• Hiện tại trang web đang trong quá hình chuyển đổi và tái cấu trúc lại chuyên mục nên có thể một vài chức năng chưa hoàn thiện, một số bài viết và chuyên mục sẽ thay đổi. Nếu sự thay đổi này làm bạn phiền lòng, mong bạn thông cảm. Chúng tôi luôn hoan nghênh mọi ý kiến đóng góp để chúng tôi hoàn thiện và phát triển. Cảm ơn

1001 CÂU CHUYỆN CẢM ĐỘNG!!!

Status
Không mở trả lời sau này.
MỘT NGƯỜI BẠN KÌ DỊ - Unkown

Mỗi lần đến thư viện thì tôi lại gặp hắn, như ngồi mãi một chỗ, chăm chú vào cuốn sách để trước mặt. Vẻ lạnh lùng, tóc bơ phờ, và nhất là đôi mắt kỳ lạ của hắn, ai đã nhìn qua một lần thì không thể quên được - đôi mắt tinh anh dị thường bao giờ cũng như nhìn vào một chốn thăm thẳm.
Một hôm nhân cùng tìm một cuốn sách cổ quái, ít ai đọc đến, chúng tôi thành quen biết. Hai tâm hồn tương ứng xô đẩy chúng tôi lại gần nhau. Thế - người bạn trong thư viện - và tôi thường chỉ có một câu chuyện độc nhất để say sưa nói với nhau là thơ. Từ địa hạt thơ tôi đã đi lần vào trong cuộc đời thân mật của Thế. Anh ở một góc lầu cao, xa thành phố, thường rất ít đi lại với ai.

Thú say mê nhất của Thế là thơ, triết lý và thuốc lá. Thế hút píp và có hơn mười cái, đủ kiểu to nhỏ, từ cái píp đầu lâu đến cái píp đầu thi sĩ Baudelaire, và không biết anh đã tìm tòi mua được ở đâu những cái píp quý giá như thế. Anh nâng niu píp như người xưa chơi đồ cổ, hơn thế nữa, anh yêu thương chúng như những sinh vật có linh hồn. Một hôm, Thế rủ tôi đi uống rượu và nói một cách thương tiếc:

- Tôi vừa mất một người bạn thân.

Sau hỏi ra tôi mới hay rằng vì một cử chỉ vô ý, anh đánh rơi gãy mất một cái píp đẹp.

Một sự ham thích khác nữa của Thế là chơi đầu lâu. Mấy cái đầu lâu trắng tinh trang hoàng ở phòng mình, Thế đã mua hai cái ở Hà Nội, thời kỳ học ở trường thuốc, một cái mua ở Huế của cụ Ngáo, đao phủ thủ tại kinh đô bán; cái đầu lâu sau này là của một tướng cướp đào lăng vua bị chết chém. Còn một cái nữa, không rõ Thế mua ở đâu, và ngoài ra, hai cái đầu lâu khỉ.

Những cái đầu lâu ấy nổi bật hẳn trên màu đen của gian phòng, và đây đó treo những bức thư ảnh của các thi sĩ Thế yêu: Edgar Poe, Baudelaire, Byron, Mallarme, Valéry.

Bạn khác thường của Thế còn có một con mèo đen nhung chỉ thích được vuốt ve nằm trong lòng người và một con quạ. Con quạ toàn đen này Thế đã tập cho nó nói được và chỉ nói một câu như con quạ của Poe: Không có gì nữa hết!

Người bạn dị kỳ của tôi chỉ sống để mà làm thơ và đọc sách, đi. Nhưng con người phong vận, cốt cách thi sĩ ấy lại không hề đả động tới đàn bà, và tránh nói đến họ. Đó là sự bí mật ở Thế mà tôi vẫn kiếm dịp để tìm hiểu.

Một buổi tối lành lạnh, tôi đến thăm Thế, vừa lúc anh ngủ dậy, sau đêm thức suốt sáng đọc sách hay viết. Thế sống khác với người thường, ban ngày ngủ và đêm làm việc. Đêm mê say anh như hương thơm tách cà phê đậm.

Dựa ngửa ra chiếc ghế lót đệm nhung, ngậm píp phì khói tỏa mờ, Thế thì thầm ngâm thơ. Ngồi một bên, tôi yên lặng nhìn đôi mắt xanh sáng của con mèo đen, vuốt qua làn lông mịn màng như nhung. Trong không khí thân mến, tôi khêu gợi đột ngột đến chuyện tình và mơn man dò hỏi tâm sự bạn. Thế ngập ngừng rồi dịu dàng bảo tôi:

- Tôi không muốn nhắc nhở đến dĩ vãng vì buồn lắm, nhưng anh đã gạn hỏi, tôi không giấu giếm anh nữa, và để cho anh hiểu tôi hơn.

Thế đứng dậy thổi tắt cây bạch lạp, vì anh vẫn thích nói chuyện trong bóng tối, những lời nói sáng tỏ hơn. Rồi với một giọng nhiều hơi, buồn buồn, Thế bắt đầu nói:

- Trước hết, tôi cần nói rõ để anh biết về việc bị chôn sống là vấn đề có liên lạc mật thiết đến câu chuyện riêng của tôi sắp kể.

Bị chôn sống là một sự thật nguy hiểm, ghê gớm, sự nguy hiểm to tát cũng như sự mê tối của loài người. Tôi đã tra cứu, tìm tòi trong y học và đã kinh nghiệm rằng nếu để trí suy xét thì không ai có thể chối cãi được rằng trường hợp rùng rợn này vẫn xảy ra. Có người may mắn tỉnh lại trước lúc chôn để tránh khỏi sự lầm lạc tàn khốc, nhưng ta phải nghi ngại rằng đã biết bao người bị chôn sống mà không bao giờ ai biết đến.

Cái giới hạn chia hai sự sống và chết rất mù mờ và tăm tối. Ai có thể biết rõ được rằng lúc nào là hết sống và khi bắt đầu chết ? Vì trước và sau khi chết, không có một sự phân biệt hiện ra trên người. Mạch máu hay hơi thở ngừng không thể là bằng chứng được. Không có một thời hạn bao lâu để chắc quyết là chết, và trái tim đã ngừng, có thể chịu vài ảnh hưởng trong thân thể rồi đập lại. Sự thực nghiệm ấy khoa học và y học ngày nay đã nói đến. Người chết thật rất chậm, không như ta tưởng. Trong lúc bề ngoài đã chết, kẻ bất hạnh vẫn có thể đang sống. Người chết nào cũng phải qua hai thời kỳ, liên lạc với cái chết và chết thật, nhưng y học còn chứng nghiệm rằng có khi gặp một thời kỳ khác: chết bề ngoài. Thời kỳ này là lúc những cơ quan nhận thấy rõ ở thân thể đều ngừng lại như bộ máy nghỉ chạy rồi trong một khoảng thì giờ qua, vì một nguyên nhân vô hình, người có thể trở lại với sự sống. Những cơ quan trong người đều chia ra các bộ phận riêng, tất cả dù là nương tựa vào nhau, đều có sự độc lập liên lạc. Mỗi bộ phận có thể sống biệt lập với cơ quan có dính líu đến. Cái chết không phải là một sự thay đổi hoàn toàn và chạm đến những bộ máy sống của thân thể. Bởi vậy khi người ta chết, những bộ phận trong người chưa ngưng trệ hẳn, nên rất khó khăn mà phân biệt được rằng cái chết của người này chỉ là bề ngoài, và người kia chết thật. Khoa học cũng phải công nhận rằng những trường hợp này thật khó mà biết rõ ràng được - phần nhiều người đều mặc số mệnh cho sự rủi may - và các vụ chôn sống vẫn xảy ra. Những tiếng kêu gào thảm thiết của người chưa chết hẳn mà đã bị chôn không được ai nghe đến và chúng ta cũng mặc cho số phận mình, nếu bất hạnh một ngày kia tỉnh dậy trong hòm
 
Bà Tám Bán Xôi - Unknow

Chuyện này có thật.. và nó dả xảy ra với tôị ...Cách dây lâu, lâu lắm, lâu lắm rồi ... nếu tôi nhớ không lầm.. củng gần 18 năm .. thời gian thấm thoát như thoi dưa vậỵ. nhắm mắt một cái tôi dả trưởng thành và mở mắt một caí tôi dả trở thành một chàng trai tuấn tú rồị..thiệt là thời gian qua lẹ quá ... ...quê tôi ở tại Bà Quẹọ. và nhà tôi thì nằm ngây con dường tránh của ngỉa trang.. lúc dó vì quá nghèo, nhà tôi chỉ dược làm bằng nhửng thân cây tre rồi lấy lá dừa dắp lên thôị. có chổ ngủ tôi nghỉ củng hạnh phúc lắm rồị. chuyện xảy ra vào khoảng tôi about 2 years old maybẻ ... không hình như là một tuổi tám tháng thì phải .. umm không hình như 2 tuổị. ừ cở dó dó tôi củng hông nhớ nửạ..
lúc dó khoảng 1 giờ sáng, tất cả mọi người dang say sưa trong giấc ngủ, mơ mơ màng màng tôi bổng nhiên có cảm giác là lạ, tôi giậc mình dậy , toát mồ hôi ... thì ra tui thấy mắc dáị. tôi liền vén mùng chui rạ. vì dể cho mọi người trong nhà yên giấc.. nên tôi chỉ di nhè nhẹ , nhè nhẹ ra sau nhà ....dằng sau nhà là nhưng cây dừa trụi lá .. tại ba tôi sang bằng hết dể làm nhà.. thành ra nhửng cây dừa vòng vòng nhà tôi diều trụi lá hết .. và sau nhửng cây dừa là một con kinh nhỏ, dưới ánh trăng lờ mờ, tôi có thể nhìn thấy nhửng caí mồ nằm sừng sửng, cái này nối caí kiạ ...với tiếng kêu của cắc kè, ểnh ương, và nhửng tiếng của thú lạ, thỉnh thoảng một cơn gió lạnh lướt qua làm tôi lạnh cả ngườị.. dang dái phê phê, bổng nhiên tôi nghe tiếng ai kêu tôi" này Mario " tôi giậc mình quay lại, vì tối qua tôi không biết aị. sau khi cố mở mắt thì tôi mới nhận ra dó là bà Tám bán xôi ở dâù hẻm , .... bà dả dứng sau lưng tôi tự bao giờ, tóc bà trắng phợ. xù xù lên, hình như là bà chưa chảy dầụ. mặt thì hơi xanh xanh vì, chắc tại bà chưa make up.. tại tối quá tôi củng không nhìn rỏ lắm ... bà hỏi tôị. "Mario, sau giờ này chưa ngủ nủa mà còn dứng dây làm bậy ??" tôi liền cười bảo: thiệt không dây bà Tám? Con dang dái mà, con có làm gì dâu mà bậỷ. bà Tám liền nói: thiệt saỏ, bà Tám thấy con dứng dó dọc dọc thằng nhỏ bà tưởng con làm bậy ... tôi liền nói: ồ thì ra là vậy .. tôi hỏi lại bà: sao bà Tám chưa ngủ mà lang thang làm gì vậỷ bà nói: Bà ngủ không dược mới di vòng vòng chơi thôị.. lời qua tiếng lại với bà xong, bà Tám bảo, thôi bà phải di rồị. cháu vào ngủ dị.. tôi liền dạ chào bà, xong rồi quay lưng bước vô, dang tính di vô nhà ... tôi chợt nhớ chuyện gì tính quay lại hỏi bà,.. nhưng tôi chợt bàng hoàng dứng chết chân ..... dưới bóng cây dừa bà laỏ dang lơ lẩng cách mặt dất khoảng 2 feet ... và bà dang hướng về nghỉa dịa .. maí tóc trắng phơ dang bay trong gió .... bà còn quay caí dầu lại nhìn tôi nói " buh bye Mario hehehe" thiệt là ghê wá. ... bà không cần phải quay lưng lại, mà quay caí dâù dược à?? còn cười nửa .?? giọng cười bà làm tôi rùng mình .... trong giây phút bàng hoàng này tôi chợt nhớ ra rằng bà Tám dả chết cách dây ba ngày rồi ..... lấy can dảm cuối cùng còn lại, tôi ráng nhất giò chạy thẳng vô nhà, nhưng không may cho tôị. vì trời wá tôí thành ra không tháy rỏ.. tôi dụng cột nhà làm cái nhà xập xuống ... tôi dang lai hoai dựng cái nhà lên lại .. thì có tiếng bên dưới nhửng lá dừa hỏi vọng lên.. " dứa nào làm sập nhà dó bây "? thì ra là tiếng má tôị.. tôi liền nói lại " con dây má ơi" con là aỉ má tôi hỏi .. con là Mario nè ... thế là dêm dó cả nhà tôi phải thức dậy hết.. thức dậy dể dựng lại mái nhà tranh ... mải tới nay, mổi lần di tiểu, tôi thường có cảm gíac bà Tám dứng sau lưng tôị. mặc dù hiện giờ tôi dang ở trong cảnh sang giàu tại Campuchiạ. nhưng caí dêm hôm dó cứ còn mải trong dâù tôị. như nó mới xảy ra ngày hôm qua vậy ....
 
Quãng đời hai mươi tuổi của người thanh niên thường ít ra cũng có một cuộc tình ái điên cuồng mà tốt đẹp, và kỷ niệm ấy bao giờ cũng để lại những ấn tượng sâu sắc trong tâm tưởng: Tâm hồn giàu có tình cảm như chúng ta lại hay gây nên những tình duyên ly kỳ.

Năm năm trước đây, tôi đang ở trong thời kỳ phát triển của tình cảm thì gặp và yêu một người con gái tên là Bích Trăng. Trăng là một tiếng sét đã làm sôi nổi tận đáy lòng tôi những tình cảm sâu sắc và bền chặt nhất về yêu thương. Trăng có một thứ nhan sắc châu ngọc mà tôi đã mường tượng trong thơ. Với tôi, Trăng là một người yêu có cả tình một người chị, một người mẹ hiền từ của phương Đông. Chúng tôi yêu nhau với tất cả say sưa, nồng nàn của tuổi hai mươi. Mặc dầu giữa Trăng và tôi có những sự cản trở của hai gia đình cổ kính vẫn không thích nhau. Thầy tôi làm quan, trên chức của thầy Trăng. Tính tình cương trực của thầy tôi đã gây nên một sự xích mích giữa hai người, và từ đó cả hai nhà không bao giờ đi lại với nhau nữa.

Tự buổi đầu, Trăng và tôi cùng biết trước rằng cuộc hôn nhân của chúng tôi sau này khó lòng mà thực hiện được. Nhưng chúng tôi không thể không yêu nhau được và khi người ta yêu... Tôi chăm chú theo đuổi cái địa vị độc lập, chắc chắn mai sau, trở nên một bác sĩ, và khi ấy Trăng cùng tôi sẽ tự do lấy nhau, nếu hai gia đình vẫn không bỏ hiềm khích cũ.

Thế rồi một hôm đang thời kỳ lưu học ở Hà Nội, tự nhiên tôi thấy nóng lòng, băn khoăn rồi bỗng nhận được dây thép của một người bạn ở Huế cho hay tin Trăng chết. Cái chết đột ngột, dữ dội của Trăng đã làm đảo điên cả người tôi, và tưởng như mình đang mơ.

Tôi xin phép nghỉ học để trở về Huế ngay chiều hôm ấy. Không muốn cho ở nhà biết, bước xuống xe lửa, tôi lại ngay nhà người bạn. Về cái chết thình lình của Trăng, tôi được hay thêm rằng nàng bị cảm, đau luôn một tuần rồi chết. Và người ta đã chôn nàng sáng ngày.

Trăng đã chết thật, không còn nghi ngờ gì nữa, không còn gì nữa hết! Tự thâm tâm tôi hét lên một tiếng ghê gớm như làm tan vỡ cả linh hồn: Trăng ơi! Tất cả người tôi vang lên một điệu u trầm, ảo não: Trăng ơi! Hình như trong hồn, trong máu, trong phổi, trong tim tôi lúc bấy giờ đều chứa đựng toàn những mạch tình trìu mến, yêu thương da diết, quấn quít lấy Trăng.

Tối hôm ấy, tôi ngây dại ra đi trong trăng mờ lạnh. Những tư tưởng điên cuồng nung nấu, sôi nổi cả người, lý trí bị ám hoặc, một ý nghĩ ghê gớm nảy nở và cắm rễ trong hồn tôi. Và như một cơn cảm hứng mãnh liệt, ý nghĩ ấy cứ lấn át, chiếm cứ lấy linh hồn. Tôi cuồng loạn theo uy lực của tình yêu bị kích thích đến cực điểm. Qua bao la, của đêm trăng mờ, tôi mê man theo sự xúc động điên cuồng, lần tìm đến mồ Trăng. ý nghĩ dị thường vẫn bùng cháy như một ngọn lửa: tôi rồ dại muốn nhìn thấy mặt Trăng.

Đứng trên đồi chôn Trăng, dưới trăng mơ hồ mà trước kia tôi đã cùng Trăng say ngắm, đi qua chốn này, hôn nhau lần đầu tiên, tôi đau đớn ngây ngất khi nhìn thấy gò đất mới đã che lấp Trăng bên những ngôi mả trắng. Cơn bão táp trong não cân lại nổi lên ồ ạt, như một người điên, tôi vác cuốc đem theo mờ loạn đào mồ chôn Trăng. Đất mới đắp còn mềm, dễ bới, tôi say sưa với ý tưởng nhìn lại mặt Trăng, không còn biết gì là mệt nhọc.

Nhớ lại khi ra đi đã khuya, đến lúc đào mồ Trăng gần đụng hòm thì nghe gà gáy, tôi hoảng hốt vội vã lên vì sợ trời sáng. Gió khuya ở trên đồi nghĩa địa thổi lên từng trận đem tiếng chó sủa trăng ở làng xa với những tiếng mõ canh lốc cốc. Trăng hạ tuần gần sáng càng tỏ rõ, mây đen từng lúc bay qua.

Tôi mải miết đào, đất bắn khắp mình, quần áo lấm đầy mồ hôi vì nóng, vì cảm động. Đất khỏa ra hai bên người như mở con đường cho tôi đi đến với Trăng. Một tiếng chạm vào gỗ làm cho tôi rung động đến ngây người. Và chẳng bao lâu là tôi cạy mở được nắp hòm. Tôi kéo tung đồ liệm lên, màu vải tang đang còn mới ủ bốc lấy hơi người. Một cảnh tượng đời đời ghi chặt trong trí tôi mỗi khi hồi tưởng lại: nằm thẳng giữa đống đồ khâm liệm màu trắng, dưới trăng lạnh, mặt nhợt nhạt của Trăng có một vẻ thiên tiên lạ lùng. Những ý nghĩ điên cuồng, sôi nổi dịu dần trong trí tôi khi nhìn thấy mặt Trăng. Tôi đưa hai tay run rẩy cầm chặt lấy hai bàn tay Trăng, hai bàn tay cứng lạnh xưa kia đã ve vuốt đầu tóc bơ phờ của tôi. Những giọt nước mắt của tôi từ từ rơi trên má, trên mắt, trên môi nàng. Tôi mê man lặng ngắm Trăng rất lâu, lòng kêu rên những cảm hoài vô tận. Tưởng chừng tôi chỉ muốn ôm xác Trăng về cùng mình, vì không chịu thấu được sự chia ly, hiu quạnh đời đời. Tôi nghẹn ngào gọi tên Trăng trong lúc gió buổi hừng sáng thổi lướt trên đồi. Mặt trăng mờ nhạt tỏa xuống bóng tôi đang gục đầu trên ngực Trăng nằm trong chiếc hòm phá vỡ.

Trời sắp sáng rồi. Tôi còn phải đậy hòm lại, lấp đất lên. Lần cuối cùng, tôi hôn lên đôi mắt nhắm kín của nàng - than ôi, đôi mắt không bao giờ còn nhìn tôi nữa hết - rồi lấy con dao nhỏ đem theo cắt lấy mớ tóc mịn màng của Trăng. Tôi vẫn tiếc nuối không nỡ rời đi, ôm chặt lấy hai tay nàng. Giờ phút ấy, tôi chỉ muốn trời đất tan sập đi, thành hư không như người trở về với cát bụi.

Tôi còn ngây ngất trước cảnh tan nát xé dạ, thì lạ lùng thay, tay Trăng như động đậy trên tay tôi. Và, trước sự kinh ngạc của tôi, đôi mắt nhắm cứng của Trăng bỗng từ từ mở ra nhìn tôi. Rồi tự nhiên đôi môi của Trăng hé mở để lộ những răng trắng tinh. Không phải vì tôi quá cảm xúc mà bị mê hoặc đâu! Trăng bắt đầu uốn mình như người tỉnh dậy sau giấc ngủ đầy mệt nhọc. Và đôi mắt Trăng mở trân trân, ngạc nhiên khi nhận thấy mình đang nằm trong hòm, giữa bãi tha ma, và bên nàng lại có tôi.

Cái ý nghĩ Trăng bị chôn sống thoáng qua trí tôi đánh tan tất cả bỡ ngỡ, hãi hùng.

Thế châm diêm đốt cái píp đã tắt rồi nói tiếp:

- Tôi đã đến kịp để cứu Trăng ra khỏi cái trường hợp tàn khốc, ghê gớm ấy. Tôi tin rằng có một sức mạnh thiêng liêng, thần bí đã nhập vào hồn tôi.

Khi đã gỡ Trăng ra khỏi đống đồ liệm, tôi cởi áo ra, đặt nàng nằm nghỉ cho tỉnh hẳn. Trong lúc ấy tôi nhét đồ liệm vào hòm, đậy nắp lại rồi đắp đất lên, không để lại dấu vết gì để ai có thể nghi ngờ rằng xác chết bị mất trộm hay người chết trong hòm đã sống lại.

Trời vừa sáng thì tôi đã dìu Trăng về đến nhà người bạn. Trăng kêu khát và đói lắm vì đã ba ngày đêm ngất lịm. Uống sữa vào tỉnh hẳn người, Trăng cặn kẽ kể lại:

- "Em đang đau bỗng mê man, nói sảng luôn mấy ngày, rồi đến lúc nguy kịch... Có buổi sáng, lý trí trở lại với em một cách thình lình, nhưng thầy thuốc chứng rằng mạch em đã yếu lắm. Em cũng tự biết đến hồi nguy ngập và hấp hối. Thời kỳ cuối cùng, em bắt đầu thấy không đau đớn nữa, mình nhẹ nhàng đi vào một thế giới mơ hồ. Từng lúc em có cảm giác rằng linh hồn được tự do bắt đầu thoát ly. Trong một cuốn sách về y học của anh cho em mượn đọc, em nhớ có nói rằng lúc gần chết, sức mạnh tinh thần của ta không bị đụng chạm gì đến, và ở những người mà tâm tính vẫn giữ được cứng cỏi thì linh hồn được thêm năng lực. Khi cơn bệnh được yên tĩnh đôi chút thì óc được tách ra làm việc như thường. Em đã nhận thấy đúng như thế sau vài lúc mê sảng, hoảng hốt như cuồng tâm.

"Sau mấy hôm lịm đi, thình lình em bỗng tỉnh trí với tất cả sự sáng suốt. Trong giấc ngủ chết, tuy mình mẩy cứng đờ, không thể cử động được nhưng em vẫn nghe thấy lờ mờ chung quanh. Lúc ngất đi, em còn nghe tiếng đồng hồ đánh mười giờ, rồi như chớp, một sự đau đớn ghê gớm, chưa bao giờ cảm thấy, ồ ạt đến chiếm lấy người em. Cảm giác ấy tới rành rẽ và mau lẹ như một nhát dao đâm suốt qua xương thịt, mà còn khiếp đảm hơn nhiều.

"Trong đêm đen tối, đột nhiên em nghe đồng hồ đánh năm giờ. Trước hết linh hồn em chịu tất cả những sự khó khăn để thoát khỏi chốn vô ý thức. Rồi ý nghĩ của em lần lượt theo nhau trở lại và như muốn giật lùi. Em cố cử động nhưng không một chân tay nào theo sự sai khiến của lý trí. Em còn ngờ nghệch trước cơn mê lịm của thể xác im lìm thì linh hồn bỗng sôi nổi lên, suy nghĩ một cách mau chóng lạ thường. Trong một chớp nhoáng của tâm thần sáng suốt, em thấy rõ trước sự kinh đảm của người chết. Trên hai sợi dây đưa quan tài xuống địa huyệt, xác mình đụng vào săng, còn ở trên, những người thân yêu vứt xuống nắm đất vĩnh quyết. Và trên hòm, có tiếng nện đất, rồi đắp mộ xong, mọi người xây lưng lại, trở về với cuộc đời. Em tưởng tượng ra dưới tận chỗ ở cuối cùng hết sức chắc chắn và kín đáo, sự lạnh lẽo ghê gớm của bóng tối bất diệt. Em nghĩ đến anh, anh yêu dấu của em ở xa xôi không hay biết gì hết.

"Em tưởng rằng trường hợp của em không phải là khác thường và có lẽ lúc chết ta vẫn luôn luôn có ý thức, linh hồn còn sáng suốt trong cái thân xác cứng đờ, người chết có lẽ phải biết qua các lúc tẩm liệm. Trong cảnh ngộ hãi hùng ấy, nghĩ đến đêm lạnh đời đời dưới đáy huyệt âm u, linh hồn sẽ tiêu tán theo xác thịt hay là về đâu? Em đau đớn nghĩ đến anh bơ vơ, cô độc, đời anh không có em thì buồn khổ, hiu quạnh biết chừng nào. Thế rồi em ngất đi...."
 
Thế kể tiếp:

- Người nhà Trăng thấy tim nàng ngừng đập, da và môi nhợt nhạt, hai mắt nhắm nghiền, thân thể cứng lạnh, mạch đứng, nên cho là chết thật. Vì cái chết bề ngoài của Trăng rõ ràng như thế, thì không ai có thể nghi ngờ và không vin vào cớ gì để nghi ngờ rằng Trăng chưa chết hẳn. Và sự chôn lầm người còn sống bởi đây mà ra. Chính lúc tôi đào mồ Trăng lên cũng thấy nàng nằm trong một dáng điệu của người chết. Sự may mắn kỳ diệu là Trăng tỉnh ra giấc ngủ chết, cái chết bề ngoài, nhằm lúc tôi phá hòm chôn đựng nàng.

Sự sung sướng vô cùng của chúng tôi gặp lại nhau trong một trường hợp dị thường như thế, loài người không có thứ tiếng gì để tả nổi.

Tôi phải giấu giếm việc Trăng được cứu khỏi bị chôn sống, đợi nàng thật lành mạnh rồi chúng tôi bỏ Huế vào Sài Gòn, sống xa lạ hẳn để không ai tìm biết được cuộc tình duyên lạ lùng của Trăng và tôi. Tôi viết một bức thư về nhà nói mình vì thích phiêu lưu nên đã xin làm dưới tầu đi ngoại quốc. Đối với gia đình, tôi thấy có lỗi nhưng tôi biết rõ tính tình cương quyết cực điểm của thầy tôi không bao giờ cho phép tôi lấy con một người mà thầy tôi đã khinh.

Chúng tôi sống cùng nhau được mười ba tháng thương yêu tha thiết thì Trăng chết, và lần này chết hẳn thật. Trái tim của nàng trước kia đã yếu vì lần chôn sống càng yếu thêm, rồi mỗi ngày thêm nặng, và nàng đã nhắm mắt trong tay tôi.

Im lặng một lúc, Thế kết luận:

- Bây giờ anh đã rõ tại sao tôi tránh không muốn nói đến đàn bà. Người ta chỉ một lần yêu... Sau Bích Trăng, đàn bà đối với tôi không có gì nữa hết!

Lời Thế vừa dứt, trong im lặng, đen tối, con quạ của chàng lặp lại: Không có gì nữa hết!

Chúng tôi ngồi yên lặng giờ lâu, và trong lắng chìm của bóng tối u huyền, vang ngâm giọng Thế đọc theo nguyên văn bài thơ của nhà thi sĩ Mỹ:

"Một hôm giữa cảnh đêm khua rờn rợn ta đang mỏi mệt gục đầu trầm ngâm đọc lại mấy cuốn sách cổ kỳ dị không còn ai tìm đến. Trong khi ta lao đao muốn ngủ, thốt nhiên, nghe tiếng động se sẽ, như tiếng ai gõ nhẹ vào cửa phòng ta. Ta lẩm bẩm: "Chắc ai lại thăm gõ cửa phòng ta; chỉ thế thôi, và không có gì nữa hết".

"à, ta nhớ lại rõ ràng, đêm hôm ấy vào khoảng tháng chạp lạnh lùng; mớ củi tàn xơ xác nằm chơ vơ in bóng trên mặt đất. Ta thì nóng lòng chờ trời mau sáng vì u sầu tràn ngập cả hồn, ta cố khuây lãng trang sách mà không được. Ta buồn rầu tưởng nhớ đến Bích Trăng không còn nữa, nhớ đến nàng yêu kiều lộng lẫy mà thiên tiên kêu gọi là Bích Trăng, chờ dưới trần gian không còn có ai gọi đến tên nàng nữa hết.

"Tiếng mơ hồ, dìu dịu, rầu rầu của mấy tấm màn điều lao xao thấm đượm, tràn ngập hồn ta những rùng rợn gớm ghê, mà chưa bao giờ ta đã cảm rung như thế, - đến nỗi ta phải nhắc nhở mình luôn cho lòng bớt hồi hộp: "Chắc khách qua đường muốn vào đây tạm nghỉ trọ, chắc vậy chớ không có gì nữa hết".

"Tâm trí lần lần mạnh dạn lên, rồi tôi không ngập ngừng lâu nữa: "Ông hay bà nào ngoài đó, tôi xin thất lỗi, số là tôi đang chập chờn ngủ thì ông hay bà lại gõ cửa, nhưng tiếng gõ khẽ quá, tiếng gõ cửa phòng nhỏ quá, nên tôi cũng không rõ là có ai gõ thật hay không". Nói rồi tôi mở toang cửa ra - ở ngoài chỉ là bóng tối đen, và không có gì nữa hết!

"Nhìn sâu vào bóng tối u huyền, tôi đứng lặng giờ lâu, vừa kinh ngạc, sợ hãi, nghi ngờ, tưởng tượng những chuyện lạ lùng mà chưa bao giờ kẻ trần gian nào dám nghĩ đến; nhưng đêm vẫn im phăng phắc, bóng tối quạnh hiu, và chỉ một tiếng lẩm bẩm: "Bích Trăng". Chính tôi đã lẩm bẩm gọi tên nàng và tiếng dội thì thầm "Bích Trăng!" - Chỉ thế thôi, và không có gì nữa hết.

"Tôi trở vào phòng đóng cửa lại, tâm hồn nóng hực, bỗng lại nghe tiếng gõ mạnh hơn lần trước. Tôi tự bảo thầm: "Chắc có cái gì ở cửa sổ, ta phải tìm ra sự bí mật này. Hãy để cho lòng bớt hồi hộp, rồi tìm ra sự bí mật này" - chỉ là tiếng gió thổi và không có gì nữa hết.

"Tôi mở cửa sổ ra, thì một con quạ đen lớn, một con thần ô thiên cổ, sột sạt trên cánh cửa bay vào. Nó không tỏ vẻ gì sợ hãi, cứ nghiễm nhiên mà vào với vẻ mặt ông hoàng hay bà chúa, đậu trên cánh cửa phòng tôi, ngay giữa đầu bức tượng vị nữ thần; nó đậu yên đó, và không có gì nữa hết.

"Vẻ trịnh trọng, oai nghiêm của dáng điệu và nét mặt con chim đen nhánh làm cho tôi đang buồn cũng phải hóa cười. Tôi nói - "Này hỡi quạ, giống chim quái gở tự đời nào từ chốn Hoàng tuyền thăm thẳm đến đây, dẫu cho cái đầu ngươi đã bị cạo gọt, nhưng ta chắc ngươi không phải là một con chim nhút nhát - vậy ngươi hãy nói cho ta biết danh hiệu cao quý của ngươi ở chốn Hoàng tuyền thăm thẳm là gì? " Con quạ nói: "Không có gì nữa hết!" Tôi lấy làm lạ rằng con chim xấu xa kia lại biết nói rõ ràng như thế, tuy câu trả lời của nó không được nhiều ý nghĩa và hợp thời cho lắm; nhưng thử hỏi có bao giờ ai là người đã được trông thấy một con chim trên cửa phòng mình mà xưng danh hiệu là "Không có gì nữa hết".

"Con quạ đứng chơ vơ trên bức tượng lạnh lùng, chỉ nói một câu đó thôi, hình như trong đó ngụ hết cả tâm hồn tôi lúc bấy giờ. Nó không nói thêm gì nữa hết, nó không rung động đến mảy lông - cho đến khi tôi nghẹn ngào, se sẽ nói: "Bạn bè tâm huyết của ta biết bao người đã bỏ ta mà đi xa rồi; và đến sáng ngày người cũng sẽ bỏ ta mà đi nữa, như những lời nguyện ước cũ". Con chim lại nói: "Không có gì nữa hết!"

"Giữa im lặng, câu trả lời đúng hợp như thế khiến tôi thất kinh tự bảo mình rằng: Tưởng chừng con chim này chỉ biết nói có thế, nhưng chắc đã học được câu này của một thi sĩ ba đào, bị thần tai họa tàn ác đánh đuổi không ngừng, khiến nên bài thơ nào cũng chỉ quay về một điệp khúc thảm sầu tuyệt vọng: "Thế là hết, không có gì nữa hết!"

"Nhưng lòng đang buồn tê tái nghĩ đến con quạ cũng phải lấy làm lạ và buồn cười, tôi liền kéo ghế đệm đến trước mặt con chim, bức tượng và cánh cửa; rồi gục đầu trên nhung buồn, tôi ngẫm nghĩ, mơ màng xa xôi để tìm cho ra vì đâu con vật trầm triệu xấu xa, ốm yếu, con thần ô thiên cổ lại đến đây mà kêu: "Không có gì nữa hết!"

"Trong khi tôi đang trầm ngâm thì con chim với đôi mắt sáng quắc như soi thấu tận đáy lòng; trong khi tôi cố xét đoán nghĩ đến ngàn vạn đường, gục đầu trên làn nhung óng ả dưới ánh đèn, màu nhung tím óng ả dưới ánh đèn, mà xưa kia nàng đã gối đầu nhưng ngày nay không còn nữa, than ôi, không còn gì nữa hết!

"Đang nhiên không khí hình như bỗng dịu dàng, ngào ngạt hương thơm tỏa ra ở một đỉnh trầm do các vị thiên tiên từ trời hiện xuống nhẹ nhàng lướt qua nệm lót trong phòng. Tôi la lớn: "Hỡi nhà thi sĩ khốn khổ! Trời đã động lòng sai thiên tiên đem xuống cho ngươi ly rượu quên sầu đỡ tiếc thương nhớ đến Bích Trăng. Vậy thì ngươi hãy uống đi, uống đi ly rượu quên sầu, nhớ chi mãi đến Bích Trăng mệnh bạc!" Con quạ nói: "Không có gì nữa hết!"

"Hỡi giống tiên tri quái gở kia! Chim hay là quỷ nhưng vẫn là tiên tri, ngươi do ác thần sai đến hay là bị bão táp phiêu dạt lại đây! Nhưng ngươi đã đến chỗ trầm luân khổ ải, nơi hoang lương rùng rợn ám ảnh này, thì ta xin ngươi thành thật nói cho ta biết rằng ở miền Cực Lạc có chăng, có chăng hương vị để quên được hết u sầu? Nói đi, ta van người làm ơn nói cho ta biết với!. Con quạ nói: "Không có gì nữa hết!"

"Hỡi giống tiên tri quái gở kia! Chim hay là quỷ nhưng vẫn là tiên tri, dưới bầu trời ngươi với ta cùng sống, cùng thờ một đấng Thượng đế, xin ngươi hãy nói cùng tâm hồn sầu khổ vô hạn này rằng một ngày kia ở trên Thiên đàng vời vợi, ta có còn lại được âu yếm người con gái thanh tiết mà thiên tiên đã gọi là Bích Trăng, âu yếm một người con gái yêu quý lộng lẫy mà thiên tiên gọi là Bích Trăng! Con quạ nói: "Không có gì nữa hết!"

"Tôi dựng đứng người hét lên: "Thôi thôi câu nói này là dấu vĩnh quyết giữa người và ta, dầu ngươi là chim hay là quỷ! Ngươi hãy trở về trong gió bão, chốn Hoàng tuyền thăm thẳm, ngươi đừng có để lại một mảnh lông đen nào của ngươi như là ghi sự láo xược, nguyền rủa đất trời của ngươi. Hãy để mặc ta sầu thảm một mình, ngươi hãy rời khỏi bức tượng ở phòng ta ! Ngươi đừng ở lại đây mà đâm xé trái tim ta nữa! Hãy đi mau, ngươi đừng để cái bóng đen nghì nghìn thu thiên cổ in hình lên cửa phòng ta!" Con quạ nói: "Không có gì nữa hết!"

"Nói thế rồi nó vẫn luôn luôn đứng yên trên bức tượng nhợt nhạt của vị nữ thần, ngay trên cửa phòng tôi. Hai con mắt của nó giống đôi mắt hung thần đang nghĩ ngợi; ánh đèn trôi chảy trên mình chiếu bóng nó xuống đất - và tâm hồn ta trong cái bóng là là như nằm chết đó; không biết bao giờ bay lên được nữa - không bao giờ nữa hết!"
 
Ma Rừng Tác giả: Unknow

Ông Cai Móm lại ngừng lần thứ ba, lấy cốc rượu uống một hơi rồi kéo một mồi thuốc Làọ Lệ Thi nóng ruột muốn nghe, giục ông cai kể tiếp, nhưng ông vẫn điềm tĩnh thong thả uống rượu hút thuốc khề khà, làm cho vợ tôi càng thúc giục hơn nữạ Thi muốn nghe, mà hễ nghe đến chỗ nào rùng rợn, thì lại bám riết lấy tôi, thu hình cuốn vó lại, trông buồn cười lắm. Phải thế chăng mình?

Một hồi lâu ông Cai đủ nghiện, mới oang oang nói tiếp:

Bấy giờ Oanh Cơ gục mặt vào vai tráng sĩ. Tráng sĩ muốn cho nàng đỡ sợ, phải tìm kế nói chuyện để bắt nàng phải chú ý vào một sự khác, ngõ hầu quên nỗi đau xót và quên cảnh vật ghê sợ của rừng khuyạ Câu chuyện tráng sĩ nói, sau này lại chính mồm Oanh Cơ kể lại cho cậu ruột tôi nghe, vì thế nên tôi biết rõ. Tráng sĩ sợ nàng cứ nghĩ ngợi mãi về cái chết thê thảm của anh chị nàng, và cứ bồn chồn lo ngại luôn luôn, thì không khéo chết ngất đi lần nữa, chàng phải nói luôn mồm cho nàng thấy bao giờ cũng có người ngồi bên cạnh và che chở cho mình. Tráng sĩ bảo Oanh Cơ:

- Cô đừng nên sợ hãi kinh ngạc, cô ạ! Có tôi ở đây, không khi nào tôi để thú dữ ma thiêng phạm đến cô được. Tôi có khi nằm trên chòi này hàng nửa tháng, đêm đêm trơ trọi một mình, tôi chả e ngại gì hết. Gặp ác điểu, mãnh thú thì tôi bắn, tôi đánh, tôi cầm mã tấu hoặc đoản côn thử chơi với chúng nó vài keo, đi cho chúng nó xem vài đường võ, bao giờ chúng cũng thua chạy, hoặc bỏ xác lại cho tôi khiêng về. Chúng nó có làm gì được tôỉ To lớn, khỏe mạnh và nhanh nhẹn như con hổ, tôi chỉ coi như loài thú dữ mà thôị

Cái đáng sợ nhất, ấy là ma rừng. Giống ấy thiêng lắm, và lợi hại lắm. Nhưng tôi có làm gì phạm chúng đâu, mà chúng nỡ xử tệ với tôỉ Chả qua chúng chỉ muốn đùa giỡn quấy quả tôi cho vui, chớ chưa làm tôi ốm đau và chịu thiệt bao giờ. Hay là chúng có ý nể tôi thì chả rõ. Một vài lần đầu tiên, có vài con đầu đàn, chúa tể ở vùng này, hiện lên dọa nạt tôị Tôi đang nằm trên sàn thì nó làm sàn quay tít như chong chóng, định thần ngồi một lúc thì lại không thấy gì. Có khi nó ném tôi đến bịch một cái xuống tận gốc cây, tôi nhìn lại thì thấy vẫn còn ở trên sàn. Lại có lần vừa buổi chiều, mới trèo lên cây đã thấy ngay lủng lẳng treo trên cành chỗ thì một cánh tay, chỗ thì một cái chân, chỗ khác thì cái đầu lâu máu ở cổ chảy xuống ròng ròng, chỗ khác thì cái thây ngườị Một chốc, tất cả mấy thứ ấy bay vùng lên sàn, liền nhau lại thành một người đen thui thủi, đầu tóc dựng ngược, mắt mở to, há mồm cười nhe răng trắng nhơn nhởn. Tôi cứ ngồi yên nhìn con ma ấy không nói; nó thè lưỡi đỏ như lửa dí tận sát mặt tôi, khí lạnh của nó thâu vào khắp người tôi, tôi rợn lắm, song vẫn cố trấn tĩnh. Nó dọa chán thì biến mất.

Lần khác nó hiện lên đến sáu bảy con, lớn có, bé có, trẻ có, già có, đứa nào cũng quần áo rách rưới hoặc trần truồng như nhộng, trông người gầy gò đen thủi, xấu xí lắm. Chúng đi lơ lửng như không bước, là là trên mặt cỏ, lại chỗ tôi đứng dưới gốc cây, dang tay bao vành lấy tôi rồi nhảy múa làm tôi hoa cả mắt. Tôi bị chúng trêu nhiều lần lắm, lần này thì tôi chấp tay vào trước ngực, nhắm mắt niệm Quan Thế Âm, rồi đọc câu thần chú trừ tà: “Tả Tanh Long, hữu Bạch Hổ, tiền Chu Tước, hậu Huyền Vũ”. Mở mắt ra, chúng đều biến mất cả. Tôi lên được trên sàng, ngồi khấn rằng:

- Tôi tên là Lê Trọng Việt, là một kẻ đi săn các ác điểu, mãnh thú, không xâm phạm gì đến vong hồn các anh em cả. Anh em nếu có linh thiêng, xin phù hộ cho tôi, săn được nhiều, tôi sẽ chia cho một phần và xin cúng tế anh em tử tế, mỗi khi tôi tới đâỵ Từ trước tới nay, anh em trêu ghẹo tôi, tôi đã chịu nhẫn nại, không làm gì cả. Tôi không dám chửi rủa các vong hồn, cũng không dám láo xược với các vong hồn, xin các người từ đây đừng dọa nạt đừa giỡn tôi nữa! Nếu tôi khấn khứa tử tế thế này mà không tha, thì sau này sẽ có cách tôi đối phó lại, bấy giờ đừng trách móc tôi đó! Ðây, gọi là thành tâm lễ bạc, tôi có chút quà này xin biếu anh em!

Khấn xong, tôi giở tay nải đem ra bày ở sàn một ít bánh đúc để trên vài tàu lá, và một ít hoa quả tôi đã cố tình mang đi từ chiềụ Rồi tôi đốt hương đốt nến, vái bốn váị Xong lại đem đống mấy chục lá vàng hồ. Công việc thấy ổ thỏa, tôi nằm chèo queo đánh một giấc đã đời, chờ đến canh hai thì dậỵ Ðêm hôm đó, quả nhiên tôi săn được nhiều lắm, song toàn là các thú nhỏ. Và tôi cũng không bị trọc ghẹo nữạ Bắn được cáo, được cầy, tôi đợi rạng ngày là thui ngay vài con dưới gốc cây, cúng tế xong rồi mới về. Những đêm sau đều săn được kha khá. Tôi vẫn giữ lời hứa chia phần cho ma, nhưng ăn quen rồi thì lại rửng mỡ, đến đêm lại tìm cách làm cho trong nhà sàn của tôi các đồ đạc lung tung lên cả. Có một lũ chuột, mỗi con bằng con mèo to đến hì hục tìm mồi, ăn bánh đúc cơm nắm của tôi, gậm nát cả chuối tôi trữ sẵn để tráng miệng, cắn rách áo tôi và nhá chân tôi đau lắm. Chúng nó tha nỏ của tôi quăng xuống đất và tha mã tấu của tôi cấm vào một cành cây, vác tay nải của tôi treo lủng lẳng ở mái sàn. Lũ ranh ấy lục lọi đủ thứ chọc tức tôi đến cực điểm. Ðêm tôi ngủ dậy, sờ nải chẳng thấy đâu, biết là có chuyện. Tôi bèn ngồi một lúc định thần cho mắt sáng ra, có thể trông rõ trong đêm tối được; tôi nhờ ánh mờ mờ của các ngôi sao le lói nên tìm được đẫy nải và mã tấu vì lưỡi dao lấp lánh dễ thấy lắm.
 
Tôi mở nải lấy sẵn bùi nhùi, đá lửa, và hai ống địa lôi tọ Rồi tôi ngồi đợi xem cái giống quái kia có đến quấy nhiễu tôi nữa chăng. Quả nhiên, chúng trở lại để xem tôi tức giận đến thế nàọ Lần này chúng biến ra một lũ cú mèo và mèo rừng đến vỗ cánh ầm ầm và kêu reo réo ầm ĩ cả chung quanh mình tôi, bâu lấy tôi đen nghịt. Tôi đã biết nên thủ sẵn một sợi dây ngũ sắc dài, một bông phẩm đỏ ướt; tôi cứ ngồi điềm nhiên niệm Phật và đọc thần chú. Chúng quây quần lấy người tôi song không phạm đến tôi được. Tôi đánh đá tóe lửa, đốt bùi nhùi; bùi nhùi cháy, tôi dí ngay vào ngòi hai cái pháo khổng lồ treo ở mé sàn; xong tôi vội vàng đứng dậy, quơ tay túm được một anh mèo, rồi nhảy vọt ra ngoài, chuyền cành nọ sang cành kia, ra ngoài một chẽ cây gần gốc. Tôi vừa leo vừa kéo dây ngũ sắc ở cổ buộc vào mình con mèo, nó cắn tôi, cào tôi, giẫy giụa và đập đuôi chan chát, tôi cũng mặc kệ. Buộc dây xong, tôi lại sờ vào áo túi lấy bông phẩm đỏ, bôi nhoe nhoét vào mặt nó, xong đâu đấy tôi thả nó rơi đến bịch xuống đất.

Tôi làm những việc trên đây nhanh như chớp, bởi đã định trước cả rồi; chỉ thoáng một tí là đốt xong ngòi pháo, bắt một con mèo và nhảy chuyền xuống gốc cây ngồi ở một chỗ, tươm tất lắm.

Tôi vừa an vị, hai tiếng nổ kinh thiêng động địa nối tiếp nhau xé tan vừng lặng lẽ của rừng khuya; bốn bên toàn là sườn núi cả nên tiếng pháo địa lôi càng dữ dộị Ðàn mèo tranh nhau mà chạy, đàn cú tranh nhau mà bay, chúng chen nhau, húc nhau ùa cả ra khỏi sàn. Phần nhiều đều rơi xuống đất huỳnh huỵch, có con chạy không kịp, phải biến ra khói, tan đị Pháo vừa nổ, định thần mà nhìn, chả thấy một con nào nữa cả, thì ra chúng nó vừa rơi đến đất hay chưa đến mặt cỏ là chúng đã biến cả rồi! Vô phúc có một anh cú bay tạt qua mặt tôi, tôi túm ngay lấy, luồn ngay dây ngũ sắc buộc lấy hai cánh, rồi cũng đem phẩm bôi vào mặt. Tôi lại vứt con quái vật ấy xuống đất theo với con mèo; hai con đó giãy giụa, vật mình đùng đùng vào gốc cây nghe rõ mồn một. Ý chừng chúng nó muốn tháo dây thì phải, nhưng tôi buộc theo phép phù thủy, có mà tháo đường trời!

Tôi lên ngồi chễm chệ trên sàn nứạ Lúc này tôi đốt bùi nhùi, thắp một ngọn bạch lạp, đi tìm các thứ binh khí, thu thập xem có thiếu gì không. Xét ra chỉ mất cái “nỏ thần” của tôi mà chúng đã ném xuống gốc cây cổ thụ, còn đồ đạc thì đủ cả. Tôi ngồi yên xem động tĩnh thế nàọ Lúc đó rõ ràng tôi tỉnh táo, bao nhiêu tinh thần tâm trí đều sáng suốt cũng như ngọn bạch lạp rạng to thế mà không hiểu vì đâu tôi như mơ màng, tai nghe văng vẳng có tiếng nói rất khẽ mà rất rõ, một thứ tiếng không phải là tiếng, chỉ như một dư âm xa lơ xa lắc, một tiếng gọi bị đập vào đá rồi oang oang đưa lại từ chỗ nàọ.. như một cái “bóng của lời nói” thì đúng hơn. Cái tiếng gọi đó gần sát tai tôi, nhưng quái, cũng như ở một nơi xa lắm, chỉ nhận biết nó rành rọt, nghe tường tận vô cùng. Nó như thế này:

- Ông Trọng Việt ơi! Ông ác làm chi, ông tắt đèn đi! Chúng tôi biết lỗi rồi, chịu phục ông rồị Ông cứu cho lần này, lần sau không bao giờ dám phá ông nữạ Riêng hai đứa tôi, chúng tôi sẽ đội ơn ông và phù hộ cho ông. Ông hãy tắt đèn đị..

Tôi đoán ngay là lời kêu van con ma bị bùa ngũ sắc buộc, không biến được. Chúng nó đã hối quá, tôi cũng chả nên táng tận lương tâm. Chả qua chúng xử tệ với tôi hết sức, nên tôi mới phải báo thù, nếu không tôi cũng chẳng hơi đâu nghịch ngợm với chúng nó để mất một đêm săn bắn. Cái đêm ấy, thế là vô ích. Tôi bị mất nỏ, lại mất thì giờ, lại đốt địa lôi và châm đèn thì còn con thú nào dám đến gần cho mà bắn nữa, mà dù có đến thì biết tìm nỏ ở đâủ Xuống gốc cây ư? Chả dạị Nhỡ có làm sao trong đêm tối, giữa rừng vắng, thì hết kế thoát thân. Thôi, chúng nó xin tắt đèn, thì tôi tắt để xem chúng giở trò trống gì nào! Tôi dụi cây nến, ngồi đợị Trời vừa tối bỗng nghe bịch bịch hai tiếng, sờ thì ra có con mèo và con cú ở ngay cạnh thân. Văng vẳng bên tai lại có tiếng:

- Ông làm phúc tháo dây cho chúng tôi, và dội vết phẩm cho chúng tôị Ông tha cho, sẽ xin đội ơn ông mãị

Tôi nói:

- Lấy nước đâu mà dộỉ Tôi chả có gì đựng nước cả, chỉ có một cái vỏ dừa ở góc sàn, nhưng lại không có một giọt nước nàọ Thì làm sao mà dội cho hai người được?

Tôi vừa dứt lời thì, quái lạ! Thấy ngay một vật ươn ướt đụng chân, sờ xem là một gáo nước đầy, cái gáo sứt không có cái cán của tôi! Tôi hơi ngạc nhiên một tí, song nghĩ ra ngaỵ Có gì lạ đâu! Một lũ ma nữa, vô hình, đương bao bọc lấy tôi để xin tôi gỡ cho hai đứa bạn của chúng và để xem tôi xử sự như thế nàọ Tôi lên mặt đạo mạo, phán rằng:

- “Chỉ tại các ngươi chọc ta, chớ ta có làm hại các ngươi đâụ Ta cúng các ngươi, cho các ngươi nào thịt, nào bánh, nào hoa quả, nào vàng lá, thế mà các ngươi chả biết ơn phù hộ ta mà còn quấy quả ta, thì trời đất nào chứng cho các ngươỉ Ta đây biết phù thủy, chỗ này, tôi nói khoác mà để dọa chúng mà thôi, chứ thật tình thì tôi chả có phép quái gì. Chúng bây làm gì nổi tả Các ngươi nạt ta thế, chứ nạt nữa ta cũng chả sợ. Ta đã có cách đối phó lại, còn nhiều cách lắm, đây này, các ngươi hãy xem!”

Nói đến đó, tôi sờ tay nải (túi xách tay ngày xưă, lấy ra một củ tỏi, bóp nát và dí vào mũi con mèo và mũi con cú. Quả nhiên chúng nó giẫy lên đành đạch. Tai tôi lại nghe văng vẳng:

- Chúng con lạy ông! Chúng con biết tội rồi, ông xin tha cho chúng con! Ông vứt tỏi rửa tay đi, rửa tay đị

Tôi quăn củ tỏi xuống đất, dội nước ở gáo rửa tay, tôi rửa hết cả một gáo nước, rồi lấy vạt áo lau taỵ Vừa lau tôi vừa nói:

Ta còn nhiều thứ phép khác, lợi hại lắm. Hễ các ngươi xử ác với ta, ta sẽ xử càng tệ với các ngươi hơn cho bỏ ghét. Lần này là lần đầu, ta tha cho hai ngươi; phải biết ơn mà cố tu tỉnh lại, ta bắt được một lần nữa thì chớ trách ta đó! Nhưng mà gáo nước hết rồi, lấy gì gội rửa cho các ngươi đâỷ

Tôi nói vừa dứt lời, sờ xuống chân thì gáo nước khi nãy đã cạn bây giờ lại đầỵ Tôi bèn móc trong đẫy ra một cái giẻ lau, thắm nước rồi lau mặt mũi cho con mèo và con cú. Chúng nó nằm im để tôi làm một cách ngoan ngoãn, chứ chúng nó không dám cựa quậy gì hết. Tôi lau một lúc lâu, áng chừng đã sạch lắm rồi, bấy giờ tôi mới tháo nút dây ngũ sắc rạ Vụt một cái, vừa cởi được dây, thì đã không thấy con mèo và con cú đâu nữạ Chỉ có phảng phất trước mặt tôi, lờ mờ như sương đọng lại, như khói tụ thành hình, hai cái bóng dịu dàng tráng toát, thự là “sương in mặt, tuyết pha thân”, hai thiếu nữ yểu điệu thanh tân, tuy trong bóng tối mà tôi cũng có thể đoán được là hai giai nhân tuyệt sắc. Cả hai tựa hồ mặc áo bằng mây trắng, mập mờ ẩn hiện, trông đẹp vô cùng. Một làn tóc đen cuồn cuộn xõa xuống ngang lưng, một thân hình tha thướt mềm mại, tứ chi nhỏ nhắn tròn trĩnh, đó là cốt cách của hai nàng. Trông cả đôi đều giống nhau, tựa như chị em sinh đôi, khó lòng phân biệt, nếu một nàng không có làn tóc dài chấm gót, khác với nàng kia, tóc chỉ để dài ngang lưng một chút thôị

Tôi thấy hai bóng ma con gái ấy, trong lòng cũng hơi bồn chồn, cứ ngơ ngác ngắm nhìn họ. Cả hai nàng cùng quỳ xuống sàn nứa trước mặt tôi, trong khi tôi văng vẳng nghe một điệu đàn mê ly vô cùng:

Hai em cám ơn thầy đã tha chọ Ðội ơn thầy nhiềụ Sau này xin giúp thầỵ..

Ðiệu đàn chỉ ngắn có thế. Ðiệu ấy tức là giọng của hai nàng tháng thót hòa lên. Tôi lấy làm lạ rằng sao cái giọng này nó êm ái du dương, nó thỏ thẻ, trong trẻo khác hẳn với tiếng nói phào phào lúc nãỵ

Tôi nghĩ một lúc, mới hiểu rằng khi hai nàng này chưa biến được thì cũng chưa nói được, đó chỉ là các bạn bè thay lời hai nàng mà cầu khẩn đó thôị Tôi bảo là hai nàng nói, nhưng thực ra không có thanh âm phát ra ngoàị Tôi chỉ thấy một hai thiếu nữ đó lắp bắp, rồi tự nhiên tôi hiểu, tựa hồ trong tai tôi có tiếng nói dội vào óc
 
Hai ả lạy tôi sì sà, sì sụp, đoạn đứng dậy bước rạ Tôi vừa ngước lên, chưa kịp trông theo, thì đã không còn thấy bóng dáng của hai nàng ấy nữa đâụ.. Từ đấy, tôi đỡ bị nạn yêu ma quấy nhiễu làm rối loạn đồ đạc và ngăn trở sự săn bắn của tôị Nhưng tôi lại bị một cái nạn mới lạ lùng nguy hiểm hơn: là hai con ma thiếu nữ Mường nó hình như mê tôi, đêm nào cũng lên ngồi cạnh tôi nói chuyện tỉ tê, như quấn quít lấy tôi không dứt. Tôi nhắm mắt ngủ, thì thấy như mình dắt tay chúng đi chơi trong rừng, bừng mắt dậy, lại thấy hai bóng trắng ngồi cạnh bên mình, trong óc, trong tai lại có tiếng dội văng vẳng nói chuyện với mình thân thiết lắm. Tôi là con trai chưa vợ, thấy thế sợ lắm, chỉ ngại giống yêu tinh ấy nó thu mất nguyên dương thì sẽ chết mất. Tôi lo quá, bỏ rừng về nhà. Ðêm về nằm ngủ lại thấy chúng nó đến trách móc sao không đến Ðồng Giao, săn bắn như mọi ngày cho chúng nó được gặp gỡ trò chuyện. Sáng dậy, tôi đem sự đó thuật lại cho anh tôi nghẹ Anh tôi là người giỏi võ hơn tôi mà lại can đảm lắm. Anh tôi quyết cùng tôi đi vào rừng với tôi một phen. Quả nhiên, anh tôi được thấy hai thiếu nữ Mường của tôi và làm quen với chúng. Một đứa bám riết lấy anh tôi, còn đứa kia thì vẫn cứ mê hoặc tôi tới cùng. Hai anh em hễ nằm trên sàn thiu thiu ngủ là tự khắc thấy mỗi đứa ôm ấp một con ma đi dạo quanh khắp đồng khắp nội, bắt ong, đuổi bướm, bứt quả hái hoa, tình tự vui vẻ lắm. Tỉnh dậy, vừa bừng mắt đã thấy có hai ả ngồi dưới chân, con tóc ngắn kề anh tôi, con tóc dài kề tôị

Thực là nguy ngập quá! Tôi hối hận vô cùng, hối hận vì đã đưa anh tôi vào cõi chết. Một mình tôi có thác cũng không oán gì số phận, song làm cho anh tôi vì muốn cứu tôi mà cũng thác nốt thì thực tôi có lỗi vô ngần. Kiên cường như tôi, mà tôi phải ứa lệ khóc. Nhưng không dám khóc trước mặt lũ quái đó, tôi đợi rạng ngày, dắt anh tôi ra khỏi núi, đi về quán trọ lúc bấy giờ mới ôm lấy anh mà khóc và xin lỗị Anh tôi mủi lòng cũng khóc và khuyên giải tôi:

- Em đừng ngại! Anh xem hai con yêu này nó không phải là đồ dâm tình, chả qua chỉ là oan hồn hai con bé chết lúc còn con gái, thiếu tình đó mà thôị Từ lúc mình quen chúng nó, mới cùng nhau đi chơi đi bời trong ngàn trong nội, nào chúng đã dắt mình đến cuộc mây mưa dâu bộc gì đâu! Thế thì chưa lọ Ðể thong thả anh nghĩ một kế làm cho chúng phải bạt đi mới được.

Anh tôi nói vậy thì tôi biết vậy, chớ tôi vẫn khóc lóc như thường. May sao, vì sự khóc lóc thảm thiết đó, có một cụ già để ý đến tôị Ông hỏi tôi, tôi nhất nhất kể sự tình cho ông rõ.

Ông già ngắm mặt mũi hai anh em tôi một lúc, rồi ông đòi xem bàn taỵ Xem xong, ông đưa chúng tôi vào một căn phòng hẹp trong nhà trọ, ông đứng ngoài bắt bốn cái quyết, lầm rầm đọc chú hồi lâu mới bước vàọ Ông không đắn đo gì cả nói ngay:

- “Tôi xem khí sắc hai thầy, chưa đến nỗi suỵ Ám khí cũng chưa phạm được mấy, vì hai thầy có can đảm nhiều, hóa nên tôi mới cứu được. Giá phải người yếu linh hồn, ắt bị hại đã lâu rồị Cái giống ma này khôn lắm, nó muốn báo thù thầy đấy, nhưng nó cứ làm dần dần, mỗi đêm đi sâu vào một chút thôi, độ nửa năm thì không chữa được nữạ Tôi cho hai thầy hai đạo bùa này, hai thầy phải giấu trong kỹ trong búi tóc, nó sẽ không biết; nếu để chỗ khác, nó trông thấy sẽ cướp mất. Ta lại tương kế tụ kế, nhân chúng nó đương rủ hai thầy đi vào đường tình ái, hai thầy sẽ làm như âu yếm nó lắm lắm, chớ đừng tỏ vẻ lãnh đạm như xưạ Làm ra như mình thấy chúng yêu mình một lòng chân thật nên cũng hồi tâm mà sủng ái chúng. Rồi một thầy sẽ, trong khi tự tình, hỏi nó xem mả hay nhà mồ của chúng nó ở đâụ Nói rằng khi nào anh thác đi, sẽ lại nằm chung với em. Khi nó chỉ mả rồi, thì thử ba lần xem có cùng đúng một chỗ không, mỗi lần nên nhận địa thế và đánh dấu kỹ càng. Lúc nào biết đó chính là mả chúng nó rồi thì các thầy nên làm thế này thế nàỵ..”, đến đây ông cụ nói rất khẽ “Chúng nó sẽ kiêng hai thầy không dám đến gần nữạ Hai thầy sẽ thoát nạn. Song cốt nhất hai thầy phải điềm đạm, cẩn thận, suy xét cho tỉ mỉ, chớ có mừng rỡ lộ ra nét mặt mà khó lòng giấu được chúng. Hai thầy nên nhớ kỹ. Thôi hai thầy đi đi, thế là xong rồi!”

Chúng tôi xin tạ ơn ông cụ, cụ nhất định từ chốị Túng thế, giữa lúc cụ vô tình, cả hai anh em tôi sụp xuống lạy cụ hai lạy, cụ phải buộc lòng nhận vậy, nhưng làm cách nào cụ cũng không nhận tiền.

Ðêm hôm ấy, hai anh em chúng tôi lại vào rừng và bắt đầu làm đúng theo chương trình ông cụ già đã chỉ bảọ Muốn cho cẩn thận anh em tôi hỏi dò mả của hai con ma đến năm sáu lần, rồi chúng tôi nhận kỹ địa thế và đánh dấu chỗ của chúng rất minh bạch, chí kỳ không lầm lẫn được nữạ Một hôm trời có nắng, chúng tôi đợi đến đúng ngọ, vác xẻng vác cuốc vào rừng, đến chỗ hai cái mả mà chúng tôi đã đánh dấu, khai quật quan tài lên. Mở nắp ra vứt lá bùa vào rất nhanh rồi đậy nắp lại, xong lật áo quan cho xuống hố lấp đất lên cẩn thận.

Tối hôm đó, quả nhiên không thấy hai cái bóng trắng ngồi dưới chân nữạ Nhưng hai anh em tôi, lúc chợp mắt ngủ thì cùng thấy hai giấc chiêm bao giống nhaụ Trong mộng, cô ả nhân tình ma của đứa nào hiện lên bảo đứa ấy rằng:

- Thôi được! Anh đã đối đãi với tôi tệ bạc và tàn nhẫn với em, rồi anh sẽ biết em báo cừu như thế nàọ Em truyền hồn cho anh. Em sẽ làm cho anh chết đầu lìa khỏi xác, giữa lúc còn niên thiếu như em. Sống, anh không muốn làm chồng em, chết, rồi anh sẽ làm chồng em, anh nghe chưả

Chẳng qua đấy là lời hăm dọa vu vơ, chớ nó chết rồi, còn làm quái gì được aỉ Sống chết đã có mệnh, dễ đâu con ma kia có thể sát hại được hai anh em tôỉ Chỉ biết từ khi triệt được nó, tôi được bình an vô sự. Lũ ma hình như sợ tôi rồi, không con nào dám lại trêu tôi nữạ Ðêm đêm tôi được ngủ ngon lành hết sức, tôi ở nhà sàn này quá như ở nhà tôi, chả còn e ngại nỗi gì. Trước kia tôi săn bắn mãi không bao giờ được hổ, báo và hươu nai; nay tôi bắn được rất nhiều hươu săn được hàng mười mấy con, gạc chất đầy nhà, bán được nhiều tiền lắm. Tôi lại vớ được đủ thứ; ngày thì có sơn dương có cầy hương, có các thứ chim quý, đêm thì có hoẵng, nai, lợn, báo, và chồn. Có một lần tôi ném phi tiêu giết được một con hổ mẹ và hai hổ con, vừa đây tôi hụt một con beo xám to tiếc quá. Anh cả tôi, Mạnh Khôi, thì lại thích về mé Chợ Ghềnh, anh tôi săn ở phía đó không vào đây mấỵ

- Nhưng kìa! Cô xem có phải sắp sáng rồi đó không? Chúng ta mãi miết nói chuyện mà ai ngờ sắp bạch nhật rồị
 
Bài Ký Một Giấc Mơ Tác giả: Lê Thánh Tông

Nhân Tông gặp loạn Nghi Dân. Ta mới lên ngôi, nghĩ đến việc trước mà luôn luôn phải phòng ngừạ Thường dàn sáu quân thân hành đi kiểm soát. Một hôm gặp mưa to, đóng lại trên bờ hồ Trúc Bạch ở mỏ phượng. Trong cơn mưa u ám, phảng phất có tiếng khóc than thảm thiết. Khi ta truyền mọi người lắng nghe thì không thấy gì, nhưng đến khi gió lớn mưa to thì lại nghe thấy tiếng như trước. Ta ngờ vực, rót chén rượu, hắt ra phía có tiếng khóc, khấn thầm rằng:

- Trẫm trên nhờ oai linh của tổ tông, dưới dựa vào bầy tôi giúp sức, sinh, sát, thưởng, phạt đều nắm trong taỵ Ai uất ức, đau khổ, ta có thể giải đi được. Ai có công đức ngầm kín, ta có thể nêu lên được. Khấn với các thần ở địa pphương, nếu có u hồn nào còn uất ức thì bảo chúng cứ thực tâu bàỵ Cớ sao gió mưa thì nghe thấy tiếng, lờ mờ không rõ, như khóc như than, nửa ẩn, nửa hiện, trong tình u oán có ý thẹn thùng, làm cho ta sinh lòng nghi hoặc, muốn nêu lên không rõ công đâu mà nêu, muốn giải cho không biết oan đâu mà giảị Trẫm không nói lại lần nữa, bảo cho các thần biết.

Khấn xong, ta xem hoa cỏ phía ấy tựa hồ có ý cảm động, khiến ta cũng sinh lòng thương xót. Ta liền sắc cho các tướng truyền quân sĩ chỉnh tề hàng ngũ về cung.

Các tướng hộ giá đều phục đằng trước tâu rằng:

- Từ khi thánh thượng chính ngôi đến nay, dân chúng thảy đều thần phục, há đâu có sự bất ngờ. Nay trời rét như cắt, lại thêm mưa gió lạnh lùng, dù ơn vua rộng khắp, ba quân đều có lòng cắp bông báo ơn chúa (xưa có câu truyện: nước Sở đánh nước Tiêu, trời rét, vua Sở đi khắp ba quân phủ dụ khuyến khích, quân sĩ đều thấy hăng hái, trong mình ấp áp như cắp bông vậy), nhưng đội mưa ra về, dân chúng sẽ nghi là có việc khẩn cấp. Cúi xin đóng tạm ở hành tại, đợi khi mưa tạnh trời quang, truyền mở cửa Tây, chỉ trăm bước là về tới chính cung thôị

Ta ngượng theo ý chư tướng, hạ lệnh ngủ qua đêm ở đó. Ðêm khuya mộng thấy hai người con gái rất đẹp đội một phong thư, phục xuống trước mặt tâu rằng:

- Chị em thiếp trước thờ vua Lý Cao Tông, rất được nhà vua quý mến. Không may phận rủi thời suy, bị kẻ gian là Trần Lục bắt trộm, đem đi trốn, định bán chị em thiếp cho người ta bằng một giá đắt, nhưng bị người láng giềng trông thấy, nó sợ tội nặng, nên đem chị em thiếp giam ở địa phương nàỵ Tới nay đã hơn hai trăm năm. May nhà vua đi tuần qua đi, có lòng thương xót mọi người, nên chị em thiếp đều liều chết dâng thư, mong đội đức thánh minh soi xét chọ Chị em thiếp nghĩ lúc này chính là lúc được ra ngoài hang tối, thấy bóng mặt trờị

Hai cô nói xong, rồi đặt thư lên án, vừa khóc vừa lạy mà lui rạ

Ta tỉnh giấc, trông lên án, quả có một phong thư. Trong lòng nghi hoặc, vội mở ra xem thì thấy một tờ giấy trắng ngang dọc đều độ một thước, trên có bảy mươi mốt chữ, lối chữ ngoằn ngoèo như hình giun dế, không thể hiểu được. Dước cũng có hai bài thơ:

Bài thứ nhất rằng:

Cổ nguyệt lạc hàn thủy,

Ðiền ôi vị bán âm.

Dạ dạ quân kim trọng,

Thê thê thiên lý lâm.

Tạm dịch là:

Mặt trăng xưa, rơi xuống nước lạnh,

Góc ruộng vì thế mà tối mất một nửạ

Ðêm đêm cân vàng nặng,

Ðau xót lòng ngàn dặm.

Bài thứ hai:

Xuất tự ba sơn sự nhị vương,

Tị lân đầu thượng lưỡng tương phương

Hậu lai giá đắc kim đồng tử,

Không đới đào chi vĩnh tự thương.

Tạm dịch là:

Ra tự núi Ba Sơn thờ hai vua,

Trên đầu liền xóm hai người sánh đôị

Ðến sau gả cho chàng kim đồng,

Uổng công đội cành đào, cảm thấy đau xót mãị

Ta nghĩ đi nghĩ lại hai ba lần, nhưng vẫn chưa hiểu ý. Sáng hôm sau ta vào triều, vời học thần nội các đến, thuật rõ việc ấy và đưa hai bài thơ cho mọi người xem để giải nghĩạ

Các họa sĩ đều nói:

- Lời nói của quỷ thần rất huyền bí, không thể giải đoán ngay được. Xin bệ hạ cho phép chúng tôi nghĩ kỹ xem thế nào rồi sẽ xin tâu lạị

Trải qua ba năm, không ai biết hai bài thơ ý nói gì.

Một hôm ta ngủ trưa, mộng thấy người Tiên thổi địch gặp ở hồ Tây khi trước. Ta mừng lắm, mời gã cùng ngồi, cầm tay nói chuyện vui vẻ. Trong mộng lại nhớ đến hai bài thơ kia, đem ra hỏi:

Tiên thổi địch nói:

- Tiên triết ta có câu: “Không thể biết được mới gọi là thần”. Ðem lòng trần dò lòng thần, dò thế nào được? Vậy nên ba năm nay muốn thân oan cho người mà vẫn chưa được.

Tiên thổi địch mới giải nghĩa rằng:

- Hai người con gái ấy là yêu thần của chuông vàng và đàn tỳ bà đó. Khi xưa Lý Cao Tông chế nhạc, đặt tên chuông là Kim Chung, trên đàn là Ngọc tỳ bà. Là chuông, mà có tiếng tơ trúc, là tơ, mà có âm hưởng của kim thạch, cho nên mỗi lần được tấy ở ngự tiền, vẫn được ban thưởng. Nhà vua rất quý, đem cất vào nhạc phủ cẩn thận. Ðến đời Huệ Tông, trễ nải chính trị, ruồng bỏ nhạc công, hàng ngày say sưa hát hỏng, múa giáo tự xưng là tướng nhà trời, ủy cả chính quyền cho nhà Trần. Lúc ấy, một người tôn thất nhà Trần, tên là Lục, thừa cơ lấy trọm hai nhạc cụ ấỵ Không ngờ nhạc công là Nguyễn Trực trông thấy, toan đem phát giác. Lục sợ mắc tội, liền đem chôn tại bờ hồ Trúc Bạch, bên trên trồng một cây anh đào cho mất dấu tích đị Khí vàng và ngọc lâu này thành yêu, nay chúng muốn kêu với vua đào lên để chúng được trổ tài cho nhà vua dùng đó. Trong bài thơ nói: “Cổ nguyệt lạc hàn thủy”, là: bên tả chấm thủy, giữa có chữ “cổ”, bên hữu có chữ “nguyệt” ghép lại thành chữ “bạn”. Cho nên nói: “Ðiền ôi vị bán âm”. Kim, đồng ghép lại là chữ “chung”. Thiên lý ghép lại là chữ “mai”, vì chữ “thổ” ngược lại là chữ “thiên”. Bốn câu này đọc thành bốn chữ là “Hồ bạn chung mai” (nghĩa là Chuông chôn bờ hồ). Còn các chữ khác chẳng qua chắp nhặt cho thành câu thôị Hai chữ “vương” trên chữ “bà”. Trên đầu chữ “tỷ” với trên đầu chữ “ba” so sánh như nhau, nghĩa là cùng đặt hai chữ “vương” lên trên thì thành chữ “tỳ”. Hai chữ tuy đảo ngược, nhưng cũng hiểu là chữ “tỳ bà”. Gả cho chàng kim đồng: Kim đồng là chữ “chung”. Chắc là “tỳ bà” và “kim chung” cùng đựng vào một vật gì đem chôn đó. Còn câu: “Không đới đào chi vĩnh tự thương”, thì cem bờ hồ nào có cây anh đào, tức là hai thứ ấy chôn ở dưới gốc đó.

Ta lại hỏi âm và nghĩ của 71 chữ ở đầu trang.

Tiên thổi địch nói:

- Những chữ ấy tức là lời tâu của hai con yêụ Lối chữ ấy là lối chữ cổ sơ của Việt Nam. Nay Mường Mán ở các sơn động cũng có người còn đọc được. Nhà vua triệu họ đến, bắt họ đọc thì khắc biết.

Tiên thổi địch nói xong, ta còn muốn nói chuyện nữạ Chợt có cơn gió thoảng qua làm ta tỉnh giấc. Bèn truyền thị vệ theo lời dặn của Tiên thổi địch đi tìm. Quả nhiên đào được một quả chuông vàng và một cây đàn tỳ bà ở bên hồ
 
Có một giấc mơ cứ đeo bám cô suốt thời thiếu nữ. Trong đêm lập đông se lạnh, trên nền trời xám xanh trong suốt, một đốm sáng xa tít bay dần về phía cửa sổ cạnh giường cô.

Đốm sáng lớn dần trở thành vầng hào quang bao quanh người thanh niên tuấn tú quỳ trên tấm thảm bay, rồi đáp lại trên bậu cửa sổ. Người thanh niên bước xuống ngồi lên mép giường nhìn cô âu yếm, ánh mắt sâu hun hút khiến trái tim cô run rẩy, hạnh phúc căng tràn. Người ấy thì thầm giọng trầm ấm: Ta đến là để thuộc về em. Giấc mơ cứ lặp đi lặp lại mãi thôi thúc cô kiếm tìm ánh mắt ấy, giọng nói ấy.

Cô mở ngăn tủ anh dành riêng cho cô để những thứ thuộc về quá khứ. Cô lấy ra một cuốn nhật ký cũ sờn, giấy đã ngả màu ố vàng.

10-9-... Lớp tôi vừa nhận thêm một kẻ ngạo mạn. Nghe đâu hắn từ miền Trung chuyển vào theo cha. Để xem hắn học hành ra sao mà cứ bơ bơ nhìn người bằng nửa con mắt thế.

15-9-... Thật khó chịu, cô xếp hắn ngồi cạnh tôi. Hắn soi mói tôi từ đầu đến chân y như săm soi một căn phòng mới để quyết định nên đặt bàn ở đâu, ghế chỗ nào, giường ra sao. Rồi hắn ngồi xuống, để cặp ngăn đôi chiếc ghế. Tôi cúi gằm mặt xuống, tức nghẹn họng, cảm thấy bị xúc phạm ghê gớm...

2-11-... Cả tháng nay tôi im như thóc, coi như không có hắn bên cạnh. Hắn vẫn giở những trò cũ, hết chuyện Cây gậy thần để tặng cho anh chàng cao nhất lớp nhưng thiếu bề ngang mà nói như tiên tri, lại đến chuyện Thầy bói mù tặng cho anh chàng thích đeo kính màu xám tro, lọ mọ lom khom như ông thầy bói.

Hôm nay hắn còn bày trò bỏ thư vào hộc bàn tôi. Tôi không đọc nhưng hắn nói nhỏ: Đọc đi, tớ muốn cậu hiểu rằng tớ nói thật, không chọc cậu đâu. Giọng hắn trầm ấm làm tôi thót tim nhưng ánh mắt không giống người thanh niên tôi hay gặp trong những giấc mơ. Ánh mắt hắn xa xăm như không của riêng ai, trong suốt như mắt trẻ thơ nhưng khi đã nhìn xoáy vào ai thì người ấy không thể nói dối được.

�Tớ muốn nói với cậu rằng đừng ảo tưởng về mình và đừng gây hy vọng cho người khác bằng cái vẻ thánh thiện ấy. Mẹ tớ đã từng là một người thánh thiện trước mắt cha con tớ và mọi người. Vậy mà mẹ đã bỏ tất cả đi theo tiếng gọi tình yêu. Trước khi đi mẹ khóc nói với tớ: Lớn lên con sẽ thông cảm cho mẹ. Tớ chẳng hiểu mình phải thông cảm thế nào khi nhìn cảnh ba tớ gầy rộc đi sau một tuần tự giam mình trong phòng trước khi quyết định cầm bút ký vào đơn ly hôn. Người mẹ mà tớ hằng yêu kính, người từng dạy dỗ tớ điều hay lẽ phải ở đời giờ đã ở bên kia chiến tuyến, tớ chọn sống với ba vì ba là người khốn khổ. Cậu có cái gì đó giống mẹ tớ nhưng lạ thay tớ không ghét cậu mà chỉ thấy tội nghiệp thôi�

Đọc xong tôi khóc, khóc vì thương hắn phải sống trong nghịch cảnh quá sớm nên già trước tuổi, khóc vì hắn so sánh tôi với mẹ hắn. Tôi chưa bao giờ làm khổ người khác, tôi cũng không đòi hỏi gì cho mình, tôi chỉ trông chờ một tình yêu dâng hiến, tôi thấy mình trong suốt như pha lê.

24-12-... Hắn rủ tôi lên thác chơi. Chẳng biết tự lúc nào chúng tôi đã là bạn tâm giao. Hắn bông đùa với bạn bè, thậm chí cả với thầy cô nhưng với tôi, hắn lại thủ thỉ chuyện trò rất ư tâm trạng. Bỏ cả giày dép, chúng tôi cẩn thận giẫm lên từng viên đá, cùng lội ngược dòng suối lên đầu nguồn, hắn hỏi tôi hiểu gì về cái tình yêu dâng hiến mà tôi đang đi tìm? Tôi kể cho hắn nghe giấc mơ của tôi và bảo tôi không hiểu nhưng tôi cảm nhận, thậm chí tin chắc là có một tình yêu như thế. Hắn mỉm cười, đặt ngay cho giấc mơ của tôi một cái tên dễ gây tự ái: �Giấc mơ hoang đường�. Tôi nguýt hắn một cái rõ dài. Hắn đưa một tay nắm tay tôi kéo lên dốc đá thẳng đứng, tay kia bám chặt vào một dây leo to vắt ngang vách đá. Tiếng suối chảy róc rách dịu êm dần được thay bằng tiếng thác ầm ào hung dữ. Chúng tôi đã leo lên đến đỉnh thác.

Hắn nhắc tôi: �Đá ở đây phủ rêu trơn lắm, giẫm lên thấy chắc chân rồi hãy bước qua hòn khác, hắn chỉ dòng nước chảy quanh những phiến đá chỗ chúng tôi đang đứng bảo: Xem kìa, nó thật hiền hòa êm ái, chỉ khi gặp nghịch cảnh nó mới hung dữ thôi. Thế cậu có biết cách biến �giấc mơ hoang đường� của cậu thành hiện thực không? Tôi bĩu môi: Làm như cậu biết. Hắn rỉ tai tôi vẻ bí mật: Cậu nắm tay người yêu thật chặt và lao vào dòng thác kia kìa, đừng buông ra nhé! Xuống đến dưới kia, hoặc hai người sẽ văng ra hai phía hoặc cậu sẽ nhận được tình yêu mà cậu đi tìm.

Hắn lại giễu tôi ấy mà. Tính hắn vẫn thế...

Cô gấp cuốn nhật ký lại. Thật bất ngờ! Hết lớp 12 hắn vào một dòng tu. Trước khi về Sài Gòn học, cô hỏi hắn: Sao cậu chọn con đường ấy? Hắn nghĩ ngợi: À, để thực hiện �giấc mơ hoang đường� của tớ thôi.

Từ giã cảnh cũ người xưa, cô hụt hẫng mất mấy tháng, rồi cuộc sống mới cũng đưa cô vào vòng xoay của nó. Bây giờ cô phải tự sắp xếp mọi thứ, tính toán chi tiêu trong khuôn khổ số tiền cha mẹ chu cấp. Cô có rất ít bạn, họ bảo cô ở trên núi có khác, lúc nào cũng chậm chạp, lặng lẽ. Cô cắm cúi học, học mãi, vài người ngỏ lời yêu nhưng họ mờ nhạt quá, không để lại một dấu ấn nào trong tâm hồn cô. Rồi 5 năm đại học cũng sắp kết thúc, một số bạn cùng lớp cô rục rịch chuẩn bị đám cưới. Họ thật đơn giản, quen nhau, cãi nhau, giận nhau, làm lành, chở nhau đi ăn, cùng đi làm thêm, cùng đếm tiền, để dành, cưa đôi, rồi cười đùa sung sướng, bây giờ lại đưa thiệp cưới. Cô không như vậy được, khi yêu cô phải dành những gì đẹp đẽ nhất cho người yêu, những gì thiệt thòi cô cất cho riêng mình.

Buổi lễ tốt nghiệp diễn ra long trọng. Ban giám hiệu mời những cựu sinh viên thành đạt về chia sẻ kinh nghiệm tìm việc và sống với nghề cho đàn em. Anh nói rất tự tin, anh bảo ngoài giỏi nghiệp vụ, các bạn còn phải biết tạo và giữ các mối quan hệ và nhất là không để cho sự chán nản xâm chiếm mình. Anh thật vững vàng, dù mới ra trường có 6 năm, đặc biệt là anh yêu cuộc sống đến kỳ lạ. Sau buổi lễ, tổ cô mời anh đi uống nước. Sau này khi lấy nhau rồi, anh bảo anh chú ý đến cô vì cô dè dặt, giản dị mà không dễ thỏa hiệp. Anh có một tật xấu là rất khó từ chối tình yêu nhưng khi đã ăn ở với nhau rồi thì anh không cưới.

Anh hăm hở lao vào công việc, tạo dựng các mối quan hệ đến quên cả bản thân mình. Anh chỉnh tề khi ra ngoài đường, còn những lúc ở bên cô, anh lại thoải mái tự nhiên từ ăn mặc đến lời nói, anh không che giấu những thói quen xấu. Đôi khi cô có cảm giác anh vô tư hồn nhiên như một đứa trẻ. Anh không bắt cô phải thế này thế nọ, cũng chưa hề than vãn vì bất cứ khó khăn nào nhưng sự chăm sóc tỉ mỉ của cô làm anh khó chịu. Anh không muốn trả lời cô những câu hỏi về giờ giấc, anh muốn cô hiểu anh tự biết sử dụng thời gian của mình sao cho hữu ích nhất. Anh cũng không muốn cô hỏi �tại sao� vì mỗi việc anh làm đều có lý lẽ của nó, cô đừng đặt ra bất cứ cái khung nào bắt anh chui vào. Sống với anh, cô buồn lắm, cô không tìm được một kẽ hở nào để đi vào thế giới của anh, cô thấy mình lạc lõng.
 
Cô về quê nghỉ ngơi một tuần, thời gian lắng lại giúp cô hiểu đúng hơn về hoàn cảnh của mình. Còn hắn đang làm luận văn thần học, chỉ được ra ngoài mỗi chiều thứ bảy. Gặp lại, cô ngạc nhiên khi thấy hắn vẫn trẻ trung, hóm hỉnh như ngày nào, chỉ khác là hắn, nghe nhiều hơn nói, còn cô đổi vai cho hắn nói nhiều hơn nghe. Sau khi nghe cô than thở chán chê về cuộc hôn nhân của mình, hắn tủm tỉm: Bây giờ mới đúng là cậu.

Cô trêu hắn:

- Cậu đi tu thật là phí. Nếu không, cậu sẽ là người chồng người cha tốt đấy.

Hắn nghiêm chỉnh:

- Này, tớ thấy cậu yêu anh ấy lắm, muốn giữ anh ấy, cậu phải biết anh ấy ước mơ gì và chịu khó đan xen vào cuộc sống của anh ấy.

- Sao lại phải chịu khó, tớ muốn mà anh ấy cứ đẩy tớ ra.

- Cậu muốn anh ấy làm theo ý cậu thì có, vì đan xen vào anh ấy, cậu phải hy sinh một phần cái tôi của mình, phải mở lòng ra đau lắm.

Cô trở về với gia đình và công việc hằng ngày, cô tập đan xen vào anh. Đau thật! Cô phải bỏ qua những tật xấu của anh bằng cách nghĩ nếu ngày mai anh biến mất khỏi đời cô thì sao, cô luôn sống như hôm nay là ngày cuối cùng có nhau, cố gắng không đòi hỏi gì cho mình. Một lần, cô mua cho anh bộ quần áo mới, cô muốn anh thử ngay xem có vừa không nhưng anh loay hoay trên mạng chưa muốn thử.

Cô vùng vằng:

- Không cần em thì anh lấy em làm gì, em muốn ly thân để xem lại mình có thật cần có nhau không. Em sẽ phát điên nếu cứ sống thế này mãi.

Anh thản nhiên:

- Thế em muốn gì? Em muốn dốc hết tình cảm cho anh để chứng tỏ tình yêu của em chứ gì?

- Như thế mới là yêu.

- Sai lầm rồi cô bé ạ. Em muốn cho hết những gì em có thì chỉ là sự lệ thuộc thôi, em đâu phải thánh mà không biết đòi hỏi, sợ rằng đến lúc em đòi lại anh không trả nổi. Em có biết anh cần gì không?

- Anh cần có một gia đình để khỏi khác mọi người.

- Không đúng, anh cần em biết sống cho mình một chút, để phát triển bản thân và để trưởng thành, anh không cần một cô bé lúc nào cũng xoay quanh những nhu cầu của anh mà cần một người vợ độc lập, hiểu, chia sẻ cuộc sống với anh.

Anh kéo cô vào lòng, hôn lên mắt cô thì thầm: Ngốc ạ, em phải là vợ anh, bảo mẫu của anh, bạn của anh nữa. Cô vòng tay quanh cổ anh âu yếm: Em chỉ thích làm vợ anh thôi. Anh bế thốc cô lên giường, dụi đầu vào ngực cô, anh chìm vào thế giới của cô dịu êm nồng nàn, anh cười mãn nguyện.

Những tia nắng ban mai xuyên qua khe cửa hắt lên gương mặt cô vốn không hồng hào, giờ càng xanh xao tiều tụy.

Cô mở to mắt ngắm nhìn khuôn hình chụp gia đình Tết năm ấy, anh đã phóng to và treo trang trọng trên bức tường phòng ngủ. Vậy mà chỉ cách nay mấy tháng, cô đã nhìn nó nước mắt lưng tròng vì nghĩ rằng không có chỗ cho cô trong cuộc đời anh. Cô tung chăn xua đi những ý nghĩ đen tối của quá khứ, mở rộng cửa sổ hít thở mùi hương ngọc lan cùng ánh nắng ấm áp đang ùa vào phòng. Cô sờ tay lên cái đầu còn đang lún phún tóc sau trận sốt thương hàn thập tử nhất sinh vừa qua và bất giác mỉm cười. Giấc mơ hoang đường đã thành sự thật
 
Rồi Sẽ Về Đâu

Thấm thoát đã một năm rưỡi tháng trôi qua, kể từ khi Khải về Việt Nam thăm gia đình và cưới vợ. Qua bao nhiêu thủ tục phiền toái nay Khải đã được hội thiện nguyện chính thức báo tin ngày giờ của Như, vợ Khải đến Hoa Kỳ. Được tin, chàng dửng dưng, không vui cũng không buồn nhưng lòng hơi nhói đau khi nghĩ đến mối tình đã đi qua của chàng và Tường Vi.


Khải làm việc nửa ngày, còn nửa ngày chàng xin phép thượng cấp về sớm để chuẩn bị đón vợ. Đến nhà, chàng dọn dẹp nhà cửa, đi chợ mua thức ăn cho đầy tủ lạnh mà vẫn thấy còn dư quá nhiều thì giờ.

Nằm xuống bật máy truyền hình thấy phim đấm đá chàng chán nản, đứng dậy tắt máy truyền hình rồi quay qua vặn nhạc. Bản nhạc hát dở dang tự bao giờ cất lên: "... Thôi nhé anh! Người nào phụ tình, lòng buồn một mình, ray rứt mãi khôn nguôi...". Khải bỗng giận dữ đến tắt vội chiếc máy hát. Tiếng "cụp" khô khan nhưng cũng làm chàng nghe đau nhói trong tim. Gục mặt vào lòng hai bàn tay chàng thì thầm: "Tường Vi! Giờ nầy em ở đâu? Em có hiểu và tha thứ cho anh không?"



Thời gian rồi cũng trôi qua đến giờ Khải phải ra phi trường. Nhớ đến vợ chồng Hoàng người bạn quen trong một tiệc cưới, hôm nay chàng đã gọi điện thoại hai, ba lần nhưng không gặp định rủ họ đi đón vợ mình nhưng rồi cuối cùng phải lủi thủi đi một mình, chàng hối hận đã không rủ Hoàng từ trước làm sao họ biết được. Lặng lẽ lái xe ra phi trường, lòng tự an ủi: "Thôi kệ! Đi một mình dễ dàng nói chuyện với Như hơn".


Ngồi canh ngay cổng số chín, Khải lẳng lặng quan sát những người đi đón thân nhân, ai cũng tươi cười, hớn hở, ăn mặc lịch sự, riêng chàng xốc xếch tâm thần buồn bã, chàng hơi hối hận thầm với Như ... Cố trấn tĩnh, lấy lại nét tươi vui và xua đuổi đi hình bóng Tường Vi.


Máy bay đã đáp, mọi người nhốn nháo đến gần cửa hành khách. Từ hành lang nhỏ hẹp, khách trên máy bay lục tục bước ra. Khải thấy hơi hồi hộp, gần đến những người sau cùng mới thấy Như xuất hiện. Một tay xách chiếc giỏ ni lông, vai đeo một túi và tay kia cầm bao ni lông dẹp, lớn mà Khải nhận ra ngay đó là bao đựng phim quang tuyến phổi đã chụp ở Thái Lan. Khải đến bên Như khẻ gọi:

- Em!

- Anh!

Như đáp lại trong ngọt ngào. Choàng tay qua vai vợ chàng bảo:

- Gặp nhau thì mừng, có gì đâu mà em khóc?

- Ở mấy ngày ở Thái Lan rồi đi không biết mấy chục giờ ở máy bay em mệt ghê anh ạ!

- Anh biết. Thôi về nhà ngủ một giấc mai sẽ khỏe ngay!

Như nhìn quanh rồi hỏi:

- Chỉ một mình anh đến đón em thôi à?

Khải lúng túng:

- Ừ... vì... vì anh muốn vợ chồng mình gặp nhau riêng rẽ dễ nói chuyện hơn.

Như tưởng thật, cảm động nhìn chồng cười mắt nhòa lệ. Một tay xách giỏ, một tay chàng quàng lưng vợ quan sát kỹ hơn, trong lòng không khỏi có sự so sánh giữa Như và Tường Vi: "Tường Vi đẹp hơn nhiều, nhưng Như có vẻ hiền lành, nhẫn nhục ...". Nghĩ đến đó, Khải lắc đầu xua đuổi tất cả để cố gắng sống trọn cho Như hơn.


Ngày tháng lặng lẽ trôi đi, Khải và Như sống một cuộc sống bình thường như bao nhiêu cặp vợ chồng khác, hằng ngày Khải đi làm, Như nhận một số quần áo cắt sẵn của hãng xưởng về may với giá rẻ mạt để đắp đổi cuộc sống qua ngày.
 
Thời gian gần đây gặp lúc kinh tế khủng hoảng, số hàng giao cho người đem về nhà không còn liên tục nữa. Rảnh rỗi, Như tự ý tìm học Anh ngữ qua sách vở của Khải với hy vọng kiếm được một việc làm ưng ý hơn.


Một hôm, vô tình lục sách cũ, một lá thư rơi ra. Tò mò như mở ra đọc:


"Cháu Khải,

Được thư cháu Dì Dượng đã làm đúng tất cả những gì theo lời cháu yêu cầu. Tuần rồi Dì gặp Lập anh của Tường Vi trong tiệm ăn Lập cho Dì biết Tường Vi rất đau khổ khi nghe cháu đã cưới vợ ở Việt Nam. Nhưng tất cả mọi người đều thông cảm và tha thứ cho cháu vì biết đó là vì chữ hiếu chứ không phải phụ phàng gì Tường Vi. Mọi người đều gởi lời chúc cháu hạnh phúc. Trong gia đình mình ai cũng quý mến Tường Vi nhưng thôi cháu ạ, vợ chồng là duyên số cả.

Cháu lo bảo lãnh cho vợ cháu để lâu không tốt. Dì Dượng gởi 300$ mừng cho cháu. Dì Dượng đã lập bàn thờ Ba cháu ở đây. Mỗi năm nếu không có gì trở ngại đến ngày đám giỗ Ba cháu, cháu cố gắng về.

Dì Dượng và các em thăm, chúc cháu vui khỏe.

Dì Dượng của cháu."


Như sững người một lúc, lặng lẽ xếp thư lại bỏ vào trang sách và sắp vào kệ như cũ. Lòng nàng chùng xuống. Giờ đây nàng mới hiểu vì sao sau mỗi buổi cơm chiều Khải thường ra ngồi phía trước nhìn hoàng hôn xuống dần để đốt hết điếu thuốc này sang điếu thuốc khác. Có những đêm Khải thở dài sườn sượt, và mọi quyết định đều được Khải trả lời một cách buông xuôi: "Em muốn sao cũng được!" . Cuộc sống tuy êm ả nhưng quả thật giờ đây Như mới thấy lạnh lùng, đáng sợ.


Thừ người suy nghĩ, nước mắt rơi rớt, nàng không buồn ngăn chận. Cho đến lúc nghe tiếng Khải về, những bước chân, tiếng khóa tra vào cửa, Như vội vã vào phòng tắm đóng ụp cửa lại.


Vào nhà, Khải ngồi xuống ghế cởi giày, hơi ngạc nhiên không thấy Như chào hỏi như mọi ngày, chàng vào phòng ngủ lấy bộ đồ ngủ ra định vào phòng tắm mới biết Như trong đó, chàng đưa tay xoay cửa, mỉm cười khi cửa khóa, chàng gõ nhẹ vào cửa:

- Em có trong đó không?

Im lặng. Chàng đập mạnh hơn:

- Như! Em ở trong đó hả?

Có tiếng Như khàn đục:

- Chờ! Chút em ra liền.


Chàng vứt bộ quần áo trên sô pha, xuống bếp định bốc ăn vã miếng gì nhưng... bếp núc vắng tanh chỉ còn nửa nồi cơm nguội trên bếp. Hơi chột dạ, chàng quay lại phòng tắm gọi cửa. Như bước ra hai mắt sưng mọng, đỏ hoe. Chàng ngạc nhiên:

- Em sao vậy?

- Không sao hết, em hơi mệt vậy thôi!
 
Mệt thế nào?

Như giận dỗi bỏ đi không trả lời không trả lời, Khải chạy theo níu tay nàng lại:

- Em có chuyện gì phải không? Sao em khóc?

Tủi thân, Như òa lên khóc như trẻ thơ vùng chạy vào phòng ngủ. Khải rượt theo thắc mắc:

- Có gì xảy ra em nói đi! Sao em khóc, nói đi...


Như vật người xuống giường, úp mặt xuống gối khóc rưng rức. Khải dỗ dành:

- Có gì em nói anh mới giải quyết được chứ em cứ khóc hoài anh đâu biết chuyện gì?

Như quay phắt người lại :

- Anh tự hiểu lấy đi!

Khải cảm thấy bất ổn khi nghe câu đó, chàng cố gắng đấu dịu:

- Em nói gì anh chẳng hiểu gì cả!

Rồi kéo Như sát bên mình chàng dỗ dành:

- Sao vậy em?

- Tường Vi là ai?

Tường Vi? Tiếng thét của Như như một mũi tên bắn thẳng vào tim Khải. Khải khựng đi giây lát rồi lạnh lùng đứng dậy:

- Ai nói gì với em về Tường Vi? Ai nói? Ai nói? Bà con bên anh có nhắc đến tên đó? Anh phải kể rõ Tường Vi là ai rồi em nói tại sao em biết cho anh nghe!

Khải trở lại giường ngồi xuống cạnh Như bảo:

- Thôi, em tìm hiểu làm gì chuyện cũ rích đó? Bỏ qua đi!

- Bỏ qua? Anh nói dễ nghe quá!

Khải kiên nhẫn:

- Đó là người con gái anh quen trước khi cưới em thôi, có gì mà em phải bận lòng? Nhưng anh không hiểu ai đã nói gì về cô ấy?


Một lo âu thoáng qua, Khải ái ngại chuyện gì xảy ra cho Tường Vi chăng? Khải cố moi móc trí nhớ, tất cả thư từ, hình ảnh của Tường Vi Khải đã đốt bỏ hết rồi kia mà! Sực nhớ bức thư của Dì Dượng... À có thể đây là nguyên nhân nhưng quả thật Khải không thể nhớ nổi mình đã "giấu" ở nơi nào. Biết không thể chối cãi được, chàng làm găng:

- Em biết được thế nào, nói anh nghe!

Như không dằn được kể lể đủ thứ rồi hằn học chạy ra ngoài đến kéo quyển sách trên kệ xuống lật nhanh, lôi ra bức thư ném mạnh xuống đất.

Khải khổ sở cúi xuống lượm lá thư mở ra đọc...

Cả khung trời kỷ niệm yêu thương ngày cũ sống lại, chàng thừ người trên ghế. Thấy Khải không còn dỗ dành mình, Như đâm hoảng, nàng la lên:

- Anh còn chối không?

Khải lì lợm:

- Anh không chối. Đúng Tường Vi là người yêu cũ ngày xưa của anh, lúc trước khi về Việt Nam anh hứa hẹn ra trường cưới cô ta. Lúc anh về Việt Nam Ba bệnh, gia đình mang ơn em nên buộc anh cưới em...

- Buộc anh cưới em?

Như cười chua chát:

- Giờ em mới biết anh bị bắt buộc! Anh hối hận không?

Khải ôn tồn:

- Quả đúng như vậy, Tường Vi là một người con gái cao thượng không hề trách móc anh lấy một lời, nếu là anh, anh sẽ đến gặp mặt một lần chửi kẻ phụ phàng mình... Nhưng...

Khải bỏ lửng câu nói rồi lại tiếp tục:

- Phần em, bao nhiêu ngày tháng sống với em anh đã cố gắng đem hạnh phúc cho em, em chưa vừa lòng sao còn hạch sách anh?

Như cay đắng:

- Hạnh phúc? Mỗi đêm anh trăn trở, mỗi sáng anh dậy sớm đứng tựa cửa sổ cả giờ, mỗi chiều anh đốt không biết bao nhiêu thuốc trước hiên nhà... Anh cho đó là đem hạnh phúc cho em?

- Vậy em quan niệm hạnh phúc là thế nào?

- Anh chưa bao giờ nhìn em bằng ánh mắt trìu mến, chưa bao giờ cầm tay em nói lời yêu thương, anh lạnh lùng, anh xa lạ nhưng trước giờ em cứ tưởng đó là bản chất của anh, giờ em mới biết lý do là anh bị cô Tường Vi nào đó... hớp hồn!


Khải sửng sốt nhìn vợ thì ra Như quá sâu sắc, đã thấu suốt tim chàng vậy mà bấy lâu nay chàng cứ nghĩ vợ mình mộc mạc, hiền lành. Chàng vớt vát:

- Thôi, em nói chừng đó đủ chưa?

- Nhưng anh phải nói rõ anh có thương em chút nào không?

Khải bật cười:

- Em hỏi gì giống con nít quá! Không thương sao sống với em?

Thấy gây với chồng chỉ bất lợi Như làm lành:

- Thôi, em bỏ qua chuyện nầy đó!

Khải chực chừng đó vội nói:

- Em dọn cơm đi! Anh đói rồi. Tắm ra ăn liền nghe!

Như sực nhớ lại suốt chiều tới giờ nàng quên đi chuyện bếp núc, cười giả lả:

- Tức anh gần chết đâu có nấu nướng gì, để cho anh đói luôn!

Khải bảo:

- Thôi anh tắm xong đi ăn tiệm một bữa đi!


Như không hiểu là mình đang giận hay đang thương chồng khi biết sự thật thế này. Không biết rồi đây tình yêu có trọn vẹn cho chồng không... Như lắc đầu xua đuổi những ý nghĩ không lấy gì làm vui cho lắm, nàng thì thầm:

- Em rất bơ vơ, em rất cô đơn và... em rất cần anh. Anh! Anh đừng bỏ em... Tội nghiệp em!!!

Nàng nghẹn ngào, sũng đầy nước mắt. Nàng tự hỏi:

- Rồi đây hạnh phúc sẽ về đâu
 
Truyện Ma Có Thật 100% - Unknow

MA_ vẫn là 1 đề tài được nhiều người thích thú. Có nhiều tin là có ma, nhưng có nhiều người lại nói là kkhông tin. Có rất nhiều hiện tượng lạ xảy ra, và tất nhiên là không có lời giải thích. Câu chuyện mà tôi kể ở đây là có thật, nhưng không phải là bản thân tôi găp, mà là anh của tôi.
Đó là 1 lần anh ầy đi công tác với phái đoàn ngoài Hà Nội. Vào 1 đêm, khi mọi người đang ngồi o quầy tiếp tân để mướn phòng thì có 1 bà khách chạy từ trên lầu xuống. Bà ấy vừa khóc vừa nói với người quản lý khách sạn.
__ Tôi..Tôi...không ở đây nữa. Tôi trả phòng lại đó.
Anh tôi và mọi người rất ngạc nhiên vì phản ứng lạ của bà khách này. Vì vậy anh ấy lại gần và hỏi:
__ Có chuyện gì vậy? Phòng đó có vấn đề gì ah?
Bà khách trong điệu bộ hốt hoảng trả lời:
__ Tôi nghĩ là phòng đó có.......tôi không biết nữa. Tôi đang nằm ngủ trên giường thì tự nhiên cái giường dựng đứng lên. Tôi tưởng là nằm mơ nên đã tự nhéo mình. Nhưng tôi rất tỉnh táo.....
Bà ấy hoảng loạn thật sư. Thấy vậy anh tôi mới đưa cho bà ấy vài viên thuốc an thần và nhờ người tìm cho bà ấy 1 phòng khác. Bạn của anh tôi cũng không phải là hiền. Họ cũng rất hào hứng trong chuyện này. Trong lúc đang phân vân. 1 người bạn của anh tôi nói :
__ Hùng_ tên anh trai tôi, tụi này biết mày rất gan da. Thôi thì tụi mình cá với nhau đi. Bây giờ mày vào phòng đó ở, nếu mày ở đó được 3 ngày mà không sợ thì tụi này sẽ dắt mày đi ăn 1 chầu.
Anh tôi cũng tin vào những chuyện lạ như vậy, nhưng anh ấy cũng muốn thử xem sao. Vì vậy anh ấy nhận lời. Tối hôm đó, trước khi đi ngủ, anh ấy gọi người quản lý và dặn:
__ Huân, ngày mai em kêu anh dậy lúc 6h nha, anh còn phải vào bệnh viện có chuyện.
Anh quản lý đồng ý. Thế là tối hôm đó anh tôi vào ở cái phòng mà bà khách kia nói là có ma.......................

Đang ngủ say giấc, bỗng có tiếng của Huân:
__ Anh Hùng, dậy đi anh, 6h rồi, anh còn phải vào bệnh viện nưa.
Không chỉ gọi mà Huân còn đến gần và lay lay người anh tôi nưa. Anh tôi lim dim mở mắt, chộp lấy cài đồng hồ và nhin. Anh ấy trả lời lại:
__ Chỉ mới có 5h15 thôi, sao em kêu anh sớm vây?
Anh Hùng liến quay người hướng mặt vào tương. Nhưng cũng ngay lúc ấy, anh tôi bật ngồi dậy trong sự hoảng hôt...........

Anh ấy không hoảng hốt vì cái giường dựng đứng lên. Anh ấy cũng không giật mình vì Huân gọi anh ấy dậy sơm. Anh ấy bật dậy vì nhớ ra là Huân đã vào và lay lay gọi anh ây. Chuyện lay lay người để gọi 1 ai dậy là chuyện thương. Nhung nó sẽ trở nên quái lạ nếu cửa đã được anh tôi khoá 2 chốt, cài móc xích và đút chìa khoá ở ô. Điều đó cũng có nghĩa là, không 1 ai ở ngoài có thể mở cửa đươc. Bởi vì thắc mắc chuyện đó, nên anh ấy dậy và chuẩn bị đồ để đi làm luôn. Đến tối về, anh ấy lại vào phòng và đóng cửa kỹ như ngày hôm qua. Nhưng hôm nay, anh ấy không nghe gì hết, anh ấy để đồng hồ vào lúc 5h30 nhưng lại tỉnh dậy vào 5h15...........

Đến ngày cuối cùng là ngày thứ 7 và anh ấy ko cần đi làm vào ngày mai. Anh ấy quyết dịnh dùng thuốc ngủ để ngủ cho ngon giâc. Nhưng lạ 1 điều là, ngay cả khi uống 2 viên thuốc ngủ thì anh ấy vẫn thức dậy đúng 5h15. Điều này rất lạ đối với anh ấy vì anh thường thức dậy rất trễ khi ko làm vào buổi sang. Anh ấy xuống quầy tiếp tân và gặp bạn be. Mọi người đều hỏi han anh Hùng.
__Sao? Mày có gặp gì không?
Anh tôi trả lời:
__Có, tối đầu thì thấy Huân 5h15 lên kêu tôi.
Huân liền nói:
__Không có anh ah! Anh dặn em là 6h mới gọi anh ma. Với lại lúc đó em đang có ca trực bên khu kia, đâu có ở đây.
Nghe Huân nói vậy, mọi người đều há hốc miệng ra. Và rất ngạc nhiên khi thấy anh tôi vẫn bình thương. Anh tôi nói:
__ Anh biết, vì đó không phải là em. Cửa phòng anh khoá rất kỹ, nếu là em thì em cũng chẳng vào được __Anh tôi nói tiếp:
__ Có điều ngạc nhiên là, mấy ngày nay, lúc nào anh cũng dậy vào lúc 5h15. Không trễ củng không sớm hơn phút nao. Hôm qua anh đã uống thuốc ngủ, nhưng sáng nay cũng dậy vào đúng giờ đo. Mà lạ hơn nữa, khi thức dậy, anh rất tỉnh táo, không có chút gì nhức đầu hay ngái ngủ như trước đây.
Mọi người đã ngạc nhiên giờ càng ngac nhiên khi anh tôi hỏi người tổng quản lý khách sạn đã đứng tuổi:
__ Bà hãy kể sự thực về cái phòng đó đi.
Người tổng quản lý bèn kể nhỏ:
__ Cái phòng đó lúc trước có 1 bà khách mướn, và không biết vì chuyện gì mà bà ấy đã tự tử trong đó vào lúc 5h15...................................
 
Cây Chổi Yêu Tinh Tác giả: Unknow

Lâu ngày thành yêu, vật nào cũng thế, không những chỉ có vàng và ngọc... Như trong vườn hoang ở một ấp kia có một tòa miếu cổ xây bằng gạch. Ðằng trước có một cửa nhỏ, chỉ vừa một người ra vào, bên trong chỉ rộng bằng một chiếc chiếụ Trên đặt bái hương và một cây đèn bằng gỗ. Mỗi năm có hai lần người trong ấp đến lễ bái thì mở cửa mà vào, quét miếu thắp hương. Xong việc lại ra, đứng bên ngoài khép cửa lại, còn người dưng thì không ai bước tớị Trong miếu có một cái chổi rễ kết bằng những mảnh tre nhỏ. Khi vào cúng bái, dùng để quét, quét xong lại dựng trong góc miếụ Tương truyền là chổi rễ ấy dùng đã lâu ngày mà lúc nào cũng vẫn thấy như mớị Người trong ấp thường thấy có ma hiện rạ Khi ấy có người học trò quẩy tráp đi học, đến ấp thuê nhà ở gần đó để tiện đến nhà thầy nghe giảng. Ở trọ được ba tháng. Bỗng một đêm khuya thấy người con gái đẹp đứng ngoài cửa sổ ném một bài thơ vào:

Thiếp vốn sao trời xuống dưới trần,

Trên cùng Cơ Vĩ vốn cùng thân. (Hai câu này nói bóng là hình cây chổi)

Thường đem quét tước trần ai sạch,

Muốn kết ái ân Chu với Trần.

Người học trò nhặt bài thơ xem, ngồi im lặng hồi lâụ

Người con gái nhìn vào cửa sổ cười rằng:

- Thế gọi là “văn cùng” đó.

Người học trò thấy cô gái có nhan sắc đẹp, cùng nhau ngâm họa rồi lân la gần gũị Ðến gà gáy, ả vội đứng dậy từ biệt. Người học trò muốn giữ lại, ả nói:

- Thiếp là con gái quan nội triều (chữ triều ở trong là chữ miếu) ở trong ấp này, ở không đã lâu, nhưng tính cha mẹ nghiêm ngặt, quanh năm không cho ra khỏi cửa, người trong ấp chưa ai trông thấy mặt. Vì thế, thiếp chưa có gia thất. Hôm qua, ngẫu nhiên nhìn qua khe cửa, thấy chàng đi quạ Ðã ưa người đẹp, lại mến tài caọ Cho nên chui lối ngạch đi ra, quên cả hổ thẹn. Nếu mãi vui, có người biết được, thì không những mang tiếng chê bai, suốt đời không ai dám hỏi nữa, mà lại còn điếm nhục cả đến gia thanh, để lo buồn cho cha mẹ, đến phải tự tử mà chết mất. Nếu chàng có lòng yêu thiếp phải nói dối kẻ trên để lén lúc đợi đêm tối sẽ đến, dần dần ta sẽ kết duyên giai lão, như thế có hơn không? Giữ thiếp ở lại làm gì? Nhưng điều này nên giữ kín, nhất thiết không nên nói chuyện này với aị

Nàng nói xong thì vội vàng ra đị

Người học trò từ đó học hành chểnh mảng. Ngày thì ngủ say, đêm thì vui đùa với con yêu nữ. Ðã hơn một tháng, thầy không thấy anh ta đến học, sai người đến nhà trọ hỏi duyên cớ và bảo anh ta đến gặp thầỵ Người học trò thấy thầy gọi, liền đi theo người đến.

Thoạt trông thấy anh, thầy giật mình hỏi rằng:

- Mới qua một tin hoa nở mà nhan sắc xanh xao, tinh thần sút kém đến như vậỵ Ngươi mắc bệnh gì thế?

- Thưa, con không bệnh gì.

Thầy nói:

- Không bệnh gì mà hình dung thế kia à? Ðúng là bị gái hư nào làm mê hoặc rồị Nếu không, can chi vóc người sút hẳn đi như thế?

Người học trò trước còn giấu diếm, sau bị thầy hỏi vặn đến cùng bấy giờ anh mới nói rõ đầu đuôi câu chuyện.

Thầy nghĩ hồi lâu nói:

- Bên nhà ngươi trọ, có cây cổ thụ không? Có đầm sâu hay là có miếu cổ nào không?

Người học trò nói:

- Trong vuờn hoang có ngôi miếu cổ, không biết làm từ đời nàọ Cảnh miếu vắng vẻ, cách nhà con trọ độ năm trăm thước, hàng ngày con đi học thường phải qua đó.

Thầy nói:

- Ðứa con gái ấy tất là con yêu trong ngôi miếu cổ. Ngươi không nói sớm, chỉ ba tháng nữa là chết.

Anh ta sợ quá, lạy phục trước giường xin thầy bảo cho phép trừ yêụ
 
Thầy nói:

- Xem lời lẽ bài thơ, trong lúc vội vàng, chưa có thể đoán được tà yêụ Hãy để xét nghiệm dần dần xem nó là yêu gì mới có thể trừ được. Nói xong thầy lấy một cái khăn vuông lụa đỏ đốt hương thư phù vào mặt khăn, rồi đưa cho anh học trò và dặn rằng:

- Nó đã là yêu thì những câu gì ta nói với ngươi, tất nhiên nó cũng biết. Ðêm nay con yêu đến, nếu nó có hỏi đi hỏi lại, phải kiên quyết nói là không. Nếu nói lộ ra thì kế ta không thể thi hành được, nhà ngươi tất phải chết. Nên làm thơ tự tình gấp hai mọi ngàỵ Ðợi khi gà gái con yêu sắp dập từ biệt, cầm khăn hồng này tặng nó và nói: “Tình nương, tình nương của ta, có yêu hàn nho không? Có định cùng ta kết làm vợ chồng không? Chúng ta nguyền ước ba sinh, há lại không có một vật gì làm tin ư? Vuông khăn hồng này, khi ta mới sinh, có một ông quan trông ấp mừng chọ Cha mẹ lấy làm quý báu cất kỹ để dành. Nay ta đem tặng này, xin đừng khinh thường. Nàng nên buộc nó vào dây lưng, như vậy thì suốt ngày, như có ta ở bên cạnh. Ðợi khi thành hôn, ta với nàng lau chung với nhau, có sung sướng hơn không? Bảo nó như vậy, nếu con yêu nhận lấy chiếc khăn là phúc cho nhà ngươi:

Anh học trò bỏ khăn vào túi áo, lạy hai lạy rồi ra về.

Ðêm hôm ấy con yêu vừa đến đã hỏi ngay rằng:

- Lang quân! Lang quân! Hôm nay đi đâu thế?

Anh học trò trả lời:

- Không!

Con yêu nói:

- Thiếp ở trong cửa thấy lang quân đi quạ Thiếp đi theo sau đến chỗ cổng nhà thầy, thiếp muốn theo vào, nhưng thấy khí văn bốc lên cao vút, lởm chởm trông rất sợ. Thiếp đứng nấp ngoài cổng để đợi lang quân. Một lát lang quân ra, thiếp lại theo về. Sao lại nói là không đi đâủ Hay là đã có đám nào đấy chăng? Có lẽ đúng. Ngạn ngữ có câu:

"Vợ chồng mới cưới nói ba phần thật,

Chưa thể bày ra cả tấm lòng.”

Câu nói ấy đúng tâm lý lang quân lắm đấy!

Anh học trò nói:

- Cũng là ngày đi học đấy thôi!

Con yêu im lặng, rồi lại vui cười như trước.

Ðến lúc từ biệt, anh ta theo lời thầy, đưa tặng khăn hồng và nói rất thiết thạ Con yêu nhìn khăn hai ba lần, xem mặt trên rồi mặt dưới, tựa hồ có ý sợ hãi, nghĩ ngợi rồi thở dài, nói rằng:

- Ai đưa vật này cho chàng? Ðây là một vật làm cho vợ chồng ta lìa nhaụ Không thế thì sao bây giờ mới có, trước kia lại không?

Anh học trò nói thác cớ là cha mẹ vừa mới gửi đến. “Thương nàng, yêu nàng, ta không tặng nàng, thì tặng aỉ Ðã khăng khít với nhau như liền khúc ruột, sao nỡ đem lòng ngờ vực như thế?”. Anh ta giả đò giận. Con yêu mới lấy khăn rồi ra về.

Sáng hôm sau thầy đến hỏi chuyện, biết là con yêu mang khăn về rồi, liền bảo anh đi xét trong miếu cổ. Quả nhiên thấy vuông khăn hồng vắt trên cái chổi rễ bằng trẹ Thầy trỏ vào cái chổi nói rằng:

- Ðúng là cái chổi này thành yêụ

Thầy bảo đem chổi về đốt, thì nghe trong ngọn lửa có tiếng kêu khóc. Từ đó con yêu chổi không còn đến quấy rầy anh học trò nữạ.
_________________
 
Chút Nửa Sẽ Gặp Tác giả: K. - Canada

Câu chuyện này hoàn toàn có thật, vì chính tôi là nhân chứng. Tôi sẽ nhớ mãi sự việc này đến suốt cuộc đờị
Vào ba năm trước, khi tôi còn học tại trường Ðại Học thuộc tỉnh Albertạ Trong thời gian này, tôi có rất nhiều bạn nhưng không có ai là người bạn tốt như Sương, nàng là một người con gái rất thông minh và xinh đẹp. Sương theo ngành Microbiology (tạm dịch là Vi Trùng Học) và nàng cũng là người rất mê say phim ảnh. Ngoài ra, Sương là người thích chơi những trò chơi mạo hiểm, như là những môn thể thao rất cực kỳ khó tập. Tôi và Sương rất hợp rơ với nhau vì chúng tôi đều thích cùng một món ăn, thích nghe cùng một thứ nhạc và đôi khi thích mặc những quần áo theo thời trang. Vì vậy chúng tôi thường đi ăn và đi xem phim với nhaụ

Có một ngày, Sương và tôi cùng đi dự một buổi tiệc. Hôm đó, Sương uống một ít champane và hơi ngà ngà saỵ Tôi không muốn Sương lái xe về một mình cho nên mới nhờ thằng bạn của tôi tên là Chánh đưa nàng về dùm. Chánh chịu đưa Sương về, nhưng nàng không muốn và cứ đòi lái xe về một mình. Năn nỉ mãi, cuối cùng Sương đồng ý. Nhưng trước khi ra về Sương còn vẫy tay từ giã và nàng nói:

- Chút nữa sẽ gặp.

Tôi đáp lại:

- Ðừng có nôn mữa trên xe của Chánh nghe chưả!! .

Ngoài ra tôi cũng rất là lo lắng cho Sương. Qua nhiều ngày suy nghĩ tôi dự định sẽ nói cho Sương biết là tôi rất thích đi chơi với nàng và tôi hy vọng sẽ hỏi Sương rằng nàng có chịu làm bạn gái của tôi không. Ðã đi chơi với nhau nhiều lần nên không có gì là lạ nếu chúng tôi có nẩy sinh cảm tình.

Trở lại đêm hôm đó, về tới nhà khoảng 12:04, nằm trên ghế nệm dự định xem TV một chút rồi mới đi ngủ, tôi bỗng nhiên nghe điện thoại reo, khi nhắc lên thì nghe giọng nói của Sương . Tôi hỏi nàng có chuyện gì vậy, thì Sương trả lời rằng:

- Không có gì. Bây giờ thì mọi chuyện điều được êm xuôị

Có lẽ Sương đang dùng điện thoại cầm tay nên nghe hơi rè rè, hay có thể nàng đang bị kẹt lại ở nơi nào đó không chừng. Rồi những ý nghĩ phủ định bắt đầu quay cuồng trong trí óc tôi "Không biết Chánh (thằng bạn của tôi) có làm gì bậy không?. Sương có gặp rủi ro gì không?." Tôi vội hỏi han xem nàng có chuyện gì không may xảy ra cho nàng không, và tôi còn hỏi nàng có cần tôi đến rước không. Nhưng Sương trả lời:

- Không, không, đâu có chuyện gì đâụ Sương chỉ gọi để cho anh hay là không có chuyện gì xảy ra cho Sương hết, và Sương muốn nói thêm với anh rằng cho Sương xin lỗị Ðáng lẽ Sương phải nghe theo lời của anh.

Khi nghe nàng nói như vậy thật tình tôi không hiểu ý của Sương muốn nói gì, nhưng tôi cũng đáp lại:

- Không sao! Bất cứ chuyện gì Sương làm anh đều sẽ tha thứ hết.

Sau đó nàng nói:

- Cám ơn, Sương biết anh sẽ tha thứ cho Sương mà. Love ya buđỵ Hey, một chút nữa sẽ gặp .

Rồi thì đường giây bỗng dưng bị cắt ngang, không còn nghe gì được nữạ Tôi cứ nói hello, hello hoài nhưng không thấy trả lờị.. Sau khi nói chuyện với Sương xong, tôi cảm thấy trong người dường như nhẹ nhõm vì biết Sương có lẽ đã an toàn về nhà... Tôi vừa suy nghĩ vừa gác điện thoại xuống thì điện thoại lại reo lên tức thì. Tôi nhấc nhanh điện thoại, lần này thì nghe tiếng của Chánh (thằng bạn của tôi). Tôi chưa kịp hỏi thì Chánh đã nói với một giọng run run và hối thúc:

- Ðến nhà thương nhanh lên.

Tôi vội hỏi:

- Ðể làm gì. Chánh đáp với một giọng run rung đứt quãng:

- Ðã xảy ra chuyện không may rồi Kiệt! Sương đòi lái xe về một mình và... tao đã cố gắng... tin tao đi, tao đã cố gắng không cho Sương lái về. Nhưng Kiệt, nàng muốn... nàng muốn....

Tôi đã biết được những gì Chánh sắp nói rạ Và chưa kịp nói bye với Chánh tôi đã vội gác điện thoại xuống rồi chạy ra xe lái thẳng đến bệnh viện. Nhưng... Sương đã tắt thở.... Tôi đứng bên cạnh thân xác của nàng rồi ôm mặt khóc.

Sương bị đụng xe vào lúc 12: 02, khi nàng gọi điện thoại cho tôi là khoảng 12:06. Nàng đã tắt thở trên đường đến bệnh viện. Như vậy không phải Sương đã gọi cho tôi mà là linh hồn của nàng. Tôi nghĩ rằng, đêm hôm đó nàng gọi cho tôi để từ giã... Sau này tôi mới hiểu tại sao nàng lại nói xin lỗi với tôị

Sự việc này đã xảy ra cách đây ba năm, nhưng tôi không muốn cặp bồ với ai nữạ Thỉnh thoảng tôi ra thăm mộ nàng. Ðặt bó hoa trên mộ, tôi thì thầm: "Íll always love you, Sương. I will see you in a bit..." Rồi quay bước đi về.
 
Ma Trên Cầu 13 Tác giả: Chunkey B

Cứ mỗi vùng đều có những câu chuyện huyền thoại ma quái mà người ta thường truyền miệng từ người này sang người khác. Nhưng đây là kinh nghiệm của chính bản thân tôị

Để tôi kể về huyền thoại của chiếc cầu trước:

Năm 1940, vào một buổi sáng tinh sương khi ánh nắng mai còn chưa ló dạng, có một người đàn bà đẩy một đứa con nhỏ đi qua chiếc cầu, vừa đi bà vừa âu yếm nhìn đứa con thân yêu của mình. Đẩy con đi gần được nửa cây cầu bà bỗng thấy một cái bóng đang ở ngay trước mặt mình; lúc đó mà không biết là người hay là thú hoang nhưng theo phản ứng tự nhiên bà đẩy chiếc xe lách qua một bên để né tránh, và cũng vì vậy chiếc xe đẩy có con bà trong đó đã bị đẩy ra khỏi cầu và rớt xuống dòng sông xanh thẳm ở bên dướị Bà đã nhảy theo xuống dòng sông để tìm con. Bà tìm hoài tìm mãi mà không thấy đứa con đâụ.. Nghe nói có nhiều đêm, nhất là vào những đêm trăng tròn, quý vị có thể đến cây cầu số 7 ở gần đó la lớn “BÀ KIA! TÔI ĐANG GIỮ CON BÀ ĐÂY”, rồi quý vị sẽ thấy bà ta hiện rạ Chiếc cầu 13 bây giờ đã cũ và mục nát, bây giờ không ai đi qua cây cầu này nữạ

Và dưới đây là câu chuyện của tôi:

Tối thứ 6, chúng tôi 5 người, dự định đi xem phim và sau khi xem phim xong thì sẽ đến cái quán gần bên để uống bia và nghe nhạc như thường lệ, nhưng ngày hôm đó hãng của chúng tôi không biết bị chuyện gì đó nên họ nói rằng sẽ phát check cho chúng tôi vào ngày hôm saụ Đêm hôm đó không đứa nào có đủ tiền để mua vé xem phim và đi nghe nhạc nên chúng tôi rủ nhau ra cầu số 7 uống bia và tán dóc. Chúng tôi mua vài lon bia và vài bịt bò khô rồi lái đến cầu số 7. Khi chúng tôi tới đó thì mặt trời cũng vừa mới lặn, chúng tôi xuống xe cầm theo bia và đồ ăn đi thẳng xuống cầu số 7. Màng đêm đang bao trùm khắp nơi, mà trong khu vực đó lại không có đèn đường nên rất là T Ố I, nhưng nhờ có ánh trăng rằm sáng trưng đã soi đường cho chúng tôi đị Đến cầu số 7 chúng tôi lấy bia và đồ ăn ra nhâm nhi, vừa ăn chúng tôi vừa đùa giỡn với nhau cho đến khi chúng tôi nghe có tiếng sột soạt từ cánh rừng kế bên vọng rạ Năm thằng chúng tôi đều im lặng đưa mắt nhìn về hướng cánh rừng và lắng tai nghe ngóng. Chợt một người tên Sáng trong đám buột miệng nói :

- Đó có lẽ là người đàn bà...

- Im miệng. Chúng tôi nói nho nhỏ chỉ vừa đủ nghẹ

Sau khi chúng tôi nói, cái tiếng sột soạt bỗng dưng im lìm. Tiếng động đó đã làm chúng tôi sợ nên năm thằng tôi vội vàng gom hết đồ đạc kể cả những lon bia còn dư vội vã theo lối cũ trở về. Vừa mới quay lưng được vài bước, Sáng lại mở miệng nói:

- Chúng ta thử gọi người đàn bà đó xem saỏ Coi bà ta có thật sự hiện ra không?

- Đừng gọị

Chúng tôi đều nói cùng một lúc nhưng đã trễ. Anh ta đã mở miệng gọi bà tạ May thay lúc đó không có ai hiện ra hết.

Chúng tôi tiếp tục đị Vừa đi chưa được bao xa, chúng tôi cùng có một cảm giác rờn rợn cả ngườị Rồi cả đám không ai nói với ai đều quay lại nhìn về hướng cây cầu 13, lúc đó chúng tôi thấy trên chính giữa cây cầu xuất hiện cái bóng lờ mờ như làn khói mong manh nhìn giống một người thiếu phụ đưa hai tay về phía trước. Tôi nghĩ chắc là bà ta đòi con của mình. Bỗng dưng từ đâu một làn gió nhẹ thổi qua làm hình ảnh người thiếu phụ bay theo cơn gió trôi về hư không.

Lúc này cả đám sợ quá bỏ chạy thụt mạng. Tới chỗ đậu xe chúng tôi còn dành nhau chui vào trong hai chiếc xe, nhưng khi đề máy không hiểu tại sao cả hai chiếc đều không nổ, thật là quái gỡ. Chúng tôi cố gắng đề một hồi máy mới chịu nổ. Xe vừa mới chạy được thì Tân một người bạn đi cùng xe với tôi quay lại đằng sau để máng cái áo khoác lên trên ghế. Vừa mới quay lại chưa máng cái áo lên ghế thì chúng tôi đã nghe nó la lối um sùm và chỉ ra đằng sau:

- TRỜI ƠI!... TỤI BÂY XEM KÌẠ

Chúng tôi đạp gấp thắng lại và nhìn ra saụ Trên lối mòn mà chúng tôi đã đi qua, xuất hiện một người đàn bà đang đứng đưa hai tay về phía trước... như là đòi cái gì đó. Có phải bà ta đang đòi đứa con của mình không???

Nhấn mạnh chân ga chúng tôi vọt nhanh ra khỏi chỗ đó và không đứa nào dám trở lại đây nữạ
 
Người Trở Về Từ Đáy Mộ - Unknow

Gia đình Hoa là một trong những nạn nhân đầu tiên. Mùa màng thất bát, chồng đau ốm rồi một đứa con ra chào đời! Vợ chồng Hoa bồng con về xin bà Tư cho ở chung. Bà Tư vẫn lạnh lùng như thường lệ, nhường cho vợ chồng Hoa một phòng.
Rồi tới phiên anh rể của Đực bị chủ điền cho nghỉ việc. Không công ăn việc làm, không tiền trả tiền mướn, anh ta cầu cứu vợ Đực. Nàng dâu bèn thưa chuyện với mẹ chồng.
Bà Tư, lúc này đã già, nói với con dâu bằng một giọng cương quyết trong bữa ăn chiều:
- Thêm bốn miệng ăn nữa cũng chẳng sao. Cho tụi nó tới đây. Nhưng... không biết rồi tụi nó ngủ ở đâu?
Hoa liếc nhìn Đực trước khi ngập ngừng nói lên cái ý nghĩ của tất cả mọi người:
- Phòng của nội. Mình có nên mở cửa phòng cho thoáng khí trước khi cho họ dọn vào không... mẹ?
Bầu không khí đột nhiên trở nên yên lặng nặng nề. Bà Tư liếc nhìn con gái trước khi lần lượt nhìn vào mặt từng người, gằn giọng:
- Mẹ đã thề không bước chân vào phòng đó cho tới ngày nhắm mắt.
Hoa thu hết can đảm:
- Nhưng mẹ đâu có bước vào đó làm gì. Nhà mình chật quá đâu còn chỗ nào khác nữa.
Bà Tư đặt đũa xuống bàn nói thật chậm rãi:
- Nếu có ai ngủ trong phòng đó, người đó phải là mẹ. Mẹ đã ở với cha tụi bay mười lăm năm trời, mười lăm năm đầy đắng cay thù hận. Cha tụi bay ghét mẹ hơn mẹ ghét ổng. Căn phòng đó đầy những sự thù ghét và sau mấy chục năm trời đóng kín, những sự thù ghét đó hiện đang sôi sục chỉ chờ cửa mở là tràn ra phủ ngập căn nhà này. Nhưng không sao, mẹ sẽ dọn vào đó.
Hoa nói bằng một giọng đầy hối hận:
- Phải chi con đừng đưa ra đề nghị đó. Con biết là có một cái gì giữa cha và mẹ nằm trong đó, nhưng con không biết ...
Bà Tư ngắt lời con gái:
- Một cái gì mà con nói đó chính là sự thù ghét giữa mẹ và ổng. Nhưng không sao, mẹ đã già rồi, hơn bẩy mươi rồi. Chắc mẹ cũng chẳng còn sống được bao lâu nữa...
Bà ngưng lại, đôi mắt già mỏi mệt nhìn thật xa xôi:
- Có thể đây là sự tiền định. Ổng nói rằng ổng sẽ chờ mẹ... Có thể... Ai biết!
Rồi bà đứng lên:
- Mẹ sẽ mở cửa phòng vào sáng ngày mai.
Dứt lời, bà mím chặt đôi môi, bước lên cầu thang về phòng ngủ trên lầu.
Vào phòng, bà Tư đóng cửa lại, ngồi yên lặng trên cái ghế nhỏ bên giường, đôi mắt mệt mỏi nhìn vào hư không trong khi cuốn phim dĩ vãng hiện ra thật rõ. Bây giờ, bà đang bị thúc giục mạnh mẽ bởi một ước muốn mà bà vẫn chôn chặt trong lòng từ gần một nửa thế kỷ, ước muốn của tất cả những kẻ sát nhân muốn nhìn lại khung cảnh phạm trường.
Ước muốn này đã tới với bà hàng ngàn lần trước đó nhưng lần nào bà cũng nén lòng được. Bây giờ, chỉ còn có mấy tiếng đồng hồ nữa căn phòng sẽ được mở ra, ước muốn lại trở về, mãnh liệt hơn bao giờ hết. Căn phòng đóng kín đang réo gọi bà. Trong óc bà, một tiếng nói vô cùng mạnh mẽ vang lên “Bây giờ! Bây giờ!”. Tiếng nói này rất quen thuộc đối với bà vì đó là tiếng nói của chính ông Tư, người bà thù ghét, người bà đã giết chết!
Bà lặng lẽ đứng dậy, bước tới tủ áo, ngồi xuống mò dưới đáy tủ lấy cái chìa khóa mà bà đã giấu kín hàng mấy chục năm trời. Rồi bà trở lại ngồi trên ghế lắng nghe những tiếng chân lần lượt về phòng. Một lúc sau, căn nhà tối tăm đã hoàn toàn yên tĩnh.
Bà Tư đứng dậy hé cửa nhìn ra dẫy hành lang. Tất cả đều đã ngủ yên. Bà bèn trở vào phòng cầm cây đèn dầu, mở cửa thật nhẹ rồi rón rén bước xuống cầu thang.
Ngoài trời không khí bỗng trở nên nặng nề dường như muốn bão. Bà nghe tiếng gió rít qua những cành cây. Có một cái gì tương tự như tiếng gió than van ngoài đêm tối? Bà Tư ngưng lại, nghiêng tai lắng nghe và đột nhiên ký ức trở về thật rõ. Bà lẩm bẩm:
- Giống như đêm trước khi lão chết.
Tim bà đập mạnh hơn khi đứng trước cánh cửa đen ngòm, lạnh lùng của căn phòng chứa đầy thù hận. Sau một thoáng ngập ngừng, bà chuyển cây đèn sang tay trái, tay mặt lấy cái chìa khóa đút vào ổ khóa... Bà vặn nhẹ... Ổ khóa không chuyển động... Bà vặn mạnh hơn... Cạch! Ổ khoá bật ra. Bà đứng yên một lát, bàn tay đặt trên nắm cửa. Tự nhiên bà run lên vì lý do gì không rõ. Bà lẩm bẩm:
- Lão đã nói là lão sẽ trở về từ đáy mộ... Lão sẽ chờ...
Bà vặn nắm cửa, đẩy mạnh. Cái bản lề cũ kỹ rít lên phản đối trước khi cánh cửa bung ra... Một làn sóng hận thù từ trong phòng tràn ra phủ kín người bà.
Bà chậm chạp bước vào, đôi môi mím chặt. Giơ cao ngọn đèn dầu, bà quan sát mọi vật trong phòng. Đó là cái giường với tấm khăn trải giường nhăn nheo, nơi ông Tư thở hơi cuối cùng - hay không thể thở hơi cuối cùng? Đó là cái gối mà ông Tư gối đầu trước khi nhắm mắt. Mọi vật không hề thay đổi.
Bà Tư thoáng nhớ rằng cả thầy y tá lẫn ông Tám Tàng, những người cuối cùng đặt chân vào căn phòng này đều đã ra người thiên cổ. Kế bên đầu giường là một cái bàn nhỏ nơi vẫn còn cái ly mà bà pha thuốc độc cho ông Tư.
Bà lẩm bẩm:
- Lão đã nói là lão sẽ chờ...
Căn phòng thật ẩm thấp và bụi bặm. Bà Tư khép cửa lại, đặt ngọn đèn dầu lên cái bàn nhỏ bên cạnh cái ly rồi bước tới bên cửa sổ, mở toang cánh cửa. Một ngọn gió từ bên ngoài lùa vào, rít lên...
Ngọn đèn chợt lung linh vì gió tạo nên những bóng đen quái đản nhảy múa trên tường. Trên lưng ghế, chiếc khăn lông mà bà dùng đè cho ông Tư chết ngộp đã trở thành vàng khè, tuy bà vẫn nhìn thấy thật rõ một đốm đen ở chính giữa, đốm đen mà bà biết là những giọt nước rãi cuối cùng của ông Tư.
Bà bước tới giữa phòng, đôi mắt vẫn không rời khỏi đốm đen trên chiếc khăn lông. Rồi bà lập đi lập lại:
- Lão đã nói là lão sẽ trở về từ đáy mộ... Lão sẽ chờ ...
Đột nhiên một cơn gió mạnh thổi ào qua khung cửa sổ. Ngọn đèn chao lên trước khi tắt ngấm.
Bóng tối bất ngờ khiến bà Tư hoảng hốt. Lần đầu tiên trong đời bà biết sợ! Bà liếc nhìn về phía cái giường, và chợt nhận thấy dường như có một người đang nằm, mặt quay về phía bà đưa tay vẫy vẫy. Bà run rẩy bước lui trước khi té ngồi xuống ghế. Một cơn gió mạnh thổi chiếc khăn lông bung lên chùm kín mặt bà Tư. Bà hoảng hốt giẫy giụa trong bóng tối và cảm thấy chiếc khăn lông như một con bạch tuộc với những cái vòi gớm ghiếc đang xiết chặt quanh cổ bà. Bà đưa hai tay lên cố kéo mạnh chiếc khăn lông ra trong khi bên tai bà, tiếng ông Tư vang lên mồn một: “Tao sẽ trở về từ đáy mộ... Tao sẽ chờ mày...”
Sáng sớm hôm sau, người ta thấy bà Tư nằm chết trong căn “phòng của nội”. Quanh cổ bà là chiếc khăn lông vàng khè, chiếc khăn mà bà dùng hạ sát ông Tư.
 
Nghĩa Địa Hoàn Sanh Tác giả: Unknow

Câu chuyện này do một người bạn thân kể lại về một khu nghĩa địa gọi là “Nghĩa Địa Hoàn Sanh” có nghĩa là “sống dậy”. Trong nghĩa địa này có một ngôi mộ của Damien ở vùng Pittsburgh mà ai cũng đều biết đến. Mặc dù tôi không có lên trên đó lần nào nhưng tôi có thể là người chứng cho những vụ đụng xe lạ kỳ của những người lên trên nghĩa địa để sau khi trở về thì gặp phải tai nạn.

Nghĩa Địa Hoàn Sanh nằm trên một ngọn đồi trọc trong sa mạc thuộc tỉnh Pittsburgh, Pennsylvaniạ Mặc dù nó nằm ngay xa lộ, nhưng con đường chính để đi đến nghĩa địa rất là rùng rợn với những cây thông cao ngất trời dọc theo hai bên đường, đã làm con đường nhỏ dẫn lên nghĩa địa này trở nên âm u và ma quáị Theo truyền thuyết người ta kể rằng: ở nghĩa địa Hoàn Sanh, trên bia đá của một ngôi mộ nằm một mình ở góc cuối cùng của nghĩa địa có khắc đơn sơ hàng chữ “D A M I E N” và ở bên dưới còn đề thêm “Không phải vĩnh biệt, mà chỉ tạm thời chia tay”. Tôi nghe người ta đồn rằng nếu ai đến ngôi mộ này quấy nhiễu như đạp lên ngôi mộ, lấy chân đá lên bia đá, hay làm bất cứ chuyện gì với ngôi mộ này khi trở về sẽ gặp tai nạn xe cộ ngaỵ Thật sự mà nói, lần đầu tiên nghe người ta kể tôi không có tin chút nào, nhưng bây giờ tôi đã biết đó là sự thật. Trong năm học lớp 11, một nhóm 4 thằng rủ nhau lên nghĩa địa Hoàn Sanh để tìm hiểu xem truyền thuyết của ngôi mộ mà người ta đã kể có thật không:

Đợi trời vừa lờ mờ tối bốn người thanh niên ra xe đi về hướng nghĩa địạ Con đường dẫn đến nghĩa địa lặng yên như tơ,ø mở cửa xe chỉ nghe tiếng gió thổi vù vù. Nhìn hai hàng cây rậm rạp um tùm hai bên đường giống như những con rắn khổng lồ đen thui dài hun hút muốn đè bẹp bọn họ lúc nào cũng được. Khoảng 35 phút sau, họ đến nghĩa địa trời cũng vừa tối, ánh trăng rằm tròn to cũng vừa mới nhô khỏi những ngọn cây thông làm cảnh vật chung quanh nghĩa địa càng thêm huyền bí. Họ đậu vào parking ở phía ngoài nghĩa địa rồi đi bộ vào trong và tìm đến ngôi mộ có tên là Damien. Ngôi mộ Damien nằm một mình trên một ngọn đồi nhỏ ở tận cùng nghĩa địa, nhìn nó cũng giống như những ngôi mộ khác với tấm bia được khắc tên và bên dưới như người ta đã kể có khắc: Không phải tạm biệt, mà chỉ tạm thời chia taỵ Sau khi tìm được ngôi mộ này, ba người trong đám đã thay phiên “tiểu tiện” lên ngôi mộ... vì họ muốn thử xem ngôi mộ này có quỷ quái như người ta đã kể không. Không những vậy, họ còn la um sùm và làm đủ thứ trò, chỉ có một người trong bọn hơi nhát gan một chút không dám làm gì mà chỉ đứng đó coi đám bạn mình giở trò. Sau khi họ đá họ đạp họ tiểu v.v... lên ngôi mộ xong thì cả đám hí hửng bỏ về. Lúc đó có lẽ họ nghĩ rằng người chết không thể sống lại để hại người sống được, và cái tên Hoàn Sanh chỉ do người ta bịa đặc mà thôị Nhưng khi vừa lái xe ra khỏi nghĩa địa chưa đầy 2 cây số thì họ bị một chiếc xe đang chạy với vận tốc 60 miles một giờ ngược chiều đâm thẳng vào xe của họ. Ba người đã tiểu tiện trên ngôi mộ chết liền ngay tại chỗ còn người nhát gan đứng xem thì chỉ bị trầy trụa sơ sài mà thôị
 
Status
Không mở trả lời sau này.
Back
Top