• Hiện tại trang web đang trong quá hình chuyển đổi và tái cấu trúc lại chuyên mục nên có thể một vài chức năng chưa hoàn thiện, một số bài viết và chuyên mục sẽ thay đổi. Nếu sự thay đổi này làm bạn phiền lòng, mong bạn thông cảm. Chúng tôi luôn hoan nghênh mọi ý kiến đóng góp để chúng tôi hoàn thiện và phát triển. Cảm ơn

1001 CÂU CHUYỆN CẢM ĐỘNG!!!

Status
Không mở trả lời sau này.
Còn ý kiến Nhiễu Hàn thì sao?

- Trần à, Nhiễu Hàn thật là người vợ chung thủy. Nó vẫn ở nhà chị không hề có lỗi lầm gì. Nó vẫn một mực yêu em. Sao em lại viết trên đầu trang sách trù nó chết? Bởi vậy, bây giờ, em phải đến vỗ về, xin lỗi nó đi. Chị bảo đảm nó sẽ nghe lời liền.

Anh bực bội hỏi:

- Còn Nhiễu Hàn, đã tán thành ý kiến của cha chưa?

- Tán thành là cái chắc.

Quay lại đến bàn, lấy tờ giấy chứng thư ly hôn mà anh đã ký sẵn, và một chi phiếu đưa cho chị anh. Hai thứ này đã chuẩn bị trước định gởi cho em, nhưng chưa kịp gởi. Anh dặn chị:

- Nhờ chị giao lại cho Hàn. Chi phiếu dùng để mua căn nhà này. Và, giấy ly hôn để nó dễ dàng lập gia đình mới.

Bà tròn xoe mắt:

- Bộ em điên rồi sao.

- Dạ em điên. Ðiên vì người con gái mang tên Nhiễu Hàn. Ngày xưa em yêu Hàn lắm. Nhưng bây giờ Hàn đã chết rồi. Em không thể nào phản bội để đi lấy một người con gái khác có tên Ðinh Khiết Phi được.

Bà lẩm bẩm:

- Em điên thật mà. Viết tiểu thuyết gì đến nỗi điên đầu luôn.

Vâng anh điên thật rồi Hàn. Trên đời này tìm được người điên thứ hai như anh không bao giờ có. Sau khi chị ra về, anh ngồi mãi trước bàn mà nhớ đến em - Nhớ em quá! Bước đi nhẹ nhàng, mùi hoa hồng trên tóc, tiếng hát thanh thoát dễ thương, tất cả hết rồi! Em đã biến mất đâu rồi? Và tại sao anh lại đánh mất em?

Thế rồi những buổi hoàng hôn, giọt mưa tí tách như tiếng hát của em hôm nào. Nhớ em làm sao ấy.

Tối lại anh đứng trong vườn hồng, mùi hoa vẫn thơm như xưa mà mọi việc khác hẳn rồi. Ôi nhớ em quá!

Nhiễu Hàn, anh đã hái năm đóa hồng cho em. Ðóa thứ nhất, em cài mái tóc đen. Ðóa thứ hai, cài lên áo trước ngực. Ðóa thứ ba hãy để nằm bên em. Và đóa thứ tư, em sẽ cắm vào cái bình tí hon đặt trên bàn phấn. Còn đóa thứ năm, không cho em đâu, anh để lại hầu giữ lấy mùi hương. Vì hương thơm của nó cũng chính là của em. Như thế, em sẽ vĩnh viễn ở bên anh, xem như chưa xa anh và chẳng bao giờ xa anh.

Trần viết xong lá thư dài thì trời vừa hừng sáng. Ánh nắng len lén xuyên qua cửa sổ, đi thẳng vào phòng. Chàng bỏ viết, mệt mỏi ưỡn ngực. Nhìn năm đóa hồng rồi buông tiếng thở dài. Úp mặt xuống bàn, lấy hai tay làm gối, hít mùi hoa hồng lần nữa chàng mới thiếp ngủ.

Trong khi đó ngoài đồng, có một người con gái đầu tóc bù xù đang nhanh chân trực chỉ về nhà chàng. Khi đến cửa, nàng đứng thở hổn hển vì mệt, tay giữ chặt tờ giấy ly hôn và chi phiếu. Do dự một lúc nàng mạnh dạn đẩy cửa bước vào. Ngọn đèn trên bàn vẫn còn sáng. Người thanh niên úp mặt ngủ ngon. Nàng tần ngần một lúc rồi rón rén đến nhìn năm đóa hồng, hít mùi hoa và ngắm gương mặt tiều tụy của chàng. Rồi nàng bắt gặp xấp thư, kéo ghế ngồi lật từng trang một đọc. Xem xong, đặt trở lại lên bàn, ngắm nghía gương mặt đang ngủ ngon, mắt nàng rưng rưng muốn khóc. Trần trở mình, ư ứ mấy tiếng rồi bỗng nhiên tỉnh dậy.

Mở mắt nhìn thấy nàng chàng châu mày khó chịu, bốn mắt nhìn nhau như trời chớp lạch mà không nói lời nào. Cuối cùng nước mắt nàng bắt đầu chảy làm chàng xúc động nên hỏi:

- Cô là ai? Ðinh Khiết Phi à?

Nàng đáp vừa đủ chàng nghe:

- Không, em là Trương Nhiễu Hàn.

- Em từ đâu đến?

- Từ nơi em đến.

- Muốn đi đâu bây giờ?

Nàng buồn buồn đáp:

- Ở chân núi bên kia nghe nói có miếng đất tốt...

Nàng chớp mắt cho nước mắt chảy bớt rồi tiếp:

- Sẵn nước bên cạnh có thể lập một vườn hoa hồng thật đẹp.

...............

Thế rồi vài hôm sau, có một người đi tìm một nhà văn và một minh tinh vừa mới nổi danh, nhưng không có. Họ tìm đến căn nhà nhỏ này thì chỉ thấy trên bàn có năm đóa hồng xếp thành một hàng dài, không thấy gì khác nữa. Hoa tuy héo mà cánh vẫn còn sắc tươi lạ thường!





HẾT
 
Vì sao lang thang
Từ Nữ Triệu Vương

Cô ngước mắt lên nhìn Chúa, vẫn là bức tường vàng nhũ đen thẫm trong khoảng trời đêm xam xám ấy. Chúa bế một đứa trẻ nhỏ, nhìn xuống mỉm cười. Chuông đồng hồ của Nhà Thờ Lớn kêu lanh thanh điểm 12 giờ 15 phút, cô bật cười vì sự sai lệch bất bình thường của chiếc đồng hồ này và những chiếc đồng hồ treo tường trong mọi gia đình. Nhà Thờ Lớn vẫn đứng im lìm, cứng cắc như tấm bìa lớn trên nền trời, trông chẳng có hồn như những ngày lễ thứ bảy .

Cô thở dài sượt, rời khỏi đó, mưa nhẹ lất phất, gió cũng thổi lất phất, thi thoảng ồ lên từng trận khiến cô co rúm người lại xuýt xoa. Lang thang trong chiếc áo mỏng, màu vàng, chiếc quần Jeans nhiều túi, cô cho xe chạy chậm hơn.

Mưa. Mưa bất đầu rơi nặng hạt. Cô hít sâu một hơi lạnh vào lồng ngực thầm nghĩ: Có nên chạy vào đâu đó để tránh mưa không nhỉ? Chẳng cần. Tóc cô ngắn cũn thế này, ướt chút rồi sẽ khô. Còn quần áo sẽ ướt. Cũng chẳng sao, đi bụi đêm phải chấp nhận chứ!

- Ai bánh bao nóng đê... Ăn bánh bao không cô ơi?

Một người đàn ông bán bánh ngoái cổ nhìn cô hỏi. Cô ngoắc tay ra hiệu người đàn ông quay lại.

- Cho cháu mấy chiếc.

Mùi thơm của bánh bốc lên, cô nghe bụng reo dữ dội, bóc ngay một cái cho vào miệng cắn, xuýt xoa.

Người đàn ông nhìn cô bật cười:

- Cô có vẻ đói lắm

- Vâng, cháu có thể ăn hết cả xe bánh của chú đấy.

Người bán bánh hồ hởi:

- Cô nói vui chứ… mà cô đi đâu muộn vậy?

- Cháu đi đánh ghen.
 
Người đàn ông tròn xoe mắt rồi ông ta lắc đầu

- Cô nói thế nào. Nhìn cô, tôi đoán, chắc cô thích lang thang phố đêm thôi.

- Chú tài nhỉ.

Người đàn ông sôi nổi hơn.

- Tôi hay gặp những người trẻ như cô lắm, nhưng họ đi đông cơ. Mỗi tốp đến chục người chứ không một mình đâu. Cô cũng liều đấy.

Cô mỉm cười, nhai sang cái bánh thứ 2, rồi hỏi:

- Thế có nhiều vụ trấn lột, đánh nhau sao chú?

- Không, không có, nhưng... cô... vẫn liều. Cô không sợ ma à?

Cô bật cười nắc nẻ rồi khẽ gật gật cái đầu ngắn toe đó theo giai điệu "Giọt đắng" của băng nhạc THE WALL.

- Không! Cháu đang đi tìm một chàng ma đây.

Rút tiền ra trả người bán hàng, cô khen:

- Bánh của chú ngon ghê! Cháu đỡ đói hẳn.

Người đàn ông cầm tiền, cảm ơn, rồi lóc cóc đạp xe, miệng rao tiếp: "Bánh bao nóng đê, ai bánh bao nào…".

Cô cho xe chạy tiếp. Hà Nội đêm mùa thu khác hẳn quê cô. Mùa này, quê cô hoa sữa chưa ra bông. Con đường Lý Thường Kiệt sẽ oằn mình ngột ngạt đến khó thở khi hoa sữa phủ trắng. Cô nhớ biển Nhật Lệ, ồn ào tiếng sóng, xoa tràn lên những bờ cát trắng. Cô nhớ quán cà phê Sơn Ca da diết nhạc Trịnh phiêu du. Cô nhớ những hàng dương xanh thẫm phủ dài trên những đồi cát, mà buổi trưa cô cùng tụi trẻ con hay chạy chân đất để tìm quả khô. Đêm Đồng Hới quê cô thật thâm trầm, lắng đọng, ngọt ngào chẳng khác giọt mật ong im lìm ngủ ngoan nơi lòng bàn tay con trẻ.

Cô thấy sống mũi cay cay, nước mắt ngân ngấn. Kệ chứ! Cứ để cho nước mắt rơi đi. Đã lâu lắm rồi, cô không còn biết khóc. Nhiều khi, cô cứ nghĩ mình sẽ không bao giờ khóc được nữa.

Cô rẽ lên phía con đường Điện Biên Phủ, buớc vào quán trà Dilmah, tiếng nhạc ghi-ta vang lên bản Sa-kư-ra buồn lay lắt, cô thấy tâm hồn mình như được buộc túm lại, não nề. Hương hoàng Lan thoảng đưa lại, cô cố hít thật sâu rồi khẽ mỉm cười khi chợt nhớ đến mấy câu thơ của Bùi Giáng:

Bỏ trăng gió lại cho đời
Bỏ ngang ngửa sóng với lời hẹn hoa
Bỏ người yêu bỏ bóng ma
Bỏ hình hài của tiên nga trên trời

* * *

Mưa tạnh, gió vẫn thổi, từng đám lá vàng ẩm ướt nước mưa thi thoảng bật nghiêng mình rồi lại im lặng. Lá reo xào xạc trên đầu, kéo theo ánh sáng loang loáng của những chiếc đèn cao áp đường phố hất vào, nhìn chẳng khác gì những ngôi sao dát bạc. Bên kia đường là toà nhà lớn của Đại sứ quán nào đó, cô không biết tên, cô chỉ thích những cây chuối lênh khênh được cắt tỉa những tàu lá thật công phu trồng hai bên lối vào, nhìn chúng cứ là lạ.

Đã không ít lần cô lang thang đêm Hà Nội, nhưng sao mỗi lần lang thang ấy cô vẫn có cảm giác thèm đi nữa. Đêm Hà Nội cứ cuốn hút và ám ảnh cô đến lạ kỳ.

Người phục vụ bê thêm ly cafe đen đến, nhấp chút vị đắng đấy, cô nhớ lại những hình ảnh cũ khi mới bỡ ngỡ đặt chân lên mảnh đất sầm uất này.
 
Tiếng người phát thanh đọc to dõng dạc từng câu: "Chuyến tàu S2 sắp vào ga, mời mọi người tránh xa đường ray xe lửa…". Tàu hú dài, tiếng bánh xe nghiến lên đường ray ken két rồi ngừng lại. Đoàn người xuống vội, líu ríu gọi nhau. Kẻ đón người đưa, kẻ xách, người mang huyên náo cả sân ga, cô lẫn vào trong đám người.

Đồng hồ nhà ga chỉ 4 giờ đúng. Tàu đến Hà Nội chậm 30 phút. Chậm hay nhanh cũng không quan trọng đối với cô. Vì cô còn ngồi trong nhà ga đợi đến sáng cơ mà. Cô kéo ba lô đi về phía phòng đợi, yên lặng nhìn ra khung trời dần tảng sáng.

Vậy là cô đã đến Hà Nội, tờ giấy báo trúng tuyển trường đại học đã thôi thúc cô ra ngoài này. Ba cô theo người đàn bà khác sang Mỹ từ khi cô chưa ra đời. Hai anh một lần đi công tác ở Lào về thăm mẹ thì gặp tai nạn máy bay. Mẹ cô nghĩ quá nhiều nên bị điên, giờ đang điều trị ở Huế. Còn cô sống nhờ vào đồng trợ cấp đến hết tuổi 18. Giờ thì hết rồi, cô đã trưởng thành, phải tự kiếm tiền ăn học vậy.

Cô thuê nhà gần trường. Tiền ăn, tiền học, tiền sách vở thúc đẩy. Cô xin vào làm tại Vũ trường New Centery, một vũ trường nổi tiếng đất Hà thành. Vũ trường thật phức tạp, cô biết điều đó. Cô không tránh được những bàn tay sờ mó, nắn bóp của bọn đàn ông trên cơ thể, không thể tránh được mùi bia rượu của chúng phả nơi gáy, cùng những lời mời mọc ngọt ngào lẫn bặm trợn. Mới đầu, cô cảm thấy tủi nhục, cô thường chạy vào toilet khóc một mình và gọi mẹ. Về sau, cô không vậy nữa, gặp những chuyện nho nhỏ đó cô chỉ khẽ mỉm cười và quên đi nhanh chóng.

Vũ trường hôm đó xảy ra vụ scandal, một số tay anh chị đến quậy tưng bừng. Người quản lý sau một lúc thương lượng ngầm cũng giải quyết ổn thoả. Cô ra về muộn hơn mọi khi 2 tiếng. Cô mệt mỏi dắt xe vào con đường ngập đầy bóng đêm, tiếng rú ga ầm ầm từ xa vọng lại khiến cô phải tấp vào lề đường chờ cho dải xe đó đi qua.

Tiếng rú máy của dân đua còn vẳng lại, cô dắt xe xuống lề đường đề máy. Chiếc xe dở chứng kêu rè rè. Sáng nay, cô đã kiểm tra rồi cơ mà, sao lại thế này. Cô đạp máy, máy vẫn không nổ, đạp thêm mấy lần nữa vẫn vậy. Đêm, sương xuống dầy hơn, mồ hôi lấm tấm trên trán, cô thở dài dắt xe, bước chân trệu trạo, đầy ngán ngẩm.

Ba năm học và làm, cô đã tự mua một chiếc xe cũ của người quen, và có tiền ăn học. Ba năm sống ở Hà Nội, cô chỉ về thăm mẹ tổng cộng được chín ngày trong dịp tết, và rồi vội vã có mặt tại Hà Nội để đi làm. Tình yêu và các cuộc đi chơi của bạn bè là món quà xa xỉ mà cô không thể nhận. Thời gian, cô dành cả cho học trên giảng đường và đi làm. Điều này khiến bạn bè trong lớp luôn cảm thấy cô khó gần, nhất là cánh con trai, chẳng ai dám bắt chuyện, cho dù cô đẹp, một vẻ đẹp kín đáo với đôi mắt nâu bình thản.

- Chị cần tôi kéo xe cho không? - Tiếng nói thoảng nhẹ như tiếng gió

Đang dắt xe, cô giật mình quay sang thấy một người con trai lịch sự trong bộ veston tối màu, ngồi trên chiếc Dream II nhìn cô. Cô thầm cảm ơn thượng đế rủ phép nhiệm màu. Cô mừng rỡ:

- Vâng, anh làm ơn giúp tôi với. Xe của tôi không hiểu sao lại không đi được

- Chị nắm tay tôi được không. Tôi sẽ kéo chị. - Chàng trai nhìn cô, ánh mắt thoảng gió.

Cô cười, đáp:

- Được chứ!

Người con trai đưa cánh tay trái cho cô nắm vào. Người cô như có luồng điện chạy khắp sống lưng. Một bàn tay thật lạnh, lạnh như đá. Cô nghĩ đến bàn tay của những con ma đói đi trong đêm. Cô run rẩy, lắc đầu xua tan ý nghĩ đó.

- Tay chị ấm quá, lại mềm nữa.

Cô khẽ cười không đáp.

- Chị đi làm về muộn thế không sợ ai bắt nạt sao?

Cô lắc đầu, mỉm cười.
 
Hai chiếc xe máy đi chầm chậm bên nhau, người con trai nói chuyện với cô thật tự nhiên.

- Tôi tên Vũ, Vũ có nghĩa là mưa, chữ Hán viết nét ngang ở trên trời, nét cong là mây, chữ thuỷ ở giữa nét cong chỉ nước mưa từ trên mây rơi xuống.

Cô cười, nghĩ Vũ thật vui tính.

- Đêm nay sao thật sáng chị nhỉ. Chị có biết những ngôi sao sáng loá bay ngang qua trời kéo theo những chùm ánh sáng nhỏ phía sau không? Người ta nói có sự ra đi của một kiếp người, còn đám học trò mơ mộng thì biến cái đó thành điều ước về tình yêu. Riêng tôi, tôi nghĩ những ngôi sao đó là những vì sao lang thang, lang thang như tôi vậy. Trong dải ngân hà có hai trăm ngàn tỷ ngôi sao mà dải thiên hà thì không biết bao nhiêu mà đếm. Dải thiên hà đó có bao nhiêu vì sao lang thang nhỉ? Chị có biết không? Chắc chị cũng không biết đâu. Và tôi cũng như chị, cũng không biết.

Chị thấy trăng thượng tuần có đẹp không? Tôi thấy nó quyện với mùi hương hoàng lan và hoa sữa còn vương lại, hương không nồng nàn như mùa thu, chỉ thoang thoảng thôi. Cả hương của chợ hoa đêm Quảng Bá nữa, huyền diệu phiêu linh, ở đó lung linh sắc hoa, sự tinh khiết của hoa huệ và cúc trắng, tiểu thư như hoa baby, man dại như Thuỳ Dương và dù quê kệch như đám lau rừng cũng làm tôi rất thích

Cô nhìn sang Vũ, ánh mắt anh như đang ở trong cõi hư vô, anh nói như cho chính bản thân mình. Cô nhìn Vũ lâu hơn khiến chút xíu nữa xe cô đâm vào lề đường. Cô giật mình, hốt hoảng kêu khẽ: "Ôi, lạy Chúa tôi!".

Vũ mỉm cười, một nụ cười thật hiền nhưng nghe ren rét trong đêm lạnh. Nụ cười phảng phất sương đêm. "Anh ấy thật đẹp" - cô nghĩ - "Một vẻ đẹp sương khói". Tiếng Vũ thoảng nhẹ cắt dòng suy nghĩ của cô:

- Ta dừng lại ở đầu phố kia nhé, ở đó có người bán xăng đấy, xe cô chỉ hết xăng thôi.

Cô dắt xe lại lề đường, người bán xăng lẻ đang ngủ gà ngủ gật bên chiếc ghế, cô đánh thức ông ta dậy. Người đàn ông uể oải ngáp dài, nhìn cô:

- Cháu đổ xăng hả?

- Dạ!

Người đàn ông vừa đổ xăng vào bình xe, vừa nhìn cô ái ngại:

- Cháu dắt xe xa không, đi công việc gì đêm hôm cho khổ.

- Dạ, cháu đi cùng bạn.

Người đàn ông nhét tiền vào túi:

- Ừ, chú tưởng… mà bạn cháu đâu?

Quay lại phía sau, cô nhìn xung quanh chẳng thấy ai ngoài mấy quán cóc nho nhỏ ven đường lập lờ ánh sáng nhờ mấy chiếc đèn dầu leo lét.

Cô khẽ gọi:

- Anh Vũ ơi!

Người bán xăng nhìn cô rất lâu, hỏi nhát ngừng:

- Bạn cháu... có phải... cậu con trai... mặc bộ veston tối màu không...?

- Dạ vâng!

- Cậu ấy tên Vũ..

- Dạ, chú quen anh ấy?

Người bán xăng lắc đầu, giọng run run:

- Không...

- Vậy sao…

- Thế này cháu ạ - người đàn ông kể - trong đêm nay tôi bán xăng cho cháu là người thứ ba rồi.

Người đàn ông thở dài đánh sượt rồi ngập ngừng kể:

- Cách đây không lâu, vào ngày đầu tháng, bọn đua xe gây ra một vụ tai nạn trên đường này… Lúc đó cũng vào nửa đêm... tôi đã vuốt mắt cho cậu ấy. Về sau tôi được biết cậu ấy tên là Vũ, sinh viên Mỹ thuật. Thật tội nghiệp! Cậu ấy còn trẻ quá.

Cô nhìn xuống tay mình, cảm giác giá lạnh của bàn tay Vũ vẫn còn đấy, cô run rẩy đưa bàn tay lên môi, bật khóc.

*

* *

Hà Nội vẫn đẹp và huyền diệu về đêm. Cô nhìn lên bầu trời, ngàn vì sao vẫn lấp lánh, có những ngôi sao chợt lóe sáng lướt qua bầu trời rồi vụt tắt, dù sao cũng là lãng quên một nơi này để đi về một chốn khác, cô khẽ nhủ thầm: Vì sao lang thang.
 
NỔI ĐAU ĐẦU ĐỜI

- Vốn là một cô bé tinh nghịch, hiếu động, lại xinh xắn, dễ ưa nên từ lâu, tôi đã lọt vào mắt xanh của không ít người bạn trai. Tính tình tôi cởi mở nên tôi giao lưu với khá nhiều bạn bè. Tình cờ , tôi gặp anh- một chàng trai thông minh với mái tóc bồng bềnh mà theo tôi: nó thật ấn tượng. Chúng tôi chơi với nhau, thân thiết, gắn bó. Thời gian cứ lặng lẽ trôi mà đối với tôi, đó là một quãng thời gian đẹp đẽ, thơ mộng nhất của một cô bé với những rung động đầu đời.
- Nhưng rồi, một ngày kia, cái tuổi thơ êm đềm của tôi đã có một sự biến động dữ dội. Anh theo gia đình sang Úc lập nghiệp. Tôi bàng hoàng khi nghĩ đến giờ phút chia tay. Và đối với tôi, đó chỉ như là một giấc mộng, đúng hơn, một cơn ác mộng. Có một điều làm cho tôi đau khổ hơn thế nữa. - Tôi biết, tôi đã mang trong mình một hình hài bé nhỏ, một sinh mệnh thiêng liêng mà chúa trời đã gửi tặng cho những tháng ngày êm đẹp của tôi. Anh đi. Tôi như bừng tỉnh. Tuổi 15! Vâng ! Cái tuổi ngọt ngào, thơ ngây, trong trắng và tròn vành vạnh như vầng trăng sáng lung linh giữa bầu trời mênh mông, rộng lớn. Những ngày tháng sau đó của tôi là những ngày mà tôi sống trong nỗi lo lắng, sợ hãi. Mẹ biết…mẹ không cho phép tôi giữ đứa trẻ và bắt tôi phải ruồng bỏ đứa trẻ khỏi thế gian này. Tôi khóc lóc van xin mẹ…Trời ơi ! Tôi không thể bỏ đứa con đầu đời của tôi được. Lương tâm không cho phép tôi làm như thế. Nhưng… tất cả những giọt nước mắt của tôi đều trở nên vô nghĩa trước sự dứt khoát và cương nghị của mẹ - người phụ nữ dày dạn kinh nghiệm của trường đời. Thế là hết…những ngáy tháng còn lại là những chuỗi ngày dài đau đớn với bao nỗi dằn vặt, xót xa trong tôi.
- Tôi sống như cái bóng.
-Ôi ! Đứa con đầu đời bé bỏng của tôi !Trời ơi !…
- Con ơi ! …
- Mẹ mất con rồi !Con ơi !…Con !…
- Tất cả đối với tôi lúc ấy là một nỗi đau đớn, tuyệt vọng, xót xa. Cứ mỗi lần nhắm mắt lại, hình ảnh đứa con bé bỏng, vô tội ấy lại hiện lên trong tâm tư tôi. Tôi đuổi theo…Tôi kiệt sức…Bao đêm vẫn cứ thế trôi qua. Cái không gian vắng vẻ, lặng ngắt của màn đêm làm tôi khiếp đảm. Tôi sợ hãi. Hình ảnh đứa con luôn là nỗi ám ảnh trong tâm trí tôi.
Mẹ - người đã thấu hiểu tất cả những nỗi đau của tôi. Bởi, mẹ cũng đã có một thời con gái, từng trải qua cái tuổi mơ mộng, dại khờ. Mẹ đã an ủi, động viên tôi, nâng bước tôi lên, kéo cái thể xác của tôi ra khỏi vũng bùn đen tối mà tôi tưởng chừng không có có lối thoát. Tôi tưởng như mình sẽ đầu hàng, sẽ kiệt sức, sẽ gục ngã. Nhưng- chính cái lúc tôi thấy mình kiệt sức lại là lúc tôi hiểu cuộc đời này đẹp đẽ biết nhường nào. Tôi cố hết sức -cái sức lực đã quá tàn tạ và mong manh để mà giãy giụa, thoát ra khỏi vũng bùn đen tối đang cố nhấn chìm tôi xuống. Và- nghị lực sống đã giúp tôi chiến thắng.
- Tôi hiểu rằng: Tôi chưa mất hết niềm tin. Một con đường dài vẫn đang chờ tôi ở phía trước. Thượng đế đã sinh ra con người và mỗi con người được sinh ra là để lại một dấu ấn đẹp cho cuộc đời chứ không phải để tan biến vào cát bụi.

Câu Chuyện Này Là câu Chuyện Có Thật

Đỗ Ngọc Dương
 
Bên mọi cuộc đời_Quỳnh Linh

- Thôi nghỉ đi Rặt ơi! - Vu lẳng cái xẻng ra xa. Hội nghị đầu bờ nha!
Rặt cười thật tươi, nhô lên sau khóm phong lữ thảo, nhỏ nhẹ nói - Chờ chút, tỉa hết chân khóm là em lên ngay.
- Thôi! Cứ thân làm tội đời. - Vu vùng vằng. Tính Vu là vậy, nếu không ưng là đá thụng đụng nia, nhăn nhó, rất khó coi, nhưng Rặt quen và hiểu tính nên không lấy đó làm điều phiền lòng. Vậy thôi nhưng mà hiền, biết thương, hôm nay lại mang đồ ăn ra tận ruộng cho Rặt đấy. Nhà Vu giàu, bố Vu trên thành phố không rõ buôn bán gì nhưng bộn tiền lắm, lại hiếm hoi có mình Vu nên Vu có tiếng được chiều nhất xóm. Còn Rặt, nhà một đống người. Chỉ tại bố mẹ ham có cái mấu để "mắc tên nối họ" nên cứ cố mãi, càng cố càng khổ. Mẹ bảo, trời không thương, đến Rặt là cái rặn cố thứ sáu mà vẫn là con gái. Ngày mẹ sinh, bố vào ngó cái rồi bỏ ra luôn trước khi buông một câu: Đúng là cái số rặt con gái. Cũng từ ấy cô có tên Thương. Mẹ nghĩ xót phận mình, thương con hẩm hiu nên đặt vậy. Nhưng cả làng gọi cô là Rặt, bắt đầu từ câu chuyện cười của bà đỡ. Bù lại nỗi thất vọng của cha, tình thương yêu của mẹ, Rặt lớn lên ngoan, lành. Ai nói thế nào cũng được, cô thường chỉ cười. Học hành chăm chỉ, những tưởng cô có thể đậu vào một trường dạy nghề nào đấy, nhưng cha bảo, con gái lớn đừng có phấn đấu nhiều quá mà nó nát ra. Nhỉnh hơn, tao gả quách cho thằng nào kiếm vài mâm - Cha Rặt vừa nói vừa nhìn ra ngoài sân, chả hiểu ông đùa hay thật nhưng Rặt sợ. Cô không dám giao du với ai, sợ cha ưng mắt lại tính chuyện gả thật. Cô chỉ chơi với Vu, cái đứa con trai vạm vỡ, học giỏi gần nhất làng.
Mẹ bận bịu, chỉ biết dạy các con, phận gái nhờ nhà chồng, chơi với ai nhớ nhìn cho kỹ. Giờ lắm tệ nạn lắm; rượu chè hút hít, mới nhìn không biết thế nào đâu. Rặt cười, trẹo giọng: Mẹ ơi, rượu thì có nhưng như bố mẹ vẫn chịu được đấy thôi. Còn hút chích hay ở chốn thị thành. Chứ quê nghèo lấy gì mà hút. - Mẹ cứ lo thế, đừng có chủ quan. Bỏ lại đằng sau lời mẹ, Rặt chạy ra cổng. Số phận thế nào lại lao phải Vu đang vác bó rọc mùng to tướng, vô tình cứu Vu thoát nạn. Chỉ một tích tắc thôi, nếu Rặt không làm chệch bước Vu thì cái xe máy của mấy thằng con trai mới lớn trong làng đang lao xuống dốc như điên thì đứt phanh lao thẳng vào Vu.
Sau bữa ấy, Vu càng mến Rặt, bỏ ngoài tai lời đàm tiếu không môn đăng hộ đối của bàn dân thiên hạ. Rặt nghĩ mình có được người trai mà gái cả làng thèm muốn thì mừng lắm. Chỉ buồn mỗi chuyện, năm vừa rồi thế nào mà Vu thi đại học không đỗ. Chắc tại chọn trường cao điểm quá.
"- Thế nào, nguội hết cả rồi". - Vu vùng vằng, chạy tới kéo Rặt lên bờ, vô tình kéo cô ra khỏi vùng ký ức. "- Ngẩn ngơ thằng chết tiệt nào thế? Ngồi xuống ăn đi, rồi tính". "- Tính gì". " - Tôi đã bảo rồi đấy, tôi thích Rặt, phải lo cho mai sau thôi". "- Hôm nay nói hay nhỉ?" - Rặt cười cười. "- Cười gì. Nhìn chúng nó kìa. Đứa đại học, đứa nhập ngũ, đứa học nghề, đứa chạy xe kiếm tiền cả rồi".
Rặt định vặc lại Vu, nhưng thấy vẻ mặt nghiêm túc bất thường lại thôi. Cô ngẩn ra. "- Tôi đang tính lên thành phố ôn thi, rồi kiếm cái trường dạy nghề nào đó. Rặt thấy tính thế được không?". "- Thế là sao?". "- Nghe nãy giờ mà không hiểu gì hả?". - Vu vớ cái xén xém vào bụi cây. "- Tóm lại là Rặt có đi với tôi không? Tôi không để Rặt khổ đâu?". "- Ai cho đi?" - Rặt nhíu mắt, nhìn hút vào đôi môi Vu đang dẩu lên. "- Cứ đi". "- Tiền đâu?". "- Không phải lo mà lị. Mai đi. Về lo xin phép, gói ghém nhá". "- Ơ…" - Rặt với tay níu hụt, Vu đã lao đi tìm xén. "- Khổ chưa, ai bảo ném. Mà mai không làm nữa thì còn tìm làm gì". - Rặt nói dỗi. "- Tìm cho đứa khác làm". - Vu nhấm nhẳn. Rặt cười, thấy Vu hay hay. Chỉn chu hả? Mười tám tuổi, lớn thật rồi. Rặt tin Vu, dựa vào Vu được không? Rặt về nhà, bệt mông xuống thềm, ngồi nghĩ ngợi lung tung. "- Ngồi cho mục đấy à? - Tiếng mẹ róng riết. - Mi có biết thằng cha mi chết ở chỗ nào không? Đi tìm về cho tao. Tao đang bốc hoả đây".
Rặt đứng dậy, nhưng không đi tìm bố. Làm sao mà biết ông say rồi tạt vào khóm nào mà ngủ đây. Cô ra sau nhà gánh đôi ba thùng lội ra vườn rau. Nắng đã xiên ngang tán mát mát. Những hạt nước nhảy nhót trên từng bắp sú. Rặt phải tưới thế này cho nước ngấm, trưa nắng dãi thì sáng mai bắp sú mới nở bung. Rặt định bụng ém mấy hôm nữa mới bán cho qua đận rau rẻ, nhưng thế này thì…
Về cuối ngõ, Rặt gọi: " Vu ơi…". Vu ôm bát loa cơm chạy ù ra, vừa chạy vừa nhai lấy nhai để: "- Chuyện gì?". "- Có thay đổi không?". "- Không!". "- Thế thì…". "- Bán rau chứ còn sao". "Được, định kiếm thêm chút hả. Lên đó Vu vừa học vừa làm thuê nuôi Rặt. Có Vu lo gì!".
Có Vu lo gì. Rặt vẫn lo, biết làm gì ở xứ đông người ấy, nhưng cứ thử xem sao. Người làng vẫn bảo, giàu nhà quê không bằng lê la hè phố mà. Vả lại ở nhà Rặt thấy bức bối quá, cô cảm giác mình đang muốn phá phách gì đấy. Thế là Rặt theo Vu…
Ban đầu mẹ cuống lên đi tìm. Nhưng vài hôm đã nhận được thư Rặt, cô viết rằng đã tìm được việc ở thành phố, mai mốt có tiền mang về. Bố tỉnh chút ới ới gọi Rặt rồi lại đắm vào rượu. Mẹ tối mắt với hết cái lo này đến nỗi sợ khác. Con gái đương thì cả một lũ. Chỉ chông chênh bám bíu vào chuyện Rặt không đi một mình và mẹ Vu lại đã sang có lời.
Mấy ngày đầu Rặt ở nhà Vu thuê. Số tiền bán rau lo ăn được mấy bữa. Vu tốt thật, Rặt nghĩ thế khi thấy Vu nghiêm chỉnh không có ý lấn lướt gì cô, trai gái dậy thì, ở phòng riêng nhưng Rặt không phải trông chừng gì. Chỉ có duy nhất một lần Rặt thấy Vu đổ ập vào người, ôm riết lấy, bất ngờ, nhưng Rặt chưa kịp kêu lên thì Vu lại buông tay, chạy ù ra ngoài. Rặt nghĩ Vu giữ cho mình nên càng yên tâm hơn. Vu còn bảo, vài bữa nữa gặp bố rồi thì cần gì cũng có.
 
Tìm mãi vẫn chưa có việc, Rặt buồn lang thang. Vu nói chờ rồi Vu tính. Chẳng biết Vu đi tính ở đâu mà suốt từ sáng đến tối xì. Rặt buồn chả nói chuyện được với ai. Nhà đi thuê, bên ngoài thấy ồn ĩ nhốn nháo vậy, nhưng thực mỗi phòng là một khoảnh riêng tư. Ai làm gì thì làm, cần thì đóng cửa, lấy giấy nhét kẽ hở, lấy báo che lỗ thông gió cũng được. Ai cũng vờ không để ý. Ở yên, miễn là không ngó ngoáy chọc vào chuyện người khác.
Một buổi tối chờ mãi không thấy Vu, Rặt ra cổng ngóng. Mùi xú uế bốc từ cống nước thải toen hoen làm cô muốn oẹ. Chợt có một làn gió lạ mơn man mang mùi nước hoa gợi dục ập vào mặt Rặt. Cô nhìn hút theo bóng đôi uyên ương vừa qua. Người đàn ông thỉnh thoảng lại tụt lại phía sau. Hình như ông ta già hơn cô gái, cứ cố bước nhanh được mỗi quãng ngắn lại dừng, gọi cô gái bằng thứ tiếng rất lạ, cô gái chững lại, gật gật xoa xoa tay…
Hôm sau, Rặt kể, Vu nói: "- Rặt cẩn thận! Ở thành phố có người xấu bụng hay săn con gái bán cho Đài Loan. Họ đưa thằng con trai đẹp mã ra gạ, nhưng cưới xong sang bên nước họ rồi mới biết chồng mình là người khác, vừa già vừa xấu, lại nghèo, có khi còn đui què mẻ sứt ấy chứ… Vu đi vắng không trông chừng được, đừng có tin ai". Rặt ngả vào người Vu. Hạnh phúc khi Rặt có Vu phải không. Vu đây, cao to, đầy sức trẻ, rất lo cho Rặt và ở gần. Rặt còn lo gì nữa. Nhẹ nhàng Rặt đi vào giấc ngủ.
Sáng ra Rặt chẳng thấy Vu đâu. Dở trưa, có một bà tóc bạc đến đưa cho Rặt một mẩu giấy. Vừa lúc có tiếng bà chủ cho thuê nhà oang oang đầu ngõ… "Nào tiền ơi đóng đi. Không thì tôi đuổi đấy". Bà ấy xộc vào phòng, xỉa vào mặt Rặt: Ôi a, đây mà chả thưa lấy một tiếng. Tí chị dọn đi thì nhớ đưa chìa khóa cho tôi nhé. Gớm chơi đẹp đẹp là. Chọn được chỗ mới không phải ỉa chung rồi hả. Anh nhà thanh toán hết, báo trả nhà rồi.". Rặt mở vội mảnh giấy. "Rặt à, có chuyện. Vu phải đi chạy hàng cho ông bác gấp. Ta cố chuyến này kiếm một cục, để tính cưới. Hôm nay lại hết hạn thuê nhà, Rặt cứ đi theo bà cụ này nhá, bác Vu đấy". Rặt ngẩng lên, gặp nụ cười hiền của bà tóc bạc. Rặt gật đầu. "Có thế chứ" bà chủ nhà te tái đi ra. Không biết bà cụ tóc bạc có hiểu hết ý tin cậy và đường cùng của Rặt không nhưng bà tóc bạc vẫn cười, nụ cười dường như không tắt suốt từ lúc nhìn thấy khuôn mặt trẻ trung xinh xắn của Rặt.
"- Đi đâu bây giờ?" - Rặt thở ra. "- Cô cứ theo tôi, với anh Vu chứ ai mà lo…". Rặt luống cuống sắp mấy thứ đồ bỏ vào balô, gọn ghẽ như khi mới lên.
Bà tên là Cười - Không biết thật hay đùa nhưng bà tóc bạc nói vậy - Cậu nhà gửi gắm rồi, cô an lòng. - Ta đi xe buýt chuyến tới, ra ngoại ô là có xe chạy hàng với Vu. Ăn đi đã. Rặt ăn trệu trạo cái bánh bà Cười đưa, ngẩng lên đã thấy cái xe Daewoo mui kín trờ tới. Trời chập tối. Rặt không nhìn rõ hai bên đường, đầu cô chập chờn câu: Vu đang đợi, rồi tự an ủi, động viên mình. Bà Cười từ lúc lên xe cũng không nói gì nữa, nhắm mắt ngủ. Rặt không hiểu tính bà quen thế hay sao mà tay bà cứ gác lên người cô. Nể người già cô đành im lặng, nhưng chỉ một lát sau cũng ngủ gục, với mộng mị nhập nhoà giữa những đường nét giãn nở, sóng đổ bên mắt, khoé môi của bà Cười và người mẹ vất vả. Bà Cười vả vả vào má Rặt cũng không biết gì, liền phẩy tay: - Ngấm thuốc rồi. Cho xuống đi chú tài. Người lái xe giật phanh, im lặng. - Cứ như thế! Bà Cười văng một câu tục theo cú nhẩy nhanh nhẹn như một con báo lọc lõi, rồi nhanh chóng mất hút phía sau. Chiếc xe lao toạc màn đêm.
Sáng sau, Rặt tỉnh lại trong một căn nhà nhỏ giữa rừng. Ánh nắng lấp loá trên những tán lá dầy. Hơi lạnh cùng mùi lá mục cây ẩm bốc lên cho cô một chút quen thuộc, như ở giữa vườn nhà trong một buổi chiều muộn. Khoảnh khắc bình an trôi đi rất nhanh. Cô tá hỏa kêu lên khi đưa mắt nhìn ra xung quanh, chỉ có cây rừng và lá mục. Có ai không? Tôi ở đâu thế này? Tất cả chao đảo trong đầu: "Vu ơi… Ai thưa tôi đi…". Không có ai trả lời Rặt. Cô định lao ra ngoài nhưng bất ngờ ngã ngửa ra nền đất mốc bẩn.
" Cô không đi đâu được đâu". Tiếng nói lạ làm Rặt quên đi cái đau ở đầu. Cô hoảng hốt quay lại: "- Ông là ai, tôi đang ở đâu?". "- Cô sắp đến nơi người ta cần cô. Ăn đi rồi ta đi tiếp". - Con người nhỏ thó nãy giờ vẫn ngủ ở góc nhà, tay nắm đầu xích sắt, mà Rặt không biết, tung cho cô nắm cơm. "- Quân dã man. Anh Vu ơi… Vu…" - Rặt gào lên… - Vu nào. Chắc cái thằng bán quách cô rồi. Tôi cũng chỉ là người mua lại, bán đi thôi. Lão nhỏ thó lao tới nhấc bổng Rặt lên, ném ra cửa - "Tí nữa mày ngủ thôi. Thở tí đi. Qua mấy đêm rồi khờ ạ. Tao cho tỉnh là để nuốt cái gì vào họng. Muốn sống thì cố!" "- Không… Rặt gào lên. Tôi sẽ…" "- Làm gì? Mày có biết đây là đâu không? Qua biên giới rồi. Người ta sẽ đến chọn mày bây giờ. Không quá năm thằng đâu. Ưng thì gật, không có thì đứa nó đánh róc thịt nghe chưa". "- Sao các ông bắt tôi…". Rặt tiếp tục gào một cách vô vọng.
Lão nhỏ thó cười khẩy, đưa mắt ngóng qua những tán lá, vẻ chờ đợi: "- Tìm thư trong túi áo ấy!"
 
"Rặt ơi, tôi biết lỗi tôi rồi. Tôi thương Rặt, tôi thương Rặt thật lòng. Tôi không muốn thế. Nhưng tôi không làm thế thì tôi cũng chẳng thể ngồi viết mấy dòng này Rặt ạ. Đời tôi thế là hỏng rồi. Tôi cần tiền nên bán Rặt, coi như tôi hại Rặt. Nhưng cũng là tôi giải thoát cho Rặt, để Rặt xa được cái thằng đốn mạt là tôi. Rặt vẫn bảo, không biết nó thế nào, nó ở đâu phải không? Vậy thì nó là thế đấy, nó ở chính cuộc đời tôi, cuộc đời Rặt đấy. Cái bầu trời đen của những bóng ma tuý vật vờ đang chụp lên đời chúng ta. Tôi phải làm vậy vì như thế may ra Rặt còn lấy được thằng dù đui què mẻ sứt nào nhưng cũng là con người. Còn ở với tôi, chỉ là một con quỷ đói thuốc thôi. Một con quỷ có thể lúc nào đấy sẽ kéo Rặt vào địa ngục của những làn khói trắng của những cảm giác ảo mất Rặt à. Chả còn biết nghĩ gì đâu. Như cha tôi ấy. Con người cả làng ngưỡng vọng ấy cũng là một con qủy đói thuốc đã tiếp tay hại bao người để trục lợi rồi đẩy chính con trai mình vào vòng cảm giác ảo đầy lao khổ. Trong cơn đói thuốc ông đã đẩy tôi ra đường với những viên gây nghiện. Tôi những mong chúng ta tới một mảnh đất mới dựng một cuộc đời riêng hạnh phúc, gạt hết những xấu xa quanh mình. Nhưng tôi đã không thể. Chúng ta không thể nằm bên ngoài cuộc đời của bao người khác. Rặt như tất cả trước hết cần phải đáp ứng những nhu cầu rất thường nhật. Tôi đã cố gắng, nhưng không được. Và vào cái lúc đứng trước ngưỡng người và quỷ đấy, tôi đã lại để cho ông bán mình. Tôi thương ông ấy không muốn ông ấy chết vật giữa đường. Còn Rặt có chút nào thương tôi lúc này không…"
Rặt lồng lộn, hò hét trong gian buồng chật hẹp một hồi rồi ngồi ôm mặt khóc như trẻ nhỏ. Vò nát mảnh thư, Rặt như thấy ai đang cào cấu gan ruột mình. Ma tuý, nỗi ám ảnh đi bên mọi cuộc đời, mà nhiều khi ta cứ tưởng hay ta thờ ơ mà nghĩ nó xa vời tận đâu đâu. Giờ đây, nó hiện hữu, nó in dấu lên mọi cuộc đời sao mà rõ ràng, đau đớn thế. Chỉ một phút thiếu tỉnh táo, một phút dại khờ, hay chỉ là cái cách hững hờ với cuộc đời thôi, đã phải gánh chịu, trả giá đắt… Rặt nghĩ, thương Vu từng ấy ngày sao Rặt không nhận ra, chỉnh hướng. Chỉ lo xét cái cách Vu chiều cô. Rồi mẹ bảo không nghe. Thương người mà hững hờ với người quá. Còn Vu, sao lại cạn tình, bạc đời, mất hết niềm tin thế Vu. Rặt thôi gào. Có gì rào lên nơi cổ. Cô muốn oẹ mà không oẹ nổi. Ngoài kia gió vẫn từng hồi thốc vào căn nhà nhỏ, cuộn lại rồi bung ra như muốn bốc tất cả lên không trung. Lấy hết sức bình sinh, Rặt nhao cả hai tay túm chặt lấy cây cột cái. Mình phải sống! Cô tự nhủ trước khi chìm vào cơn mê sảng".
Trước những người lính biên phòng, Rặt chỉ kể được có thế. Cô thèm nghe tiếng người, tiếng xôn xao ngoài hiên đẫy gió và nắng mới./.
Theo Quê hương
 
Mùa Thi_Nguyễn Ấu

Để "trả nợ" cho cơ quan - Tôi "rớt" vào lớp luyện thi chứng chỉ A Anh Văn theo kiểu "gió đùa ngọn cỏ". Tôi thấy mắc cỡ vì ... mình già quá! Đã hai mươi tám tuổi đời rồi, mà tôi chẳng có cái bằng cấp nào có thể giữ cho tôi một chỗ đứng tạm vững chân trong cuộc đời . Cứ mỗi khi tôi "lượm" được một chiếc giấy chứng nhận hay một tấm bằng nào đó thì ... thiên hạ đã bắt đầu nhìn nó bằng nửa đuôi con mắt nheo chê đứt! Vậy là ... lại bắt đầu chuyến "viễn du cùng tưởng tượng" với công dã tràng (cho đến cuối cuộc đời chắc). Mệt đứt hơi!
Nó thì có ưu thế hơn tôi nhiều - Nó còn trẻ - Mới hai mươi hai tuổi, dễ nhìn, dễ thương nhưng lại khó gần! Mà tôi thích nó! Nó nói chuyện tự nhiên với tất cả mọi người, đôi khi cười ra vẻ vui thích lắm, nhưng...đó chỉ là xã giao . Trái tim của nó đóng cửa kín bưng. Tôi cảm thấy và tin chắc như vậy . Chẳng ai biết chút gì về nó, ngoại trừ một cái tên.

Vậy mà có lần đứng ở hành lang chờ đợi ông thầy đi dạy trễ (vì bất kỳ lý do nào đó có thể có), nó lại trầm ngâm, bẻ nhè nhẹ ngón tay tôi:
-Chị thích em, có phải không?

Tôi trả lời theo thói quen ậm ờ của "người lớn":
-Ai nói ?

Nó nghiêng đầu, cười thật hồn nhiên:
-Mắt chị, nhìn vào mắt chị em đoán được.

Tôi hơi bực mình vì sự thông minh của nó.
-Có sao không vậy ?

Lần này thì nó cười thành tiếng:
-Không! Em cũng thích chi..

Mấy tiếng "Em cũng thích chị" nó phát âm thật rõ ràng và bình thản, không tự ái dấu che . Đó là ưu thế thứ hai của nó- Sự chân thật!

Mọi người ở lơ"p hỏi tôi "Diên quen thân với nó lắm ha?? Nhỏ đó có vẻ kiêu kiêu!" Tôi mỉm cười "Tôi thích nó!" Thiên hạ nhún vai, nhưng mà tôi hài lòng, bởi vì ... tôi đã mạnh dạn cởi bỏ lớp mặt nạ tình cảm của mình. Nhờ nó đấy .

Gần cuối khóa, sắp thi . Nó thỏ thẻ với tôi:
-Chị lo lắm ha??

Tôi cười cười:
-Không phải lo mà là ngại, chị không có đủ thời gian để bắt đầu lại ở bất cứ mọi cái . Với lại, chị cũng có cái tự ái của chị nữa chứ!

Nó chớp mắt:
-Em không sợ!

Nhìn vào mắt nó tôi thấy đằng sau mấy cái "Em không sợ" là cả một quá trình vật lộn, ít nhất nó cũng phải trải qua vài lần ngã đau và bây giờ đã tự biết xoa thuốc đỏ cho các vết thương.

Mặc dầu tôi với nó giống nhau về mặt cơ bản, cũng là dân "học nhảy"-Học chưa xong chương trình đã vội ôn thi . Kiến thức thì lem nhem đầy lỗ hổng, thời gian thì đứt đoạn, học nửa chừng, bỏ mặc đâu đó vài ba năm, trở lại học tiếp (vậy mà dám "chễm chệ" ngồi vào lớp luyện thi). Ông thầy vẫn nhìn chúng tôi bằng nửa mắt chê bai cộng với nửa mắt nghi ngờ. Mấy nhỏ này đi thi cầm chắc động từ "rớt". Nhưng ... nó có vẻ thông minh, tự tin, còn tôi thì không!

Cái hôm trước khi chia tay ai vào phòng thi nấy, nó còn cười cười với tôi:
-Chị yên tâm đi, chúng ta sẽ đậu mà. Dĩ nhiên là ở mức điểm trung bình thôi .

Nó đoán trúng. Chúng tôi qua được vòng một một cách êm thấm. Còn lại vòng hai . Tôi thấy ớn nhưng nó an ủi:
-Em không sợ và chị cũng không sợ, có phải không?

Có trời biết được phải hay là không. Thực tình là tôi sợ thì ít mà... mắc cỡ thì nhiều . Lũ bạn ở cơ quan, chúng nó sẽ cười tôi nếu tôi bước trở lại từ đầu . "Ê" lắm!

Rồi vòng hai cũng qua . Lại đậu . Lại trung bình. Nó rủ tôi đi ăn kem. Ngồi ở quán kem, nó nhìn ra ngoài trời, mưa nhẹ, rưng rưng như nỗi nhớ trong mắt nó:
-Trước kia em học giỏi lắm, chị tin không?

Tôi nghe lòng mình nghẹn thắt. Ai mà chẳng có một thời . Nhưng rồi, thực tế cuộc đời cọ xát mãi, con người ta đâm "khờ khạo" dần vì chóng mặt, vì cứ phải quay đôi chân nhỏ bé theo vòng quay cuộc đời và thế là... học hành tạm bợ chỉ để đối phó, để "trả nợ", để...Tôi nghe giọng nó nói mà như nghe giọng của mình:
-Trước kia em ham học lắm, và cứ mỗi lần vào mùa thi em lại hy vọng, toàn là những hy vọng xanh dễ thương- Nhưng mà...

Tôi siết tay nó, lúc này thì đứng trước tôi, nó ngây thơ lắm:
ĐDừng buồn, còn cả một mùa thi dài dành cho chúng ta mà, cái mùa thi trường đời gai góc hơn nhiều, và khó "đậu" lắm. Nhưng lại không được để rớt. Em có hiểu không?

Nó ngước nhìn tôi, mắt đã ngân ngấn nước:
-Em biết. * **

Nó bắt đầu có việc làm chính thức, dầu chỉ ở dạng hợp đồng và thu nhập không cao, nhưng tạm sống được. Nó tìm tôi chỉ để hỏi:
-Chị học nữa không? Để thi tiếp chứng chỉ B đó mà.

Tôi hơi mệt mỏi:
-Có lẽ học.

Nó nghiêng đầu:
-Phải chắc chắn chứ, học để còn có thể dự thi ở trường đời nữa . Xác suất đậu ở đây thấp lắm! Em chờ chi..

Nó quay đầu xe, đạp nhanh sau cái vẫy tay . Đã lâu rồi tôi mới lại có một ai đó chờ đợi mình cùng vào mùa thi . Dẫu không có phượng, không có lưu bút, không có giọt mực rớt vô tình làm lem áo, nhưng tôi vẫn thấy xôn xao . Mùa thi! Cám ơn em, cô bé nhỏ nhắn, chân thật đã đứng đợi tôi ở trường thi với một bản ngã tự tin. Tôi sẽ nhập cuộc, nhất định lại nhập cuộc để cố gắng chiến thắng nó - Cái mùa thi trong và ngoài cổng trường xanh xanh lá cỏ
 
Cuộc chia tay cuối cùng_ Hương Giang

Người đàn bà chợt thấy đau nhói trong lồng ngực, cơn đau mỗi lúc một dữ dội bóp nghẹt trái tim. Dòng nước mắt lặng lẽ chảy vào trong... Chị bỗng tiếc, một nỗi tiếc nuối rõ rệt chứ không mơ hồ như hạnh phúc mà cuộc tình vụng trộm đã mang lại cho chị.

Tia nắng vàng rực rỡ của buổi sáng mùa xuân đẹp trời lọt qua khe cửa căn phòng nhỏ, đây là một phòng trọ cỡ trung bình của một nhà trọ nơi ngoại ô. Người đàn bà choàng tỉnh, nhìn đồng hồ, đã hơn 9 giờ sáng... Thế là lại muộn thêm một buổi làm nữa.

Chị chợt thấy dâng lên ngập ứ một nỗi buồn vô vọng. Chắc cuối tháng này chị sẽ lại bị trừ lương, bị làm kiểm điểm, bị thủ trưởng rầy la và bị những đồng nghiệp ném vào chị những ánh nhìn khinh thị - điều ấy đã quá quen thuộc suốt từ 3 năm nay kể từ khi chị chạy theo tiếng gọi cuồng nhiệt của trái tim, bất chấp tất cả để yêu anh, để giải tỏa nỗi khát khao cháy bỏng, si mê cuồng loạn của mình. Ai bảo tuổi trẻ mới yêu đắm đuối, mê say, cuồng nhiệt? Chị cho rằng qua thời tuổi xuân mới là độ chín của đam mê. Chẳng thế mà suốt 3 năm nay, ngày nào cũng như ngày nào, dù nắng hay mưa, ngay cả những lúc trời nổi dông bão, anh và chị vẫn gặp nhau vào buổi tan tầm, để khi màn đêm buông xuống, hai người lại dìu nhau ra khỏi một góc vắng vẻ nào đó trong thành phố như hai kẻ mộng du. Đôi khi hai người lại qua đêm ở một nhà trọ nơi ngoại ô yên tĩnh này.

Nhớ lại thuở còn thiếu nữ, có lần đi xem bói, thầy bói bảo rằng bàn tay chị có hai đường đời nên chắc chắn sẽ có hai người đàn ông cùng tồn tại trong suốt cuộc đời chị. Ngày ấy vì xấu hổ trước mặt cô bạn cùng đi, chị bực bội chửi ông thầy bói là “đồ thầy bói ra ma”. Sau này kể lại với anh, chị cứ tấm tắc khen mãi lão thầy bói tàn tật đó và xem cuộc tình giữa anh và chị như một định mệnh.

Chị quen anh khi đứa con đầu của chị vừa tròn một tuổi, khi ấy, vợ anh cũng vừa sẩy đứa thứ hai. Ánh chớp tình yêu lóe lên ngay từ lần gặp gỡ đầu tiên, anh đắm đuối nhìn vào đôi mắt dịu dàng trên một thân hình đầy nữ tính của chị. Còn chị rạo rực, ngất ngây trước cái nhìn ve vuốt của đôi mắt màu đồng ánh lên vẻ thông minh, linh hoạt cùng dáng dấp rất thể thao của anh.

Cơ quan anh làm cách cơ quan chị chưa đầy một cây số. Chị làm ở một cơ quan kinh doanh nên anh dễ dàng kiếm cớ để thăm hỏi. Lúc đầu, chị cố gắng kìm nén tình cảm của mình bởi dù sao chị cũng là phụ nữ, một phụ nữ được giáo dục bởi nền đạo đức phong kiến, chị cố lánh mặt anh khi anh đến. Chị cảm nhận được nỗi bồi hồi, sung sướng của một tình yêu đẹp, mong nhớ, bồn chồn, chờ đợi và kiên quyết không gặp để rồi tiếc nuối. Cứ thế “Anh cứ hẹn nhưng xin anh đừng đến/ Chia tay nhau tê tái lắm… trời ơi/ Cứ để lòng em thổn thức mưa rơi / Nhào cho kỹ những nỗi niềm mong nhớ”.

Và gần một năm sau, nỗi nhớ mong bỏng cháy vỡ òa ra. Hai người bước vào cuộc tình như hai con thiêu thân, gia đình anh đã hơn một lần lục đục, gia đình chị đứng bên bến bờ của sự tan vỡ. Từ những cán bộ có năng lực, có nhiều triển vọng sẽ tiến xa trong nghề nghiệp, cả hai đều sa sút dần. Anh thường xuyên vắng mặt trong các buổi họp, những đề tài nghiên cứu nằm mốc meo trong tủ, chị thường đi muộn, về sớm và không để ý gì đến công việc. Trong mắt họ chỉ còn có nhau, họ gặp nhau kể lể về những bất hạnh của mình, đổ lỗi tất cả cho hoàn cảnh. Họ cho rằng tình yêu của tuổi trẻ nếu có trong sáng, không nhuốm màu tính toán, vị kỷ thì còn thiếu độ chín chắn - tiêu chuẩn của một tình yêu đẹp. Tình yêu của họ không tính toán, vụ lợi, chín chắn và mãnh liệt không gì so sánh nổi. Công bằng mà nói đôi khi chị cũng chợt thấy sợ hãi, bất ổn, song nó lại tan biến đi trước những đam mê mà cuộc tình “thoáng tiền vô hậu” mang lại. Ngày nào họ cũng nói không biết chán những lời ca ngợi nhau bằng đủ những mỹ từ lấp lánh mà họ biết được: “Anh yêu! Anh là mặt trời của em”. “Em là một người phụ nữ đẹp và hấp dẫn nhất...”. “Chẳng bao giờ có người đàn ông nào tuyệt diệu hơn anh, linh hồn của em ạ …”... “Anh rất nhớ em, nàng Tây Thi của anh..”, v.v... và v.v...

Họ thường hay nhắc đến buổi đầu gặp nhau và tiếc nuối, lẽ ra họ cần yêu nhau ngay từ ngày đầu gặp gỡ, họ đã để phí một quãng thời gian hạnh phúc. Chỉ có điều cả hai đều chưa bao giờ nói lẽ ra họ phải gặp nhau sớm hơn, sẽ lấy nhau và sinh con đẻ cái. Hình như cả hai đều hiểu rằng nếu tất cả những ông bố, bà mẹ trên thế gian này đều như họ thì con cái sinh ra chẳng có ai chăm sóc, dạy dỗ. Rằng con cái họ sẽ chẳng có nổi cái ăn, cái mặc chứ chưa nói đến việc được chăm sóc, học hành.

Còn hôm nay, những tia nắng vô tư, thẳng thắn soi vào mặt người đàn ông tuyệt vời của người đàn bà ngoại tình. Chị chợt thấy một gương mặt gồ ghề, xám xịt chẳng khác gì da loài cá sấu mà mỗi khi nhìn thấy trên màn hình thôi chị cũng cảm thấy gai người. Người đàn ông sau sự cố gắng quá sức đêm qua vẫn ngủ mê mệt, hàm răng vàng khè ngả sang màu đen xỉn của khói thuốc, của thời gian trong cái miệng há ra khiến chị liên tưởng đến một cái ống nhổ làm chị chợt thấy buồn buồn nơi cổ họng. Cái quần đùi màu cháo lòng rộng xộc xệch ôm lấy đôi chân mới ngày nào màu đồng rắn chắc nay như teo tóp lại vì những “đêm trắng” như thế này. Mái tóc bồng bềnh khi xưa giờ rối như tổ quạ. Một mùi mồ hôi nồng nồng, nằng nặng thoảng qua khiến chị vội đưa tay bưng miệng, chị không dám nhìn thêm một chi tiết nào trên mình người đàn ông nữa. Bấy lâu nay sống trong ánh sáng huy hoàng của một tình yêu hoang tưởng chị chỉ hình dung ra anh đạo mạo trong các buổi họp, mô phạm và đẹp đến thánh thiện. Ngay cả hôm anh rủ chị đi xem phim nổi, đến nơi thấy giá 30.000 đ/vé, anh nói thà đi dạo quanh công viên còn thích hơn, chị thấy anh nói cũng có lý và đáng yêu lạ...

Người đàn ông chợt mở mắt vì cái nhìn trân trối, soi mói của người phụ nữ. Ánh mắt anh thờ ơ, mệt mỏi, thoáng chút kinh hãi khi nhìn thấy người bạn tình. Liếc vào chiếc đồng hồ đeo tay, người đàn ông kêu lên:

- Thôi chết! Thế là lại mất mẹ nó buổi họp quan trọng. Sao em không gọi anh?

- Chỉ có một mình anh mỏi mệt chắc. Đúng là đồ... - Người đàn bà vặc lại.

Những tia vằn đỏ đã chạy trong mắt người đàn ông, trước mắt anh là người đàn bà đã sang cái tuổi toan về già, nét dịu dàng, tươi trẻ, kiều diễm với sức hấp dẫn mê hồn của nó đã khiến anh sẵn sàng bán mình cho quỉ dữ chẳng còn lưu lại một nét nào nữa. Một người đàn bà đàng điếm nanh nọc, sao trước đây mình lại không phát hiện ra điều đó nhỉ? Người đàn ông thầm nghĩ. Anh không biết rằng trong cái đầu được chải kỹ càng kia của người đàn bà lóe lên sự bực tức khó tả: Một gã đàn ông đốn mạt, thiếu văn hóa hơn cả một kẻ vô học, một kẻ bất tài, chuyên bám váy vợ, kẻ vô tích sự, vô trách nhiệm. Rất may là chồng mình không hề giống gã đàn ông xấu xa và bỉ ổi nằm trên giường kia. Thế mà mấy năm nay, mình suốt ngày theo hắn như một con điên và không làm được việc gì ngoài việc hẹn hò, chờ đợi, gặp gỡ hắn. Người đàn ông ngao ngán nhìn cái thân hình đã không còn quyến rũ như xưa của người tình sau hai lần “phẫu thuật chỉnh hình” bởi “sự kết trái của tình yêu” giữa hai người.

Lát sau bình tĩnh lại, anh nhìn người đàn bà với cái nhìn vô cảm, cất giọng đều đều:

- Kỳ này nhiều việc đau đầu quá, cơ quan họp lên họp xuống, kiểm điểm mọi thứ tội, vợ con thì kêu ca về tiền nong... khiến anh mệt mỏi quá. Chúng ta chuẩn bị về thôi em.

Người đàn bà chợt thấy đau nhói trong lồng ngực, cơn đau mỗi lúc một dữ dội bóp nghẹt tim chị. Dòng nước mắt lặng lẽ chảy vào trong... Chị bỗng tiếc, một nỗi tiếc nuối rõ rệt chứ không mơ hồ như hạnh phúc mà cuộc tình vụng trộm đã mang lại cho chị. Chị cảm thấy mình đã mất đi một cái gì vô cùng quý giá chứ không phải cái thể xác gầy còm, bệnh tật của người đàn ông trước mặt... Bầu trời như chao nghiêng trong ánh mắt tuyệt vọng của chị.

- Về thôi em, mai chúng ta lại gặp nhau - Người đàn ông nói, mắt không nhìn chị. Chị cũng như anh đều hiểu rằng cái ngày mai ấy có thể sẽ không bao giờ đến. Nếu có ngày mai ấy thì cũng chẳng bao giờ cả hai người còn tìm lại được những phút giây nồng nàn, lưu luyến khi xưa.

Lặng lẽ rời khỏi phòng trọ như hai chiếc bóng, không nói với nhau một lời, cả hai đều lạnh lùng, bối rối, tình yêu đã chết tự khi nào. Một cơn gió lùa những chiếc lá vàng bay xào xạc, cất lên bản nhạc buồn thê thảm... Đoạn cuối của một cuộc tình sao mà ảm đạm.
 
"Tôi có một người bạn tên Monty Robert, hiện là chủ nhân một trại nuôi
ngựa ở San Ysidro. Anh đã cho phép tôi dùng nhà của anh để tổ chức
những buổi gây quỹ nhằm tài trợ cho các dự án đầu tư có tính rủi ro cao do
thanh niên thực hiện.
Một hôm, anh đến ngồi cạnh tôi và nói:
- Tôi muốn kể cho bạn biết tại sao tôi để bạn sử dụng nhà của tôi để làm nơi
tổ chức gây quỹ. Chuyện xảy ra cách đây nhiều năm. Có một cậu bé sống
cùng với cha của mình, một người làm nghề huấn luyện ngựa. Do công việc,
người cha phải sống như một kẻ du mục. Ông đi từ trang trại này đến trang
trại khác để huấn luyện các chú ngựa chưa được thuần hoá. Kết quả là việc
học hành của cậu bé không được ổn định lắm. Một hôm, thầy giáo bảo cậu
bé về viết một bài luận văn với đề tài "Lớn lên em muốn làm nghề gì?".
Đêm đó, cậu bé đã viết bẩy trang giấy mô tả khát vọng ngày nào đó sẽ làm
chủ một trang trại nuôi ngựa. Em diễn đạt ước mơ của mình thật chi tiết.
Thậm chí em còn vẽ cả sơ đồ trại nuôi ngựa tương lai với diện tích khoảng
200 mẫu, trong đó em chỉ rõ chỗ nào xây nhà, chỗ nào đặt làm đường chạy
cho ngựa.
Viết xong, cậu bé đem bài nộp thầy giáo. Vài ngày sau, cậu bé nhận lại bài
làm của mình với một điểm 1 to tướng và một dòng bút phê đỏ chói của
thầy "Đến gặp tôi sau giờ học".
Thế là cuối giờ cậu bé đến gặp thầy và hỏi:
- Thưa thầy, tại sao em lại bị điểm 1?
- Em đã hoạch định một việ mà em không thể làm được. Ước mơ của em
không có cơ sở thực tế. Em không có tiền thân lại xuất thân từ một gia đình
không có chỗ ở ổn định. Nói chung, em không được một nguồn lực khả dĩ
nào để thực hiện những dự tính của mình. Em có biết để làm chủ một trại
nuôi ngựa thì cần phải có rất nhiều tiền không? Bây giờ tôi cho em về làm lại
bài văn. Nếu em sửa chữa cho nó thực tế hơn thì tôi sẽ cứu xét đến điểm
số của em. Rõ chưa?
Hôm đó, cậu bé về nhà và nghĩ ngợi mãi. Cuối cùng cậu gặp cha để hỏi ý
kiến.
-Con yêu, chính con phải quyết định vì ba nghĩ đây là ước mơ của con.
Nghe cha đáp, cậu bẻ liền nhoẻn miệng cười và sau đó đến gặp thầy giáo
của mình
- Thưa thầy, thầy có thể giữ điểm 1 của thầy, còn em xin được giữ ước mơ
của mình.
Kể đến đây Monty dừng lại và hỏi tôi:
- Bạn có biết bạn đang ngồi trong một trại ngựa rộng 200 mẫu của cậu bé
trong câu chuyện mà tôi vừa kể không? Cách đây hai năm, vị thầy giáo đó
đã tình cờ dẫn 30 học trò của mình đến đây để cắm trại. Thế là thầy trò tôi
nhận ra nhau. Cầm tay tôi, thầy nói :"Monty này, khi anh còn học với tôi, tôi
đã đánh cắp ước mơ của anh, và suốt bao nhiêu năm qua tôi cũng đã làm
thế với bao đứa trẻ khác, tôi rất ân hận về điều đó" . Nghe thầy nói thế, tôi
vội đáp "Không, thưa thầy, thầy không có lỗi gì cả, chẳng qua thầy chỉ muốn
những gì tốt đẹp sẽ đến với học trò của mình mà thôi. Còn em chỉ muốn theo
đuổi tới cùng những khát vọng của đời mình"
 
Yêu lần cuối cùng_Lisa Cannus

Cathy mệt mỏi mở cửa nhà. Một tiếng thở phào thoát ra khỏi đôi môi cô. Một ngày dài ở văn phòng đã qua. Căn nhà yên lặng. Quá yên lặng. Tiếng chân cô vang dội trên nền đá hoa.

“Căn nhà chết tiệt này quá lớn cho một người”. Cô buồn rầu và hối tiếc nghĩ lẽ ra nó phải đầy những giọng trẻ con và tiếng chân chúng chạy thình thịch ra đón cha. Cô sẽ từ trong nhà hỏi vọng ra xem anh có mệt không và có muốn uống một ly rượu trước khi ăn tối không.

Lệ trào lên mắt cô, cô giận dữ gạt đi. “Nếu đừng quá mải mê công việc mình đã có thể có tất cả những điều đó”. Lời cô nói phá tan sự yên lặng. Đi qua hành lang, ngang qua những tác phẩm nghệ thuật nguyên bản cô và Brad đã sưu tầm trong bao nhiêu năm (thay vì những đứa con). Cô đã từng tự hào về chúng, bây giờ chúng là một lời nhắc nhở dai dẳng đến cuộc hôn nhân thất bại của cô. Cathy đi vào bếp. “Mình sẽ cho hết tất cả để được sống trọn đời với anh ấy”. Cô thoáng mỉm cười khi nghĩ như vậy. Cô rót một ly rượu vang cho mình và nghĩ về cuộc điện thoại cô sắp phải gọi. Cô vào phòng làm việc, đá đôi giày ra khỏi chân rồi nằm cuộn tròn trên chiếc ghế dài.

Cô nghĩ lan man trong khi uống từng hớp rượu; cũng đêm này cách đây mười lăm năm, cách đây cả cuộc đời...

Đêm trước ngày cưới, cô đã rất hạnh phúc vì biết cô sắp kết hôn với người đàn ông trong mộng. Cô và Brad đã quyết định họ sẽ tích cực làm việc để xây dựng cuộc sống cho con cái họ. Họ muốn có “khả năng cho chúng tất cả”. Brad muốn có bốn đứa con, cô nói với anh là ba đứa thôi. Cathy đã mong sẽ già đi cùng với Brad. Ngồi nhìn lũ cháu nội, cháu ngoại chơi đùa ở những nơi cha mẹ chúng đã từng chơi đùa.

Rồi cuộc hôn nhân của họ đột nhiên khựng lại một cách đáng buồn cười, tất cả chỉ vì sự nghiệp của cô. Tiếp theo, “cô gái hư hỏng” đó xuất hiện, khéo léo quyến rũ chồng cô khiến anh tin rằng cô ta có thể cho anh điều anh mong muốn nhất: con cái. Cathy giận dữ gạt nước mắt lần nữa. Cô đã cố gắng nhiều năm mới hiểu được như vậy. Cô đã thất bại ba lần trong công việc, cô nói với Brad cô sẽ không sống nổi nếu thất bại thêm lần nữa. Anh không ủng hộ cô, thế là cô vùi đầu vào công việc và mất anh vào tay cô ta!

Có phải chuyện ấy mới xảy ra năm trước không? Suy nghĩ của cô trôi ngược lại năm vừa qua. Về việc cô đã chịu đựng nỗi đau mất anh như thế nào.

Đồng hồ điểm chín giờ làm gián đoạn những mơ mộng của cô. Cathy thở dài và tự đánh thức mình, cô cười để rũ bỏ những hình ảnh cũ. Cô nhấc điện thoại lên, quay số, thở một hơi dài và trấn tĩnh mình, chờ nghe giọng nói của anh.

Chuông reo. “Hello” đột nhiên lưỡi cô cứng lại khi nghe anh nói. “Hello!” - Brad lặp lại. “Chào anh” câu trả lời gần như tiếng thì thầm. Cathy hắng giọng, nói một cách tự tin: “Chào anh Brad”. Một phút yên lặng cùng với sự chờ đợi và khát khao ở cả hai đầu dây.

“Cathy hả?”. Anh âu yếm gọi tên cô. “Vâng”. Cô dịu dàng nói. Cô vui mừng nghĩ anh đã trả lời câu cô thầm hỏi: Anh vẫn nghĩ đến cô. Tâm hồn cô bay bổng khi cô nói: “Ngày mai là ngày kỷ niệm của chúng mình. Anh đến ăn tối với em nhé?”.

Hai người cùng yên lặng một lần nữa để nhớ lại ngày lễ tình yêu đặc biệt mười lăm năm trước.

“Anh muốn như vậy”. Cả hai đều không biết rằng anh đã nói đúng câu đó khi chia tay người tình của anh. Cô ta không hề muốn có con với anh, cô ta chỉ muốn tiền bạc của anh.

Họ thỏa thuận giờ gặp nhau. “7 giờ 30 nhé và anh sẽ mang rượu vang đến”. Anh gác máy. Cathy chậm chạp gác máy. Cô cầm ly rượu vang lên, tự chúc mừng mình và uống cạn ly.

Cathy vội vã ra khỏi phòng, xuống nhà; cô phải chuẩn bị nhiều thứ cho buổi tối đặc biệt ngày mai trước khi đi ngủ.

Ngày hôm sau trên đường đi làm, cô ghé hiệu thuốc mua vài món. Cô không cho Eileen, cô thư ký riêng, biết gì cả, cô sắp xếp lại các cuộc hẹn và để buổi chiều được rảnh. Cô đặt hoa mang đến nhà. Cô cũng cho Eileen nghỉ buổi chiều. Cả hai cùng rời văn phòng. Khi ra đến đường, Cathy đột ngột ôm hôn Eileen và cám ơn cô đã là bạn tốt của mình, đặc biệt trong năm vừa qua. Cathy trở về nhà, chân bước nhẹ nhàng. Căn nhà không còn mang vẻ đơn độc nữa. Cô vội vã vào bếp để chuẩn bị bữa ăn tối. Mọi thứ đã sẵn sàng, kể cả món nước xốt đặc biệt của cô, tất cả đều sắp xếp đúng chỗ, chỉ hơi có mùi hạnh nhân (cô chỉ nhận ra điều đó khi rót nước xốt vào món ăn). Trước khi mặt trời lặn, cô hài lòng nhìn lại chiếc bàn giữa phòng ăn. Hoa cắm rất đẹp, nến có mùi hoa nhài trên giá đặt giữa bàn chờ được thắp lên. Ánh nắng chiều chiếu qua một con dao và những chiếc ly pha lê hắt lên bức tường một chiếc cầu vồng rực rỡ.

Cathy vội vã đi tắm. Cô vừa tắm vừa nghĩ đến lúc gặp lại Brad.

Tắm xong, cô đứng trước chiếc gương phản chiếu toàn thân và nhận xét thật khách quan người phụ nữ bốn mươi tuổi đang nhìn cô. “Cathy à, cô có thể không còn hai mươi ba tuổi nữa, nhưng chắc chắn trông cô không có vẻ đã bốn mươi tuổi”. Cô mỉm cười hài lòng và đi vào phòng ngủ để thay quần áo.

Bộ áo váy Brad thích nhất, một chiếc áo đầm mặc buổi tối màu xanh ngọc bích, nước hoa anh tặng cô vào dịp Giáng sinh cuối cùng họ còn ở bên nhau và một mặt dây chuyền kim cương đơn giản cũng do Brad tặng vào ngày cưới của họ. Tóc cô quấn thành búi theo kiểu Pháp, đơn giản và thanh nhã. Mọi thứ đều dành cho Brad tối nay, kế hoạch của cô kiên quyết như vậy.

Một cái nhìn cuối cùng vào phòng ngủ của chủ nhà cho thấy tất cả đều hoàn hảo, cô đã đóng cửa phòng này từ khi anh ra đi, thề rằng cô sẽ không bao giờ ngủ ở đó nữa trừ khi có anh ở bên cô. Căn phòng trở thành lăng mộ của cuộc hôn nhân kể từ đó.

Chuông cửa reo. Cathy vội vã xuống nhà.

Khi mở cửa, Cathy không nói được tiếng nào, cô và Brad nhìn sững nhau một lúc. Anh lặng lẽ trao cho cô chai rượu, đi vào nhà, quay lại nhìn cô và nói: “Cathy, trông em đẹp như ngày chúng mình cưới nhau vậy”.

Cô cảm thấy tim nhói lên vì cảm giác tội lỗi, cô có nên làm như vậy không? “Có, đó là điều cần làm, mình và anh ấy phải được ở bên nhau” - cô tự bảo mình.

Cô dẫn anh vào phòng ăn. Những cây nến có mùi hoa nhài thoang thoảng chung quanh họ. Bàn ăn sáng lấp lánh và rung rinh nhẹ như chính bản thân cô.

Bữa ăn tối đã thành công tốt đẹp, các món ăn rất ngon và tất cả đều là những món mà Brad ưa thích nhất.

Brad rót rượu và họ uống mừng những kỷ niệm, cười với nhau, hồi tưởng ngày cưới, bữa tiệc đầu tiên họ tổ chức và những năm đã sống với nhau.

Brad rót thêm rượu và khăng khăng bảo họ phải ăn thêm món nước xốt đặc biệt của cô, anh vào bếp lấy thêm. Tối nay trông Cathy đẹp lộng lẫy, trong mắt cô có một ánh sáng rực rỡ anh đã không được thấy từ lâu. Cô đang hạnh phúc, mãn nguyện và yêu say đắm như trước kia.

Khi bữa ăn tối kết thúc, Brad đến bên Cathy, cầm tay cô và đưa cô đến chiếc giường tân hôn trên lầu.

Họ yêu nhau, làm sống lại đêm tân hôn, làm mới lại những lời thề bằng toàn bộ cơ thể họ.

“Không bao lâu nữa” - cô nghĩ khi họ ôm chặt nhau.

“Không bao lâu nữa” - cô nghĩ khi anh dịu dàng hôn lên trán cô.

“Không bao lâu nữa” - cô nghĩ khi anh chìm vào giấc ngủ, không bao giờ thức dậy nữa.

“Không bao lâu nữa chúng ta sẽ ở bên nhau mãi mãi” - cô lẩm bẩm khi cô cũng buông mình vào giấc ngủ thiên thu.

Sáng hôm sau, người đàn bà quét dọn tự mở cửa vào. Bà ta ngửi thấy mùi nến khi đi vào phòng ăn. Bà kinh ngạc nhìn căn phòng: “Cô Cathy đâu có bao giờ để bừa bãi như vậy”. Trong bếp, bà ta thấy một cái nồi sạch, một bình nước xốt, hai ly rượu vang và lạ lùng nhất là một chai rượu vang đã uống hết.

Bà ta lên lầu, vừa gọi Cathy vừa sợ không biết sẽ thấy điều gì. Bà ta đã thấy hơi lo từ tuần trước khi Cathy bảo bà quét dọn phòng ngủ của chủ nhà, căn phòng bà chưa bao giờ được phép đặt chân vào.

Cánh cửa phòng mở hé; căn nhà trở lại yên lặng. Bà đẩy cửa ra. Sự yên lặng vỡ tan vì tiếng rú của bà ta. Bà lao đến điện thoại gọi cấp cứu, chỉ vài phút sau xe cứu thương và cảnh sát đã đến nơi.

Những nhân viên cứu thương bước ra khỏi phòng, lắc đầu: Họ không thể làm gì được nữa. Hai người đã uống một số lượng thuốc quá lớn. Theo tay chỉ của người đàn bà quét dọn vẫn còn đang run rẩy, cảnh sát tìm được một lá thư ngắn trên bàn trang điểm do chính tay Brad viết.

Báo đăng tin Brad đã viết trong thư rằng anh không thể sống thiếu Cathy. Đây rõ ràng là một vụ mưu sát - tự sát. Cathy là tất cả những gì Brad muốn có.

“Các nhân viên tòa án tuyên bố trong nước xốt hoặc rượu vang có thuốc độc, họ không biết chắc là nước xốt hay rượu, có lẽ là cả hai”.

“Có phải Brad đã làm điều đó không? Hay chính là Cathy? Chúng ta có bao giờ biết được không? Có lẽ là không”...

Trần Lê Thanh Hà dịch
Theo NLĐ
 
Cái giá của lòng tự trọng


Nó là một người nổi tiếng, kinh thiên động địa, đến bọn lưu manh đầu đường cũng biết.
Câu chuyện bắt đầu từ một người đàn ông. Anh ta qua đời, người vợ vất vả chèo lái nuôi hai đứa con, một trai một gái. Một năm sau đó, người vợ lao lực đổ bệnh rồi đi theo chồng, để lại hai anh em côi cút một món nợ lớn.
Lúc ấy, đang gần đến tết. Hai anh dắt díu nhau đến một thị trấn nhỏ xin sống nhờ gia đình nhà người bác, nhưng người bác không đồng ý. Hai anh em thui thủi sống một mình.
Nó là anh , là con trai, nên phải chèo chống gia đình. Nó lập tức chạy vạy khắp nơivay tiền đóng học phí cho em gái. Cũng may ở đây nhiều họ hàng, trong số họ còn có nhiều người tốt bụng. Nó vay được 200 tệ, đủ tiền đóng học phí cho em. Đứa em ngoan nói với anh:" Anh, anh vất vả vì em quá!". Nó ôm chặt em gái vào lòng, nước mát trào ra , không nói nên lời. Có bao nhiêu lời nó nói hết, nói cạn rồi.
Năm ấy, nó 15t. Em gái nó 13t.
Sau đấy nó đi tìm việc làm, nhưng không được vì người ta thấy nó nhỏ tuổi lại mảnh khảnh. Họ ngại.
Ông trời biết , nên lập tức làm một trận tuyết lớn giăng đầy trời. Nhiều đơn vị cần người quét tuyết. Nó tìm được việc tranh thủ làm cật lực. Nhưng ông trời không thể làm ngày nào cũng nhiều tuyết. Sau hai ngày quét tuyết , nó kiếm được 70 tệ. Ngước nhìn vòm trời cao lồng lộng, mắt nó nhòa đi.
Ngày 1.3 đã đến, nó đưa em đi học. Em nó nhất quyết không đi. Nó hoảng quá, nổi cáu: " Chẳng nhẽ anh phải quỳ xuống em mới chịu đi học ư?!". Em nó đi học.
Thật ra nó rất mềm yếu. Nhà trường biết được hoàn cảnh khó khăn của hai anh em đã miễn giảm học phí cho em nó. Bạn bè trong trường còn quyên góp hơn 1nghìn tệ. Chủ nợ biết được, đến đòi. Nó khẩn khoản , xin chủ nợ thư thư một thời gian, nhưng chủ nợ không đồng ý, thậm chí còn đấnh nó. Không còn cách nào khác nó đành phải trả món nợ.
Từ đấy đầu đường xuất hiện ra một người ăn xin là nó. Người nào cho tiền, nó quỳ tạ ơn người đó.Trước mặt nó để một hộp giấy và một tờ giấy kể về gia cảnh. Người xem thì nhiều, nhưng chẳng mấy ai họ cho tiền. Bởi rút cuộc, đều đã bị lừa đến phát sợ rồi.
Cứ thế nó lần lữa sống qua ngày và cũng bắt đầu nổi tiếng. Mọi người đều nói, vì mạng sống nó bất chấp tất cả. Lòng tự trọng là cái đinh rỉ gì? Thế là có một số kẻ thường đến đây chế giễu và bắt nạt nó. Nó dường như không mấy bận tâm.
Thấm thoát đã đến mùa đông. Nó vẫn anư xin ở chỗ đó. Gió tuyết lạnh xộc vào ngấu nghiến thân hình mảnh khảnh của nó. Nhưng nó vẫn kiên trì. Sắp đến Tết rồi, nó phải cố kiếm tiền đóng học phí năm học mới cho em và tiền mua một cân thịt lợn để hai anh em ăn tết. Lúc này xuất hiện một đám thanh niên. Bọn đầu bò mặt thẹo. Tên cầm đầu nói với nó:" Nếu mày chịu quỳ ở đây suốt đêm, tao sẽ cho mày một nghìn tệ".
Nó lắc đầu. Rồi người vốn chỉ quỳ là nó bỗng nhiên đứng phắt dậy. Quái lạ.
"Mày quỳ người khác được sao không quỳ tao?".Tên cầm đầu nói.
Nó lại lắc đầu, dường như việc nó quỳ không phải là tùy tiện, mà có nguyên tắc.
" Con bà mày chứ.Tao bảo mày quỳ xuống Tao thích thế!' Thằng cầm đầu gào lên rồi ấn nó quỳ xuống .
Nhưng bọn chúng lầm. Bọn chúng đã không biết rằng đã xúc phạm đến nguyên tắc sống của nó. Nó tức giận rống lên rồi lao về phía trước. Hòn đá trong tay nó cũng được xổng chuồng. "Bốp! Bốp! Bốp!" 3 cái đầu của bọnlưu manh bị nó ném trúng.
Sự việc diễn ra khó hiểu như vạy. Cuối cùng tên cầm đầu phải quỳ xuống xin nó tha tội.
Không phải vì tên cầm đầu bị nó đánh đau, mà là vì sau mỗi lần bị bị đánh ngã nó lại lổm ngổm bò dậy, lao vào vật lộn với bọn lưu manh bám riết không tha.......cứ như vậy tên cầm đầu bị nó quần cho mệt lả.
Ai bảo thằng cầm đầu đã xúc phạm đến nguyên tắc sống của nó?
Nó quỳ trước người khác vì người đó tốt bụng bố thí cho nó. Nó làm vậy để tỏ lòng với họ, nhưng không bao giờ nó coi rẻ lòng tự trọng. Quyết không bao giờ?! 1nghìn tệ làm sao có thể mua được lòng tự trọng của nó?
Để bảo vệ lòng tự trọng này một cậu bé mềm yếu cũng có thể toát lên một ý chí mạnh mẽ phi thường.

Sự việc làm chấn động cả thị trấn nhỏ. Nó trở nên nổi tiếng. Nhiều bậc phụ huynh lấy nó làm gương để dạy dỗ con em mình.

.....Sau này nó mở một cửa hàng nhỏ ở chỗ nó quỳ trước đây....

Trung Nghĩa (dịch)
 
Huýt sáo - Ai Ya

Lời giới thiệu của dịch giả: Ai Ya sinh năm 1945 tại Đài Loan. Huýt sáo (Whistle) trích trong tuyển tập nhiều tác giả Global Cultures, do Elisabeth Young-Bruehl chọn, Wesleyan University Press xuất bản năm 1994 tại Hanover, New Hampshire.

Huýt sáo
Ai Ya

Bà chưa bao giờ tưởng tượng huýt sáo khó đến thế. Sau khi dúm môi thổi - xì xì - vì lý do kỳ lạ nào đó bà mót tiểu. Nhưng chả trách, vì bà vẫn xì mỗi khi cố xi đái bé Tuân. Rõ ràng chả phải tiếng huýt sáo. Quả thật bà không biết huýt sáo.

Nhưng không, bà phải học, bà phải học!

Bà ngập ngừng năn nỉ Đà Pháp:

- Tôi muốn nuôi chó, một con nhỏ thôi.

Anh trả lời dứt khoát và thậm chí hình như chẳng để ý tới yêu cầu của bà:

- Không!

Bà cố giải thích rằng mình cô đơn, nhất là sau khi Đà Pháp và vợ đi làm buổi sáng, để bà ở nhà một mình từ bảy rưỡi sáng tới sáu giờ chiều. Một mình trong căn nhà lớn thế này thật cô đơn. Mỹ Phương không thốt tiếng nào lúc bà nói, dằn cái tách lên khay - keng - lúc cô ấy dọn ấm tách, ý cô rõ ràng: Cô đơn? Nếu cô đơn, sao không giữ Tuân ở nhà với bà để bà săn sóc nó? Mỹ Phương đã nói - một cách bóng gió - mỗi ngày gửi Tuân cho cô giữ trẻ tốn hơn một trăm đồng mỗi tháng, cộng tiền sữa bột và đồ ăn lên tới gần hai trăm. Nhưng bà không chịu. Bà biết, với tuổi già của mình, bà khó mà trông nổi thằng bé mũm mĩm đầy sinh lực. Bà chả dám nhận.

Mỹ Phương lý sự với bà:

- Má, má không nhanh nhẹn như trước, ai sẽ lo ăn và dọn cho con chó? Vả lại, hàng xóm sẽ than phiền chó sủa.

Cô ấy đúng, mình không được nuôi chó trong chung cư. Rồi một hôm bà thấy thằng bé tiểu học ở dãy bên kia đứng trên thang lầu huýt sáo. Một loạt tiếng sủa đáp lại mỗi tiếng huýt sáo - gâu, gâu, gâu. Chuyện gì vậy? Thằng bé bảo bà đó là một thứ “đồ tìm chìa khóa” cho những ai hay để quên chìa. Họ chỉ phải huýt sáo, thế là một tràng sủa từ máy phát âm gắn vào chìa vang lên cho biết chìa đang ở đâu.

Bà nhờ thằng bé mua một cái cho bà. Món đồ nhỏ, không to hơn cái bật lửa. Bà gọi nó là “cún”, và giả vờ như nó là con chó của bà. Bà chỉ việc huýt sáo là nó sẽ đáp lại, như chó thật.

Nhưng bà chưa bao giờ tưởng tượng huýt sáo lại khó đến thế.

Phạm Văn dịch từ tiếng Anh
 
Cái kén đỏ - Abe, Kobo

Lời người dịch: “Cái kén đỏ” gồm có 4 truyện ngắn. Abe Kobo cho in 3 truyện đầu (truyện thứ 4 được viết thêm về sau) trong tạp chí Con người (Ningen) số tháng 12 năm 1950. Tác phẩm đã nhận được Giải thưởng Văn học Hậu chiến (Sengo Bungaku Sho) của Nhật Bản.

Abe Kobo (1924-1993), nhà văn có tiếng tăm trên thế giới, là một trong những nhà văn ở đỉnh cao nhất trong văn chương Nhật Bản hiện đại. Ngoài viết văn, ông còn là kịch tác gia, đạo diễn phim và nhà ngôn ngữ học. Sinh ra ở Tokyo, lớn lên ở Mãn Châu, sau đó về Nhật theo học và tốt nghiệp y khoa, đại học Tokyo.

Abe Kobo bắt đầu nghiệp văn với tác phẩm Bảng hướng dẫn của con đường cùng (Owarishi michi no shirube ni, 1948). Năm 1951, Abe Kobo nhận giải thưởng Akutagawa (giải thưởng văn chương có giá trị nhất ở Nhật Bản) với tác phẩm Bức tường - Tội của S. Karuma (Kabe S. Karuma shi no hanzai). Năm 1962 với tác phẩm Người đàn bà trong lũng cát (Suna no onna) ông lại nhận được giải thưởng “văn học ngoại quốc ưu tú nhất” ở Pháp. Tác phẩm này đã được dịch ra trên 20 thứ tiếng (Anh, Pháp, Nga... ể cả tiếng Việt) và đã làm Abe Kobo nổi danh trên thế giới.

Văn của Abe Kobo độc đáo, không nằm trong dòng chảy văn học truyền thống nên đôi lúc có vẻ khó hiểu nhưng lại có giá trị cao về mặt nghệ thuật. Những tác phẩm kiểu Abe có lẽ còn lạ đối với Việt Nam ta. Vì thế lâu nay, dịch giả vẫn hằng mong ước có dịp giới thiệu cùng bạn đọc VN dòng nghệ thuật này.

Tác phẩm được dịch dưới đây là một trong những tác phẩm đầu tay của Abe, thường được giới thiệu trong sách giáo khoa ở trung học phổ thông Nhật Bản.

Cái kén đỏ
Abe, Kobo

Abe Kobo (1924-1993)
Trời sắp tối. Tuy đây là lúc người ta nhanh chân về tổ ngủ, nhưng lại không có nhà để cho tôi đi về. Tôi tiếp tục chầm chậm bước đi trong những kẽ hở hẹp giữa nhà này với nhà kia. Giữa thành phố, nhà cửa san sát như thế này nhưng tại sao không có một ngôi nhà nào là nhà của tôi?.. Tôi cứ lặp đi lặp lại cái nghi vấn này cả vạn lần.

Đứng dựa cột điện đái, thấy ở đó lâu lâu lại có đầu đứt của sợi dây thừng rớt xuống, tôi muốn quấn nó vào cổ tôi cho rồi. Dây thừng liếc nhìn chòng chọc vào cổ tôi, thôi anh bạn ơi, đi nghỉ đi. Tôi cũng muốn nghỉ, hoàn toàn muốn nghỉ. Nhưng không thể nào nghỉ được. Tôi không phải là anh bạn của dây thừng, đã vậy tôi lại không thể biết được lý do thỏa đáng của việc tại sao không có cái nhà nào là nhà của tôi.

Tối mỗi ngày mỗi đến. Tối đến thì phải nghỉ chớ. Để nghỉ, cần phải có nhà. Thế thì không có một lý do nào không có cái nhà nào là nhà của tôi.
 
Bất chợt tôi thoáng nghĩ: Có lẽ tôi đã nhầm lẫn một điều gì đó thật quan trọng. Không phải là không có nhà mà chỉ vì quên mất đi rồi. Ừ. Có thể có chuyện đó chứ. Tỉ dụ như là… Bỗng tôi dừng chân trước một căn nhà vừa mới đi qua, đây là ngôi nhà của tôi cũng chẳng biết chừng. Dĩ nhiên so với những ngôi nhà khác thì không có một đặc điểm nào cho thấy có thể như vậy, nhưng điều đó cũng có thể đúng cho bất cứ ngôi nhà nào, vả lại đó cũng không phải là bằng chứng để phủ định ngôi nhà đó là của tôi. Lấy hết can đảm, ờ, gõ cửa đi.

May mắn quá, nụ cười có vẻ tử tế của một người đàn bà ló ra từ cánh cửa sổ nửa mở nửa khép. Làn gió hi vọng thổi sát trái tim, cho nên tim tôi dãn rộng bằng phẳng ra thành lá cờ bay phất phới. Tôi cũng cười rồi nhẹ chào như một người lịch thiệp.

- Xin lỗi cho tôi hỏi thăm. Có phải đây là nhà của tôi không?

Gương mặt của người đàn bà bỗng đanh lại.

- Hả. Ông là ai vậy?

Tôi định cắt nghĩa nhưng bỗng nhiên nghẹn lời. Không biết phải cắt nghĩa như thế nào đây. Tôi là ai chuyện đó không thành vấn đề ở đây, nhưng làm sao cho bà ta hiểu được. Tôi hơi gắt.

- Sao cũng được. Nếu bà nghĩ đây không phải là nhà của tôi, xin chứng minh điều đó cho tôi.

- Hư…ừ.

Mặt của người đàn bà tỏ vẻ sợ sệt. Điều đó làm cho tôi bực mình.

- Nếu không có bằng chứng, tôi nghĩ đây là nhà của tôi cũng được chứ.

- Nhưng đây là nhà của tôi.

- Sao lại nói như vậy. Nó là nhà của bà, nhưng không nhất thiết không phải là nhà của tôi. Đúng không?

Thay vì trả lời, gương mặt của người đàn bà biến ra thành bức tường, chận kín cửa lại. Ô...i, đây là thực thể của cái gọi là nụ cười của đàn bà đấy à. Là đồ của ai đó sẽ là lý do không phải là đồ của tôi. Cái biến hình hằng ngày này đã giúp cho cái lý luận chẳng ra gì đó trở thành một thực thể.

Nhưng , tại sao… tất cả đều là đồ của ai đó, mà không phải là đồ của tôi? Không, dẫu không phải là đồ của tôi đi nữa, ít nhất cũng có một cái không phải là đồ của bất cứ ai, chuyện này cũng có được chứ. Đôi lúc tôi có ảo tưởng. Tưởng rằng ống cống ở chỗ thi công hoặc ở nhà kho là nhà của tôi. Nhưng những vật này dần dần trở thành đồ vật của ai đó rồi, cuối cùng để trở thành đồ vật của người ta, những thứ này biến mất đi từ những nơi đó, như không có liên quan gì đến ý chí và quan tâm của tôi. Hoặc là, rõ ràng nó đã biến thành thứ không phải là nhà của tôi mất rồi.

Vậy, băng ghế ở công viên thì sao? Dĩ nhiên được lắm chứ. Nếu nó thật sự là nhà của tôi, chỉ cần không có cái thằng đem gậy đến đuổi tôi đi… đúng ở đây là chỗ của mọi người, không phải là chỗ của riêng ai. Nhưng thằng đó sẽ nói.

- Nè. Thức dậy. Đây là chỗ của mọi người, không phải là chỗ của riêng ai. Tỉ dụ như đây là chỗ của ai đó đi nữa, nhất định cũng không phải là chỗ của mày. Nè, mau đi chỗ khác đi. Nếu mày không chịu, tao sẽ bắt mày chui qua cửa pháp luật đến cái phòng dưới hầm kia. Nếu mày dừng chân ở bất cứ chỗ nào ngoài chỗ đó, mày sẽ bị coi là phạm tội.

Chuyện người Do Thái phiêu bạt, biết đâu chẳng là chuyện của tôi?

Chiều tối dần. Tôi vẫn tiếp tục đi.

Căn nhà… không biến mất, không biến hình, những ngôi nhà im lìm dựng trên mặt đất. Kẽ hở ở giữa tiếp tục thay đổi, không một cái nào có một gương mặt nhất định… con đường. Con đường lượn như dây thắt lưng trong những ngày có gió, con đường chỉ còn bề ngang của lằn xe mòn trong những ngày có tuyết, con đường sổ lông như bút chữ tàu trong những ngày có mưa. Tôi tiếp tục đi. Không hiểu được lý do tại sao không có cái nhà nào là nhà của tôi, cho nên con đường cũng thờ ơ lãnh đạm.

Hả, ai vậy. Ai quấn lấy chân tôi vậy? Nếu là vòng dây thắt cổ, sao mà hấp tấp quá vậy, sao mà thúc giục quá vậy. Không, không phải vậy. Đây là sợi chỉ lụa dễ dính. Bốc lên, kéo ra, đầu chỉ ở trong chỗ lủng của chiếc giày, dãn dài ra bao nhiêu cũng được. Cái này kỳ thật. Vì lòng hiếu kỳ, hai tay tôi cứ tiếp tục luân phiên kéo sợi chỉ, một chuyện kỳ dị hơn nữa đã xảy ra. Lần lần thân thể tôi nghiêng ra, tôi không thể giữ thân mình thẳng góc với mặt đất được nữa. Trục của trái đất bị nghiêng, hướng của sức hút bị thay đổi rồi sao?

Sợi chỉ và chiếc giày rời khỏi chân tôi, rớt xuống đất, tôi hiểu được sự thể. Không phải trục của trái đất bị cong quẹo, chân của tôi bị ngắn lại kia mà. Hai tay càng kéo sợi chỉ, chân tôi càng ngắn dần đi. Giống như góc áo nịt bị rách cứ sút chỉ dần ra, chân tôi cũng bị sút chỉ. Những sợi chỉ đó là đồ phân tán của bàn chân tôi, giống như những sợi chỉ mướp.

Thôi, không còn bước thêm được một bước nào nữa. Đứng một hồi lâu không biết phải làm sao, giống như vậy, trong bàn tay cũng không biết phải làm sao của tôi, cái chân đã biến thành chỉ lụa, một mình nó bắt đầu rục rịch. Nó bò ra trơn tuột, rồi từ đó nó không cần mượn lấy tay tôi, tự nó tháo ra, nó bắt đầu quấn chung quanh thân tôi như con rắn. Tháo hết chân trái, sợi chỉ tự nhiên đổi sang chân phải. Sau cùng sợi chỉ đã bọc toàn thân tôi như một cái bao, nhưng dẫu vậy nó cũng vẫn không ngừng tháo, từ lưng đến ngực, từ ngực lên vai và cứ tiếp tục tháo, tháo rồi đắp lên bên trong cái bao. Như thế, rốt cuộc tôi đã biến mất.

Sau đó chỉ còn lại một cái kén to lớn trống không.

Ờ, như vầy, mãi mới được nghỉ ngơi. Mặt trời chiều nhuộm đỏ cái kén. Đây đúng nó là cái nhà của tôi, không còn ai ngăn cản tôi được nữa. Có được cái nhà, nhưng lần này không còn có tôi để đi về nhà.

Trong cái kén, thời gian không còn nữa. Ngoài trời tối nhưng trong cái kén lúc nào cũng là hoàng hôn, màu hoàng hôn từ bên trong chiếu lên đỏ rực. Đặc điểm nổi bật này chắc chắn đã đập vào mắt ai đó. Hắn sẽ tìm thấy tôi, bây giờ đã trở thành cái kén, ở kẽ hở giữa cổng xe lửa và đường rầy. Ban đầu hắn thấy bực mình nhưng liền nghĩ lại rằng đã lượm được một đồ lạ, hắn bỏ vô túi. Lục xục trong túi một hồi lâu, hắn về nhà bỏ vô hộp đồ chơi của con mình.

Lê Ngọc Thảo dịch từ nguyên tác tiếng Nhật
 
Bàn Tay
Võ Thành An

Hai đứa cùng trọ học xa nhà, thân nhau. Lần vào quán nước, sợ tôi không đủ tiền trả em lòn tay xuống gầm bàn đưa tôi ít tiền. Vô tình đụng tay em... mềm mại.

Ra trường, hai đứa lấy nhau. Sống chung, em hay than phiền về việc xài phí của tôi. Bận nọ tiền lương vơi quá nửa đem về đưa em... chợt nhận ra tay em có nhiều vết chai.

Tự trách, mấy lâu mình quá vô tình.

Câu Hỏi
Nguyễn Hoài Thanh

Ngày đầu tiên cô phụ trách một lớp học tình thương đa phần là những trẻ lang thang không nhà cửa.
Cuối buổi học.
- Cô ơi. Dạy tụi con hát đi cô.
- Hát đi cô.
Còn mười phút. Nhìn những cái miệng tròn vo và những đôi mắt chờ đợi, cô dạy cho tụi trẻ bài "Đi học về".
- Hát theo cô nè... Đi học về là đi học về. Con vào nhà con chào ba mẹ. Ba mẹ khen...
Phía cuối lớp có tiếng xì xào:
- Tao không có ba mẹ thì chào ai?
- ...
Cô chợt rùng mình, nghe mắt cay cay.

Ba Và Mẹ
Lê Mai

Mẹ xuất thân gia đình trí thức nghèo, yêu thích thơ, văn. Ba tuy cũng được học nhưng là con nhưng là con nông “chánh hiệu”.
Mẹ sâu sắc, tinh tế. Ba chất phác, hiền hòa.
Mỗi khi ba mẹ đấu lý, chị em nó thường ủng hộ mẹ, phản đối ba. Mẹ luôn đúng và thắng.
Hôm ba bệnh nặng, cả nhà lo lắng vào ra bệnh viện.
Tối ba nói sảng điều gì đó không ai hiểu. Nhưng lần đầu tiên nó nghe mẹ nói “Đúng! Ông nói đúng…” Quay đi, mẹ sụt sùi. Nó thút thít khóc.
 
Ngọn đèn xanh - Pelevin, Victor

Lời giới thiệu của dịch giả: Victor Pelevin là nhà văn Nga. Ông sinh năm 1962 tại Mátxcơva, sáng tác theo khuynh hướng hậu hiện đại. Các tác phẩm chính: Trapaev và Trống rỗng (tiểu thuyết), Cuộc sống loài sâu bọ (tiểu thuyết - ngụ ngôn), Mũi tên xanh (truyện vừa), Chàng hoàng tử của kế hoạch nhà nước, Một ngày của người lái máy ủi, Ngọn đèn xanh, Chiếc trống thượng giới (truyện ngắn). Tác phẩm của ông được dịch ở Mỹ, Anh và Pháp. Ông được trao giải thưởng Booker Nhỏ năm 1994 cho tác phẩm Ngọn đèn xanh. Theo đánh giá của các tạp chí "OM" và "Ngọn lửa" (Nga), ông là nhà văn tiêu biểu của năm 1996.

Ngọn đèn xanh
Pelevin, Victor

Buồng bệnh nhân được chiếu sáng nhờ một ngọn đèn treo bên ngoài cửa sổ. Ánh sáng có vẻ yếu ớt, cứ rờn rợn xanh thế nào đó và nếu như đêm không trăng thì ánh sáng ấy hắt từ giường sang mé phải, gây ấn tượng rất khiếp đảm. Ánh trăng đổ xuống theo hình chiếc nón treo trên cái sào cao làm lộ ra vẻ ảm đạm không sinh khí, khiến cho ánh sáng trở nên huyền bí và mong manh hơn. Khi tôi nhích nằm sang bên phải cho cân thì hai cẳng chân chới với trong không trung một lát rồi rơi bịch xuống sàn nhà tạo ra một âm thanh buồn bã, - âm thanh đáng sợ thêm vào vệt sáng màu xanh hồ thủy chiếu giữa hai dãy giường bệnh.

- Cậu thôi đi nào, - Kostưl dứ dứ nắm đấm về phía tôi -, không nghe thấy gì à?

Tôi bắt đầu lắng nghe.

- Các cậu có biết về thành phố của những người chết không? - Tolstoi lên tiếng, nhưng tất cả đều im lặng.

- Thế này nhé, có một anh chàng đi công tác trong vòng hai tháng. Khi trở về nhà, bỗng nhiên anh ta nhận thấy tất cả mọi người xung quanh đều đã chết cả.

- Sao cơ, cứ nằm la liệt như vậy ngay trên phố ấy hả?

- Không, - Tolstoi đáp. Họ vẫn đi làm, truyện trò với nhau, xếp hàng mua đồ. Tất cả vẫn như trước đây. Nhưng chỉ có mỗi anh chàng nọ là thấy được rằng thật ra cư dân của thành phố đó đều đã chết cả.

- Làm sao anh ta biết được rằng họ đã chết?

- Làm sao mà tớ biết được? - Tolstoi trả lời. Chuyện này tớ không biết mà là anh ta biết. Chẳng rõ anh ta biết bằng cách nào. Tóm lại, anh ta quyết định tỏ vẻ như không nhận thấy gì hết và đi về nhà. Anh chàng này có một cô vợ. Khi nhìn thấy cô nàng, anh ta hiểu rằng vợ mình cũng đã chết. Mà than ôi, anh ta lại cực kỳ yêu vợ. Thế là anh ta bắt đầu xoắn lấy vợ mà hỏi xem có chuyện gì đã xảy ra trong khi anh ta đi vắng. Cô vợ trả lời rằng chả có gì xảy ra cả. Thậm chí cô nàng lại còn bảo chả hiểu anh ta muốn gì nữa. Lúc đó thì anh ta quyết định nói hết với vợ và hỏi “Em có biết là em đã chết rồi không”. Cô vợ thản nhiên trả lời “Em biết”. Anh ta lại hỏi tiếp “Này, em có biết là tất thảy mọi người trong cái thành phố này đều đã chết cả không?” Cô vợ đáp “Em biết. Thế anh có rõ vì sao họ chết không? Anh ta đáp “Không, anh đâu có biết”. Cô vợ lại hỏi tiếp “Thế anh có biết vì sao em chết hay không”? Anh ta lại đáp “Làm sao mà anh biết được”. Khi đó cô vợ mới hỏi “Em có nên nói không?” Anh chàng hoảng hồn nhưng dù sao cũng nói “Em hãy nói đi”. Và cô vợ bảo anh ta “Đó, chính anh cũng đã là một người chết rồi”.
 
Tolstoi kể đoạn sau cùng với một giọng khô khốc và nghiêm trang đến mức mọi người bỗng nhiên cảm thấy sợ hãi thực sự.

- Đúng vậy, một ông nọ cũng lên đường đi công tác… - Colin lên tiếng. Colin là một cậu chàng bé nhỏ - kém mọi người trong phòng khoảng một hoặc hai tuổi. Thật ra thì cậu ta trông cũng ngang ngang tuổi với chúng tôi nhờ mang một cặp kính gọng sừng to tướng. Cặp kính này tạo cho cậu vẻ thân thiện hơn.

- Bây giờ đến lượt cậu kể đi - Kostưl nói với Colin - lần đầu tiên cậu lên tiếng đấy.

- Không thuyết phục được tớ đâu nhé - Colin nói.

- Cậu ta thường xuyên vậy đấy, - Kostưl trả lời. Nào, thôi đừng có mà bí mật nữa.

- Tốt hơn là để tôi kể cho mà nghe, - Vaxia nói. Các cậu đã biết về cái móng màu xanh rồi đúng không?

- Tất nhiên là biết chứ, - tiếng rì rầm hưởng ứng nổi lên từ góc phòng. Ai mà chả biết về cái móng màu xanh kia chứ.

- Vậy các cậu có biết chuyện về cái vết đỏ hay không? - Vaxia hỏi.

- Không, chúng tớ không biết, - Kostưl thay mặt cả bọn trả lời. - Nào, cậu kể đi.

Thế là Vaxia chậm rãi lên tiếng “Có một gia đình nọ sống trong một căn hộ. Trên bức tường trong căn hộ đó có một cái vết màu đỏ. Mấy đứa con của chủ nhà nhìn thấy cái vết đỏ ấy và chỉ cho mẹ xem. Người mẹ nhìn thấy vết đỏ thì im lặng không nói gì. Bà ta chỉ nhìn và mỉm cười. Lúc đó bọn trẻ gọi ông bố. “Bố ơi, bố nhìn này” Còn ông bố thì rất sợ bà mẹ. Ông nói với mấy đứa con “Đi ra chỗ khác chơi, không phải việc của các con”. Bà mẹ thì vẫn cứ mỉm cười và im lặng. Thế rồi bọn trẻ đi ngủ.

Vaxia im bặt và thở ra nặng nhọc.

- Chuyện gì xảy ra tiếp theo? - Kostưl hỏi sau vài giây im lặng.

- Sáng hôm sau, bọn trẻ thức dậy và thấy biến đi đâu mất một đứa trẻ. Chúng nháo nhào chạy ra tìm mẹ và hốt hoảng hỏi “Mẹ, mẹ ơi, em chúng con đâu rồi?” Bà mẹ trả lời “Nó đi đến nhà bà rồi. Nó đang ở đằng ấy”. Tất nhiên bọn trẻ tin lời mẹ nói. Bà mẹ đi làm và chiều đến trở về nhà, miệng vẫn mỉm cười. Bọn trẻ nói với mẹ “Mẹ ơi, bọn con sợ lắm” Bà mẹ lại mỉm cười và nói với chồng “Bọn nhỏ không nghe tôi. Ông đánh cho chúng một trận đi”. Ông bố nghe theo lời vợ và đánh con. Bọn trẻ muốn bỏ chạy nhưng bà mẹ lại bắt chúng ăn tối bằng một thứ gì đó khiến bọn trẻ ngồi vào bàn mà không thể đứng dậy nổi”.

Cánh cửa mở ra, tất cả mấy người chúng tôi nhắm mắt nhanh như chớp giả vờ ngủ. Sau vài giây, cánh cửa từ từ khép lại. Vaxia đợi cho đến khi tiếng bước chân trong hành lang nhỏ dần đi.

- Sáng hôm sau, bọn nhỏ tỉnh giấc, nhìn quanh và lại thấy thiếu một đứa. Chỉ còn mỗi một đứa con gái nhỏ. Cô bé gặp bố và hỏi: “Anh của con đâu rồi”? Ông bố trả lời: “Anh con đi dự trại hè rồi”. Bà mẹ dọa: “Con mà nói với ai là mẹ giết chết đấy”. Thậm chí khi đến trường học cô bé vẫn không dám nói gì với ai. Chiều đến, bà mẹ về nhà lại cho con bé ăn thứ gì đó và cô bé cũng không sao đứng dậy được. Còn ông bố thì khép cửa ra vào và cửa sổ.

Vaxia lại im bặt. Lần này thì không ai lên tiếng yêu cầu anh ta kể tiếp nữa và trong bóng tối chỉ nghe vang lên dồn dập những tiếng thở.

- Rồi sau đó những người khác đi đến, - Vaxia lại lên tiếng -, họ nhìn thấy căn phòng đó trống trơn. Một năm qua đi và lại có những người mới dọn đến ở. Họ thấy cái vết đỏ và đến gần xé bỏ lớp giấy bồi tường ra - bà mẹ ngồi trong đó, người xanh lét, hút máu và không thể đi ra được. Thì ra trong suốt thời gian đó, người mẹ đã ăn thịt mấy đứa con còn ông bố thì giúp bà ta làm việc đó”.
 
Status
Không mở trả lời sau này.
Back
Top