• Hiện tại trang web đang trong quá hình chuyển đổi và tái cấu trúc lại chuyên mục nên có thể một vài chức năng chưa hoàn thiện, một số bài viết và chuyên mục sẽ thay đổi. Nếu sự thay đổi này làm bạn phiền lòng, mong bạn thông cảm. Chúng tôi luôn hoan nghênh mọi ý kiến đóng góp để chúng tôi hoàn thiện và phát triển. Cảm ơn

1001 CÂU CHUYỆN CẢM ĐỘNG!!!

Status
Không mở trả lời sau này.
Bây giờ thì hắn đã thành người không tuổi rồi . Ba mươi tám hay ba mươi chín? Bốn mươi hay là ngoài bốn mươi ? Cái mặt hắn không trẻ cũng không già: nó không còn phải là mặt người: nó là mặt của một con vật lạ, nhìn mặt những con vật có bao giờ biết tuổi ? Cái mặt hắn vàng vàng mà lại muốn xạm màu gio; nó vằn dọc vằn ngang, không thứ tự, biết bao nhiêu là vết sẹo . Vết những mảnh chai của bao nhiêu lần ăn vạ kêu làng, bao nhiêu lần, hắn nhớ làm sao nổi ? Bao nhiêu việc ức hiếp, phá phách, đâm chém, mưu hại người ta giao cho hắn làm! Những việc ấy chính là cuộc đời của hắn; cuộc đời mà hắn cũng chả biết đã dài bao nhiêu năm rồi . Bởi vì ngay đến cái thẻ có biên tuổi hắn cũng không có, trong sổ làng người ta vẫn khai hắn vào hạng dân lưu tán, lâu năm không về làng. Hắn nhớ mang máng rằng có lần hắn hai mươi tuổi, rồi hắn đi ở tù, rồi hình như hắn hăm nhăm không biết có đúng không? Bởi từ đấy thì đối với hắn không còn ngày tháng nữa . Bởi vì từ đấy hắn bao giờ cũng say . Nhưng cơn say của hắn tràn cơn này qua cơn khác, thành một cơn dài, mênh mông, hắn ăn trong lúc say, thức dậy vẫn còn say, đập đầu rạch mặt chửi bới, dọa nạt trong lúc say, uống rượu trong lúc say, để rồi say nữa, say vô tận. Chưa bao giờ hắn tỉnh và có lẽ hắn chưa bao giờ tỉnh táo, để nhớ rằng có hắn ở đời . Có lẽ hắn cũng không biết rằng hắn là con quỷ dữ của làng Vũ-đại, để tác quái cho bao nhiêu dân làng. Hắn biết đâu hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện. Hắn biết đâu vì hắn làm tất cả những việc ấy trong khi người hắn say; hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm. Tất cả dân làng đều sợ hắn và tránh mặt hắn mỗi lần hắn qua .
Vì thế cho nên hắn chửi hay là chẳng vì cái gì hắn cũng chửi, cứ rượu xong là hắn chửi . Hắn chửi như những người say rượu hát. Giá hắn biết hát thì có lẽ hắn không cần chửi . Khổ cho hắn và cho người hắn lại không biết hát. Thì hắn chửi, cũng như chiều nay hắn chửi ...

Hắn chửi trời và đời . Hắn chửi cả làng Vũ-đại . Hắn chửi tất cả những đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng mặc, ai mà hoài hơi, tức mình hắn chửi đứa nào đẻ ra chính hắn, lại càng không ai cần! Và hắn lấy thế làm ức lắm; bởi vì người ta không thể chửi nhau một mình; chửi nhau một mình thì còn văn vẻ gì! Thế là chắc chắn dã có một cớ để tức tối, một cớ rất chính đáng để hắn có thể hùng hổ đi báo thù . Phải, hắn phải báo thù, báo thù vào bất cứ ai . Hắn phải vào nhà nào mới được, bất cứ nhà nào . Hắn sẽ rẽ vào bất cứ ngõ nào hắn gặp để đập phá đốt nhà hay lăn ra kêu làng nước. Phải đấy, hắn sẽ rẽ vào bất cứ ngõ nào hắn gặp... Á, đây kia rồi, mau mau ...

Nhưng mà mặt trăng lên, mặt trăng rằm vành vành. Và ánh trăng chảy trên đường trắng tinh. Ồ, cái gì đây, đen và méo mó trên đường trăng nhễ nhại ? Nó xệch xạc về bên trái, thu gọn vào rồi lại dài loang ra, xé rách ra vài chỗ . Nó cứ quần quật dưới chân Chí Phèo . Chí Phèo đứng lại và nhìn nó và hắn bỗng nghiêng ngả cười . Hắn cười ngặt nghẽo, cười rũ rượi . Giá hắn cứ chửi lại còn dễ nghe! Cái vật xệch xạc trên đường là bóng hắn. Thế là hắn cười, và hắn quên báo thù: hắn đi qua ngõ đầu tiên rồi . Bây giờ thì đến ngõ nhà tự Lãng, một anh thầy cúng có một bộ râu lờ phờ . Chí phèo bỗng nảy ra một ý: tạt vào đây và đập cái bàn chầu văn của lão tự nửa mùa này ra . Bởi vì lão tự này vừa làm thầy cúng lại vừa làm nghề hoạn lợn. Cái đàn của lão lừng phừng, nghe còn chối tai hơn là lợn kêu . Nhưng lúc vào thì lão tự lại đang uống rượu; lão uống rượu ngay ở sân, vừa uống vừa vuốt râu, vừa rung rung cái đầu . Chí Phèo đứng lại nhìn, thấy lão cũng hay hay . Rồi đột nhiên hắn khát, trời ơi sao mà khát! Khát đến như cháy họng... Không do dự, hắn lại bên lão tự, nhắc lấy chai rượu ngửa cổ dốc vào mồm tu . Lão tự duỗi cái cổ gà vặt lông ra, trố mắt lên, nhưng không nói gì . Lưỡi lão ríu lại rồi, còn nói làm sao được? Lão đã uống hết hai phần chai . Còn một phần thì Chí Phèo tu nốt. Hắn tu có một hơi, rồi khà một cái, chép cái miệng như còn thèm. Rồi hắn nắm lấy mấy cái râu lờ phờ của lão tự, nâng soi lên trăng mà cười . Lão tự cũng cười . Hai thằng say rượu ngả vào nhau mà cười, như một đôi tri kỷ cuồng. Rồi tự Lãng vào nhà xách hai chai rượu nữa; lão còn đúng hai chai nữa, lão mời Chí Phèo uống nữa, uống thật say, không cần gì . Cứ việc uống, đừng có lo ngại gì đấy! Vợ lão chết đến bảy tám năm nay rồi, con gái lão chửa hoang bỏ lão đi, lão chỉ có một mình, không còn vợ con nào mè nheo cả, lão muốn uống đến bao giờ thì uống. Cứ uống! Cứ uống, cứ uống đi ông bạn lạc đường ở cung trăng xuống ạ! Uống thật tợn, uống đến đái ra rượu thì mới thích. Nhịn uống để làm gì ? Có giàu có sang, có làm nên ông cả bà lớn nữa, chết cũng không ai gọi là "cụ lớn mả" ! Lão sống có đến hơn năm mươi rồi mà chưa thấy một cụ lớn mả nào sống sót! Chỉ có cái mả, cái mả đất. Ai chết cũng thành cái mả, say sưa chết cũng thành cái mả, lo gì ? Cứ say !
 
bao giờ Chí Phèo được thỏa thuê đến thế! Hắn lấy làm lạ sao mãi đến hôm nay mới ngồi uống rượu với thằng cha tự này . Chúng uống với nhau rất là nhiều . Và rất là nhiều . Người ta tưởng như cả làng Vũ-đại phải nhịn uống để đủ rượu cho chúng uống.

Ðến lúc hết cả hai chai thì tự Lãng đã bò ra sân. Lão bò như cua và hỏi Chí Phèo rằng: người ta đứng lên bằng cái gì ? Chí Phèo vần ngửa lão ra, vuốt cái râu lờ phờ của lão mấy cái, rồi để mặc lão thế, hắn lảo đảo ra về . Hắn vừa đi vừa phanh ngực ra mà gãi . Hắn gãi ngực rồi gãi cổ, gãi mang tai và gãi lên cả đầu . Có lúc hắn phải đứng lại giữa đường mà gãi, ghệch chân lên mà gãi, hắn bứt rứt quá, ngứa ngáy quá, và chợt nghĩ đến cái bờ sông gần nhà . Bởi vì cái vườn của hắn ở gần một con sông con, nước lặng và trong, khắp bãi trồng toàn dâu, gió đưa đẩy những thân mềm oặt ẹo, cuộn theo nhau thành làn. Duy có vườn nhà hắn trồng toàn chuối, ở một góc vườn có túp lều con. Những đêm trăng như đêm nay, cái vườn phẳng ngổn ngang những bóng chuối đen đen như những cái áo nhuộm vắt tung trên bãi . Và những tàu chuối nằm ngửa, ưỡn cong cong lên hứng lấy trăng xanh rời rợi như là ướt nước, thỉnh thoảng bị gió lay lại giẫy lên đành đạch như là hứng tình.

Chí Phèo vừa tò mò nhìn những tàu chuối vừa đi xuống vườn. Nhưng hắn không vào cái túp lều úp xúp mà ra thẳng bờ sông. Hắn định sẽ nhảy xuống tắm cho khỏi ngứa rồi lăn ngay ra vườn mà ngủ . Tội gì chui vào lều, bức đến không còn mà thở được. Một thằng như hắn, đập đầu không chết, huống hồ là gió sương... Ðến bờ sông hắn dừng lại, vì hình như có người . Có người thật, và hắn ngây ra nhìn.

Hắn nhìn giữa hai lọ nước và tựa lưng vào gốc chuối, một người đàn bà ngồi tênh hênh. Chính là người đàn bà, hắn biết vậy là nhờ mái tóc dài buông xõa xuống vai trần và ngực... Hai tay trần của mụ buông xuôi, cái mồm mụ há hốc lên trăng mà ngủ hay là chết. Ðôi chân thì duỗi thẳng ra trước mặt, cái váy đen xộc xệch... Bên kia, có lẽ vì mụ giẫy cái yếm xẹo xọ để trật ra cái sườn nây nây . Tất cả những cái ấy phơi ra trăng, rười rượi những trăng làm trắng những cái đó có lẽ ban ngày không trắng; trăng làm đẹp lên. Chí Phèo tự nhiên thấy ứ đầy miệng bao nhiêu là nước dãi, mà cổ thì lại khô, hắn nuốt ừng ực, hắn thấy cái gì rộn rạo ran khắp người . Bỗng nhiên hắn run run. Ồ tại sao lại như thế được? Ðáng nhẽ chính người đàn bà khốn nạn kia phải run mới phải, cái người đàn bà dại dột đã nằm ềnh ệch mà ngủ ngay gần nhà hắn này .

Nhưng người đàn bà ấy là thị Nở, một người ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích và xấu ma chê quỷ hờn. Cái mặt của thị thực là một sự mỉa mai của hóa công: nó ngắn đến nỗi người ta có thể tưởng bề ngang lớn hơn bề dài, thế mà hai má nó lại hóp vào mới thật là tai hại, nếu má nó phinh phính thì mặt thị lại còn được hao hao như mặt lợn, là thứ mặt vốn nhiều hơn người ta tưởng, trên cổ người . Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành, bành bạnh muốn chen lẫn nhau với những cái môi cũng cố to cho không thua cái mũi: có lẽ vì cố quá cho nên chúng nứt nở như rạn ra . Ðã thế thị lại ăn trầu thuốc, hai môi dày được bồi cho dày thêm một lần, cũng may quết trầu sánh lại, che được cái màu thịt trâu xám ngoách. Ðã thế những cái răng rất to lại chìa ra: ý hẳn chúng nghĩ sự cân đối chữa được một vài phần cho sự xấu . Ðã thế thị lại dở hơi, đó là một ân huệ đặc biệt của Thượng đế chí công: nếu sáng suốt thì người đàn bà ấy sẽ khổ sở ngay từ khi mua cái gương thứ nhứt. Và thị lại nghèo, nếu trái lại, ít nhất đã có một đàn ông khổ sở . Và thị lại là dòng giống của một nhà có mả hủi : cái này khiến không một chàng trai nào phải phân vân. Người ta tránh thị như tránh con vật nào rất tởm. Ngoài ba mươi tuổi, thị vẫn chưa có chồng. Ở cái làng Vũ-đại này người ta kết bạn từ khi lên tám, và có khi có con từ lúc mười lăm; không ai đợi đến năm hai mươi đẻ đứa con thứ nhất. Cứ nhìn tình hình ấy thì ta nói quách: thị Nở không có chồng. Mà thị cũng không còn ai thân thích, trừ một người cô đã có thể gọi được là già, và đã không chồng như thị . Số trời định thế, để không ai phải trơ trọi trên đời này . Người cô làm thuê cho người đàn bà buôn chuối và trầu không xếp tàu đi Hải Phòng, có khi đi tận Hòn Gai, Cẩm Phả . Còn thị sống bằng những nghề lặt vặt ở làng. Hai cô cháu ở trong một cái nhà tre cách vườn của Chí Phèo bởi một con đê; hắn ở ngoài bãi, hai người ở trong xóm. Có lẽ chính vì thế mà thị Nở không sợ cái thằng mà cả làng sợ hắn. Gần gũi lâu cũng sinh quen, mà quen thì ít khi còn sợ . Những người trông coi vườn bách thú thường bảo rằng hổ báo hiền y như mèo . Vả lại có lý nào để thị sợ hắn đâu ? Người ta không ai sợ kẻ khác phạm đến cái xấu, cái nghèo, cái ngẩn ngơ của mình, mà thị lại chỉ có ba cái ấy ... Một phần nữa cũng bởi Chí Phèo ít khi ở nhà, mà hắn ở nhà lại hiền lành, ai có thể ác trong khi ngủ ? Hắn chỉ về nhà để ngủ .
 
Ngày nào thị Nở cũng phải qua vườn nhà hắn hai ba lần, là vì qua vườn nhà hắn có một lối đi nhỏ ra sông; trước kia, cả xóm vẫn dùng cái ngõ ấy để ra sông tắm, giặt hay kín nước. Nhưng từ khi hắn đến người ta thôi dần, tìm một lối khác đi xa hơn. Trừ thị Nở, thì đã bảo thị là người dở hơi, thị không thích làm như kẻ khác. Quá tin ở người, quá tin ở mình liều lĩnh, bướng bỉnh hay có lẽ chỉ không chịu rời thói quen. Nhưng hãy biết thị cứ đi ngõ ấy và vẫn chẳng làm sao cả . Thế rồi quen đi . Có lần trong lúc Chí Phèo ngủ, thị lại vào cả nhà hắn để rọi nhờ lửa nữa, có lần thị xin của hắn một ít rượu về để bóp chân; hắn mải ngủ càu nhàu bảo thị rằng: ở xó nhà ấy, muốn rót bao nhiêu thì rót, để yên cho hắn ngủ . Và lắm lúc thị ngạc nhiên: sao người ta ghê hắn thế ?

Chiều hôm ấy thị Nở cũng ra sông kín nước như mọi chiều . Nhưng chiều hôm ấy, trăng lại sáng hơn mọi chiều, trăng tỏa trên sông và sông gợn biết bao nhiêu gợn vàng. Những vàng ấy rung rinh mới trông thì đẹp, nhưng trông lâu mỏi mắt. Gió lại mát như quạt hầu, thị Nở thấy muốn ngáp mà mí mắt thì nặng dần, toan díp lại . Thị vốn có một cái tật không sao chữa được, có lúc đột nhiên muốn ngủ, bất cứ ở đâu hay đang làm gì . Bà cô thị bảo thị là một người vô tâm. Ngáp một cái, thị nghĩ bụng: hãy khoan kín nước, hãy để lọ xuống ngồi nghỉ đây . Bởi vì thị đã luật quật đập đất từ trưa tới giờ . Mà mấy khi được một nơi mát thế, mát rợn da rợn thịt, sung sướng quá! Mát y như quạt hầu . Thị cởi áo ra ngồi tựa vào gốc chuối, dáng ngồi không kín đáo, nhưng không bao giờ thị biết thế nào là lả lơi . Con người vô tâm, không hay nghĩ xa xôi mà . Vả lại ở đây chẳng có ai . Chí Phèo đã về đâu, mà hắn có về thì cũng say khướt đã ngủ từ nửa đường và tới nhà tức khắc chúi đầu vào ngủ nốt. Hắn ra làm gì đây, cho có ra nữa thì đã sao ? Thị không thể sợ hắn có thể phạm đến thị bởi lẽ rất giản dị là thị chưa thấy ai phạm đến thị bao giờ . Thật ra thì thị cũng chẳng nghĩ ngợi nhiều đến thế . Trong óc thị đã có một bóng đen lan rồi . Thị không ngồi thì không chịu được.

Ngồi một lúc thị thấy rằng: nếu cứ ngồi mãi thì ngủ mất. Nhưng thị đã ngủ đến hai phần rồi . Và thị nghĩ : thì ngủ, ngủ thì đã làm sao! Về nhà thì cũng chỉ ngủ, ngủ ngay đây cũng vậy . Bà cô đi theo hàng ít ra cũng dăm hôm mới về . Thị cứ ngồi đây cho mát. Và thị ngủ . Thị ngủ ngon lành và say sưa .

Chí Phèo vẫn say say nhìn và run run. Bỗng nhiên hắn rón rén lại gần thị Nở: lần đầu tiên hắn rón rén, từ khi về làng. Thoạt tiên, hắn hãy xách cái lọ để xa xa, rồi hắn lẳng lặng ngồi xuống bên sườn thị

Và thị Nở giật mình. Thị Nở mới kịp giật mình thì thằng đàn ông đã bám bíu lấy thị ... Thị vùng vẫy đẩy ra, thị mở mắt, thị tỉnh hẳn, thị nhận ra Chí Phèo . Thị vừa thở, vừa vật nhau với hắn vừa hổn hển: "Ô hay ... Buông ra ... Tôi kêu ... Tôi kêu làng... Buông ra . Tôi kêu làng lên bây giờ!" Thằng đàn ông lại phì cười . Sao thị lại kêu làng nhỉ ? Hắn vẫn tưởng chỉ có hắn mới kêu làng thôi, người ta lại kêu tranh của hắn, bỗng nhiên hắn la lên, kêu làng. Hắn kêu như một kẻ bị đâm vừa kêu vừa dằn người đàn bà xuống. Thị Nở trố hai mắt ngây ra nhìn. Thị Nở kinh ngạc: sao hắn lại kêu làng nhỉ ? Mà hắn vẫn chưa chịu thôi kêu làng. Cũng may người quanh đây không có ai lạ gì tiếng hắn, mà khi hắn kêu làng thì không ai cần động dạng, họ lạu bạu chửi rồi lại ngủ, hắn kêu làng cũng như người khác buồn, hát ngao . Ðáp lại hắn chỉ có lũ chó cắn xao lên trong xóm.

Thị Nở bỗng nhiên bật cười . Thị Nở vừa rủa vừa đập tay lên lưng hắn. Nhưng cái đó là cái đập yêu, bởi vì đập xong, cái tay ấy lại giúi lưng hắn xuống.... Và chúng cười với nhau ...

Bây giờ thì chúng ngủ bên nhau ... đứa bé bú no thì ngủ . Người ta ngủ say sau khi làm việc yêu . Chúng ngủ như chưa bao giờ được ngủ ... Trăng vẫn thức vẫn trong trẻo ... Trăng rắc bụi trên sông, và sông gợi biết bao nhiêu vàng. Nhưng gần đến sáng, bỗng nhiên Chí Phèo chống một tay xuống đất, ngồi lên một nửa . Hắn thấy nôn nao, chân tay bủn rủn, như đến ba ngày nhịn đói . Thế mà bụng lại phinh phính đầy, hình như bụng hơi đau . Còn hình như gì nữa, thôi đúng đau bụng rồi . Ðau thật, đau mỗi lúc một dữ! Nó cứ cuồn cuộn lên. À mà trời lành lạnh. Hễ có gió thì kinh kinh. Mỗi lần gió, hắn rươn rướn người . Hắn muốn đứng lên. Sao đầu nặng quá mà chân thì bẩy rẩy . Mắt hắn hoa lên. Bụng quặn lại, đau gò người . Hắn oẹ . Hắn oẹ ba bốn cái . Oẹ mãi . Giá mửa ra được thì dễ chịu . Hắn cho một ngón tay vào móc họng. Hắn oẹ ra một cái to hơn, ruột hình như lộn lên. Nhưng cũng chỉ nhổ ra toàn nước dãi . Hắn nghỉ một tí rồi lại cho tay vào mồm. Lần này thì mửa được. Trời ơi! Mửa thốc, mửa tháo, mửa ồng ộc, mửa đến cả ruột. Ðến nỗi người đàn bà phải dậy . Thị ngồi nhỏm dậy và ngơ ngác nhìn. Cái óc nặng nề ấy phải lâu mới nhớ ra và lâu mới hiểu .

Bây giờ thì Chí Phèo đã mửa xong. Hắn mệt quá, lại vật người ra đất. Hắn đờ hai mắt ra khẽ rên; hắn chỉ còn đủ sức để rên khe khẽ . Từ đống mửa bay lại một mùi gì thoảng như mùi rượu, hắn bỗng nhiên rùng mình.

Thị Nở lại đặt một tay lên ngực hắn (thị suy nghĩ đến bây giờ mới xong). Thị hỏi hắn:

- Vừa thổ hả ?

Mắt hắn đảo lên nhìn thị, nhìn một loáng rồi lại đờ ra ngay .

- Ði vào nhà nhé ?

Hắn làm như gật đầu . Nhưng cái đầu không động đậy, chỉ có cái mí mắt là nhích thôi .

- Thì đứng lên.

Nhưng hắn đứng lên sao được. Thị quàng tay vào nách hắn, đỡ cho hắn gượng ngồi . Rồi thị kéo hắn đứng lên. Hắn đu vào cổ thị, hai người lảo đảo rồi đi về lều .

Không có giường, chỉ có một cái chõng tre . Thị để hắn nằm lên và đi nhặt nhạnh tất cả những manh chiếu rách đắp lên cho hắn. Hắn hết rên. Hình như hắn ngủ . Thị cũng lim dim chực ngủ . Nhưng trong nhà nhiều muỗi quá. Muỗi nhắc cho thị cái áo quên ngoài vườn. Thị ra vườn. Ðôi lọ nhắc cho thị việc đi kín nước, thị mải mốt mặc áo, kín nước, rồi xách đôi lọ nước đi về nhà .

Trăng chưa lặn, không chừng trời còn khuya . Thị lên giường định ngủ . Nhưng lại nhớ việc lạ lùng tối qua . Thị cười . Thị thấy không buồn ngủ, và thị cứ lăn ra lăn vào .

Khi Chí Phèo mở mắt thì trời đã sáng lâu . Mặt trời đã cao, và nắng bên ngoài chắc là rực rỡ . Cứ nghe chim ríu rít bên ngoài đủ biết. Nhưng trong cái lều ẩm thấp vẫn chỉ hơi tờ mờ . Ở đây người ta thấy chiều lúc xế trưa và gặp đêm thì bên ngoài vẫn sáng. Chưa bao giờ Chí Phèo nhận thấy thế bởi chưa bao giờ hết say .

Nhưng bây giờ thì hắn tỉnh. Hắn bâng khuâng như tỉnh dậy, hắn thấy miệng hắn đắng, lòng mơ hồ buồn. Người thì bủn rủn, chân tay không buồn nhấc, hay là đói rượu, hắn hơi rùng mình. Ruột gan lại nôn nao lên một tý . Hắn sợ rượu cũng như người ốm thường sợ cơm. Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng nói của những người đi chợ . Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá . Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có . Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy ... Chao ôi là buồn!

- Vải hôm nay bán mấy ?

- Kém ba xu dì ạ!

- Thế thì còn ăn thua gì!

- Cố kéo co mới được một tấm năm xu .

- Thật thế đấy . Nhưng chẳng lẽ rằng lại chơi .

Chí Phèo đoán chắc rằng một người đàn bà hỏi một người đàn bà khác đi bán vải ở Nam Ðịnh về . Hắn nao nao buồn, là vì mẩu chuyện ấy nhắc cho hắn một cái gì rất xa xôi . Hình như có một thời hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ . Chồng cuốc mướn cầy thuê, vợ dệt vải, chúng bỏ lại một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm.

Tỉnh dậy hắn thấy già mà còn cô độc. Buồn thay cho đời! Có lý nào như thế được? Hắn đã già rồi hay sao ? Ngoài bốn mươi tuổi đầu ... Dẫu sao, đó không phải tuổi mà người ta mới bắt đầu sửa soạn. Hắn đã tới cái dốc bên kia của đời . Ở những người như hắn, chịu đựng biết bao nhiêu là chất độc, đầy đọa cực nhọc mà chưa bao giờ ốm, một trận ốm có thể gọi là dấu hiệu báo rằng cơ thể đã hư hỏng nhiều; nó là một cơn mưa gió cuối thu cho biết trời gió rét, nay mùa đông đã đến. Chí Phèo hình như đã trông trước thấy tuổi già của hắn, đói rét ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau .

Cũng may thị Nở vào . Nếu thị không vào, cứ để hắn vẩn vơ suy nghĩ mãi, thì đến khóc được mất. Thị vào cắp một cái rổ, trong có một nồi gì đậy vung. đó là một nồi cháo hành còn nóng nguyên. Là vì lúc còn đêm, thị trằn trọc một lát, thị bỗng nhiên nghĩ rằng: cái thằng liều lĩnh ấy kể ra thì đáng thương, còn gì đáng thương bằng đau ốm mà năm còng queo một mình. Giá thử đêm qua không có thị thì hắn chết. Thị kiêu ngạo vì đã cứu sống một người . Thị thấy như yêu hắn: đó là một cái lòng yêu của một người làm ơn. Nhưng cũng có cả lòng yêu của một người chịu ơn. Một người như thị Nở càng không quên được. Cho nên thị nghĩ: mình bỏ hắn lúc này thì cũng bạc. Dẫu sao cũng đã ăn nằm với nhau ! Ăn nằm với nhau như "vợ chồng". Tiếng "vợ chồng", thấy ngường ngượng mà thinh thích. Ðó vẫn là điều mong muốn âm thầm của con người khốn nạn ấy chăng ! Hay sự khoái lạc của xác thịt đã làm nổi dậy những tính tình mà thị chưa bao giờ biết ?

Chỉ biết rằng thị muốn gặp Chí Phèo, gặp hắn mà nhắc lại chuyện đêm qua thì chắc buồn cười lắm. Gớm ! Sao lại có thứ người đâu mà lì quá thế ! Người ta ngồi đấy mà dám xán lăn ngay vào, nó chả ngang ngược mà người ta kêu bé, nó lại làm to hơn. Mà kể thì cũng ngù ngờ . Cái thằng trời đánh không chết ấy, nó còn sợ ai mà hòng kêu . Nhưng mà đáng kiếp. Thổ trận ấy thật là phải biết. Cứ gọi hôm nay nhọc đừ . Phải cho hắn ăn tí gì mới được. Ðang ốm thế thì chỉ ăn cháo hành. Ra được mồ hôi thì là nhẹ nhõm người ngay đó mà ... Thế là vừa sáng thì đã chạy đi tìm gạo . Hành thì nhà thị may lại còn. Thị nấu bỏ vào cái rổ, mang ra cho Chí Phèo .

Thằng này rất ngạc nhiên. Hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt mình ươn ướt. Bởi vì lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho . Xưa nay, nào hắn có thấy ai tự nhiên cho cái gì . Hắn vẫn phải doạ nạt hay là giật cướp. Hắn phải làm gì cho người ta sợ . Hắn nhìn bát cháo bốc khói mà bâng khuâng. Thị Nở thì chỉ nhìn trộm hắn, rồi lại toe toét cười . Trông thị thế mà có duyên. Tình yêu làm cho có duyên. Hắn thấy vừa vui vừa buồn. Và một cái gì nữa, giống như ăn năn. Cũng có thể như thế lắm. Người ta hay hối hận về tội ác khi không đủ sức mà ác nữa . Thị Nở giục hắn ăn nóng. Hắn cầm lấy bát cháo đưa lên mồm. Trời ơi cháo mới thơm làm sao! Chỉ khói xông vào mũi cũng đủ làm người nhẹ nhõm. Hắn húp một húp và nhận ra rằng: những người suốt đời không ăn cháo hành không biết rằng cháo ăn rất ngon. Nhưng tại sao lại mãi đến bây giờ hắn mới nếm vị mùi cháo .

Hắn tự hỏi rồi lại tự trả lời: vì có ai nấu cháo cho ăn đâu ? Mà còn ai nấu cho mà ăn nữa! Ðời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi một tay "đàn bà". Hắn nhớ đến "bà ba", cái con quỷ cái hay bắt hắn bóp chân mà lại bóp lên trên, trên nữa, nó chỉ nghĩ đến sao cho thỏa nó chứ có yêu hắn đâu . Hồi ấy hắn hai mươi . Hai mươi tuổi, người ta không là đá, nhưng cũng không toàn là xác thịt. Người ta không thích cái gì người ta khinh. Vả lại bị một con đàn bà gọi đến nhà mà bóp chân! Hắn thấy nhục hơn là thích, huống hồ lại sợ . Quả thật, từ khi biết rằng con vợ chủ sai hắn làm một việc không chính đáng, hắn vừa làm vừa run. Không làm thì không được: mọi việc trong nhà, quyền đàn bà . Chứ hắn, hắn có lòng nào đâu . Ðến nỗi người đàn bà phát cáu . Bà thấy xa xôi không được, phải làm đến nơi . Bà bảo hắn rằng: "Mày thực thà quá! Con trai gì hai mươi tuổi mà đã như ông già". Hắn vẫn giả vờ không hiểu . Bà lẳng lơ bảo: "Chả nhẽ tao gọi mày vào chỉ để bóp chân thế này thôi ư ?..." và thấy hắn giùng giằng bà mắng xơi xơi vào mặt. Hắn chỉ thấy nhục, chứ yêu đương gì . Không, hắn chưa được một người đàn bà nào yêu cả . Vì thế mà bát cháo hành của thị Nở làm hắn suy nghĩ nhiều . Hắn có thể tìm bạn được, sao lại chỉ gây kẻ thù ?
 
Bát cháo húp xong rồi, thị Nở đỡ lấy bát cháo và múc thêm bát nữa. Hắn thấy mình đẫm bao nhiêu mồ hôi . Mồ hôi chảy ra trên đầu, trên mặt, những giọt to như giọt nước. Hắn đưa tay áo quệt ngang một cái, quệt mũi, cười rồi lại ăn. Hắn càng ăn, mồ hôi lại càng nhiều . Thị Nở nhìn hắn, lắc đầu thương hại . Hắn thấy lòng thành trẻ con. Hắn muốn làm nũng với thị như với mẹ . Ôi sao mà hắn hiền, ai dám bảo đó là thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt mà đâm chém người ? Ðó là cái bản tính của hắn, ngày thường bị lấp đi . Hay trận ốm thay đổi hẳn về sinh lý, cũng thay đổi cả tâm lý nữa . Những người yếu đuối vẫn hay hiền lành. Muốn ác, phải là kẻ mạnh. Hắn đâu còn mạnh nữa . Và có lúc hắn ngẫm mình mà lo . Xưa nay hắn chỉ sống bằng giật cướp và dọa nạt. Nếu không còn sức mà giật cướp, dọa nạt nữa thì sao ? Ðã đành, hắn chỉ mạnh vì liều . Nhưng hắn mơ hồ thấy rằng sẽ có một lúc mà người ta không thể liều được nữa . Bấy giờ mới nguy! Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được. Họ sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện... Hắn băn khoăn nhìn thị Nở, như thăm dò . Thị vẫn im lặng, cười tin cẩn, hắn thấy tự nhiên nhẹ người . Hắn bảo thị:

- Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ ?

Thị không đáp, nhưng cái mũi đỏ của thị như càng bạnh ra . Hắn thấy thế cũng không có gì là xấu . Bằng một cái giọng nói và một vẻ mặt rất phong tình theo ý hắn, hắn bảo thị:

- Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui .

Thị lườm hắn. Một người thật xấu khi yêu cũng lườm. Hắn thích chí khanh khách cười . Lúc tỉnh táo, hắn cười nghe thật hiền. Thị Nở lấy làm bằng lòng lắm. Bấy giờ thì mấy bát cháo ý chừng đã ngấm. Hắn thấy lòng rất vui. Hắn bẹo thị Nở một cái làm thị giẫy nẩy người lên. Và hắn cười, hắn lại bảo:

- Ðằng ấy còn nhớ gì hôm qua không ?

Thị phát khẽ hắn một cái, làm cái vẻ không ưa đùa . Sao mà e lệ thế . Xấu mà e lệ thì cũng đáng yêu . Hắn cười ngất, và muốn làm thị thẹn thùng hơn nữa, hắn véo thị một cái thật đau vào đùi . Lần này thì không những thị nẩy người . Thị kêu lên choe choé . Thị nắm cổ hắn mà giúi xuống. Chúng tỏ tình với nhau, không cần đến những cái hôn. Ai lại hôn, khi có những cái môi nức nẻ như bờ ruộng vào kỳ đại hạn và cái mặt rạch ngang dọc như mặt thớt. Vả lại, có những cách âu yếm bình dân hơn, chúng cấu véo hoặc phát nhau ... thiết thực biết mấy ...

Chúng sẽ làm thành một cặp rất xứng đôi . Chúng cũng nhận thấy thế, và nhất định lấy nhau . Như thế năm ngày chẵn, thị ở nhà hắn cả ngày lẫn đêm, trừ những lúc đi kiếm tiền. Hắn không còn kinh rượu nhưng cố uống cho thật ít. Ðể cho khỏi tốn tiền, nhưng nhất là để tỉnh táo mà yêu nhau . Ðàn bà không có men như rượu, nhưng cũng làm người say . Và hắn say thị lắm. Nhưng thị lại là người dở hơi . Ðến hôm thứ sáu, thì thị bỗng nhớ rằng thị có một người cô ở đời . Người cô ấy nội ngày nay sẽ về . Thị nghĩ bụng: hãy đừng yêu, để hỏi cô thị đã .

Thấy thị hỏi, bà già kia bật cười . Bà tưởng cháu bà nói đùa . Nhưng chợt nhớ ra rằng cháu bà vốn dở hơi . Bà bỗng trở nên hoảng hốt. Bà nhục cho ông cha nhà bà . Cũng có lẽ bà tủi thân bà . Bà nghĩ đến cái đời dài dằng dặc của bà, không có chồng. Bà thấy chua xót lắm. Bà uất ức, uất ức với ai không biết. Nhưng rồi đổ cái uất ức ngay lên cháu bà ! Người đàn bà đức hạnh thấy cháu bà sao mà đĩ thế ! Thật đốn mạt. Ngoài ba mươi tuổi mà chưa trót đời . Ngoài ba mươi tuổi ... ai lại còn đi lấy chồng. Ai đời lại còn đi lấy chồng ! Ừ ! mà có lấy thì lấy ai chứ ?... Ðàn ông đã chết hết cả rồi hay sao, mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha . Ai lại đi lấy thằng chỉ có mộ t nghề là rạch mặt ra ăn vạ . Trời ơi ! Nhục nhã ơi là nhục nhã ! Hỡi ông cha nhà bà ! Bà gào lên như con mẹ dại . Bà xỉa xói vào mặt cái con cháu gái ba mươi tuổi mà chưa trót đời . Bà bảo phắt nó:

- Ðã nhịn được đến bằng này tuổi thì nhịn hẳn, ai lại đi lấy thằng Chí Phèo !

Thị nghe thấy thế mà lộn ruột. Nhưng thị biết cãi bà làm sao . Con người ấy có quyền nói thế, bởi con người ấy năm mươi tuổi rồi còn ai lấy chồng. Thị biết cãi làm sao . Mà không cãi được thì giận dữ nổi lên đùng đùng. Thị tức lắm ! Thị tức lắm ! Thị cần đổ cái tức ấy lên một người . Thị lon ton chạy sang nhà nhân ngãi . Thị thấy hắn đương uống rượu, và vừa uống vừa lầm bầm chửi thị về nhà lâu . Hắn không quen đợi; bởi phải đợi, hắn lại lôi rượu và uống cho đỡ buồn. Uống vào thì phải chửi, quen mồm rồi ! Nhưng chửi thị ? Ồ, thị điên lên mất ! Thị giẫm chân xuống đất, rồi lại nhảy cẫng lên như thượng đồng. Hắn thú vị quá, lắc lư cái đầu cười . Lại còn cười ! Nó nhạo thị, trời ơi ! Thị điên lên mất. Trời ơi là trời ! Thị chống hai tay vào háng, vênh vênh cái mặt, và đớn cái môi vĩ đại lên, trút vào mặt hắn tất cả lời bà cô . Hắn nghĩ ngợi một tí rồi hình như hiểu . Hắn bỗng nhiên ngẩn người . Thoáng một cái, hắn lại như hít hít thấy nồi cháo hành. Hắn cứ ngồi ngẩn mặt, không nói gì . Thị trút xong giận rồi . Cái mũi đỏ của thị dị xuống rồi lại bạnh ra . Thị hả hê lắm. Thị ngoay ngoáy cái mông đít ra về . Hắn sửng sốt, đứng lên gọi lại . Ai mà thèm lại ! Còn muốn lôi thôi gì ? Hắn đuổi theo thị nắm lấy tay . Thị gạt ra, lại giúi thêm cho một cái . Hắn lăn khèo xuống sân. Ðã lăn ra thì hắn phải kêu: bao giờ chả thế . Hắn nhặt một hòn gạch vỡ, toan đập đầu . Nhưng hình như hắn chưa thật say . Vì hắn nghĩ đập đầu ở đây chỉ thiệt: đập đầu ở đây để mà nằm ăn vạ ai ? Hắn tự phải đến cái nhà con đĩ Nở kia . Ðến để đâm chết cả nhà nó, đâm chết cái con khọm già nhà nó . Nếu không đâm được, lúc ấy hãy đập đầu kêu làng. Muốn đập đầu, phải uống thật say . Không có rượu, lấy gì làm cho máu nó chảy ? Phải uống thêm chai nữa . Và hắn uống. Nhưng tức quá, càng uống càng tỉnh ra . Tỉnh ra, chao ơi buồn! Hơi rượu không sặc sụa . Hắn cứ thoang thoảng thấy hơi cháo hành. Hắn ôm mặt khóc rưng rức. Rồi lại uống. Hắn ra đi với một con dao ở thắt lưng. Hắn lảm nhảm: "Tao phải đâm chết nó!" Nhưng hắn lại cứ thẳng đường mà đi . Cái gì đã làm hắn quên rẽ vào nhà thị Nở ? Những thằng điên và những thằng say rượu không bao giờ làm những cái mà lúc đi chúng định làm.

Trời nắng lắm, nên đường vắng. Hắn cứ đi, cứ chửi và dọa giết "nó", và cứ đi . Bây giờ đến ngõ nhà cụ Bá . Hắn xông xông đi vào . Cả nhà đi làm đồng vắng, chỉ có mình cụ Bá đang nằm nghỉ trưa ? Nghe hắn, cụ thấy bực mình quá ! Chính thật thì cụ đã đang bực mình. Bởi cụ thấy đầu hơi nhức. Cụ đang muốn có một bàn tay man mát xoa cái đầu . Cũng có lẽ, cụ chỉ muốn bà Tư đừng đi lâu quá thế, không biết rằng đi đâu ? Sao bà ấy còn trẻ quá! Gần bốn mươi rồi mà trông còn phây phây . Còn phây phây quá đi nữa! Cụ năm nay đã ngoài sáu mươi . Già yếu quá, nghĩ mà chua xót. Già thế thì bà ấy chỉ cũng già cho xong. Bà ấy lại cứ trẻ, cứ phây phây, cứ đẹp như mới ngoài hai mươi tuổi, mà sao đa tình. Nhìn thì thích nhưng mà tưng tức lạ . Khác gì nhai miếng thịt bò lựt xựt khi rụng gần hết răng. Mắt bà, miệng bà có duyên, nhưng trông đĩ lắm. Hơi một tí là cười toe toét, tít cả mắt lại, cái má thì hây hây . Mà thấy ghét những thằng trai trẻ, giá làm con bà không đáng, mà thấy đâu cũng đùa . Chúng đùa nhạt như nước ốc, chỉ được cái thô tục, mà gặp ai đâu cũng cười! Chẳng nghĩ đến địa vị cả, người đâu mà vô tâm ! Tức lạ ! Cụ chỉ muốn cho tất cả những thằng trai trẻ đi ở tù ... Những lúc như thế, thì một người dẫu khôn ngoan cũng không bình tĩnh được. Nhất là khi trông thấy một thằng chỉ đến vòi tiền uống rượu như Chí Phèo . Tuy vậy, cụ cũng móc sẵn năm hào . Thà móc sẵn để tống nó đi cho chóng. Nhưng móc rồi, cụ cũng phải quát một câu cho nhẹ người:

- Chí Phèo đấy hở ? Lè bè vừa chứ tôi không phải là cái kho .

Rồi ném bẹt năm hào xuống đất, cụ bảo hắn:

- Cầm lấy mà cút đi cho rảnh. Rồi làm mà ăn chứ cứ báo người ta mãi à ?

Hắn trợn mắt chỉ tay vào mặt cụ:

- Tao không đến đây xin năm hào !

Thấy hắn toan làm dữ cụ đành dịu giọng:

- Thôi cầm lấy vậy, tôi không còn hơn.

Hắn vênh cái mặt lên, rất kiêu ngạo:

- Tao đã bảo không đòi tiền.

- Giỏi! Hôm nay mới thấy anh không đòi tiền. Thế anh cần gì ?

Hắn dõng dạc:

- Tao muốn làm người lương thiện !

Bá Kiến cười ha hả:

- Ồ tưởng gì! Tôi chỉ cần anh lương thiện cho thiên hạ nhờ .

Hắn lắc đầu:

- Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này ? Tao không thể là người lương thiện nữa . Biết không! Chỉ có một cách... biết không ! Chỉ có một cách là ... cái này biết không !

Hắn rút dao ra, xông vào . Bá Kiến ngồi nhỏm dậy, Chí Phèo đã văng dao tới rồi . Bá Kiến chỉ kịp kêu một tiếng. Chí Phèo vừa chém túi bụi vừa kêu làng thật to . Hắn kêu làng, không bao giờ người ta vội đến. Bởi thế khi người ta đến thì hắn cũng đang giẫy đành đạch ở giữa bao nhiêu là máu tươi . Mắt hắn trợn ngược. Mồm hắn ngáp ngáp, muốn nói nhưng không ra tiếng. Ở cổ hắn, thỉnh thoảng máu vẫn còn ứ ra .

***
Cả làng Vũ-đại nhao lên. Họ bàn tán rất nhiều về vụ án không ngờ ấy . Có nhiều kẻ mừng thầm, không thiếu kẻ mừng ra mặt! Có người nói xa xôi: "Trời có mắt đấy, anh em ạ!" Người khác thì nói toạc: "Thằng nào chứ hai thằng ấy chết thì không ai tiếc! Rõ thật bọn chúng nó giết nhau, nào có cần phải đến tay người khác đâu". Mừng nhất là bọn kỳ hào ở trong làng. Họ tuôn đến để hỏi thăm, nhưng chính là để nhìn lý Cường bằng những con mắt thỏa mãn và khiêu khích. Ðội Tảo, không cần kín đáo, nói toang toang ngay ngoài chợ, trước mặt bao người: "Thằng bố chết, thằng con lớp này không khỏi người ta cho ăn bùn". Ai chả hiểu "người ta" đó là chính ông. Bọn đàn em thì bàn nhỏ: "Thằng mọt già ấy chết, anh mình nên ăn mừng". Những người biết điều thì hay ngờ vực, họ chép miệng nói: "Tre già măng mọc, thằng ấy chết, còn thằng khác, chúng mình cũng chẳng lợi tí gì đâu ..."
Bà cô thị Nở chỉ vào tận mặt cháu mà đay nghiến:

- Phúc đời nhà mày, con nhé! Chả ôm lấy ông Chí Phèo .

Thị cười và nói lảng:

- Hôm qua làm biên bản, lý Cường nghe đâu đã tốn gần một trăm. Thiệt người lại thiệt của .

Nhưng thị lại nghĩ thầm:

- Sao có lúc nó hiền như đất.

Và nhớ lại những lúc ăn nằm với hắn, thị nhìn trộm bà cô rồi nhìn nhanh xuống bụng:

- Nói dại, nếu mình chửa, bây giờ hắn chết rồi, thì làm ăn thế nào ?

Ðột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng người lại qua ...

Tháng 2-1941
Nam Cao
 
Nhu nhược - Anton Tsekhov

Một hôm tôi gọi cô Iulia Vasilievna - gia sư của bọn trẻ đến phòng làm việc. Đã đến hạn thanh toán tiền công cho cô ấỵ
-Cô ngồi xuống đi, cô Iulia Vasilievna - tôi nói - tôi sẽ thanh toán tiền công cho cộ Tôi chắc cô cũng cần tiền, nhưng là một người tự trọng nên chắc cô không tiện hỏi, đúng không? Chúng ta đã thoả thuận với nhau là 30 rúp một tháng nhỉ.
-40 rúp chứ ạ...
-Không, chỉ 30 rúp thôị Tôi có ghi vào sổ rồi mà. Bao giờ tôi cũng chỉ trả cho gia sư 30 rúp một tháng thôị Xem nào, cô đã làm cho chúng tôi hai tháng rồi nhỉ. -Hai tháng 5 ngày ạ....
-Không chính xác hai tháng. Tôi có ghi đây mà. Vậy là phải trả cho cô 60 rúp... trừ đi 9 ngày chủ nhật... Các chủ nhật cô chỉ đưa thằng Koha đi dạo thôi mà, có học hành gì đâụ.. cộng 3 ngày lễ...
Cô Iulia Vasilevna mặt đỏ bừng, tay mân mê gấu áo, nhưng vẫn không nói gì. -9 chủ nhật, 3 ngày lễ vị chi là 12 rúp. Thằng Kolia bị ốm mất 4 hôm, không học, cô chỉ trông mỗi con Va riạ.. 3 ngày cô bị đau răng vợ tôi cho cô nghỉ buổi chiềụ.. 12 với 7 là 19. Sáu mươi rúp trừ đi 19 rúp, vậy chỉ còn 41 rúp, đúng không cổ
Mắt trái của cô Iuìia đỏ ngầu và ngân ngấn nước mắt, cằm cô run lên bần bật. Nhưng chỉ thấy cô ho và xì mũi, tuyệt nhiên không nói lời nào!
-Đêm giao thừa cô đánh vỡ cái tách uống trà với các đĩa cùng bộ. Tôi sẽ trừ tiền lương của cô đi 2 rúp nữạ.. Thực ra cái tách ấy đắt hơn kia, vì đó là đồ gia bảo mà, nhưng thôi! Cũng không nên so đo quá với cộ Một lần do cô không cẩn thận đã để thằng Kolia trèo lên cây làm rách mất chiếc áo khoác... Trừ thêm 10 rúp nữạ.. Rồi cũng vì cô lơ là nên con hầu đã ăn cắp mất đôi giày của con Variạ Cô phải trông nom chúng cẩn thận chứ. Tôi trả lương để cô dạy dỗ và trông chúng nó cơ mà...Vậy trừ tiếp 5 rúp... Hôm mồng 10 tháng giêng cô mượn của tôi 10 rúp...

-Tôi có mượn đâu ạ... Giọng cô Iulia nghèn nghẹn.
-Tôi đã ghi cả đây mà lị.
-Vâng, thế cũng được ạ.
-Vậy là 41 trừ đi 27 còn lại 14.
Lúc này thì hai mắt cô giáo trẻ đã đầy nước... Trên chiếc mũi thanh, cao của cô đã lấm tấm mồ hôị Thật tội nghiệp!
-Tôi chỉ vay vợ ông có 3 rúp - giọng cô run run - Đúng có một lần 3 rúp mà thôị
-Thế à? Vậy mà tôi không hề biết gì cả. Thảo nào trong sổ tôi không thấy ghị 14 rúp trừ 8 còn 11. Đây, tiền lương của cô đây, cô giáo thân mến ạ! 3 này, 3 này, 8 này, 1 rúp, 1rúp. Xin cô nhận chỏ
Và tôi đưa cho cô 11 rúp. Cô nhận lấy chúng bằng những ngón tay run rẩy rồi nhét vào túị
-Cám ơn ông - cô nói thì thầm.
Tôi đứng dậy và tiến lại phía cộ Một sự tức giận xâm chiếm lấy tôị Tôi cáu phát điên lên.
-Cô cám ơn cái gì? - Tôi sẵng giọng.
-Vì ông đã trả lương cho tôị..
-Nhưng cô không thấy là tôi ăn chặn của cô, bóc lột cô hay saỏ Cô còn cám ơn cái nỗi gì?
-Ở những nơi khác người ta còn chẳng trả cho tôi đồng nào kiạ
-Không trả ử Cũng dễ hiểu thôi! Thì tôi cũng vừa đùa cô đấy thôị Tôi muốn dạy cho cô một bài học. Nhưng xin cô cứ yên tâm, tôi sẽ trả đủ 80 rúp cho cộ Chúng ở trong chiếc phong bì kia kìa, tôi đã chuẩn bị sẵn rồị Nhưng tôi không hiểu tại sao cô lại có thể nhẫn nhức đến thế? Sao cô không cãi lại tôỉ Sao cô cứ ngồi im như thóc thế. Chẳng lẽ có thể nhu nhược đến thế saỏ

Cô giáo mỉm cười rầu rĩ và tôi đã đọc được trên mặt cô hai chữ "có thể". Tôi đã xin lỗi cô gia sư vì bài học tàn nhẫn vừa rồi và đưa cho cô cả 80 rúp mà cô đáng được nhận trong sự ngạc nhiên đến tột độ của cộ Cô ngượng nghịu cảm ơn và lui rạ

Tôi nhìn theo cô hồi lâu và chợt nghĩ: "Trên đời này làm kẻ mạnh mới dễ làm sao!"
 
Nghệ thuật khoả thân

Người Trung Quốc gọi loại truyện này là truyện cực ngắn. Đó cũng là một cách gọi, cách phân loại của họ. Đây là một truyện ngắn đậm chất Trung Quốc và cũng gần gũi với người đọc Việt Nam. Một truyện ngắn vui vẻ...


Mới đến giờ lên đèn mà Thổ Khôi đã rửa xong chân tay mặt mũi. Vợ hắn đang ngồi trước ti vi xem phim. “Tách” - Thổ Khôi tắt cái tivi. Hôm nay hắn vào thành phố làm ăn, gặp may kiếm được khá nhiều tiền, nhưng mệt bã người, bây giờ buồn ngủ lắm rồi, muốn đi nằm sớm. Thúy Hoa chiều ý chồng, lặng lẽ chui vào màn như một con chuột. Đợi khi Thổ Khôi đã lên giường, cô bèn tắt đèn.

“Tắt đèn làm gì!” - Thổ Khôi lầu bầu, lại bật đèn lên, rồi hai tay hắn quờ quạng ôm lấy vợ.

“Cái lão quỷ này, không biết xấu hổ à... Bị ma ám hay sao thế hả?”.

Thổ Khôi chẳng nói chẳng rằng, loáng một cái đã lột hết quần áo lót của vợ. Cưới nhau đã ba năm, làm cái chuyện kia bao nhiêu lần rồi, thế mà hôm nay lần đầu tiên hắn mới nhìn thấy thân thể người đàn bà. Mắt hắn đờ ra, đầu óc như mụ đi. Cặp vú có hai núm nhỏ màu sẫm trông như hai cái sừng dê mới nhú, trông đẹp bằng mấy thứ vú làm bằng cao su bày trong cửa hàng trên phố và mê ly hơn nhiều. Cái lưng thon thon, đôi chân dài dài, làn da trắng trẻo mịn màng như cây cải bắp mới lớn. Mình phải “làm” thôi, Thổ Khôi mút mút đầu lưỡi. Thúy Hoa của mình còn “nghệ thuật” hơn nhiều so với những bức tranh vẽ các cô gái trần truồng hắn vừa nhìn thấy trên thành phố sáng nay.

... “Ai mua vé không, ai mua vé không? Phim Giọt máu trinh nữ, phim Mỹ loại độc đây. Cơ hội hiếm có!”. Lũ phe vé mất dạy, vé giá 5 hào mà chúng bán đắt gấp 10 lần. Thổ Khôi đắn đo mãi mới dám mua một chiếc. Khi vào rạp chiếu bóng, nhân viên soát vé bảo: “Đây là vé xem triển lãm hội họa ở gian bên chứ không phải vé xem phim, bác mắc lừa chúng nó rồi”. Thổ Khôi giận điên người định xé béng chiếc vé ấy, nhưng nghĩ lại, vé đã trót mua rồi, triển lãm lại ở ngay bên cạnh, tội gì chẳng đảo qua một tí, xem thiên hạ vẽ thế nào cũng hay chán.

Vào triển lãm rồi, Thổ Khôi mới cảm thấy kỳ lạ làm sao. Ôi mẹ ơi, trên tường treo bao nhiêu là tranh vẽ đàn bà không mặc tí tẹo quần áo nào mới kinh chứ! Hắn len lét liếc nhìn xung quanh, sau khi không thấy có người quen nào mới thở một hơi dài khoan khoái. Người trong xóm mà biết mình vào đây thì “dư luận” gay lắm!

“Này cậu gì ơi, tranh vẽ người trần truồng thế này mà sao bên công an người ta lại không có ý kiến gì nhỉ? Thằng cha Vương Tiểu Nhị xóm tớ chỉ bán có mấy bộ tú lơ khơ vẽ đàn bà ở truồng thôi mà đã bị công an tóm cổ đưa lên đồn đấy!”.

“Đồng chí ơi, đấy là những thứ văn hóa phẩm khiêu dâm. Còn đây người ta gọi là nghệ thuật. Khác nhau đấy!”.

Đầu óc Thổ Khôi bỗng sáng ra như căn phòng tối được thắp đèn. Trên đường về nhà trọ, hắn mê mẩn người, trong óc hiện lên toàn là hình đàn bà trần truồng các kiểu. Nghĩ mãi, rồi hắn cũng nghĩ tới cô vợ Thúy Hoa của hắn. Vợ mình xinh nhất xóm đấy chứ, mặt xinh này, thân hình cũng gọn gàng này, chỉ có điều suốt ngày mặc bộ quần áo rộng thùng thình, mọi đêm mình có làm cái chuyện kia thì cũng tắt đèn tối như hũ nút, chẳng được ngắm nghía gì, thật phí của. Lần này về nhà quyết phải bắt cô ấy “nghệ thuật nghệ thuật” một tí chứ. Thế là Thổ Khôi tạt vào chợ đêm mua cho vợ một bộ váy loại lụa mỏng tang nhìn thấy cả da thịt.

... Dưới ánh đèn sáng, Thúy Hoa trần như nhộng ra sức giãy giụa. Mọi khi cô ấy vẫn ngoan ngoãn theo hắn kia mà! Lần chống trả này chỉ khiến cho Thổ Khôi càng thêm xúc động hăng tiết. Hắn thở phì phò ráng sức đè vợ xuống... Xong việc, Thổ Khôi cảm thấy hôm nay mình mới được làm người đàn ông thật sự. Hắn ngồi dậy, tợp một ngụm trà rồi định làm tiếp lần nữa. Ai ngờ cô vợ bỗng bật khóc hu hu. Mới đầu Thổ Khôi còn có chút khoái chí vì đắc ý, nhưng rồi hắn lập tức cảm thấy tình hình có chiều hướng nguy hiểm. Người đàn bà càng khóc càng to, càng thương tâm. Cuối cùng, tiếng gào khóc ấy khiến ông bố Thổ Khôi chạy đến đập cửa vào phòng.

Mẹ Thổ Khôi mất từ khi hắn còn ẵm ngửa. Ông bố một mình gà trống nuôi con nên người, cho nên Thổ Khôi rất kính nể, sợ bố một phép. Cái nhà ba người này, Thổ Khôi vâng lời bố, bố hắn nghe lời con dâu, Thúy Hoa là cao nhất, cái trật tự ấy chẳng ai dám đảo lộn.

“Nói cho tao xem nào, có việc gì thế hả? Đang yên ổn không đâu lại bắt nạt con Thúy Hoa, mày có muốn để tao xé xác ra không hả, thằng kia?”.

“Thưa bố, không có chuyện gì đâu ạ”.

“Không có chuyện, lại còn không có chuyện gì hả, đồ vô lương tâm, hu hu!” - thấy được bố chồng bênh, Thúy Hoa khóc càng to. Đang khóc, bỗng nghĩ đến cái túi xách chồng mang về chiều nay, cô bèn chạy đến lục túi. Quả nhiên Thúy Hoa lấy ngay ra được cái váy kia. Bây giờ thì càng rắc rối to rồi! “Bố xem, cái thứ váy này chẳng hiểu anh ấy mua cho con đĩ nào đây... Đổ đốn ra thành phố chơi bời với lũ đàn bà ngoài ấy, về nhà lại định học đòi bắt nạt con... Trời ơi! Hu hu! Con không muốn sống nữa!”.

Thổ Khôi chớp chớp mắt, tròng mắt trắng dã, mồ hôi toát ra như tắm. Bị ông bố truy hỏi mãi, cuối cùng hắn đành ấp úng kể lại đầu đuôi mọi chuyện. Ông bố giận tái mặt, những đường gân xanh trên trán ông run bần bật. Ông cầm chiếc ống điếu phang một cái vào đầu Thổ Khôi: “Đồ con mất dạy, mất dạy! Tám đời nhà ta thế là bị mày làm tan tành sụp đổ cả rồi, Lại còn nghĩ ra chuyện đi xem đàn bà ở truồng nữa cơ, mày không thấy thằng Nhị Tiểu vừa bị người bên công an tóm cổ lôi đi hả?”.

“Thưa bố, chuyện này khác ạ. Người ta làm chuyện khiêu... khiêu gì gì ấy cơ ạ. Còn con chỉ xem nghệ thuật thôi ạ”.

“Đồ súc sinh, lại còn già mồm hả!”. Cái ống điếu lại phang một cái nữa vào đầu Thổ Khôi, lần này phang mạnh hơn. “Lần sau mà mày còn vào thành phố thì ông chặt chân, nghe chưa!”.

Cũng chẳng hiểu tại sao, hôm sau người trong xóm trông thấy Thổ Khôi ai nấy đều chỉ chỉ trỏ trỏ, ghé tai nhau thì thầm cứ như chỉ sau một đêm mà trên đầu hắn bỗng mọc sừng hay sao ấy. Biết là chuyện lan ra ngoài xóm rồi, cho nên trông thấy ai là Thổ Khôi lẩn ngay. Thế nhưng cũng có lúc chẳng trốn đi đâu được. Mụ Hai, cái mụ gái góa trong xóm ngày thường vẫn bám riết tán tỉnh Thổ Khôi ấy, hôm nay mặt mày hớn hở tươi roi rói hẳn lên. Mụ õng ẹo chặn đường Thổ Khôi: “Thế nào, muốn xem mụ già này cởi truồng hả? Nhà tớ không có ai đâu, vào đây tớ cho xem này”. Thổ Khôi ngượng chín người chỉ muốn độn thổ.

Tối hôm ấy trước khi lên giường, hắn chủ động tắt đèn chứ không để vợ tắt như mọi khi.

Truyện ngắn của Mi Guo-xian (Trung Quốc) - NLD
 
Một bà mẹ - Hans Christian Andersen

Một bà mẹ đang ngồi bên đứa con thơ. Bà rất buồn vì đang lo đứa con bà chết mất. Đứa bé xanh rớt đã nhắm nghiền đôi mắt và đang thoi thóp. Đôi lúc đứa bé rền rĩ rất thiễu não, thế là người mẹ lại cúi sát xuống gần con, lòng se lại.

Có tiếng gõ cửa, một ông già nghèo khổ trùm kím trong tấm chăn thường khoác cho ngựa bước vào. Trời rét như cắt, kể ra không có áo nào ấm bằng thứ chăn ấy. Bên ngoài toàn là một màu băng tuyết. Gió vun vút như quất vào mặt.

Ông già rét run lập cập. Nhân lúc đứa bé ngủ thiếp đi, bà mẹ nhóm lò hâm một cốc bia. Ông già ngồi xuống ru đứa bé. Bà mẹ ngồi vào chiếc ghế gần ông già, nhìn đứa bé ôm yếu vẫn đang thoi thóp thở, và giơ một bàn tay lên. Bà hỏi :

- Liệu có việc gì không ? Thượng đế hẳn không bắt nó đi chứ ?

Ông già, chẳng phải ai, chính là Thần Chết, lắc đầu một cách khó hiểu. Bà mẹ gục đầu xuống ngực, nước mắt ròng ròng trên gò má. Đã ba ngày ba đêm nay, không hề được chợp mắt, bà thấy đầu nặng trĩu.

Bà ngủ thiếp đi, chỉ loáng một lát thôi, rồi chợt rùng mình vì rét, bà lại choàng dậy.

- Gì thế này ? - Bà kêu lên, mắt nhìn tứ phía. Ông già và cả con bà nữa đã biến mất. Lão đã đem con bà đi rồi. Chiếc đồng hồ quả lắc vẫn cót két trong xó nhà.

Cộc ! Một quả lắc bằng chì rơi xuống đất. Thế là chiếc đồng hồ ngưng bặt.

Bà mẹ tội nghiệp vùng chạy ra ngoài, miệng gọi con.

Bên ngoài, có một bà cụ mặc áo dài đen, đang ngồi giữa đám tuyết, bảo bà mẹ :

- Tôi thấy Thần Chết đã vào nhà chị. Lão ta mang con chị chạy đi rồi. Lão ta chạy nhanh hơn gió và chẳng bao giờ mang trả lại những con người lão đã cướp đi.

Bà mẹ khẩn cầu:

- Xin cụ chỉ bảo cho tôi con đường lão đi. Cứ chỉ đường cho tôi, tôi sẽ đuổi kịp.

Bà cụ đáp:

- Biết rồi! Nhưng trước khi ta chỉ đường, chị phải hát cho ta nghe tất cả các bài mà chị đã hát ru con chị. Từ trước đến nay, ta đã được nghe nhiều và ta rất thích nghe chị hát. Ta là thần Đêm Tối; ra đã từng trông thấy nước mắt chị tràn ra khi chị hát.

Bà mẹ van vỉ:

- Tôi xin hát hết, hát tất cả, sau đó xin cho tôi đuổi kịp thần Chết, đòi lại đứa con tôi.

Nhưng thần Đêm Tối cứ nín bặt. Thế là bà mẹ đành phải vặn vẹo đôi tay, nước mắt đầm đìa, cất tiếng hát. Tiếng nức nở át cả lời trong các bài hát.

Nghe hát xong thần Đêm Tối bảo:

- Rẽ sang phải rồi đi vào rừng tùng tối om kia. Ta đã thấy thần Chết mang con chị biến vào đấy.

Tới giữa rừng, gặp chỗ ngã ba đường, bà mẹ phân vân không biết rẽ đường nào. Nơi đó có một bụi gai không hoa không lá; đang giữa mùa đông nên băng bám và rủ xuống khắp các cành.

- Có thấy thần Chết mang con tôi qua đây không?

Bụi gai trả lời:

- Có. Nhưng nếu muốn tôi chỉ đường thì bà phải ủ tôi vào lòng để sưởi ấm cho tôi. Tôi buốt cóng và sắp biến thành băng rồi đây.

Bà mẹ ôm ghì bụi gai vào ngực để sưởi ấm cho nó. Gai đâm vào da thịt bà, máu nhỏ từng giọt đậm, nhưng bụi gai thì đâm chồi nẩy lộc, xanh tươi và trổ hoa ngay giữa đêm đông giá rét vì được bà mẹ truyền cho sức nóng của bà. Sau đó, bụi gai chỉ đường cho bà mẹ.

Bà đến một cái hồ lớn, không có lấy một bóng thuyền bè. Mặt băng trên hồ quá mỏng, không thể giẫm lên được, mà nước hồ lại quá sâu không thể lội qua. Nhưng thế nào thì thế, bà cũng phải vượt qua hồ tìm con. Bà bèn sụp xuống để uống cạn nước hồ. Tuy biết rằng đó là một việc mà con người ta không thể làm được, nhưng bà mẹ đau khổ mong mỏi Thượng đế sẽ ban phép lạ.

Hồ bảo bà:

- Không, không làm thế được đâu ! Ta thương lượng với nhau thì hơn. Tôi rất thích ngọc trai, mà đôi mắt bà là những hạt ngọc trai trong suốt, tôi chưa từng thấy bao giờ. Hãy khóc cho đến khi đôi mắt của bà rơi xuống; lúc ấy tôi sẽ đưa bà tới tận cái nhà kính ươm cây, nơi thần Chết ở và vun trồng các cây hoa. Mỗi cây là một kiếp người.

Bà mẹ nức nở:

- Trời ! Tôi còn tiếc gì để tìm thấy con tôi !

Bà khóc, nước mắt tuôn tầm tã đến nỗi đôi mắt bà theo dòng lệ rơi xuống đáy hồ và hóa thành hai hòn ngọc. Thế là bà được hồ nâng bổng lên như ngồi trên đu, và thoắt một cái, bà đã sang đến một ngôi nhà kỳ diệu dài chừng một dặm.

Không hiểu đấy là một quả núi có rừng thẳm và hang sâu hay là một công trình thiết kế nào của con người. Mắt bà mẹ đã rơi theo dòng lệ nên bà chẳng nom thấy gì. Bà hỏi:

- Tìm đâu cho thấy thần Chết đã cướp con tôi đi?

Một bà già canh giữ vườn kính ươm cây của thần Chết bảo bà:

- Thần Chết chưa về. Bà làm thế nào mà đến được tận chốn này? Ai đã giúp bà?

- Thượng đế chứ ai! - Bà mẹ đáp - Người đã thương xót tôi, vậy bà cũng rủ lòng thương bảo cho tôi biết con tôi đi đâu.

Bà già nói:

- Tôi không biết mặt nó, còn bà thì không trông thấy gì. Biết bao nhiêu cây, bao nhiêu hoa đã héo tàn trong đêm qua. Thần Chết lát nữa sẽ đến trồng lại. Chắc bà biết rằng mỗi người có một gốc cây hay một bông hoa tượng trưng cho sinh mệnh của mình. Ở đây, những cây hoa ấy chẳng có gì khác thường nhưng chúng có một trái tim và trái tim ấy đập hẳn hoi. Tim trẻ con cũng đập. Đấy, bà cứ tìm đi ! Có lẽ bà sẽ nhận ra nhịp tim của con bà đấy. Nhưng nếu bà muốn tôi hướng dẫn thêm cho bà thì bà tạ ơn tôi bằng cái gì nào?

Bà mẹ tội nghiệp than thở:

- Tôi chẳng còn cái gì để cho nữa, nhưng nếu cần, tôi có thể theo người đến tận cùng thế giới.

- Tôi đến đấy làm gì kia chứ? Bà còn có thể cho tôi mớ tóc dài đen nháy của bà. Bà thừa biết bộ tóc ấy đẹp lắm. Tôi rất thích bộ tóc ấy và sẽ cho bà bộ tóc bạc của tôi. Thế là đổi hòa đấy.

Bà mẹ nói:

- Nếu bà chỉ đòi hỏi có thế thôi thì tôi rất vui lòng.

Rồi bà trao mớ tóc đen cho bà cụ và nhận lấy mớ tóc bạc.

Hai người bước vào vườn kính rộng lớn của Thần Chết. Nơi đó có rất nhiều cây cỏ mọc lung tung. Có những cây dạ lan hương mảnh dẻ mọc trong lồng hình chuông bằng thủy tinh. Có những bông thược dược to và mập mạp. Có những cây mọc dưới nước, cây thì xanh tươi, cây thì khô cằn, hàng bầy rắn nước quấn mình quanh gốc. Đây là những cây cọ, cây tiêu huyền mộc; kia là đám mùi và xạ hương. Mỗi cây, mỗi hoa đều mang một tên người, mỗi cây, mỗi hoa tượng trưng cho một kiếp người hiện đang sống bên Trung Quốc, ở Gơrôenlăng hoặc khắp nơi trên Trái Đất.

Lại có những cây lớn trồng trong chậu nhỏ đang đe dọa phá vỡ chậu. Ngược lại, có những cây con cằn cỗi lại được trồng trong khoảng đấy xới xắn mịn màng, phủ rêư xanh mượt. Người mẹ đau khổ cúi rạp xuống từng gốc cây, tìm đến tận từng gốc nhỏ nhất, lắng nghe nhịp đập từng trái tim của chúng. Và giữa muôn ngàn trái tim ấy bà đã nhận ra tiếng đập của trái tim đứa con mình.
 
Cầu vồng bình yên_ Nguyễn Thiên Ngân

Tôi hai mươi mốt tuổi, học kiến trúc, thích nghe rock, chơi game online, ít nói và không có điểm gì nổi trội. “Đôi khi mày nhạy cảm đến sến ốm” – Đăng, thằng bạn thân tôi, nói thêm.

Dung là bạn gái của Đăng. Đăng đã đi du học Sing. Nó không bày trò “ký thác người yêu cho thằng bạn thân”, không phải vì sợ kết cục như trên phim và truyện: thằng bạn thân cùng cô bạn gái nắm tay nhau đi về phía mặt trời, mà chỉ đơn giản cả ba chúng tôi xem đó là một trò ngớ ngẩn. Càng ngày người ta càng tự tin về những gì mình có. Hay càng ngày cách người ta suy nghĩ về tình cảm hời hợt thấy rõ?

Đăng đi. Tôi và Dung hầu như không giữ liên lạc dù sống khá gần chỗ nhau. Vài ba lần gặp nhau online, hỏi nhau có nhận mail của Đăng không, rồi thôi. Cho đến một ngày, Đăng gọi tôi, bảo: “Từ nay mày giúp tao để mắt đến Dung. Dạo này...”, “Dạo này làm sao?” - tôi ngắt lời nó. “Không! Chẳng có chuyện gì, nhưng mày sẽ giúp tao như thế chứ?” - Đăng gằn giọng. Tôi toan từ chối, rồi bỗng nhiên nghe cổ họng mình ậm ừ. Đăng thở nhẹ: “Ừ, vậy nhé, nhờ mày!”.

Tôi gọi cho Dung: “Lâu quá không gặp, dạo này Dung thế nào?”. Nghe giọng cô ấy run lên rồi lanh canh như tiếng thìa khuấy trong lòng ly rỗng ở đầu dây bên kia: “Tôi không ổn chút nào, Nguyên ạ!”.

Tôi ngẩn người siết cục điện thoại đến nóng bỏng và ướt nhẹp mồ hôi trong tay, không biết nói gì. Một cảm giác xót xa òa đến. Tôi thường ngẩn ra khi cảm nhận được sự cô độc và trống rỗng. Như lúc thấy một mầm cây bé mọc ra từ khe nứt của bức tường, một con chim sẻ lượn qua lại trong vùng trời nhỏ bé, tù túng... Nó trực tiếp đụng chạm đến những vấn đề của riêng tôi.


Nổi gió

Chúng tôi gặp nhau ở quán cà phê Văn. Quán nằm ở trên đồi cao, đứng từ trên gác gỗ nhìn xuống có thể thấy thành phố với những mái nhà loang lổ như một kẻ bị lở lói trên đỉnh đầu, không lộng lẫy đẹp đẽ như khi người ta nhìn trực diện. Dung gầy đi và xanh, xõa tóc ra nên trông rất già, vạt áo sơmi khoác còn cẩu thả dính một vệt acrylic. Nó như vết xước mang màu của bầu trời chiều giấu nặng mưa.

Dung đặt balô chứa đầy cọ xuống bộ salon cũ trên gác gỗ, lùa tay vào mái tóc bù xù khẽ giải thích: “Xin lỗi, tôi vừa ở xưởng vẽ về”. Tôi tròn mắt ngạc nhiên nhìn Dung quẳng gói Dunhill lên bàn sau khi rút một điếu, điềm nhiên châm lửa đốt. Nhìn cô ấy nhả khói điệu nghệ, tôi thần người, không thể tìm lại từ con người đó cô gái rụt rè, yếu ớt thường đứng sau lưng Đăng ngày nào.

Dung thôi nhìn xuống thành phố, đưa mắt sang tôi: “Hôm ấy tôi nói linh tinh thôi. Đừng để ý! Đăng nhờ Nguyên gặp tôi sao?”. Tôi không trả lời: “Dung hút thuốc thế này lâu chưa?”. “Từ dạo Giáng sinh. Đi một mình ngoài phố nhà thờ, trời lạnh, nó giúp tôi bình tĩnh và ngừng rủa Đăng giờ này anh đang ở đâu vậy” - Dung đáp điềm nhiên. Tôi miết thành salon gỗ đến bỏng rát bàn tay. Tiếng Dung cười khành khạch: “Gì vậy? Thất vọng? Hay thương hại tôi?!”.

“Khi nào muốn có ai đó cùng đi cà phê, cứ gọi tôi, như một người bạn!”- Tôi tần ngần khi dắt xe giúp Dung. Cô ấy khẽ bảo: “Ok! Nguyên này, đừng kể với Đăng tôi đang trong tình trạng hiện giờ, được chứ?”. “Được” - tôi liếm môi, gật đầu. Dung đỡ lấy chiếc xe ga nặng nề, cái dáng mảnh khảnh xiêu đi. Nụ cười khó hiểu chưa kịp tan trong mắt tôi, cô gái biến mất. Chiếc xe để lại một làn bụi rát.


Mây đen

Tôi van lạy bản thân mình hãy thất hứa với Dung, phải nói cho Đăng nghe tất cả. Đăng cần phải biết người cần được nó chở che đang hoang mang, mệt mỏi dường nào. Nhưng tôi không làm được. Lời hứa với Dung cứ quay cuồng trong óc, không cho phép tôi mở lời. Vả lại nếu vậy, ở xa Đăng sẽ lo lắng và dày vò kinh khủng. Tôi quyết định gặp Dung lần nữa.

Dung không tươi tỉnh hơn, nếu không muốn nói là suy sụp thêm. Cô gái vẫn hút thuốc, rất nhiều. Đang ngồi, bỗng Dung đặt điếu thuốc gác ngang tách cà phê, từ từ tiến về phía bể nước bé xíu ở bancông căn gác gỗ. Cô ngồi mê mẩn ngắm những vạt bèo tấm xanh non trong đó. Chợt lúc ấy, tôi như thấy lại Dung yếu đuối, rụt rè của Đăng ngày trước. Điếu thuốc vẫn cháy, rơi tàn và đầu lọc xuống tách cà phê, tắt ngúm.

Cô gái quay lại bàn, đôi mắt vụt tối. Dung thản nhiên kể chuyện tên sếp không đứng đắn nơi cô đang làm thêm, nhưng đó là một công ty lớn và nhiều cơ hội cho sau này khi ra trường nên cô không thể nghỉ việc, rồi những áp lực ở trường đại học, cuộc sống một mình không người thân... giọng lạnh tanh. Tuyệt nhiên không hề nhắc đến Đăng.

Tôi suy đoán, có lẽ gặp nhiều vấn đề, Đăng lại không bên cạnh cùng giải quyết, Dung rơi vào trạng trái khủng hoảng như vậy. Cũng tự hỏi tại sao tôi và Dung không thân nhưng cô gái lại thổ lộ chuyện đó. Rồi nhận ra, không, cái cách của Dung chỉ bình thản như nói một câu chuyện phiếm cho qua cữ cà phê mà thôi.

Tôi quen ông chủ quán, xin vớt một ít bèo tấm bỏ vào bịch nilông mang về. “Tặng Dung này!”. Dung nhìn tôi, hơi ngạc nhiên rồi mỉm cười, nhận lấy. Bàn tay lạnh toát của cô gái khẽ chạm vào tay tôi khiến như có một dòng điện chạy dọc sống lưng, tê dại.

Tối ấy, tôi nhận ra mình đã nghĩ về bạn gái của thằng bạn thân quá nhiều. Tôi tự trừng phạt mình bằng cách rời PC, leo ra cửa sổ ngồi trên nóc nhà bên cạnh và ngẫm nghĩ. Đáng lẽ đã có thể đưa ra một quyết định gì đó nếu Dung không nhắn tin “Cảm ơn Nguyên, về mọi điều!”.

Chúng tôi gặp nhau thêm nhiều lần sau đó, chẳng nói nhiều. Chỉ là ngồi và có người đối diện, vậy thôi.


Hồng thủy

Bầu trời thành phố xám xịt và quay quắt như trong cơn hồng thủy. Mưa lao đầu vào cửa kính như một tên điên. Tôi bỗng nhiên nghĩ đến Dung, cô gái tội nghiệp của thằng bạn thân tội nghiệp. Cả hai đều bất lực trước những điều đang đến. Cảm giác tội lỗi khiến tôi tránh Đăng. Nó không biết tôi đang invi, cứ gửi mãi những dòng offline: “Mày thế nào? Dung sao rồi?”.

Những lúc như vậy, tôi ngồi lặng. Tôi thương cô gái ngồi lạnh lùng, cô độc hút thuốc, nhả khói trong những chiều cùng nhau cà phê trên gác gỗ. Đó rõ ràng có phải là cô gái của Đăng ngày nào đâu. Giá họ đừng là một...

Chuông điện thoại vang lên gấp gáp đến ngột ngạt. Dung gọi. Tôi hớt hải nhấc máy. Giọng cô ướt nhòe: “Nguyên! Đến đây! Làm ơn...”.

Tôi lao ra khỏi nhà. Cô gái đứng ở trạm xe buýt dưới cơn mưa tầm tã, nước mưa bết vào người, đôi mắt thất thần, những cây cọ từ balô chưa kịp kéo khóa rơi vung vãi xuống hè, xấp hình họa nhòe nhoẹt ướt thòi ra từ clipboard buông thõng trên tay. Hốt hoảng nhận ra trong tay kia của cô gái nắm chặt một cái gì đó. Tôi run lẩy bẩy, miệng lảm nhảm gọi tên Đăng như thằng ngớ ngẩn, cuối cùng cũng gỡ được khỏi tay Dung một mảnh thủy tinh vỡ. Bàn tay gầy guộc và lạnh toát chằng chịt vết cắt, máu hòa với mưa thành một thứ nước màu hồng loãng tuếch.
 
Mùa cỏ ngắng_ Lê Mỹ Ý

Hựu chém phập cây rựa bản sắc xớt ngọt vào gốc mít, rít giọng:

- Từ bữa nay, thằng Hạng còn léng phéng với con nào, tao chém !

Thằng Hạng, đứa con út phá gia chi tử của ông ngồi khoanh gối trên ngưỡng cửa nhìn ra, nét mặt tai tái song không tỏ biểu hiện gì. Nó vẫn giữ cái điệu bất cần xấc láo. Trong bụng nó lầm bầm chửi rủa: "Cha mẹ tiên nhân con Ngà... Cha mẹ nó chứ, cái hạng chai bao đồng nát... Cha mẹ tiên nhân con đàn bà khốn nạn... Ông thì ông bóp cổ..". Rồi nó mơ màng nhớ lại cái cảnh Ngà hốt hoảng xô nó ra, giãy giụa trong đôi tay cứng như gọng kìm, dãi cả nước mắt, nước mũi lên người nó. "Cha mẹ tiên nhân con đàn bà khốn nạn. Nó dám trêu vào ông. Ông thì ông bóp cổ, bóp cổ...".
Thằng Hạng chằm hặp nhìn ra gốc mít, nơi vết dao cắm ngập ứa đầy nhựa trắng. Rồi hắn nhìn mấy vết răng tím bầm trên cổ tay mà lại nổi lên cái lòng muốn ăn tươi nuốt sống thủ phạm, ăn tươi nuốt sống cái con đàn bà khốn nạn ấy ngay tắp lự.
Con đàn bà khốn nạn ấy ở dưới chân đồi Ngắng, chênh chếch miếu Linh một quãng. Ngà thuộc loại con gái quá thì, chẳng có gì đẹp, nếu không muốn cho là xấu. Đàn bà con gái đã quá thì lại còn suốt ngày xồng xộc trên chiếc xe như con ngựa vía thì lấy đâu ra đẹp, huống chi là cái ngữ buôn đồng nát tàn tạ quá đát này. Thế mà con đàn bà ấy lại tưng tửng giòn, tưng tửng ngọt, lại tim lỉm tìm lìm thơm tho như quả na nứt mắt tròn căng khiến cho thằng Hạng cứ phải đâm đầu rúc cổ vào mới chết chứ. Hắn đã bỏ cả tuần lễ để nghiên cứu lịch trình đi về của con ngựa vía ấy, rồi vần vụ thêm mấy tuần nữa mới phục được nó, mới chiếm được nó, lại còn được cuộc cả hai két bia của bọn đàn em uống chơi. Chỉ có thế, không ngờ sinh chuyện. Con ngựa vía khốn nạn bỗng lù lù mang bầu. Mà tất nhiên là không thể tự nhiên có bầu rồi. “Nhưng cả làng đàn ông đực rựa nhung nhúc thế này, đố biết ma nào ăn cỗ, nếu không phải tại con mụ Quắn cái miệng xoen xoét như đít vịt. Mẹ kiếp ! Không từ cái quán bảy món cầy tơ ấy mà ra, ông thì ông đâm đầu xuống đất...”.

Càng nghĩ hắn lại càng tức. Càng tức thì lại càng muốn bóp cổ con mẹ Ngà. Càng muốn bóp cổ con mẹ Ngà thì hắn lại càng điên tiết với ông già hắn. Ông già dính vô chuyện này làm gì chứ? Ai khiến? Có mà thừa cơm... Nhưng ông già đã dính vô thì khó đùa được. Trong cái nhà này, hắn là con cầu tự, hai thằng anh của hắn đã chết rục xương vùi thân trên rừng thiêng nước độc với giấc mộng đào vàng. Ông bà già són được hắn là còn tốt phúc. Thế mà chỉ vì một con khố rách áo ôm trời sợ, ông già lại hoạnh họe, hăm dọa hắn. "Thôi hết rồi từ nay vĩnh viễn, đời lang thang tung cánh giang hồ...". Thằng Hạng chằm hặp nhìn ra gốc mít, ngấn ngứ trong đầu mấy câu thơ chập chờn say tỉnh. Ông già hắn mà đã tuyên bố thì chắc như dao chém đá. Cái máu của một anh chính trị viên đại đội thất sủng năm xưa chỉ vì lý do vớ vẩn ôm một cô văn công quân khu sau bìa rừng mà bị giáng cấp, thuyên chuyển công tác rồi phải phục viên về làng làm đám cưới với cô ta, mẹ hắn bây giờ, trong cái từ đường mốc xì như mả rách ấy quả là ghê gớm. Bố mẹ hắn sinh tam nam tù tì nên có cong đít lên làm ăn cũng chẳng giàu có được. Mãi cho đến khi hai thằng anh hắn chết đi. Cô văn công năm xưa trúng quả liền mấy chuyến hàng Trung Quốc nhờ cái lưng eo thon và đôi mắt sắc liếc ngang liếc dọc đủ để cưa đổ những con dê già hám lạ. Sau đó, mẹ hắn bỏ nghề buôn chuyến, lấy vốn mở sạp vải tùng tiệm ở chợ nhà, tiền rủng rẻng vào ra dư sức nuôi chồng, chuộng con.
Nhà hắn phất lên không lâu thì chẳng biết từ đâu Ngà xuất hiện ở làng. Vừa tới làng, cô đã đi xin lễ miếu Linh rồi cắm lều dựng nhà ở ngay dưới chân đồi Ngắng. Kể cũng táo tợn. Đã lâu, đồi Ngắng là một thánh địa không người qua. Đường lên miếu Linh ngập lút cỏ dại. Những năm chiến tranh, khi cả làng bị bom đạn cày xới, miếu Linh không biết do ai dựng sẵn từ bao giờ lại chẳng hề đổ nát, sứt sẹo một cọng cỏ. Người già bảo đồi Ngắng đã được ông tổ làng chọn làm nơi trú ngụ, nên thiêng liêng bất khả xâm phạm. Hồi đó, người ta còn chăm cúng thờ lễ bái tứng lựng trên miếu Linh. Sau nghe đâu trong một đêm mưa bom có đôi trai gái dắt díu nhau đến trước cửa miếu cắn lưỡi mà chết. Nghe đâu hai bên gia đình không môn đăng hộ đối nên bị cấm cản gì đấy... Chỉ biết rằng linh hồn đôi trai gái đó như mãi còn lẩn quất nơi miếu Linh, thành người giữ miếu. Từ đó, đồi Ngắng càng thêm thiêng. Người ta kháo nhau ai lên đồi Ngắng về không ốm đau quặt quẹo thì cũng sập nhà, tai nạn hay khuynh gia bại sản. Trai gái trong làng tuyệt đối không dám rủ nhau lên đồi cao tình tự, dù đó là nơi vắng vẻ trong lành. Họ tin rằng đôi trai gái nào lên đồi Ngắng, về nhà không bỏ nhau thì cũng không lấy được nhau, có khi còn trở mặt thù ghét nhau muôn đời muôn kiếp. Chuyện khó tin nhưng cũng chưa ai dám xé rào. Cho nên, Ngà trở thành người đầu tiên lên đồi Ngắng mà trở về bình yên. Có điều lạ, cô từ nơi khác đến đây, không thèm đăng ký tạm trú hộ khẩu, cứ dựng lều ở ngay vị trí đất linh thiêng nhất của làng mà chẳng hề có chính quyền nào hỏi thăm, cũng chẳng thấy thần nào bắt tội. Hay Ngà là con Trời con Phật? Nhiều người bán tín bán nghi. Chỉ có thằng Hạng là hùng hồn: "Nó là người nơi khác tới đây, không phải người trong làng thì có thần đếch nào mà hiển linh bắt tội nó được. Chứ làm quái gì con Trời con Phật lại tả tơi thế kia ?"...

Hùng hồn rồi, hắn quyết tâm hạ Ngà để tỏ rõ cho bọn đàn em thấy bản lĩnh cao cường của mình. Bởi thế mà bây giờ con đàn bà ấy mới lù lù dẫn xác vào nhà hắn, rúc vào cuộc đời hắn, làm cho đời hắn khốn nạn. Thằng Hạng trân trân nhìn vết dao ứa từng dòng mủ trắng đang dần ngả vàng và sẫm đen lại, thở dài thướt thượt.

Từ khi Ngà về ở trong vườn nhà, thằng Hạng không bao giờ bén mảng ra vườn nữa. Ngược lại, ông già hắn trở thành người vui thú cỏ cây, thiên nhiên. Những gốc mãng cầu xiêm được bón tưới đều đều nhú lên từng đọt lá xanh. Trước đây, ông Hựu có bao giờ để ý gì đến rau với cỏ. Bà Hựu thấy chồng chăm chỉ khác thường cũng vui lây. Bà sắp có cháu rồi, mặc kệ mẹ nó là ai, bà chỉ biết mình sắp có cháu nội để bồng, cháu đích tôn của bà. Cứ nghĩ thế thôi là bà đã sướng run người, chỉ chực chui ra cái lều kia, bồng lấy cái bụng tròn thum lủm của con mẹ kia mà chăm bằm hôn hít. Vì cháu bà ở trong đó mà. Còn Ngà thì... nước non gì, đồ bỏ !

Ngà cũng tỏ ra biết phận nên suốt ngày cum cúp trong lều, không ló mặt. Chị một mình lui hui cơm nước, lui hui với đứa con bất đắc sĩ. Nếu không thương nó, Ngà đã chẳng về đây. Phải nói rã mồm ông Hựu mới xin được Ngà về, với điều kiện chị đặt ra là phải đồng ý để chị ở trong túp lều cuối vườn, tự lo cho bản thân. Ngà những muốn đứa con trong bụng sẽ có cha, có ông bà, có giấy khai sinh hẳn hoi. Chẳng như mẹ nó, không biết bố mẹ, cũng không họ hàng thân thích. Một ngày, bỗng dưng nhận ra mình có mặt ở cuộc đời, thế là phải bươn cào kiếm sống. Đứa con chị giờ được gần ông bà, gần bố, dẫu không được như ý nhưng nó sẽ không phải oe oe khóc chào đời nơi chân đồi Ngắng đèo heo hút gió. Chỉ vì nghĩ vậy mới về đây. Biết dại nhưng vẫn về. Trăm điều dại không lại một điều khôn: chị cần con có bố !

Từ ngày chị về đây, thằng Hạng chưa bao giờ gặp mặt. Hắn trốn biệt trong quán rượu. Suốt ngày say nhoét, rồi lừ đừ trở về nhà, cào cào móng tay thâm xì lên vết chém trên thân mít, nhìn trân. Ngà ước ao được nhìn thấy thằng Hạng một lần, cái mặt trong đêm mưa mà do hoảng sợ chị đã không nhìn thấy rõ. Con chị có giống bố chút nào không nhỉ ? Hay là nó giống chị ? Lạy trời đừng cho nó giống chị, đừng giống mẹ, khổ lắm con ơi !... Chị nhớ lại đêm mưa trong lều vắng. Cái cánh tay xiết như gọng kìm bị chị cắn nghiến. Mỗi lần nhớ lại là lòng nôn nao. Sao mình cắn hắn như thế mà hắn vẫn không chịu buông ra nhỉ ? Và cả cái túp lều rệu rã rung lên, tưởng như sắp sập đến nơi... Chắc bây giờ, nó còn rệu rã hơn thế nữa. Sức vóc đàn bà nào có làm gì ra hồn, huống chi là dựng lều dựng chõng. Còn đồi Ngắng, nơi có cái túp lều của chị ấy, không biết bây giờ có ai đặt chân không ? Chao ôi ! Mùa này đang là mùa hoa ngắng trổ. Cái làng này có nhiều thứ thật lạ. Cỏ gì mà mang tên “ngắng”, lại đẹp đến lạ kỳ...

Vào khoảng tháng ba, tháng tư, khi mùa xuân chơm chớm heo tàn và những đợt gió Lào vừa kịp hanh hao trườn qua dãy Trường Sơn báo hiệu mùa hè sắp đến thì cỏ ngắng cũng bắt đầu trổ hoa. Đến mùa trổ hoa, cỏ ngắng bỗng cao vút lên, to và mập bằng thân lúa, giống như người đàn bà mang bầu tròn căng thân thể, cho đến một lúc nào đó, trên các đọt lá, những bông hoa tròn như chấm nắng ươm vàng xuất hiện. Và thế là cả một vùng chấm nắng rập rờn giữa đồi cao, tỏa ra mùi thơm ngọt như mùi kẹo gừng dậy làng đêm cuối năm. Ngà mê cái mùi hoa ấy, mê cái thảm vàng khổng lồ bao quanh ngọn đồi. Chao! Ước gì chị được rời khỏi góc vườn này, ước gì chị lại lên đồi Ngắng, nằm lịm đi trong thảm hoa vàng, để cho đứa con trong bụng được giãy đạp, hít thở mùi hương lừ ngọt say nồng ấy... Rồi chị lại trở về. Chị sẽ trở về. Nhất định. Vì chị đến đây, ở lại dưới chân đồi Ngắng này không phải là chuyện tình cờ, mà bởi một lời nguyền từ truyền thuyết xưa còn lại...
 
Những tiếng rao về đâu ? - ĐOàn Công Lê Huy

Phố xá của mình trải quá trình đô thị hóa chưa lâu, nên dấu vết làng trong phố còn nhiều lắm. Một mảnh ao. Một cây đa, gốc miếu co mình giữa phố. Những thói quen sinh họat. Những gánh hàng rong và những tiếng rao...

Hà Nội đã quen thuộc với tiếng rao tào phớ mùa hè, bánh khúc mùa đông, cốm lá sen mùa thu, ve chai đồng nát cả bốn mùa... Những năm gần đây, làn sóng nhập cư thời vụ dâng cao, những lao động nông nhàn đổ về phố ngày càng nhiều. Những người dân nghèo về đây như vỏ hến chiều chiếu tấp lên các bến. (Trường ca Mặt đường khát vọng, Nguyễn Khoa Điềm). Tiếng rao cũng nhiều hơn. Tiếng rao tiếp thị phận nghèo và những món hàng rong mộc mạc.

Phố xá cũng ồn hơn. Người thành phố ngủ muộn mà vẫn bị đánh thức vào mỗi sáng sớm, đôi khi như là một sự quấy nhiễu, làm phiền. Tuy nhiên nếu em biết lắng nghe thì những tiếng rao còn chứa đựng rất nhiều âm thanh ngòai lời. Phía cuối lời ru nào là quê hương đang bão lũ? Phía cuối lời rao nào là đứa con đang mong mẹ, người cha đau yếu nào đang đợi con? Em sẽ thấy rằng cuộc sống không chỉ là mơ mộng; thực tế rộng hơn nhiều trang sách giáo khoa. Có đói có no. Có may mắn có mất mát. Em sẽ gần với đời sống hơn. Thực tế hơn. Em có thể hy vọng góp sức làm cho đất nước em thành rồng thành tiên nhưng đồng thời em cũng biết ước ao san sẻ những no đủ cho đồng bào, đồng lọai.

Nằm trong chăn nghe một tiếng rao của em bé ngòai kia, em thầm cảm ơn mẹ cha đã ấp ủ cho em cuộc sống ấm áp. Một nỗi trắc ẩn mơ hồ đôi khi cũng làm cho đời sống tinh thần của em sâu nặng hơn và bớt đi phần nhạt nhẽo. Chính những tiếng rao đêm cũng góp phần nuôi dưỡng khát vọng lý tưởng của những người chiến sĩ cách mạng ngày trước.

Chiều nay đi qua ngõ Thái Hà, một ngõ phố đẹp của Hà Nội với những ngôi nhà đẹp, kín cổng cao tường. Ngay dưới chuông cửa một ngôi nhà có dán một tờ giấy là 2 trang vở kẻ ô học trò, trên đó cũng là nét chữ học trò viết bằng bút dạ, kiểu chữ con gái: "Xin tất cả những người bán hàng rong đừng làm phiền. Hãy dành thời gian để bán hàng ở nơi khác. Vì chúng tôi không quan tâm đến bất cứ thứ hàng nào bạn bán. Cảm ơn vì đã hiểu." Đọc những dòng chữ này tôi ngạc nhiên và chạnh lòng vì một sự chối từ, y như nhà thơ Phùng Quán đã từng chạnh lòng vì một sự chối từ trong câu ca dao Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn khi ông nhân danh bùn để nói với "sen".

Và cả day dứt nữa, day dứt hơn cả khi nhìn thấy những gánh hàng rong bị phạt, bị xua đuổi, nhìn thấy những trái bí trái bầu lăn xuống rãnh cống rồi nằm buồn thiu trong lòng cống, nhìn những quả cà chua dập nát trên hè phố và tím thẫm cả mặt đường...
 
Cứ giữ trong em lòng tin yêu - Đoàn Công Lê Huy

1. Một sáng Chủ nhật. Một cô bé con 3 tuổi. Một chú bé đánh giày và 14 đôi giày. Chú bé chăm chú đánh từng chiếc. Xi đen, xi nâu, xi đỏ cho những đôi giày da, cả cồn pha nước xà phòng lõang để đánh những đôi giày thể thao. Cô bé con ngồi bên cạnh hết sức hứng thú theo dõi, nghịch ngợm, chỉ trỏ nào giày của bố, nào giày của mẹ, đôi nào của chị, đôi nào của chính cô. Cậu bé cũng thích thú trò chuyện, hết trả lời câu hỏi giày của anh đâu cho đến sinh nhật anh ngày nào.

2. Chú bé ôm vào lòng những chiếc giày, hai tay kéo tấm giẻ xát mạnh để đánh bóng từng chiếc một. Này chú bé ơi, mỗi ngày chú ôm trong lòng bao nhiêu đôi giày? Đôi giày nào của người lương thiện, đôi giày nào của kẻ vừa thủ ác? Đôi giày nào của người lao động, đôi giày nào của kẻ ăn chơi? Đôi giày nào của người thầy giáo chiều nay sẽ lên bục giảng? Đôi giày nào của tên trộm vừa đánh cắp tiền của, danh dự và lương tâm? Đôi giày nào của bạn sinh viên vừa trở về sau một chiến dịch tình nguyện? Đôi giày nào của kẻ vừa đi săn, tận diệt những lòai trong sách đỏ? Đôi giày nào chở những người cao thượng, đôi giày nào chở những kẻ tầm thường? Đôi nào chở người dũng cảm, đôi nào chở kẻ ươn hèn? Đôi nào chở dự án, đôi nào chở mưu mô? Đôi giày nào đẹp, đôi giày nào xấu? Đôi giày nào mấy chục ngàn, đôi giày nào mấy trăm đô? Đôi nào dính cỏ ở làng, đôi nào vướng bùn đô thị? Đôi giày nào vừa về giúp quê em làm giàu? Đôi giày nào vừa xà xẻo thắng quả từ những con đường lên bản cao? Đôi giày nào của kẻ móc nối tội lỗi, đôi giày nào của vị quan tòa nghiêm minh?

3. Hôm trước tôi bị trẻ đánh già lấy mất đôi giày. Hôm qua trong quán cà phê bạn tôi cũng "thất trận" trở về với "chiến lợi phẩm" là một đôi dép tổ ong. Những mánh lới của dân đánh giày thành phố mà chắc rằng chú bé tí-co-lo nào cũng biết hoặc đã nghe nói tới. Chú nào láo lếu, chú bé nào ngoan?

4. Em thân mến! Hằng ngày báo đưa tin chỗ này, truyền hình trực tiếp chỗ nọ. Truyền thông mỗi giờ mang đến cho em bao điều vui và buồn. Dĩ nhiên là vậy, cuộc sống có rất nhiều tín hiệu tốt đẹp nhưng cũng còn không ít những điều không bình thường, không lương thiện. Đó mới chính là hiện thực muôn màu muôn vẻ cuộc sống mà em không thể không biết. Biết để chọn lối đi, biết để phấn đấu cho những giá trị lương thiện ngày càng nhiều, ngày càng mạnh mẽ. Biết để sống vì lý tưởng củng những điều tốt đẹp mà bao thế hệ đã dày công vun đắp. Tuổi của em, đã muộn để gọi là nhóc con và không còn sớm để nói chuyện trưởng thành. Đã từ lâu lắm rồi em giã từ ngôi nhà ấm cúng nhất, ấm đến 37 độ của lòng mẹ. Và tiếp đó, mái ấm gia đình đã nối em với học đường, rồi nối em với xã hội. Có nghĩa là khi ta lớn, ta không thể không đối mặt với cuộc đời dài rộng, với nắng với gió, cũng để rồi từ đó ta rèn luyện bản lĩnh để ta nên người.

5. Thế thôi. Cho nên đôi khi em có gặp một chút thất vọng thì không có nghĩa như thế đã là hoang mang. Đôi khi có chú bé đánh giày ôm vào lòng điều đáng giận thì như thế không có nghĩa là đã mất niềm tin vào con người. Cũng như tôi, đã nhiều lần bị lấy mất giày nhưng không vì thế mà e ngại, mà không dám giao cho em 14 đôi giày, một cô con gái cưng và một sáng chủ nhật đẹp trời.
_________________
 
Đêm xóm chùa - Đoàn Lê

ĐÊM XÓM CHÙA


Đường lên trời hai mươi cây số trong đêm
Ta trót nắm tay nhau đến là dại dột...

Hạ Thảo


Tôi trở mình.

Một cái giường xét về phương diện thực dụng cũng như đạo đức vốn được đóng cho hai người nằm, nói rõ hơn, cho một người nam cùng một người nữ của Đấng - Tạo - Hóa. Khi phải chứa đến ba người thì độ bức bối chuyển thành giông bão không thể chịu đựng được. Tôi, chồng tôi, cô ta đã ở cả trên một cái giường. Đương nhiên chỉ hai người là có thực, còn người kia quanh quất giữa chồng tôi với tôi. Nhưng ý nghĩa chữ thực, chữ ảo cũng bất định như hai chữ số trên quân xúc xắc. Đôi lúc sự tồn tại của người ảo còn thực hơn cả người thực. Rất nhiều đêm tôi gặp ánh mắt chăm chắm của cô ấy nhìn đôi tay chồng tôi lần cởi khuy áo lót tôi. Tất cả bỗng lạnh giá.

Nhạc đêm khuya thật hay. Người ta có sáng kiến đáng kể khi soạn chương trình nhạc suốt đêm cho những cái giường mất ngủ. Đã lâu lắm tôi mới được nghe lại nét nhạc cũ... Kiệu công chúa từ xa đang tới gần khu chợ phiên ồn ào. Ai cũng biết đằng sau những tấm rèm lụa lộng lẫy dính đầy châu báu là một nhan sắc khuynh thành mơn mởn thanh xuân. Thần dân Ba Tư kính cẩn quỳ rạp bên đường chờ đám rước trang nghiêm với tiếng nhạc dìu dặt, với đoàn thị nữ tha thướt đi qua... Hỡi nàng công chúa mười sáu năm xưa, nay nàng ra sao? Nàng hạnh phúc hay bất hạnh? Đời sống vương giả có cứu nàng thoát khỏi bi kịch cay đắng?

Chồng tôi trở mình.

Tôi bỗng nhớ chiều nay một con ong vàng mật săm soi quanh quẩn bên cái vì kèo chạm đầu rồng của ngôi từ đường cổ kính nhà tôi. Tiếng vo ve dai dẳng khiến tôi sinh lo ngại. Tôi bảo anh:

- Anh nhìn xem con ong tìm gì ở đó vậy?

- Nó tìm nơi làm tổ. Em không thấy mẩu sáp bằng hạt lạc kia ư?

- Chẳng lẽ nó không có tổ hay sao?

- Sao lại không. Nhưng đến một lúc nào đó chúng chia đàn, đi tìm nơi làm tổ mới.

Tôi không nghe được hết những lời giải thích của anh ấy. Tự nhiên đầu óc tôi lãng đi. Tổ mới... chia đàn... Sau hai mươi tám năm chung sống có hai con ong cũng sắp chia đàn, tìm nơi làm tổ mới... Chuyện ấy thật khó tin. Phần lớn người ta sống theo thói quen. Như đêm đến cứ phải đi nằm dù không ngủ được. Như gần ba chục năm tôi quen sống bên cạnh anh ấy tựa bóng với hình, quen cả những lúc hình bóng co kéo vật vã để giữ cho cái tổ chúng tôi đứng vững trước sóng gió muôn mặt đời thường.

Bởi vậy tôi thật bàng hoàng khi nghe anh ấy thổ lộ: "Em thể tất cho anh. Em thuộc con người của những hoạt động xã hội. Anh lại cần một tình yêu tầm thường thôi, một người để làm vợ anh theo nghĩa thông tục nhất". Tại sao anh ấy nhận lấy một sai lầm khó bào chữa như thế? Tôi thương anh. Giá anh chỉ nói đơn giản rằng sau gần ba mươi năm rã rời vì cuộc mưu sinh, tình cảm của chúng tôi đã rách tươm như lá cờ giữa trận tiền, không thể vá víu được nữa.

Và sẽ không ai có lỗi nếu người ta phải chạy trốn một đời sống nhàm chán đến phát sốt.

Dù sao con số hăm tám năm chung sống trong thời buổi này cũng đã có một độ bền xấp xỉ mức kỷ lục. Pho ái tình ấy xứng đáng đứng chung hàng ngũ những chàng lực sĩ khổng lồ. Chàng đã chiến thắng mọi gian khổ qua hai cuộc chiến tranh, cái thời chúng tôi tranh nhau phần ngoài cửa hầm tránh bom, nhường nhau nửa giường thoáng gió đêm sơ tán. Chàng khổng lồ ấy chỉ vô ý xỉa răng bằng cái kim sắt rỉ, do đó bị tê-ta-nốt chết. Đã đành cái chết luôn diễn ra dưới muôn vàn mầu sắc, nhưng chết kiểu anh chàng ái tình to xác này thật quá lố bịch. Lẽ nào chỉ vì một dịp chồng tôi đi công tác, một dịp tình cờ gặp cô ấy, tình cờ phải nói dối... rồi tất cả tự nó chấm dứt, tất cả sụp đổ trong lặng lẽ?

Tại sao lại ra thế này hở anh? Tôi hỏi chồng tôi đến hàng ngàn lần và lần thứ ngàn lẻ một tôi vẫn đầy ngơ ngác.

Ông cụ bên ngành thứ, tôi thường gọi là cụ trưởng tiểu tông, mấy hôm trước sang chơi với vợ chồng tôi, khề khà chén chú chén anh một chặp, ông già gần bảy mươi tuổi mới do dự bày tỏ:

- Thưa hai bác, dù hai bác có bảo em lẫn cẫn, em cũng cứ tình thực góp ý. Hai bác là trưởng ngành đại tông, tức thị trưởng cả Họ ta, lại đang giữ gìn hương khói từ đường thay mặt Họ tộc, làm sao đừng để trong Họ ngoài làng xì xào dị nghị. Họ ta đâu phải vô danh tiểu tốt. Các cụ Tổ được cả nước ngưỡng vọng, cả nước quan tâm. Nay di duệ sống không ra gì tránh sao khỏi tai tiếng. Xin mỗi bác cố gắng một chút.

Tôi thật cảm kích trước tấm lòng ông. Nhưng người ta không thể cố gắng yêu. Biết đâu hăm tám năm chung sống đối với anh chẳng là một sự lưu đầy. Biết đâu bây giờ anh sẽ tìm được một chút hạnh phúc cho tuổi về già... Tôi chỉ cay đắng tự hỏi những khoảng thời gian hạnh phúc ít ỏi tôi đã trải qua cùng anh rút cục là có thật hay cũng chỉ là một con số ảo trên mặt quân xúc xắc.

Với tôi như vậy sẽ là một kết thúc buồn. Tôi được anh dắt về đây từ một đêm huyền hoặc cổ tích. Hai mươi cây số ở một địa điểm sơ tán, chúng tôi cứ nắm tay nhau đi bộ. Tới bờ sông Hồng anh rụt rè hôn tôi, cái hôn bị kìm nén sau bao ngày tháng... Nay tình yêu ấy đã bay mất, tôi còn lý do gì ở lại đây? Tôi sẽ chia tay anh. Một người đàn bà tự trọng phải biết rút lui đúng lúc.

Những lời cuối cùng đã nói với nhau. Tôi bảo rằng đã chuẩn bị một nơi ở mới, nhưng không báo trước sớm mai sẽ lên đường. Với mấy bộ quần áo, chẳng có gì phải chuẩn bị ồn ào. Sự ra đi sao cho giống những đợt công tác càng tốt.

Tôi sẽ tính cách đưa con cháu đi cùng. Khu nhà thờ hương hỏa này anh ấy cần có mặt để gìn giữ. Tôi chỉ giữ lại căn phòng bên tả mặc nhà thờ, nơi đặt cái giường đôi chúng tôi đang nằm đây. Không phải để phòng lúc quay về. Đơn giản vì tôi không muốn một người đàn bà khác bước vào phòng, nằm trên cái giường này và anh ấy sẽ nói những lời rất riêng, những lời ngớ ngẩn thơ dại, thứ ngôn từ của những đêm ân ái chúng tôi thường dùng. Để tránh xúc phạm cả tôi lẫn cô ấy. Dù sao mọi thứ đang còn nóng hổi. Là tôi vẫn nghĩ anh ấy thuộc diện đàn ông có tâm hồn nhạy cảm.

Tôi trở mình.

Tích tắc! Tích tắc! Tiếng cái đồng hồ treo tường kiên nhẫn đếm từng khắc mất ngủ. Gần nửa năm nay, nó thao thức cùng tôi, rất khẽ khàng, trung thành. Một tặng vật tôi giữ làm kỷ niệm. Ngày mai phải nhớ cho nó vào va ly. Trong căn phòng rồi sẽ khóa cửa im ỉm, bụi bặm dần phủ mờ mọi dấu vết tôi, nó ở lại sẽ giống như một trái tim thoi thóp giữa đống phế tích. Tội nghiệp nó.

Gần nửa năm, quãng thời gian không phải ngắn, đủ để anh ấy suy nghĩ quyết định. Và chồng tôi đã nói rằng anh trót lỡ nặng lời hứa hẹn với cô ta, anh không muốn trở thành người lừa dối.

Gần nửa năm, quãng thời gian đủ dài để tôi cân nhắc trước quyết định chia tay. Nếu phải ra đi, điều tôi sợ là ở phía đứa con trai duy nhất của chúng tôi. Tuy nó đã lấy vợ lại mới sinh một cháu bé gái đầu lòng, nhưng cái tiểu gia đình ấy thật mỏng manh dễ vỡ. Chúng đang còn như những đứa trẻ chơi trò vợ chồng. Tôi đã không ngăn được một đám cưới xảy ra ba năm trước đây. Rút cục một thiên thần bé bỏng ra đời ngoài sự lựa chọn của chính mình.

Chồng tôi năn nỉ: Hãy ở lại với con cháu. Cũng đừng khắt khe với anh. Coi như anh đã chết rồi vậy.

Chồng tôi tính lầm. Những ngày sống của tôi không còn dài lắm. Với thứ bệnh tai ngược tôi đang mang trong người, sự chịu đựng cùng những cơn trầm uất sẽ nhanh chóng cướp nốt cái mẩu quỹ thời gian ít ỏi tôi còn lại. Mà với một quyết tâm sắt đá tôi phải sống, sống để vớt vát gây gột cho đứa trẻ mới rời nôi kia. Như thế tôi đã nhìn thấy trước những số phận nó...

Ôi hai con mắt đen láy tươi cười nhìn tôi như những đốm nắng rực rỡ chiếu sáng căn phòng u tối tâm hồn tôi. Ngay khi bà đỡ quấn vội mảnh tã cho nó rồi trao vào tay tôi, tôi đã linh cảm rằng cái sinh vật đỏ hỏn vừa mới chào đời sẽ gắn chặt với đời tôi như một tiền duyên từ kiếp trước.

Những ngày đầu mẹ nó nhiều sữa quá, mỗi khi cho con bú chỉ ngừng năm phút đã phải dứt ra. Thời gian còn lại con bé mút mát vú bà cho đỡ cơn thèm. Và bao giờ cũng thế, khi con bé cuống quýt rúc vào ngực tôi, vồ vập núm vú, nún lấy nún để, tôi bỗng muốn khóc vì một cảm giác sung sướng khó tả. Như thể thiên chức thiêng liêng của người đàn bà đơn giản chỉ là cái nhồn nhột rạo rực đang dâng lên trong ngực tôi từ từ từng chút một... dâng lên nóng hai vai, lên cổ, lên má và tê dại xâm chiếm tận từng ngọn tóc. Tôi ngồi bất động thấm đẫm niềm ngọt ngào nồng nàn của những bản thánh ca vang đâu đó trong một khoảng không gian mơ hồ... Rồi ngọn triều êm đềm rút xuống, rất chậm. Thân thể tôi thoắt trong veo, mềm tựa bông. Con bé ngừng nún từng quãng ngắn. Cái nốt nghỉ ngân nga lâu dần đến lúc tự đôi môi nhỏ xíu rời ngực tôi. Nó đã ngủ. Tôi khe khẽ hít lấy mùi thơm gây của bàn tay bé tí nắm chặt. Tôi không rời mắt khỏi cái miệng ươn ướt, đôi lúc vẫn nhóp nhép núm vú trong tưởng tượng.

Tôi ngồi như vậy hàng giờ, say mê không chán. Đó là quãng thời gian sung sướng nhất. Tôi thong thả ngẫm nghĩ về lẽ huyền diệu của trời đất, ngồi xem cái sinh vật mình đang bồng ẵm che chở lúc này đang nhích dần vào thế giới hỉ nộ ái lạc của con người. Mười hai bà mụ đang dạy nó nheo mày, nhíu mắt, cười khóc trong mơ.

Đêm đêm tôi đặt tay lên đầu con bé thì thầm niệm Phật: "Nam mô Đại từ Đại bi Cứu khổ cứu nạn Quan thế âm Bồ tát...". Lòng tôi thổn thức nhận ra sự mộ đạo chân thành bất ngờ của chính mình. Tôi chỉ nguyện một điều: Xin các đấng từ bi hãy cứu mọi khổ nạn cho sinh linh bé bỏng này. Xin để tôi gánh chịu mọi tai ương nghiệp chướng của số phận nó. Trong giây phút huyền nhiệm ấy tôi có cảm giác một luồng điện từ lòng tay tôi đang truyền sang cơ thể con bé qua nơi được gọi là huyệt Bách hội, là Luân xa số bảy.

Hồi gia đình tôi chưa xảy chuyện, không hiểu nghĩ ngợi ra sao, tôi đã vẽ bức tranh Thiên đường. Trên một hoang mạc cát có đứa hài đồng ngồi cô đơn, lưng quay về phía nắng chiều. Bên cạnh nơi nó ngồi rải rác những mảnh vỡ của một cái bình cổ. Những mảnh vỡ này ngập chìm dưới cát bụi làm biến mất một phần họa tiết được khắc trên đó. Chân trời mờ mịt gió lốc trắng xóa.
 
Loài hoa biến sắc_ Dương Thu Hương

Tôi khoá cửa, cẩn thận móc thêm mấy chiếc móc sắt và thả những tấm rèm xuống. Xong xuôi, tôi mở sắc lấy ra thỏi son Nữ hoàng Ê-li-da-bét. ống son mạ vàng in hình đầu một người đàn bà đẹp mê hồn.


Tôi đặt thỏi son lên môi, hôi hộp và náo nức. Trong tấm gương, một khuôn mặt xa lạ nhìn tôi: Đôi mắt, đường cong lông mày, món tóc lưa thưa sau cơn sốt phủ xuồng trán, làn da tái xanh với những chấm tàn nhang mờ mờ hai bên má... Những thứ đó chẳng ăn nhập gì với cặp môi tô son nhem nhuốc. Đôi mắt trong gương nhìn tôi với vẻ lạ lung.Và một đôi mắt khác, một đôi mắt vô hình nhìn tôi với cái nhìn nóng bỏng. Tôi đặt thỏi son xuống. Cơn gió đi qua thổi lật những trang sách trên bàn. Đó là cuốn "làm đẹp", một cuốn sách dày ngót sáu trăm trang mà tôi mới tìm mua được ngày chủ nhật trước. Những dòng chữ in nghiêng nổi lên:Trang điểm xong, bạn hãy ngồi trước quạt dăm phút cho khô kem rồi hãy sang phòng chọn áo. Mùa hè nên chọn hàng mỏng. Thứ bóng hay mờ tuỳ theo người gầy hay béo. Màu thanh thiên, hoàng yến, lòng tôm lợt hay màu hoa cà là những màu thường được ưa chuộng...Những người đàn bà ở đây mới sung sướng làm sao?...Một sự thèm muốn xâm chiếm lòng tôi, từ từ và đau rát như một dòng chì lỏng tưới vào.Sau những năm tháng ở rừng, cuộc sống ở nơi đây làm tôi choáng váng. Phố phường, nhà cửa, lầu gác, hàng hoá, ánh đèn chất ngất, tiếng ồn ào vô tận như dòng suổi chảy trên bờ phố, nhịp điệu của tiếng đàn ghi ta trong những tiệm cà phê thắp đèn hồng... Nhưng điều lôi cuốn hơn cả vẫn là những
người đàn bà ở đây. Họ mở ra trước mắt tôi một thế giới của cuộc sống phồn hoa, một thế giới chúng tôi chưa từng thấy, chưa từng nghĩ đến, một thế giới choáng lộn màu sắc và ngào ngạt hương thơm của các mỹ phẩm. Mỗi người đàn bà ở đây có hàng tá áo dài áo len đủ màu và đủ kiểu. Những hộp nữ
trang đồ sộ, các loại phấn son, các thứ chì kẻ mắt... Chỉ những đồ dùng vặt vãnh của họ cũng đủ làm cho tôi mê mẩn.


Tuổi thanh xuân đi qua trên những cánh rừng ngút ngàn của giải Trường Sơn. Những năm ấy làn da đã trôi mất màu hồng tươi thắm vì sốt rét. Mái tóc ong ả đã trút dần trên những con suối độc ngâm đầy lá lim. Bàn tay quen với choòng cuốc dân chài cứng. Và chúng tôi trở về thành phố với chiếc ba lô sau lưng, tấm khăn dù quấn quanh cổ và với vẻ vụng về ngơ ngác của
những người quen ở miệt núi non.

Đoàn quân chiến thắng đổ về các thành phố. Chúng ta đã sống những ngày đầy tự hào, những ngày vui sướng đến gây ngất. Nhưng rồi sau đó chỉ những người con trai vô tư là giữ được trọn vẹn
niềm hân hoan đó. Tôi thì có khác, bên hạnh phúc của người chiến thắng, tôi còn những nỗi xao xuyến khác, một thứ tâm sự rất đàn bà. Tôi thường nhìn những người con gái đi qua mặt mình, những người con gái được trang điểm lộng lẫy, áo quần sang trọng, dáng điệu đài các. Họ đi đến đâu, không gian sực nức mùi nước hoa quyến rũ. Rồi tôi cũng lại tự ngắm mình trong gương, trong các tấm kính cửa, và tôi thấy ở đó một cô gái đen đủi, ăn vận xoàng xĩnh. Có một cảm giác gần như ghen tị, và bên dưới sự ghen tị đó là một nỗi tủi buồn mờ nhạt, không rõ nét nhưng dai dẳng xâm chiễm tâm hồn. Mỗi khi có người đàn bà nào đó đi qua không thèm ngoái lại, ném sang một cái nhìn chế diễu hoặc khinh mạn, lòng tôi cộm lên và nỗi uất ức làm nóng ran đầu óc...
Tôi nhìn vào tấm gương. Một khuôn mặt khác vẫn còn trong đó, với đôi môi đỏ chót.


Gian phòng thênh thang vắng lặng. Trên bàn chếc máy ghi âm đang phát ra một đoạn nhạc không lời, một giai điệu nhợt nhạt buồn bã nhưng tiếng đệm của bộ gõ lại quá chát chúa và rậm rịch. Đoạn nhạc kéo dài, rồi nó chợt tắt đi và tiếng đọc thơ vang lên, một giọng nam trầm ấm áp:
Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn
Hai đứa ở hai đầu xa thẳm ...


Bài thơ than thiết, như một cơn gió đột ngột ùa đến, nó tràn đầy trong tôi, xoá sạch những nỗi buồn bực, day dứt.
Tôi nhắm mắt lại. Không còn nhìn thấy khuôn mặt ngơ ngác có cặp môi tô son, không còn nhìn thấy bóng dáng những người đàn bà thành phố, không con cái đầu mê hồn của nữ hoàng Ê-li-da-bét mạ vàng. Không còn những ao ước những khát khao mới lạ...
Những cánh rừng rung lá trên đầu tôi. Những cánh rừng xanh rì, dây leo nở đầy hoa, những tán cây xum xuê như chiếc dù thần bí. Trảng cỏ non bốc lên làn khói màu lam... Rổi đường 20, con đường lầy như cháo đổ, những con ngầm nước réo. Đèo Phu-la-nhích trong sương. Làn khói vòng vèo trên mái nứa binh trạm. Tôi cùng đồng đội đứng làm cọc tiêu trong mưa. Trận bom bên kia đèo. Trong cái hang Cóc Chúa sặc sựa khói, chúng tôi ngồi gác chân bên đống than hồng, vắt mái tóc ướt sũng nước mưa và gào lên những câu hát tinh nghịch:
Hết xuân rồi, anh có lấy em không?...
Những ngày gian truân và vui sướng.


Tôi chìm sâu trong những hồi ức chiến tranh, lòng mát mẻ em dịu và thấm đẫm những giọt sương mai, những giọt sương của một cánh rừng tiền duyên, chúng nối nhau rơi xuống từ những chiếc là hình thoi, màu xanh sáng. Trên chót những vòm lá một chùm hoa tím đung đưa.
Những giọt sương rơi lộp độp, tiếng vang động như tiếng nứt của những quả thông khô...
Ai gõ cửa rất lâu và dồn dập. Tôi sực tỉnh. Việc đầu tiên là lấy khăn ướt lau cho sạch son trên môi rồi chạy ra mở khoá. Chiếc chìa khoá vừa xoay một vòng thì hai cánh cửa đã bật tung ra và Khánh đứng trước mặt tôi với nụ cười hết cỡ:


- Nhóc con, ngủ hay sao mà lâu thế?
Tôi chưa kịp trả lời thì anh đã mắng té tát luôn:


- Coi chừng đó, về thành phố là đâm lười ra, chưa tối đã lên giường ngủ. Tôi cười chống đỡ và vội vàng đứng tựa lưng vào chiếc bàn trang điểm để che đi hộp son còn nắm lăn lóc. Nhưng Khánh không để ý đến điều đó, anh giục tôi:


- Chải đầu rồi đi ăn cơm với anh.
- Em ăn cơm chiều rồi.
- Đi chơi, ăn bánh trái là chủ yếu chứ ai bắt ăn cơm. Con gái ở rừng về có khác, ngốc thật.
Tôi ngại ngùng:
- Thôi, để khi khác.
Khánh nhìn quanh phòng, anh cười trìu mến:


- Này, đây có phải cái đền đâu mà em làm ông từ coi bàn thờ Phật.
Khánh cùng cơ quan với tôi nhưng ở khác bộ phận. Tôi được vào làm phóng viên báo là do anh. Hồi trước tôi ở C bảy. Trong một đợt đi công tác dọc đường 20 Khánh đã đến đơn vị tôi. Anh đọc báo liếp chi đoàn rồi cứ nằng nặc đòi tôi cho xem nhật ký. Anh đi được nửa tháng thì có lệnh gọi tôi lên ban chỉ huy. ở đó người ta làm thủ tục chuyển tôi sang toà báo và chỉ nói một câu cụt lủn:
- Đồng chí sang bên đó hợp với khả năng hơn.
Đeo ba lô đến cơ quan mới, tôi vẫn cứ tấm tức không hiểu vì cớ sao người ta lại cho tôi ra đi một cách vội vàng đến thế. Tụi bạn gái khóc sướt mướt, chúng dúi vào ba lô tôi từ chiếc mùi xoa, cây kim móc đến mấy sợi chỉ thêu và chiếc hộp đựng xà phòng gò bằng ống pháo sáng. Đến nơi mới thấy Khánh đứng cười ha hả, tay cầm phong lương khô đem làm quà cho nữ phóng viên mới. Khánh đã có vợ con và hơn tôi bảy tuổi. Anh đối với tôi và những bạn đồng nghiệp khác có cái săn sóc của người gia trưởng. Trong con mắt anh, tôi là một con bé tỉnh lẻ, lớn xác và ngốc nghếch vì thế anh hay để ý chăm chút hơn.
Tôi chải tóc và lấy chiếc túi nhựa bỏ vài thứ lặt vặt vào. Khánh đã khởi động chiếc hon đa ngoài sân. Tiếng máy nổ lục bục, tắt nghịn rồi lại ròn rã.
- Nào, ngồi lên, ôm cho chắc kẻo ngã vỡ đầu đấy.
Khánh ra lệnh, anh chờ tôi ngồi yên rồi mới dận ga. Chiếc xe lao đi.
Đường phố buổi tối rất đông. Tuy bớt đi vẻ ồn áo nóng bức ban ngày nhưng lại thêm cái chói chang, lấp loé hoa, mùi rác rưởi, vỏ cây lá bánh ngoài cửa chợ và mùi xào nấu trong các tiệm ăn bốc lên.
Khánh đưa tôi đến một tiệm ăn Hoa Kiều. Một thanh niên chờ sẵn ở đó, chạy ra nắm lấy tay Khánh tươi cười:


- Sao lâu vậy, làm mình chờ hoài.
Anh ta quay sang tôi:
- Chào chị.


Tôi gật đầu chào lại. Khánh giới thiệu:
- Đây là cô Sửu, em út trong cơ quan tôi. Còn đây là anh Hoàn vừa là anh con bác vừa là bạn của anh.


Tôi cười. Hoàn nhã nhặn chìa tay ra dáng điệu lịch thiệp và duyên dáng. Anh bận áo ni lông cát trắng và chiếc quần vải mềm máu xám nhẹ. Hoàn có nụ cười tười, môi mỏng và hồng, nó làm người ta quên đi nước da nhợt rất khó ngó với khuôn mặt quá dài, nhất là chiếc cằm giống hệt một chiếc bánh mì chưa nướng.

Hoàn là anh em con chú bác ruột với Khánh, nhưng hai người ngoài mối quan hệ ruột thịt còn gắn bó với nhau bằng tình bạn hữu. Cả hai cùng ở phố Trần Xuân Soạn Hà nội. Năm 54 họ còn là những chú bé tám tuổi sáng sáng xin mẹ hai trăm rưỡi ra ngõ I Hàm Long ăn phở Tàu, đến trường chia nhau từng quả táo dầm muối ớt. Sau đó gia đình Hoàn di cư. Hai người đứng trong xó tối buồng tắm khóc thút thít. Khánh đã dốc vào túi anh tất cả số tiền lấy trộm được của mẹ với một gói ô mai. Ngày ấy cách đấy đã hai mươi năm rồi... Cả hai người đã lớn và khác xưa.
Nhưng Hoàn vẫn nhớ Khánh rất thích ăn phở Tàu và tối nay anh đã đặt cơm tại đây, một tiệm ăn Hoa kiều nổi tiếng.Trên chiếc bàn gỗ mun cổ lỗ trải khăn trắng, món ăn, đồ nhắm, bia rượu va nước ngọt bày la liệt. Chúng tôi ngồi vào bàn. Những bữa ăn vẫn chưa bắt đầu vì còn phải chờ một vị khách nữa, theo như Hoàn giới thiệu thì đó là bồ của anh.Tôi dựa lưng vào tường, lơ đãng nhìn những cánh quạt đang xoay tít trên trần nhà. Những người bồi mặc áo trắng đi lại, mấy tấm gương đục ố nước thuỷ tình bầu dục phản chiều bóng người và xe cộ ngoài đường phố. Các bàn ăn chật ních, có những người hình như đã ngồi đó từ sáng đến giờ và còn có thể ngồi đó cho đến nửa đêm. Một cặp trai gái cắm chiếc nỉa lên lưng một con gà quay và cứ ngồi chuyện rì rầm mãi. ở đây người ta sẵn thì giờ thật. Thì giờ ở những tiệm ăn, tiệm giải khát, những phòng uốn tóc và những mỹ viện, những chiếc ghế xích đu và những đi văng. Không hiểu vì sao tôi lại theo đuổi những ý nghĩ tản mạn và thấy buồn. Cái âm hưởng của những câu thơ quen thuộc vẫn còn ngân nga trong tôi. Nó ngân lên những âm thanh trong suốt, âm thanh của những nguồn suối trên non cao.
Hoàn bỗng đứng dậy và phác một cử chỉ như vẫy gọi. Ngoài cửa, một cô gái đang lách giữa đám khách ăn chật ních tìm lồi đi vào. Hoàn ra hiệu cho cô ta lần thứ hai. Cô gái nhận ra anh và cười. Phải chăng cô chính là người chúng tôi chờ đợi?...Cô gái chừng mười chín, hai mươi tuổi. Nhưng mặc dù cô còn rất trẻ, tôi không thấy cô có dáng dấp của một cô gái mà lại có vẻ từng trải của một người đàn bà sớm biết lo toan. Người cô gầy, dáng mảnh dẻ, cô bận chiếc áo dài hở cổ màu Ca-ra-men in hoa chuỗi, quần bằng thứ sa tanh mỏng, nổi lấm tấm những hạt dâu bóng, Cô xách chiếc xắc giả da cá sấu, khoá mạ vàng
hình tròn, kiểu rất lạ. Hoàn đứng dậy giới thiệu. Chúng tôi chào nhau rồi cô gái kéo ghế ngồi xuống, ngay cạnh tôi. Vạt áo dài cô rơi xuống chạm vào chân tôi mát lạnh, êm ái đến nỗi ta hình dung ra ngay sự mịn màng của chất lựa. Cái cảm giác ấy lại gợi cho tôi sự thèm muốn đã bị dập tắt. Từ áo quần cô gái toả ra mùi nước hoa mát mẻ, mùi nước hoa kêu gọi người ta đến gần.
Hoàn đứng dậy nói vài lời trước bữa ăn. Tôi nhân dịp đó mà ngắm nghía cô gái. Cô không đẹp nhưng cũng dễ coi. Nét mặt đều đặn, cặp môi tròn và
chiếc mũi thanh. Còn đôi mắt đờ đẫn và cặp lông mày tỉa nhỏ trông có phần tẻ nhạt. Cô dùng phấn son khá hợp màu da, mắt kẻ chì nâu và chải lông mi bằng thứ gôm tốt. Sự trang điểm đã tôn nhan sắc của cô lên khá nhiều nếu không cô cũng chỉ có một khuôn mặt như bất cứ khuôn mặt một cô gái nào mà ta có thể gặp ngoài đường. Bàn tay cô nhỏ, mềm mại, đeo nhẫn bạch kim có gắn những mảnh đá li ti. Mỗi khi giơ tay kéo áo hoặc vén mớ tóc loà xoà trước trán, những mảnh đá phản chiếu ánh đèn sáng óng ánh khiến cô giống một nàng công chúa trong màn cải lương. Bằng sự tò mò đặc biệt của đàn bà với đàn bà, tôi nhận ra là sau mấy phút dè dặt ban đầu cô ăn uống rất ngon lành, thận chí còn hơn thế nữa. Rượu uống cạn từng chén đầy, mặt không hề biết sắc. Tôi đã gặp những bà nạ dòng có thể uống hết hàng lít rượu, nhưng chưa hề gặp người con gái nào ung dung uống hết cốc rượu này đến cốc khác tựa hồ ta uống nước lạnh trong mùa hè. Kinh ngạch, tôi ngồi im thầm lén theo dõi. Bên kia bàn, Khánh và Hoàn đang sôi nổi chuyện trò. Câu chuyện đã chuyển qua vấn đều màu sắc trang phục. Tôi thấy Hoàn đặt tay lên bàn ngắm nghía, hai bàn tay anh ta trắng như tờ giấy, và nhướng cao đôi mày lên:

- Không hiểu vì sao mà mấy anh chị ngoài Bắc vô ưng màu blơ marin và màu boóc đô thế. Đi đâu cứ gặp người mua len, mua áo hai màu đó là biết liền. Cô gái góp chuyện:

- Hai màu đó quê quá hà!Rồi lại cúi xuống đĩa thịt vằm bọc tôm chiên. Khánh cười, anh ngẩng cao mái đầu chớm bạc



:p:p:p:p
 
MÙA HÈ CỦA CÔ BÉ MẤT GỐC _Dương Thụy

Năm nay thời tiết thất thường, mới đầu hè trời đã trở nóng hầm hập suốt ngày. Grenoble nằm giữa những ngọn núi nên mùa đông cực lạnh và mùa hè thì phỏg da. Hà một mình vắt cái khăn tắm trên vai đi bộ đến hồ bơi. Tóc nó thắt thành hai bím làm khuôn mặt mười sáu nhìn như con nít Tây mười tuổi. Vóc dáng trẻ thơ nhưng bạn bè ít ai biết Hà là đứa khổ tâm. Ba Hà vừa la mắng nó vì tội nói tiếng Việt sai be bét và lầm lì không chịu nói chuyện với bà nội. Hà không hiểu tại sao ba nó nổi giận khi nó trả lời: “Con vừa giặt tay cho bà xong”. Ba cho nó là đồ mất gốc. Hồ bơi đông nghịt người. Lớp đang vùng vẫy trong làn nước mát, lớp nằm xếp cá mòi trên bờ phơi nắng để có làn da nâu. Hà leo lên cầu nhún, nó dậm chân lấy đà cho cú rơi tự do vào lòng nước xanh lơ. Lúc nghe tiếng “chủm”, Hà mơ hồ mình vừa đè lên vật gì đó. Một anh chàng trồi lên ho sặc sụa. Hà biết mình suýt gây ra “án mạng” nên búng chân trườn xuống nước mất dạng. Nhưng đã trễ, nạn nhân chết hụt kịp nhìn thấy hai bím tóc màu đen nổi bật. Sáng hôm sau Hà lại một mình vắt khăn trên vai đến hồ bơi. Bạn bè nó theo gia đình xuống miền Nam tắm biển hay du lịch nước ngoài hết cả. Con nhỏ Natalie đi Việt Nam. Nó hứa khi nào về sẽ đem cho cô bạn gốc Việt chưa một lần đặt chân lên dải đất này thật nhiều quà của xứ sở nhiệt đới. Tụi bạn Tây rất yêu mến Hà vì nó sống động, học giỏi và thích thể thao. Tụi nó đặc biệt kết cái tên ngộ nghĩnh của Hà. Tên nó nghĩa là dòng sông nhưng khi phát âm theo tiếng Pháp tụi Tây không đọc chữ “H”. Nhỏ Natalie nói: “Mỗi lần tao gọi mày từ xa, người ta tưởng ai đánh tao đau lắm vì cứ là kéo dài “A! A! A!”. Bản thân Hà mỗi khi có kẻ nào la “A!”, theo phản xạ nó quay lại vì tưởng có người gọi. Đi học vui như thế nhưng về đến nhà Hà là một người ít nói, lơ đãng và ngơ ngác. Ba nó không biết tiếng Pháp ngoài mấy câu chào xã giao. Mẹ nó thì biết đếm để xài tiền nhưng khi coi truyền hình thì chỉ đoán già đoán non. Lúc Hà còn nhỏ, mỗi lần cần làm giấy tờ ba mẹ nó phải chạy vạy nhờ những bác Việt Kiều có học. Mấy năm nay đến phiên Hà phải giúp lại những người Việt sống không hòa nhập được vào xã hội bên này. Tuy ngầm hãnh diện về tiếng Pháp của Hà nhưng ba mẹ nó luôn hổ thẹn về tiếng Việt của nó. Tình hình trở nên căng thẳng khi bà nội từ Việt Nam sang sáu tháng nay. Bà thủ thỉ đủ chuyện với Hà mà nó cứ lặng yên vô cảm khiến bà giận, bệnh tim tái phát. Hà thấy ngột ngạt nên tìm tối đa các lý do để được ở bên ngoài. Nước mát làm cho Hà dễ chịu, nó lại vừa bị ba la tội lầm lì và không thân thiện với bà nội. Hà bơi hùng hục mấy vòng hồ mới dừng lại nghĩ. “Cô bơi giỏi quá”. Một giọng nói vang lên sau lưng làm Hà giật mình. Anh chàng người Châu Á, chất giọng còn lơ lớ của người không sinh ra ở đây. Không hiểu sao Hà lại không thích những ai mắt đen, da vàng, mũi tẹt như nó. Natalie gọi đó là là một mặc cảm trong tiềm thức, khó giải thích được. Hà lịch sự nói “cảm ơn” rồi búng chân lao vút đi. Nhưng hôm sau rồi hôm sau nữa, suốt một tuần lễ, ngày nào đi bơi nó cũng bị gã trai Châu Á bám theo lân la làm quen. Nó dừng lại ở mức độ chào hỏi rồi vội vàng lặn mất tăm xuống lòng hồ sâu. Anh chàng đó bơi không siêu nên nên hay đứng xớ rớ chỗ nước cạn cùng đám trẻ con lau nhau. Anh ta phô thân hình không được cường tráng của người ít vật động. Hà cười thầm: “Đến đây để tắm chứ bơi cái gì!”. Bà nội thèm trái cây Việt Nam nên sai Hà ra siêu thị đầu phố mua ít loại. Bà dặn: “Nếu sầu riêng không quá mắc mua cho nội một trái”. Hà nhăn mặt như đã nghe cái mùi khó chịu đó. Lần nào bà nội ăn nó cũng trốn vào toilette. Mỗi lần như vậy ba nó lại bực mình và gia đình lại xào xáo. Hà công nhận đó là một mùi đặc biệt, người thì thấy thơm lừng, kẻ bịt mũi buồn nôn. Còn frômage camembert Hà thích lại làm cả nhà nó lợm giọng chê là mùi… xác chết. Ba nó cấm tiệt không cho tha về nhà bất kỳ loại frômage nào trừ “con bò cười”. Hà thấy mình luôn bị chèn ép. Hà đến quầy trái cây nhiệt đới, sầu riêng đang khuyến mãi nhưng chắc chỉ nên mua thanh long thôi…
- Chào cô! Hà ngơ ngác nhìn một anh chàng tóc đen trông quen quen. Nó đưa tay đẩy gọng kính suy nghĩ.
- Cô không nhớ tôi sao?
– Anh thanh niên nhỏ nhẹ
- Ngày nào ở hồ bơi chúng ta cũng gặp nhau.
- À!
– Hà la lên ngạc nhiên
– Thì ra là anh mấy bữa trước anh không mặc quần áo nên hôm nay nhìn khác quá! Mấy người mua hàng đang đứng trong bán kính mười mét đều quay nhìn tò mò kẻ “mấy bữa trước không mặc quần áo gì”. Hà biết mình “hố”, anh chàng đỏ mặt lúng búng không nên lời. Hà vơ vội vài trái thanh long rồi nhanh chân chuồn ra quầy thu ngân. Giá đang ở hồ bơi nó đã tàng hình vào làn nước. Lần này anh chàng có vẻ quyết tâm làm quen nên đón đường nó trước cửa siêu thị.
- Cô người gốc nước nào vậy?
- Anh hỏi chi?
- Cùng là người Châu Á, tôi hy vọng chúng ta đồng hương. Tôi đến từ Việt Nam từ mùa thu năm ngoái để du học…
- Tôi quốc tịch Pháp, nhưng ba mẹ tôi người Việt! Hà thấy rõ nét mặt vui mừng của anh sinh viên. Anh ta gần như đã nhảy lên vì không thất vọng. Trông anh thành thật đến tội nghiệp.
- Chúng ta nói chuyện với nhau bằng tiếng Việt nhé!
- Vừa đề nghị anh liền thực hiện ngay
– Anh thèm nói tiếng mẹ đẻ quá! Hà vẫn dùng tiếng Pháp, đối với nó đây mới là tiếng mẹ đẻ, nó cho anh sinh viên biết mình sinh ra ở đây nên không có khả năng trao đổi với anh bằng tiếng Việt nhưng nếu anh muốn nó sẽ giới thiệu… bà nội nó cho anh.
- Được! Nhà gần đây không? - Vẫn nói tiếng Việt với Hà, anh sinh viên hồ hởi
– Anh tên Hải. Em tên gì? Có tên Việt không? Hà dẫn Hải về giao phó cho bà nội. Hai người nhớ tiếng Việt cùng nhau nói không hết chuyện. Mẹ Hà đi làm phụ bếp ở nhà hàng về đem theo mấy món đồ xào ế bà chủ cho. Anh Hải được mời ở lại ăn cơm. Anh ăn cật lực làm Hà nấu thêm cơm cho ba nó khuya đi làm ca về. Bà nội hài lòng nghe anh kể từ tám tháng nay chỉ lo học bù đầu làm luận án thạc sĩ nên không có thời giờ để giao tiếp với ai. Thèm món ăn Việt Nam, nhớ tiếng Việt và muốn tìm Việt kiều làm quen nhưng chưa có dịp. Đến mười giờ, ba Hà đi làm nhà Hải vẫn chưa chịu từ giã. Mới nhìn qua mà ba Hà có cảm tình với anh sinh viên cao học ngay. Ba nói có một đề nghị làm Hà rụng rời:
- Ngay ngày mai cháu đến dạy tiếng Việt cho con nhỏ này. Cháu vừa biết tiếng Pháp vừa rành tiếng Việt dạy nó sẽ dễ. Sẵn ký túc xá hè đóng cửa để sữa chữa cháu cứ đến nhà bác ở, khỏi thuê chổ khác làm gì mắc công!
Buổi học đầu tiên làm Hà lo sợ. Không phải nó ngán ông thầy từ trên trời rơi xuống mà sợ ba nó làm to chuyện nếu nó học không tốt.
- Em phải chịu khó nói tiếng Việt – anh Hải mào đầu. Anh biết em hiểu hết nhưng ngại nói vì sợ sai. Hà bực bội đưa tay sửa gọng kính. Và như thói quen, những lúc thế này tự dưng nó… buồn tiểu. Hà đứng dậy dợm bước.
- Em đi đâu?
- Tôi muốn đi toilette – Hà cương quyết nói bằng tiếng Pháp.
- Nói tiếng Việt xem nào! Nếu không tôi không cho đi.
- Con muốn đi đái!
Ông thầy bật cười ngặt nghẽo làm Hà ngơ ngác nhưng nhịn không nổi. Nó vụt chạy đi. Lúc trở vào phòng học vẫn thấy thầy ôm bụng cười khùng khục.
- Tại sao anh cười!
– Hà khó chịu hỏi bằng tiếng Pháp
- Lần nào tôi nói tiếng Việt cũng có người cười hoặc tức giận.

- Sao em lại xưng “con” với anh? Lại còn nói “đi đái”, nghe không hợp với một cô bé đeo kính cận sáng láng. Bà nội ở phòng bên nghe ồn ào bèn sang giải quyết. Thầy vỡ lẽ, thì ra Hà chỉ hay gặp người Việt lớn tuổi nên có thói quen xưng "con", với tụi trẻ đồng trang lứa nó dùng tiếng Pháp nói chuyện với nhau cho nhanh. Còn từ "đi đái", quả thật hồi bé thỉnh thoảng ba vẫn gọi nó dậy "đi đái" mà! Thầy biết dạy thế này gay go rất nhiều lần làm gia sư ở Việt Nam. Phải đổi phương pháp, không nên nóng vội, tốt nhất nên thân thiệt với họ trò "mất gốc" đã. Thế là anh nói tiếng Pháp với Hà, đề nghị nó hãy tâm sự về mình để hai người thông hiểu nhau phần nào. Biết nó cũng thật sự muốn giỏi tiếng Việt để làm vui lòng cả nhà nhưng ba nó tánh cộc cằn chỉ thích lớn tiếng mỗi khi nó nói sai, anh Hải tội nghiệp cầm tay nó an ủi. Anh nói mình thông cảm cho hoàn cảnh những đứa trẻ bị hai nền văn hóa xâu xé như Hà. Anh sẽ hết lòng giúp nó, miễn nó coi anh như một người bạn tốt. Những ngày hôm sau tình hình khả quan hơn, học trò đã chịu mở miệng nói chút chút. Nghe Hà ngọng nghịu, giọng lơ lớ, mặt hồi hộp sợ sai thầy vừa nén cười vừa cay mắt. nhưng khi hai anh em vừa ra khỏi nhà để đến hồ bơi Hà trở nên tự tin và nói tiếng Pháp không cần xin phép. Anh Hải có vẻ thất vọng, thì ra học trò sợ phụ huynh hơn là thầy. Hà cười, hù dọa anh bằng tiếng Việt "ba rọi" của mình:
- "Toa" mà nói lại với ba con, con sẽ đè "toa" xuống đáy hồ đến lúc có những hột nước đi lên cho "toa" chết luôn!
- Em chứ không phải con, bong bóng nổi lên chứ không phải hột nước đi lên! Gọi bằng "anh" chứ không được "toa"… Học trò không thèm nghe, nó đã búng chân lao vút đi trong làn nước mát để thầy đứng xớ rớ chỗ cạn với đám con nít ồn ào. Thấy lố bịch với cô em Việt kiều, anh chàng lần lần vịn thành hồ tiến ra chỗ sâu. Một lực kéo bất ngờ làm hai "ống sậy" của gia sư nhấc bổng lên. Uống lưng bụng nước chàng sinh viên dở thể thao được Hà kéo vào.
- Em định ám sát tôi để khỏi phải học tiếng Việt nữa phải không? - Nạn nhân tức giận ho sặc sụa
- Lần đầu tiên gặp em đã từ trên cầu phi thân đè tôi xuống đáy cầu một lần rồi.

Ngày mai ba Hà lái xe đưa anh Hải ra phi trường Lyon. Anh hứa vài năm sau lại sang để làm luận án tiến sĩ. Khi đó chắc Hà đã nói tiếng Việt rất giỏi và không cần gia sư nữa. Hà biết anh nói thế để khuyến khích chứ nó còn trật nhiều lắm. Mới hồi hôm qua thôi khi bà nội kể chuyện những tên tội phạm mua chuộc cảnh sát, nó thắc mắc: "Sao tụi nó phải mua con chuột của cảnh sát làm gì?". Ba Hà dạo này bớt cục tính, ông nghe lời anh Hải chịu khó học tiếng Pháp. Bởi thật bất công khi trách con gái mất gốc trong khi bản thân mình không hòa nhập được vào xã hội mới sau gần hai mươi năm sinh sống. Đang ăn tiệc tiễn anh Hải về Việt Nam, mẹ Hà làm bể cái chén gây tiếng động trong nhà bếp, nó vào phòng ăn kể với cả nhà: "Cái chén té từ trên bàn xuống" làm thầy xấu hổ đỏ mặt. Anh kéo nó ra sân sau trao một món quà nhỏ. Con gấu mập ú ôm trái tim đỏ thật dễ thương.
- Đây là tim của anh, tấm lòng của một người anh dành cho đứa em mình
- Anh Hải lí nhí. Hà thắc mắc sao con trai Việt Nam thích ngụy trang tình cảm dưới lốt anh em làm gì
- Nhớ đừng có phát âm sai chữ tim thành…
- Biết rồi !
- Hà đỏ mặt nhớ lần nó kể bà nội bị bệnh "đau chim" làm anh Hải há hốc nhìn nó kinh ngạc. Sau khi cả hai hiểu ra, bật cười đau bụng, đến phiên bà nổi giận hai ngày
- Sáng mai em đi học lại, con Natalie phone nói đem từ Việt Nam qua cho em một cái nón lá… Đêm trở lạnh, những cơn gió mùa thu đã đến đem những chiếc lá vàng đầu tiên lìa cành. Hà nói giọng nuối tiếc một câu tiếng Việt văn chương đến mức làm thầy phải giật mình: "Mùa hè đáng nhớ đã trôi qua…".
_________________
 
Mong Manh Tình Đầu - Tuyết Nhung

Ðạp xe lòng vòng, rốt cuộc em lại quay về chốn cũ, ngồi lại một chỗ ngồi – cái nơi quen thuộc mà cả anh và em thường đến vào những chiều thứ bảy. Cảnh vật đều như xưa chỉ khác một điều là bên em không có anh như ngày nào, anh ra đi để lại cho em biết bao kỷ niệm... kỷ niệm nhạt nhòa...

Có nhiều lúc em tự hỏi “Quá khứ” là gì? Phải chăng là những gì thuộc về ngày hôm qua, nhưng em lại sợ phải đối diện với nó – em không muốn chúng thi nhau xâu xé trái tim em.

Em còn nhớ, ngày ấy em đã dặn lòng mình không được yêu bất cứ một ai khi còn đi học. Năm đầu tiên trôi qua êm đềm, nhưng sang năm mười một bỗng anh từ đâu chuyển đến lại rơi ngay vào lớp 11A2 này. Từ đó “trái tim sắt đá” của em bắt đầu biết rung động trước anh. Rồi trong một lần tình cờ anh giúp em gắn lại sên xe chúng ta trở thành đôi bạn thân, thời gian trôi qua chúng ta đã vượt qua giới hạn tình bạn để đến một tình yêu, em đã đón nhận tình yêu của anh một cách trân trọng - nhiệt tình và xem như là kho báu của đời mình!

Thấm thoát mà cả hai đều tốt nghiệp PTTH, rồi cùng thi vào Ðại học. Nhưng em không may mắn như anh - đậu Ðại học Ngoại ngữ với số điểm khá cao đủ để cả hai cùng “nở mũi”. Lần đó anh vui lắm, anh đưa em đi chơi khắp nơi và lần đầu tiên anh hát cho em nghe những bài tình ca nồng thắm nhất, em không ngờ được đó là lần cuối cùng chúng ta bên nhau.

Từ khi vào Ðại học, anh càng lúc càng thay đổi lạ lùng. Anh không còn đến trường với chiếc xe đạp cọc cạch mà ngày nào sóng đôi bên em, anh thường hay nói: “Học sinh đi xe đạp lãng mạn hơn”, thay vào đó bây giờ là một chiếc Suzuki mới “cáo” – model mới đang được nhiều bạn trẻ ưa thích! Em như cảm nhận được một điều anh đang dần xa em, và điều ấy đã đến vào một ngày em không mong đợi...

Hai cô bạn thân đến chơi chẳng biết vô tình hay cố ý đã để lộ “Hôm qua tao gặp B kè một con nhỏ model dữ lắm”. Thấy em buồn nó lại an ủi “B tệ lắm, mày không đáng buồn vì hắn đâu!” Em giả vờ thờ ơ “Tao chả buồn!” Nhưng có ai biết thật ra em đã cố cắn chặt đôi môi để khỏi bật lên tiếng nấc, để nghe cõi lòng mình – tê tái – nát tan... Chúng ta chia tay nhau từ đó, dẫu biết rằng thời gian là phương thuốc nhiệm màu để người ta quên nhau, nhưng để quên anh – quên mối tình đầu thì thời gian không là gì cả.

Một buổi chiều sắp xếp lại tủ sách - một nhành Ti-gôn rơi ra từ một quyển sổ - Nhành hoa ngày nào biết em yêu thích anh đã hái tặng em. Em đem nó ép vào quyển sổ cất kỹ trong tủ như cất giấu ẩn số của đời mình, thời gian trôi qua em vô tình quên đi nó như anh đã dần quên em. Thế mà giờ đây bất ngờ trông thấy nó - kỷ niệm ngày nào như thác đổ tràn về - em lại nhớ đến anh - một mối tình mang hình tim vỡ...

Nhành hoa ngày xưa giờ đây không còn tươi tắn nữa. Nó đã khô héo và đang bước bào giai đoạn mục rữa, mà cũng phải thôi! Lòng người còn thay đổi huống hồ gì nó chỉ là một nhành hoa vô tri, vô giác. Giờ ngồi đây viết những dòng này không biết anh có đọc và có hiểu hay chăng? Có một con bé đã dại khờ yêu anh- vẫn mãi yêu anh dù anh đã tình nguyện bước ra khỏi cuộc đời nó một cách nhiệt tình...
 
MỘT PHI VỤ - NGUYỄN HOÀI PHƯƠNG

Người người đánh quả, nhà nhà đánh quả"

(Thành ngữ mới)

Hạnh Híp và Tiến Chuột là hai thằng bạn nối khố, cả hai đều cầm tinh con chó, và đều sinh vào mùa chó dại, trước sau hơn kém nhau có không đầy một tháng. Gọi là Tiến Chuột vì nó có cái mặt giống hệt mặt chuột cống với cặp mắt màu đồng thau, liếc ngang, liếc dọc nhoay nhoáy, cái mõm chu chu lúc nào cũng như muốn huýt sáo và hai hàm răng vừa nhọn, vừa thưa, vàng khè khói thuốc lào. Còn Hạnh Híp thì đặc trưng bởi cặp mắt, bình thường đã chỉ mở he hé, đến lúc cười như nhắm tịt lại, chẳng thấy trời đâu, đất đâu nữa.

Nhà hai thằng ở phía cuối thành phố, ngay trên bờ hồ chứa nước thải. Cũng như phần đông cư dân sống trên bờ hồ, người ngợm hai đứa lúc nào có mùi tanh tanh, khăn khẳn, do ám phải không khí từ mặt hồ bốn mùa bốc lên. Ngay từ dạo mới bảy tám tuổi cả hai đã biết ngụp lặn dưới làn nước đen ngòm của cái hồ ấy, lúc để vơ bao bèo tấm hoặc bao rong đuôi chó mang bán cho mấy nhà nuôi lợn trong thành phố, khi thì móc bùn thuê cho một bà, một cô nào đó trồng rau muống để kiếm mấy hào... Lúc lớn lên, có chút sức lực, chúng rủ nhau sắm một cái thuyền nan, quét thêm mấy lớp hắc ín cho thật chắc chắn, kín đáo, lại thửa hai cái kéo cắt đất cực tốt, khung bằng gỗ lim, dây bằng ruột phanh Trung Quốc rồi đứng ra cai việc khai khẩn mặt hồ. Dân từ các vùng dưới nhà quê lên hoặc trong thành phố vì chật chội quá phải bò ra, muốn lấn chiếm lòng hồ để có mảnh đất cắm túp lều là phải gọi đến hai thằng. Chúng phi thuyền ra giữa hồ, nơi đáy còn tương đối nông nông, hụp xuống lấy kéo cắt từng tảng đất to như những cái cối đá vất lên thuyền rồi hì hục đẩy vào. Tùy túi tiền của từng người mà chúng cân tất, từ một mảnh đất ngang, dọc mỗi chiều bẩy, tám mét, đến những mảnh có chiều dài, chiều rộng chiều nào cũng hơn chục mét. Mảnh nào bé, đắp trong vòng năm, sáu ngày, một tuần là xong, những mảnh lớn có khi phải thi công đến hàng tháng. Ngâm người trong nước bùn trường kỳ như vậy nên hai thằng có nước da cũng đen kịt hệt như màu bùn đen... gặp những hôm trời rét mướt, nước da vốn đã đen đủi ấy tái bợt đi, n0hăn nhúm lại trông mới thật kinh khủng.

Cả Hạnh Híp lẫn Tiến Chuột đều suy nghĩ, rằng nếu chỉ có hai thằng thì chúng đã có thể ăn đời ở kiếp với cái nghề vét bùn, moi đất đắp nền nhà ven bờ hồ này rồi, nếu như dân trong làng, đừng có thuộc một loại cùng đinh hoặc sắp sửa cùng đinh, thấy có việc gì kiếm được mấy hào là háo hức, sáng hết cả mắt lên, và đặc biệt là lớp trẻ trẻ xấp xỉ tuổi bọn hắn thì đừng có gồm rặt một lũ gớm ghiếc, hơi một tí là sôi me, sẵn sàng xin nhau tí huyết. Ðánh hơi thấy công việc tuy có hôi hám, vất vả, bẩn thỉu... nhưng lại có thể kiếm ra tiền, khả dĩ cải thiện được nồi cơm, dân cả làng như bảo nhau cùng ùa vào làm. Nhiều bù ít, cứ hai ba nhà chung vốn nhau mua một cái thuyền nan hoặc thuyền tôn, ba bốn gã thanh niên lập thành một nhóm, lấy dây chuối căng ra rồi bắt thăm chia nhau canh tác từng khu vực mặt hồ. Có nhiều nhóm gồm toàn một lũ con gái mười tám, mười chín đến hai nhăm, ba mươi tuổi, vì không xin được việc gì làm ở đâu nên đành về đây, cũng móc bùn, xắn đất, đẩy thuyền ầm ầm, mặc kệ nước bẩn, nước thỉu chui hết vào mọi ngõ ngách, hang hốc, bất kể đến mấy chữ vệ sinh, vệ tử là gì.
 
Nghề khai thác bùn đất dưới lòng hồ của dân làng rộ lên được một dạo. Cho đến khi toàn bộ đáy hồ chỗ nào cũng như chỗ nào đều đã sâu ngập lút đầu của cả những gã trai cao to nhất, thì cũng là lúc mấy ông bà trên ủy ban nhân dân thành phát hiện ra là mặt hồ bị lấn chiếm trái phép một cách tàn bạo. Các vị cử ngay đến làng mấy chú cảnh sát khu vực. Ngoài việc kiểm tra giấy tờ, hộ khẩu, xem ai đi, ai đến, các chú còn một nhiệm vụ nữa là luôn luôn phải trông chừng cái hồ, giờ chỉ còn độ dăm, bảy mẫu, nếu bị lấp hết thì nước thải của cả thành phố chẳng biết chứa vào đâu nữa.

Những ngày đầu tiên, lúc mặt hồ mới bị phong tỏa còn một vài vụ vi phạm lẻ tẻ. Lợi dụng những đêm tối trời, một vài cái thuyền lại bí mật ì oạp, khe khẽ bươn ra định tranh thủ làm ít chuyến... Nhưng lực lượng cảnh sát nhân dân của ta rất tinh. Chỉ chuyến trước, chuyến sau của các vị là các chú đã biết, hết chiếu đèn pha loang loáng lại rút súng bắn veo véo xuống mặt nước cảnh cáo. Ðến lúc có vài cái thuyền xơi đạn vỡ toang bị lật úp giữa dòng thì dân làng hoảng. Thôi thì, bỏ của chạy lấy người, bảo tồn lực lượng, an toàn là trên hết.

Hạnh Híp và Tiến Chuột chưa kịp xoay sang nghề khác thì đã bị gọi vào lính. Hai thằng ở với nhau suốt, hết đánh nhau tơi bời với quân bành trướng ở biên giới phía Bắc, lại quay vào Biên giới phía Tây Nam, vọt sang cả Cam Pu Chia nện nhau với quân của Pôn Pốt. Hình như bom, đạn của Tầu khựa cũng ngán hai cái cơ thể đen đủi, sần sùi và tanh ngòm mùi nước bùn nước đất ấy mà tránh xa. Nhiều trận cả trung đội, đại đội hầu như bị xóa sổ, thì cuối cùng hai thằng vẫn lóp ngóp bò về trước cặp mắt kinh dị của những người ở hậu phương, cứ như là có một phép lạ xảy ra với chúng nó vậy.

Cả hai được phục viên về làng cùng một ngày. Ðể hai thằng yên ổn một vài tuần. Một hôm, thấy Tiến Chuột còn ngồi mãi bên nhà Hạnh Híp hai ông già, bà già nhà nó mới lò dò theo sang. Ngồi một lúc cơ chừng nhai dập cái bã trầu, hai cụ nhà này mới phối hợp với hai cụ nhà kia, khẽ khàng thúc dục bảo hai thằng lấy vợ đi. Nhưng vừa được câu trước, câu sau, chúng đã nhăn mặt, cáu kỉnh cãi lại:

- Lấy vợ... Lấy vợ... Các cụ lúc nào cũng lấy vợ... lấy vợ... Không có việc gì làm, lấy về rồi múc nước cống lên mà ăn với nhau à ?
 
Các cụ cũng tức lắm, chửi cho luôn:

- Tiên sư hai thằng dở hơi. Sao không mở mắt ra mà nhìn trai gái trong làng này những đứa bằng tuổi chúng mày có đứa nào còn không vợ, chồng, con cái không ? Mà có đứa nào có nghề, có nghiệp gì ? Ðứa nào đã phải múc nước cống lên mà ăn ?

Ðến thế mà chúng vẫn không chuyển, một mực giữ ý kiến dở như cám hấp của mình:

- Kệ chúng nó chứ. Chúng nó khác. Chúng tôi khác. Bao giờ bọn tôi cảm thấy tự lo được cho vợ, cho con thì tôi mới lấy.

Ðến nước ấy thì các cụ chịu:

- Trách nhiệm của chúng tao phải nói thì chúng tao phải nói. Thôi thì từ nay mặc kệ chúng mày nhé. Muốn ở vậy đến già thì ở, sau này đừng có kêu chúng tao. Ðã bảo trời snh voi, sinh cỏ...

Hai thằng truyền cho nhau cái điếu cày. Chúng vê những điếu thật to, châm lửa, tọp má rít những hơi dài rồi ngửa mặt lên nhìn nhau cười. Tiến Chuột giao hẹn với Hạnh Híp:

- Có quyết tâm như thế không mày ?

- Quyết thì quyết.

Ơổ đầu xóm có một cái loa công cộng mỗi ngày mở ông ổng mấy lần. Bốn cụ của hai nhà này đã quá quen nghe những câu khẩu hiệu có mấy cái chữ quyết tâm xuông ấy, giờ lại thấy hai ông con cũng lảm nhảm như vậy thì chán... Một cụ nóng mặt lên, chửi đổng:

- Quyết... Quyết cái mả ông, mả bà nhà chúng mày. Ngồi đấy mà quyết.

Hai thằng không chịu ngồi, chúng bảo nhau ngày mai mang cái giấy ra quân đi xin việc. Nhưng mấy mảnh giấy lộn ấy của bọn chúng không đắt, xông vào cửa nào hai cựu quân nhân cũng bị đánh bật ra ngay. Các ông cán bộ tổ chức cầm lên chưa đọc hết một lần đã lắc đầu quầy quậy quẳng trả lại:

- Cơ quan của chúng tôi đã đủ hết chỗ làm rồi. Mong các đồng chí thông cảm.

Nhưng có lần vừa bước chân ra khỏi cửa chúng đã nghe mấy ông nói cười hô hố phía sau lưng:

- Giời đất ơi, thời buổi này mà con có thằng mang mang giấy xuất ngũ đi xin việc nữa chứ.

- Ưu tiên cho bộ đội ra quân thì có mà ưu tiên cho cả nước à ?

- Mà hai thằng cũng khéo bảo nhau, lững thững vào người không, một ấm chè, một điếu thuốc cũng không chịu mất... Thế mà cũng đòi đi xin việc.
 
Một lần khác, chúng gõ cửa xí nghiệp sản xuất thương binh. Gặp được một ông ra vẻ tử tế, nhưng hai thằng nghe hết câu mới biết là ông nói xỏ:

- Chỗ chúng tôi chỉ nhận thương binh, bệnh binh thôi... mà trông các đồng chí thấy vẫn còn lành lặn quá.

Rồi nhìn chằm chằm vào mấy đôi chân, đôi tay còn nguyên vẹn của chúng nó, ông tỏ ý tiếc rẻ:

- Giá mà...

Cả hai thằng to đầu rồi mà còn ngây thơ, không biết rằng thời buổi ấy muốn xin được việc gì làm cho có tí biên chế của nhà nước, thì dù có tẹp nhẹp đến đâu cũng phải tốn kém, ít ra cũng nửa chỉ, một chỉ. Vậy mà đi đến đâu chúng cũng chỉ có độc mấy cái cát tút dưới cạp quần.

Hạnh Híp và Tiến Chuột mỗi thằng đều có một con em làm ở tổ hợp tác đan len. Hai đứa suốt ngày ngồi xỏ xiên và buôn chuyện thiên hạ nên cũng biết được nhiều điều. Ðể cho hai ông anh đã chạy long tóc gáy lên mà vẫn xôi hỏng bỏng không hai cô em mới quyết định ra tay. Biết bà tổ trưởng có ông anh họ xa làm trưởng phòng tổ chức công ty xây dựng thành phố, chúng mua cho bà một lạng mì chính để nhờ dẫn đến ra mắt. Rồi mặc dù chưa bao giờ trông thấy biển là gì cũng cứ mua đứa thì mấy xóc cua bể thật bự, đứa thì một xâu cá thu rõ béo... nói là có tí quà ở quê để biếu ông. Ðơn giản, tế nhị như vậy mà xong việc. Trước ngày hai thằng được chính thức đi làm phụ nề, hai cô em lại bỏ tiền túi ra chi mấy mâm cơm rau mời mấy vị đại diện công ty, phòng, ban, làm một bữa đến nơi đến chốn nữa cho thêm phần chắc chắn, yên ổn. Sau lúc công việc đã đâu vào đấy, ngồi tính toán lại từng khoản thấy mất già một chỉ, hai đứa mới nửa đùa, nửa thật mà giao hẹn với hai ông anh:

- Ðấy là chúng tôi cho các ông tạm vay. Ðến ngày bọn tôi lấy chồng thì nhớ mà trả. Của hồi môn của bọn tôi đấy.
 
Hai thằng lại giơ điếu cày lên, bắn mỗi thằng một tràng dài, xong mới lờ đờ nói:

- Các cô yên tâm đi, thế nào rồi bọn anh cũng tìm cách trả lại đủ, cả vốn lẫn lãi.

Nhưng đấy là chúng nói thế, cả chục năm sau khi hai cô em đã về nhà chồng, con cái đã tay bế, tay mang, bản thân hai thằng cũng đã chuyển đi, chuyển lại hàng chục chỗ làm, hết công ty xây dựng thủy lợi đến xí nghiệp sửa chữa cầu đường, hết ở lò vôi, lại chuyển sang lò gạch, lò gốm, rồi đi đập đá, moi cát... mà chẳng thằng nào trả nợ được em gái lấy một xu nhỏ, thỉnh thoảng lại còn gãu vào tháng này một chục ngàn tháng sau hai chục ngàn.

Ðến lúc nhà nước xóa bỏ ba cấp, hầu hết những nhà máy, xí nghiệp, công ty trong thành phố vì kinh doanh thua lỗ mà phai giải thể thì hai thằng Hạnh Híp và Tiến Chuột vẫn là dân vô sản như những ngày đầu tiên. Mỗi thằng chẳng có gì ngoài một chiếc xe đạp tòng tọc, cà khổ với vài bộ quần áo bạc phếch, xơ xác . Chúng vẫn chưa lấy được vợ. Với cái tuổi đã băm một vài nhát và tài sản như vậy thì tính chuyện ấy thật là khó nên chúng làm như không nghĩ đến nữa. Những lúc cấn cá quá, con lợn lòng nổi lên không thể nào chịu nổi nữa, hai thằng rủ nhau ra bờ hồ La Két hoặc ra ga hay bến xe ô tô... vơ đại một con bớp, bất kể gày, béo, xấu, đẹp, già, trẻ như thế nào cũng kéo phứa ra bờ đê, gầm cầu treo, góc chợ hay một xó xỉnh nào đó quần cho tơi tả rồi sau đó lại coi như là không có gì.

Chúng cũng xoay đủ mọi nghề khác. Chịu khó dậy sớm đứng chầu chực ở đầu mấy con đường từ ngoại ô vào, tranh giành, mua rẻ của mấy bà, mấy ông nhà quê lúc vác mía, vác củi, lúc gánh rau, sọt dưa mang vào bán lại cho mấy bà buôn ở chợ trong thành phố. Hoặc là xông thẳng lên tầu, rông hẳn lên mạn ngược khi bao chè tươi, lúc bao sắn, bao măng khô, có lúc bạo phổi lên còn dám đánh cả những quả quốc cấm như hoa hồi, thảo quả, quế chi... Vất vả thế, nhưng vẫn chẳng ra đâu vào với đâu. Thường là mỗi chuyến như vậy, trừ vốn liếng đi, lời lãi cũng chỉ đủ đút vừa mồm ăn trong mấy ngày. Nhiều hôm, gặp mưa gió, cầu hỏng, đường sạt, tàu trật bánh, không đi tới, đi lui được ngồi nhìn những bao sắn, bao măng, sọt cà chua, khoai tây... bị ẩm, mốc, nóng rực, bốc hơi hầm hập thì mặt mày còn nhăn nhó hơn mặt khỉ. Cũng có khi được vài chuyến ngon lành, tưởng có thể để ra được chút đỉnh thì tự nhiên lại gặp mấy thằng phòng thuế, công an hay kiểm lâm khó tính, chưa kịp đấm mõm hay đấm chưa đủ đô, lúc tầu đang vào cầu nó cáu sườn lên cho vài đá vào đống đồ hàng thì cả chì cả chì lẫn chài theo nhau xuống chầu Hà Bá hết.

Có một dạo, chẳng biết là thực hiện nghị quyết hay chỉ thị số bao nhiêu mà bọn thuế vụ, công an, kiểm lâm, kết hợp với bọn quản lý chợ kiểm ông, kiểm cha thật ráo riết. Không làm ăn gì nổi, Hạnh Híp và Tiến Chuột đành nằm nhà. Chờ một thời gian sau, thấy tình hình có vẻ tạm yên ắng, chúng lại tính kế tiếp. Hôm ấy, bên nhà chồng của con em gái Tiến Chuột có đám ăn hỏi, hai ông bà già cũng được mời sang dự. Còn một mình ở nhà, nó ới Hạnh Híp sang. Hai thằng vét thùng mì sợi được một bát, mới hái ít rau muống độn thêm vào rồi cho nước lã, muối, ớt vào nấu một xoong đầy. Chúng ních cho õng bụng, làm vài khói thuốc lào nữa rồi lên võng nằm đung đưa, mỗi thằng một đầu, chân thằng nọ gần thọc vào nách thằng kia. Lúc Hạnh Híp đã thiu thiu ngủ thì Tiến Chuột chợt vỗ bộp vào đầu gối làm nó giật nẩy mình:

- Mày làm cái gì vậy ?

- Híp ! Tiến Chuột gọi rồi hỏi lại: - Mày có biết thằng Dũng Sứt nhà ở đầu xóm, có cái Babetta màu cá ươn không ?

- Biết chứ. Sao ? Hạnh Híp cũng hỏi lại:- Mày định luộc cái xe ghẻ ấy của nó à ? Có mà bán cho ma nó mua.

- Không ! Ai bảo mày luộc ? Nó canh như canh chằng làm sao mà lấy nổi ? Tao nói là, dạo này thằng ấy buôn thịt lợn, thấy bảo cũng kiếm được. Nó có ông chú ở quê, dưới Nam Ninh. Mạn ấy, dạo này đói nên thịt lợn rẻ. Mấy chú cháu nó kết hợp làm ăn. Ðêm, bố con ông chú giết lợn, làm lòng, pha thịt, tang tảng sáng nó về thồ lên mang đổ cho mấy phản thịt ở chợ Cửa Trường, chợ Mỹ Tho, ăn đến ba bốn giá đấy. Một con sáu bảy chục cân hơi, chú cháu nó cũng kiếm được gần trăm tì. Hay là tao với mày cũng đánh quả thịt lợn đi ?
 
Status
Không mở trả lời sau này.
Back
Top