• Hiện tại trang web đang trong quá hình chuyển đổi và tái cấu trúc lại chuyên mục nên có thể một vài chức năng chưa hoàn thiện, một số bài viết và chuyên mục sẽ thay đổi. Nếu sự thay đổi này làm bạn phiền lòng, mong bạn thông cảm. Chúng tôi luôn hoan nghênh mọi ý kiến đóng góp để chúng tôi hoàn thiện và phát triển. Cảm ơn

1001 CÂU CHUYỆN CẢM ĐỘNG!!!

Status
Không mở trả lời sau này.
Tôi bắt đầu định cư tại Canada và cũng gặp ít trở ngại về ngôn ngữ tại Montréal vì tôi có khả năng song ngữ Anh và Pháp. Tôi ghi tên học lại đại học để lấy bằng cử nhân bốn năm. Hưng khuyến khích tôi chọn ngành Management Information System (MIS), một ngành thiên về thương mại và điện toán đúng với khả năng và sở thích của tôi. Ngoài ra ở trên thị trường nhân dụng cũng rất cần nhiều chuyên viên về MIS. Khi tôi gần kết thúc năm học thứ tư thì tôi phải gián đoạn việc học vì phải sanh đứa con đầu lòng. Đây cũng là khúc quanh quan trọng trong tình cảm giữa tôi và Hưng. Tôi khám phá ra chàng đã gian díu với một phụ nữ làm cùng sở từ lâu rồi. Những bạn bè cùng sở với chàng đã cho tôi biết khi họ đến nhà thăm tôi sau khi cháu Vinh chào đời. Tôi càng chán nản Hưng bao nhiêu thì lại càng nhớ về Trung bấy nhiêu. Trong những phút suy nghĩ mông lung, tôi đã giữ lấy cái hoài bão nhất định sẽ đi tìm Minh Trung. Tôi cũng đã ao ước là chàng vẫn độc thân và chờ đợi tôi. Những cãi vã giữa tôi và Hưng càng lúc càng trở nên dữ dội và mức độ căng thẳng càng ngày càng tăng. Hưng đề nghị đến giải pháp ly dị. Nhớ về Trung, tôi không một mảy may lưỡng lự và tôi đã đồng ý ký giấy tờ ly dị mà tôi chẳng cần đến sự giúp đỡ của Hưng. Tôi muốn dứt khoát hẳn với Hưng và không còn muốn giữ một sự ràng buộc dính líu nào với chàng từ đây về sau mặc dù theo sự thỏa thuận tôi sẽ giữ lấy cháu Vinh như kỷ niệm cuối cùng giữa tôi và Hưng. Vợ chồng Lan Chi ở Toronto khuyên tôi nên dọn về ở với họ. Chồng Lan Chi là một bác sĩ khá thành công nên cuộc sống của họ rất khá giả. Lan Chi ở nhà nuôi con , nàng đề nghị tôi đi học tiếp để xong bằng Bachelor và nàng sẽ giúp tôi trông cháu Vinh mỗi khi tôi đi học hay đi làm part time. Tôi học xong văn bằng mau chóng và nhận việc làm cho một công ty lớn của Hoa Kỳ có chi nhánh ở Canada. Hai năm sau đó tôi được tin bố mẹ tôi đã sang California theo diện HO. Tôi liền nộp đơn xin thuyên chuyển về chi nhánh của hãng ở Irvine, California. Đơn xin của tôi được chấp thuận. Đây là một nỗi vui mừng lớn đối với tôi, nhưng với Lan Chi thì lại khác, nàng sẽ cô đơn ở lại Canada vì tất cả gia đình nàng đều ở Mỹ và bây giờ tôi lại xa Chi. Nàng sẽ không còn người thân nào ở Toronto nữa.

California quả thật là một vùng đất hứa cho người Việt Nam tự do vươn lên, tự do phát triển những đóng góp và những tài năng của mình. Tôi gặp lại bố mẹ tôi, gia đình chị tôi và một cậu em trai đã lập gia đình với một cô gái người Việt tại Nam Cali, và tôi cũng đã gặp lại Ngọc Anh. Ngọc Anh đã lập gia đình và có hai cháu nhỏ, chồng nàng là một quản trị viên cao cấp cho một hãng hàng không thương mại Hoa Kỳ. Bao nhiêu nỗi vui mừng đã đến với tôi. Giai đoạn đầu tôi ở chung với bố mẹ tôi, tôi học tiếp lên cao học tài chánh (MBA in Finance). Hãng của tôi làm càng phát triển thì tôi càng được cất nhắc lên những chức vụ cao hơn nhất là sau khi tôi hoàn tất văn bằng cao học tài chánh. Địa vị tôi vững vàng với lương bổng khá hậu hĩ. Con trai tôi, Vinh, cũng học xong trung học và chuẩn bị sang Boston để đi học đại học ở đó. Cuộc đời trước mặt là một màu xanh đầy hy vọng về tương lai, nghề nghiệp cũng như nỗi hạnh phúc vui mừng đoàn tụ với gia đình cha mẹ, chị em đầy tràn nhưng tôi vẫn thấy thiếu một thứ gì mà tôi hằng theo đuổi, ao ước từ lâu. Đó là yếu tố tình cảm với Minh Trung. Đây là động lực chính để cho tôi ôm ấp niềm tin, cho tôi nghị lực để sống một cuộc sống với nhiều sinh động để cố gắng hơn và để yêu đời hơn.

Một hôm, vợ chồng Ngọc Anh và tôi cùng đi dự một đám cưới của một người bạn thân với chồng Ngọc Anh. Tại buổi đám cưới, tình cờ chúng tôi gặp lại Mọâng Thu, em gái của Trung. Chồng của Mộng Thu là bạn học cùng trường Taberd với chồng Ngọc Anh. Trái đất bao giờ cũng tròn là vậy, như người Mỹ cũng có câu “ it's a small world”. Tôi, Ngọc Anh và Mộng Thu nhắc về những kỷ niệm xa xưa và nhất là về Minh Trung. Tin “sét đánh” đến với tôi là Trung đã lập gia đình và có hai cháu nhỏ. Vợ chồng Trung đều là nha sĩ và đang hành nghề ở New Jersey. Bao nhiêu mộng ước, hoài bão của tôi để gặp lại Trung trong hạnh phúc hôn nhân với tôi đã bị cuốn trôi theo chiều gió. Tôi cảm thấy mình cô đơn hơn và tủi thân hơn. Cái hạnh phúc tầm thường đó tôi đã tìm kiếm từ bao năm nay hình như đã trở thành một thực tại quá xa tầm tay với và có lẽ sẽ không bao giờ có được trong cuộc sống này.
 
Hè năm 99, gia đình của Trung dọn về Nam Cali. Ngày khai trương phòng mạch chàng có mời nhiều bạn bè cũ, vợ chồng Lan Chi từ Canada, vợ chồng Ngọc Anh, vợ chồng Mộng Thu và tôi đến chia vui với vợ chồng Trung. Không khí khai trương thật là náo nhiệt, vui vẻ và vợ chồng Trung có nhã ý sẽ mời vợ chồng Ngọc Anh, vợ chồng Lan Chi và tôi đến nhà chàng dự bữa tiệc đoàn tụ bạn bè. Trên đường lái xe chở vợ chồng Lan Chi về nhà tôi, tôi thấy một chút gì buồn rười rượi đã xâm chiếm tâm tư. Hôm chiều tối thứ bảy cuối tuần, buổi tiệc hội ngộ bạn bè cũ diễn ra ở nhà Trung chỉ thiếu vợ chồng Lan Chi vì họ không sang được. Tôi thấy Trung, chồng Ngọc Anh, chồng Mộng Thu và người anh chồng của Mộng Thu đang nói chuyện ở phòng khách. Chúng tôi, phe phụ nữ thì loay hoay ở nhà bếp nấu nướng và chuẩn bị dọn tiệc. Nhờ đó tôi có dịp biết rõ hơn về vợ Trung. Nàng tên là Mỹ Trâm, một mẫu người vợ đảm đang, gương mẫu, khôn khéo về ngoại giao và đã giúp chồng rất nhiều trong lãnh vực nghề nghiệp, quán xuyến cơ sở thương mại của gia đình. Thấy tôi cô đơn, Mộng Thu kéo tôi sang một góc nói nhỏ rằng nàng muốn giới thiệu tôi cho anh chồng của nàng. Oâng là một bác sĩ đã ly dị, hiện đang sống độc thân. Mộng Thu cố tình làm mai mối người anh chồng cho tôi. Tôi chỉ cám ơn Thu và không trả lời dứt khoát vì một lý do thầm kín là Thu không biết được rằng tôi đã nuôi dưỡng hình ảnh của anh ruột Thu trong lòng từ nhiều năm rồi. Khi ra về, Ngọc Anh đi bên cạnh tôi nói khẽ là tôi trông xinh đẹp hơn Mỹ Trâm. Tôi trả lời đó không hẳn là yếu tố thành công ở đời theo quan niệm của tôi. Ngày tết Nhi Đồng đến, Ngọc Anh rủ tôi cùng đưa con gái út của Ngọc Anh đến dự lễ Trung Thu phát lồng đèn của cộng đồng người Việt ở phố Wesminster và cho tôi biết là Trung cũng sẽ đến dự nữa. Tôi cùng đi và gặp lại Trung dẫn hai cháu trai ở tuổi cầm lồng đèn vui đùa với những trẻ thiếu nhi khác. Ngọc Anh lo trông coi các cháu nhỏ còn tôi và Trung chỉ đứng ở đằng xa nói chuyện. Tôi hỏi về Mỹ Trâm, chàng cũng cho biết là nàng đã về quê hương thăm cha mẹ già đang đau yếu ở Sài Gòn. Tôi có nói với chàng là tôi đã gọi văn phòng chàng nhiều lần, nhưng chỉ gặp người thư ký và Mỹ Trâm nên tôi rất ngại ngùng. Tôi dùng hết can đảm của mình để thú nhận với chàng là tôi đã thầm yêu chàng từ những ngày học ở Minh Đức cũng như những trông mong, chờ đợi, hy vọng khi ra đến xứ ngoài từ Paris, Montréal, Toronto, rồi đến Mỹ. Tôi đã nuôi nhiều ước vọng để được nhìn lại chàng vì tôi đã yêu chàng. Chàng tỏ vẻ ngạc nhiên về những gì tôi thố lộ. Chàng cũng nhắc về chuyện quá khứ, về mọi sự chậm trễ đến với chàng vì khi mới sang đây cuộc sống của chàng rất vất vả để lo giúp đỡ cho các em ăn học và cuối cùng chàng đã cố gắng hoàn tất học trình nha sĩ trễ hơn mọi người và quyết định lậâp gia đình ở lứa tuổi 42, do đó mà con của chàng vẫn còn nhỏ. Chàng cũng thú nhận khi trước có những lúc chàng rất cô đơn, nhớ đến trường cũ và nhớ đến bạn bè xưa mà không gặp được ai vì ở vùng New Jersey rất ít người Việt. Nhưng nay ai nấy đều yên bề gia thất rồi và chàng thông cảm cho hoàn cảnh của tôi. Chàng tâm sự tiếp là chàng sống rất hạnh phúc với Mỹ Trâm. Một khi chàng chọn lựa rồi thì sẽ không có sự thay đổi, chàng không muốn một cuộc hôn nhân dang dở sẽ đem nhiều bất lợi cho con cái của chàng. Những lời nói của Minh Trung đã quá đủ cho tôi hiểu. Chàng đã minh xác cái chân tình của chàng đối với Mỹ Trâm, mỗi lời nói như vậy là một mũi kim chích vào tim tôi đau nhói. Nếu Trung đã chọn sự trung thành tuyệt đối với vợ mình như cái tên mà bố mẹ chàng đã đặt cho thì tôi đã thua cuộc khi lựa cho chính mình một mối tình thầm kín, một chiều từ bao năm qua. Trời đã tối đen và màn sương khuya đã xuống, chàng nói lời từ giã để đem hai cháu về nhà. Bóng của ba cha con dần dần mất hút trong bóng đêm, tôi đứng yên lặng khóc thút thít. Ngọc Anh đến bên cạïnh vỗ về, nàng khuyên tôi nên sống với cái thực tế mới thay vì cứ sống với cái ảo ảnh trong tâm hồn bấy lâu nay. Nhìn ánh trăng rằm Trung Thu phản chiếu trên vũng nước đọng bên lề đường, Ngọc Anh đã ví tôi như một “ Aùnh Trăng Bên Lề “ của cuộc sống tình cảm lẻ loi cô đơn. Phải chăng tôi đã quá lãng mạn với cái ảo tưởng thiên về Trung quá nhiều? Tại sao tôi lại sống quá cứng nhắt với sự lãng mạn tuyệt đối này? Đó là những câu hỏi mà con tim tôi đã hoang mang và không thể giải thích nổi. Tôi tự an ủi lấy mình là dù sao sống trong mộng với người mình thương vẫn hơn là sống với người mà mình không thực sự yêu. Ngọc Anh đề nghị chúng tôi ra xe đi về vì số lượng người tham dự lễ Trung Thu đã thưa dần.

Thế là sau đó tôi và Trung không còn giữ liên lạc với nhau nữa. Rồi bố tôi đau nặng, phần mẹ tôi đã già yếu, chị tôi không lo xuể cho ông bà vì chị vừa đi làm, vừa phải lo cho chồng con lại thêm ông bà cụ. Tôi quyết định đem bố mẹ về sống với tôi tại một nơi khác. Tôi đã mua một căn nhà mới khang trang hơn ở vùng Mission Veijo. Nhà trong khu vực của một cư xá gồm những căn nhà mới khánh thành. Cạnh nhà tôi có một khuôn viên với sân cỏ xanh tươi, một cái hồ nhân tạo và một sân chơi rộng rãi dành cho những cư dân trong khu đến chơi tennis hay cho trẻ em giải trí với cầu tuột, xích đu. Mẹ tôi đã chọn căn nhà này vì mỗi chiều bà đưa bố tôi ra đây dạo mát và mỗi buổi sáng bà có thể thả bộ, tập thể dục. Tôi dành cuộc sống mới cho bố mẹ tôi để quên bớt hình ảnh của Minh Trung và dành nhiều thì giờ, tâm trí hơn để trau dồi nghề nghiệp. Dần dần tôi cảm thấy an phận và cuộc sống mới của tôi có một mục đích khả đạt, đáng sống hơn.

Một hôm lái xe hướng về gần đến nhà, Tôi thấy Trung đẩy một người đàn bà trung niên trên chiếc xe lăn. Tôi ngừng xe và bước xuống chào hỏi hai người. Chàng mừng rỡ bắt tay tôi và cho biết chàng vừa mua căn nhà ở phía bên trong cư xá. Chàng nói người đàn bà trên xe lăn chính là Mỹ Trâm. Tôi ngạc nhiên đến tột cùng và cảm thấy tội nghiệp cho nàng vì ngày nay nhan sắc của nàng đã quá tàn tạ và đã trở thành phế nhân. Trung cho biết Mỹ Trâm vừa trải qua một cơn thập tử nhất sanh của căn bệnh tai biến mạch máu não. Hậu quả của sự vỡ mạch máu trên não bộ đã đưa nàng đến bại liệt nửa người, mất phần lớn của trí nhớ và bị ảnh hưởng nặng về giọng nói. Do đó nàng nói rất ngọng nghịu và khó nghe, nhiều lúc tâm tính lại gắt gỏng, la hét như một bệnh nhân tâm thần. Sau đó chàng xin cáo từ để đưa nàng ra khuôn viên hóng gió. Tôi cho xe vào garage mà lòng thật ngẩn ngơ. Cái thế giới chung quanh cuộc sống của chúng ta rất bấp bênh, nhiều rủi ro khó đoán được, đôi khi có những biến đổi quá khắc nghiệt như trường hợp của Mỹ Trâm. Những khổ sở mà tôi từng trải qua có lẽ sẽ không thể sánh nổi những khổ sở mà Mỹ Trâm hay Minh Trung phải gánh chịu ngày nay. Rồi ngày qua ngày, mỗi chiều đi làm về tôi thường ngó ngang cửa sổ bên nhà để nhìn thấy vợ chồng Trung bên nhau ngồi dưới gốc cây. Mỹ Trâm ngồi trên xe lăn còn Trung thì ngồi trên băng đá và hình như chàng đang an ủi, vỗ về nàng. Những cảnh đó từ từ quen thuộc với nhãn quan của tôi dù đôi lúc tôi muốn được ngồi bên cạnh Trung như Mỹ Trâm để được nghe những lời nhắn nhủ của chàng, để được chàng an ủi trong cuộc sống buồn bã này.

Một buổi chiều tôi đang nấu ăn trong nhà bếp thì bỗng nghe có tiếng thét lớn trước cửa nhà. Tôi vén màn cửa sổ nhìn ra ngoài thì trời đang mưa và chiếc xe lăn của Mỹ Trâm đang bị lật ngang còn nàng thì đang nằm dưới đất. Tôi vội chạy ra phụ với Trung đỡ nàng lên lại xe lăn. Mỹ Trâm giận dữ la khóc và dãy dụa. Trung kể cho tôi nghe vì trời mưa nên chàng vội đẩy xe về nhà. Mỹ Trâm vùng vẫy vì muốn ở nán lại khuôn viên nên xe lăn bị lật ngã. Bây giờ nàng giống như một đứa trẻ nhỏ chứ không còn sự suy nghĩ của một người lớn bình thường nữa. Tôi mời chàng và Mỹ Trâm vào nhà trú mưa nhưng chàng từ chối và vội vã đẩy chiếc xe về hướng nhà chàng. Tôi đúng lặng nhìn theo ngẩn ngơ khi cơn mưa đang đổ xuống. Tôi cảm thấy dường như có những dòng nước ấm lăn dài theo khoé mắt. Tôi không còn phân biệt được đó là những giọt nước mưa hay những giọt nước mắt trên mặt tôi. Nếu là nước mắt thì tôi khóc cho ai đây? Khóc cho Mỹ Trâm, cho Minh Trung, hoặc khóc cho chính thân phận của mình, cho ba mươi năm chôn dấu một cuộc tình thầm kín ở trong lòng để rồi cuối cùng nhìn thấy hạnh phúc của đời mình chỉ xa khỏi tầm tay như một làn khói mong manh không thể nào cầm giữ được? Từ trong nhà tôi, văng vẳng lời ca của Celine Dion trong bài “Power of Love” để lòng tôi chùng xuống như lời nhạc nhè nhẹ ủ ấp những yêu thương bất tận.
 
Được tin cậu trai út vừa đậu thủ khoa kỳ thi tú tài, ông Nga hả hê gọi con đến khen:

- Khá lắm! Khá lắm con trai của bố. Bố mẹ rất tự hào về thành tích học tập của con. Rồi ông nghiêm giọng - Dũng này, con đã dự tính sẽ thi vào học ngành nào chưa?

Dũng gãi đầu ấp úng:

- Dạ. .. Dạ ngành. .. Ngành cắt tóc ạ!

Nghi ngờ thần kinh thính giác của mình đã có vấn đề, ông Nga nghiêng nghiêng tai hỏi lại:

- Ngành nào?

- Thưa bố, con sẽ học. .. Học nghề cắt tóc.

Tưởng cậu con cưng cậy vào thành tích học tập vừa đạt được trong kỳ thi nên nói đùa dọa bố, ông Nga cười độ lượng, mắng yêu:

- Mẹ mày! Bố hỏi nghiêm túc đấy con trai à. Giọng ông thoáng vẻ lo âu - Mặc dù bố rất tin tưởng vào con nhưng không phải vì thế mà không góp ý với con về việc chọn ngành học. Chị Cả và anh Hai con sau nầy tốt nghiệp biết có tìm được việc làm không, chứ hiện nay, thấy thầy giáo, bác sĩ thất nghiệp, có nhiều người phải bỏ nghề để làm việc khác khiến bố lo lắm! - Nâng tách trà lên chiêu một ngụm, ông Nga sôi nổi - Theo ý bố, con nên thi vào tin học hoặc kiến trúc, đây là những ngành mũi nhọn trong thời kinh tế mở. Ra trường sẽ có chỗ làm ngaỵ Cùng lắm ta làm tư.

Thấy bố nói chuyện nghiêm túc, Dũng cố thu hết can đảm để nói thực lòng mình dù biết bố sẽ rất buồn, có thể nổi cơn thịnh nộ. Dũng nói rành rọt:

- Thưa bố, con đã quyết định sẽ không thi vào đại học mà theo học nghề cắt tóc, vì. ..

Ông Nga thảng thốt cắt lời con:

- Cắt tóc! Không phải con nói đùa dọa bố đấy ư?

- Con nói thực lòng đấy bố. Con đã suy nghĩ rất kỹ trước khi chọn cho mình một hướng đi.

Ông Nga vỗ bàn đánh "rầm", quát:

- Câm ngay! Cánh họ Trần ta xưa nay con cháu hầu hết đỗ đạt nên người, chưa ai làm nghề phó cạo. Cái bằng Tú tài hạng ưu của mầy là kết quả của sự quay cóp trong phòng thi hay do giám khảo lú lẫn trong lúc chấm bài?

Dũng vẫn từ tốn:

- Đấy là thực học của con bố ạ. Do vậy mà con muốn tự quyết định lấy tương lai của mình. Theo con nghĩ, nghề nào cũng quí, miễn cho tinh là sống tốt.

Ông Nga trợn tròn mắt, quát:

- Láo! Người ta học giả phá ngu còn mầy học giả quá ngụ Mới nứt mắt mà đã dám dạy khôn bố mẹ. Thật là uổng công nuôi dưỡng. Nếu mầy đã quyết thế thì cút khỏi đây ngaỵ Cút ngay!

Nghe tiếng chồng quát tháo ầm ĩ, bà Nga từ dưới bếp hấp tấp chạy lên, hỏi:

- Có việc gì mà ông giận dữ vậy?

Ông Nga lập tức trút hết cơn thịnh nộ lên đầu vợ:

- Cũng tại bà, tất cả đều do bà. Bà cưng chiều nó quá nên bây giờ đâm ra hư hỏng, cãi lời bố mẹ. Trong khi ai cũng cầu mong con cái đỗ đạt kỳ nầy để được thi vào bách khoa, tổng hợp. Riêng nó thì khăng khăng đòi theo nghề cắt tóc! Lao tâm giả trị nhân, lao lực giả trị ư nhân. Cánh họ Trần nhà ta từ xưa đến giờ được mọi người nể nang, trọng vọng không lẽ đến đời nó lại bị người ta đè đầu cưỡi cổ? Nhục ơi là nhục. Tại bà, tất cả đều do bà!

Bà Nga vẫn nhỏ nhẹ:

- Thôi, tôi xin ông. Con nó còn nhỏ dại, ông cứ từ từ mà khuyên giải. Quát tháo ầm ĩ càng làm cho nó quẫn thêm.

Bà quay sang Dũng:

- Sao con lại dại thế? Bố mẹ tuy già yếu vẫn tất tả ngược xuôi, quyết nuôi con học hành đỗ đạt để sau này làm ông nầy bà kia, mở mày mở mặt với thiên hạ. Bố mẹ có lột da sống đời với con được đâu. Thôi, con đừng cưỡng lời bố mẹ nữa.

Giọng Dũng xúc động:

- Con thấy bố mẹ đã quá nửa đời người lại thường hay đau yếu mà vẫn cứ lao khổ tất bật vì tương lai chúng con. Con nhất quyết không để bố mẹ phải vất vả thêm vì con nữa. Con đã lớn khôn rồi.

Câu nói đầy trách nhiệm của Dũng không những không làm cho ông Nga nguôi lòng mà còn khơi bùng thêm lửa giận. Ông quát muốn lạc giọng:

- Láo! Tử bất giáo phụ chi quá. Mầy... Mầy tưởng nói thế là tao bỏ qua cái ý nghĩ mất dạy của mầy đấy ư? Tuy tao là thương binh, mẹ mày hưu mất sức, nhưng vẫn quyết nuôi mày ăn học đến nơi đến chốn kia mà. Nhân bất học bất tri lý, rồi mầy sẽ làm... Ông quay ngoắt ra phía sau giựt phắt cây chổi lông gà đang treo trên vách, thét - Đồ bất hiếu tử, bất mục!

Bà Nga hoảng hốt vội ôm chặt lấy cánh tay chồng, mếu máo:

- Ông ơi, ông cho tôi xin. Con còn nhỏ dại, hãy từ từ mà răn bảo. - Bà lau nước mắt, quay sang Dũng - Con ra ngoài kia đi, đừng để bố mầy giận.

Dũng riu ríu quay đi. Bà Nga ở lại tiếp tục "gồng lưng" nghe chồng thuyết giảng về nghĩa phu thê, tình phụ tử của thánh hiền.

Ngay buổi tối hôm đó, mẹ và anh chị khuyên bảo hết lời nhưng Dũng vẫn cương quyết theo học nghề cắt tóc. Thế là niềm tự hào Dũng vừa mang đến cho gia đình sau kỳ thi tú tài bỗng tan biến như khói mây do sự bỏ học nửa chừng của nó. Ông Nga thề sẽ không nhìn mặt con nữa, chị cả và ông anh thứ hai cảm thấy nhục nhã vì có đứa em trai làm nghề phó cạo, họ hàng khinh rẻ, bè bạn cho là thằng hâm. Chỉ tội cho bà Nga, tình mẹ thương con sâu nặng khiến bà mất ăn mất ngủ và thầm cầu mong đứa con bé bỏng của bà sớm trở lại con đường học vấn để sau này nó mở mày mở mặt với đời. Ba xuýt xoa than thở, nước mắt lưng tròng thấy đứa con trai út cứ lặng lẽ đi về như chiếc bóng. Thỉnh thoảng bà dúi vào túi con năm ba ngàn đồng để tiêu vặt. Mấy tuần đầu, Dũng còn nhận tiền mẹ cho, nhưng sau đó lại từ chối và bảo mẹ giữ lấy để cải thiện bữa ăn cho gia đình. Dũng khoe là đang kèm trẻ ngoài giờ học việc, thù lao đủ trang trải khoản cơm nước hàng ngày.

Tuy giận con, nhưng đôi ba ngày Dũng không về nhà ông Nga lại thấy nhớ. Tình thương con của người cha không bộc lộ cảm xúc bằng hành động, cử chỉ như người mẹ. Hằng ngày, trên con đường đạp xe thồ kiếm khách, thi thoảng, ông bí mật dừng lại trước cửa hiệu cắt tóc sang nhất thành phố, nơi con trai ông đang học việc. Khi thì ông thấy Dũng ngồi trong một góc vắng, tay cầm kéo, tay kia cầm lược cứ chải chải, nhắp nhắp trong khoảng không. Lúc lại dùng dụng cụ ngoáy tai chọc chọc vào một ống trúc nhỏ xíu gắn chặt vào vách tường. Có lần, ông Nga thấy con đang chăm chú thực tập khoa cạo mặt trên một quả bầu non. Những lúc như vậy, ông muốn xông vào nện cho nó một trận rồi lôi cổ về nhà. Nhưng nghĩ sao ông lại thở dài não nuột rồi riu ríu đạp xe quay đi và thấy mắt cay xè.

Đành vậy thôi! Sinh con há dễ sinh lòng. Năm ngón tay còn có ngón ngắn ngón dài nữa là... Tuy nghĩ vậy nhưng lòng ông vẫn cứ ấm ức. Phải chi đứa kém cỏi hư hỏng thì bận tâm làm gì. Đàng này là thằng giỏi trai, thông minh, hiếu thảo mà ông đã đặt hết niềm tin vào nó. Nếu biết trước như thế nầy thì cái đêm hôm đó ông chẳng thèm...

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, ông Nga trở về ngực lấp lánh huy chương, nhưng một mảnh đạn còn trụ lại phía sau vai trái thì chẳng lấp lánh chút nào. Tuy lúc đó ông đang ở tuổi bốn ba, bà Nga vừa bước sang băm sáu, nhưng người lính sau nhiều năm chiến đấu xa nhà gặp vợ, tình vẫn đẹp như tuần trăng mật. Thế là đứa trai út ra đời. Đầy tháng, ông Nga dành cho vợ quyền đặt tên con. Bà Nga cười bẽn lẽn: "Cái đêm hôm ấy ông cứ như cọp về rừng. Bây giờ nghĩ lại vẫn còn phát khiếp. Thôi thì cứ đặt cho nó tên Dũng vậy".

Càng lớn, Dũng càng thông minh học giỏi. Từ lớp một đến lớp mười hai, năm nào cũng đạt danh hiệu học sinh giỏi toàn diện và từng đạt giải cao trong các kỳ thi Quốc gia hai môn Văn, Toán. Rồi kỳ thi tú tài vừa rồi lại trúng thủ khoa. Ông đinh ninh sau nầy Dũng sẽ lấy bằng tiến sĩ, tiến sĩ thực học chứ không phải "tiến sĩ giấy", làm rạng rỡ tông môn.

Nhưng có ngờ đâu ông tiến sĩ của tương lai lại theo học nghề phó cạo! Mộng không thành, ông Nga xót xa lắm chứ!

Vốn có học thức lại thêm có tư chất thông minh nên sau ba tháng học việc, Dũng sớm trở thành anh thợ cắt tóc rất có uy tín với khách hàng thuộc mọi lứa tuổi. Đặc biệt, khoa ngoáy tai cạo mặt của Dũng đã đạt đến trình độ nghệ thuật hoàn hảo. Chính vì vậy, khách đến cửa hàng ngày càng đông: dân lao động có, giới thượng lưu trí thức có, quan chức có cỡ cũng có. Họ sẵn sàng ngồi đợi hàng tiếng đồng hồ trong cửa hiệu, miễn là được chính tay Dũng hớt tóc, ngoáy tai, cạo mặt cho mình. Phần lớn cán bộ cỡ bự thường gọi anh đến phục vụ tận nhà. Khoản thu nhập của cửa hiệu cắt tóc ngày càng tăng vọt nhờ vào uy tín và tài nghệ của Dũng.

Người chủ hiệu cắt tóc vốn có tính hào phóng lại rất quí tính cách và tay nghề của Dũng nên ngay từ tháng đầu thực sự đứng ghế, Dũng được trả lương rất cao, gấp hai ba lần lương tháng của một thầy giáo. Tháng nào Dũng cũng mang tiền về đưa tất cho mẹ và dặn mẹ cứ lấy đó cải thiện bữa ăn, giúp anh chị học thêm, chuẩn bị cho kỳ thi tốt nghiệp đại học sắp đến. Lần đầu tiên trong đời được cầm những khoản tiền lớn do con mình làm ra, bà Nga không ngăn được nước mắt. Riêng ông Nga vẫn cứ hậm hực và quyết không động đến một xu hào của thằng con làm nghề phó cạo. Nhưng dù sao thì gia đình ông Nga cũng thong thả hơn, các anh chị yên tâm học hết chương trình đại học, tất cả đều nhờ vào khoản lương hàng tháng thu được bằng nghề hớt tóc, cạo mặt, ngoáy tai của Dũng.

\

Tốt nghiệp đại học xong, chị cả và ông anh thứ hai mang hồ sơ xin việc chạy khắp các nơi suốt hơn năm trời mà vẫn không được chỗ làm. Thất vọng, chị cả theo bà Nga ra chợ bán rau, ông anh thứ hai định lên Tây nguyên xin làm nhân viên y tế tại các buôn làng. Vợ chồng ông Nga thì cứ băn khoăn day dứt, thở ngắn than dài.

Một hôm, thấy anh hai chuẩn bị ra đi Tây nguyên, Dũng vội ngăn lại:

- Anh chị đưa cho em hồ sơ xin việc, may ra em có thể giúp được gì cho anh chị không?

Ông Nga gạt phắt:

- Xí! Cử nhân, bác sĩ chưa ăn thua gì nữa là thằng phó cạo.

Anh hai và chị cả nhìn em một cách lạ lẫm. Cơm nước xong, trước lúc đi làm, Dũng gặp riêng anh chị:

- Anh chị cứ đưa hai bộ hồ sơ cho em.

Chị cả hơi bực dọc vì tự ái:

- Chú thì làm được gì? Không khéo đánh mất hồ sơ thì phiền lắm!

Dũng vẫn kiên nhẫn:

- Chị cứ yên tâm. Không được em hứa sẽ trả lại đầy đủ.

Cực chẳng đã, ông anh thứ hai đưa hai bộ hồ sơ cho Dũng, giọng không hài lòng:

- Xin việc khó lắm chứ không phải như việc húi tóc của chú đâu. Anh chị đã chạy chọt khắp nơi rồi. Nhưng thôi, để làm vui lòng chú vậy. Mà phải cẩn thận đấy. Để thất lạc hồ sơ là khổ anh.

Dũng nhét vội hai bộ hồ sơ vào chiếc túi đựng đồ nghề rồi lặng lẽ ra đi. Ba hôm sau, vừa bước chân vào nhà, Dũng đã nghe giọng dấm dẳng của người chị cả:

- Hồ sơ xin việc của anh chị đâu rồi Dũng?

Dũng chợt nhớ ra:

- À! Chị không nhắc thì em cũng quên.

Nói xong, Dũng rút từ trong túi đựng đồ nghề cắt tóc ra hai tờ giấy có dấu son đỏ chót đưa cho chị cả:
 
Anh hai được phân công tác đến bệnh viện tỉnh, còn chị có quyết định về trường cấp ba trong thành phố.

Cầm tờ quyết định trong tay nhưng anh hai và chị cả vẫn chưa tin đó là sự thật. Ông Nga lại càng nghi hoặc hơn. Mãi đến khi cả hai được làm việc tại cơ quan một cách nghiêm chỉnh, họ mới tin đó là sự thật. Từ đó, chị cả và anh hai rất nể nang người em trai út. Nỗi lo âu phiền muộn của ông bà Nga cũng được giải tỏa. Giá như đứa con trai út ông đã đặt cả niềm tin hy vọng, biết đi theo con đường của anh chị thì ông sẽ hạnh phúc biết bao! Ông Nga thầm nghĩ như vậy.

Từ ngày anh chị đã có việc làm, được đồng lương ổn định, cuộc sống gia đình khá hơn, Dũng lại ít khi về nhà, mà nếu có về cũng rất khuya.

Thấy con làm việc quá sức, đi về thất thường, bà Nga lo lắm. Bà thường khuyên con phải dành thì giờ nghỉ ngơi, giữ gìn sức khỏe. Bà dọa sẽ không nhận tiền hàng tháng nếu như Dũng không nghe lời bà. Dũng cứ động viên mẹ hãy yên lòng...

Rồi thời gian thấm thoát trôi qua, mới đó mà đã hơn sáu năm kể từ ngày Dũng theo học nghề cắt tóc. Người chị cả đã lấy chồng giàu ngay trong thành phố. Ông anh thứ hai cũng sắp lập gia đình. Ông Nga đã nghỉ đạp xe thồ từ lâu.

Một hôm, nhân ngày sinh nhật thứ sáu mươi lăm của ông Nga, chị cả tặng bố một gốc mai xuân đúng sáu mươi năm tuổi. Ông anh thứ hai tặng một hộp nhân sâm Cao Ly chính hiệu. Đến phần Dũng, Dũng từ tốn thưa:

- Thưa bố, mấy năm qua, tuy làm nghề cắt tóc nhưng lúc nào con cũng nhớ lời bố dạy và quyết tâm làm tròn ý nguyện của bố.

Nói xong, Dũng đưa lên bố một phong bì hơi quá khổ bình thường. Ai cũng đinh ninh, bên trong phong bì là những tờ đôla xanh đỏ hoặc những tấm ngân phiếu có ghi tên ông Ngạ Ông Nga giận tím mặt. Cho đến bây giờ mà nó còn cố tình làm nhục ông. Ngày xưa, ông rất cần tiền nên phải đạp xe thồ để nuôi con ăn học thành người chứ đâu phải cần cho riêng bản thân ông? Còn bây giờ, dù nó có làm ông to ông lớn, cho ông tiền triệu bạc tỷ ông cũng cóc cần, đừng nói chi là tiền nó làm ra bằng cái nghề ngoáy tai cạo mặt cho thiên hạ. Nghĩ vậy, ông Nga định cầm chiếc phong bì ném trả lại Dũng. Nhưng qua nắp phong bì bỏ ngõ, ông Nga thấy thấp thoáng một tấm bìa dày màu đỏ có in chữ vàng. Ông hồi hộp mở ra xem. Ông Nga bỗng lặng người khi nhận ra, đó là bằng cử nhân tin học ưu hạng của Dũng. Nước mắt của ông trào ra, những giọt nước mắt hạnh phúc mà đứa con trai út, đứa con từng bị Ông căm ghét, dòng họ rẻ khinh, một lần nữa lại đem đến cho ông. Ông Nga run run đưa mảnh bằng cho vợ con và họ hàng có mặt trong ngày mừng thọ.

Trong lúc mọi người còn đang ngỡ ngàng xúc động trước sự việc bất ngờ do Dũng mang đến, Dũng từ tốn thưa:

- Thưa bố mẹ, tuần trước, ông hiệu trưởng trường đại học có đích thân mời con vào giảng dạy Khoa tin học và hứa sẽ tạo mọi điều kiện thuận lợi để con theo cao học. Nhưng con còn đang phân vân. Dù sao thì con cũng không thể bỏ nghề cắt tóc.

Cũng trong năm đó, Dũng được người chủ hiệu cắt tóc tốt bụng gả cô con gái trẻ đẹp đang dạy Anh văn cấp ba rồi giao cho anh trọn quyền quản lý cửa hiệu. Từ đó, Dũng vừa làm quản lý, thỉnh thoảng cũng đứng ghế phục vụ khách hàng, vừa giảng dạy tin học trong trường đại học.

Bè bạn và khách hàng thường gọi anh bằng cái biệt danh rất thân mật: Anh thợ cạo thành Séville (#1).

Chú thích:

(1-)Tên vở hài kịch của nhà văn Pháp: Bomacse
 
Con không tin có thiên đường.

Nhưng tin có lắm đoạn trường, Chúa ơi!

LỜI KỂ CỦA DIỄM.

Nghe mẹ tôi kể lại, bố tôi là người thích đi hát cô đầu. Tôi là con lớn nhất trong nhà, lại sinh ra đời đúng vào cái đêm quân đội Quốc gia của cụ Diệm tổng tấn công nhóm Bình Xuyên. Lúc mẹ trở bụng, bố tôi phải chở mẹ tôi bằng chiếc xe mobylettẹ Giữa đường, mẹ tôi quằn quại, may nhờ có một xe tuần cảnh, kéo mẹ tôi lên xe chạy thẳng vào nhà hộ sinh tư Đức Chính ở đường Cao Thắng. Bố tôi chạy sau, không mang giấy tờ, bị bắt. Ngày hôm sau, bố được thả, bố tôi vỗ nhè nhẹ vào tôi cười:

- Con bé này lớn lên xinh lắm đây, nhưng lại sinh ra trong một đêm dông bão như đêm qua thế này. ..

Mẹ tôi cười:

- Anh đặt tên cho con đi! Đừng lấy tên đám cô đầu con hát đấy! Vận vào nó tội nghiệp! Bố tôi cười bí mật, đặt tên tôi là Diễm, diễm là diễm lệ, là cao sang.

Khi tôi một tuổi, bố tôi gặp lại một người bạn cựu giao, rủ ông vào ngành cảnh sát, vì trước khi vào Nam, có thời bố tôi làm trong ngành hiến binh. Sở dĩ tôi kể chi tiết ấy, vì nó có liên quan đến cuộc đời của tôi sau này.

Đúng như bố tôi nói đùa, tôi càng lớn càng xinh đẹp. Hãy nghe một con nhỏ bạn nói về tôi: - Đôi mắt của con Diễm trong veo, ngơ ngác, dưới hàng mi cong chơm chớm. Đến thánh cũng phải mềm lòng!

Bà ngoại tôi, mỗi khi có ai khen tôi trước mặt bà, bà ngậm ngùi: “ Hồng nhan đa truân!” Mẹ tôi gắt: “ Bà cứ nói vậy, nó vận vào người cháu.” Bà bảo: “ Vẽ, nói ra hết sui!”

Trái với sắc đẹp bề ngoài, việc học hành của tôi thật là tồi tệ. . . Có tháng tôi gần đội sổ! Mẹ tôi, do bác Thận giới thiệu, đã nhờ Hinh đến kèm cho tôi học.

Hinh gọi mẹ tôi bằng mợ, “ Mợ bắn cà nông không tới ấy mà!” Mẹ tôi vẫn nói đùa như vậy, nhưng khi mẹ nói đến lần thứ hai, thứ ba thì tôi mới vỡ lẽ ra rằng, câu nói răn đe ấy, chỉ nhắc tôi tập quán cổ xưa “ Nam nữ thụ thụ bất thân” mà thôi. Dù có lời cảnh giác bóng gió đó nhưng mẹ tôi hình như vẫn chưa yên tâm, bà cho Kim Anh, đứa em kế tôi và thằng Tuấn, thằng em út, học chung. Mẹ tôi giáo đầu với Hinh:

- Cốt yếu là cháu dạy con Diễm cho mợ, còn mấy đứa kia, cho nó ngồi vào đấy để chúng khỏi chạy nhông mà thôi.

Hinh không đẹp trai, lại cao và đen. Cặp mắt lúc nào cũng mở to như đang đắm chìm trong một cõi xa xăm nào đó. . . Hinh không bao giờ cười trong suốt thời gian từ khi bước vào cửa nhà cho đến khi anh ra về.

Căn nhà tôi có hai tầng. Cả từng lầu dưới, mẹ tôi mở tiệm may phụ nữ, tiệm may áo dài Diễm. Lầu trên chia làm hai phòng, có một ô cửa sổ nhỏ, không có cánh cửa, thông với hai phòng, để lâu lâu bố tôi ở phòng bển thò đầu ra, quan sát xem gian bên này chúng tôi làm trò trống gì, hoặc để nói chuyện với Hinh về một tin thời sự nào đó. Trái với mẹ tôi, bố tôi gọi Hinh bằng cậu, mỗi khi chấm dứt câu chuyện, bố tôi cười chỉ thằng Tuấn:

- Thằng ông mãnh kia, cậu giáo cứ đánh khỏe, cho bật chữ ra mới được!

Như tôi đã nói ở trên, tôi rất chậm hiểu, nhưng Hinh luôn luôn kiên nhẫn giảng giải rất cặn kẽ cho tôi học, thậm chí giúp tôi làm bài vở ở trường. Tôi không muốn Hinh chê, nên càng cố gắng. Tôi đã trở thành học sinh giỏi trong lớp, nhưng tôi chỉ thích những môn thuộc khoa học nhân văn, lại chúa ghét môn toán. Cho nên phần lớn thời gian, Hinh chỉ toán cho tôi.

Thời gian ấy, Hinh đang học năm thứ hai y khoa. Có lần tôi đang đứng thử chiếc áo dài, thì tôi nghe thấy thằng Tuấn từ ngoài đường chạy vào, vừa chạy lên cầu thang vừa la lớn:

- Thần sấm sét đã đến, nhanh lên! Nhanh lên!

Mẹ tôi cười:

- Phải vậy mới được.

Tôi khoanh tay:

- Chào cậu ạ.

Mẹ tôi cười, bà nói to cho các cô thợ may nghe:

- Thấy không, nó cao gần bằng cậu giáo rồi đấy, con gái mà chẳng có ý tứ chút nào!
 
Hinh chào mẹ tôi, anh cúi đầu chào các cô thợ may, rồi đi thẳng lên lầu. Mẹ tôi lại nói to:

- Thấy con nhà người ta mà phát thèm, ngần ấy tuổi mà sắp ra bác sĩ rồi đó!

Có lúc Hinh đỏ mặt cải chính:

- Còn lâu mợ ạ, vả lại thời buổi này, học được ngày nào biết ngày ấy.

Riêng tôi, tôi biết, nếu trông thấy được ước mợ tôi biết mẹ tôi mơ ước có một ông con rể làm bác sĩ.

Rồi một hôm, Hinh đến sớm hơn thường lệ. Anh ngồi nói chuyện với bố mẹ tôi rất lâu trên căn gác bên. Sau cùng anh đi qua chỗ chúng tôi. Anh nói, hai tay xoắn lại với nhau. Cái cử chỉ bối rối ấy, tôi chưa từng thấy ở Hinh. Anh không nhìn tôi, nhưng nhìn chằm chằm vào thằng Tuấn:

- Hôm nay, cậu dạy các cháu là hôm cuối cùng. Sáng thứ hai tuần sau. Cậu nhập ngũ rồi.

Thằng Tuấn cười hô hố, xòe tay ra :

- Chúc cậu giáo thượng lộ bình an!

Tôi tê cứng cả người. Tôi cắn chặt môi để cố nén một cảm giác quặn thắt bất chợt. Nước mắt tôi tràn ra, tôi vội lấy cả hai bàn tay úp vào mặt. Con Kim Anh cũng bật khóc.

Suốt thời gian còn lại, tôi không nghe Hinh giảng bài gì cả. Những vòng tròn hình học to nhỏ, Hinh vẽ trên bảng cứ như đang thắt cả lòng tôi lại. . . Tôi ngồi bất động như thế cho đến khi tôi nghe tiếng Hinh:

- Cậu về các cháu nhé. Cậu đi nghe Diễm !

Cả đêm hôm ấy tôi không ngủ. Tôi trằn trọc, rồi bật dậy, mở toang cửa sổ. Ở phía tây của bầu trời, có một ông trăng mờ nhạt, méo mó đang cùng với những trái hỏa châu lập lòe, mong manh, xa lắc như đang lắng nghe những tiếng đạn đại bác rì rầm vọng từ dưới đất. Rồi hắt vào tận trái tim non nớt của tôi, mách báo tôi rằng, tôi đã yêu anh từ lâu lắm rồi mà bây giờ tôi mới biết. ..

Sáng hôm sau, tôi chào mẹ để đến trường. Mẹ tôi nhìn ngay vào đôi mắt xưng đỏ của tôi:

- Chiều nay, mẹ cho các con đi xem ciné với cậu giáo một bữa. Khí khái hão! Anh hùng rơm! Thiếu gì người đánh giặc kia chứ!

Do Hinh giới thiệu, Quân, một bạn cùng học y khoa với anh nhưng sắp ra trường đến kèm cho chúng tôi. Khác với Hinh, Quân hoạt bát, cười nói luôn mồm. Anh nhanh chóng chinh phục được cảm tình của mẹ tôi và thằng Tuấn. Riêng Kim Anh càu nhàu:

- Đàn ông, con trai cái gì mà miệng mồm cứ như bà già trầu!

Còn tôi, sau một thời gian dài từ ngày Hinh đi, tôi như người mất hồn, lúc nào đầu óc tôi cũng nghĩ quanh nghĩ quẩn, nghĩ đủ thứ chuyện, mà chuyện nào cũng có thấp thoáng bóng hình Hinh ở trong đó. Tôi không cười, không nói trong suốt thời gian Quân đến dạy học.

Tôi vốn là đứa con gái thiếu tự tin, và thật quái lạ! Mỗi câu nói, tiếng cười của Quân, kể cả lúc anh đùa cợt, tôi có cảm tưởng như những ngọn gió thổi từ một tai ương hung hiểm, mà cứ mỗi lần chờm qua tôi lại làm cho tôi sờn gai ốc. ..

Có lần Kim Anh đứng phắt dạy:

- Cậu luôn luôn nói, cậu Hinh giảng như thế này là sai, thế kia là lòng vòng. Cháu không thích cậu nói như vậy nữa!

Ba tôi thò đầu qua, quát to:

- Con Kim Anh, không được hỗn.

Do sự xúc động khi kể câu chuyện về cuộc đời của tôi, cũng vì tôi muốn so sánh Hinh và Quân mà tôi quên kể một chi tiết, trước ngày Hinh lên Đà Lạt nhập ngũ. Chi tiết này, nó có liên quan đến tôi, đến những khúc quanh trong cuộc đời tôi sau này.

Hinh đến xin bố mẹ tôi để dẫn ba chị em tôi đi ciné. Phim chiếu thường trực nên khi chúng tôi vào rạp thì bên trong tối hù. Hinh cầm tay Kim Anh và Tuấn. Tôi đi theo, người soát vé lia ánh đèn pin về phía những ghế trống, thì thằng Tuấn len vào ngồi giữa tôi và Hinh. Cái miệng nó bô bô:

- Mẹ dặn em phải ngồi giữa cậu giáo với chị Diễm!

Cho đến khi ngồi viết lại những dòng này, tôi không còn nhớ hôm đó chiếu phim gì, tôi chỉ còn nhớ như in, tôi và Hinh sóng vai trên đường trở về. Con đường Lê Thánh Tôn chiều cuối năm chớm lạnh. Nắng phai vàng bên cạnh tiếng xao xác của lá me gọi gió . . . Mới ba, bốn giờ chiều mà trời như có hơi sương lễnh loãng. Tà áo dài trắng của tôi bay bay trong gió, có lúc quấn cả vào người Hinh. Tôi bồi hồi, muốn ôm cả chiều chớm đông của Sài Gòn hôm ấy vào lòng: Trước mặt tôi, từ cây cỏ đến con người, cái gì cũng đẹp, những vệt nắng quái như còn đang chần chờ trên những tàn lá thấp. Tiếng ríu rít của đàn chim sẻ như một tấu khúc cho tình yêu đầu đời của tôi thăng hoa. Tôi muốn nói điều gì với Hinh để anh hiểu nỗi lòng của tôi lúc bấy giờ, nhưng tôi mắc cỡ không thốt ra lời. . .Bỗng một ý nghĩ lóe ra trong đầu: Tôi thèm được nép sát đầu tôi trong vòng tay của anh, thèm nhìn sâu vào đôi mắt anh, mà ở đó, tôi biết, tôi đã đánh rơi tâm hồn tôi cho mãi mãi về sau. ..

Còn Hinh thì vẫn lầm lì đi bên cạnh. Chỉ có một lần, anh dừng lại nhìn vào mắt tôi, tiếng anh thảng thốt trong gió:

- Diễm này.

Tôi nhìn Hinh chờ đợi, tôi có linh cảm âm hưởng của hai tiếng ấy đang len lén đi vào tận trái tim tôi.

- Gì cơ anh?

Lần đầu tiên tôi gọi Hinh bằng anh. Trong đôi mắt sâu thẳm quen thuộc long lanh kia, có tia nhìn là lạ! Tôi đã biết Hinh muốn nói điều gì rồi! Nhưng con tim con gái của tôi đang chờ một câu câu tỏ tình mà tôi đã từng khao khát. . .Bỗng, có tiếng của thằng Tuấn từ phía sau:

- Cậu giáo dẫn tụi cháu đi ăn kem đi!
 
Đêm hôm ấy, lại một đêm nữa, tôi thao thức mãi không ngủ được. Trăng khuya vằng vặc chiếu lọt qua cửa sổ như mơn man cánh tay trần của tôi, như một giòng nước đang tan chảy trên da thịt tôi. Có lúc tôi mê đi. . .Có lúc, tôi thấy tôi và Hinh đang ngồi trong một căn nhà nơi đồng không mông quạnh, có gió lạnh rít ngoài liếp cửa, có bếp chấu đỏ hồng cho tôi vùi vào đấy mối tình thơ nồng ấm. . . Có lúc, tôi thấy một giòng sông lấp lánh mặt trời, có những tia sáng ấm nóng đang cuồn cuộn cuốn Hinh và tôi vào một miền sông nước bạt ngàn, đất trời toàn một mầu xanh kỳ ảo.

Sau ngày Kim Anh to tiếng với Quân, anh bớt dè bỉu về Hinh, nhưng có một hôm, trong lúc nghỉ giải lao giữa giờ. Thằng Tuấn đột nhiên nói:

- Sao cậu Hinh lại phải đi lính? Cậu ấy có quyền xin hoãn dịch mà!

Câu nói vô tình của Tuấn như lưỡi dao sắc cứa vào lòng tôi đau buốt.

Kim Anh nói:

- Làm trai , khi quốc biến thì phải ra trận, chứ cứ ru rú ở thành phố thì đâu có phải là con trai!

Lần đầu tiên tôi thấy Quân nổi nóng:

- Nào có phải ai cũng học được đâu! Đi lính cũng là một lối thoát. ..

Tôi thì vẫn lặng thinh. Hình như mọi chuyện, mọi vấn đề, nhất là khi nhắc đến Hinh, Quân chỉ nhằm xem phản ứng của tôi. Tôi biết Quân yêu tôi.

Tháng Sáu năm ấy, Quân nghỉ dậy vì anh phải lên Đà Lạt học quân sự trước khi mãn khóa. Mẹ tôi cũng cho chúng tôi đi ciné với cậu giáo bữa chót. Nhưng lần này, bà không dặn Tuấn ngồi xen vào giữa tôi và Quân, như lần trước với Hinh nữa. Kim Anh lấy lý do nhức đầu không chịu đi. Tôi biết, thế nào hôm nay, tôi cũng phải trả lời Quân một câu hỏi. Một câu hỏi rất dễ cho tôi trả lời.

Kim Anh tuy nhỏ hơn tôi một tuổi nhưng nó khôn hơn tôi nhiều lắm, tính tình nó lại cứng rắn. Nó tuy là em, nhưng ngay cho đến bây giờ, nó vẫn như một chiếc dù, che mưa nắng, che cả những dông bão trong cuộc đời cho tôi. ..

- Nếu anh chàng có hỏi, mà thế nào cũng hỏi, chị cứ nói thẳng với hắn! Yêu làm sao được cái bản mặt ấy!

Hơi lạnh trong rạp làm tôi ơn ớn, Có những lúc tôi thấy một nỗi sợ hãi mơ hồ, y như có một làn hơi thở nóng hổi của Quân đang chờn vờn trên gáy, trên má tôi.

Tôi rút ngay tay lại khi Quân cầm tay tôi:

- Anh yêu Diễm.

Tôi lạnh toát cả người, bàn tay nhơm nhớp mồ hôi của Quân làm tôi nghĩ đến con lươn, con vật mà mỗi khi, chỉ trông thấy lớp da nhờn nhờn, đôi mắt ti hí của nó là tôi đã ù té chạy.

Lần đầu tiên trong đời con gái, tôi nghe một người con trai nói với tôi như thế. Tôi bàng hoàng, len ra phía thằng Tuấn, đang ngồi ở tận đầu dãy.

- Tuấn đổi chỗ cho chị.

Khi về nhà, tôi đi nhanh đến bồn rửa mặt, tôi nhớ đến hơi thở của Quân, nhớ đến bàn tay của Quân, nhớ tới anh Hinh. . . Nước mắt tôi trào ra. Kim Anh đến bên:

- Kỳ cho sạch đi, cái thứ. . .Cà chớn ấy đi chị Diễm ạ!

LỜI KỂ CỦA PHẬN.

Tôi tên là Phận, Hạ sĩ Phận, người ta đặt cho tôi nhiều cái tên nghe ngồ ngộ, nào là: “ Thằng Ô Đô”, “chú Tà Loọc”, “ anh Cao Bồi”. Ôi thôi! Nhiều tên lắm, mà cái tên nào cũng ám chỉ công việc thường ngày của tôi là giúp đỡ việc riêng cho ông Tiểu đoàn trưởng . ..

Ông sếp mới của tôi là Thiếu tá Hinh, còn rất trẻ, hơi đen nhưng có hàm răng đẹp, năm thì mười họa tôi thấy ông cười. Mặt luôn luôn buồn rười rượi. Tôi luôn mang một cảm giác rằng, người chỉ huy tốt bụng của mình hình như nặng chĩu một tâm sự khắc khoải gì đó! Chắc lại chuyện yêu đương gì đó mà thôi! Chứ tôi biết rất rõ, ông ấy chỉ có một bà mẹ già đang bị bệnh tê thấp. Hàng tháng, chiếc phong bì mầu vàng của ban quân lương đưa cho ông thế nào, thì ông đưa nguyên như thế cho tôi, nhờ tôi về trao cho bà cụ Ở Ngã ba ông Tạ, với chỉ một lời dặn duy nhất:

- Chú nhớ đấy, mẹ tôi có hỏi, chú nói độ này Tiểu đoàn đang huấn luyện nên không phải đi hành quân. Nhớ đấy!

Cho đến một hôm tôi nhớ rất rõ, y như chuyện này mới xẩy ra hôm qua! Sau gần ba tháng hành quân ở biên giới Việt Miên. Tiểu đoàn tôi về dưỡng quân tại Chà Rầy, một căn cứ cũ của Mỹ ở ngay sát phía Nam của mật khu Bời Lời, thuộc địa phận của quận Trảng Bàng.

Khoảng hai giờ chiều ngày hôm ấy, một người con gái, đi chiếc xe honda, dừng lại trạm gác cổng, chiếc áo dài màu trắng đỏ quạch bụi đường. ..

Người con gái dựng xe, bước xuống đến gần ông Thượng sĩ già lễ phép.

- Bác cho cháu hỏi, đây có phải Tiểu đoàn 3 không ạ ?

- Cô muốn gặp ai?

- Cháu muốn gặp anh Hinh.

Ông Thượng sĩ già cao giọng gắt:

- Hinh nào mới được chứ. Đại đội nào chả có Hinh. Có biết cấp bậc gì không?

- Thưa Hinh, Thiếu tá.

Ông già giật nẩy mình, những ông sếp trước, bà lớn bà nhỏ, nhân tình nhân ngãi ra vào tấp nập, chưa kéo kịp con ngựa gỗ chặn cổng lên là đã bị la rầy. Đằng này. . .Sao dịu dàng quá!

- Thưa bà, bà là. ..

Người con gái đỏ mặt bình tĩnh trở lại.

- Không! Không, tôi chỉ là em của ông ấy. . .Cho tôi vào nhé!

Chiếc xe đậu trên thềm bộ chỉ huy.

- Sao Diễm biết anh về mà lên?

Người con gái phụng phịu:

- Kim Anh chỉ cho em, eo ơi! Con đường vào đây thấy mà ghê! Lại gặp ông già ở cổng lục vấn muốn đứng tim luôn! Nào anh! Cho em vào trong đi, lính của anh đông quá! Họ đang nhìn em kìa! Mắc cở muốn chết!

Hai người ngồi nói chuyện trong phòng khách. Tôi tò mò lắng nghe, nhưng không biết họ nói chuyện gì. Tôi lại ngạc nhiên, trước kia chẳng có cô gái nào lên thăm sếp cũ mà lại ngồi ở phòng khách cả. Họ thường nói chuyện dăm ba câu rồi vào thẳng phòng ngủ đóng cửa lại, rồi những tiếng rì rầm, tiếng kót két của chiếc giường đóng bằng gỗ thông pháo binh, những tiếng thở dồn dập, rồi sau cùng là những tiếng nước xối ào ào ở phòng tắm kế cận.
 
Đằng này, cả giờ đồng hồ rồi mà hai mái đầu vẫn chụm vào nhau, hai người vẫn cứ xoay xoay mãi hai ly chanh đá. Tôi đứng ở phía hông nên chỉ thấy đầu của Thiếu tá cúi gầm xuống, còn đôi vai của người con gái rung lên từng chặp. . . Những lúc tôi đến gần, họ ngưng bặt. ..

Con mắt của người con gái hơi đỏ và ướt.

Tôi bỗng thấy Đại úy Trưởng ban 3, từ phòng hành quân cầm tấm bản đồ chạy ra. Ông khựng lại:

- Thưa Thiếu tá. . .Chào bà. ..

Hai người đứng lên :

- Xin giới thiệu, đây là Diễm em tôi, còn đây là Đại úy Hiếu.

Tôi thấy Đại úy Hiếu có vẻ bối rối:

- Thật rất may mắn cho chị, đường từ ngoài ngã ba Trảng Bàng vào căn cứ, có một chiếc xe lam vừa bị giật mìn.

Người con gái không ngạc nhiên, không tỏ vẻ sợ hãi. Cô như một tiên cô vừa hạ giáng xuống trần. Cô xa lạ với người và cảnh ở đây và hình như cô xem việc cô ngồi bên cạnh Hinh là đã yên ổn lắm rồi, như cô đang mang một nỗi khổ tâm, mà dù có chết chóc, đau khổ thế nào cũng không sánh bằng. ..

Cô thờ ơ hỏi:

- Có sao không anh?

Thiếu tá Hinh cười:

- Còn sao nữa, em đã vào được đến đây rồi! Có điều, không chắc chiều nay em có thể về được đâu!

Thiếu tá quay lại nói với Đại úy Hiếu:

- Cậu thử điều động thằng 1 ra đó xem sao?

Không biết vì sao tôi cứ thấy vui vui khi con đường bị tắc. Và người con gái phải ở lại thật! Bố Hiếu này cố tình lề mề đây! Ông biết, cấp chỉ huy của ông mới đi hành quân xa lâu ngày mới về. ..

Họ lại ngồi nói chuyện rất lâu trong phòng ngủ mở toang cửa. Tôi đưa lên hai tô cháo gà. Người con gái lúc này đã thay chiếc áo dài bằng bộ đồ màu đen, loại của cán bộ xây dựng nông thôn mà ông Hinh thường mặc ngủ. Bộ đồ vừa rộng thùng thình, vừa tăng thêm một vẻ đẹp đài các.

Người con gái thật thà:

- Tôi lên đây làm phiền chú quá nhỉ?

Bỗng người con gái chỉ về phía cửa sổ:

- Ánh sáng gì mà chập chờn như ánh lửa vậy anh?

- Ánh hỏa châu đấy!

- Thích quá, hàng đêm nó là bạn với em đấy!. . .Vào những đêm không ngủ, em thường ngồi nhìn những ánh hỏa châu ấy. Kim Anh nó gọi là ánh thiên chương!

- Sao lại là thiên chương?

- Nó bảo thiên là trời, chương là sáng. Trời soi sáng cho những bước quân hành!

- Lát nữa, anh đưa Diễm ra ngoài, tha hồ mà ngắm!

Ông Hinh cầm một gói đi ra, chỉ một lát sau, ông bước vào:

- Chú cho tôi xin hai cái móc áo. . .Treo ở đây, chỉ sáng mai là khô chứ gì!

Tôi chạy đi lấy móc áo, trở lại thấy ông đang rũ rũ chiếc áo dài trắng. Tôi giật mình:

- Sao Thiếu tá không để cho em giặt?

Ông Hinh cười:

- Cậu tưởng ai cũng có cái diễm phúc giặt áo cho người yêu hay sao?

Tự nhiên tôi cảm thấy vui vui. Từ ngày ở Trung tâm huấn luyện Quang Trung ra, nhờ mau mắn, kín miệng tôi đã được về giúp việc cho nhiều ông Tiểu đoàn trưởng. Tôi đã phải khổ sở, nhục nhã với biết bao nhiêu tính đỏng đảnh tai quái của những bà vợ lớn vợ bé của những ông sếp ấy.

Người con gái thấy tôi thẫn thờ, cô dịu dàng.

- Thôi chú đi nghỉ đi để đấy tôi lo cho.

Sao họ đẹp đôi quá, sao họ phúc hậu quá, ước gì họ lấy được nhau!

Tôi vẫn không ngủ được. Tôi chỉ chờ cái cửa phòng kia đóng lại, nhưng tôi đã thất vọng! Cánh cửa cũng đóng, nhưng chỉ có cô gái ngủ ở bên trong, còn Thiếu tá Hinh tội nghiệp của tôi thì nằm ngủ trên một chiếc ghế bố nhà binh ở ngoài.

. . .Cũng có những tiếng cót két nhưng đó là tiếng trở mình liên tục của cả hai người, mà tôi biết chắc họ còn đầy ắp những điều không thể nói ra được. ..

Sáng hôm sau, người con gái chuẩn bị ra về. Cô gọi tôi đến, hai tay đưa cho tôi một phong bì:

- Tôi nghe anh Hinh nói chú sắp đi phép, có chút quà gửi cho thím và các cháu!

Tôi đã cảm động muốn khóc. Thiếu tá đưa cô ra Trảng Bàng. Tôi ngẩn ngơ nhìn cánh áo đen cô đơn ở đầu giường. ..

Đó là lần đầu tiên và là lần cuối cùng tôi gặp cô Diễm.

LỜI KỂ CỦA KIM ANH.

Thưở còn bé, nhất là thời gian còn đi học, ai cũng bảo tôi giống chị Diễm. Tôi vẫn thường đỏ mặt vì sung sướng khi có ai nói với tôi điều ấy.Nhưng chị là người mềm yếu. Việc hôn nhân của chị, vào người khác, chắc không đến nỗi tồi tệ như thế đâu!

Trong gia đình tôi, chỉ trừ có mẹ tôi, còn ai cũng phản đối việc chị Diễm tôi lấy Quân. Thấy yếu thế, mẹ tôi dọa sẽ tự tử. Tôi nói với chị:

- Bà già chỉ dọa thôi, đừng mủi lòng đổi ý.

Nhưng mẹ tôi đã làm thật. Lúc xe cứu thương đến để đưa mẹ tôi đi rửa ruột. Chị tôi ôm lấy khuôn mặt nhợt nhạt của mẹ khóc nức nở:

- Mẹ tỉnh lại đi mẹ Ơi! Mẹ cứ khỏe lại rồi mẹ bảo như thế nào con sẽ chiều ý mẹ!

Thế là chị tôi đi lấy chồng. Tôi thấm thía với câu thơ Nguyễn Bính:

Người ta pháo đỏ rượu hồng.

Nhưng trên đầu chị một vòng hoa tang.

Trước khi lên xe hoa, mà chị tôi chua chát gọi là xe tang, tôi xúi chị nên đi thăm anh Hinh. Chị do dự mãi nhưng cuối cùng cũng đi. Không may, tối hôm ấy, chị không về được. Không may hơn nữa, Quân tới nhà. Thằng Tuấn không biết ất giáp gì bô bô cái miệng:

- Chị Diễm em đi thăm anh Hinh rồi!
 
Anh Em - Nguyễn Thị Thùy Vân

Trời hưng hửng. Một chút sương bụi còn vương vất. Thập thò trước đôi cổng sắt cao nghệu nhà nuôi trẻ mồ côi khép còn kín là hai đứa trẻ gầy còm, rách rưới. Thằng anh áng chừng 10 tuổi, mặt mày lơ láo, sợ sệt. Đứa em nhỏ, khoảng lên hai, đôi mắt lòa lồi hẳn ra như hai viên bi mờ đục.

Buổi sớm đường dốc cao, xe qua vùn vụt. Không ai buồn liếc mắt nhìn quanh. Mặc thằng anh nghiêng ngóng, quan sát, đứa em ngồi thụp xuống đất, ủ rũ như chú chó con khát sữa. Thỉnh thoảng đứa em cất tiếng gọi:

- Anh Hai ơi!

Thằng anh trả lời bằng cái hắng giọng. Biết có anh bên cạnh nó có vẻ an tâm.

- Vô đó được ăn nọ Được uống sữa, được ăn bánh kẹo. Đủ thứ hết - Anh nó dỗ - Nhớ không được khóc, người ta đánh - thằng anh cẩn thận dặn thêm.

Đứa em nó cố níu lấy đôi chân khẳng khiu của anh. Miệng méo xệch, thằng bé muốn khóc nhưng không dám. Giữa hai đứa diễn ra cuộc giằng co thầm lặng.

- Biết có tao người ta không nhận mày đâu, thằng anh dọa khẽ.

Chỉ còn sự sợ hãi trên khuôn mặt non nớt của đứa bé sắp bị bỏ rơi - Thằng anh cương quyết gạt tay em:

- Chừng nào nghe anh huýt sáo thì bò vào, nghe chưa!

Dứt câu nó chạy vụt đi.

Hai tay chới với giữa khoảng không, thằng em òa khóc. Đôi mắt lồ lộ trắng dã làm nó không biết thằng anh chạy về hướng nào.

Xa xa bên kia đường, phía nhà Thờ lớn thằng anh luẩn quẩn lượm bao ny-lon mà mắt vẫn hướng về cánh cổng sắt. Thằng em vẫn còn ngồi đó, gào to, nức nở:

-Anh Hai ơi! Anh Hai ơi!

Không dám dừng tay, thằng anh cố moi trong đống rác tìm vật gì bán được. Nó miên man nghĩ đến bà mẹ Ốm đau để cố quên đi tiếng khóc của đứa em bé bỏng. Nguyện ước duy nhất của mẹ là anh em nó được vào nhà nuôi trẻ mồ côi, bà hy vọng ở đó chúng sẽ sung sướng hơn . Ít ra chúng cũng có cơm ăn, áo mặc. Chúng sẽ được đi học, được dạy dỗ. Lớn lên chúng sẽ có việc làm nuôi thân...

Thằng anh không hiểu điều đó đúng hay sai, nhưng vẫn làm theo ý mẹ. Phần nó chưa thể được. Để mẹ yên lòng, trước mắt nó mang thằng em đi.

Giờ đây em nó đang ngồi dưới đất, trước cổng nhà nuôi trẻ mồ côi, gào khóc gọi anh.

Cổng đã mở. Quên bẵng nhiệm vụ huýt gió cho em vào, thằng anh vờ lom khom bên đống rác đã xới tung nhiều lần. Chẳng còn gì trong đó, mặt quay đi nhưng mắt liếc lại. Nó nhìn thấy có người từ trong đi ra. Em nó vẫn sờ soạng đôi tay tuyệt vọng bám vào thành cổng gọi anh.

Không thể để họ nhìn thấy mình. Đó là điều duy nhất thằng anh còn nghĩ được. Nó muốn bỏ chạy thật nhanh, càng xa càng tốt.

Cùng lúc, tai nó như bùng vỡ vì tiếng nức nở của đứa em tội nghiệp:

-Anh Hai ơi! Anh Hai ơi!

Thân nó như bị chẻ đôi. Một nửa quay lại, một nửa bỏ trốn. Mắt nó nhìn thấy đứa em đang co rúm, run rẩy trong tay người lạ. Thằng bé bỗng giẫy giụa, cuống cuồng. Nó không cần cơm, không cần sữa, không cần cả bánh kẹo. Nó chỉ cần anh Hai, nó muốn được về nhà.

-Anh cháu đâu? - Người ta hỏi.

Bất ngờ thằng anh vụt lao tới. Hổn hển, lơ láo. Bằng tất cả sức mạnh của tình thương, nó giật phắt đứa em trong tay người lạ. Rồi nó bật khóc:

-Em của cháu... Em của cháu... Nó lắp bắp.

Người ta trả em nó lại cho nó.

-Ai bắt em mày đâu mà sợ. Đi mà không lo coi em...

Mặc những lời trách, thằng anh xốc vội em lên vai. Thằng em cuống quýt bám chặt cổ anh, đơi chân quắp ngang người, vẫn chưa hết thổn thức.

Mắt nhòa lệ, không kịp cảm ơn, thằng anh lầm lũi bước. Lòng trĩu nặng, nó nghĩ đến mẹ và cơ hội vừa bỏ lỡ. Buổi sáng, co ro trong manh chiếu rách, mẹ nó đã khóc nhìn nó dắt em ra đi. Đúng là bà đã mong muốn điều đó, bởi không thể làm gì hơn được cho hai đứa con côi cút. Thế nhưng giờ đây, thốt nhiên thằng anh tin rằng, bà sẽ vui mừng hơn nữa khi thấy chúng lại trở về.
 
Ăn Mày Con - Võ Phú

Con bé đen đuốc, nhỏ nhắn, độ chừng năm sáu tuổi chạy theo Tịnh. Nó nắm lấy vạt quần của Tịnh lúc lắc. Con bé nhướng đôi mắt nhìn anh. Ánh mắt nó long lanh, im lặng và chờ đợi trả lời. Tịnh hiểu nó muốn gì. Anh nhìn nó ái ngại...

Tịnh đưa mắt nhìn quanh hầu tìm một chổ để đổi tiền. Tịnh thấy bản hiệu của một ngân hàng, VinaBank, ở cuối đường. Anh đi thật nhanh đến đấy, con bé chạy theo sau như một con vịt nhỏ đeo chân mẹ. Những người quẫy gánh hàng rong, bác phu xe, cụ già bán vé số, người đi đường... họ đều dừng lại đưa mắt nhìn cảnh Tịnh chạy trước con bé ăn xin chạy theo sau. Chốc lác, họ tiếp tục với công việc. Người Tịnh run lên, anh sợ con bé. Anh không biết tại sao mình lại sợ con bé "ăn mày con" đến thế. Có lẽ trong mười mấy năm sống ở xứ người anh chưa từng tiếp xúc với trường hợp như vậy. Nên anh sợ con bé?

Tịnh mở cửa vào ngân hàng, máy điều hòa mát lạnh làm dễ thở đôi chút; khác xa với cái nóng hừng hực bên ngoài của thành phố được mệnh danh là "Hòn Ngọc Viễn Đông". Tịnh đưa tay áo lên trán, quẹt giọt mồ hôi lấm tấm. Tịnh thở. Cô nhân viên ngân hàng trong chiếc áo dài đưa mắt nhìn anh. Thấy có người vào. Cô hỏi:

− Anh cần chi ạ?

− Xin hỏi chị, ở đây có đổi tiền đô?

− Vâng, anh muốn đổi bao nhiêu? Đô hôm nay một triệu rưỡi năm mươi hai.

− Dạ, chị đổi giùm em 200 nhé. Đổi nhanh giùm em.

Tịnh lấy ví và rút hai tờ tờ tiền ra đưa cho cô thu ngân. Cô ta đưa lên ánh sáng đèn, lật qua, lại, và nói:

− Anh ơi, có tờ nào khác không? Tờ này bị sờn và gẫy góc. Nếu anh muốn đổi, chúng em sẽ trừ tiền. Trừ năm ngàn.

Tịnh gật đầu và nói:

− Sao cũng được, chị giúp giùm nhanh nhanh nhé. Em còn cho tiền con bé ăn mày ở ngoài kia.

Miệng thì nói vậy, nhưng Tịnh vẫn lầm bầm trong bụng rằng tiền nào cũng là tiền. Còn bày đặt mới, cũ rồi cò kè giảm giá. Đúng là Việt Nam có khác.

Cô nhân viên nhìn Tịnh trả lời:

− Vâng! Mà anh muốn tiền năm, một, hay năm chục?

− Là sao?

− Tiền chẵng hay lẻ đó?

− Lẻ càng tốt. Cho ăn xin mà.

Tịnh nhét cọc tiền vào túi quần và rời khỏi ngân hàng. Đứng trước cửa, Tịnh nhìn quanh hầu tìm cái dáng nhỏ nhắn, đen đuốc của con bé ăn xin kia. Nhưng, tìm hoài anh không thấy nó ở đâu. Tịnh đi vòng xung quanh tìm con bé. Tịnh tự trách mình sao nhút nhát. Con bé ăn mày có làm gì đâu mà lại sợ. Tịnh tự trách mình sao không dặn nó đứng chờ ở ngoài cửa để giờ không thấy nó nữa?

Tịnh đi lang thang trên con phố, mong hầu tìm con bé ăn mày; nhưng, chắc có lẽ anh sẽ không gặp lại nó nữa.

− oOo-

Đêm qua Tịnh vừa đáp máy bay xuống phi trường Tân Sơn Nhất sau mười một năm xa cách. Mười một năm sống ở xứ người, làm sao Tịnh không có những cảm giác sợ sệt. Tịnh biết những lo sợ đó thật phi lý. Sợ đủ thứ chuyện ngay khi sống trên quê hương của chính mình.

Buổi sáng, sau khi thức dậy, chị Ngọc, chị em cô cậu của Tịnh, căn dặn:

− Chị đã mua đồ ăn cho em rồi. Chị để trên bàn. Trái cây và nước suối trong tủ lạnh, khi nào cần thì lấy ăn nhé. Hôm nay chị phải đi trực ca. Bệnh viện cần vì cuối năm. Em về gấp quá, chị không xin nghỉ được. Ở nhà đừng đi đâu nhé. Tí chiều chị về rồi chị chở đi tham quan đất Sài Gòn.

− Dạ.

Chị Ngọc đi rồi, ở nhà một mình Tịnh cảm thấy buồn chán. Ở Mỹ, Tịnh không bao giờ chịu ở trong nhà cả ngày. Tịnh thích được đi đây, đi đó. Vậy thì, ở đây, trên quê hương của chính mình, lý do gì mà không đi? Với lại, chờ chị Ngọc về thì mất toi một ngày. Lần này, Tịnh quyết định về thăm quê hương đột xuất, nên không kịp xin nghỉ dài hạn. Thời gian anh nghỉ phép mùa Đông cũng sẽ qua mau. Tịnh quyết định không lãng phí từng giây phút trong chuyến trở về này.

Tịnh thay quần áo và mang máy ảnh ra phố. Tịnh vừa ra khỏi phố định bụng tìm một nơi nào đó để đổi tiền tiêu xài vãnh vặt. Anh mới đi được vài bước là gặp ngay con bé ăn mày. Và con bé đã đi theo anh cả đoạn đường. Vậy mà, anh không cho con bé được đồng nào. Anh ấy nấy lắm.

Từ ngân hàng VinaBank ra, Tịnh cứ thơ thẩn như người mất hồn.

Kể từ đó, những ngày ở Sài Gòn, sáng nào Tịnh cũng đi tìm con bé ăn xin. Tịnh muốn tìm lại con bé nhỏ nhắn, đen đuốc kia. Con bé có ánh mắt long lanh, trong sáng, tội nghiệp đang chờ đợi ở Tịnh một phần ăn trưa, một miếng bánh lót dạ. Vậy mà....

Con bé ăn xin đó, Tịnh không hề biết tên, tuổi của nó. Và nó lẫn anh chưa từng mở miệng nói một lời nào, nhưng ánh mắt của nó đã làm anh thao thức mãi về sau.

Làm sao Tịnh tìm được con bé ấy giữa biển người mênh mong?
 
Buổi Tối Trong Làng Om Xà No_ Nguyễn Thị Long An

Mặt trời chếch về hướng Tây. Nắng nửa chiều nghiêng lả lướt trên đôi bờ kinh Vĩnh Tế. Ánh sáng hanh vàng phủ lên cánh đồng lạ lẫm cỏ cháy đất khô, rải rác mấy cây thốt nốt già cao lêu nghêu đưa ngọn. Mặt nước phía trước đầu ghe trầm lặng chảy xuôi bỗng nhăn nhúm bởi mũi ghe lao tới và tiếng máy nổ lạch tạch đều đều vọng vào hàng cây xanh xa xôi mất biệt.

Chị Sol mở những phần bánh mì mua khi sáng bày trên khoang, mời mọi người dùng bữa. Nhìn những khúc bánh mì cứng ngắt, nghĩ bà ngoại sẽ không ăn được, Kim bối rối ngó bà rồi ngó chị Sol, sắp sửa mở miệng yêu cầu một thức ăn khác thì người chủ ghe tốt bụng đã đem ra đưa bà ngoại chén cơm còn lên khói và cái dĩa nhỏ có khoanh cá lóc kho khô.

Bữa cơm trưa xong xuôi, dọn dẹp trên sàn khoang sạch sẽ, ba người đàn bà gầy sòng tứ sắc giao hữu. Mời ngoại tham dự, bà từ chối, lặng lẽ lấy trầu cau ra ngoáy trong khi Nga và Tân hớn hở xúm xít ngồi sát sòng. Một chút nhộn nhịp lóe lên trong ghẹ Tiếng cười vang vang, tiếng bạc cắc khua long-cong khi có người được tới. Sự Ồn ào nổi dậy từ trong ghe bay tạt ra phía ngoài nhòa nhập cùng vùng không khí tĩnh mịch buổi xế trưa. Thỉnh thoảng, một chiếc ghe máy từ phía đối diện chạy qua, hai dòng nước gặp nhau gây thành con sóng lớn rào rạt vượt vào bờ.

Đã hơn bốn giờ đồng hồ, ghe lầm lũi đi theo hướng mặt trời lặn. Kim bò đến ngồi sát cửa sổ, thọc tay khuấy đừa giỡn nước. Luồng nước mát ngấm vào lòng bàn tay, một chút sảng khoái nhè nhẹ dấy lên trong hồn. Vừa khỏa nước vừa mơ màng dòm bà ngoại tư lự chậm rãi đưa miếng trầu vào miệng, mắt hướng ra phía ngoài, tưởng bà như một khách lạ Ở hành tinh nào đến nhàn du trái đất, ngồi đó như cố tìm kiếm hình ảnh trong bụi cây đám cỏ loáng thoáng lùi lại đàng sau bóng dáng của một quá khứ nào đã khuất.

Trời bỗng nổi gió. Từng loạt lá vàng từ những cành cây khô, những vùng bụi từ hai bên bờ bốc lên cuồn cuộn đổ xuống mặt sông vắng trơ vơ chiếc ghe nhỏ chồng chềnh của cơn mưa sắp sửa chuyển mình với buổi chiều đột ngột tối sầm như một điềm báo tin giờ tận thế. Ghe lao đao sấn tới khoảng sông phía trước, xông pha giữa vòm trời tối tăm cùng tiếng vọng từ xa của sấm sét, đồng thời mưa ào ào đổ xuống và màn nước trắng xám đặc phủ trùm trên mặt nước như muốn nhận chìm chiếc thuyền nhỏ khẩm lừ trồi lên hụp xuống giữa dòng. Hàng hàng lớp lớp hột nước tuôn xuống mui ghe, phủ lên mặt kinh những chùm bọt trắng nối tiếp nhảy đùa trên mạt sóng rồi chìm sâu vào phía dưới. Trong cơn mưa giăng mờ, ghe phải đậu lại núp dưới một cụm cây lạ mọc cạnh bờ.

Ngồi trong mui rướn nhìn qua kẽ hở của lá cành, hy vọng tìm thấy những gì quen thuộc nhưng tuyệt nhiên không có gì chờ đợi trong khoảng đất sắp liều thân tìm đến. Trong một thoáng, linh cảm nhạy bén hiện ra trong trí vòm trời tối tăm trước mặt nhiều sự hiểm nguy chực chờ bắt đầu từng phút giây nầy. Tự hỏi, tại sao đã biết, đã nhìn thấy rõ ràng mà vẫn băng mình tiến tới để rồi xót xa cho sự tìm kiếm chỗ dung thân còn mơ hồ giữa vòm trời gió bão.

Mưa dịu bớt. Ghe rời chỗ đậu âm thầm lướt đi lẻ loi dưới màn nước mong mỏng và khoảng trời tím thẩm hoàng hôn. Trong khoang một chút ánh sáng nhỏ của cây đèn bão được đốt lên treo bên vách cho thấy mọi người đã nằm ngủ ngổn ngang bên bộ bài tứ sắc còn lộn xộn những con bài xấp ngữa.

Kim vẫn ngồi im lìm bên khung cửa nhỏ suốt cơn mưa dài. Bên ngoài bóng tối đã chụp xuống mênh mông lạnh lẽo như từ lâu thiếu vắng mặt trời. Đàng xa loáng thoáng ánh đèn, một chiếc ghe chạy ngược trở về. Khi hai ghe đến gần người tài công bên kia nói vọng qua:

- Phía trước có cướp chận ghe đó!

Tiếng chú Bân hỏi lại :

- Khoảng nào? Có mất mát gì không?

-Phía trên đó. Không lấy được gì, quơ bậy bạ mấy cây đường thốt nốt.

Mọi người trong khoang ngồi rột dậy nhôn nháo. Bà chủ ghe thì thầm:

- Ai có tiền bạc, vàng vòng kiếm chỗ dấu đi nhe.

Kim run rẩy, lần tay phía trước bụng lấy ra gói giấy, lúng túng không biết phải dấu nơi nào. Sau một thoáng suy nghĩ, Kim lết về phía lái, bỏ vào rỗ đựng chén lấy chồng tô lớn úp lên. Nghĩ thầm, một gia tài nhỏ trong gói giấy đó nếu bị cướp chắc phải quay trở lộn về. Lui vào ngồi lại chỗ cũ lầm thầm khấn cha mẹ phù hộ thoát khỏi sự mất mát. Thấy bà ngoại bò lại phía cái khánh thờ nhét vào phía dưới cái gì đó. Chú tài công cho máy nổ nhỏ sức chạy chậm hơn.

Trong ghe mọi người im thin thít như những người tử tù chờ giờ hành quyết.

Bà chủ ghe ra lịnh:

- Bân, neo ghe lại chờ một hồi coi sao.

hiếc ghe dừng lại giữa sông. Mưa đã tạnh. Từng loạt gió thổi lướt qua, những giọt nước đeo đọng trên cành dựa mé rơi lào xào xuống sông. Xung quanh vắng lặng, nghe rõ ràng tiếng cá móng nước hòa với tiếng kêu của ếch nhái, của dế giun vang lên từ vùng cây cỏ. Thời gian như đứng im trên đỉnh trời còn giăng mây xám và hãi sợ một thoáng động của lá cành.

Một lúc khá lâu không nghe động tịnh gì. Bà chủ ghe lên tiếng:

- Không lẽ đậu hoài ở đây. Bân ơi! Cho chạy đi.

Máy ghe nổ thật nhỏ và chầm chậm trôi theo dòng với sự lo âu hồi hộp và nhịp tim đập loạn xạ của mọi người trong khoang. Bỗng tiếng thổ ngữ lồ xồ rợn rùn cất lên bên mé bờ trong tiếng lên cò của nòng súng. Chú tài công hỏi nhỏ:

- Bà chủ, mình ghé vô nha, không thôi chúng nó bắn đó.

Ghe cặp vào mé. Mọi người trong ghe im lặng, bất động như những xác chết ngồi.

Hai người đàn ông xuống ghe, nói với nhau bằng thổ ngữ, lục soát từng người một, gom góp hết mớ tiền còn lại trong túi của mấy bà bạn hàng. Đến gần chỗ ngồi của bốn bà cháu, đôi mắt của hai tên cướp sáng hoắc long lên khả ố ánh ra chỗ chừa của cái khăn sọc rằn bao quanh khuôn mặt. Tên nầy nói với tên kia gì đó rồi chia nhau lục soát hai người con gái trước. Thấy trong túi nạn nhân không tiền, tên cướp nắn nót tìm kiếm mọi chỗ trong người Kim không chừa một chỗ riêng tư con gái. Moi móc đến nỗi Kim phải tránh né chống đối, mắt trừng trừng phẩn nộ. Tìm kiếm không được gì tên cướp quát lên giọng gầm gừ lớ lớ "vàng để đâu?"

Kim thu người vào sát vách ghe lặng thinh. Không nghe trả lời, hắn nắm tóc Kim quấn hai vòng trong bàn tay, giựt mạnh, lườm lườm dòm mặt cô gái hồi lâu hắn mới rời sang qua bà ngoại lục lọi tiếp. Đổ hết hai bọc áo quần, giũ từng cái, liếc dọc liếc ngang. Cạnh bên, tên kia cũng làm như vậy, hắn lục lọi ve vuốt khắp người Nga, sự va chạm thân xác gây trong lòng hắn nỗi ham muốn về nhục thể, đôi bàn tay hắn không ngừng sờ mó, thô bạo mạnh tợn cho đến nỗi Nga không chịu được phải hét lên và khóc ngất. Trên bờ, đồng bọn bỗng lên tiếng kêu réo, hai tên dưới nầy đành quét mắt một lượt nữa bốn phía chung quanh rồi nhảy nhanh lên bờ. Bốn bóng người lẫn vào màn đen mất dạng.

Bà ngoại ngó hai đứa cháu gái ngồi cúi đầu qua ánh đèn nhỏ, thở dài xót xạ Kim ứa nước mắt, nuốt xuống lòng mình niềm tủi hận.

Bà chủ ghe nói:

- Tụi cướp nầy khốn nạn quá, càng ngày càng lộng. Bân, cho ghe chạy mau, ghé Om-Xà-No ngủ.

Độ chừng năm bảy phút thì ghe tấp vào một bến nhỏ cắm sào ngoài xa bởi những chiếc xuồng đậu đặt lừ gần mé nước.

- Bà con sửa soạn lên bờ.

Dứt lời, bà chủ ghe, chị bạn hàng và chú tài công nhanh nhẹn ra khỏi ghe lên bờ đi mất dạng. Kim bò trở lại chỗ dấu cái gói giấy khi nãy nhét vào người.

Lúc quay lại, Kim cũng thấy bà ngoại làm như mình. Bây giờ Nga, Tân xách hai bọc hành lý chờ đợi bước theo chị. Kim lần bước trong bóng đêm dắt bà chuyền qua chùm xuồng ba lá lắt lư chao đảo. Đến mé, chị Sol chực sẵn đứa tay giúp kéo từng người một lên bờ, dẫn bốn bà cháu bước thấp bước cao men theo con đường đất với những ngôi nhà lá nhỏ lờ mờ bên bờ trong vòm không gian đen đặc.

Đến một căn nhà không xa mấy bờ sông, nhưng cách biệt hẳn với con đường đi do khoảng sân rộng và hàng rào mồng tơi bao bọc chung quanh. Chị Sol kề tai Kim nói nhỏ :

- Nhà của bà chủ ghe cho người đi buôn lỡ đường mướn ngủ.

Bỡ ngỡ bước vào cửa, cây đèn măn-xông treo phía trên cho thấy một căn và hai chái rộng rãi, cao ráo. Chính giữa nhà một cái bàn cây tròn với sáu cái ghế đẩu. Hai bên vách là hai dãy ván lót dài tận phía sau. Hàng chục chiếc ghế bố xếp dựng hai bên chái. Người chủ ghe cũng là chủ nhà đứng sẵn đó từ bao giờ đon đả chỉ vào bên trong:

- Bà ngoại và mấy cháu ngủ bộ ván sát vách đó với Chị Sol. Tôi qua nhà bên kia lấy cơm.

Mở tủ lấy chiếc mùng vải trắng lớn, vài cái gối mền để lên ván, bà chủ ghe lại thoang thoát đi ra ngoài. Hai chị em phụ với chị Sol giăng mùng, vắt lên, chờ giờ đi ngủ.

Cơm nước xong xuôi, Kim chun lấy cái mền nhỏ xếp nhiều lớp trải lên phần ván dành cho bà ngoại, miệng lẩm nhẩm, để ngoại nằm sát vách cho có vật chắn an toàn. Tân nằm kế ngoại, rồi Nga và mình. Còn chị Sol nằm phía ngoài án ngữ.

Thiếu gối, Kim dùng bọc hành lý gối đầu cho mình và cho em như dưới ghe khi sáng.

Không có đồng hồ, không biết giờ giấc, sự mỏi mệt bắt Kim phải nằm xuống. Đêm nay cũng như đêm qua, tịt mù vùng đất lạ. Đi đâu đó một lát, chị Sol trở về dở mùng leo lên ván. Đèn tắt, bóng đen đã buông mau xuống căn nhà. Bên ngoài tiếng dế nỉ non, tiếng cành cây cọ quẹt trên mái tôn, tiếng đập cánh của dơi và xa xa vẳng lại tiếng chim heo kêu quát... quát . Cạnh bên, bà và hai em đã thôi trở mình. Nhớ lại buổi tối trên ghe, nỗi kinh hãi còn lãng đãng trong hồn. May mắn không
 
HỒN MA CỦA NGƯỜI BẠN THÂN - Unknow

Ðây là chuyện thật về cái chết người bạn thân nhất của tôi, và đời sống bên kia. Trở lại ba năm về trước... Vào một buổi tối thứ 7, M. và tôi đang đi mua sắm tại cửa tiệm quần áo nổi tiếng The Gap, lúc đó M. hỏi tôi có muốn đi trượt tuyết ở Colorado Mountain với gia đình của bạn ấy vào mùa Giáng Sinh không. Tôi đáp:

- Ði. Nhưng mà H. không biết trượt tuyết.

- Ðược rồi, không sao đâu. M. sẽ dạy cho.

Rồi chúng tôi sắp xếp mọi thứ, ba tuần lễ sau chúng tôi lên đường.

Chúng tôi đến Aspen khoảng 10:00 giờ đêm. Lúc đó đã trễ cho nên không đi trượt tuyết được, chúng tôi mới lái xe về khách sạn. Sau khi lấy hết quần áo ra cất vào tủ M. rủ tôi ra ngoài xem tuyết và ngắm cảnh vật xung quanh. Tôi đồng ý ngay và chúng tôi khoác tay nhau đi xuống cầu thang ra khỏi khách sạn. Quào! Tuyết trắng thật là đẹp quá. Vì hôm đó cũng là ngày rằm nên cảnh vật xung quanh thấy rất rõ chỉ trừ rừng thông trước mặt thì hơi âm u một chút. Chúng tôi mãi miết đứng đó nhìn ngắm và thưởng thức cảnh vật, hít thở không khí mùa đông mà không nói với nhau một lời nào. Bỗng chúng tôi nghe một tiếng hú rất rùng rợn kéo dài. Tôi giựt mình hỏi:

- Tiếng gì vậy!?

- Hình như là tiếng tru của chó sói, M. trả lời và nói tiếp:

- Chó sói cũng sống ở Colorado nữa sao?

Vừa lúc đó, chúng tôi lại nghe tiếng hú nhưng lần này gần hơn lần trước. Tôi nhìn chung quanh để xem có người nào ở đó nữa không nhưng không có ai khác ngoại trừ hai đứa tôi. Bỗng dưng M. thét lên, tôi vội quay lưng lại thì thấy một con chó sói. Nó rất lớn màu đen có răng nanh nhọn hoắt, nó chỉ cách xa chúng tôi khoảng 6 thước.

- Nhanh lên M.. Hãy chạy về khách sạn mau, tôi nói với một giọng run run.

Chúng tôi từ từ thụt lùi lại hy vọng con sói đừng có theo chúng tôi nữa. Nhưng nó vẫn lầm lũi đi tới gần hơn và hai cặp mắt cứ nhìn chầm chập vào chúng tôi.

- CHẠY! M. kêu lên.

- Ðừng, nó sẽ rượt bắt chúng mình. Tôi cãi lại.

Nhưng M. đã bỏ chạy mặc kệ tôi nói gì, và con sói đuổi theo sau.

- M.!!! Tôi la lớn.

Nhưng trễ rồi. Con sói đã vồ chụp lấy M..

- Cứu chúng tôi với. Tôi la thật lớn và lập đi lập lại nhiều lần, nhưng không có ai nghe. Còn con sói đen thì cứ nhằm mặt của M. mà cấu xé.

- Cứu tôi với, H.! M. nói với một giọng van lơn.

Lúc đó tôi sợ quá không biết làm gì hơn là ba chân bốn cẳng chạy về khách sạn gọi người ra cứu. Tôi cố gắng chạy thật mau, vừa chạy tôi vừa nghe ở đằng sau lưng tiếng cầu cứu của M. văng vẳng:

- ÐỪNG... ! ÐỪNG ÐI...! HÃY Ở LẠI ÐÂY GIÚP M....

Khi chạy đến khách sạn, tôi mở cửa vào và la thật lớn:

- CỨU BẠN TÔI. BẠN TÔI BỊ CHÓ SÓI CẮN. HÃY CỨU BẠN TÔI, MAU LÊN!!!

Sau đó ba người đàn ông cùng chạy ra ngoài với tôi. Chúng tôi chạy đến nơi con sói vẫn còn đang cắn xé M.. Một người thì lấy cái cây thật lớn đập mạnh vào con sói, còn hai người kia thì lượm đá ném liên tục vào con sói. Có lẽ con sói nghĩ rằng nó không thể chống cự lại được nên đành lủi thủi bỏ vào rừng.

- M.... Tôi vừa kêu vừa chạy đến nơi bạn đang nằm. M.! M.! Có sao không? Nhưng M. không trả lời. Lúc đó, tôi ngồi xuống ôm M. vào lòng và những giọt nước mắt của tôi đã lã tả rơi xuống thân thể đầy máu của M. .

Tôi đã gọi tên của M. nhiều lần, nhưng bạn ấy vẫn nằm im lìm, thân thể còn đó nhưng linh hồn của M. đã ra khỏi thể xác đau đớn của mình từ lúc nào rồi. Sau vài phút, ba mẹ của M. và người em của M. đều đến hiện trường rồi chúng tôi ôm nhau mà khóc. Bạn thân của tôi thật sự rời bỏ cõi đời.

Ðến ngày chôn cất M., ba của M. hỏi tôi chuyện gì thật sự đã xảy ra đêm hôm đó, nhưng tôi không thể nào kể cho ông biết, vì mặc cảm tội lỗi cứ ám ảnh tôi hoài. Cho đến hai tuần lễ sau ngày chôn cất của M. xong, tôi mới kể lại đầu đuôi câu chuyện cho cả nhà M. nghe. Tôi rất là hối hận trong lòng vì nếu tôi không bỏ đi có thể M. sẽ không có chết. Tôi nghĩ rằng M. cũng hận tôi lắm.

Khoảng 3 tuần sau khi an táng M. xong, tôi thấy M. đến nhà tôi. M. đến không phải bằng thân thể mà bằng hồn ma. Lần đầu tiên tôi thấy bạn ấy hiện về là vào một đêm khuya mà tôi cứ tưởng rằng mình đã nằm mơ. Lúc đó tôi thấy mặt mày của M. có nhiều vết thẹo còn quần áo thì dính đầy đất cát. Khi thấy M. tôi vui mừng hớn hở cứ ngỡ rằng M. vẫn còn sống:

- M.! Bạn không có chết! M. à, cho H. xin lỗi vì lúc đó sợ quá không biết làm gì nên đã bỏ M. lại một mình.

- Tất cả đều là lỗi của mày, M. nói với một giọng thật lạnh lùng. Lúc đó tôi không thấy M. mở miệng nói, nhưng tôi có thể nghe được.

- M. à! Cho H. xin lỗi vì đã bỏ M. ở lại đó.

- Tất cả đều là lỗi của mày, nếu mày không chạy đi như một đứa hèn nhát thì tao đâu có chết. Nói xong M. lấy vài món đồ trên bàn ném vào người tôi.

- M.! Dừng tay lại! Bạn làm gì vậy? Hãy dừng tay lại! Vừa khóc tôi vừa nói.

- Tất cả đều là lỗi của mày. Ðồ hèn nhát!!! Bạn ấy vừa liệng đồ đạc vào tôi vừa nói. Nói xong thì bạn ấy biến mất.

Hầu như mỗi đêm M. đều đến nhà tôi để buộc tội và trách cứ tôi đã để bạn ấy chết. Tôi đã dọn nhà ba lần nhưng hồn ma của người bạn thân tên M. vẫn cứ hiện đến như thường...
_________________
 
LỜi NguyỀn NƠi Kim TỰ ThÁp Ai CẬp - Unknow

Một tấm thảm kịch lạ lùng kinh dị cùng diễn ra một lần tại hai nơi rất xa khi con chó của nhà khảo cổ lừng danh Lord Carnarvon bỗng nhiên hốt hoảng tru lên những tiếng hãi hùng rồi lăn ra chết đúng vào lúc người chủ thân yêu của nó là Lord Carnarvon ở cách xa đến hàng ngàn dậm cũng tự nhiên kêu lên một tiếng rồi ngã vật ra trút hơi thở cuối cùng trong một căn phòng của khách sạn ở Cairo, thủ đô Ai Cập.
Câu chuyện khởi đầu từ ngày 17 tháng 2 năm 1929, khi nhà khảo cổ Lord Carnarvon và đoàn thám hiểm của ông đục phá cửa đá bí mật của Kim Tự Tháp nổi tiếng ở Ai Cập để đột nhập vào ngôi mộ của vua Tutankhamen. Chính ngay ở ngôi mộ cổ này, Howard Carter đã khám phá ra được thêm một kho tàng vô giá vượt ngoài sức tưởng tượng hoặc ước mơ của họ, những đồ vật bằng vàng khối, những bảo thạch, những đồ dát ngọc tập trung nơi chiếc quan tài rực rỡ chứa đựng thi thể vua, nơi đây hai nhà khảo cổ còn tìm thấy được những thứ mà từ lâu họ từng thiết tha mong đợi.
Ðiều làm cho kẻ đột nhập ngôi cổ mộ trong thấy trước tiên có lẽ là hàng chữ khắc trong vách đá, hàng chữ mà nội dung là cả một lời nguyền đầy vẻ cảnh cáo hăm dọa : "Kẻ nào làm quấy động giấc ngủ của Pharaon (vua Ai Cập) đều phải chết!"
Không ai có thể ngờ được, nhất là đối với nhà khoa học, dòng chữ khắc trên đá ấy lại là cả một lời nguyền với sức mạnh siêu linh huyền bí tác động lên những ai dám mạo hiểm đột nhập vào ngôi cổ mộ của vua Ai Cập.
Về sau, những người dấn thân vào việc khám phá Kim Tự Tháp và đến bên áo quan của vua Tutankhamen đều lần lượt trả giá rất đắt.
Trước tiên là nhà khảo cổ Lord Carnarvon, một hôm đang ngủ trong căn phòng của khách sạn Continental thì bỗng nhiên thức dậy nói lẩm bẩm như người ngủ mê:
- Tôi cảm thấy thích chốn địa ngục.
Vừa lúc đó con trai của ông chạy vào lo lắng hỏi han, nhưng nhà khảo cổ vẫn lẫm bẩm câu nói quái gỡ ấy và ngớ ngẩn như chẳng còn biết gì ở chung quanh. Ðêm đó, ông trút hơi thở cuối cùng. Cùng thời điểm ấy, con chó nhà ông tru lên từng hơi... Sau đó không lâu tại khách sạn này, nơi trú của một nhà khảo cổ quan sát về Kim Tự Tháp Ai Cập lại xảy ra một thảm kịch nữa, nhà khảo cổ Mỹ là Arthur Mace tự nhiên kêu van là mệt mỏi rồi bất thình lình vùng dậy tất tả đi về hướng Kim Tự Tháp và đòi vào thăm cho được chiếc quan tài của vua Ai Cập Tutankhamen lần nữa mặc dù đêm đã khuya. Thế rồi, Arthur Mace nấc lên và chết. Các bác sĩ không tìm được nguyên nhân của cái chết của nhà khảo cổ này.
Mọi người chưa dứt sự bàng hoàng về cái chết lạ kỳ trên thì George Gould, bạn của nhà khảo cổ Carnarvon (người đã vào tận hầm mộ của vua Ai Cập trong Kim Tự Tháp và đã chứng kiến tận mắt xác thân và gương mặt của nhà vua) bỗng nhiên lên cơn sốt dữ dội và chết sau một đêm không chợp mắt. Tiếp đến, Reid, người đã chiếu tia X qua xác ướp của vua Tutankhamen để mong khám phá những điều mới lạ đã chết một cách đột ngột.
Rồi điều kinh dị khác xảy ra; người thư ký của nhà khảo cổ Carnarvon (đã theo ông ta bất cứ nơi đâu trong các cuộc khảo sát Kim Tự Tháp) được phát giác là đã chết khi đang nằm trên giường ngủ, theo bác sĩ khám nghiệm thì người thư ký này chết vì chứng trụy tim.
Chưa hết, nhà tư bản công nghiệp Anh là Joel Wool, một trong những người đào hầm mộ của vua Tutankhamen cũng tự nhiên chết sau một cơn sốt lạ kỳ.
Tính kỹ lại thì chỉ trong vòng có 6 năm sau cuộc khai mở canh cửa bí mật nơi Kim Tự Tháp của đoàn khảo cổ để vào tận mộ của vua Ai Cập , đã có 12 người chết một cách bí mật dị kỳ.
 
Bãi Tắm - Hồ Anh Thái


Cô ngồi giữa. Xung quanh cô là lũ trẻ con cái những người cùng cơ quan. Một lát sau thì lâu đài bằng cát ở giữa. Xung quanh là cô và lũ trẻ. Hì hục xây đắp bằng cát ẩm. Trên cát ẩm. Sóng biển ngấp nghé đe dọa xóa sạch thành quả của đám người ngây thơ. Cả cháu và cô sắp được bài triết học sơ khai đầu đời về lâu đài trên cát.

Cô đầu đời thật. Hai mươi tuổi vừa tốt nghiệp, cháu của một người quen của vợ của thủ trưởng của cơ quan, thủ trưởng cơ quan ở cái thế nhất thiết nên nhận. Con gái ngày nay không ai dạy nữ công gia chánh. Mỗi ngày một người trực phòng, chỉ việc đến sớm đun nước, pha trà cho cả phòng uống. Hôm nào phiên cô thì đến muộn, hồn nhiên: Cháu ngủ quên. Hồn nhiên khác: Cháu bị tắc đường. Hồn nhiên nữa, có đến sớm cũng không rửa chén đun nước: Cháu không uống chè, báo người ta viết uống chè hại tim đấy các anh các chị các chú các bác ạ.

Đầu giờ buổi sáng, cô huỳnh huỵch đôi giầy bánh mì xách túi đến rồi ra đứng chắn trước lối ra vào cửa mở toang, tận dụng làn gió trời thổi vào qua hành lang và luồng gió điều hòa nhiệt độ thốc từ trong ra. Nghiên cứu viên Một cảm thán: Chao ôi cơn gió cái. Nghiên cứu viên Hai bẻ vần: Cô kia mặc lụa Hà Đông, đứng ra trước gió tôi trông rõ ... rồi. Đến thế vẫn đứng nguyên trước cửa không hiểu gì. Hồn nhiên.

Khi cô vắng mặt trong phòng, nghiên cứu viên Hai gật gù, đúng là nhìn rất rõ, đùi đĩa tươm ra phết. Nghiên cứu viên Một vẫn cảm thán: Nhưng mà hôi lách cực kỳ. Nghiên cứu viên Ba lúc này mới nhảy vào giữa cuộc hội thảo: Ngày trước tớ cũng hôi lách, may mà tìm đúng thuốc. Cả phòng mười bốn người thì tám người buột miệng đồng thanh: Thuốc gì? Chỉ một câu mà làm những tám người phải tự thú lúc bình minh.
Kết thúc hội thảo người ta đi đến nghị quyết, từ này mùi hành tây ủng ủ trong đống rác nhiệt đới trước những cổng chợ được mã hóa thành thỏ lon (thỏ lon = hôi lách). Chữ thỏ lon hợp với một cô gái hồn nhiên hơn.
Rồi cô Thỏ Lon được bầu vào công đoàn. Ở cơ quan nào khác được bầu vào công đoàn là niềm vinh quang. Cô Thỏ Lon được bầu ở đây là để rèn luyện lao động và rèn luyện tính hồn nhiên. Cô rèn luyện bằng cách cửu vạn cho ông chánh và chị phó công đoàn. Đi công tác đường xa với thủ trưởng, cô nôn ọe rũ rượi trong xe hơi. Đến nơi thì anh lái xe đẹp giai phải nhảy vội đi thay quần áo vì bị cô nôn vào. Thủ trưởng thì phải mở cửa xe cho cô nhân viên, thủ trưởng phải đỡ cho nhân viên ra khỏi xe, thủ trưởng phải xách cặp xách dép cho nhân viên.
Thế rồi công đoàn tổ chức đi biển bốn ngày, đặc biệt khuyến khích đám mầm non trước khi vào năm học mới. Cô Thỏ Lon phải đối đi xe, nhưng không ai ủng hộ phương án của cô đi tàu hỏa. Đổi lại với hai mươi bốn con người trên xe phải chịu thua mình cô chịu hít bụi đường xa vì cô đòi mở cửa sổ tắt điều hòa.
Đến bãi tắm cô Thỏ Lon mới lấy lại được sinh khí công đoàn. Cô giật bằng được hai đứa con của Nghiên cứu viên Hai khỏi tay mẹ và bà ngoại của chúng. Bà già mặc áo tắm hoa cúc, tóc bạc phơ như ma nữ đầu bạc đành thả hai đứa trẻ ra, chuyển sang dắt tay bà con gái như một củ tam thất lùn chạy xuống giỡn sóng. Cô Thỏ Lon rồng rắn toàn bộ sáu đứa trẻ đi xây lâu đài trên cát, vẫn chưa thôi lẩm bẩm ra đến đây mà vẫn nhà nào riêng nhà ây thì tan cả công đoàn.

Nghiên cứu viên Hai nhìn theo vợ và mẹ vợ tâng tâng nhảy sóng, lại nhìn hai đứa con trong nhóm xây cát. Nháy mắt: Cô đúng, ra biển mà cứ mỗi nhà một cụm thì ở nhà mà cụm cho xong, còn gì là tập thể. Anh ta nói vậy nhưng không xuống tắm, vẩn vơ trên bãi tắm đầy người. Quần soóc cây dừa.

Quần soóc cây dừa ở bãi tắm là tiện nhất. Muốn tắm thì cứ thế mà nhúng, cần gì phải quần bơi. Không tắm thì cứ khô quần lang thang trên bãi biển. Rộng rãi mát mẻ, lại là quần chun dễ tụt. Chả khó khăn như quần soóc có cạp luồn dây lưng được.

Cũng vẫn quần soóc cây dừa, Nghiên cứu viên Hai quay về nhà nghỉ nhập vào nhóm tá lả. Nhóm này ra biển chỉ để tá lả, tá lả thay cho tắm biển, tá lả đến mức cứ một tiếng lại đi đổ gạt tàn một lần. Văn hóa may rủi có tá lả là đỉnh cao của một chặng tiếp sức từ chắn, tiến lên, ba cây, cho đến bây giờ là tá lả. Văn hóa bình dân bây giờ có tá lả là hình thức giải trí khắp nơi nơi. Mấy ngày ở biển, đám công chức tá lả suốt ngày tá lả thâu đêm. Mười hai giờ đêm còn bị vợ mò sang gọi về đi ngủ, Nghiên cứu viên Hai mắt vẫn không rời quân bài: Tạm ứng lúc trưa rồi, còn đòi gì nữa, về cho con nó ngủ đi. Vợ ngồi ám được hơn một tiếng không chịu nổi phải ngúng nguẩy bỏ về mách mẹ. Tất nhiên bà ma nữ đầu bạc, hay như ông con rể thường gọi là bà Bạch Cốt Tinh, cũng chỉ an ủi con gái đôi câu. Rồi bà lại chìm tiếp vào cơn mơ đang chụp ảnh trên bãi biển, chiếc áo tắm đã đổi sang màu hoa đào.

Mỗi ngày tắm biển hai lần, hai ngày là bốn lần, cộng thêm hai lần của ngày đầu và ngày cuối, tổng cộng là sáu lần. Sáu lần bà Bạch Cốt Tinh thay sáu cái áo, sáu màu sáu đi-dai khác nhau. Gã thợ ảnh bám theo bà ăn theo vào sáu lần áo tắm mười lăm kiểu ảnh. Gã cũng quần soóc cây dừa, áo phông Kiss Me đeo huy hiệu thương binh tróc sơn, gặp khách nào cũng bảo mình thuộc diện chính sách. Mấy bà bán quán thì bảo chính sách gì nó, nó có tiền sử động kinh, cả đời nó chẳng đi ra khỏi hiệu ảnh tầm nhìn xa trên mười ki lô mét, ảnh viện của nó ngay đằng sau cây dừa cụt ngọn kia kìa. Ảnh viện của gã có hai cái phông. Một là đứng che nón nghiêng nghiêng bên cây liễu Bờ Hồ, xa xa có Tháp Rùa đền Ngọc Sơn cầu Thê Húc. Một nữa ngồi ghế xích đu trước tòa lâu đài cột đá trắng Hy Lạp. Bao giờ giơ máy lên gã cũng hét như đại đội trưởng thúc quân xông lên quyết tử. Bà Bạch Cốt Tinh cũng bị gã thúc như thế. Hân hoan đi. Mơ màng đi. Âm u đi. Rồi gã cũng chẳng thèm đếm xỉa đến tuổi tác của bà, gã hét như thể với những cặp tình nhân vừa là tình cuối vừa là tình đầu. Đằm thắm đi. Lả lơi đi. Lãng mạn đi. Bà con gái thấy mẹ rộn ràng quá cầm lòng không được cũng chạy tới đòi chụp. Chụp riêng hẳn hoi một mình củ tam thất. Chỉ có một kiểu chụp chung cho mẹ khỏi phật lòng. Mọi rắc rối bắt đầu từ mấy kiểu ảnh này.

Cô Thỏ Lon và sáu đứa trẻ vẫn mải mê xây lâu đài trên cát. Trò chơi này cũng như đánh bạc, càng thua càng ham. Hôm sau ra bãi biển, thấy thành quả của mình đã bị sóng xóa sạch không còn một dấu vết, cô cháu lại hùng hục lao vào xây mới. Cô Thỏ Lon bắt đầu linh cảm rằng muốn được lòng công đoàn viên thì phải yêu con cái họ. Chuyến đi này của công đoàn mà tốt thì mới gây dựng được uy tín ban đầu cho cô.

Thằng con bé của Nghiên cứu viên Hai đang cắm những vỏ ốc trang trí cho lâu đài, bất chợt dừng tay. Nó mổ mổ con ốc giáo dài như một cái tẩu thuốc về phía ngực cô, thản nhiên đòi cho cháu sờ ti cô một cái. Thằng anh ngượng, mắng át, mày im đi. Thế là thằng bé sáu tuổi gào lên đòi sờ ti. Thằng anh đạp cho thằng em một cái, thanh minh, ngày nào cũng thế đấy, cứ năm giờ chiều là nó đòi sờ ti. Có hôm mẹ cháu bận, bà cháu đi đón thay, giữa đường nó cứ gào lên đòi, bà cháu cố đạp xe về nhà cho nhanh mà cũng chẳng được. Cuối cùng bà cháu đành phải xuống xe, che nón cho nó sờ ti mới thôi khóc. Thằng anh mới mười tuổi mà đã biết kể chuyện cho cô Thỏ Lon đỡ ngượng, khôn thế. Nhưng cô đỡ ngượng không có nghĩa là thằng em đỡ đòi. Nó dọa không chơi với cô nữa, nó sẽ bỏ đi tìm bà tìm mẹ để sờ. Nó không dọa, nó bỏ đi thật, chạy lao vào đám người chen chúc trên bãi. Cô Thỏ Lon phải chạy theo. Một lát sau hai cô cháu tung tăng trở lại. Cô Thỏ Lon thật khéo dỗ trẻ. Không tìm được bà và mẹ, nhưng thằng bé vui vẻ lắm.

Đến buổi chiều thứ ba thì hội xây nhà có nguy cơ tan rã. Củ tam thất băm bổ chay tới lôi xềnh xệch hai thằng con về. Chị ta nước mắt ngắn nước mắt dài đòi đi xe khách về Hà Nội ngay. Bà Bạch Cốt Tinh mới thay được năm cái áo tắm trong tổng số sáu áo, bà còn tiếc rẻ, bà tỉ tê mãi bà con gái mới nằm vật ra không dọa về nữa. Nhưng không cho hai đứa trẻ đi xây nhà ban ngày hát hò thiếu nhi buổi tối. Giờ ăn thì không ăn với cả đoàn. Không khéo chỉ một tay con mụ này mà công của công đoàn thành công cốc. Chánh phó công đoàn họp với cô Thỏ Lon, sau rốt cả ba người đến gặp củ tam thất. Người lớn giận dỗi gì nhau chúng tôi không cần biết, nhưng nên nhớ trong đoàn còn có trẻ con, chuyến đi này chủ yếu là cho trẻ con.

Bấy giờ củ tam thất mới sụt sùi kể chuyện. Chiều nay ở bãi tắm, gã thợ ảnh đem ảnh gã chụp buổi sách ra trả. Bà Bạch Cốt Tinh mừng rú, ảnh nào bà cũng đẹp hơn trẻ hơn. Củ tam thất thì càng xem ảnh càng tím tái cả người, chả còn chỗ nào mà tím tái hơn được nữa. Ảnh nào của chị ta cũng bị chụp hầu như ngược sáng, chỉ thấy một cái rễ cây bụ bẫm đen đen trên nền biển xanh lơ. Chị ta uất quá, dứt khoát không lấy ảnh, dứt khoát không trả tiền, mồm cứ nhai nhải ảnh xấu quá, xấu quá. Gã thợ ảnh uất hơn, ở thế cố cùng, gã quàng quạc. Mặt như mặt chó mà còn đòi ảnh đẹp. Câu này gã đã thành công rất nhiều lần với những cô gái trẻ dễ ngượng. Nhưng lần này không may cho gã. Nghiên cứu viên Hai không tắm nhưng đang loanh quanh gần đó, chen qua đám đông hiếu kỳ để xem thì hóa ra vợ mình. Một dịp tốt cho anh ta chứng tỏ tinh thần hiệp sĩ thấy sự bất bằng chẳng tha. Anh ta túm cổ áo gã thợ ảnh, chỉ dọa thôi, nhưng gã cứ leo lẻo, tao thuộc diện chính sách, tao bao nhiêu năm hy sinh xương máu, đừng động vào tao, tao mà lên cơn thì mày bỏ mẹ. Gã làm luôn. Gã trợn mắt lăn đùng ra cát, giẫy giẫy mấy cái, nhưng mồm khô khốc không sao sùi được tí bọt mép. Thấy không lên cơn động kinh được, gã lồm cồm bò dậy, đánh một đòn khác hẳn. Đừng tưởng tao đi chụp ảnh tao không biết gì, chúng mày xua vợ con ra biển, giả vờ lảng vảng ở gần rồi biến mất, chúng mày đi thuê phòng với mấy con mắt xanh mỏ đỏ một vài tiếng rồi quay lại. Cứ quần soóc cây dừa mà dễ tụt.
 
Si Tình - Phan Thị Vàng Anh

Mười một giờ đêm, khách đã bắt đầu lục đục ra về, anh và em đã bắt đầu ngáp vặt, (chúng mình thân nhau quá mà, điều này đâu còn phải là cái để gọi là “xúc phạm” nhau như hồi mới quen cách đây hai năm!).

Trình tự một buổi cà phê đã diễn ra đủ: đã kể chuyện cơ quan anh, ở lớp em cho nhau nghe, đã chửi người này, khen người nọ, xong đến chuyện hai đứa, lại giận nhau, rồi khóc, rồi xin lỗi… và đến mục kể chuyện cười, những chuyện không vui lắm cũng cười (đôi lúc, trong bóng tối, em cảm thấy mình thật giả dối, những cơ cười cứ nhệch ra cầu tài…)

Mười giờ đêm, trời bắt đầu lạnh. Anh vu vơ hỏi em tên một nhà văn nữ. Em bảo em có đọc và ái mộ lắm lắm con người ấy, đôi mắt mở to ấy… mà có lần em được nhìn thấy ngoài đời thật. Anh bảo: “Đọc truyện thấy ngồ ngộ”. Anh mà cũng đọc truyện sao? (Một lần, anh bảo: “Ghét tiểu thuyết, anh chỉ đọc sách vớ vẩn, đại loại “Bạn biết gì về cá voi” hay “Tâm lý phụ nữ”… chẳng hạn, đọc trong lúc nghỉ ăn cơm, vớ được một quyển, hay tối về, đợi giờ đến nhà em…”)… Vậy nên em hào hứng kể cho anh nghe về những gì của chị X. mà em đọc được, mười giờ đêm, em mơ màng với những cốt truyện nhân ái em yêu. Anh lại bảo: “Em về tìm lại cho anh mượn nhé!”. Và em “Vâng!”, và sự khổ sở trong tình yêu của em lại có thêm một chi tiết mới.

II.



Từ đấy, anh không quay lại nữa. Ngày hẹn, am mặc áo xanh thêu hai hàng lá đen mọi rợ, đợi anh đến. Mẹ em bảo: “Tao nghi lắm, nó luôn luôn sai hẹn!” Em cũng nghi lắm (kinh thật, sao em có thể chịu đựng được tình trạng phập phồng này trong suốt hai năm nhỉ?)… Rồi cũng như những lần trước, em nằm vật ra, úp mặt vào cái chăn lông vịt, thấy mình như chết lặng đi, em nghĩ: “Hết rồi!”

Lần này bình tĩnh hơn, em nằm xuống, vạch ra ngay trong đầu một kế hoạch sống mà không có anh, một đời sống gần như là tu hành, có điều, không có vị thần nào để em thờ phụng cả. Mẹ em bước vào phòng, dè dặt: “Con có đến cơ quan tìm nó không?” - “Để làm gì?”, em thấy, thật chẳng để làm gì. Mẹ em dè dặt mà giận: “Nó tệ quá!”, em phì cười: “Tệ gì, người ta không yêu, ép sao được!”. Ép sao được, càng ngày em càng thấy anh chủ tâm xử tệ để em đừng yêu nữa, có lẽ em cảm thấy anh tốt quá, phần “nghĩa” của em đè nặng lên vai anh quá, nếu nói trắng ra: “Thôi nhé, tôi không yêu nữa”, thì có vẻ hơi kinh, nên anh chọn cách nhân đạo hơn, anh làm những việc không ra gì để em tự quyết định… Và rồi cũng có hiệu quả, em cũng đau đớn nhận ra chuyện tình của mình gồm tám phần nghĩa, hai phần tình. Thật khốn nạn cái thân em, từ bé vẫn mơ mộng một mối tình với tám phần tình, hai phần nghĩa!

Em nằm, rứt mấy cọng chiếu ngo ngoe, mẹ em mắng: “Đừng rứt ra nữa, mấy bữa mà hư!”. Buồn cười thật, mẹ em lúc nào cũng tỉnh táo mà quan sát mọi việc, nhượng bộ em vài cọng chiếu này cũng không được sao? Nó an ủi em phần nào đấy chứ!

III.



Em cầm cái chổi lông gà đã bị bầy chó con gặm chơi hết một nửa, một cái ghế đẩu, xuống nhà phụ đựng sách. Ở đây có năm dãy kệ cao hai thước, đứng xếp hàng, mạng nhện nhiều vô kể và mái tôn hầm hập nóng. Trên kệ, vô thiên lủng tổ tò vò, một con tò vò đang cong đít bên cái tổ như cái nậm rượu, em lấy cán chổi đụng vào nó, tò vò hoảng hốt bay đi, rồi vo một nùi mạng nhện, em nhét vào cửa nhà nó. (Một lần thấy em làm thế, có điều, em nhét bằng cơm nguội, anh bảo: “Em ác quá!”. A, anh là người luôn luôn mắng em ác!)

Em đi lần lượt từ cái kệ sát tường, từ tầng dưới lên tầng trên, hắt hơi liên tục vì bụi. Trong đầu em chỉ còn một hình ảnh duy nhất là cái bìa sách có vẽ một mảng cỏ úa làm nền cho hai chữ tựa sách bằng mực đen to cộ. Sách ra đã được năm năm, em đọc đi đọc lại cũng vài lần, một tập truyện về những khu vườn, những người yêu nhau, về một ông thầy giáo già… (Em nghĩ, nếu anh được đọc, có thể anh sẽ bắt đầu một kỷ nguyên mới: Thích đọc truyện).

… Em đi lẩn thẩn giữa những hàng kệ tăm tối, ẩm mốc. Trong đống báo cũ, em nhặt được một quả trứng gà ( gà nhà em có tật xấu đẻ rơi khắp nơi), trong đầu em ngay lập tức tưởng tượng ra cái cảnh tường thuật lại cho anh chi tiết này. Em lục được một chồng hồ sơ cũ, hồi ấy chữ còn tròn trịa, chữ “g” có một cái đuôi như một cái móc tay mời gọi. Sổ nào cũng ép vài tờ thư dở dang hay vài trang nhật ký. Không phải tờ nào cũng viết về anh, em sửng sốt vì thấy rằng mình cũng có lúc đau lòng vì người này, người nọ, khi đã có anh. Em yêu mình lắm, nên em không kết cho em cái tội “ngoại tình”, em gọi là “chọn lựa”… Em chợt hoảng lên, trước khi em lấy chồng một tháng, hẳn em sẽ phải giở lại từng quyển sách trong nhà, nhặt lại hết những tờ giấy ma mãnh này và ông chồng em sẽ an tâm rằng mình là mối tình đầu!

… Thất bại thảm hại, quyển sách không có gì ở đây. Em kê cái ghế ra trước cửa phòng ngồi hóng gió. Gió không có, nắng như đổ lửa, chị em hái đậu quyên mà mặt nhăn nhăn nhó nhó, hỏi: “Tìm sách cho nó à?”. Em thách thức: “ờ”, rồi em lảo đảo muốn ngã, anh có cần lấy sách đâu, anh hỏi vu vơ thôi mà, lúc ấy khuya rồi, hết chuyện rồi, anh hỏi vu vơ thế thôi, còn em, em thần thánh mỗi lời anh nói, em cầm cái chổi lông gà xông pha vào đống mạng nhện, vào đống bụi, vì anh.

IV.



Rồi một người hiền đến với em. Tối thứ bẩy hàng tuần (sách vở như bao cặp tình nhân khác!), “Người hiền trên núi” ấy lặng lẽ ngồi ở cái bàn học của em, chờ đợi. Nếu may mắn trời mưa, em sẽ ở nhà, nếu trời tạnh ráo, em biến đi từ sớm cùng vài đứa bạn gái, để chín giờ tối về, đảo qua đảo lại vài câu rồi xin lỗi, vào buồng nằm thẳng cẳng, nghe ngoài kia, tiếng chào lí nhí và tiếng xe buồn bã lùi xa. Một lần, tụi bạn mách em, anh đi đâu ngoài phố, với một thằng bạn trai, anh phóng xe như bay, đẹp lắm với cái đầu vô cùng lạ mắt. Tụi bạn an ủi: “Thứ bẩy mà đi chơi với bạn trai, chắc là chưa có bồ mới!” (Trời ơi, tụi nó vô tình nhắc lại thói quen của hai ta, anh và em căm ghét ngày thứ bẩy, nó chật chội, đông đúc, ai cũng như ai. Và em trọn ngày thứ Tư làm thứ bảy để hẹn hò).

… Tối thứ bảy đó, em nằm nhà. Người hiền kia lại đến, gõ lạch xạch vào cái cổng tôn han rỉ phủ đầy tigôn rồi lí nhí mời em đi “uống nước”. (Anh ấy không dám dùng từ “cà phê”, sợ rằng sẽ xúc phạm em. Tội nghiệp!). Em ngồi sau xe, thẳng đơ, hai tay khoanh lại, ngửa mặt nhìn trời. Hai bên đường là đất mờ mờ ánh trăng, xe đi ngang vạt đất trồng vạn thọ, em hít thở hương hoa hồng ấy mà ứa nước mắt. Em bảo: “Đừng đi xa, mệt lắm rồi!”. Vào một quán nước bé tí, ghế mây thấp lè tè trên nên cát sỏi sạch sẽ, một anh chủ quán bé tí ưỡn ẹo đi ra, hỏi: “Anh chị dùng chi?”, anh bạn lại quay sang lịch sự: “Em dùng gì?”, em cáu tiết: “Cho bình trà!”, rồi em lấy tay ôm mặt, trong cái tư thế bất lịch sự ấy, em ngồi, nghe một người đang chịu đựng em, như em đã chịu đựng anh, như anh đang chịu đựng ai (biết đâu!), và cũng biết đâu, có một đứa con gái hiền lành đang chịu đựng anh bạn ngồi cạnh em bây giờ! Luẩn quẩn, em tưởng tượng ra một cuộc rượt bắt vĩ đại, em thấy mình mệt quá rồi, thấy mình ngu dại, sao không quay lại mỉm cười với cái người đang đuổi mình, rồi cả hai sẽ cùng nghỉ mệt dưới một bóng cây, như cây xoài ở cái quán này chẳng hạn.

V.



Đến lúc này, em đã có người yêu mới, một người làm em thanh thản đến mức có thể ngủ quên đến tận giờ hẹn mỗi tối thứ bẩy, nghe tiếng gọi cửa, em bật dậy cười thầm: “Thế này sao gọi là yêu?”. Một người thật đến độ em không nỡ nói dối. Anh sẽ hỏi: “Còn nhớ không?”, nhớ lắm chứ, nhớ đến phát điên. Cơ quan của anh, căn nhà quét vôi hồng ấy em không dám đi qua lần nào, em đi học bằng một nẻo vòng vèo khác, ngang qua một khu chợ nhỏ, có một anh giữ xe đạp mắt lác vẹt đứng căng dây từ tờ mờ đất, qua một trường cấp một, trẻ con buổi sáng mắt nhắm mắt mở, khăn quàng xộc xệch đến lớp… Em đi cái đường vòng vèo ấy, xa xôi cốt để cho anh không phải thấy mặt, để anh không bị ám ảnh bởi cảm giác có một đứa theo đuổi, làm phiền.
 
Có con - Phan Thị Vàng Anh

Về đến nhà thì cũng đã mệt rã rời. Tuyền dù có tắm nước lạnh, uống trà dược thảo, bật cả hai bóng đèn cho sáng loà cái phòng con, thì cũng không thức được. Tuyền chui vào giường, tự nhủ, thì đi ngủ. Mình sẽ chỉ như thế này hai năm nữa thôi, rồi sau đó sẽ chỉ làm những gì mình thích, còn bây giờ thì ngủ.

Trong giấc mơ, Tuyền thấy mình đi chơi với Khang. Tỉnh dậy nhớ lại cũng vui vui. Phải đến một năm rồi họ không gặp nhau, kể từ khi khai trương cửa hàng Tuyền làm việc. Tuyền không phải đợi lâu. Ngay chiều hôm sau, Khang gọi. Khang nói, Khang nhớ Tuyền, và muốn đi chơi. Tuyền cũng không tin vào câu nói này nhưng thấy cũng chẳng thiệt hại gì mà không nói : "Đêm qua Tuyền cũng nằm mơ thấy Khang!". Đến lượt Khang, chỉ trong điện thoại, cũng không giấu nổi vẻ nghi ngờ. Hai người ăn một bữa ăn cảnh vẻ và nhạt nhẽo trong một quán Huế. Lúc lấy xe, Khang hỏi: " Bây giờ mình đi đâu?". Tuyền hỏi lại:"Khang muốn mình đi đâu?". Ngoài đường, các phố đã ngập đầy nước. Mưa vẫn chưa dứt nhưng nhỏ hạt lại. Trong lùng bùng áo mưa, Khang nói, Khang muốn về nhà thay quần áo. Họ đi về nhà Khang.

***

Tuyền nói, chúng mình ẩu quá, coi chừng Tuyền có bầu. Đèn đường hắt vào cũng đủ soi cho Tuyền thấy Khang cười âu yếm: "Thì chúng mình nuôi nó!", rồi Khang sửa lại: "Khang nuôi!".

Tự nhiên Tuyền thấy thật là tình nghĩa khi nghe Khang khẳng định như vậy. Tuyền đi lấy khăn lau mặt cho Khang. Khi cái khăn chạm đến, Khang chợt rùng mình như muốn né. Khang không quen nhìn Tuyền như thế, Khang quen nhìn Tuyền lạnh lạnh, khó hiểu rồi.

Họ nằm, nhìn lên trần nhà và nhắc lại những câu chuyện từ cách đó 10 năm, lúc mới vào đại học. Đó là những câu chuyện lần nào gặp cũng nói và đã chết cứng lại rồi, nhưng kẻ hứng, người tung, còn có đối thoại. Bây giờ, Tuyền nghĩ, lại có thêm một câu chuyện để cùng nói. Tuyền nhắc lại: "Nhỡ đâu Tuyền có bầu?..." - "Thì chúng mình cùng nuôi!", Khang vui vẻ lặp lại.

***

Tuyền thấy mình quan trọng hẳn và tự nhiên thành mỏng manh. Tuyền thấy mình bước đi có hơi chậm lại, và mắt khi nhìn có dịu đi. Tuyền bỏ uống kháng sinh, dù còn phải uống tới hai ngày vì Tuyền đang viêm họng, bài học vỡ lòng cô gái nào cũng biết là không nên uống thuốc khi đang có bầu. Tuyền cũng bỏ đi chơi đêm, sợ về cảm lạnh. Nghe nói ba tháng đầu bị cúm là quái thai.

Bây giờ, Tuyền chỉ nghĩ tới đứa trẻ. Tự nhiên, Tuyền nghĩ nó là con trai. Có thể vì Tuyền thích gương mặt Khang, với mũi dài và mắt xếch. Cũng có thể vì suốt 10 năm, chưa bao giờ Tuyền chắc Khang thuộc về Tuyền, nên một đứa con sẽ là một sợi dây ràng buộc, mà con trai ắt dây phải chắc.

Tuyền không đợi nhưng Khang cũng không gọi lại. Vả lại, Tuyền nghĩ cũng hơi sợ, gọi lại thì nói cái gì bây giờ, có bao nhiêu chuyện thì hôm nọ nói cả rồi. Nhưng Tuyền định sẽ có hôm Tuyền nói, Khang đừng lo, Tuyền nuôi con một mình. Chỉ cho Tuyền xin con được mang họ mẹ. Cái mà Tuyền mong chờ, cuối cùng, rất mơ hồ, là Khang phản đối. "Con Khang là của Khang!", Khang sẽ sừng sộ. Rồi Khang sẽ đưa Tuyền đi siêu âm. Khang sẽ đi sau Tuyền khi Tuyền bước lên cầu thang. Khang sẽ chở Tuyền đi làm vào những buổi sáng Tuyền gọi điện than mệt. Cả cơ quan sẽ phải xì xào trước cái bụng mỗi ngày mỗi lùm lùm. Tuyền sẽ không khai ra cho đến một hôm chỉ vào Khang hào hoa: "Bố của con em đó!"... Tưởng tượng đến khúc ấy thì Tuyền chán oặt cả người. Không, Tuyền muốn bí ẩn mặc áo bầu, Tuyền muốn mọi người tức tối khi Tuyền không chịu nói đó là con ai. Nói ra, câu chuyện đã khép lại.

***

Nhưng Khang vẫn không gọi lại. Tuyền đi qua cái điện thoại và hơi thắc mắc, có nên gọi cho Khang không. Nhưng nói cái gì ? Tuyền không thể rủ Khang đi chơi. Tuyền thích mắt Khang cười, thích gia cảnh Khang, thích ngồi sau xe Khang đi ngoài phố cho mấy cô nhìn nhìn, nhưng phải đi chung, đi riêng thì gượng gạo. Tuyền cũng nhớ là mình chưa bao giờ lo cho Khang. Có vẻ như khó khăn nào Khang cũng thoát ra được, không phải bằng tài khéo, không phải bằng thông minh, mà bằng sự vô tâm. Khang vô tâm nên không có gì chạm đến Khang được. Cho nên Tuyền thắc mắc, có con rồi, Khang có yêu con không?

Tuyền sẽ yêu con như thế nào, Tuyền chưa biết. Tuyền vào cơ quan họp, nghe các chị bàn chuyện con cái mà tò mò. "Có con thì sao, có vui không?", Tuyền hỏi. "Vui lắm, nhưng mà cực. Cỡ em không biết có chịu nổi không!". Tuyền nghĩ, chịu nổi chớ. Hai mẹ con tôi ở với nhau. Buổi chiều mẹ qua nhà trẻ đón con ra, con mặc quần áo toàn bằng vải trắng, đi giày đỏ ; mặc thêm một cái gi-lê cho ấm, đội cái mũ có quai vào, đeo khẩu trang và cầm bong bóng, hai mẹ con mình về... Tuyền đi vào nhà sách, thấy bán cuốn dạy chăm sóc trẻ con. "Vừa nhấc bé bạn vừa phải nựng nịu bé ", hình minh hoạ có em bé nằm ngo ngoe cười. Trong sách, người ta chơi với trẻ con, tắm cho chúng, cho chúng ngủ... như với búp bê. Nhưng khi chúng bệnh hay khóc lóc chắc không ai chụp ảnh. Những lúc đó, những lúc khó khăn đó, Tuyền khựng lại... Tuyền không thể một mình. Tuyền muốn gọi cho Khang: "Nếu Tuyền có con, Khang có phiền không?". Rồi Tuyền thấy việc đó vô ích quá chừng, Khang sẽ nói, không có chi, chúng ta sẽ nuôi, rồi lại im lặng không gọi điện thoại, biết đâu không gọi cả lúc "con chúng ta bệnh?".
Tuyền không chắc đã có đứa bé trong bụng chưa nhưng tình cảm dành cho nó đã bắt đầu phai nhạt. Bây giờ thì Tuyền không chắc mình có còn yêu đứa bé không nếu không có bố nó bên cạnh và chỉ còn nó như một cục nợ.
 
TRONG GIANG SAN CỦA NỮ THẦN BẤT HẠNH
(Nel regno della dea sfortunata)


-"Nữa đi, ba nghiền nữa đi, gắng lên", Bích Vượng nhắc nhở với vẻ nghiêm trang.

-" Bà không thấy là nó nhuyển như bụi đây sao?"

Teresa cáu kỉnh gắt và nghiền mạnh những hạt mè rang, thỉnh thoảng chị ngừng tay, châm một điếu thuốc và nhìn về cửa sổ.

-"Tại cái tật làm biếng của bà chiều nay chắc phải tom góp hết mấy cái tăm xỉa răng mới đủ xài".

-"Rồi sao chứ?" – luôn muốn dứt chuyện nên Teresa trả lời – “Mấy cây tăm thơm mùi quế sẽ làm thiên hạ thích thêm thôi”.

Bích Vượng tiếp tục chăm chú công việc của mình, cô cắt thái nhanh chóng với vẻ thành thạo. Khúc dồi chả đã được thái từng lát hồng mỏng dể dồn vào một phía, ớt ngọt đỏ thắm đã đươc cắt sợi nhỏ và dưa leo xắt hình hạt lựu nằm chùm nhum một nhóm màu xanh phấn.

Một tia nắng mong manh soi nhẹ trên bếp lò có nồi nước lèo đang reo sôi.

-“ Vặn lửa nhỏ một chút đi bà, sẳn đó, bà đưa giùm tui một nhúm ngò rí”.

-“ Cái gì, ngò rí hả? Bộ bà khùng sao? Bà biết là Giovanni không ưa ngò rí mà. Thôi, để ngò tây đi bà”.

-“ Chắc chắn không được rồi. Món nầy phải bỏ ngò rí mới xong”. Bích Vương nói như phán quyết.

Teresa bực bội, cô đốt thêm một điếu thuốc khác.

-“ Bà làm ơn dẹp giùm cái mùi khói thuốc nầy được không? Bộ bà tưởng tốt lắm sao”

Cô gái nghiện thuốc không ừ hử chi hết, cô bực mình yên lặng.
Chuông đồng hồ treo thong thả gỏ 9 giờ.
Đã hai giờ họ ngồi bên bếp lữa. Ngày Tết năm nay đến muộn.
Bích Vượng hứng chịu sự cáu kỉnh của cô bạn cũ, nàng khẽ nhếch miệng. Với giọng hòa hoản, nàng hỏi:

-“ Sao? Bà có dự định gì cho năm Dậu chưa?

Teresa nghỉ ngợi một chốc:

-“ Chưa biết bà ơi. Ngoài vấn đề sức khỏe và một công việc tốt, tui đang tính chuyện đổi nhà. Nhưng việc nầy không phải là một dự định mà là một ước mơ. Còn bà, bà chờ đợi cái gì vậy? Nhưng khoan nói đã, tui biết rồi, một chuyến về thăm quê nhà chứ gì. Chỉ duy điều nầy mới làm bà hạnh phúc thôi!”.

-“ Ồ hay, tui đang hạnh phúc đây mà....” Bích Vượng sắp xếp cẩn thận những lát chả vào một mâm nhựa màu đỏ đã được trải sẳn vài lát xà lách tươi xanh. Xong cô bày trí những sợi ớt đỏ ngoài vành, cho những thỏi dưa hình hạt liên kết hình vòng, tất cả tạo thành một đóa hoa lạ lùng ngộ nghĩnh. Đúng là vừa đẹp mắt nhìn lại sẽ vừa ngon miệng ăn.

Một vườn hoa đầy hương sắc. Nó hao hao giống chiếc bàn ăn của những buổi ăn Việt Nam luôn được coi trọng. Và nơi đó, người phụ nữ được coi như nội tướng của mọi gia đình người Việt, dù bất cứ ở đâu và là là gì đi nữa lúc nào họ cũng là tác giả duy nhất của công trình mỹ thuật đó.

-“ Năm của con gà gổ...là năm của quyền lực và đam mê, ông bà xưa nói vậy đó. Quyền lực thì tui không quan tâm rồi vì đó là trò chơi của bọn đàn ông, còn lửa đam mê, ha ha..., ở tuổi của tui, tui thích chuyện lâu dài hơn yêu đương lẩm cẩm bà ơi. Lửa dù có cao rồi cũng tắt, giữ sao cho than hồng mãi còn khó hơn khêu chăm cho bùng ngọn lửa đó nghen bà.” Bích Vượng tiếp tục cao giọng nói lên cảm nghĩ của nàng.

-“Bà đúng là Đoàn thị Điễm thời nay thôi, bà chắc là có quan niệm rõ ràng rồi. Bà moi đâu ra nhiều triết lý vậy ? Teresa giận dỗi nói, cô nàng vừa mới đọc xong một quyễn sách nói về các nữ thi sĩ Việt Nam. Cô cười, tiếp:

-“Nhưng nè, bà có biết là bà Điễm viết tuyệt phẩm thơ của bà chỉ khi gần cuối cuộc đời không, khi mà chồng bà, một quan chức của triều đình phải đi công cán xa nhà?

Thiệt tình nghen bà, những người vợ, người mẹ họ đâu có rảnh để làm thơ. Ngay cả cho chính bản thân họ, họ cũng chẳng có thì giờ để lo nữa. Nhưng bà có biết là bao nhiêu thời gian bọn đàn bà chúng mình lảng phí vào việc dọn bàn ăn rồi dẹp bàn ăn, rồi nào nấu nướng, lau rữa, quét dọn không ?”

-“ Không phải là thời gian phí phạm đâu bà. Đó là chức vụ. Một việc làm của yêu thương cùng chung góp cho gia đình”.

-“ Trời đất ơi, tui không thể tin nổi bà. Sao bà có thể nghĩ như vậy được chứ. Bà có biết là bao nhiêu lần bọn mình bắt đôi tay chúng ta phải rữa chén bát, nồi, niêu, soong chảo, muổng nĩa, lọ muối, lọ dầu, lọ tiêu, dao, thớt, máy xay giặt từng cái khăn bàn, khăn ăn...v.v..và v.v..?Tui tính thử rồi, sơ sơ cũng đâu khoảng 1950 lần trong một năm.”

“Ừ hén, đó là bà chưa kể bao nhiêu cây số mà bọn mình chạy từ bàn ăn xuống bếp, từ bếp qua nào là bồn rữa chén, bàn ăn, tủ chén, v.v..và v.v.. Và nào ăn sáng, ăn nhẹ cho tụi nhỏ; rồi trà, cà phê mỗi khi có dịp phải làm. Và còn phải lo ăn cho bà nội, bà ngoại vì nội, ngoại già rồi, đi đứng không vững vàng, thiệt là tội nghiệp quá đi thôi, phải cần có người phụ giúp trong phòng nữa chứ?

“Tui biết điều đó mà, tui cũng đã tính luôn mấy thứ ấy vô rồi: cở chừng 21 lần di chuyển mỗi ngày, chung chung cũng hết 7665 lần mỗi năm.”....

“Để tui tính với. Tui lập gia đình đã 20 năm. Vậy gần 200.000 lần xê dịch, ha ha..ha., ít ra cũng giữ eo được đó chứ bà”

“Nếu tụi mình khiên dời gạch dám sẽ xây được mấy cái giáo đường lắm chứ bộ, bà thấy ghê gớm chưa? Như vậy ít ra tụi mình cũng được người đời sau thừa nhận công sức của mình. Nhưng trái lại chằng ai thấy gì hết, tất cả chỉ là phận sự phải làm thôi. Không có xây dụng cái giống gì cả và ngày mai bọn mình lại phải lập lại mọi thứ. Vậy mà bà nói rằng bà hạnh phúc....Hứ, chỉ có duyên cớ để đưa đến suy nhược khủng hoảng mà thôi, ngoài ra, bà há chẳng nói với tui rằng dân của bà kêu cái bếp là “giang san của nữ thần bất hạnh” hay sao?

“Thôi đi bà ơi, ít ra hôm nay bọn mình phải hài lòng vì chuyên bếp núc chứ. Cơ hội quan trọng như vầy, lại toàn bạn thân tình và có thêm mấy cọng ngò rí hiếm hoi nữa nè, rồi bà coi tụi mình chắc chắn sẽ cho mọi người ăn no thỏa thích đó”

“Ai biết được tại sao ngò rí bị chê? Dân Ý tụi tui loại như vậy thiệt tình không thích”.

“Có gì lạ đâu, dân Việt tụi nầy thuờng cũng đâu ưa gì phô-mai, cả sô-cô-la cũng vậy nữa”.

Teresa đặt nồi nước lên hỏa lò đang cháy và đóng cửa sổ lại.

Nữ thần bất hạnh là Thị Nhi ngày xưa. Chuyện cổ tích Việt Nam thuở nào đựơc truyền khẩu kể về số mệnh đời nàng: vì lý do lắm nhiêu khê thầm kín, người đàn bà siêng năng, cần cù nhẩn nại đó là nạn nhân của một thảm kịch đã chết đau thương trong lửa đỏ cùng với hai người đàn ông mà nàng yêu quí, chàng thợ mộc Trọng Cao và anh thợ săn Phạm Lang. Tại những vùng quê ở Việt Nam mãi đến nay vẫn còn tương truyền rằng Ngọc Hoàng Thượng Đế trên trời cao, cai quản luôn cả thế giới đất và nước, đã động lòng trước tình vợ chồng cao thượng của 3 người nên muốn những nhân vật lịch sử đó - những người đã biết yêu thương thật lòng - trở thành những vị thần thánh thiện trong mỗi nhà. Những phụ nữ Việt Nam cũng như bếp lửa sẽ được họ luôn luôn bảo vệ, bếp lò lúc nào cũng là trọng điểm của người nội trợ trong gia đình. Cho đến lúc gần đây , trong bếp của người Việt, sự hiện diện của những hỏa lò với 3 chân trên để nấu cơm hàng ngày và bếp lò đó cũng tượng trưng cho 3 vị thần của huyền thoại: Phạm Lang là Táo quân; Trọng Cao coi sóc đất đai mùa màng, bảo vệ tài sản của cải cho gia chủ; riêng Thị Nhi, được gọi là bà Mẹ Sanh Mẹ Độ giữ phần lo việc đất đai sản xuất, trồng trọt, sanh sản và ấp ủ thi hài thân xác những người trong nhà khi họ chết.

“ Lạnh quá !”- Bích Vượng quấn chiếc khăn quàng nhung tím lên cổ - “Khí hậu thiệt chịu không nổi, hơn 20 năm nay tui tìm đủ cách để tập cho quen. Nghe nói ở xứ tui Tết thiên hạ đi ra ngoài với áo ấm nữa chứ”.

Rồi dìm chiếc muổng vào chén nước mắm nàng bắt đầu khuấy đều. Và chợt như có mủi kim găm đâm nhẹ, một mủi kim nhỏ thôi, dường như chẳng nghĩa lý gì nhưng nó đủ sức đâm thẳng vào tim nàng làm sống dậy một nổi u hoài, nổi niềm hoài vọng cố hương.

“Bên nhà” giờ nầy đồng bào nàng hẳn đã chuẩn bị đón Tết từ hơn nữa tháng rồi. Những cành đào đầy hoa tươi cười khoe sắc thắm được chở từng bó trên xe đạp, xe xích lô; những ngọn đèn đường thắp sáng và những ánh hoa đăng lóng lánh trên những hàng cây dọc dài trên bờ hồ Hoàn Kiếm; pháo đì đùng nỗ; tiếng rao bán vang khắp nẽo trên 36 phố phường hòa trong tiếng ca của các thiếu nữ. “Vào đây cậu bé, vào đây và hảy tặng tôi một bức họa của Đông Hồ”....Ngày đầu năm mới cũng là ngày chờ đợi của giới trẻ, xác nhận thời điểm chinh phục, tán tỉnh nhau, lúc mà các cô gái có thể bạo dạn tìm người trai mà họ thương để bày tỏ cảm tình, bỏ lại thật xa mọi lề luật buộc ràng trong năm của giáo điều Khổng Mạnh. Những người không còn trẻ cũng ưa thích thời điểm nầy. Gia đình quần tụ đầy đủ trên bàn ăn dọn sẳn, từ thành thị đến thôn quê đâu đâu cũng thế. Tất cả đều đông dủ chẳng thiếu một ai. Kể cả người quá cố.

Teresa bắt đầu dọn bàn, sắp đặt các bộ đồ ăn, tính luôn cả cho người chết. Đây là lần thứ ba cô tham dự một cái Tết Việt Nam, vậy mà cô vẫn không hiểu được những nghi dụng đó.

“Chuyện mấy người chết nầy....thiệt tình mình không sao hiểu nổi”, cô lầu bầu nói.

Bích Vượng không chút chần chừ nói ngay:” Mặc dù họ sống ngoài tầm không gian với mình nhưng rồi bà coi họ sẽ đến đúng hẹn, lúc nữa đêm ấy mà. Không gì tốt đẹp hơn khi chúng ta đón tiếp linh hồn những người quá cố ngay chính trong nhà mình. Trái đất đêm nay sẽ đầy dẫy những hồn thiêng”, cô thở phào.

Đã hàng nghìn năm rồi, người Việt luôn tái lập điểm hẹn của họ với những người đã mất và Bích Vương như thường niên đã bày biện mọi thứ khá sớm. Cô làm tổng vệ sinh nhà cửa, lau chùi đánh bóng sàn nhà, phủi bụi mọi vật dụng trên tủ bàn –ngay cả những tượng thạch cao nứt nẻ theo thời gian của ba ông Phúc, Lộc, Thọ. Cô cũng đã trương đôi liễn đối ngay cửa ra vào, ngâm một mớ cỏ thuốc làm rượu và mua đầy đủ vật liệu để làm bánh chưng. Cô còn tìm được trong tủ một khăn bàn bằng gấm Vạn Phúc tuy cũ nhưng rất còn rất đẹp trang trí bằng hai màu đỏ, vàng. Chỉ còn thiếu pháo mà thôi và theo tục lệ thì pháo dùng để trừ tà ma, yêu quái. Nhưng Bích Vượng không thích pháo, cô vẫn cho pháo là thứ nguy hại, vả lại – cô tự chống chế - ngay cả chánh quyền Việt Nam mấy năm gần đây cũng đã cấm việc xử dụng nầy, viện lý do đa số tai nạn Tết mỗi năm từ pháo mà ra.

-“ Tụi mình hy vọng năm nay Danh không dẫn theo cô bồ xí xọn của chàng ta đến. Người sao mà khó ưa quá chừng” - giọng than phiền của Teresa kéo Bích Vượng rời xa giòng tư tưởng riêng tư

-“ Chẳng sao đâu. Hôm nay là ngày không gây gổ, chẳng bình phẩm, người mình nói vậy đó”.
 
Vậy thì..phải có nhạc mới được” – Teresa lần nầy không cự nự nữa, cô vặn máy âm thanh nổi và phút chốc căn bếp nhỏ ngập tràn những âm thanh nhạc cổ, truyền thống của Việt Nam. Tiếng chiêng, tiếng trống tay, trồng thùng, tiếng phách và điệu thánh thót của Đàn Bầu, tất cả đưa Bích Vượng về một thời quá khứ xa xôi, cái thuở mà mẹ cô có lúc vừa cười vừa bảo nhỏ với cô rằng con gái không nên nghe tiếng độc huyền cầm đó vì bà muốn con mình không bị giao động bởi tiếng đàn đầy ma lực kia. Một lần nữa Bích Vượng lại chập chờn trong những ký ức khó quên, nào cha mẹ, nào bà nội, người mà nàng đã sống cận kề suốt tuổi ấu thơ, và cả ngôi nhà cổ kính của ông cố nàng nữa. Đó là một ngôi nhà khá lớn, được xây trên trên một thửa đất với những tàn cây ăn trái và những hàng dừa. Nàng thích làm sao những hàng dừa xanh ấy! Cạnh đó một con lạch nhỏ với những chú cá đỏ bé tí ti. Nội nàng xây một sàn nước bên bờ hè cạnh con lạch, đó cũng là nơi chốn cố hữu nàng chọn để chơi đùa. Nhà có một vuông sân rộng được bao quanh bởi một hàng rào lá xanh có những cụm hoa hồng thắm, trong sân là một vườn hoa ngạt ngào hương sắc. Nàng nghe chừng như thoang thoảng đâu đây còn mùi hương “hoa sáu giờ”, nói như vậy vì mỗi ngày khi trời vừa chạng vạng tối, loại hoa nầy luôn tỏa một mùi huơng nồng dịu. Một cổng sắt cao chắn lối tất cả với bên ngoài, có những dây leo bám quấn quít dầy đặc như một bức màn màu xanh, phủ kín không cho những đôi mắt suồng sả bên ngoài nhìn vào. Vốn yêu thiên nhiên nên Bích Vượng yêu mến khu vườn đó như yêu chính bản thân mình. Nàng nhớ rõ sự phấn khích của mình khi nhìn từng cánh lá non hé nụ cũng như ngây ngất với hương thơm của từng đóa hoa xinh. Ánh trăng dịu ngọt trên nền trời trong tỏa ngát sự thanh thả trong tâm hồn cô gái, từng cơn gió nhẹ từ lạch nước mơn man thổi cho nàng nghe thoáng mát giữa bầu không khí oi nồng lúc đó. Mỗi sáng khi vầng dương chưa ló dạng nàng đã thức giấc với tiếng chim ríu rít bên ngoài như lờichào mời một ngày mới bình an. Và khi chiều xuống, nàng nghe tiếng chuông ngân từ ngôi chùa gần nhà vang vọng, hòa lẫn trong mùi nhang thơm mà nội nàng đang thắp trên bàn thờ Phật. Những ngân vang đó, hương trầm đó, tất cả dìu nàng vào giấc ngủ êm mơ, những giấc mơ con gái. Đơn sơ và đẹp vô ngần.....

Giờ đây mọi thứ đã xa xôi, xa nơi chốn và xa cả thời gian, nàng se thắt lòng khi nghĩ đến những thiếu vắng thân thiết kia không còn cơ may tìm lại được. Torino, thành phố nàng đang ở, nơi đây cũng có giòng sông, có công viên tươi thắm với hoa ngàn, cây cỏ, chim muông nhưng đâu rồi thời thơ ấu của nàng, đâu rồi nơi chốn yêu thương?Và ai, ai có thể trả lại cho nàng một thời quá khứ xa xưa?

Teresa lúc đó đã thấm mềm bánh tráng để làm chả giò, cô nàng phàm tục cất tiếng cắt ngang làm đứt đoạn luồng tư tưởng của nàng:”Thiếu cà rốt rồi bà ơi”.

Bích Vương quay nhìn bạn bằng đôi mắt vô hồn.

“Tui biết rồi, để tui đi mua, nhân đó mua luôn ngò tây thay cho ngò rí”.

Tức khắc, Bích Vượng trở về cùng thực tại. Tiếng cô nghe chắc nịch:”Ngò tây à, không được. Phải là ngò rí như dân tui thường làm, không có gì thay thế được cả”.



H Ế T
 
Cửa Sẽ Mở - Ðặng Thị Thanh Hương

Mười hai giờ mười phút tầu sẽ chạy. Tôi gập người qua cửa sổ níu Thành. Tàu vẫn chạy và Thành lùi lại phía sau. Sân ga nhoè ướt. Vậy là xa rồi. Tôi nghĩ chắc không có ngày gặp lại Thành. Với Thành, tôi chỉ là một dấu chấm mờ nhạt trong đời anh. Một ngày mệt nhoài trên tàu, tôi về đến nhà. Phố thị hiu hắt dưới ánh đèn vàng. Năm năm xa nhà, bây giờ là lúc phải trở về, bố tôi bảo thế. Vừa ra tới trường lớn, năm sáu người đàn ông xúm vào: "Mời cô", "Em gái về đâu, anh chở nào ...". Tôi chọn một người đàn ông già nhất, lên xe. Mười phút sau, tôi đứng trước cửa nhà. Cây bàng lá rụng đỏ ối dưới gốc. Tôi chợt thấy bồi hồi, những kỷ niệm thời còn trẻ ùn về. Dưới gốc bàng này, lần đầu tiên tôi nói về ý nguyện đi xa. Năm đó tôi vừa bẩy tuổi. Bố và mẹ chạy ra đón. Căn nhà xưa rộng thênh và buồn. Mọi người trong nhà đi xa cả. Tôi đã trở về sau một chặng thời gian dài đủ để xăm xoi kiếm tìm. Nhưng kiếm tìm mãi vẫn chẳng thấy gì cho mình. Các cơ quan nhà nước ở Hà Nội không còn chỗ chen chân. Tôi một kỹ sư hoá đầy triển vọng, cuối cùng phải đi làm ở vài công ty trách nhiệm hữu hạn do Thành giới thiệu. Hết thư ký văn phòng đến xử lý phần mềm máy tính, những tài năng của tôi vẫn không được khởi động. Thế là chán. Tôi nhớ, đại thi hoà W.Sếchxpia nói một câu theo kinh thánh đại để: Hỏi đi, sẽ được trả lời. Tìm đi anh sẽ thấy. Gõ đi, cửa sẽ mở. Tôi đã hỏi, đã tìm, đã gõ đến hàng chục nơi mà trước mặt vẫn im lặng. Tôi hoang mang. Hình như Sếchxpia cũng nhầm khi tin vào Ðức Chúa. Vậy là tôi phải trở về. Từ bỏ cái ước mộng thân cư thiên di như trong lá số tử vi của tôi. Thế mà 25 tuổi, tôi vẫn chả làm nên cơm cháo gì. Thành bảo: "Em không cần đi làm cũng được, tụi mình cưới nhau, em ở nhà sinh con, thế là xong ...". Tôi cười: "- Vậy các công thức hoá học em cho vào máy giặt để quay cùng tã lót à?". Thành chép miệng: " - Ðàn bà mà nhiều tham vọng là rất dở!". Tôi đành chấp nhận thiếu một chút chức năng thiên phú và có lỗi với Thành. Tôi trở về quê mang theo tình yêu đầu tiên trộn lẫn vào các công thức hoá học. Thế là mất nhau. Nhưng tôi sẽ được một cái gì khác, có lẽ lớn hơn tình yêu của Thành. Thành cay nghiệt? - Anh cũng tin như thế! Bố xin cho tôi vào sở công nghiệp tỉnh. Buổi đầu tiên đi làm, trên bàn viết của tôi có một lọ hoa hồng rất đẹp. Mà kiếm được những bông hoa như thế ở xứ sở nhà thật khó. Ðãng trạc ba mươi tuổi, là trưởng phòng của tôi: - Ngày mai cô xuống nhà máy đường rượu. Cái thằng cha này mấy năm nay làm ăn đì đẹt quá, cô tính cách nào tăng chất lượng lên nhé. Ngồi một ngày chưa yên trên văn phòng có bình hoa hồng Ðà Lạt quí hiếm ấy, tôi lại lóc cóc đạp xe lên đầu tỉnh. Thị xã nhỏ và dài. Những con đường đều tăm tắp, hun hút mà chẳng thấy sự dọc ngang như những vùng đất khác. Tôi đã đọc một câu thơ của ai đó: Thị xã nhỏ như bàn tay con gái Chiều xưa vuốt tóc diệu kỳ ... Khốn khổ, thị xã của tôi mà nhỏ nhắn giống một bàn tay cô gái như cái anh chàng thi sĩ kia ví von thì không đến nỗi. Sáng sáng, chiều chiều tôi đạp xe hơn mười kilômét đến nhà máy. Những đống mía khô quắt chất đầy sân. Giám đốc Lân bảo tôi: - Khó khăn lắm anh ạ. ở đây người ta không trồng mía. Phải cho công nhân đi thu gom từng nhà, chất lượng rất kém. Ðó, cô nhìn đống mía ngoài sân thì thấy, giống mía này cứng và ít đường. Mấy năm trước, đường của nhà máy còn tiêu thụ được. Giờ đường Trung Quốc tràn về, thế là hàng nhà máy tồn lại. Kể ra ông Lân nói cũng có lý. Từ khi khai thông biên giới Việt - Trung, tỉnh tôi là nơi địa đầu. Khắp khu chợ toàn hàng tầu. Từ quần áo, giầy dép đến đường, bánh kẹo, hoa quả thôi thì đủ loại. Hàng Tầu giá thành rẻ và hình thức đẹp hơn. Thời buổi mở cửa, dân thấy cái gì kinh tế hơn thì dùng. Ai hơi đâu để ý đến sự tồn tại của một nhà máy. Tôi ra chợ mua một túi đường Trung Quốc. Ðường Tầu trắng và nhỏ hạt. Giá chỉ có sáu nghìn một kilôgam, trong khi đó giá thành cân đường của nhà máy riêng nguyên liệu lên tới bảy nghìn năm trăm đồng. Tôi đóng cửa nhà ba tuần, miệt mài với công thức được học trong trường. Pha pha, chế chế rồi tôi cũng tìm được cách lọc bớt những tạp chất trong đường của nhà máy làm ra. Nhưng để hạ được giá thành cạnh tranh thị trường thì tôi chịu. Tôi gọi điện cho Thành, Thành cười phá lên: - Em có bị dở hơi không? Thời buổi này người ta lao vào kiếm tiền. Mặt hàng nào có lợi nhuận cao nhất thì kinh doanh, hơi đâu mà phân tích với chả cải tiến. Ngốc ạ, dẹp đi với anh. Anh đang có dự định làm ăn lớn đây. Trông vào cái nghề mình có mà chết đói ... Tôi cúp máy, lặng lẽ nhớ lại Thành mấy năm về trước. Anh luôn là sinh viên xuất sắc của khoa. Anh say mê đeo đuổi những công trình của mình. Cái gì làm Thành thay đổi đến thế? Tôi đành mò mẫm một mình. Công việc bù đầu, tôi cũng vơi đi nỗi day dứt về Thành. Tôi đem dự án trình Sở và ban giám đốc nhà máy. Ông Lân vỗ đùi: - Cô giỏi lắm. Vậy mà chúng tôi không nghĩ ra. Hai tuần tôi và ông Lân chạy khắp nơi, hết vào uỷ ban tỉnh lại tiếp cận ông giám đốc Sở tài chính để xin kinh phí. Nhưng để đâu hai bác cháu cũng gặp sự khất lần với những lý do không kém phần tế nhị. Hai ngày sau, ông tìm tôi mệt mỏi: - Ông phó chủ tịch nới với chú là việc gì phải vẽ vời. Không cần cải tạo, chế biến gì cả. Dẹp việc sản xuất đường, nhập hàng Tầu về bán có phải nhàn hạ mà lãi nhiều hơn. Tôi chợt thấy nghẹn đắng. Vậy là công cốc. Nhưng cả tôi và ông Lân không thể làm gì khác. Ðào đâu ra ba trăm triệu để mua máy móc và thiết bị? Sau thất bại ở nhà máy đường rượu, Ðãng gọi tôi về. - Thôi, công việc của cô là ngồi ở phòng nghiên cứu. Bao giờ có chỗ hợp lý tôi lại bảo cho cô đi. Bốn tháng sau, nhà máy của Ông Lân phải đóng cửa chuyển giao cho việc kinh doanh chè đen xuất khẩu. Ông Lân nghỉ hưu, đưa cả gia đình về xuôi. Hết hai năm tập sự, tôi vẫn chưa được giao việc gì cụ thể. Mỗi ngày tám giờ vàng ngọc, tôi tới văn phòng ngồi đánh máy các công văn, giấy tờ. Ðãng an ủi; - Thôi cô tạm đảm nhận công việc này một thời gian. Sắp tới xí nghiệp dược cần một kỹ sư hoá để pha chế loại thuốc mới. Tôi sẽ bàn lãnh đạo đưa cô về. Trên bàn của tôi không còn thấy thêm một lọ hoa nào. Những bông hồng ngày ấy không nỡ vứt, tôi treo lên tường khô quắt lại. Chị Vân cùng phòng với tôi bảo: - Ðấy em cứ nhìn những bông hồng thì thấy. Ngày đầu nó cũng đầy sức sống và rực rỡ biết bao. Thôi em ạ. Như chị đây này, lấy chồng vào là hết muốn tìm tòi, nghiên cứu. Chị thấy anh Ðãng để ý đến cô đấy ... Tôi bật cười vì sự ví von của chị. Tôi từ bỏ Thành, từ bỏ cuộc sống thành phố để về đây, những tưởng sẽ làm được nhiều việc "ra tấm ra món". Giờ thành một cô văn thư không chuyên nghiệp mới thấy những công thức hoá học không khó hơn việc kỳ cạch gõ từng phím trên máy chữ. Thành đi nước ngoài nửa năm nay. Trước khi đi, ạnh gọi điện thoại cho tôi: - sao rồi? Ðã tìm thấy trên mảnh đất heo hút ấy chưa? Dù sao thì anh cũng kính phục em đấy, cô bé ạ! Thành không viết cho tôi một lá thư nào. Tôi nghe tin anh lấy vợ và công việc kinh doanh rất phát đạt. Tôi hai mươi bảy tuổi. Những ồn ào thuở mới ra trường cũng lắng xuống. Mẹ tôi buồn bã: "Con gái lớn rồi, phải lấy chồng đi". Bố tôi không nói gì. Ông vừa quyết định về hưu sau một cuộc họp tỉnh uỷ. Công trình lọc tạp chất đường của tôi đã phủ bụi. Ðãng quên mất lời tỏ tình với tôi. Anh lấy vợ. Vợ anh Ðãng là con ông phó chủ tịch tỉnh vừa học hết phổ thông trung học. Nói như chị Vân là xấu: xấu ma chê quỷ hờn. Không thể chờ đợi, tôi tự mình mò sang xí nghiệp dược. Ðúng lúc cả xí nghiệp đi thu mua nhựa anh túc trên huyện. Tôi xin đi theo. Ðứng trước một rừng hoa anh túc đang nở rộ. Giàng A Sa. một cán bộ huyện kể cho tôi nghe sự tích về cây anh túc. Chuyện kể rằng: Xưa kia có một nàng công chúa sinh ra với nước da đen đúa. Vua cha dấu bặt sự thật, nghiêm lệnh ai lộ ra sẽ bị chém đầu. Ðến tuổi trưởng thành, một hoàng tử lân quốc đến cầu hôn. Hôn lễ được cử hành rất trọng thể. Ðêm động phòng hoa chúc, công chúa bị bỏ tấm mạng che mặt. Vị hoàng tử nọ ngất đi ngay đêm đó trốn biệt. Ðau khổ và uất hận, công chúa chết đi với lời nguyền: sẽ làm cho con người điêu đứng, dù khinh ghét nhưng không ai có thể từ bỏ cô được. ít lâu sau, trên mộ nàng mọc lên một loài hoa có đủ ba màu trắng, đỏ, tím. Ðó là cây thuốc phiện mà sau này người đời kinh sợ vì sự cám dỗ ma quỷ của nó. Câu chuyện Giàng A Sa kể ám ảnh tôi rất nhiều. Cây thuốc phiện là môt dược liệu quý, nhưng sau vụ này cũng sẽ bị phá bỏ. Tỉnh chủ trương trồng cây sơn tra thay cây anh túc. Tôi trở về thị xã, lên gặp chú giám đốc sở xin chuyển về xí nghiệp, nhưng không được đồng ý. Ông ta bảo tôi: - Cô sẽ phát huy được những gì ở đấy khi không còn trông cây thuốc phiện nữa? Ðêm ấy trời mưa rất to. Tôi nằm trên giường. Sấm chớp đập ầm ầm ngoài cửa. Chợt tôi nhìn thấy nàng công chúa đen đúa đi từ mưa vào giường. Cô ta ngồi xuống nắm lấy tay tôi, bàn tay đen của cô ánh những ráng đỏ: - Cô sẽ chẳng bao giờ làm được những dự định của mình đâu. Cô thấy không? như ta thế mà lại hay. Sự ngu muội của con người làm ta bất tử, ha ... ha ... Cô ta cất một tràng cười man dại. Tôi hốt hoảng giật bàn tay ra và vùng chạy. Một ánh chớp chói loà đập thẳng vào cửa sổ. Tôi tỉnh dậy bàng hoàng bởi giấc mơ kỳ lạ.
 
đọc và nghĩ

Hai người yêu nhau nhưng gặp sự phản đối mạnh mẽ từ phía gia đình nhà cô gái. Họ cho rằng chàng trai không xứng đáng với địa vị của gia đình cô và họ sẽ không tha thứ cho cô nếu tiếp tục có quan hệ với anh ta.
Mặc dù cô gái rất yêu chàng trai, nhưng khi hai người gặp nhau cô luôn hỏi: "anh có yêu em nhiêu không?". Cô hay bực bội do chàng trai không trả lời như ý cô mong muốn. Và áp lực của gia đình khiến hai người bất hòa. Cô thường trút giận lên chàng trai.
Về phía mình, chàng trai luôn chịu đựng trong im lặng. Sau một năm anh tốt nghiệp và quyết định đi du học. Trước khi ra đi, anh đã cầu hôn: "Anh biểu lộ tình cảm của mình bằng lời nói không giỏi nhưng tất cả những gì mà anh biết là anh yêu em. Về phía gia đình, anh sẽ cố gắng hết sức thuyết phục gia đình em đồng ý. Em thuận ý làm vợ anh chứ?".
Cô gái ưng thuận và với sự quyết tâm của chàng trai, cuối cùng gia đình cô gái cũng nhượng bộ và đồng ý cho họ kết hôn với nhau. Trước khi chàng trai đi học, hai người làm lễ đính hôn. Cô gái tham gia công tác xã hội trong khi anh tiếp tục học ở nước ngoài. Họ bày tỏ tình cảm của mình qua những lá thư và điện thoại. Tuy có khó khăn nhưng họ vẫn luôn nghĩ về nhau.
Một ngày nọ, cô gái bị tai nạn giao thông trên đường đi làm. Khi tỉnh dậy, cô thấy cha mẹ mình bên cạnh giường. Cô cảm nhận được tình trạng tồi tệ của mình. Nhìn thấy mẹ khóc, cô muốn làm cho mẹ yên lòng nhưng những gì cô có thể thốt ra chỉ là tiếng thở dài. Cô đã mất đi giọng nói. Bác sĩ bảo rằng tai nạn đã gây tổn thương não của cô và khiến cô không thể nói được nữa. Cô suy sụp mặc dù cha mẹ cô động viên rất nhiều. Trong suốt thời gian ở bệnh viện cô chỉ biết khóc trong thầm lặng.
Xuất viện về nhà, tình trạng của cô cũng chẳng thay đổi gì. Mỗi khi có tiếng điện thoại reo, cô có cảm giác như từng nhát dao đâm vào tim. Cô không muốn cho anh biết và càng không muốn trở thành gánh nặng của anh. Cô viết cho anh một lá thư nói rằng cô không còn đủ kiên nhẫn đợi chờ anh nữa. Cô gửi lại anh chiêc nhẫn đính hôn. Chàng trai gửi hàng ngàn lá thư và gọi biết bao cuộc điện thoại nhưng cô không trả lời và chỉ khóc.
Cha mẹ cô quyết định chuyển nhà, hy vọng rằng cô sẽ thật sự quên những gì đã xảy ra để có thể sống yên ổn.
Cô gái học ngôn ngữ cử chỉ và bắt đầu một cuộc sống mới. Mỗi ngày cô tự nhủ mình hãy quên anh đi. Nhưng một hôm bạn của cô đến và cho hay anh đã trở về. Cô van xin người bạn đừng cho anh biết chuyện gì đã xảy ra với cô. Từ đó cô không còn nhận được tin tức gì của anh.
Một năm trôi qua. Người bạn của cô đến thăm và trao cho cô thiệp mời dự lễ kết hôn của anh. Trái tim cô gái tan vỡ. Khi mở thiệp cưới cô thấy tên mình trong tấm thiệp. Ngước lên, cô thấy anh đang đứng trước mặt.
Chàng trai dùng cử chỉ nói với cô gái: "Một năm qua anh đã dành thời gian học ngôn ngữ này, chỉ để em hiểu rằng anh không quên lời ước hẹn của chúng ta. Hãy cho anh có cơ hội nói với em rằng anh yêu em".
Anh lồng chiếc nhẫn vào tay cô gái. Cuối cùng mụ cười đã trở lại trên môi cô gái.
----
Câu chuyện trên có thể là không có thật, nhưng nếu bạn biết rằng trên thế gian này luôn có một người yêu quý bạn, luôn nghĩ đến bạn thì bạn thực sự là một người hạnh phúc đó.
 
Status
Không mở trả lời sau này.
Back
Top