng một cách kỹ lưỡng và thí nghiệm trên con chuột bạch trong suốt hai tuần liền ! Cuối cùng chàng nắm vững được liều lượng thuốc để có thể tàng hình trong một thời gian như ý chàng muốn ! Nam tuy rất giỏi nhưng cũng giống như các thanh niên trẻ khác _ Có tính hiếu danh _ Tuy đã chế được thuốc rồi nhưng Nam không cho một ai biết về việc này hết ! Vì tính háo danh muốn được nổi tiếng và làm những

việc cho thiên hạ rối đầu nên Nam quyết định dùng thuốc ấy trên chính bản thân mình ! Anh cẩn thận uống một liều thuốc nhỏ để thử nghiệm, xong cởi hết quần áo rồi đứng trước gương để xem kết quả . Chỉ một phút sau bóng anh trong gương đã biến mất, Nam đi tới đi lui trong phòng và thình lình nhà bị cúp điện ! Nam mò mẫn tìm đường trong bóng đêm . Khi điện sáng trở lại, Nam thấy mình đang đứng ở ngoài sân ! Sao lại la.

thế này _ Nam nghĩ thầm _ rỏ ràng mình đang ở trong nhà mà ! Nam nhắm mắt quay ngược lại mò mẫm cố nhớ lại lối mà mình đã đi! Mở mắt ra chàng đã ở trong nhà !

_ Chúa ơi ! Tôi có thể tàng hình và đi xuyên qua được cả tường gạch nữa !! _ Nam mừng rở thốt lên !

Ngay tuần sau Nam thực hiện ngay ý định làm cho mọi người _ Nhất là cảnh sát _ rối đầu chơi ! Đêm về, Nam dùng thuốc tàng hình

rồi đi xuyên qua tường các tiệm bán kim cương, lấy những hột to nhất rồi trở ra mà không một ai biết, dù là tiệm nào cũng có

gắn máy thu hình và hệ thống báo động ! Hôm sau tin trộm viếng các tiệm hột xoàn được đăng trên trang đầu ! Cảnh sát và các thanh tra không sao tìm ra dấu vết của tên trộm ! Cứ thế Nam trộm tiệm này qua tiệm khác, rồi tỉnh này qua tỉnh khác ! Chính phủ đã phải huy động một lức lượng lớn của nghành cảnh sát để lo điều tra vụ này! Nhưng cũng không đi đến đâu!

TV, đài phát thanh, và báo chí tặng cho Nam cái biệt danh "Tên trộm vô hình!" Nam thích thú lắm, nhưng cái tính háo danh vẫn rất mạnh trong

người, chàng nghĩ họ gọi ta là "tên trộm vô hình" nhưng họ có biết ta là ai đâu! Thế là hôm sau Nam dùng điện thoại công cộng gọi đến

các văn phòng nhà báo, đài truyền thanh, truyền hình tự xưng mình là "tên trộm vô hình!" Điều mà Nam nhận được chỉ là những cái cười chế diễu từ các nhân viên làm việc mà thôi ! Giận lắm, Nam gọi tới sở cảnh sát đô thành Saigon cho biết là 11 giờ khuya đêm nay chàng sẽ vào trộm "Tín Nghĩa Ngân Hàng" và thách các nhân viên chức trách về việc ngăn chận vụ trộm tối nay ! Tuy không biết thật hư ra sao, nhà chức trách cũng

phái một lực lượng hùng hậu cảnh sát, quân cảnh và có cả quân khuyển (K9 unit) tới canh giữ chung quanh và bên trong Tín Nghĩa Ngân Hàng !

Giữ đúng lời hứa, Nam uống thuốc rồi tới địa điểm ! Không một ai phát giác ra chàng! Các con chó ngửi ngửi hít hit' chạy trước các vị cảnh sát ! Trông ai nấy đều có vẻ căng thẳng lắm ! Nam bình thản đi xuyên qua tường vào trong và nhẹ nhàng thò tay xuyên qua tủ sắt lấy ra những cọc tiền giấy 500! Xong xuôi chàng nhẹ nhàng xuyên qua tường mà về nhà! Nam cảm thấy thơi mái lắm vì cả trăm cảnh sát và hàng tá chó bẹt-giê cũng chẳng ngăn cản được chàng ! Ngày hôm sau, tin "Tên trộm vô hình" chơi cảnh sát một vố đau điếng được đăng tải trên toàn trang nhất của tất cả các báo trong nước, đài truyền thanh,

truyền hình loan tin từng giờ. Nam hảnh diện lắm ! Nhưng cơn háo thắng trong lòng Nam vẫn chưa nguôi ! Phải làm sao cho họ biết "Tên trộm vô hình" chính là ta đây _ Nguyễn Hoàng Nam _ Nam gửi ảnh và tiểu sử của mình về các nhà báo lớn yêu cầu họ loan báo cho mọi người biết chính anh đã sáng chế ra thuốc vô hình, có thể đi xuyên qua tường!

Và để chứng minh tối đó anh sẽ vào hốt hột xoàn tại tiệm hột xoàn "Thủ Đô!" Nói là làm, tối đó anh hốt một số lớn hột xoàn trong tiệm đó mà không ai bắt được anh cả ! Báo chí liền đăng hình và tiểu sử của Nam lên trang nhất, các đài bình luận về các khám phá của anh trong nghành hóa học ! Nhưng than ôi cũng vì ngựa non háo thắng, nên cảnh sát bây giờ nắm đầy đủ hồ sơ lý lịch của Nam. Họ phái người lùng kiếm anh khắp nơi, chổ công cộng nào cũng có treo hình anh với một số tiền thưởng khổng lồ ! Đi đâu Nam cũng phải hóa trang, đeo kính đen, tóc giả, và thay đổi chổ ở liên miêm! Nhiều khi anh phải dùng thuốc tàng hình, để ra ngoài không ai thấy anh! Sống chui sống nhủi như vậy một thời gian, Nam quyết định làm một mẻ lớn rồi dông ra ngoại quốc sống hưởng nhàn ! Hôm đó anh đi uống rượu hơi quá độ lại dầm ngoài mưa lâu, nên khi về đến nhà Nam cảm thấy mệt mỏi lắm, hình như bị cảm mưa thì phải . Nhưng vì lỡ hẹn với bọn dẫn đường vượt biên giới là ngày mai sẽ lên dường. Nam uống một liều thuốc rồi đi về phía "Ngân Hàng Quốc Gia" và xuyên qua bức tường bê tông dầy cộm (bề ngang dầy một thước.)

Lần vào Nam đã cảm thấy hơi khó khăn khi xuyên qua bức tường, nhưng không sao miễn vào trong là được rồi ! Nam thò tay vào tủ sắt chứa bạc Đô La Mỹ, móc ra mấy trăm sấp giấy $100 ! Nam lần trở ra và khó khăn lắm chàng mới xuyên vào được bức tường! Nhưng khi vào trong tường rồi thì Nam kiệt sức ! Chàng cố vùng vẫy để chui ra ngoài đường ! Nhưng hởi ôi,

sức người có hạn ! Nam không sao thoát ra khỏi bức tường dầy oan nghiệt đó ! Nam cùng túi tiền bị sức ép của các viên gạch tiêu biến thành bụi đỏ trong tường !

Hôm sau các báo đăng tin "Tên trộm vô hình" đã làm một mẻ rất lớn tại Ngân Hàng Quốc Gia, số tiền mất lên đến 10 triệu Mỹ Kim . Nhưng từ đó về sau không ai thấy tăm hơi của "Tên trộm vô hình" nữa . Dần dần "Tên trộm vô hình" cũng đi vào quên lãng, như thân xác Nam đã hòa biến trong bức tường kia!!

Note: Đây chỉ là một truyện do tôi tưởng tượng ra để giúp vui các bạn thôi! Tuy tôi có dùng một số địa danh có thật trước năm 75. Nhưng thật ra các chi tiết trong truyện đều không có thật, đừng tốn công đi hỏi người khác ! OK!?
 
Vì tiền bảo hiểm giết chết 3 mạng người - Unknow

Chiều hôm đó, đại lộ số sáu ở vùng bắc Miami yên tĩnh như thường lệ mặc dù tại đại lộ có câu lạc bộ nổi tiếng với danh xưng Nhà Tắm Hơi Hoàn Vũ. Tại đây có một khu tắm hơi sang trọng được giới ăn chơi của thành phố mệnh danh là nơi quy tụ những người con gái đẹp nhất thế giới và những công tử hào hoa thường đến đây ném tiền qua cửa sổ để mua trận cười mỹ nữ.

Vào đêm chủ nhật 23 tháng 7, một người đàn ông luống tuổi nhưng quắc thước khỏe mạnh tiến đến câu lạc bộ trong một dáng điệu thành thạo, quen thuộc vì ông là cha của chủ nhân câu lạc bộ. Khi đó, đèn trong câu lạc bộ vẫn còn sáng trưng nhưng cánh cửa chính của khách sạn đã được khóa cứng. Người đàn ông biết con trai của mình là chủ nhân của câu lạc bộ, thường có thói quen để cánh cửa hông không khóa trong khi y làm việc. Vì vậy, người đàn ông rẽ vào lối cửa hông và đi thẳng vào trong câu lạc bộ.

Ngay khi đẩy cánh cửa thứ hai của đại sảnh, người đàn ông bàng hoàng phát hiện một xác người nằm bất động trong vũng máu. Chỉ trong khoảnh khắc không đầy phần 10 giây đồng hồ, ông nhận ra nạn nhân chính là con trai, John Mitchell, 33 tuổi. Ít nhất nạn nhân đã bị bắn sáu bảy phát đạn. Cạnh thi thể nạn nhân là chiếc chìa khóa vấy máu. Nhìn quang cảnh hiện trường người ta có thể đoán nạn nhân đã cố gắng trốn chạy trong khi bị hung thủ truy đuổi và đã bị đốn gục trước khi tay chạm vào cánh cửa.

Đau đớn xen lẫn kinh hoàng, người cha lẩy bẩy tiến đến chiếc điện thoại và bằng những ngón tay run run, ông gọi cho cảnh sát. Lúc đó đồng hồ chỉ đúng 9 giờ tối.

Không đầy 5 phút đồng hồ sau, cảnh sát có mặt tại hiện trường. Sau khi tiến hành lục soát chớp nhoáng phòng trong của câu lạc bộ, cảnh sát thấy đồ đạc trong phòng vứt tùm lum. Điều này khiến cảnh sát nghi ngờ cho rằng câu lạc bộ đã bị quân trộm viếng thăm. Và trong khi quân trộm đang lục soát thì bị John tình cờ phát hiện nên quân trộm đã không còn cách nào khác ngoài cách nhanh chóng xuống tay hạ sát. Nhưng đó chỉ là giả thuyết, thực tế với những bằng chứng được phát hiện sau đó cho thấy nội vụ không đơn giản như vậy.

Lục soát một số phòng tắm sang trọng của câu lạc bộ, cảnh sát phát hiện ra hai thi thể phụ nữ khác. Một nằm ngay tại hành lang. Thi thể nạn nhân không có một mảnh vải, mái tóc vàng xõa xượi dính bết vào vũng máu đã khô cứng. Nạn nhân đã bị bắn hai phát đạn, một vào đầu và một vào cuống họng. Quần áo nạn nhân bị vứt rải rác dọc theo hành lang.

Người đàn bà thứ hai bị bắn chết ngay trong một phòng tắm sang trọng của tòa cao ốc. Người đàn bà này tuổi ngoài 30. Khác với người thiếu nữ chết ngoài hành lang thi thể trần truồng, người đàn bà thứ hai bị bắn chết trong khi quần áo vẫn còn nguyên trên người.

Bác sĩ tư pháp xác nhận cả ba nạn nhân đã chết trong khoảng thời gian từ 4 giờ rưỡi cho đến 6 giờ rưỡi chiều. John bị bắn tới bảy phát đạn trong đó có một vết đạn còn ám khói súng. Điều này chứng tỏ hung thủ đã dí súng sát vào cơ thể nạn nhân trước khi bóp cò.

Patricia bị bắn hai phát. Một phát vào cổ và một phát vào đầu. Cả hai phát đều bắn trong khoảng cách khá gần. Riêng Carol bị bắn có một phát ngay vào thái dương.

Ngay khi cả ba thi thể được phát hiện, đội hình cảnh đã nhanh chóng thu thập một số bằng chứng cần thiết để truy lùng thủ phạm. Qua lời khai của người cha, cảnh sát biết John là chủ nhân của câu lạc bộ, thường có thói quen vào mỗi chủ nhật đến câu lạc bộ coi việc dọn dẹp, lau chùi và hút bụi. Đặc biệt, vào hôm xảy ra tai nạn, hai nữ nhân viên làm việc lau chùi cho câu lạc bộ cũng có mặt vào lúc bốn giờ chiều sau khi câu lạc bộ đóng cửa.

Theo lời khai của Linda, vợ nạn nhân, John đã rời khỏi nhà vào lúc 3 giờ rưỡi chiều. Khi đi, y còn dặn vợ sẵn sàng cơm nước để đến tối y về ăn cho vui vẻ cả nhà.

Đến tám giờ tối, không thấy John về và cũng không nhận được điện thoại, Linda bắt đầu lo ngại. Nhất là buổi tối hôm đó là ngày sinh nhật đứa con gái nên Linda tin chuyện John la cà chỗ này chỗ nọ là chuyện không thể xảy ra. Vì vậy, Linda liền gọi điện thoại cho bố chồng ở cách câu lạc bộ không bao xa, và nhờ ông đến câu lạc bộ xem tại sao John chưa về. Kết quả, khi đến nơi, ông bố phát hiện ra người con trai thân thương của ông đã chết.

Sau khi được cảnh sát báo hung tin, Linda vội vã đến câu lạc bộ vào lúc 11 giờ tối cùng ngày. Tại đây, Linda được một người bạn thân của chồng tên là Beattie ghé thăm an ủi. Beattie cho biết, ngay khi nghe được tin John chẳng may bị giết, anh vội vã ghé lại xem tình thế ra sao.

Beattie là một nhân vật nổi tiếng trong giới giang hồ. Y bản tính hung hăng từng nhiều lần đập lộn với thiên hạ. Ngay khi nghe được tin John bị chết, y đã một mình một xe phóng như bay qua nút chặn của cảnh sát và hung hăng đòi nhào vô tận nơi "xem mặt thằng bạn thân nhất của tôi chết như thế nào".

Sau khi điều tra chớp nhoáng với văn phòng cảnh sát liên bang tại địa phương, người ta được biết hai nữ nạn nhân tên là Carol, 34 tuổi và người con gái tóc vàng tên Patricia, 18 tuổi. Tuy nhiên, cho đến giây phút đó, cảnh sát vẫn chưa biết được lý do nào khiến cả ba người bị giết ngay tại câu lạc bộ.

Carol là một người đàn bà chịu khó mới thành lập công ty lau chùi phòng ốc trước đó khoảng sáu tháng. Ngay trước ngày xảy ra tai nạn, Carol đã ký một giao kèo lau chùi câu lạc bộ với John. Thông thường, Carol không hề trực tiếp lau chùi phòng ốc. Nhưng chiều hôm đó, chẳng may cho cô, nhân viên làm việc cho công ty lại nghỉ việc nên Carol phải đi làm thay.

Riêng Patricia thì làm part time cho Carol. Mặc dù mới tốt nghiệp trung học, Patricia chưa có một định hướng nghề nghiệp nên thì giờ rỗi cô muốn đi làm thêm cho Carol để kiếm chút tiền tiêu vặt.

Căn cứ vào những bằng chứng sơ khởi tìm thấy trên hiện trường, cảnh sát băn khoăn đi đến mấy câu hỏi như sau. Thứ nhất, liệu toàn bộ vụ thảm sát cùng một lúc cả ba mạng người có phải là một hành động giết người bịt miệng của một (hoặc những) tên đạo chích đang ăn hàng? Thứ hai, liệu quang cảnh lục soát toàn bộ câu lạc bộ có phải là hành động đang ăn hàng hay chỉ là hành động nhằm đánh lạc hướng sự điều tra của cảnh sát để che giấu một hành động giết người có toan tính? Nếu đây quả là một vụ giết người có toan tính thì trong ba nạn nhân ai là mục tiêu chính của hung thủ? Và tại sao, người con gái tóc vàng 18 tuổi bị bắn chết trong khi thân thể lõa lồ không một mảnh vải trên người nhưng không có bằng chứng gì chứng tỏ người con gái đã bị hãm hiếp?

Để có thể trả lời được những câu hỏi trên, cảnh sát mở lại hồ sơ lý lịch từng nạn nhân. Trong khi hai người phụ nữ có lý lịch đơn giản, lý lịch của John có những dấu hiệu khá phức tạp. Cụ thể, trước khi là chủ nhân ông của câu lạc bộ, John đã từng là người hùn vốn mở một số tiệm đấm bóp hạng sang tại Fort Lauderdale, Miami và Hialeah. Nhưng trong suốt thời gian làm ăn John chưa hề bị truy tố về bất cứ tội trạng gì.

Trong thời gian bốn năm trở lại đây, lý lịch của John cũng rất trong sạch. Dù câu lạc bộ là nơi nổi tiếng tụ tập những trai thanh, gái đẹp của thành phố, cảnh sát chưa bao giờ phát hiện bằng chứng cho thấy công việc làm ăn của John có chuyện buôn hương bán phấn. Nói tóm lại, căn cứ vào lý lịch của cả ba nạn nhân, cảnh sát không tìm thấy bất cứ điều gì để có thể quy kết đây là một vụ án mạng có dự mưu.
 
Ngoài ra, cảnh sát có ghi nhận một bằng chứng hiển nhiên nhất là những vỏ đạn rơi tung tóe trên sàn nhà và dọc theo hành lang. Căn cứ vào số lượng và đặc tính kỹ thuật của vỏ đạn, cảnh sát kết luận, hung thủ đã sử dụng ít nhất là hai băng đạn từ hai khẩu súng khác nhau. Khẩu thứ nhất có thể là loại .38 Special hoặc loại .357 Magnum. Khẩu thứ hai có thể là loại súng ngắn bán tự động.

Phân tích đạn đạo và số lượng của các viên đạn được bắn khỏi nòng, cảnh sát cho rằng hung thủ không phải là một tay bắn súng chuyên nghiệp. Cảnh sát cũng phát hiện một miếng kẹo cao su trên thân thể Patricia. Nhưng sau khi giảo nghiệm, chuyên viên cảnh sát hình cảnh chỉ phát hiện người nhai là người có máu loại A. Đáng tiếc, chính máu của Patricia cũng thuộc loại A nên khó có thể kết luận miếng kẹo cao su là của Patricia hay của người khác.

Khi vụ án càng ngày càng đi vào ngõ cụt, cảnh sát đành phải mời đến chuyên viên điều tra hình sự Eddie Stone, người từng nổi tiếng trong việc phanh phui chân diện thủ phạm trong những vụ án "trời không hay qủy không biết".

Eddie Stone hiểu được những bế tắc của vụ án nên ông quyết định đi tìm dấu tay của hung thủ. Sau khi không tìm được bất cứ dấu tay lạ nào trong những đồ vật của câu lạc bộ, Eddie Stone quay sang khám nghiệm ba tử thi. Bằng phương pháp giảo nghiệm đặc biệt, Eddie Stone đã thành công thu được ba dấu tay trên cơ thể của Patricia. Mặc dù hai dấu tay bên bị mờ, dấu tay ở giữa hiện đủ rõ để có thể lập hồ sơ điều tra.

Kế đó, Eddie Stone cho gửi dấu tay của hung thủ đến phòng CLIS (Crime Lab's Identification Section). Tại đây, chuyên viên giảo nghiệm chỉ tay sẽ phân loại dấu tay của hung thủ, và qua máy điện toán, dấu tay sẽ được so sánh với hàng triệu dấu tay khác được lưu trữ trong hồ sơ.

Hai ngày sau, kết quả điều tra cho thấy chỉ tay trên thi thể trần truồng của Patricia chính là dấu ngón tay giữa bên bàn tay trái của Beattie, người được mô tả là bạn rất thân của John cũng như gia đình.

Beattie là một nhân vật có cuộc đời khá hứng thú với những tình tiết đầy vẻ tiểu thuyết. Thân phụ của y là một võ sư nhà nghề người gốc Scotland. Nhờ có một thân hình khôi vĩ với những bắp thịt cuồn cuộn cộng với những cú đấm sấm sét, chớp nhoáng, thân phụ y đã quyết định lên đường đến Gia Nã Đại với toàn bộ nghị lực muốn tạo lập một cuộc đời mới. Năm đó Beattie mới có 7 tuổi đầu.

Vì có một ông bố sống bằng nghề đấm đá nên mấy anh em Beattie đều lớn lên với tính ngang tàng, thích gây chuyện và coi những màn ẩu đả trên đường phố như là lẽ sống thường trực. Anh trai của Beattie sau này trở thành một võ sĩ quyền Anh có hạng và là người đã giật chức vô địch quyền Anh hạng nhẹ vào cuối thập niên 1950. Người anh thứ hai của Beattie lại đi tìm ý nghĩa cuộc đời đấm đá trên chính trường và đã thành công trở thành một dân biểu tại quốc hội Gia Nã Đại.

Riêng Beattie đã chọn một con đường riêng biệt cho chính y. Sau khi bị kết án về tội ăn cắp xe ở Gia Nã Đại vào năm 1962 và phải ngồi bóc lịch trong nhà đá đúng một tháng trời, Beattie quyết định lên đường đến tiểu bang đầy nắng ấm Florida, Hoa Kỳ. Ngay khi đặt chân lên tiểu bang Folrida, Beattie đã nổi tiếng là một tay đấm đá có hạng. Không những thế, tính gan lỳ, sẵn sàng chấp nhận mọi chuyện hiểm nguy đến tính mạng đã khiến cái tên Beattie đột nhiên nổi như cồn trong đám anh chị của thành phố.

Nhưng bên cạnh tiếng tăm của một tên anh chị, Beattie còn là một người nổi tiếng tàn nhẫn, tham lam sẵn sàng làm bất cứ điều gì để đạt đến danh vọng và quyền lực. Bất cứ khi nào có những ngộ nhận, những xung đột, Beattie đều dùng cùi chỏ, cú đấm để đạt đến lẽ phải của một kẻ mạnh. Sau này, nhận thức được những béo bở trong lĩnh vực cung cấp vệ sĩ cho các nhà hàng, Beattie đã đứng ra thành lập một đội vệ sĩ gồm những tay đấm đá có hạng. Đội vệ sĩ này có trách nhiệm bảo vệ các hộp đêm, hội quán, nhà hàng, sòng bạc hoặc giữ phần bảo vệ an ninh cho các ông chủ bự, ca sĩ danh tiếng của thành phố.

Sống cuộc đời của một trùm vệ sĩ, Beattie đã nhiều lần là thủ phạm của những cuộc ẩu đả và đã nhiều lần bị truy tố. Trong thời gian 10 năm trời trước khi xảy ra vụ án mạng tại nhà tắm hơi, Beattie đã bị bắt và bị truy tố trước sau 10 lần cả thảy. Tuy nhiên, phần vì thiếu bằng chứng, phần vì thế lực chìm nổi của Beattie đã khiến nhiều người nửa đường kiện tụng phải rút đơn bãi nại và Beattie vẫn thảnh thơi sống ngoài vòng pháp luật. Chẳng may trong những lần bị bắt như vậy, y đã bị lấy dấu tay nên bây giờ cảnh sát có cơ hội phăng ra chân diện của y.

Sau khi xin trát tòa khám xét tư gia, cảnh sát phát hiện một số quần áo và một đôi sandals được giấu diếm một cách khả nghi tại nhà Beattie. Khi xét nghiệm, các chuyên viên giảo nghiệm phát hiện trên quần áo và sandals có những vết máu. Qua thử nghiệm, máu trên sandals là máu loại A, cùng loại với máu nạn nhân tên Patricia Beck.

Thì ra, tuy John Mitchell là chủ nhân duy nhất của nhà tắm hơi, anh lại có một nửa phần hùn với Beattie trong việc thiết lập võ đường dạy không thủ đạo. Cả Beattie và John Mitchell đều cùng mua bảo hiểm nhân thọ trị giá 100 ngàn Mỹ kim. Theo tinh thần của hợp đồng bảo hiểm, nếu một trong hai người chẳng may chết đi vì bất cứ lý do gì, người còn lại sẽ được bồi hoàn số tiền 100 ngàn đồng.

Chính vì số tiền 100 ngàn đồng bảo hiểm, Beattie đã quyết định giết bạn. Chẳng may khi vụ án mạng xảy ra, lại hiện diện hai người phụ nữ nên Beattie đành phải ra tay hành động với mục đích giết người diệt khẩu. Sau khi giết, Beattie đã giả vờ lột bỏ quần áo của Patricia với ý định đánh lạc hướng luật pháp khiến mọi người cho đó là một vụ hiếp dâm rồi giết người. Nhưng trong lúc vội vã, Beattie đã để lại vết chỉ tay của y trên thân thể nạn nhân mà y không hề hay biết.

Khi Beattie bị truy tố ra tòa, y vẫn một mực kêu oan. Nhưng trước những bằng chứng quá xác đáng, bồi thẩm đoàn đã đi đến phán quyết xác nhận y phạm tội giết người có chủ mưu. Sau phán quyết của bồi thẩm đoàn, chánh án đã tuyên bố Beattie phải lãnh "lần lượt ba bản án tử hình". Với lời phán quyết như vậy, chánh án tin tưởng nếu Beattie được giảm án từ tử hình xuống chung thân, y sẽ phải sống trong tù ít nhất ba lần án tù 25 năm. Như vậy, với tổng số 75 năm tù, Beattie sẽ vĩnh viễn không thể nào sống sót cho đến ngày mãn án.

Trong những ngày kế đó, dòng máu ngang tàng của một tay anh chị trong người Beattie nguội dần. Sau nhiều ngày âm thầm tích lũy một liều lượng thuốc ngủ vừa đủ, Beattie đã nốc toàn bộ số thuốc để quyên sinh. Ngày đó là ngày chủ nhật, 9/8 năm 1981 và chiếc xác của Beattie được nhân viên
 
Trên Chuyến Bay Đêm - Unknow

Chiếc thủy phi cơ sắp đến là chiếc máy bay tuyệt vời nhất từ xưa đến nay.
Tom Luther đứng trên bến tàu Southampton, ngước mắt nhìn lên trời để dõi tìm chiếc máy bay sắp hạ cánh, lòng nôn nao lo sợ, lúc ấy là vào buổi trưa và sau khi có tin nước Anh tuyên chiến với Đức được nửa ngày. Anh ta luôn miệng ngân nga khe khẽ mấy khúc nhạc của Beethoven:
đoạn đầu trong bản Côngxéctô LEmpẻrẻủr, một giai điệu trầm buồn rất hợp với không khí chiến tranh.
Một đám đông đến xem đứng quanh anh ta. Họ là những người say mê máy bay, với ống nhòm trên tay, là những chàng trai trẻ và những người hiếu kỳ.
Luther tính ra thì đây là lần thứ chín chiếc thủy phi cơ Clipper của Hãng Hàng không Pan American đáp xuống nước ơ Southampton, nhưng sự kiện này cũng không mất tính hấp dẫn mới lạ của nó. Chiếc máy bay rất kỳ diệu, rất đẹp đến nỗi mọi người đều tụ tập đến để xem ngay cả vào ngày đất nước họ bắt đầu lâm chiến. Trên bến tàu đã có hai chiếc tàu thủy đẹp lộng lẫy đang đậu, nhưng những khách sạn nổi này chẳng làm mọi người quan tâm, mà tất cả đều ngước mắt nhìn lên trời.
Trong khi chờ đợi máy bay đến, mọi người đều bàn tán với nhau về chiến tranh. Trẻ con rất náo nức trước viễn cảnh này; người lớn nói chuyện nho nhỏ với vẻ như đã nghe tiếng xe tăng và đại pháo kề bên; còn đàn bà thì chỉ giữ vẻ yên lặng. Luther là người Mỹ, anh hy vọng đất nước mình sẽ đứng ngoài cuộc chiến tranh này:
đây không phải là việc của người Mỹ. Ngoài ra, chỉ có một việc khi người ta nói đến những người Đức Quốc xã là:
họ không thích chủ nghĩa Cộng sản.
Luther là một kỹ nghệ gia sản xuất vải len, có một thời anh đã gặp nhiều chuyện khó khăn với những người Cộng Sản trong Các nhà máy sợi của mình.
Anh đã hoàn toàn phụ thuộc vào họ; họ đã làm cho anh gần sạt nghiệp. Nhớ lại chuyện này anh tức ứa cơm. Nhà máy sản xuất áo quần của bố anh đã thất bại, lại còn bị người Do thái cạnh tranh làm cho suy sụp thêm, rồi nhà máy len của Luther bị những người này hăm dọa - mà phần đông trong số này là người Do thái. Lúc bấy giờ Luther gặp được Ray Patrỉarca, và cuộc đời của anh được thay đổi. Thuộc hạ của Patriarca biết cách trị người Cộng sản. Anh ta đã thực hiện được nhiều vụ. Một người lãnh đạo phong trào đấu tranh đã bị máy dệt. nghiền nát một bàn tay. Một người hoạt động trong phong trào công đoàn đã bị một tay tài xế lái ẩu cho chầu Diêm vương. Hai người đàn ông than phiền về các qui chế bảo hiểm của công nhân không được thực hiện nghiêm túc, đã bị lôi kéo vào một cuộc ẩu đả trong quán rượu, rồl kết thúc cuộc đời trong bệnh viện. Một chị công nhân thường than vãn này nọ, đã tự động bỏ việc ở công ty sau khi nhà chị bị thần hỏa đến viếng. Những việc này chỉ xảy ra trong vòng mấy tuần, rồi từ đó về sau tất cả đều êm thấm. Patriarca đã học được sách lược của Hitler:
phương pháp duy nhất để trị người Cộng sản là nghiền nát họ như nghiền gián. Luther nhịp chân lên đá, luôn luôn khẽ ngân nga trong miệng nhạc của Beethoven.
Một chiếc tàu tuần tra rời bến tàu của Hãng Hàng không Hoàng gia Anh phía bên kia cửa sông, ở Hythe, chạy quanh nhiều vòng khắp khu vực máy bay sắp đáp xuống, để bảo đảm không có vật gì chướng ngại trên mặt nước. Đám đông nôn nóng thì thào với nhau:
chắc chắn chiếc thủy phi cơ sắp đến rồi.
Người đầu tiên trông thấy chiếc máy bay hiện ra là một cậu bé mang đôi giày mới toanh. Cậu ta không có ống nhòm, nhưng cặp mắt mười một tuổi của cậu sáng hơn những tấm thấu kính ở trong ống nhòm. “Máy bay đến kìa “ - Cậu ta reo lên giọng lanh lảnh. “[navy]Chiếc Clipper kia kìa” - Cậu ta chỉ về phía Tây Nam.
Mọi con mắt đều đổ dồn về phía ấy. Mới đầu, Luther chỉ thấy một vật lờ mờ như hình một con chim, nhưng chỉ một lát sau, vật lờ mờ ấy hiện rõ hình dáng một chiếc máy bay, và mọi người đều lộ vẻ hân hoan, thích thú:
cậu bé đã nói đúng. Mọi người đều gọi chiếc máy bay khổng lồ có vận tốc nhanh này là chiếc Clipper, nhưng theo kiểu thiết kế kỹ thuật, thì nó là một chiếc Boeing B-314.
Hãng Pan American đã đặt hàng cho Hãng Boeing đóng một loại máy bay có khả năng chuyên chở hành khách bay qua Đại Tây dương với điều kiện phải rất sang trọng, và kết quả là họ có một lâu dài bay khổng lồ, lộng lẫy, với sức mạnh phi thường. Hãng đã nhận được sáu chiếc và đặt mua thêm sáu chiếc nữa. So về mặt tiện nghi và vẻ đẹp, thì loại thủy phi cơ này tương đương với những chiếc tàu thủy khổng lồ chạy xuyên đại dương hiện đang neo đậu tại Southanlpton, nhưng trong khi những chiếc tàu thủy lộng lẫy kia phải mất bốn hay năm ngày mới vượt qua được đại dượng, thì chiếc Clipper chỉ bay mất từ 25 đến 30 giờ thôi.
 
Vừa nhìn chiếc máy bay đến gần, Luther nghĩ đến lời của nhiều người cho rằng đây là một con cá voi có cánh. Cái mõm của nó khổng lồ có:
hình vuông như mõm cá voi, thân máy bay thật đồ sộ và đuôi máy bay thon thả, tận cùng bằng cặp cánh phụ. Những động cơ khổng lồ được gắn gọn vào hai cánh. Dưới hai cánh, có một cặp phao ngắn dùng để giữ cho thủy phi cơ đứng vững khi đậu trên mặt nước. Phía dưới thân máy bay, nhìn nghiêng trông như vỏ một chiếc tàu thủy chạy nhanh.
Chẳng bao lâu, Luther thấy rõ những ô cửa sổ có hình chữ nhật ở hai bên thân tàu, những ô cửa sắp xếp không đều nhau, một dãy ở boong trên. Anh vừa mới đến nước Anh trên chiếc Clipper này cách đây một tuần, cho nên anh biết rất rõ cách bố trí trên tàu. Boong trên của tàu gồm phòng lái và phòng chứa hành lý còn boong dưới dành cho hành khách. Ở boong hành khách thay vì những dãy ghế bành cho khách ngồi, thì người ta lại đóng một dãy vách hõm vào để kê ghế dài bọc nệm. Đến giờ ăn, phòng khách chính biến thành phòng ăn, còn ban đêm thì những ghế dài sẽ được biến thành giường ngủ.
Máy bay được chế tạo như thế để hành khách được hoàn toàn cách biệt với thế giới bên ngoài và khỏi bị nhiễm lạnh. Trên sàn boong có lát thảm dày, ánh sáng được lọc cho dịu lại, màn nhung có màu sắc thanh nhã và nệm ghế được bọc da độn bông. Trên vách gắn một lớp cách nhiệt dày để làm giảm bớt tiếng ồn do tiếng máy gây ra. Ông Cơ trưởng có thái độ trầm tĩnh uy nghiêm, nhân viên phi hành đoàn mặc đồng phục của hãng Pan American rất thanh lịch, và nhân viên phục vụ luôn luôn cần mẫn. Khách muốn thứ gì người ta cung cấp đầy đủ thứ ấy, luôn luôn khách được đề nghị ăn cái này hay uống cái nọ; tất cả thứ gì khách muốn, thứ ấy hiện ra như một trò ảo thuật. Đến tối những chiếc giường ngủ được màn che kín và dâu tây tươi mát có sẵn trên bàn ăn vào giờ điểm tâm. Thế giới bên ngoài trở nên phi thực, như một cuốn phim được chiếu lên các ô cửa sổ bên hông tàu, và vũ trụ hình như thu gọn lại vào bên trong máy bay.
Để hưởng trọn hạnh phúc này, người ta phải trả một giá rất đắt:
Sáu trăm bảy mươi lăm đô la một vé khứ hồi; bằng một nửa giá tiền một ngôi nhà nhỏ. Khách đi máy bay đều là các nhân vật đế vương, các tài tử xi nê, giám đốc các công ty lớn và nguyên thủ các nước nhỏ.
Tom Luther không thuộc trong số các nhân vật này. Anh giàu đấy, nhưng anh đã làm việc cật lực mới có được một gia sản kếch xù, cho nên anh không xài phí tiền bạc vào cuộc sống xa hoa. Tuy nhiên, anh phải làm quen với chiếc thủy phi cơ. Anh được một nhân vật có uy lực, rất có uy lực, giao phó cho một nhiệm vụ tối nguy hiểm. Người ta không trả công cho anh, nhưng đổi lại, người ta sẽ giúp anh, những chuyện mà tính ra có lẽ còn đáng giá hơn cả tiền công trả cho anh nữa.
Công tác này còn có thể hủy bỏ, anh đang chờ bật đèn xanh. Anh đang ở trong tình trạng phân vân, vừa mong muốn tiến hành nhiệm vụ lại vừa mong sao khỏi phải làm công việc này.
Máy bay giảm độ cao với tư thế xiên xiên, đầu ngẩng lên, đuôi hạ thấp. Khi máy bay xuống gần, một lần nữa, Luther cảm thấy bàng hoàng kinh ngạc trước kích thước đồ sộ của nó. Anh đã biết thân máy bay có chiều dài 33 mét và cánh sải rộng đến 43 mét, nhưng những con số này chẳng có nghĩa lý gì khi người ta chưa thấy nó nằm trên mặt nước.
 
Bỗng người ta có cảm giác như chiếc thủy phi cơ không bay mà nó đang rơi và sẽ va mạnh vào mặt nước rồi chìm mất xuống đáy biển. Nhưng rồi người ta thấy như thể nó được treo lơ lửng trên mặt nước bằng một sợi dây vô hình. Rồi cuối cùng nó chạm vào mặt nước, nhảy lò cò trên sóng, làm bắn tưng tóe từng đám bọt nước. Nhưng cửa sông nằm khuất gió, nên sóng rất ít, và chỉ một lát sau, sàn máy bay chìm xuống nước, từng đám bụi nước văng lên tưng tóe.
Máy bay chạy tới vạch trên mặt nước xanh một đường trắng, rẽ ra hai chùm bọt nước hai bên; Luther nghĩ đến một con vịt trời trên hồ, hai cánh xòe ra, hai chân bơi dưới bụng. Bụng máy bay chìm dưới nước một ít làm cho hai chùm bọt nước rộng thêm ra, phần than trước nhấp nhô bập bềnh. Tia bọt nước càng nhiều thêm trong khi máy bay vươn lên lại, cái bụng như bụng cá voi trườn tới trước. Cuối cùng mũi máy bay hạ xuống. Tốc độ thình lình giảm sút, những chùm bọt nước biến mất, chỉ còn lại những xoáy nước nhẹ nhàng, và chiếc thủy phi cơ lướt đi trên mặt biển như một chiếc tàu thủy, êm ái như thể không bao giờ cất cánh bay lên trên trời xanh được Luther nhận thấy mình nín thở, rồi anh buông tiếng thở dài. Anh lại khẽ hát trong miệng. Chiếc thủy phi cơ tiến về chỗ đậu. Chính chỗ này tuần trước anh đã từ chiếc thủy phi cơ bước lên bờ, trên bến tàu nổi đã được bố trí rất tiện lợi cho khách lên xuống dễ dàng. Chỉ trong mấy phút người ta buộc dây neo ở trước và sau máy bay, rồi kéo máy bay vào chỗ đậu nằm giữa hai cái đê chắn sóng của bến tàu. Khách quan trọng bắt đầu xuất hiện, họ đi đến cửa đã mở trên cánh máy bay, bước sang bến tàu nổi, rồi từ đấy họ theo cầu tàu để lên bờ.
Luther bỏ đi, nhưng bỗng anh dừng lại. Một người đàn ông xuất hiện bên cạnh Luther, và anh chưa bao giờ gặp người này:
gả ta có thân hình gần như bằng anh, mặc bộ áo quần màu xám đậm, đầu đội mũ trái dưa, có vẻ là nhân viên làm việc trong văn phòng.
Luther định đi tiếp, nhưng anh cứ dán mắt vào mặt người đàn ông. Khuôn mặt không phải là mặt của người làm việc trong văn phòng. Gã có vầng trán cao, cặp mắt xanh sắc sảo, hàm bạnh và đôi môi mỏng, độc ác. Gã lớn tuổi hơn Luther, quãng 40, nhưng đôi vai rộng và trông rắn chắc. Thái độ của gã có kiêu căng và nguy hiểm.
Luther thôi không hát lẩm nhẩm trong miệng nữa.
Gã đàn ông nói:
– Tôi là Herry Faber.
– Tôi là Tom Luther.
– Tôi mang tin nhắn tới cho ông.
Luther cảm thấy tim đập nhanh. Anh cố che giấu sự hồi hộp của mình và cũng trả lời bằng cái giọng khô khan chắc nịch như gã:
– Tốt. Nói đi.
– Người có liên quan đến công việc của ông sẽ đi trên chiếc thủy phi cơ này vào thứ tư khi nó cất cánh đi New York.
– Ông nói chắc chắn chứ?
Gã đàn ông nhìn Luther với ánh mắt gay gắt và không đáp. Luther gật đầu.
Thế là sứ mệnh đã được xác nhận. Chấm dứt sự căng thẳng. Anh nói:
– Cảm ơn.
– Chưa hết đâu.
– Còn gì nữa, cứ nói.
– Phần thứ hai của tin nhắn là:
Chúng ta đừng để nhiệm vụ này thất bại.
Luther hít vô một hơi thật dài rồi đáp với giọng rất quả quyết:
– Ông báo cho họ hay là đừng lo. Có lẽ người ấy sẽ rời khỏi Southampton, nhưng hắn sẽ không bao giờ đến New York.
***
[navy]Hãng Hàng không Hoàng gia Anh quốc bố trí các xưởng cơ khí nằm phía bên kia cửa sông, ngay trước mặt bến cảng Southampton. Chính các kỹ sư cơ khí hãng Hàng không Anh quốc đảm nhiệm công việc bảo trì chiếc Clipper, được sự giám sát của kỹ sư cơ khí hãng Hàng không Hoa Kỳ. Trong chuyến bay này, kỹ sư cơ khí của Pan Ameriơln là Eđie Deakin.
Công việc bảo trì rất kỹ lưỡng, nhưng người ta có ba ngày đề làm công việc này. Sau khi đã để khách lên bến tàu số 108, chiếc Clipper chạy qua bên Hythe.
Ớ đây, người ta đưa máy bay vào một cái vịnh, trục nó lên giàn xe rồi kéo vào một nhà xưởng khổng lồ sơn màu xanh, trông như một con cá voi nằm yên trên.
chiếc xe của trẻ con.
Chuyến bay vượt đại dương đã làm cho các động cơ phải hoạt động vất vả.
Trên đoạn bay dài nhất, từ Terre-Neuve đến Ailen, thủy phi cơ bay mất 9 giờ nhưng trên chuyến bay trở về, vì ngược gió, nên chuyến bay cũng phải mất 16 gìơ rưỡi. Giờ này qua giờ nọ, nhiên liệu tiêu hao, bu gi nổ lốp bốp, 14 xi lanh trong một động cơ khổng lồ chạy lên chạy xuống không ngừng và những cánh quạt dài 4 mét 50 quay vòng trong mây, trong mưa và trong gió lốc.
Đối với Eđie, đây là mặt phi thường của ngành cơ khí. Những con người chế tạo ra những bộ máy có khả năng làm việc một cách hoàn hảo và chính xác trong nhiều giờ liền như thế này thật là kỳ diệu, tài giỏi đến độ làm cho ta phải ngạc nhiên. Dĩ nhiên là trong quá trình hoạt động sẽ có nhiều thứ hư hỏng, sẽ có nhiều thứ mòn đi, nhưng người ta đã trù tính và lắp ráp một cách chính xác, chi ly đến nồi các chi tiết máy không thể rơi rớt ra, không bị vướng mắc vào nhau hay là mất khả năng hoạt động để chiếc thủy phi cơ nặng đến 41 tấn này có thể đi đến nơi về đến chốn bình an.
Sáng thứ tư, chiếc Clipper sẽ cất cánh lại.
 
Thừa một chứng tích phạm tội - Unknow


Nhất là ...nhất là, ông đừng cho công bố trên báo chí!
Ông Marcus Hardman đã nhắc đi nhắc lại chắc có dễ đến hai chục lần lời van xin bằng giọng cao đã khản tiếng như vậy. Ông vừa tổ chức một cuộc gặp mặt bạn bè theo thói quen. Ông tiêu pha rất nhiều trong số những thu nhập của mình cho việc tiếp bạn và việc sưu tầm những những khăn đăng ten cũ, quạt và những đồ trang sức cổ tầm thường, cũng không phải là hiện đại.
Đáp lời yêu cầu khẩn thiết của ông Hardman. Poirot và tôi đã tới gặp và thấy ông đang trong tình trạng bồn chồn quá đỗi. Ông cho chúng tôi biết là ông quyết định không báo cho cảnh sát, nhưng ông cũng không muốn mất toàn bộ số đồ trang sức của mình. Cuối cùng ông phải cầu cứu tới Poirot.
- Những viên hồng ngọc của tôi, Ông Poirot!... Chiếc vòng ngọc bích trước kia chắc chắn là của Catherine de Médicis, công chúa nước Pháp ở thế kỷ thứ IV. Ôi chiếc vòng ngọc bích của tôi !
Poirot cắt đứt những lời than vãn của ông bằng cách hói nhẹ nhàng :
- Hãy thuật lại thường hợp mất đồ vật quý giá ấy xem nào, ông Hardman.
Đây!, Đây! chiều hôm qua tôi đã tổ chức một buổi tiệc trà ... bình thường, tôi chỉ mời sáu người bạn. Tôi đã tôi đã tổ chức một hoặc hai bữa tiệc như thế trong mỗi mùa. không phải là kiêu ngạo, nhưng những buổi gặp gỡ ấy rất thành công. Hôm qua tôi đã mời nhà chơi đàn dương cầm Nacora và nữ danh ca người Úc Katherine Bird tới giúp vui. Họ đã cho chúng tôi nghe những bản nhạc tuyệt diệu trong phòng nghe nhạc. Sau đó tôi đã đưa những đồ trang sức thời Trung cổ đựng trong một chiếc két sắt gắn vào tường mà ông thấy ở kia cho các bạn tôi xem. Bên trong chiếc két được lót nhung để đặt những viên đá qúy. Sau đó các bạn tôi đến xem những chiếc quạt được bày trong một tủ kính ở phía đối diện chiếc két. Cuối cùng chúng tôi trở lại phòng hòa nhạc. Chỉ đến khi họ ra về thì tôi mới nhận ra vụ mất trộm. Tôi cho rằng tôi đã quên không khóa két sắt, một kẻ nào đó đã lợi dụng việc ấy để lấy những của quý ấy đi. Một bộ đồ trang sức, ông Poirot! Tôi muốn lấy lại những thứ đó! Xin ông hiểu cho, ông Poirot, đây là những khách mời, những bạn bè thân thiết của tôi! Đăng tin trên báo chí có thể ngược lại thành một cụ bê bối.
- Ông có để ý ai là người rời khỏi phòng này sau cùng, khi mọi người đã trở lai phòng hòa nhạc không?
- Ông Johnston, nhà triệu phú Nam Mỹ. Có thể là ông biết ông ấy chứ? Ông ấy vừa thuê một ngôi nhà của Abbotbury ở phố Park Lane. Tôi nhớ rằng ông ấy đi ra sau chúng tôi một vài phút. Nhưng ông ấy không thể là tên ăn trộm được, ông biết đấy!
- Có người nào đã quay lại phòng này dưới một lí do gì đó không?
- Tôi đã nghĩ tời điều đó, ông Poirot, có ba người. Bà bá tước Vera Rossakoff. Ông Barnard Parker và phu nhân Rucorn.
- Ông biết những gì về họ?
- Nữ bá tước Rossakoff là người Nga và là một phụ nữ xinh đẹp ngay từ dưới chế độ cũ. Bà mới tới sống ở nước Anh. Hôm qua bà đến chào tạm biệt tôi. Tôi ngạc nhiên khi thấy bà sững người trước bộ sưu tập quạt của tôi. Càng nghĩ, tôi càng thấy đó là việc lạ lùng. Quan điểm của ông thế nào, ông Poirot?
- Tôi cũng chưa thấy có chuyện khác thường. Nói sang hai người khac, thưa ông.
- Còn Parker thì đi tìm một chiếc cát-set nhỏ để tôi đưa cho phu nhân Rucorn xem.
- Thưa ông, bà ấy là người như thế nào?
- Phu nhân Rucorn là người có cá tính hào hiệp trong những công việc từ thiện. Bà ấy tới đơn giản chỉ là lấy cái túi xách tay bỏ quên trên ghế.
- Được rồi, thưa ông. Như vậy chúng ta có thể nghi ngờ bốn người: Bà bá tước người Nga, phu nhân người Anh, nhà triệu phú Nam Mỹ và ông Barnard Parker. Nhưng ông Parker là người thế nào?
Câu hỏi hình như làm ông Hardman bối rối, ông ngập ngừng trả lời.
- Đó là một người trẻ tuổi... một người trẻ tuổi mà tôi quen biết.
- Tôi cần hiểu rõ hơn. Người trẻ tuổi ấy làm nghề gì?
- Đó là người cũng như mọi người khác... và nếu tôi có thể dùng một khái niệm, thì đó là một "Con người mấy gió"
- Tôi muốn biết anh ta ra nhập nhóm bạn bè ông như thế nào?
- Thế nào? Hừ... đã một hoặc hai lần anh ấy giúp tôi trong một công việc nhỏ.
- Xin ông nói tiếp cho.
Hardman nắm chặt hai bàn tay lại. Đó là cách cuối cùng ông ta muốn làm thỏa mãn tính tò mò của bạn tôi. Nhưng Poirot vẫn yên lặng nên ông buộc phải nói tiếp:
- Ông thừa biết rằng tôi có điều kiện để trở thành nhà sưu tầm những của quý. Đôi khi thấy cần thiết phải bán bớt đi một vật gì đó mà không muốn quá lộ liễu hoặc bị rới vào tay một kẻ mua đi bán lại, tôi thu xếp việc bán những thứ đó. Parker coi sóc những chi tiết về tài chính, quan hệ với người mua, tránh mọi lo ngại cho cả hai bên. Ví như nữ bá tước có một vài của quý từ nước Nga mang tới và đang muốn bán, bà sẽ
 
Theo tôi, thì ông hoàn toàn tin tưởng ở người trẻ tuổi ấy phải không?
- Cho đến bây giờ thì tôi không điều gì phải than phiền về anh ta.
- Thưa ông Hardman, trong bốn người ấy thì ông nghi ngờ ai?
- Ôi! Thưa ông Poirot. Một câu hỏi ác quá. Đây là những bạn thân của tôi, tôi đã nói rồi. Trong số họ tôi không nghi ngờ ... hoặc nghi ngờ tất, đó là cách tốt nhất để trả lời ông.
- Xin lỗi. Chắc hẳn ông chỉ nghi ngờ một người trong số họ. Nếu không phải là bà bá tước Rossakoff, không phải là ông Parker thì chắc chắn là phu nhân Rucorn hoặc ông Johnston phải không?
- Ông hiểu cho, ông Poirot. Tôi cố gắng tránh một chuyện bê bối. Phu nhân Rucorn thuộc về một dòng họ lâu đời ở Anh quốc. Nhưng chẳng may bà thường bị tai tiếng vì bà có một người cô, bà Caroline, mắc một bệnh đáng sợ. Mọi người đều biết rõ bà này đi đâu cũng lấy cắp những đồ vật người ta để sơ sểnh. (Ông Hardman thở dài). Tôi ở trong một hoàn cảnh tế nhị, ông lưu ý giúp cho.
- Như vậy phu nhân Rucorn có một bà cô ăn cắp vặt. Hừ ... Thú vị đây... Xin phép ông cho tôi quan sát chiếc két sắt được chứ?
Ông Hardman gật đầu và Poirot mở cánh cửa sắt để xem xét cái lỗ hổng trống hoác.
- Không hiểu tại sao cái cánh cửa lại khó khép lại thế này, anh ta lẩm bẩm tay lắc lắc cánh cửa. A! Cái gì đây? Một chiếc găng tay nằm ở khe. Một chiếc găng tay đàn ông.
Anh đưa cho Harman và ông ấy trả lời ngay:
- Không phải của tôi.
- Này, tôi còn thấy một vật gì nữa đấy.
Anh cho tay vào két sắt và lôi ra một chiếc hộp đựng thuốc lá.
- Hộp đựng thuốc lá của tôi!
- Tôi cho rằng không phải như vậy, thưa ông, vì chữ khắc trên hộp không phải là tên ông.
Anh chỉ vào hai chữ lồng vào nhau trên hộp.
- Ông có lí. Chiếc hộp thì rất giống, nhưng chữ kkhắc thì khác. Xem nào "P"và "B"... Trời ơi... Parker!
- Vâng, đúng như vậy. Người trẻ tuổi đó thật là bất cẩn. Nếu chiếc găng tay cũng là của ông ta, thì ông ấy đã cho cúng ta hai chứng tích.
- Barnard Parker! - Hardman thở dài - Tôi thú nhận rằng việc tìm kiếm này làm tôi yên lòng. Thưa ông Poirot, tôi để tự ông tìm giúp số của cải ấy cho tôi. Nếu thấy cần thiết thì ông có thể nhờ đến cảnh sát... với điều kiện ông tin chắc rằng Parker là thủ phạm.
- Anh bạn, anh đã thấy - Poirot nói với tôi khi chúng tôi rời khỏi nhà người sưu tập của quý - có một luật pháp đối với tầng lớp quý phái và một luật pháp đối với những người bình thường. Tôi chưa được phong tước nhưng tôi thích con người bình thường và thấy khó hiểu về tay Parker. Toàn bộ việc này thật là lạ lùng, anh có thấy vậy không? Hardman nghi ngờ phu nhân Rucorn, tôi chỉ nghĩ về bà bá tước và Johnston, thế mà anh chàng bí ẩn Parker lại là thủ phạm.
- Tại sao anh lai nghi ngờ hai người ấy?
- Trời ơi! Muốn có danh hiệu nữ bá tước Nga và triệu phú Nam Mỹ thì đó là điều rất dễ dàng. Ai là người nói dối? Thôi bây giờ chúng ta đã tới phố Bury nơi ở của người bạn lơ đễnh của chúng ta. Chúng ta phải rèn sắt khi nó còn đang nóng chứ?


Một người hầu cho chúng tôi biết rằng ông Barnard Parker đang ở nhà. Chúng tôi thấy anh ta nằm dài trên đống gối đệm, đắp người bằng một chiếc áo mặc trong nhà màu đỏ tươi và màu da cam. Lập tức tôi có ác cảm mạnh mẽ với người trẻ tuổi mặt xanh xao, nhu nhược vừa nói ngọng, vừa làm điệu này.
Poirot không chờ đợi, đi ngay vào cuộc chiến đấu.
- Chào ông.Tôi vừa ở nhà ông Hardman về đây. Hôm qua có một kẻ nào đó đã ăn trộm hết đồ trang sức quý giá của ông ấy vào buổi chiều. Thưa ông, xin phép ông cho hỏi, thưa ông... có phải đây là chiếc găng tay của ông không?
Ông Parker tỏ ra chậm hiểu. Anh ta nhìn chằm chằm vào chiếc găng tay như là để tập trung trí nhớ.
- Ông thấy nó ở đâu?
- Có phải nó là của ông không, thưa ông?
- Không, không phải của tôi.
- Và chiếc hộp thuốc lá này nữa?
- Cũng chắc chắn là không phải. Chiếc hộp của tôi bằng bạc kia.
- Rất tốt, thưa ông. Tôi đã không định báo việc này cho cảnh sát.
- Ở địa vị ông thì tôi không làm gì cả - Parker nói - Những con người ấy thật là lạ lùng. Tôi đi gặp ông Hardman đây, này, thưa ông... ông đợi cho một lát.
Nhưng Poirot đã rút nhanh.
Trên hè phố, anh cười lớn với tôi.
- Chúng ta đã làm cho anh chàng phải trù tính công việc. Ngày mai chúng ta sẽ xem họ nói với chúng ta thế nào.
Buổi tối chúng tôi lại khám phá ra một việc mới trong vụ mất trộm ở nhà ông Hardman, một bóng người sột soạt, đầu đội một chiếc mũ lớn, đứng trước cửa nhà chúng tôi làm cho một làn gió lạnh ùa vào ( trời lạnh như tiết tháng sáu của nước Anh). Chúng tôi nhanh chóng biết rằng đây là nữ bá tước Rossakoff có một nhân cách hơi lộn xộn.
- Ông là Hercule Poirot phải không? - Bà ta nói thành Poirrot - Thật xấu hổ! Ông đã làm gì vậy? Tố cáo một chàng trai khốn khổ. Thật là xấu xa, thật là bê bối! Barnard là một thiên thần, một con cừu... Anh ấy không hề ăn trộm. Anh ấy đã giúp đỡ tôi rất nhiều. Và tôi cần ở lại đây để nhìn thấy anh ấy bị hành hạ, tàn sát như là hoàng tử Zatkhoune dưới những con dao găm của bọn sát nhân.
- Thưa bà, có phải đây là hộp thuốc lá của anh ta không?
Poirot đưa cho bà vật tìm thấy trong két sắt bị mất trộm.
Bà ta yên lặng ngắm nhìn nó rồi nói:
- Phải, đúng là của anh ấy. Tôi biết. Ông đã thấy nó ở nhà ông Hardman ư? Chúng tôi ai cũng thấy nó. Tôi cho rằng anh ấy đánh rơi nó. A! Các ông là cảnh sát, các ông cũng tồi tệ như bọn cảnh sát Nga!
- Đây có phải là găng tay của ông ta không, thưa bà?
- Tại sao ông muốn biết nó là của ai? Một chiếc găng tay thì giống mọi chiếc găng tay khác. Này các ông đừng cản đường tôi... Tôi muốn rằng anh ấy vô can! Vì tiếng tăm cuả anh ấy tôi có thể sẽ bán tất cả những đồ trang sức của tôi và đưa cho ông rất nhiều tiền...
- Thưa bà...
- Đã quyết định! Tôi đã nói! Không, không, xin đừng vật nài tôi nữa! Chàng trai khốn khổ! Anh ấy đã đến gặp tôi... Hãy cứ để Vera giải quyết công việc này. Bây giờ, tôi xin hứa với ông lời hứa của người quý phái .
Bà ta biến mất như lúc bà ta đến, để lại một mùi nước hoa thơm nức theo sau.
- Người đàn bà kì lạ! - Tôi kêu lên - Anh có chú ý tấm da lông thú quàng cổ của bà ta không?
- Phải, nó là loại thật. Một nữ bá tước giả hiệu liệu có quàng lông thú loại thật không? Một lời giải nhỏ, Hastings. Tôi cho rằng đúng bà ta là người Nga. Như vậy thì Barnard đã tới để khóc thút thít với bà ấy. Hộp thuốc lá đúng là của anh ra. Tôi còn đang tự hỏi có phải chiếc găng tay...
Poirot cười và lấy ra trong túi một chiếc găng tay thứ hai rồi đặt bên cạnh chiếc găng tay kia. Chúng thành một đôi.
- Anh đã tìm thấy chiếc thứ hai ở đâu vậy, Poirot?
- Nó vị để quên trên chiếc giá gỗ bên cạnh chiếc can trong ngôi nhà ở phố Bury. Đúng là Parker là một con người cẩn thận. Anh bạn... Chúng ta sắp sửa kết thúc vụ này. Về hình thức, tôi cần tới thăm một ngôi nhà khác trên phố Park Lane.
Không cần phải hỏi thêm gì, tôi đi theo bạn tôi. Johnston đi vắng nhưng người thư kí riêng của ông ta đã tiếp chúng tôi và cho chúng tôi biết rõ là ông ta vừa ở Nam Mỹ tới và đây là lần đầu tiên ông tới Anh quốc.
- Ông ấy thích tìm kiếm đá quý phải không, tôi cho là như vậy - Poirot hơi lấp lửng.
Người thư kí cười vang và trả lời:
- Nói đúng ra là những mỏ vàng!
Kết thúc câu chuyện, Poirot ra về với vẻ nghĩ ngợi. Đến tận khuya tôi còn thấy anh chăm chú đọc cuốn ngữ pháp tiếng Nga.
- Trới ơi, Poirot! Anh định học tiếng Nga để trực tiếp nói chuyện với bà bá tước ấy ư?
- Tôi cần nói rằng bà ta đã không chú ý lắm đến tiếng Anh của tôi.
- Nhưng những người Nga trong các gia đình quyền quý đều nói tiếng Pháp kia mà!
- Hastings anh là nguồn thông tin không bao giờ cạn. Thôi tôi cũng chẳng cần đi vào những chuyện phức tạp của bảng chữ cái của tiếng Nga nữa.
Anh ném cuốn sách đi với vẻ rất kịch. Tôi không tin câu nói ấy của anh vì tôi đã trông thấy mắt anh sáng lên. Đó là một dấu hiệu không thể chối cãi: Hercule Poirot hài lòng về việc làm của mình.
- Có phải anh nghi ngờ rằng bà ta không phải là người Nga không? - Tôi hỏi bằng một giọng tin chắc - Anh sẽ thử thách bà ta chăng?
- Không, không, tôi không nghi ngờ gì về quốc tịch của bà ấy.
- Nhưng...
- Nếu anh muốn đi sâu vào việc này thì tôi khuyên anh nên đọc cuốn "Ngữ pháp tiếng Nga", một cuốn sách có giá trị lớn.
Anh cười và từ chối không nói rõ hơn ý định của mình. Anh nhặt cuốn sách, lật từng trang và hình như không có ý định trả lời câu hỏi của tôi.



Sáng hôm sau chúng tôi vẫn không có tin tức gì thêm. Cái đó không làm cho bạn tôi phật lòng và sau bữa ăn sáng anh nói ý định của mình là tới thăm ông Hardman. Chúng tôi ngồi ở gian phòng bên thường để tiếp khách. Gian phòng hình như yên tĩnh hơn là lúc chúng tôi rời khỏi đây hôm qua.
- Ông Poirot, ông đã tìm ra một dấu vết rồi chứ?
Nhà thám tử nhỏ người đưa cho ông một mẩu giấy.
- Đây là tên người đã lấy trộm những đồ trang sức của ông. Liệu tôi có nên giao việc này cho cảnh sát không? Hoặc ông muốn tôi lấy lại số của cải mà không cần báo cho các nhà chức trách.
Hardman nhìn tờ giấy với vẻ hốt hoảng. Khi trấn tĩnh lại, ông ta nói một cách kiên quyết:
- Tôi muốn tránh một vụ ầm ĩ. Tôi cho ông quyền tự do, ông Poirot. Tôi không nghi ngờ gì tính thận trọng của ông.
Khi ra khỏi nhà, Poirot gọi một chiếc tắc xi và yêu cầu người lái xe chở chúng tôi đến phố Carlton. Tới nơi, anh hỏi thăm phòng nữ bá tước Rossakoff. Một lát sau một nhân viên phục vụ dẫn chúng tôi đến nới ở của bà. Ăn vận mộc mạc, không trang điểm, người phụ nữ Nga tiến lại phía chúng tôi giơ tay ra.
- Ông Hercule! Ông thành công chứ? Ông đã gỡ cho chàng trai khốn khổ ấy những nghi ngờ đê hèn rồi chứ?
- Thưa bá tước phu nhân, ông bạn Parker của bà không có lí do gì mà sợ cảnh sát.
- Ông thật là một người tốt bụng kì diệu!
- Nhưng mặt khác, thưa bà bá tước, tôi đã hứa với ông Hardman là những đồ trang sức của ông phải được hoàn lại ông trong ngày hôm nay.
- Rồi sao nữa?
- Rồi, thưa bà, tôi phải yêu cầu bà, nếu thấy cần, bà giao chúng lại cho tôi ngay lập tức. Rất tiếc là phải thúc giục bà nhưng xe tắc xi đang chờ chúng tôi... trong trường hợp chúng tôi phải đến Sở Cảnh sát. Chúng tôi là những người Bỉ có bản chất tiết kiệm. tôi không muốn đồng hồ đo thời gian thuê xe chạy quá lâu.
Bà bá tước châm một điếu thuốc. Đột nhiên, bà ta cười vang, đứng lên, đi về phía bàn giấy, lấy ra một chiếc túi lụa màu đen. Bà ta ném nó cho Poirot. Bằng một giọng đùa cợt và hoàn toàn yên tâm, bà ta tuyên bố:
- Chúng tôi là những người Nga, ngược lại, chúng tôi rất hoang phí. Nhưng than ôi, cái đó đòi hỏi phải rất giàu. Không cần phải kiểm lại nữa, tất cả của cải còn ở nguyên trong đó.
Poirot đứng lên:
- Chúng tôi khen ngợi trí thông minh và tính nhạy bén của bà, thưa bà!
- Tôi không có sự lựa chọn nào khác, nhưng xe tắc xi đang đợi các ông.
- Bà thật đáng mến. Bà có ý định ở lại Londres lâu dài chứ?
- Than ôi, không... tại ông cả... con người đáng sợ.
- Xin bà nhận những lời xin lỗi của tôi.
- Có thể một ngày nào đó chúng ta lại gặp nhau.
- Tôi hy vọng điều đó.
- Còn tôi thì không! - Bà ta cười và kêu lên - Tôi xin tỏ lòng khâm phục ông, thưa ông Poirot, vì trên đời này có rất ít người khiến tôi phải hoảng sợ mỗi khi gặp gỡ. Xin tạm biệt, ông Poirot.
- Tạm biệt, bá tước phu nhân. A! Xin lỗi, tôi quên mất! Xin phép cho tôi gửi lại bà chiếc hộp thuốc lá.
Anh cúi đầu đưa cho bà ta chiếc hộp thuốc lá. Bà ta không ngần ngừ lâu ; cầm lấy chiếc hộp, hơi nhíu mày và khẽ lẩm bẩm:"Không có gì!"

* * *
- Một người đàn bà ghê gớm! - Poirot kêu lên khi chúng tôi rời khỏi ngôi nhà - trời đất! Một người đàn bà ghê gớm. Không có một lời chối cãi nào. Trong chớp mắt bà ta đã thấy rõ tính chất nghiêm trọng của tình thế, dễ dàng chấp nhận thất bại. Nói cho anh biết, một người như thế thì còn tiến xa hơn nữa! Bà ta rất nguy hiểm, bà ấy có dây thần kinh bằng thép, bà...
Anh vấp phải một bậc thang và ngừng nói.
- Thôi hãy ngừng những lời khen ngợi, Poirot. Anh nghi ngờ mụ bá tước ấy từ lúc nào?
- Anh bạn, chiếc găng tay và hộp đựng thuốc lá là hai chứng tích, chúng ta đã nói như vậy, làm tôi suy nghĩ nhiều, Barnard Parker rất dễ dàng để quên thứ này, hay thứ khác, nhưng nếu quên cả hai thì phải là một người rất đãng trí. Mặt khác, nếu một kẻ nào đó đặt chúng vào đây để buộc tội chàng trai thì một thứ thôi cũng đã đủ. Hộp đựng thuốc lá hoặc chiếc găng tay chứ không cần đến cả hai.Tôi đi đến một kết luận một trong hai thứ đó không phải là của Parker. Trước tiên tôi nghĩ đó là chiếc găng tay nhưng chỉ khi tìm thấy một chiếc nữa thì tôi mới yên tâm. Thế nhưng ai là chủ của hộp thuốc lá? Không phải là phu nhân Rucorn, những chữ viết tắt ấy không phải là tên bà ta. Của ông Johnston ư? Chắc chắn ông ta tới Anh quốc dưới một cái tên mượn. Khi hỏi chuyện người thư kí của ông ta thì tôi biết ngay ông không liên quan gì tới vụ này. Người thư kí ấy không tìm cách che giấu quá khứ của ông chủ mình. Bà bá tước ư? Có lẽ bà ta sẽ mang những đồ trang sức ấy về Nga để bán. Một khi những viên đá quý được lấy ra khỏi cái khung của nó thì rất khó chứng minh chúng ở chiếc két sắt của ông Hardman mà ra. Rất dễ dàng đánh cắp chiếc găng tay của Parker và ném nó vào két sắt sau khi lấy hết của cải trong đó. Nhưng chắc chắn rằng bà ta không có ý định để lại chiếc hộp thuốc lá của mình trong chiếc két ấy.
- Nếu hộp thuốc lá đúng là của bà
 
Bút Máu - Unkonw

Lương Sinh người ở Mãn Châu, con nhà thế phiệt, nổi tiếng thông minh đỉnh ngộ từ khi tóc để trái đàọ Lên tám đã giỏi thơ ca, từ phú, ai cũng ngợi khen là bậc thần đồng.

Năm lên mười hai, gặp thời loạn ly, cha mẹ đều bị giặc giết. Sinh sầu thảm mấy tháng liền, mất ăn, mất ngủ, lại thêm căn tạng yếu đuối nên lâm bệnh nặng, thần kinh hốt hoảng, luôn luôn giật mình, nằm mơ thấy toàn là máu lửa, sọ xương. May có người cậu đem về săn sóc đêm ngàỵ Sau nhờ đạo sĩ họ Trình ở núi Hoa Dương dùng biệt dược trị liệu nên được lành bệnh, tâm thái trở lại an tĩnh điều hòạ Khi lên mười lăm, Sinh được người cậu gởi đến Lã Công, một quan thủ hiệu bãi chức từ lâu ở nhà mở trường dạy võ. Sinh học rất chóng, nửa năm đã làu thông cả mười hai môn võ bí truyền của nhà họ Lã. Lã Công quý mến, một hôm lấy thanh bảo kiếm của mấy mươi đời họ Lã lập công trao cho Sinh luyện tập. Giữa buổi Sinh đang múa kiếm, bỗng dừng phắt lại, đưa kiếm lên ngửi rồi cau mày, kêu lên:

- Máu người tanh quá!

Ðoạn đem thanh kiếm nộp trả, cáo từ mà về.

Ðến nhà, lạy cậu thưa lên:

- Võ nghệ không phải là con đường cháu nên theọ Máu người chảy trong cơ thể quý vô cùng nhưng dính ra ngoài lại quá hôi tanh. Kẻ cầm lưỡi dao trọn đời sao cho khỏi đổ máu người! Ðiều tàn nhẫn ấy cháu không làm được.

Người cậu giận lắm, bảo rằng:

- Mày thực cạn nghĩ, phụ cả lòng ta trông đợi lâu naỵ Ðành rằng máu người là quý, nhưng để máu ấy chảy trong đầu bọn ác nhân thì càng có hại cho người, lại càng có tội!

Lương Sinh cúi thưa:

- Ai cũng cho mình là phải, lấy đâu để nói tốt xấu rõ ràng? Làm thiện một cách hăm hở mà không ngờ rằng đấy là điều ác, lại càng có tội vì đã lừa mình, lừa ngườị Trộm nghĩ binh đao là điều dứt khoát, cháu chưa dứt khoát trong người, tự thấy không dám theo đuổị

Cậu nói:

- Hoài nghi như thế, e rồi không khéo mày tự mâu thuẫn với màỵ Không phân biệt được giả, chân, thiện, ác, làm sao có thể tự tin mà sống trên đời! Xã hội chưa đâu có thể gọi là chốn thiên đường, bên cạnh nhà trường còn có nhà ngục, bên cạnh ngòi bút còn có lưỡi dao, không thể chỉ lấy một chiều, chỉ yêu một cạnh. Vị tất nhà trường đã không tội lỗi, ngòi bút đã không oan khiên! Ta không có con, từ lâu kỳ vọng nơi mày, nhân thời tao loạn, những mong cho mày múa gươm trận địa hơn là múa bút rừng văn. Bây giờ, thế thôi là hết. Từ nay tùy mày định lấy đời mày, ta không nói nữạ

Từ đấy, Lương Sinh sẵn có nếp nhà giàu đủ, chuyên nghề thơ văn, tiêu dao ngâm vịnh tháng ngàỵ Lời thơ càng gấm, ý thơ càng hoa, tiếng đồn lan xa, lan rộng như sóng trên biển chiều nổi gió. Quan lệnh trấn mới đổi đến địa phương vốn người hâm mộ văn chương, cho vời Sinh đến. Thấy Sinh tướng mạo khôi ngô, lòng cảm mến, tiếp đãi hết sức trọng hậụ Sau đó, quan lệnh mượn những thi tuyển của Sinh trong một tháng trường. Khi quan giao trả, Sinh thấy có những bài thơ hay họa lại những bài đắc ý nhất của mình dưới ký tên Tuyết Hồng, con gái của viên quan. Sinh vui mừng nghĩ rằng gặp được người hợp ý. Sau quan lệnh ngỏ lời kén Sinh làm giai tế. Sinh sung sướng nhận lờị

Sau lễ hôn phối, Sinh mới ngỡ ngàng biết rằng Tuyết Hồng không đẹp, cũng không biết làm thơ. Càng ngày Sinh càng chán nản khôn khuây, ảo tưởng vỡ tan, tưởng như tuyệt vọng tình đờị Thiếu thốn hình ảnh giai nhân, cuộc sống tự nhiên cằn cỗị Nhân tết nguyên đán, Tuyết Hồng về thăm song thân, Sinh bèn thừa dịp, noi gương Tử Trường ngày xưa phiếm du xuân thủỵ

Sinh chọn đường ven theo suối đẹp, đi mãi đã mười ngày, tiền lương muốn cạn, ý thơ chừng đầy, chợt đến một miền tiêu điều, dân cư thưa thớt, Sinh chán nản định quay về, nhưng ruột đói lưỡi khô, bèn đi tìm một tửu quán nghỉ chân. Qua ba dặm đồng trơ trọi vẫn chưa thấy bóng một người để hỏi thăm nơị Bỗng nghe phảng phất tiếng trống, tiếng chuông lẫn tiếng reo cườị Dò theo âm thanh vọng lại, lần bước đến nơi, thấy đám hội trước chùa, bèn vào quán nhỏ gần đấy ăn uống. Chủ quán cho biết, đã mấy năm rồi ở đây mới có một ngày hội lớn, vì quan khâm sai triều đình sắp về địa phương nên quan tổng trấn họ Lý bày ra trò vui để cho dân chúng thỏa thuê ít bữạ Chợt có tiếng hò hét và mọi người sợ hãi dạt ra, từ xa là chiếc kiệu hoa của tiểu thư Lý Duyên Hương, con quan Tổng Ðốc. Người đẹp vừa kiêu hãnh vừa sắc sảo khiến Sinh ngây ngất, nhìn đến quên ly rượu trong tay rơi xuống vỡ toang. Người đẹp quay nhìn thấy, nhoẽn miệng cườị Nụ cười lộng lẫy như hé sáng một trời tình. Sinh lảo đảo đứng lên trả tiền rồi theo chiếc kiệu chen vào chùạ Vào trong thấy Lý tiểu thư thành kính đàm đạo với mấy vị Tăng già rồi lên chánh điện lễ Phật. Sinh đến phòng kế lấy bút và giấy hoa tiên theo phỏng mấy câu:
 
Bóng đêm hang thẳm, long lanh một vẻ giai nhân.

Rồi bẻ cành hoa kẹp vàọ Khi Lý tiểu thư lễ xong, khoan thai xuống thềm, mọi người sợ hãi bật ra hai bên thì Sinh vội vã đi theọ Ðến lúc nàng vừa lên kiệu, Sinh ném cành hoa lên chỗ nàng ngồị Lính hầu thoáng thấy kêu lên:

- Có người ám hại tiểu thư.

Lập tức mười lưỡi gươm dài vung lên, lính hầu vây lấy Lương Sinh. Những người xem hội thất sắc lùi lại, dồn dập đẩy vào nhau kêu la náo động. Tiểu thư ngồi trên, vén rèm nhìn xuống không nói một lờị Vẻ mặt hết sức kiêu kỳ. Lương Sinh đã toan mở lời khống chế, nhưng lính xông vào trói chàng.

Ðám đông có tiếng thì thàọ

- Anh ta chỉ ném một cành hoa thôi đấỵ

- Bấy nhiêu cũng đủ héo cuộc đời rồị

- Qua dinh Tổng trấn không lấy nón xuống đã là bay đầu, nói chi xúc phạm đến tiểu thơ vàng ngọc!

Về đến nha môn, lính dẫn Lương Sinh nhốt vào trại giam, rồi tâu trình lên Tổng trấn. Lương Sinh nằm rầu rĩ trong bốn bức vách đá, e phải mang nhục phen nàỵ Ðang mơ màng về thế giới bên kia, chợt nghe tiếng người gọi dậy, lập tức được lính dẫn đến công đường. Tổng trấn ngồi giữa, vóc dạng phương phi, hàm én râu hàm, trên tay còn cầm tang vật là mảnh hoa tiên.

Sinh cúi đầu thi lễ, toan tìm lời kêu oan gỡ tội thì quan ra lệnh mở tróị Trước sự kinh ngạc của Sinh, quan bước xuống thềm, dắt Sinh vào trong, kéo ghế bảo ngồi, Sinh từ chối hai ba lần không được. Quan nói:

- Ta thường ước ao gặp được một người tài đức, nay biết người là danh sĩ nên thực hết lòng hâm mộ. Lính hầu sơ xuất phạm điều vô lễ vừa rồi, ta sẽ nghiêm trị. Gác đằng thuận nẽo gió đưa, người hãy cùng ta ở đây hưởng mấy ngày xuân vui câu xướng họa, cho thỏa tình ta khao khát lâu naỵ

Ðoạn truyền đem rượu ngon thịt béo ra thết đãi nồng hậụ Lương Sinh thích thú uống rượu ngâm thơ suốt ngày Tổng trấn có vẻ đặc biệt kính trọng tài năng của Sinh. Ðộ chỉ hôm sau, quan tổ chức cuộc du xuân, đưa Sinh đi xem cảnh trí trong miền. Nơi nào quan cũng cho thấy kỳ công đại lực của quan tạo lập cho dân: Kia là dòng suối quanh co quan đã khai thông để để dân lấy nước cày cấy, nọ là đồng ruộng bao la trước kia toàn là rừng rậm hoang vu quan đã tốn công khai phá cho dân trồng trọt.

Ngồi trên kiệu cao, Sinh nhìn theo ngón tay quan trỏ phía xa xa, mơ hồ thấy suối thấy đồng nhiều vẽ khác màu miệng không ngừng tán tụng. Hơi men nồng nàn, lòng Sinh chứa chan nhiệt tình đối với những bậc "Dân chi phụ mẫu" mà xưa nay Sinh thường tỏ ý rẻ khinh.

Ðến đâu quan cũng xin Sinh lưu bút để cho khắc vào bia đá, cột đồng. Sinh phóng bút thao thao bất tuyệt. Mực thơm bút quý, lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêụ Trước khi giã từ, Sinh còn lưu lại bài tán tổng kết công đức của quan để khắc vào chốn công đường và bài minh, ký để ghi tạc vào mấy cổ hồng chung tại các tháp đền quy mô trong hạt. Quan ân cần tiễn Sinh ra khỏi nha môn, đưa tặng một cỗ ngựa bạch, mấy nén vàng, nhưng Sinh một mực từ chối từ không nhận để giữ vẹn lòng thanh khiết.

Giữa mùa xuân ấy Sinh lâm bệnh nặng, nằm liệt suốt một tháng liền, Tuyết Hồng hết sức săn sóc thuốc thang, nhiều đêm không ngủ. Bệnh cũ như muốn tái phát, thần kinh rạo rực không yên, giấc ngủ chập chờn ác mộng.

Mấy lần chống tay ngồi dậy, nhưng lại bủn rủn nằm xuống, hơi thở nóng ran như lửạ Một sớm đang nằm, nghe tiếng chim hoàng anh hót ngoài vườn vụt tắt, thấy một tia nắng lọt qua khe cửa chợt tàn. Sinh hốt hoảng tưởng chừng mùa xuân bỏ mình mà đi, bèn gượng ngồi lên xô mạnh cửa sổ. Mấy nụ hoa thắm cười duyên trước thềm, lá xanh tươi màu nhựa mớị Sinh gọi đem nghiên bút và tập hoa tiên. Vừa cầm bút lên, Sinh bỗng kinh ngạc. Nghiên mực đỏ tươi sắc máụ Thử chấm bút vào, lăn tròn ngọn bút đưa lên, bỗng thấy nhỏ xuống từng giọt, từng giọt thắm hồng như rỉ chảy từ tim. Khiếp đảm, Sinh ngồi sửng sờ, tâm thần thác loạn. Cố viết đôi chữ lên giấy, nét chữ quánh lại, lợn cợn như vệt huyết khô trên cát. Sinh vội buông bút, tưởng chừng bàn tay cũng thấm máu đầỵ Ðưa lên ngang mũi, mùi tanh khủng khiếp. Quệt tay vào áo, đau nhói trong ngườị Sinh nằm vật xuống mê man bất tỉnh. Sau mấy ngày, Sinh tỉnh dậy, lòng lại khao khát cầm bút. Nhưng nhớ hình ảnh vừa qua, tự nhiên đâm ra e ngại . Sinh cố tập trung thần lực, men đến án thư vừa cầm bút lại thấy lãng vãng sắc máu, không sao có đủ can đảm vạch được nét nàọ Sinh ném bút, hất giấy, vô cùng khiếp sợ, tưởng như xôn xao chung quanh vô số hồn oan đòi mạng. Từ đó Sinh gầy rạc hẳn, liệu không sống thoát.
 
Người cậu của Sinh từ lâu đã vào trong núi Hoa Dương ở với đạo sĩ họ Trình, một hôm tạt về thăm nhà thấy cháu suy nhược, rất là lo lắng. Sau khi nghe Sinh thuật hết những điều quái dị vừa qua, ông suy nghĩ hồi lâu rồi nói:

- Ta từng bảo cháu ngòi bút không phải không có oan khiên. Lưỡi gươm tuy ác mà trách nhiệm rõ ràng, lỗi lầm tác hại cũng trong giới hạn. Mượn sự huyển hoặc của văn chương mà gây điều thiệt hại cho con người, tội ác của kẻ cầm bút xưa nay kể biết là bao, nhưng chẳng qua vì mờ mịt hư ảo nên không thấy rõ hay không muốn rõ mà thôị Làm cho thiếu nữ băn khoăn sầu muộn, làm cho thanh niên khinh bạc hoài nghi, gợi cho người ta nghĩ vật dục mà quên nhân ái, kêu cho người ta tiếc tài lợi mà xa đạo nghĩa, hoặc cười trên đạo nghĩa của tha nhân, hát trên bi cảnh của đồng loại, đem sự phù phiếm thay cho thực dụng, lấy việc thiển cận quên điều sâu xa, xuyên tạc chân lý, che lấp bần hàn, ca ngợi quyền lực, bỏ quên con người, văn chương há chẳng đã làm những điều vô đạỏ Tội ác văn chương xưa nay nếu đem phân tích biết đâu chẳng dồn thành ngàn dãy Thiên Sơn! Thần tạng của cháu kinh động thất thường, nhưng mà bản chất huyền diệu có thể cảm ứng với cõi vô hình, chắc cháu làm điều tổn đức khá nặng nên máu oan mới đuổi theo như vậỵ Hãy xem có lỡ hứng bút đi lệch đường chăng? Soát lại cho mau, soát lại cho mau, chớ để chậm thêm ngày nào!

Lương Sinh nghe xong bồi hồi tấc dạ, trí tuệ xem như minh mẫn hơn nhiều, cơn bệnh do đó lui được khá xạ Sinh đem mấy tập thi tuyển của mình đọc lại từng câu, dò lại từng chữ, thấy toàn là ý bướm tình hoa, phát triển cảm xúc mà xao lãng trí tuệ, tán tụng thiên nhiên mà bỏ mất cảnh đời, trốn tránh thực tại, từ chối tương lai, nhưng nghĩ kỹ vẫn chưa dò được lối máu từ đâụ Bỗng sực nhớ đến những lời phóng bút viết cho quan Tổng trấn, không ghi lại trong thi tuyển, tâm não trở nên bàng hoàng. Ðồng thời bao nhiêu gương mặt hốc hác trong ngày hội chùa lại hiện rõ, mấy cánh đồng trơ trọi, những tiếng thì thầm hai bên kiệu hoa, vẻ người nhớn nhác sợ hãi, những đòn dây trói, mấy dãy nhà giam, lần lượt như sống lại trước mắt. Những cảnh ấy thật trái ngược với những bài tán bài mình đã viết. Mồ hôi toát ra như tắm, Sinh đứng lên được, quyết định trở lại chốn cũ để tìm hiểu sự thật.

Sinh đến chốn cũ vào một buổi chiều nắng vàng thê lương phủ trên cảnh vật tiêu điều xơ xác. Qua khỏi dòng suối cạn, Sinh bước vào một thôn trang vắng vẻ, thưa thớt những mái tranh nghèo, không một bóng người thấp thoáng. Ðến một gò cỏ úa héo chợt thấy một người nông phu ủ rủ trước nấm mộ mới hiu hiu mấy nén hương tàn, Sinh dừng bước, lại gần ngồi một bên, khẽ hỏi:

- Bác khóc thương thân quyến nào vậỷ

Người kia ngước lên không nói, ngắm nhìn lại bụi đường trường bạc thếch trên quần áo của Sinh, dịu đôi mắt xuống:

- Người nằm dưới mồ không phải là bà con quen thuộc của tôị

Sinh nghĩ: "Chẳng lẽ người này cũng là một kẻ thi nhân khóc thương cho kiếp hồng nhan bạc mệnh nào chăng?"

Chưa kịp dò ý, người kia chợt hỏi, ra vẻ hoài nghi:

- Ông từ đâu mà đến đâỷ

- Tôi ở chốn xa, nhân bước đường phiêu lưu ghé tạt qua thôị Buồn thấy miền này có vẻ tiêu điều hơn các nơi khác.

Người nông phu bỗng long lanh đôi mắt như không dằn được tấm lòng dồn nén bật lên những tiếng căn hờn:

- Nói cho muôn ngàn khách qua đường cũng chưa hả được dạ nàỵ Ví dù phải chết ngày nay thân này chẳng tiếc, miễn sao bộc bạch cho được sự thật uất hận từ lâụ Ðã bao năm rồi, sống dưới nanh vuốt của tên Tổng trấn họ Lý độc dữ hơn hùm beo, đồng ruộng gầy khô, dân làng đói rách. Ðầu xuân này có khâm sai đi về, cụ thôn trưởng của chúng tôi, mặc dù già yếu cũng quyết vì dân làm bản trần tình, cản đầu ngựa, níu bánh xe mà tỏ bày sự thật. Thế nhưng khâm sai đi khắp mọi nơi, chỗ nào cũng thấy bia đá cột đồng đầy lời hoa mỹ tán dương công đức Tổng trấn của thằng danh sĩ đốn mạt nào đó nên ném bản trần tình, không xét, bảo rằng: "Muôn ngàn lời nói của lũ dân đen vô học đâu bằng mấy vần từ điệu cao xa của kẻ danh nhọ Danh sĩ bao giờ cũng biết tự trọng. Tổng trấn đã được hạng ấy tôn xưng, hẳn không phải bất tài". Thế đã thôi đâu, khâm sai đi rồị Tổng trấn phái sai nha về tróc nã những người đã đầu đơn tố cáo nó. Bao người phải chết vì nỗi cực hình thảm khốc, vợ góa con côi, một trời nước mắt, ruộng đồng từ đây dành để nuôi loài cỏ dại mà thôi!

Sinh chết điếng cả người, giây lát mới gượng gạo hỏị

- Chẳng hay bác có biết ... danh sĩ ấy tên gì không?

Người nông phu trợn trừng cặp mắt, gào lên:

- Làm gì mà biết! Mà biết làm gì? Những hạng hiếu lợi hiếu danh, trốn trong từ chương để tiếp sức cho kẻ ác mà cứ tưởng mình thanh cao, hạng ấy thì đâu chẳng có! Dân làng đây ai cũng nguyền rủa hắn mà hắn nào có biết đâu! Nghĩ thương cho cụ trưởng tôi mấy lần đứng ra chịu nhận tội để cứu bao người mà bọn chúng chẳng chịu tha, cứ việc tàn sát thẳng tay, lôi đi lớp người này rồi đến lớp người khác, nên khi bị dẫn qua đây cụ tự móc họng cho trào máu ra mà chết để khỏi bị đày đọạ Trước khi nhắm mắt cụ còn gượng nói: "Ðược chết trên cánh đồng đã đẫm mồ hôi ta, thế là quý rồị Chôn ta ở đây cho ta gần gũi với các người". Hơi thở gần tàn cụ nói tiếp: "Tội ác là ở lũ vua quan. Tên danh sĩ kia chỉ là cái cớ để chúng vịn vào mà che lấp sự thật. Ðừng oán hờn tên danh sĩ. Ðáng thương cho nó!".

Người nông phu dừng lại nghẹn ngào nói tiếp:

-Nhưng bao nhiêu người khổ ở đây, bao kẻ chết nơi kia, nghĩ còn đáng thương xót gấp trăm ngàn lần!

Ðoạn gục đầu trước mồ khóc thảm thiết.Sinh cũng sụp xuống hòa tiếng khóc theọ

Bóng đêm xóa nhòa, gió lạnh như từ cõi âm thổi về rung động bờ lau bụi cỏ. Sinh có cảm giác như theo cơn gió, oan hồn của người đã khuất hiện về chứng kiến cho những giọt lệ chảy ra từ một tấm lòng hối hận chân thành.
 
Nụ cười của người đã chết Tác Giả: Robert Arthur


Bert có một tính rất khó chịu, lúc nào cũng cười được, khiến nhiều lúc tôi rất ghét. Trong mười lăm năm chung sống với anh ta, phải có tới mười hai lần tôi tính đến chuyện giết anh ta. Tuy nhiên, tôi chưa thực hiện, bởi cũng không thể giết người nếu không có cớ gì hết. Nhưng rồi Bert đã tạo cho tôi một cái cớ.

Tối hôm ấy, anh ta về đến nhà, mặt cau có:

- Betty, hôm nay anh gặp một chuyện xấu xa. Jack biển thủ một số tiền của Hội! Sáng mai anh sẽ tố cáo với cơ quan cảnh sát.

Tôi giật bắn người. Jack là nhân tình của tôi. Anh là thư ký riêng cho Bert và được Bert trả lương hậu hĩ. Nhưng Jack thích tiêu xài. Nói cho cùng, đây là lỗi của Bert. Nếu như Bert không bủn xỉn thì tôi đã có đủ tiền để cho Jack số anh ấy cần.

- Nếu vậy anh ta sẽ ngồi tù mất - tôi kêu lên - Nhưng chiều chủ nhật anh đã đi Mehicô. Nếu anh làm cho Jack bị bắt ngày mai, thì trong hai tuần anh đi vắng, văn phòng Hội sẽ bàn tán chuyện này và anh lại không có nhà để thanh minh. Tốt nhất là để đến hôm anh về đã.

- Em nói chí lý - Bert nói rồi ôm bụng, nhăn mặt. Từ lâu anh đã bị đau dạ dày vì ăn uống không chịu giữ gìn - Thôi được, để hôm nào đi Mehicô về anh sẽ tố cáo cũng được.

- Từ nay đến hôm đi, anh đừng tỏ vẻ gì để Jack nghi, đúng không, Bert?

- Cũng lại rất chí lý. Em nói bao giờ cũng đúng - Và anh cười toe toét. Bert có thói lúc nào cũng cười được, dù chuyện chẳng đáng cười chút nào hết. - Thôi, anh đi ngủ đây. Tối mai lại có buổi chiêu đãi lớn. Và sẽ có mặt Gordon mới thú chứ!

Gordon là nghệ sĩ hề nổi tiếng, chuyên dẫn chuyện trên đài Tryền hình, chương trình hài hước: "Cứ tìm đi, bạn sẽ thấy!". Bert rất mê ông ta và không bỏ một buổi trình diễn nào của Gordon.

Bert lên gác rồi, tôi ngồi lại một mình trong phòng khách. Ôi, Jack yêu quý! Anh ấy cao lớn, đẹp trai và biết cách đánh thức dậy mọi dây thần kinh, mọi thớ thịt của tôi. Bert lại hay phải đi công việc ở nơi xa, cho nên Jack càng có nhiều dịp bù lại cho tôi những thời gian tôi phải chịu đựng với lão chồng vô duyên. Nếu Jack phải ngồi tù thì tôi mất đi niềm sung sướng tột cùng ấy. Chưa kể rất có thể Jack sẽ nói ra hết mối quan hệ dan díu với tôi để kiếm tìm lòng khoan dung của Bert. Khi ấy, dứt khoát Bert sẽ tống cổ tôi ra vỉa hè và tôi sẽ lại không có đồng xu trong túi y hệt hồi chưa lấy Bert.

Tôi nhấc điện thoại gọi cho Jack:

- Anh yêu - tôi cố nói rất khẽ - Tối mai anh đến em nhé. Bert phải đi dự chiêu đãi. Em có chuyện cần bàn với anh. Không, đừng hỏi em chuyện gì. Chỉ biết là rất hệ trọng. Rất, anh nghe rõ chưa? Rất hệ trọng cho hai chúng ta! Thôi, gặp nhau em sẽ nói.

Tôi đặt máy xuống trước khi Jack kịp hỏi thêm. Sau đấy, tôi ngồi vào bàn ghi ra giấy những suy nghĩ của tôi. Tôi có kinh nghiệm muốn suy nghĩ rành mạch, tốt nhất là ghi ra giấy rồi nhìn vào đó mà cân nhắc. Gạch xóa, thêm bớt một lúc, tôi đã vạch xong kể hoạch mà tôi tính sẽ thi hành vào tối Chủ nhật, là buổi tối theo dự tính, Bert sẽ ra ga để đáp máy bay đi Mehicô.

Tôi xé vụn mảnh giấy vứt vào giỏ giấy lộn rồi đi ngủ.

o0o

Đã đến chủ nhật. Chiều nay Bert sẽ ra ga xe lửa để ra thành phố, đáp máy bay đi Mehicô. Cũng sắp là lúc chấm dứt cuộc đời của anh ta. Tất nhiên Bert chưa biết gì hết, vẫn cười toe toét và đùa giỡn, kể chuyện tiếu lâm cho vợ nghe rồi lại tự mình cười rũ rượi.

Tôi làm bữa ăn tiễn chồng lên đường và Bert mời cả Jack để làm như không có chuyện gì. Tuy thỉnh thoảng Bert ôm bụng đau đớn, nhưng chỉ lát sau, đỡ đau, anh ta lại làm trò và cười vang. Anh ta kể cho tôi và Jack nghe về cuộc gặp với nhà hài hước nổi tiếng Gordon hôm trước cùng những câu nói cực kỳ hóm hỉnh của ông ta.

Jack có vẻ hồi hộp. Mồ hôi đổ trên trán và bàn tay anh nhiều lần run lên. Nhưng Bert không nhận thấy gì hết. Lát sau, Bert nói:

- Tôi xuống lấy xe đem ra đỗ ở cửa nhà nhé? Cẩn thận thế kẻo đến lúc nổ máy lại tắc tịt thì gay.

Anh ta cười lớn và lúc đã ra ngoài, tôi còn nghe thấy anh ta tiếp tục cười. Đúng là mình vớ phải thằng chồng vô duyên! Jack ngồi lại, thấm mồ hôi trán, nói giọng lo lắng:

- Betty! Chẳng lẽ không còn cách giải quyết nào khác nữa à? Ý anh muốn nói là nếu anh ngồi tù thì nhiều lắm cũng chỉ một năm thôi. Mà nếu anh nói khó với Bert thì có khi không phải ra tòa ấy chứ. Bert xưa nay tính tình rộng rãi, dễ tha thứ cho người nào tỏ ra ân hận.

- Anh yêu, em hiểu anh đang băn khoăn. Nhưng anh chưa biết lão chồng em đấy thôi. Lão thâm lắm. Lão không tha thứ đâu. Lão sẽ bắt anh phải chịu hình phạt cao nhất. Và khi anh đã ra tù, lão cũng còn tiếp tục trả thù. Với lại anh phải nghĩ đến em chứ. Dù một năm thôi em cũng không sao chịu nổi.

Tôi ôm anh. Hai đứa hôn nhau một lúc lâu, đê mê. Lúc buông tôi ra, Jack nói:

- Thôi được. Vì em, anh dám làm mọi thứ. Vả lại, cũng không còn cách nào nữa thật.

- Anh yên tâm, anh yêu. Em đã trù tính cặn kẽ cả rồi.

Bert quay lên. Tôi đã tập cách giấu kín tình cảm nên anh ta không biết gì hết.

- Em nhét lọ thuốc dạ dày vào vali của anh rồi chứ, Betty?

Tôi gật đầu và chợt nhìn thấy có vết bẩn trên áo, chắc là lúc ôm tôi hôn, trên tay đang cầm ly, Jack đã làm sánh rượu ra.

- Ôi, em phải thay áo mới được!

Nói xong, tôi chạy lên gác thay áo. Lúc tôi xuống thì Bert và Jack đã ngồi trong xe. Bert đang kể cho Jack nghe về một thư ký của anh ta ngày trước do thụt két đã phải ngồi tù sáu năm. Tôi biết Bert phịa, cốt để dọa Jack. Càng hay! Càng làm Jack quyết tâm giết Bert hơn.

Tôi cầm tay lái. Bert ngồi ghế trước bên cạnh tôi, còn Jack ngồi ghế sau. Dọc đường Bert liên tiếp kể chuyện tiếu lâm và ca ngợi tài hài hước của ông Gordon. Và chỉ mỗi mình anh ta cười ầm lên. Jack chỉ hơi mỉm cười, chắc trong lòng đang rất hồi hộp không còn bụng dạ đâu nghe chuyện hài hước.

Gần đến ga xe lửa, đến một chỗ hai bên là cánh đồng trống trải, tôi đỗ xe lại.

- Xe làm sao à? - Bert ngạc nhiên.

- Không, - tôi đáp - Nhưng hôm nay trời đẹp, ta ngắm phong cảnh một chút. Còn sớm. Cứ bao giờ thấy tàu đến, ta ra ga cũng kịp. Nghe báo tàu bao giờ cũng đến trễ, nửa giờ là ít.

- Em nói đúng, Betty! - Bert nói - Ôi anh nhớ lại một chuyện hài hước. Có một thằng cha chuyên môn nhỡ tàu, một hôm y...

Tôi không nghe. Tôi ngán đến tận cổ cái thói kể chuyện hài hước của anh ta rồi. Bỗng hai luồng sáng lóe lên từ phía xa. Tàu đến.

- Đi đi, em! - Bert giục.

- Đúng. Jack! - Tôi ra hiệu lệnh. Jack liền cầm khúc ống nước bằng kẽm quật mạnh lên đầu Bert. Bert thét lên, quay đầu lại nhìn, nhưng Jack quật luôn một đòn nữa và Bert gục hẳn. Tôi không ngờ chóng vánh đến thế. Đột nhiên, Jack kêu lên hoảng hốt.

- Ông ta chưa chết!
 
Tôi lắng nghe và đúng là có tiếng khò khè từ cổ họng Bert thoát ra, nhưng tiếng rên đã rất yếu. Tôi nói:

- Nhưng chỉ một lát thôi.

Đúng thế. Chỉ lát sau tiếng khò khè đã hết. Máu chảy xuống nệm, nhưng tôi đã chuẩn bị để sẵn một tấm khăn bông dày. Tôi lấy tấm khăn khác trùm lên đầu Bert, ấn đầu anh ta thấp xuống để người bên ngoài xe có ngó vào cũng không thấy.

- Đến ngôi nhà có ma! - Tôi nói và nổ máy. Vài phút sau, tôi quặt xe xuống con đường nhỏ và đi vào bãi lầy.

Chẳng là ở đây có một ngôi nhà tồi tàn giữa một khu vườn rộng, thuộc sở hữu của Bert. Đã có thời hai vợ chồng sống ở đây. Ngôi nhà có ma cho nên ít lâu sau tôi đòi Bert phải rời nơi đó. Từ đấy, ngôi nhà vẫn bỏ hoang và bây giờ đổ nát rất thảm hại. Trận bão năm ngoái lại làm đổ một cây to, rơi xuống đúng mái nên trông bây giờ càng thảm thương.

- Ta đào hố dưới tầng hầm chôn lão. Em có mang theo thuổng và cả cào để cào cho phẳng nắp mộ rồi.

Tôi đỗ xe, lôi xác Bert ra để tạm ngoài vườn, rồi dẫn Jack vào nhà. Lúc Jack đào xong huyệt, chúng tôi ra định khiêng xác Bert vào thì không thấy anh ta đâu. Chúng tôi hoảng hốt tìm xung quanh. Đột nhiên, Jack kêu lên:

- Nhìn này, Betty!

Tôi cúi xuống, thì ra một vỏ bao thuốc lá.

- Hay vừa có người đến đây và đưa Bert đi? - Jack hốt hoảng nói.

Tôi xem kỹ bao thuốc, bao ẩm và rõ ràng là bị vứt đây đây đã khá lâu.

- Nơi này thỉnh thoảng vẫn có người đến cắm trại chơi vì là hơi vắng vẻ. Nhất là mấy cặp nhân tình, mò đến đây cho kín đáo, có vậy thôi. Không có ai đến hết.

Chúng tôi tiếp tục tìm. Bỗng dưới ánh sáng chiều tà lúc trời sắp tối, tôi thấy một bụi cây động đậy. Tôi vội chạy đến. Bert trong đó, đang bò rất vất vả.

- Betty yêu quý - anh ta nói thều thào - Việc em làm vừa rồi đúng là hài hước. Nhưng anh chưa chết hẳn. Em phải làm lại vậy - rồi anh ta cười nhe cả răng.

Nhưng cũng đúng lúc ấy, anh ta giẫy một cái rồi bất động. Hai mắt nhắm lại, lăn ngửa ra đất. Tôi sờ mạch. Bây giờ thì Bert đã chết hẳn. Chúng tôi khiêng anh ta vào nhà, đưa xuống tầng hầm. Jack run lẩy bẩy. Anh ta rất sợ. Lát sau, chôn Bert xong, chúng tôi ra xe. Jack nhấc chai rượu tu một ngụm. Chúng tôi ra ga. Jack đem gởi va li của Bert và cặp giấy tờ vào ngăn "gửi hành lý". Làm thế, đến khi phát hiện Bert mất tích, cảnh sát sẽ nghĩ rằng Bert ra ga sớm, gửi hành lý để đi uống gì đó và mất tích ngoài phố.

o0o

Hôm đó là Chủ nhật. Mọi sự trót lọt một cách quá đơn giản. Nhưng đến ngày thứ ba, tôi nhận được một lá thư của Bert, đóng dấu bưu điện ngày thứ hai. Chỗ tên người gửi đề:

"Người đã quá cố Bert Willoughby. Tầng hầm. Ngôi nhà có ma."

Vậy là sao? "Quá cố" có nghĩa anh ta đã chết! Tôi luống cuống bóc phong bì. Và đây là nội dung lá thư:

"Betty thân yêu,

Chào em. Thay mặt những người đã chết, anh chào em và khen ngợi vụ giết người đầu tiên của em trên đời. Em là cô gái thông minh và can đảm, nhưng vì là lần đầu, chưa có kinh nghiệm, nên em làm chưa gọn lắm. Anh rất cảm ơn em là đã chấm dứt cho anh nỗi đau đớn liên miên.

Đau đớn gì à? Anh bị ung thư dạ dày và chỉ vài tuần nữa anh sẽ chết. Anh không nói với em vì nghĩ cũng chẳng để làm gì. Anh muốn được chết cho mau để khỏi phải chịu nỗi đau đớn kéo dài, mà đằng nào rồi cũng chết.

Anh biết em với Jack đã phản bội anh từ lâu và nhân dịp này anh tạo điều kiện cho em có cớ để giết anh. Anh phóng đại chuyện cậu ta ăn cắp tiền của Hội. Anh nghe lỏm điện thoại em gọi cho cậu ta. Anh cũng nhặt những mảnh giấy em tính toán kế hoạch giết anh mà em xé vụn và chắp lại để đọc. Anh rất mừng thấy kế hoạch của em chu đáo.

Lúc ra xe, thấy Jack vẫn còn ngập ngừng, anh đã bịa ra câu chuyện tên thư ký của anh biển thủ tiền công quỹ và bị tù sáu năm để khích cậu ta.

Cảm ơn em lần nữa, em yêu quý. Gởi lời hỏi thăm Jack.

Yêu em. Bert."

Tôi đang đọc đi đọc lại lá thư để hiểu hết ý nghĩa thật của nó, thì có tiếng gõ cửa. Cảnh sát vào và yêu cầu tôi đến Tòa án để quan chức ở đó thẩm vấn về cái xác của ông Bert Willoughby. Tôi sửng sốt và kinh hoàng. Tại sao họ lại biết được? Hay Bert, "người quá cố" đã gửi thư cả cho họ?

Thì ra trước hôm đi, Bert đã năn nỉ một quan chức cảnh sát hãy cố gắng xem chương trình "Hãy tìm và bạn sẽ tìm thấy" trên truyền hình vào tối thứ hai. Trong đó, ông Gordon nhà hài hước sẽ kể một câu chuyện tiếu lâm có nói đến một cái xác vô thừa nhận chôn dưới tầng hầm của "ngôi nhà có ma" gần con đường ra ga xe lửa!

Sau này, trước khi ra Tòa chịu án cùng với Jack, tôi còn được biết là chính Bert trước khi "đi Mehicô" đã khẩn khoản yêu cầu nhà hài hước diễn tiết mục đúng như Bert đã viết và đưa vào chương trình của ông tối Thứ hai! Và, tất nhiên lá thư cho tôi anh ta cũng viết từ trước và nhờ ai đó chiều thứ hai mới bỏ vào thùng thư!
_________________
 
Status
Không mở trả lời sau này.
Back
Top